Chim chích lạc rừng 1
Chuột thành phố
Trong cơn khói lửa, nhiều tập bản thảo của những anh em trong
văn giới mà chúng tôi được giữ bị mất mát hết cả, không còn gì. Một sự tình cờ
lạ lùng đã khiến cho chúng tôi lại thấy tập này: truyện Chuột thành phố của
một cây bút rất quen thuộc trong tuần báo Tiểu thuyết Thứ bảy.
Bạn Tô Hoài hiện giờ còn xa vắng, chúng ta ở đây mà có một
quyển truyện như Chuột thành phố đê đọc trong lúc này, thật quý.
Chúng tôi xin nói thêm rằng truyện Chuột thành phố của
Tô Hoài viết năm 1945 là lúc quân phiệt Nhật đưong tràn lan sang đất nước ta.
(Mấy lời của NXB Tân Dân 1949 ở Hà Nội)
I
Từng chặng đèn ở khắp nơi, sáng rực lên. Thành phố Sài Gòn
chói lọi trong ánh sáng. Mặt trời vừa khuất sau những mái lầu bên phía tây, đèn
điện bật lên như ngăn trở không muốn cho đêm tối bén mảng đến. Người ở các ngả
các xó lũ lượt ngổn ngang từng đoàn từng lũ kéo ra ngoài đường. Họ đi hóng mát.
Vào các tiệm, uống ly cà phê, ly nước đá chanh, ly bốc la-de. Có người ăn hủ
tíu, một đĩa bánh hỏi, bánh đập... Người ta ăn và uống rầm rĩ, túi bụi lên. Cảnh
sống ban đêm của cái thành phố ánh sáng này đông đảo gấp mấy ban ngày.
Cùng với sự sinh hoạt rầm rộ nọ, có một sinh hoạt khác, cũng
tấp nập, cũng đông đảo chẳng kém. Ấy là khi đêm lần lần về khuya, người dần dần
vắng bớt đi. Ngoài đường, những ngọn đèn nhiều nến được tắt bỏ, đem về cho
thành phố những nét dịu dàng mới. Bấy giờ, mặt đường tròn bóng. Người qua lại
lác đác. Rồi thỉnh thoảng mới thấy một hai người đi chơi về khuya hoặc vụt qua
một bóng xe đạp của thầy mã tà.
Đó, lúc đó, một thế giới hoạt động khác nổi lên. Trong các
khe rãnh, các lối cống hai bên vệ đường, họ ra nhiều không thể đếm xiết. Họ đi
mò mò. Nhiều lúc, vụt một cái, nối nhau chạy loắt nhoắt, loắt nhoắt vượt qua mặt
đường cánh cung, bên này sang bên kia. Đó là khi đi chơi tiêu khiển, hoặc cũng
là khi đi uống ly cà phê, ăn đĩa bánh hỏi, chững chạc như mọi người ta. Thành
phố của loài người nhưng quá nửa phần đêm về sáng nó thuộc về thành phố của họ.
Ấy là loài nào? Thưa, loài chuột, họ chuột chúng tôi. Phải,
chúng tôi gớm ghê như thế đó, chứ sao. Chúng tôi thực xứng đáng với cái địa vị
được đem ví von với loài người. Này, thử để ý xem: khắp bốn bể năm châu, chỗ
nào có vết chân người, tất chỗ đó có vết chân chúng tôi. Người ở đâu, chúng tôi
ở đây. Người ăn gì, chúng tôi ăn nấy. Chúng tôi chỉ hơi khác khác với họ một điều.
Như họ thì to lớn, mà chúng tôi thì bé, chỉ bé bằng cái cẳng tay người ta. Tiện
đây xin cải chính một điều. Xưa nay, thiên hạ tưởng chúng tôi không biết nói.
Xà! Bậy hết sức. Chúng tôi đây cũng biết nói như ai chớ! Chí chí, chúng tôi nói
đó. Chúng tôi nói tiếng của chúng tôi. Cũng như người nói tiếng của người. Có
cái ngôn ngữ bất đồng, nên cứ tưởng lẫn như vậy. Mà nói về những điểm hơn loài
người chúng tôi đây lại còn hơn nhiều. Họ nói, chúng tôi nghe được rõ ràng từng
tiếng và họ không nghe được tiếng chúng tôi. Chúng tôi, mới sinh ra đã có râu,
có răng. Trẻ con nhà các người nứt mắt đâu đã có răng, đâu đã có râu! Ấy là
chưa kể đến cái đuôi dài và nuột nà rất mỹ thuật của chúng tôi, loài người
không bao giờ có thể có được rồi. Kém những chỗ ấy nhé!
