Ba người khác 3
Chương 4
Mười mấy năm sau.
Hồi ấy thành phố vẫn bị máy bay Mỹ bỏ bom. Mới chập tối những đoàn xe chở
tân binh ầm ầm ngang qua trên cầu Long Biên. Tiếng hát vang động những phố xá
đi tránh bom đã vắng.
Rồi tôi lại trở về cơ quan. Người đi cải cách lũ lượt về, người công tác sửa
sai lại ba lô lên vai. Đã thành nếp mỗi khi nơi nào có công tác quan trọng, mỗi
cơ quan đều phải cử từng đợt đi. Ai cũng nhiệm vụ đi, từ anh nuôi, chị tiếp liệu
văn phòng, đến các bộ phận chuyên môn. Chỉ có những chánh phó thủ trưởng “không
đi được vì công tác lúc nào cũng bù đầu”. Mà cũng không ai đề nghị thủ trưởng
đi đâu.
Tôi đã đi cải cách cũng là thế. Những tôi đã đem được giấy chứng nhận và giới
thiệu “đồng chí Nguyễn Văn Bối được kết nạp đợt 5 cải cách về sinh hoạt chi bộ
cơ quan”. Đội trưởng Cự ký tên rồi đoàn uỷ đóng dấu và chữ ký xác nhận. Cự nói
“Chia tay, tớ tặng cậu cái này”. Tôi nghĩ trong bụng: “Lão Cự tài thật, đoàn uỷ
giải tán rồi mà vẫn lấy được dấu”. Cự chỉ nói thế, rồi đi ngay. Có lẽ lão cũng
ngượng không muốn nấn ná lại trò chuyện thêm về những con vịt, chuyện vịt.
Chúng tôi đều nhơ nhớp cả, có gì mà nói. Từ đấy, không bao giờ còn gặp lại.
Cái tội trộn đường vào mì chính của tôi cũng đã lâu, nhạt rồi, quả nhiên chẳng
còn ai biết hay biết cũng thôi, cơ quan lúc nào chẳng có những thời sự mệt mỏi.
Vả lại, tôi vừa đi những ba đợt cải cách ngót hai năm trở về với cái giấy ghi
chức vụ đội phó phụ trách toà án kèm tờ chứng nhận và giới thiệu đảng viên. Mạnh
quá. Thế là tôi đàng hoàng phổng mũi.
Một hôm, tôi được phòng tổ chức gọi lên. Á à, có thế chứ… Tôi bắt đầu tưởng tượng
ra những kiến hiệu của các thứ giấy tờ.
- Đồng chí ngồi.
Sự trịnh trọng lại kèm câu nói cộc lốc hơi lạ khiến tôi hồi hộp. Tôi ngồi xuống
ghế. Quen tay, lấy sổ cộng tác và cái bút mấy “oe rơ vơ” ra cầm sắn.
- Địa phương có đơn về đồng chí.
- Địa phương nào, việc gì ạ?
- Ở xã cải cách, đơn tố cáo.
Tôi được đưa xem cái đơn. Tôi nảy đom đóm mắt - Những đêm đi gác, ở trong lều,
đã chung cha với những ai, nằm ngồi thế nào, ai bằng lòng, ai bị đè ra, ôi
chao, ở những bờ tường, những bụi chuối… Đơn lại tố cáo tôi đảng viên giả có chữ
ký của Cự - đội trưởng cải cách. Thế có chết không, nó cho húp nước đường lại tống
theo quả lửa. Bao nhiêu tên ký, trông hoa lên những Gái, những Nụ, những Má, những
Tôm, những… Chẳng biết trong đám chữ ký tíu tít có Duyên, có Đơm không. Dưới tờ
đơn có chữ ký của đội trưởng, đội phó sửa sai xác nhận và đề nghị kiểm điểm một
đệp những cuộc họp tố cáo các xóm Am, xóm Chuôm, xóm Đìa và cả những xóm tôi
chưa đến bao giờ.
- Ý kiến đồng chí ra sao?
- Tôi… tôi… Tôi không nói được thế nào.
- Thế là đồng chí đã nhận.
- Không, tôi phản đối, tôi…
- Các cấp xác nhận rành rành ra đây, thế là đích xác rồi. Có 10 điều cấm khi đi
cải cách, đồng chí đã vi phạm tất cả mà điều 4 nặng nhất.
Tôi ngồi tây ngây. Những câu dội nước đá, tôi chỉ ấp úng, lắp bắp không ra đầu
đuôi.
- Thôi, về.
Chẳng khác đuổi tôi.
Tôi nhìn người trưởng phòng tổ chức, mặt đen gồ ghề, đầu hói. Bên chân bàn có
cái xích buộc chiếc điếu cày. Tôi ngỡ ông là đội sửa sai, về đây xử tôi, nghiêm
quá. Tôi lủi thủi ra.
Hội đồng kỷ luật bắt tôi thôi việc vi phạm lỗi nặng về hủ hoá và giả mạo giấy tờ.
Có thể bị truy tố, những cơ quan chiếu cố. Không lương hưu, chỉ được lĩnh nốt
lương tháng ấy. Tôi chẳng là cái đinh gì, cũng không biết ai thù tôi, chẳng lẽ
lại là cái lão trưởng phòng tổ chức mới được điều ở đâu về tôi mới biết mặt.
Tôi cắm cúi viết đơn gửi lên cục, lên bộ. Chẳng đâu trả lời. Hồi ấy, tội hủ hoá
còn bị coi xấu xa nặng nề hơn cả việc giả mạo giấy tờ. Tôi bị mất việc.
Trong nhà đâm ra lục đục, ai oán làm sao. Lương tôi và tem phiếu cũng chẳng đủ nuôi
ai, những cũng là một cọc tiền có ngữ. Con trai tôi đã lên mười. Vợ tôi vốn
chân chạy chợ gặp gì vơ nấy. Mua thì cái rau, mớ chè, có khi ngược tàu Phòng
lên, lẩn được cán bộ thuế. Có khi chui thoát thúng cá, con mực. Ả kiếm ra miếng
mới được thêm thắt đồng ra đồng vào. Bỗng dưng đâm ra hẫng. Lại thêm vợ chồng ở
với nhau lâu cũng sinh nguy, cãi nhau vặt rồi cãi nhau to, rồi đánh nhau cũng
thành thói quen lúc nào không biết, cũng như trông nó cứ bẩn mắt dần mà từ trước
kia không thấy. Cái môi nó trều nhờn nhợt trề ra gớm chết. Cái áo phơi ngoài
dây thép, hai nách thâm xì, lưng áo mồ hôi dầu ăn bạc phếch, sao tởm thế mà
ngày trước không để ý.
Mỗi ngày lại thêm một cái khó chịu. Ăn uống thì bốc bải, hay nói dối vặt, hình
như ngày trước tính nết nó khác. Người này nói, người kia vặc lại. Um nhà một
lúc, hung lên rồi xông vào thụi nhau. Họ cũng chẳng chịu lép, bớp lại tôi ra
trò. Tôi xước mặt, toác cả áo. Tôi không thể cạy thế thằng đàn ông được. Dạo
trước, thỉnh thoảng có lục đục, láng giềng sang lôi hai bên ra, cũng khi ban
hoà giải khối phố đến phân tích lý lẽ. Rồi đến nữa, vì mới hôm trước hôm sau đã
lại loạn lên.
Ngày ngày qua. Những xô xát trong nhà tôi thành trò cười, như hát hay, hàng phô
không ai hơi đâu đến cản ngăn. Từ khi mất việc lại càng não nùng, khi lại chính
tôi là thằng xuống thế.
Tôi chẳng biết một nghề ngỗng gì. Nhưng mà ở đất đô hội, có người thì sinh ra
việc. Cũng như ở rừng trời cho củ mài, củ nâu, ở phố phường khó khăn mấy rồi
cũng tìm ra cái ăn. Đống rác có người bới nhặt. Rồi thì bó củi, mài dao, móc cống,
cái bơm xe đứng ngã ba ngã tư, thêm hòm đồ và xăm lốp. Phải có cách nào kiếm được
thì mới đõ nhục.
Tôi xắm chiếc bơm xe đạp.
Tôi nhảy lên cái cán bơm, mặt cúi vục xuống, không dám nhìn lên. Lâu lâu, đã
quen tôi khoan thai ấn cái bơm, trong bụng yên yên một chút.
Máy bay Mỹ ném bom liên miên. Giữa thành phố bom bị rắc hàng thúng vào chỗ cây
đa đền Bà Kiệu, rơi lõm bõm xuống hồ Gươm. Người ta lũ lượt chạy khỏi thành phố.
Càng nhiều người đi xa, phải bơm xe cho căng, tôi vẫn đứng với cái bơm ở ngã
năm. Vợ tôi đem thằng còn chạy bom, đi đâu tôi cũng không hỏi. Đêm trước vừa to
tiếng, tôi bóp cổ mụ đến lúc kêu ằng ặc tôi mới nới tay, rồi lại đánh nhau tiếp
mặc kệ còi báo động với máy bay ầm ừ trên trời. Sớm hôm sau, mụ đi thẳng.
Từ đấy, không còn tăm hơi hai mẹ con. Đầu tiên, tôi cũng tưởng mụ chỉ dỗi bo bo
lăng nhăng rồi lại đâu vào đấy như mọi khi. Nhưng rồi bặt hẳn. Tôi sốt ruột,
nhưng cũng không biết thế nào biết hỏi ai. Hàng phố xì xào. Cô ấy đã theo người
ta xuống Nam Định, tôi trông thấy ở Chợ Rồng… Cô ấy trốn vào Nam rồi. Có người
lại nói như thật: có ấy số đỏ như tiên rồi, xin được chân phụ bếp ở cục phục vụ
được sang nấu bếp ở nhà khách sứ quán ta bên Liên Xô. Những cũng chỉ là nghe
nói, chẳng thấy tăm hơi đâu. Thế rồi đến năm đất nước thống nhất cũng vẫn bằn bặt
thế. Có lúc nghĩ hay là vướng bom đạn chết đủ đường chết chợ rồi. Trong chiến
tranh, biết bao nhiêu người mất tin, mất tích, không phải riêng mẹ con nhà nó.
Tôi ở gian nhà ọp ẹp ấy và vẫn một mình với cái bơm xe. Hiu quạnh, có lúc cũng
nhớ cái khi tung hoành ở xóm Am, xóm Chuôm nhưng chỉ nghĩ đến đã xấu hổ, còn ra
cái thá gì mà vác mặt về. Lưỡi dao cạo hiếm mà đắt, tôi chẳng buồn cạo, mặc kệ.