Nhưng mà hỡi mọi người, mọi người yêu quý của tôi, tôi nói
khuếch khoác thế, tất ai đó hẳn đã tức lắm. Chắc có người toan mắng: "Chuột
nhép, sống núp bóng ngưòi ta, bặng nhặng cái gì? Ông lại mua con mèo về thì có
mà bỏ đời..." Thôi, thôi xin ai đừng mua ông mèo về. Tôi nói đùa mà chơi đấy.
Thực ra xưa nay chúng tôi vẫn tôn phục loài người. Người đã làm nhà để cho
chúng tôi có nơi ở ké. Người lại làm ra cái bếp để nấu nướng thức ăn, khiến cho
chúng tôi có chỗ ăn kẹ. Thỉnh thoảng, người ta lại nuôi một vài chú gà con, để
cho các chuột cụ trổ tài quắp trộm.
Chúng tôi lại biết rằng, loài người cũng chẳng khác loài
chúng tôi. Ai ai cũng phải làm việc, để mưu sự sống còn. Biết bao nhiêu chông
gai đầy rẫy trong lối đi của con đường đời. Vất vả quá, cực nhọc quá. Nhưng có
vất vả, có cực nhọc mới đáng được sống ở trên đời, phải không.
Nói chi ai, như tôi đây. Tôi chỉ là một chàng chuột nhỏ bé
trong cái quần chúng chuột ở khắp thế giới. Đời sống của tôi cũng vất vả, cực
nhọc lắm nhưng tôi không lấy điều đó làm buồn, trái lại nữa. Tôi vui vì những
luân lạc cũ. Tôi vui vì nỗi, có lăn lóc, đời mới dạy cho mình được lắm điều
hay.
Tôi chắc bạn đọc yêu quý đương đợi tôi kể cho nghe một cuộc đời
phiêu lưu, mạo hiểm chi đó. Bởi tôi biết các bạn thích loại chuyện này lắm.
Không, đây chỉ là chuyện của đời tôi. Nó có được như những phiêu lưu, những mạo
hiểm thì còn phải hỏi lại xem thế nào đã. Tôi chỉ biết rằng tôi muốn nói về những
sự gian nan của một cuộc sống, khi ta phải
tranh sống để kiếm miếng ăn. Và tôi cũng muốn nói tới một sự
giác ngộ cao cả mà tôi đã nhận được, sau nửa đời lăn lóc.
Hôm nay, vui câu chuyện với các bạn yêu quý, tôi xin kể.
II
Khi còn ít tuổi hơn bây giờ, tinh tình tôi khá kỳ khôi. Tôi
cũng không còn nhớ rành rọt mấy. Nhưng có điều nhớ chắc là tôi rất huếnh hoáng
và rất nóng nẩy.
Tôi hay soi bóng vào trong vại nước. Tôi gật gù cho tôi là một
trang thiếu niên anh tuấn, là một mã thượng phong lưu khách chi đó. Ôi chao,
này này các chú thử ngắm tôi mà xem. Đầu tôi nhỏ và nhọn hoắt. Những anh chuột
đầu nhỏ, thường là thông minh. Tôi thuộc vào hạng chuột nhỡ. Mình tôi phủ một
lượt lông mượt bóng như nhung nõn. Hai hàng ria mép của tôi dài vênh lên. Bốn
chân tôi nhỏ nhắn. Đôi mắt tôi long lanh.
Cả ngày, tôi soi ngắm bóng mình, tôi lại nhởn đi đàn đúm với
một lũ trong xóm, cũng trạc tuổi với tôi. Tôi làm trùm bọn họ. Bởi tôi chạy
nhanh, tôi nhảy, tôi khỏe mà lại biết võ. Biết võ? Tôi biết võ. Rồi tôi rong
chơi lu bù. Có khi tôi đi mất mặt đến mấy ngày.