Râu ria tóc tai bù xù như con gấu vườn Bách Thảo. Tôi cảm thấy mau lão quá, ngoài
năm mươi mà lụ khụ, nói nói thở thở. Tôi đo sức bằng mỗi lần bơm xe. Năm trước
chỉ ấn một cái được một nhát bơm, bây giờ phải nhảy trẹo mông mấy lần, buổi chiều
thì móp bụng lại, đến bốn phát mới xuống được một nhát. Tối về lử lả, xiêu vẹo,
xách cái bơm cũng trĩu tay, mặc dầu tôi tịnh không chè thuốc, bia rượu. Cái già
xốc đến tận đít rồi. Đàn bà con gái dửng dưng qua mắt tôi và tôi cũng nhìn người
ta thờ ơ như nhác mắt qua đường.
Một hôm, tôi nhận được giấy bưu điện báo nhận hàng. Lật xem đi xem lại: bưu cục
Bờ Hồ báo lần thứ nhất - tôi đi hỏi người ta bảo giấy này gửi từ bên nước Úc.
Tôi bỏ một buổi làm, lên hiệu sách xem nhờ tờ bản đồ treo bán tìm nước Úc ở
đâu. Đêm mất ngủ, hay là bưu điện nhầm. Tôi lại mở giấy xem lại, rõ rằng viết số
nhà cái buồng cái lều này và cả ba bốn bên đường phố hàng xóm bảo năm này chỉ
có một Nguyễn Văn Bối tôi.
Tôi lên nhà bưu điện. Người ta cho biết hàng nước ngoài gửi về phải có sổ nhận
hàng trên thành phố cấp. Tôi bảo tôi không biết về hỏi hàng gì. Có nhân viên chỉ
cho tôi trong ngăn tủ bề bộn, một hộp giấy vuông vắn: “Đây, hôm nào đủ giấy tờ,
hải quan cho mở ra mới biết hàng gì, bác ạ “.
Rồi tôi cũng lo được từ khối dân phố lên khu, lên thành phố cho có nổi một tờ
giấy sổ lĩnh hàng nước ngoài. Tiền mua các thứ phí tổn bạc nghìn. Đến nơi lại bảo
nộp phạt tiền lưu kho mất hai nghìn rưỡi. Nặng quá, tôi đã nghĩ toan bỏ. Nhưng
đằng nào cũng đâm lao rồi, tôi lại về cào cấu, cả giật nóng, cả vay lãi ngày.
Cũng có lúc chợt hoảng. Nhỡ một cái lại là cái hộp cứt như trong truyện Trạng
Quỳnh thì có mà toi đời. Nhưng không, một gói những lọ, những hộp xinh xinh.
Người hải quan xem từng lọ rồi bảo đây là thuốc bổ, được phép nhận.
Tôi ôm cái hộp lên ngực mới gạt được đám người bám ngoài cửa, nhao nhao:
- Thuốc à? Có bán không. Bao nhiêu? Xem nào, xem nào…
Tôi đứng bơm hàng ngày một cụm ngã năm ấy, có người bơm xe lại đã thành quen biết,
một vài phút đợi bơm, đã ra khối chuyện phố phường. Chỉ hôm sau, tôi đã hỏi biết
được toàn thuốc vitamin A, B, C, B6. Thuốc Pháp, thuốc Mỹ, đắt đấy, bán được tiền.
Tôi hỏi mỗi người một tý, chắp lại, đã ước lượng được giá cả. Thế là không dưng
trời cho tôi của.
Ai ở nước Úc gửi cho tôi? Không có thư, không tên người gửi. Hàng chữ tên tôi,
số nhà, phố thì đánh máy. Người ta bảo ở các nước văn minh, ra hiệu xe đạp, mua
cái xe rồi lại thuê gửi, thế là cửa hiệu cứ việc đóng gói và gửi đi, người mua
không phải động tay, không cần biết mặt cái xe. Nhưng ai gửi, lục soát đến đâu
cũng không ra ai. Không một cớ nào để đoán nổi. Cuối cùng, trong ý nghĩ tôi đọng
lại hai con vợ mất tích kia, mà có lần người ta đồn nó đã đi những nước nào nước
nào sướng hơn tiên. Có lẽ là mụ ta. Lúc khó nhất người ta cũng nghĩ rồi ra có
lúc được mở mặt, hay là nó, chỉ có nó mới biết tên tôi, số nhà tôi, mà xét những
mối quen biết thì quanh đây cả, chỉ bọn khố dây, ai mà có được hộp sang này!
Đích là nó rồi. Chỉ có con vợ trước ở Tam Mai thấy bảo lấy chống, làm cut-lít
có thể nó về bên Tây bên Mỹ, Nhưng con ấy lại không biết chỗ tôi ở bây giờ. Thế
thì ai gửi cho tôi, lại rồi ruột thêm. Tôi có hai vợ, hai đứa con thật sự còn
con rơi con vãi ở đâu không kể. Chẳng nhẽ con vợ nào của tôi đã sa chân xuống tận
vũng bùn tư sản lại còn hơi sức nhớ đến tôi. Hay là…
Hay là cái này của địch, là âm mưu địch, thằng địch chúa thằn lằn nham hiểm đi
cải cách ruộng đất đã thấy đấy. Tôi mất mũ cán bộ đã lâu, mà vẫn chưa quên cách
phân tích địch ta. Thế nhưng ở trên đời này, thằng địch ba đầu sáu tay nào mà lại
biết tên tôi là quân tố hửu Nguyễn Văn Bối. Ông bơm xe, ông bán nước, quanh năm
không nhìn ra ngoài cái bơm, cái chén, nhưng thoáng mắt đã nghe biết cái khôn dại
của bao nhiêu người đời. Nghe nói có nhà có người ở nước ngoài gửi các thứ về
cho nhà bạn để ăn, để sướng, tôi cũng đương được “tiếp tế” như thế, chứ có phải
địch mua chuộc đâu.
Bao năm nay, trời nắng hay trời mưa, tôi chỉ có cái bơm và lê la quanh mấy gánh
cơm dưa cà đậu om, canh đậu, có cái ghế treo trôn, quang khách đến bà hàng mới
bỏ ghế ra, sợ ngồi xúm xít thì công an đuổi.
Số thuốc tôi bán dần. Ôi, những chi tiêu thăng hoa khỏi mụ hàng cơm gánh. Tôi
xuống chợ trời mua bộ quần áo ka ki đại cán cũ. Mới ngày nào, cán bộ thủ trưởng
và nhân viên mặc đại cán như nhau, bây giờ có tiền hoạ hoằn mới có người mặc,
anh xe ba gác, xe xích-lô… Dù qua mặt cũng không ai nhìn, việc đời cái gì rồi cũng
trôi đi. Đời cán bộ của tôi đã chấm dứt từ bộ đại cán sang cái bơm, tôi vẫn thấy
mặc đại cán được và hợp mắt. Chập tối, tôi không đến gánh cơm quán đầu ghế nào.
Đã lâu, mới nhớ phải hưởng một bữa có chất. Cuối phố kia mà tôi vẫn biết ở đấy
có một hiệu ngoài tủ kính bày mấy lọ mắm tôm bán sỉ, nhưng trong nhà làm chui
cơm tắm giò chả. Tôi đi đánh chén một bữa cật lực, bội thực không thở được, chỉ
còn sức bửa say được về nhà, lăn đùng ra.
Tôi nhét cái bơm vào gầm giừơng. Nghỉ ít lâu cho khuây khoả cơn sầu đã nào.
Nhưng vài ba tháng nằm khàn, ăn vỗ béo rồi ngủ, gói tiền to đến bằng cái tải gạo
cũng phải toang ngoảng. Rồi hết tiền, lại vác cái bơm ra ngã năm. Tôi chép miệng.
“Tiền bắt được như tiền cờ bạc, của phù vân vẫn vào nhà rồi của phù vân lại đội
nón ra đi, thế thôi”. Tôi thở dài, tự an ủi.
Tôi khắc khoải vu vơ mong lại nhận được giấy báo nhà bưu điện. Tôi tính ngày,
so sánh năm tháng, đoán có lẽ vào dịp Tết ấy ra. Rồi mấy Tết cũng chẳng thấy
đâu. Cái gói tiền đã xa như chiêm bao từ ngày xưa, Tôi lại cắm cúi, vật vã nhảy
nhấp nhô cỡi lên cái bơm.
Nhưng quái sao, tôi thở dốc: Tôi béo tốt hẳn hoi, râu mọc um tùm đem mỡ ra. Thế
mà hai cánh tay rã rời muốn vập mặt xuống cái bơm rỉ. Tôi không bơm xe được nữa.
Tôi đẫy đà ra nhưng tôi kiệt sức rồi. Cái túi tiền đã giết tôi.
Hôm sau, tôi lại vác cái bơm ra. Nhưng cả buổi chẳng được một nhát. Khách quen
không có ai. Người lạ trông thấy tôi mặc cái áo đại cán, mặt mắt húp híp, người
ta đạp xe thẳng. Rồi tôi cũng được khách, nhưng vừa buông buông cái bơm, tôi nghẹn
cổ không thở được. Ông khách đùa: “Ông béo sung sướng phát phì thế thì đi nghỉ
mát, chứ bơm xe là ốm đấy”.
Tôi chết thôi. Cái thằng Vách, thằng Vách chết như đi chơi, lại còn gọi người đến
xem nó chết. Thế mà hay. Lẽ nào tôi hèn không bằng thằng Vách. Tôi chết cũng vừa,
đủ mùi đời rồi.
Tôi ngồi dậy. Tôi với tay vào góc buồng kéo cái hòm gỗ. Trong ấy, mọi thứ đều
được nhặt trữ lại. Người khó nhặt nhạnh chẳng muốn vứt đi cái gì. Tôi tìm cái
quần rách. Tôi bện thành cái thừng. Tôi chợt thấy vẫn còn chiếc ruột tượng đựng
gạo ở cơ quan trên Thái Nguyên. Mỗi lần ra khỏi rừng đi công tác ai cũng đeo vắt
vai một hai bao gạo. Ôi, cái ruột tượng đựng gạo còn lại đến bây giờ, được được
đấy.
Tôi đứng lên mặt bàn, buộc một đầu ruột tượng lên xà nhà, ở bên kia thõng xuống,
thắt nút tròng lọng lại. Tôi ngắm nghía. Chui vào, đạp đổ cái bàn dưới chân thì
tôi bằng thằng Vách.
Tôi ngồi thừ một lúc lâu. Không phải tôi ngần ngừ mà tôi mỏi như sắp chết, tôi
ngồi thế này chắc một lúc nữa tôi cũng chết. Không phải. Tôi nhớ ra tôi sắp lả
đi vì đói. Thế thì đi ăn cái gì, chẳng nên làm còn ma đói.
Chiếc tròng lọng ruột tượng trắng nhờ như giải khăn tang lơ lửng giữa nhà. Tôi
khoá cửa, bước ra.