Thời đó, tôi ở với anh chị tôi. Mỗi bận đi chơi về, chị dâu
thường cằn nhằn, rầy la tôi. Tôi lấy làm khó chịu. Tôi cho chị tôi là một ả lắm
điều. Có một lần, anh tôi mắng tôi :
- Mày chưa kiếm nổi cơm ăn, thì tao bảo gì phải biết nghe?
Sao lại cứ chơi nhông cho hư thân mất nết đi.
Tôi cãi :
- Anh không được bỉ tôi như thế. Sao anh lại bảo tôi là không
kiếm nổi cơm ăn.
- À, mày cũng lý sự giỏi nhỉ? Mày lý sự cùn, biết không? Mày
giỏi nói, mày hãy đi mà kiếm cơm lấy, tao xem!
Tôi hếch mõm, cười nhạt :
- Anh đã đuổi, tôi xin đi...
- Mày đừng nói nặng. Tao không đuổi mày, nhưng...
- Nhưng anh đã nghe xúi bẩy mà đuổi tôi thì cũng thế.
- Tao nghe ai?
Tôi đáp lừng khừng :
- Nghe ai thì anh biết.
Anh tôi cười nhạt :
- Tao hiểu rồi. Mày nghi cho chị dâu đã xui tao. Vì mỗi khi
mày đi chơi lếu láo ở đâu về chị thường nói này nói nọ. Đừng ngờ xằng như vậy.
Cái gì phải nhìn tận mặt, vạch tận trán hãy nên mở miệng. À, mày cũng khá nhỉ?
Tao chỉ nói có thế, mà mày dám bảo rằng "anh đuổi tôi". Được, đi hay
không, tùy ý. Mày đã lớn rồi đấy. Ra ngoài đường, trông cái nọ ngó cái kia, cho
rạn bớt kẽ mắt ra. Cũng phải.
Tôi quyết định rồi. Tôi quyết định chẳng ở với anh. Tôi phải
đi chứ. Dủ sao, tôi cũng cần có một cuộc đời riêng của tôi, không ỷ lại. Hôm
sau tôi xin phép đi, tôi đội ơn công anh chị nuôi tôi bấy lâu. Tôi thành thật
nói thế.
- Mày đi thực à?
- Xin anh chị đừng tưởng tính tôi nóng nẩy hay tôi giận dỗi gì
anh chị. Không phải thế. Tôi đi là vì cuộc sống của tôi.
Anh tôi gật gù, liếc mắt nhìn tôi :
- Được, mày muốn đi thì đi. Nhưng tao cũng cứ dặn thêm mày rằng
khi nào muốn về thì cứ trở về tự nhiên.
Chị dâu tôi còn tha đến cho tôi một miếng thịt gà. Có cái ý
ngầm rằng chị chẳng lòng nào mà ghét bỏ em đâu. Tôi biết thế. Tôi ơn chị và gặm
miếng thịt ngon lành.
Kể từ hôm đó, tôi đi khỏi nhà anh chị tôi. Lòng đầy hy vọng mới
mẻ. Việc trước mắt, tôi đi tìm các bạn chơi của tôi mọi ngày. Để báo tin cho họ
biết rằng từ giờ thì lúc nào tôi cũng có thể đi chơi với các anh em được. Tôi
thấy họ hơi ngạc nhiên. Rồi một anh hỏi :
- Mày bỏ nhà thực chứ?
- Sao lại không thực! Tao đi, một điều chúng mày chẳng vẫn ao
ước đó sao?
Tôi đáp thẳng thắn :
- Tao ăn với chúng mày. Chúng mày vẫn thường mong được có tao
ăn chung đó sao?
Một thằng đạo mạo, thủng thẳng nói :
- Thưa quý hữu! Bạn bỏ nhà đi như thế, thực là một điều dại dột.
Mọi khi, chúng tôi vẫn nói láo lếu thế chứ sự thực làm sao mà kiếm ăn, nuôi
thêm được bạn. Các nhà ở xóm này, người ta cất thức ăn kỹ quá. Chúng tôi gầy rụng
cả lông đi đấy... Bạn hãy trở về với anh chị của bạn. Ản cho no, ngủ cho kỹ. Rồi
thỉnh thoảng, lại đây, anh em ta khiêu vũ chơi, có phải thích biết bao nhiêu.