Lại biết chỗ ấy có quán cơm mà mật hiệu là cánh cửa đóng một bên. Mở mảnh ni
lông che tường ra, tròng treo cỗ lòng tráng, cái cổ hũ trắng phau, có phở, có
cháo lòng, tiết canh đủ thứ. Thành phố tiêu điều không phải vì chốc chốc lại
báo động máy bay. Bề ngoài thôi, người ta ở trong nhà mà vẫn hàng phở, bánh cuốn,
bánh giò, rượu cuốc lủi được gọi nhẹ nhàng là nước mưa…
Vừa đi vừa nghĩ những cái ăn, như người thành phố bom đạn đương thiếu đói, thì
chết làm sao được. Tôi cũng tự mang máng thế. Tôi lử khử, dật dờ đi. Dẫy phố im
ỉm. Thế mà cái quán này đèn sáng. Ngọn điện che mảnh bìa cứng, bớt sáng hắt ra,
theo lệnh phòng không. Tôi bước qua chỗ của tôi vào sáng đèn, tôi choáng người.
Lão chủ quán cái mặt hệt thằng địa tư Nhỡ. Chỉ khác bộ râu quai nón trắng như
cước, tóc và râu dài xuống giữa lưng, giữa ngực. Tôi hốt nhiên phấp phỏng. Hay
là tôi đã thắt cổ tôi chết rồi, tôi gặp hồn thằng tư Nhỡ ở cửa địa ngục suối
vàng.
Chủ quán nhác nhìn tôi, hỏi ngay:
- Anh đội Bối phải không? Cũng râu ria như thằng địa chủ à?
- Ông… tư Nhỡ.
- Nhớ dai đấy. Anh ngồi chơi.
- Bây giờ ông…
- Thế thôi. Ồ lâu lắm mới gặp. Đánh chén cái đã. Không phải ăn nhà hàng, mà tôi
thết ông. Dám chứ? Tôi vẫn ơn ông không qui tôi là địa; nhưng ông vượt mặt thế
nào được thằng đội Cự, có phải không ạ?
Toàn việc người sống. Tôi còn biết nói thế nào. Cái anh đội Bối cũng xa xôi hoá
thành thằng bơm xe rồi. Những kiểu cách ta đây cán bộ ra về hiểu biết, đứng nói
hấm hứ băm băm tay, tôi chẳng còn đâu điệu bộ dở dang ấy nữa. Quên rồi, cả như
chuyện Âm Phủ. Tôi không ngại, cũng chẳng ngượng với tư Nhỡ. Dường như lại quen
ngay. Ai cũng chỉ ưa nhớ lâu những cái dễ chịu. Rồi vừa nhớ lại, vừa không muốn
nhớ, như mê ngủ. Bây giờ rõ rằng tư Nhỡ mời tôi đánh chán. Ừ, đánh chén. Thằng
bơm xe đạp nhặt từng hào giấy thì chỉ thèm đánh chén.
- Vào, vào uống chén nước đã.
Nhà tư Nhõ hai buồng, liền phòng trong, cái bếp đã được dênh ra ngay đầu gian
bán hàng, đây chỗ ngủ kê vừa chiếc giường một.
Trên mành mành che, buộc cái mạt to sơn kẻ đòng chữ xanh tròn quanh theo khung:
Hutte cent ans kèm chữ quốc ngữ hắc ín đen nhánh “Lều trăm năm”.
“Vẫn cái “động trăm năm “, ông ạ.
Tôi pha trò:
- Có còn tay cán nữa đâu
Tư Nhỡ vuốt râu cười:
- Vẫn còn công an, cán bộ thuế mà mình là thằng bán hàng chui. Cái lều ông già
trăm năm này có giá trị trình bày lắm. Tôi lão rồi, tôi ốm yếu sắp chết rồi,
tôi kiếm ăn cò con, các ông tha cho. Ít người biết chữ Tây nên phải viết kèm chữ
ta cho các anh ấy để hiểu để thông cảm. Chỉ có bây giờ mà đội bắt tôi thì tôi
chịu chết, không còn sức leo tường nhà giam. Nhưng cũng chẳng cần. Mấy chục năm
từ ở cái “động trăm năm” này tôi đã luyện đắc đạo phép tiên.
Tư Nhỡ miết ngón tay cái vào ngón tay trỏ, giơ cao bật tanh tách rồi cười khơ
khớ: Phép tiên Xìn! Xin tiền! Tiến! Tôi bây giờ tên là thằng Xìn.
Tôi lờ đờ vẻ không biết, hững hờ hỏi:
- Ông có hay về Am không?
- Tôi biệt xứ từ ngày ấy. Vợ tôi chết tôi cũng chôn ở Văn điển. Không biết dưới
ấy vào hợp tác rồi có cao bằng cả làng thành một hố không, còn tôi đã từ làng,
từ họ rồi. Họ hàng mà đấu nhau đến thế, còn mặt mũi nào. Nhưng mà có phúc có phận
cả, nhờ các anh về làm tan hoang lên thế, thằng tư Nhỡ có suýt chết mới lại được
thế này. Mấy lỵ tôi mà thò đầu về, đứa nào dò được tông tích tôi trên đây, có
khi tôi lại ăn đất, anh ạ. Chốc nữa anh lên công ăn khu báo cáo có thằng địa trốn
lên đây đội lốt công thương thì tôi cũng rũ tù Hoả Lò ngay. Nhưng mà anh đã
thương tôi, nỡ nào, phải không. À mà tôi cũng thay tên đổi họ rồi. Bây giờ họ
tên tôi là Tạ Xìn, Tạ Xìn. Tiếng Tầu “xìn” là tiền, “Tạ xìn” là một tạ tiền,
tôi thờ than tiền. Khi nhỏ, tôi hay chơi chữ, đã “lều trăm năm” lại hoá ra “tạ
tiền”. Tạ Xìn bán phở ngầu pín dái bò dái dê, lại cả phở không người lái. Bánh
phở Tạ Xìn đương có tiếng đấy.
Lão nói toang toang gay gắt một cách từ tốn. Ở đời không rõ đầu lưỡi hay trong
bụng, tôi thấy ai cũng tự tin hơn tôi, tôi cũng đâm ra rúm ró. Tôi mờ mờ những
sóng gió thôn Am, thôn Chuôm. Tôi có cảm tưởng tư Nhỡ đương là thằng Tề Thiên Đại
Thánh đánh cả trời mà tôi như con nhái đứng dưới đất giương mắt chẫu, mắt nhái,
mõm nhìn lên.
Tôi nhấm nháp chén chè Tân Cương pha bằng nước đun ở cái ấm điện tý hon chỉ vừa
vài chén hạt mít. Một lát, thấy một đứa con gái bưng một mâm vào. Trên mâm, hai
bát chậu đựng những cánh xương sườn lợn cong lên như cọc bờ rào, khói béo nống
bốc nghi ngút. Xương ninh làm nước phở, ngon nhất. “Bán phở mà tôi cấm có ăn phở.
Tôi không thích mâm bát lôi thôi. Tôi chỉ nhắm rượu, gặm xương. Ông chiều tôi”.
Tư Nhỡ lại nói, giới thiệu:
- Cái này là út của tôi. Nó làm mậu dịch, nó là cô mậu bán thịt cho nên bố nó mới
được cái khoái này. Bây giờ là nhất nhà mậu, nhà mậu được cái chén ngay, rồi mới
đến nhì thân, ba thế.
Lúc này nhìn đứa con gái tôi ngỡ con bé con, bây giờ mới nhận ra cô mậu dịch áo
vét xanh da trời, hai bím tóc tết buông xuống lưng, đội dép râu, tôi đâm sợ. Ai
mà chẳng sợ những cô mậu cong cớn, cô ném ra bán như thí cho bó rau nào thì được
nhặt bó ấy.
Tôi uống rượu chẳng mấy. Tư Nhỡ thì vén râu tì tì từng chén. Tôi nhấm nháp theo
cũng hào hứng dần lên và thế là nhãng mất cả chuyện thắt cổ. Đấy, tôi ví thế
nào, tôi hèn, tôi bằng thế nào được thằng đồ tể Vách kia, tôi mới chỉ gặm miếng
xương mà đã…
- Ông tư ơi, ông được mấy người giỏi như có mậu này?
- Mỗi đứa một phân, không đứa nào giống đứa nào.
- À…
- Chẳng giấu ông, nhà tôi có hai thằng xuất ngoại, một ở Liên Xô, một ở Hung.
- Hai đứa đi nước ngoài? Luật chỉ được một thôi mà.
- Đã bảo tên tôi là Xìn, tôi là Tạ Xìn, giới thiệu mãi rồi.
- A.
Thế mà tôi lại nhờ cái thơ ném lại cho “cậu mợ và các em Hương, Hiền, Vinh,
Phú, Quý” của đứa nào ngày ấy bỏ nhà đi. Không biết nó là đứa nào trong đám con
Tư Nhỡ.
Tư Nhỡ lại nói:
- Một thằng đi bộ đội, chốc nữa về.
Tôi đáp giữ nhịp:
- Thế à?
- Cũng cho một đứa đi bộ đội cho phải phép. Bộ đội thời đánh Mỹ mà được ngủ
nhà, thế mới chúa. Cái đấy phải chạy mệt hơn lo cho những thằng đi nước ngoài.
Từ lúc ngồi ở cái giường trong “Lều trăm năm” ở thành phố này mỗi lúc tôi lại rạp
người xuống, tôi lạy phục tư Nhỡ, rồi chúi đầu ăn như ma đói. Chẳng mấy lúc say
đứ, nằm đờ ra. Cái thân tôi ăn cũng khổ, lúc nào cũng sắp chết vì bội thực. Tỉnh
lại, thấy tư Nhỡ ngồi nguyên thế, đầu gối rung bành bạch, chốc lại vạch râu tiếp
một ngụm.
- Thức rồi à? Làm bát không người lái. Phở nóng, nhiều hành, tỉnh ngay.
- Tôi về…
Về làm gì. Trời mát, tao với ông nằm cái giường này vừa mà nhà mày thì như cái ổ
chó!
- Ông biết nhà tôi?
- Tao biết cả mày đứng bơm xe đạp ở ngã năm, biết lâu rồi.
Chưa húp bát phở nóng mà tôi tỉnh tức khắc. Tôi bơm xe đã thành tật cứ lúi húi
vặn vặn, lắp vòi, lúc nào cũng rũ mặt xuống hai tay ấn bơm, chứ mấy khi nhìn
ai.
- Về đây làm với tao.
Tư Nhỡ đứng dậy chếnh choáng vịn tay vào tường.
- Ấy cái tội của các ông cải cách đây. Thằng tư Nhỡ tụt tường nhà giam trốn ra,
què một chân.
Bắt chợt, tư Nhỡ hét:
- Bối! Thằng đội Bối!
Tôi trố mắt, ngơ ngác.
- Kìa “dạ” đi, lậy ông địa đi. Tao đương bắt chước các ông đội đây. Như mà làm
trò chèo tuồng cải lương thế thôi, tao không báo ân báo oán như cái con Thuý Kiều
giang há nhà thổ đâu.