Tôi tức quá :
- Chúng bay là những đồ tồi. Chúng bay sợ thiệt, đuổi tao đi
đó phỏng? Thực tao không ngờ. Nhưng mà, được được. Tao cũng không cần chúng
bay. Trước khi tao đi, chúng bay có giỏi, ra đây tỉ thí với tao một keo.
Tôi vồ một thằng đứng gần tôi nhất, nhay cho nó một miếng. Lập
tức, cả bọn chúng xúm lại chiến tôi. Giá cứ đánh nhau tay đôi, tôi quyết chơi
chết có thằng. Nhưng chúng đông quá. Những tên nào xưa kia kể vào hàng thân nhất
của tôi, thì bây giờ lại càng giả tôi đau tợn. Đau quá, tôi ngã lăn chỏng bốn
vó lên. Chúng bỏ chạy vào các hang, rồi lẩn thẳng. Giá tôi có chết ở đấy, chắc
cũng đành là thối mạng.
Bò dậy, tôi nhìn quanh quất, không có bóng vía một tên nào.
Tôi buồn và cũng nản hết sức. Buồn cho tình bạn, chán cho cảnh đời, vời trông
tương lai mờ mịt. Chao ôi! Tôi chắc chúng nuôi tôi. Tôi chắc chúng quý tôi. Tôi
chắc chúng...
Hão tất. Chúng lại còn đánh tôi là đằng khác. Ra tranh sống với
thiên hạ, không phải dễ dàng đâu. Anh ơi! Lúc này em lưỡng lự muốn quay về.
Tôi tự gạt ngay đi những ý tưởng đó. Xảy ra sự đáng tiếc này,
chẳng qua là bấy lâu nay tôi mù, tôi chọn lầm bạn. Không nên vì một thất bại mà
đã ngã lòng.
- Phải đi chứ! Phải đi!
Tôi nghĩ luôn thế. Trong im lặng, tôi lồm cồm chui ra ngoài
bãi cỏ trước ngõ.
III
Bấy giờ đương là ban đêm vắng vẻ. Tôi bò đi dễ dàng qua một
quãng dài, lần hết phố nàv tới phố khác.
Tôi quyết đi thực xa. Xa nhà của anh chị tôi. Và xa chỗ ở của
lũ bạn xấu kia. Tôi muốn sống riêng biệt.
Trong cái thành phố đồ sộ này, tìm đâu mà chẳng ra một chỗ để
nương náu tấm thân. Tôi kiếm, tôi ra kiếm mãi. Nhà cửa, đường sá và bờ bãi thì
rộng thực, nhưng tìm một chỗ nương thân không phải dễ. Khắp nơi nơi, chỗ nào
cũng đông nghịt. Có lẽ trên ván có bao nhiêu người ngồi thì dưới gậm, trong xó,
cũng có gấp đôi từng ấy chuột.
Mãi sau, tôi cũng tìm được một nhà. Nhà này khá lắm, không ngờ
mà tôi lại khéo tìm như vậy.
Căn nhà hai tầng, tường vàng hoe, cửa chớp màu xanh nõn. Tôi
thong thả bước vào, mát mẻ, thánh mãnh lắm. Nhà ít người ở, mà lại rộng rãi,
nên tôi tha hồ sạo sục, chẳng một ai nhòm thấy. Nhưng có một điều lạ, không có
dấu vết một nhách chuột nào đã ở đây. Chẳng lẽ mà họ lại chưa tìm tới chỗ rộng
rãi này, trong khi ở những nơi khác phải từng đàn mấy chục mống chen chúc? Tôi
chạy nhoăn nhoắt hết nhà trên xuống nhà dưới. Tôi lại cố ý kêu lên mấy tiếng.
Chẳng có ai đáp lời.
Ra sân, vục mõm vào máng bể, tôi uống một ngụm nước lã. Nước
bám lên hai bên mép ria tôi. Tôi đứng rún rê, rung hai làn ria, ngẫm nghĩ.
- Cha chả là sướng! Chưa ai đặt chân đến chỗ này. Ta là kẻ đến
đây trước tiên. Tha hồ tung hoành. Đứa nào đến sau, phải vào hàng tôi tớ của
ta. Ta sẽ có biết bao nhiêu là bộ hạ.
Tôi lừng khừng bò vào. Tôi chui xuống gầm cầu thang, đánh một
giấc ngủ ngon lành.
Đến chiều, tôi thức dậy, bởi tiếng kèn hát kêu ọ ọ bên tai. À
ra bữa cơm chiều đã xong, nhà người ta đương mở máy kèn hát nghe chơi. Nhà này
chỉ có hai vợ chổng, hai đứa con và một anh bếp. Có con chó Ki Ki to bằng con
bê lúc nào cũng nằm chồm chỗm đầu hè. Tôi ở trong khe, trong ngách, dù có trông
thấy tôi, Ki Ki cũng chẳng làm gì tôi tốt.
Tiếng kèn hát vui quá. Có lẽ tôi cũng bò ra nghe chơi. Nhưng
bụng tôi đã đoi đói. Tôi nghĩ mình cần phải ăn. Giờ ăn của người xong, bây giờ
là giờ ăn của tôi. Tôi đủng đỉnh xuống bếp. Còn cái gì tôi chén tuốt. Có ai vào
đây nữa, mà ăn tranh. Con Ki Ki đã có phần của Ki Ki. Chỉ một mẩu bánh, một miếng
thịt là đủ bữa ăn ngon của tôi.
Tôi vào bếp. Ồ, cái bếp lạ dữ! Một căn buồng vuông vắn, chiếc
ống khói cao ngút và một cái tủ vuông chằng thép mắt cáo. Trong tủ, treo lủng lẳng
mấy miếng thịt bò, lăn lóc mấy cái củ đậu. Ngoài ra, trên gạch, trên tường, sạch
như lau, không một thứ khả dĩ có thể bỏ vào miệng được. Tôi tìm đến chậu nước
vo gạo. Nước vo gạo không có một giọt. Mà thùng đựng rác thì tịnh chẳng thấy
đâu.
Tôi đành ôm bụng móp, mò lên nhà trên. Lại đánh mấy ngụm nước
lã, rồi ngủ kềnh ở một xó gậm thang gác. Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm. Tôi
đánh hơi được một mùi lạ lùng ghê gớm. Hai cánh mũi tôi nở hếch. Cả những chiếc
răng nhọn cũng thò ra. Tôi hít vào những hơi thực dài. Ra đó là mùi thịt bò xào
hành tày. Thịt bò xào hành tây thì thơm hết nói, thơm điếc cả mũi. Tôi muốn nhảy
ngay xuống bếp. Nhưng vừa thoáng có con Ki Ki đi qua ngoài thang gác, tôi phải
đứng nán lại. Ki Ki ra ngay ngoài đầu thang, nằm ịch xuống ngủ gối đầu vào hai
chân trước. Hết lối ra của tôi. ức quá, tôi lầm bầm rủa nó. Nhưng sau tôi cũng
tìm được một lối khác trèo xuống bếp. Tôi thấy anh bếp vẫn đương khua hai đầu
đũa vào chảo thịt. Khói thơm bốc ngạt ngào. Tôi cứ đứng trong xó mà hít bằng
mũi, hít bằng mõm và muốn hít cả bằng mắt, bằng tai nữa. Chẳng bao lâu, anh bếp
xào xáo đã xong. Anh đổ thịt vào một cái đĩa to rồi bưng lên buồng ăn trên gác.
Trước khi bưng đĩa thịt lên, anh đem bỏ cái chảo ra ngoài vòi nước máy, vặn vòi
nước chảy xuống ồ ồ. Không nhẽ tôi lại đi theo anh lên buồng ăn. Có phải người
ta làm cho tôi nhắm đâu mà tôi dám đi theo. Cái khôn ngoan của tôi, nếu tôi hiểu,
là phải đứng nguyên dưới bếp, đợi khi anh mang đĩa thịt xuống, còn miếng nào
tôi chén miếng ấy. Tôi đứng yên mà đợi anh bếp.
Chàng đã xuống, hai tay bưng khư khư cái đĩa. Tôi mừng quýnh,
suýt nữa kêu bật ra thành tiếng. Nhưng cái đĩa chỉ còn là cái đĩa không. Một
chút nước mỡ, anh ta cũng ngửa cổ liếm sạch. Rồi rửa bát, cất bát vào chạn.
Xét ra, ở trong cái nhà này, cái gì có thể ăn được, họ đều
cho vào cái chạn chăng lưới mắt cáo khóa tách lại. Tôi mất đường làm ăn! Nhà
này không có vại gạo, không có chĩnh nước mắm, không có những đồ bếp núc như mọi
nhà khác. Thực ra, tôi cũng chỉ mới biết được có cái nhà của anh chị tôi ở, từ
tâm bé tới giờ.
Tôi lại bị đói một bữa nữa. Tôi vốn háu đói. Mới chỉ đói thế
vậy, mà đã nôn nao, choáng váng cả người. Đói, lại uống nước lã, lại ngủ. Ngủ
cũng là cách để quên đói. Nhưng đói quá, rồi cũng không thể nhắm mắt mà ngủ được.
Hai mắt tôi thao láo. Uống mãi nước lã, bụng xót như cào. Cứ thế, liền ba bốn
ngày không bói được vật nhỏ gì bỏ vào miệng.
Cho đến ngày thứ tư, tôi đành phải bỏ đi. Tiếc căn nhà rộng
rãi, kín đáo, ngăn nắp quá. Nhà đẹp, nhưng không có cái ăn, cũng chẳng thể ở được.
Tôi chui xuống công, lủi thủi. Khốn nạn, còn mấy nả hơi sức
mà chẳng bò lủi thủi. Bốn năm ngày nhịn đói. Bụng tôi tóp xuống, giơ hai hàng
xương sườn. Tai tôi rụng trắng cả da. Bò được một quãng xa, tôi vừa đứng lại
nghỉ, thì đụng đầu với một gã chuột. Anh này cũng trạc tuổi tôi, nhưng béo mập
đến cả đuôi. Anh ta hỏi tôi :
- Đi đâu mà cử rử vậy?
Tôi không trả lời, chỉ dùng đuôi mà trỏ vào căn nhà hai tầng
phía sau lưng. Anh ta cười ha hả :
- Nhịn đói phỏng?
Tôi gật.
- Mấy ngày rồi?
- Bốn.
- Dáng hẳn đằng ấy ở vùng khác đến?
Tôi gật.
- Thảo nào. Vùng này, ai còn lạ cái nhà đó. Nhà gạch, mái
ngói nhưng không thể xơ múi gì.
- Tại sao thế?
- Họ ăn com tây chứ sao! Không có gạo. Không có nước mắm.
Nghĩa là không có thứ gì ta lấy được. Ở đấy thì chỉ chết đói nhăn răng ra.
- Tôi không ngờ...
- Cũng nên ngờ một chút chứ. Đằng ấy tính, cái nhà gạch đẹp đẽ
thế kia, làm sao mà cánh ta không có ai đến ở? Ắt cũng vì cớ gì chớ? Thôi, tôi
kkuyên bác, từ giờ có đi kiếm ăn, đừng bén mảng vào những cửa nhà giầu mà nguy
hiểm.
Bỗng nhiên, tôi run rẩy khắp người.
- Sao thế?
- Không... hề... gi...
- Nóng lạnh phỏng?
- Không...
- A, bệnh đói rồi. Để tôi cho một miếng.
Nói xong, anh ta chạy miết. Một chốc, anh tha đến cho tôi nửa
quả chuối tây. Tôi ngoạm đâu có độ ba miếng, hết nhẵn thì cũng tan cơn run rẩy,
dạ đã nguôi nguôi.
- Thưa, tên anh là gì?
- Họ kêu tôi là Chuột Lốc, bởi tôi béo tròn lông lốc.
- Ơn này, không bao giờ dám quên. Em mong có ngày tái ngộ.
Chuột Lốc cười :
- Có hề gì. Anh em giúp nhau là sự thường.
IV
Tôi đã tìm được một chỗ ở mới. Nơi này khác nơi trước, tôi đã
biết sợ những cửa cao nhà rộng rồi. Bây giờ tôi mò tới một cái ngõ hơi lầy lội.
Tôi nghĩ: đất này ắt có thể dung thân. Tôi vào núp ở một căn nhà trong ngõ.
Địa thế nơi ấy phức tạp. Nhưng đứng ngắm nghía một lúc, cũng
có thể nhận được. Đó là một căn dài, chia từng gian một. Một con đường đi vào,
rác rưởi nhớp nháp. Tôi đi qua các cửa sau, nghe nhà nào cũng lích rích tiếng
chuột và trông thấy lủng củng những mẩu đuôi thò ra ở các khe chạn. Đông quá.
Tôi đã ngán, tưởng có lẽ mình không còn chỗ để ních đủ một bàn chân vào. Nhưng
may sao, trong số những gian nhà này cũng có một gian không có tiếng chuột kêu
và không trông thấy đuôi chuột ngoe nguẩy. Tôi vào.
Quả nhiên là nhà vắng. Cũng văng vẳng đâu tiếng chuột lích
rích tận sau nhà. Như vậy, có thể biết trước rằng chỗ này có thể kiếm cách sinh
nhai. Thú thực, kể ra giá có cố bò đi nơi khác cũng đã mỏi cẳng lắm. Đành ở lại,
muốn sao thì sao.
Chiều hôm ấy, một trận mưa lớn giáng xuống. Nước mưa xối mạnh
như nước lũ, chảy cuồn cuộn trong ngõ. Bấy giờ đương là mùa mưa, ở Sài Gòn, thường
có những trận mưa dữ như vậy. Nước như đổ từng chậu nước xuống đầu. Chuột tôi nằm
he hé cặp mắt, nghe mưa đều đều. Tuy không có cái tâm hồn khác đời, để nghe mưa
với một thú vị riêng, nhưng tôi cũng nghĩ rằng trời mưa thi dễ ngủ. Tôi ngủ một
giấc li bì trong tiếng mưa ồ ạt.
Tôi chợt bừng mắt. Nước lạnh ở đâu xói vào lưng. Chưa kịp
ngóc đầu, nước dội luôn vào tai. Trời, sao thế này? Xung quanh tôi, nước dâng
lên mênh mông. Mẹ ơi, lụt rồi. Mà lụt ở trong nhà. Nước ngoài phía cửa tuôn vào
ồ ồ. Trời đã tối. Trong nhà mờ mịt, không trông rõ gì cả. Trên chiếc giường giữa
nhà, nghe có tiếng ngáy kho kho. Dáng hẳn chủ nhà đã ngủ. Tôi không thể trù trừ
nán lại được. Những đồ đạc nhẹ trong nhà như guốc, như chổi đã bắt đầu trôi
loanh quanh, đụng cả vào bụng tôi. Mà nước óc ách vào hai bên tai tôi rồi. Đứng
lại đây, chết đuối mất. Tôi co bốn cẳng, bơi lờ lờ đi. Nước lạnh thấm vào người,
rét quá. Tôi phải tìm một cái gì đê leo lên. Bốn phía những nước. Nước đánh
sóng vào bốn bề tường, như tiếng ếch kêu. Tôi vẫn chưa bíu được vào đâu. Tôi
leo lên một chiếc guốc, mảnh guốc lộn đi, hất trả tôi xuống nước. Mãi sau, tôi
chui lên được một cái bục gỗ.
Vừa lên tới nơi, tôi cụng đầu vào một gã chuột. Tuy trời tối,
nhưng tôi quắc mắt, cũng trông thấy rõ. Gã chuột đã đứng tuổi, mình gầy như cái
que nứa, đuôi tuột hết cả lông.
Tôi hỏi :
- Bác ở nhà này?
Gã thưa :
- Vâng.
- Ở một mình?
- Trước có cả vợ và con tôi.
- Bây giờ ở đâu?
- Ở đây đói quá, vợ con tôi bồng nhau đi nơi khác rồi.
- Khổ mà bác cũng cứ ở?
- Đành vậy, chứ biết tính sao. Tôi ốm yếu, không đi được xa.
Bác là người đâu ta?
- Tôi ở trên kia, xa lắm.
- Bác xuống làm ăn ở đây?
- Tôi cũng định thế. Bác bảo ở đây khổ sở là nghĩa thế nào?
- Bác muốn biết, thì cứ ở đây ít bữa. Còn bây giờ tôi buồn ngủ
lắm.
Nói xong, chuột nhắm mắt và ngủ ngay tức thì. Tôi đứng đơ ra,
rồi luẩn quẩn, cũng nằm phục xuống, gậm nhấm, vuốt lông cho đỡ ướt. Rồi cũng chợp
mắt lúc nào.
° ° °
Sáng hôm sau, mặt trời vừa ló ánh sáng vào đầu tường, nước ở
trong nhà đã rút cạn hết. Trên nền gạch, đó đây ngổn ngang mấy chiếc guốc bơ
vơ. Gã chuột gầy đã đi đâu mất, không biết. Tôi bắt đầu cuộc