Mỗi việc, mỗi câu của tư Nhỡ như đấm vào mặt, vào bụng, vào lưng, tôi chỉ biết
oằn người ra chịu đòn.
—Nhà nước chỉ cho ăn vã bo bo, bột mì rán khan, cái bánh phở là quốc cấm, phải
chạy nhiều cửa mới có chén rượu, có miếng xương này. Mai đến đây, khối việc.
Mày không ra sao cả.
Tôi thì không ra sao từ lâu lắm rồi. Cái vốc tiền dạo trước cũng chỉ nuốt hết
chứ có nên trò trống gì đâu. Nghe nói thế tôi coi như ông chủ đang mặc cả công.
Được thì gật, không thì lắc, chẳng còn biết đỏ mặt. Nghe nó nói cũng thuận, có
khi mà hay, đỡ nắng gió, khỏi phải há mồm nhảy bơm, mà cái của trời ơi của tư sản
giẫy chết kia thì biết bao giờ nó còn rơi xuống nữa. Tôi gật gù, lóng ngóng.
Tư Nhỡ đập bốp bàn tay bên kia vào tay tôi.
- Mai đến nhé.
Tôi bước len lét, lử khử, râu ria lướp tướp như con chó ốm. Mở cửa trông thấy
cái tròng lọng ruột tượng lơ lửng giữa nhà. Tôi mới nhớ lại. Tôi cúi xuống, vứt
lại vào cái hòm rác rưởi. Quên ngay, tưởng như chưa khi nào đã định chết thắt cổ.
Tôi ngủ say như chết. Hôm sau, tôi cưỡi cái bơm, mỏi nhức lên đến cánh tay. Thật
không thể trông vào cái bơm được nữa rồi. Cái bọc tiền đã giết tôi. Nhớ đến những
câu chuyện với tư Nhỡ lại càng đau ê ẩm.
Một buổi sáng, tôi đến nhà tư Nhỡ.
Tư Nhỡ cười, vỗ vai tôi.
- Biết anh còn nghĩ đi nghĩ lại mấy hôm mà. Cũng sĩ diện chứ, nhưng mà cái bơm
chỉ bằng cái tăm hương ấy mà nặng đấy.
Tôi bắt đầu làm một công việc kỳ quái mà dễ hiểu. Không phải phụ bếp, không lau
bàn, bưng bê, không rửa bát hay giết gà, mổ lợn - thịt gà và từng súc thịt lợn
sống đã có cái cô út làm nhà mậu mỗi buổi đèo trộm về một túi ni lông rồi.
Tôi đi lấy bánh phở. Hồi ấy, cả thành phố trông vào tem phiếu gạo. Bánh trái,
chè cháo hàng quán đều dùng đến gạo, bột gạo đều bị cấm, nhưng người ta vẫn
chui lủi, thế nào cũng có cách nhoi ra. Mỗi ngày hai buổi đúng giờ như người đi
làm cơ quan, tôi vác một bị bánh phở nặng lệch vai về.
Tư Nhỡ dặn:
- Chỗ lấy bánh này nghiêm lắm. Anh có bộ đại cán hay đấy, dễ vào. Những cấm
nói, không được nhìn ngang nhìn ngửa. Đêm bánh về đến đây, gặp “cá” thì bảo là
giữa đường người ta nhờ bán hộ. Rồi tôi gỡ cho, không được đổ cho tôi.
Mấy lâu này lặn ngụp trong chợ đời, tôi đã hiểu giữa đường ngoài hè còn biết
bao những ma quái bằng bậc cụ, những mưu mô và những đòn đánh ở cơ quan tôi
ngày trước.
Tôi đến một toà nhà hai tầng có vườn bao quanh ở một phố tĩnh mịch. Các cửa sổ
gác đóng kín chắc là nhà cán bộ to. Tuy to, những chưa phải cỡ có bốt gác cửa.
Tôi đi thẳng vào vườn sau. Bên cái nhà ga ra ô tô có một buồng lửng ngay đầu cầu
thang xuống. Trong buồng, một cái nồi ba mươi, bột đương nghi ngút sôi sùng sục.
Mấy người xoay trần, tráng bánh cạnh cái công tơ điện xình xịch chạy máy.
Một người đứng tuổi mặt mũi nhẵn nhụi mặc áo đại cán, ka ki hồng nhạt. Trông thấy
tôi, ông bước ra, bắt tay - lại bắt tay, chưa quen đã bắt tay lu bù. Ông ấy bỏ
kính trắng, - tôi ngờ là kính giả, ông trỏ tay:
- Cái bọc to nhất đi ngoài cũng là của anh – Người ấy cúi nhìn đồng hồ đeo tay,
- Lúc nào ô tô ra đỗ cho kia thì anh vác bọc này đến, lên ngồi ghế trên. Chỗ
nào ô tô dừng lại, chú lái mở cửa cho anh xuống. Không được quay lại nhìn,
không phải chào hỏi ai cả. Nhớ chưa? Không thì mất lương đấy!
Tôi đã nhớ từ lúc tư Nhỡ dặn, nên cũng chẳng buồn trả lời. Nháy mắt, cái xe đen
bóng lừ chui ra, cửa kính sau và hai bên khoang dưới treo miếng vải hoa sặc sỡ
như bướm đậu. Người lái xe mở cửa trên, tôi bê bọc bánh bước lên, mắt nhìn thẳng
đằng trước. Nghe tiếng người bước lên đằng sau rồi sập cửa. Xe lướt ra cổng
loang loáng. Nhớ những lần đi cải cách ở Thanh Hoá, ở Thái Bình, hội nghị tổng
kết ở Hậu Hiền, ở Quỳnh Côi có cán bộ trên về dự cũng đi những xe đen kềnh càng
choáng lộn như thế này. Các ông ấy toàn mặc áo nâu, đi dép râu, không biết ông
ngồi sau tôi mặc áo nâu hay đại cán. Đương nghĩ loăng quăng, cái xe đã đỗ êm nhẹ.
Người lái xe với tay sang mở của. Tôi lùi lũi ôm bọc bánh xuống. Chiếc xe lại
bon vút đi. Đây là ngã ba, rẽ vào một quãng thì đến nhà Tư Nhỡ.
Mỗi ngày hai chuyến đi lấy bánh như thế, kể cũng nhàn. Được muơi hôm, dần dần
tôi biết mọi lai lịch những bị bánh tôi lấy về và những túi thịt lợn, mỡ lợn,
sườn lợn của cô ả mậu. Tư Nhỡ lại tự vác đi bán các nơi khác. Thảo nào, lão bảo
bánh phở Tạ Xìn có tiếng là ý tứ thế và cái hàng vắng, lão cũng chẳng cần.
Tôi lại biết bọn làm bánh không phải người nhà này, cũng không phải nhân viên
cơ quan. Có manh mối, người ta đến xin làm đây. Mọi công chuyện và tiền nong
tính toán với bà chủ. Làm bánh trong nhà hộ đặc biệt, các ông “cá” đánh hơi được
cũng chịu. Lại cái ô tô thủ trưởng ngày ngày tải bánh ra, chẳng dám đụng đến.
Cái ông chủ lò bánh mặc áo đại cán, kính trắng, cái cặp da như chánh văn phòng
ngày nào cũng đến xin ý kiến thủ trưởng, ông chuyện với tôi, ông tặc lưỡi:
- Cả làng đều phải kiếm thêm, cán bộ nào chẳng như nhà ông này.
Cái giọng hệt Tư Nhỡ, đủng đỉnh, móc máy, xỏ lá. Hay cũng là địa trốn lên thành
phố, bây giờ tên là Xìn, là Tiền. Ai biết được.
Tôi đến lấy bánh chui ở nhà ông cán bộ to nọ, tôi lại tìm được cách nghĩ cho
yên lòng hơn về sự an bài của xã hội bây giờ. Tình cờ tôi được tin cái lão trưởng
phòng tổ chức đã sa thải tôi ngay trước, lão bị đi tù rồi. Ông “chánh văn phòng
tên là Xìn” ấy một hôm đọc báo rồi kể lại cho đám xay bột, tôi đứng nghe đích
xác tên người, tên cơ quan tôi trước. Nguyên do là lão ta sắp về hưu. Lão mưu với
thủ kho làm một quắn lấy trộm hoá chất.
Sau khi tuyên án, lão được nói một câu “Lậy toà, một đời con công tác - toà án
không cho lậy, không cho xưng con, những lão cứ nói thế, con không ăn cắp một tờ
giấy, một ngòi bút. Nhưng con sắp phải được nghỉ hưu, con cần kiếm cái dưỡng
già, con chỉ kiếm đồng tiền dưỡng già. Xin toà rủ lòng thương”. Lão ấy sáu mươi
ba tuổi. Thì tôi lại ngậm ngùi nông nỗi đời người. Tôi lại quên cái lão trưởng
phòng mặt sắt ngày trước. Ai chả thế, cố cùng mới chịu đói, ai chẳng thèm no.
Tối tối, tôi ngồi hầu rượu tư Nhỡ. Quan hệ của tôi với lão cứ nửa nạc nửa mỡ.
Không ra chủ cũng chưa hẳn đầy tớ. Tôi không còn nhớ mấy về địa chủ tư Nhỡ ở
thôn Am. Nhưng lão nhớ ác, thỉnh thoảng vẫn móc tôi vài cú.
- Cái đài Oreông này của tôi khoẻ lắm, nghe được Sài Gòn, cả đài Mỹ, đài Anh.
Bây giờ tôi mới là Việt gian toàn nghe đài địch. Cái thằng đội Cự dốt đặc cán
mai như con bò, cái galen kêu ẹc ẹc bắt dây lên cột tre lại bảo là dây điện đài
đánh đi liên lạc với địch.
Tôi im, nhai thong thả.
Bát xương sườn lợn bốc khói mỡ béo ngậy. Tôi phải làm bát phở không người lái
đã rồi mới uống - cũng giữ ý, kẻo lại kềnh ra như hôm nào.
Tôi đảo mắt nhìn tư Nhỡ. Lão vẫn đương ừng ực mấy chén cũng như lúc đứng bán phở,
lúc đeo túi bánh túi thịt đi, lão nói lão làm phăm phăm, hống hách, máu nhà địa
chủ và lão đương làm ông chủ, còn thằng Bối thì hủm hoẳn như con thằn lằn cụt
đuôi. Tôi đã làm xong bát phở không mà từ khi tời thành phố hay có máy bay
không người lái của Mỹ vào thám thính, bát phở không thịt cũng thành cái tên
“phở không người lái”, chẳng ra cợt chẳng ra mỉa nó hay mỉa ta. Tôi nhấc chai,
rót lấy chén rượu. Tôi cũng đương làm ra tiền cho nhà này mà.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét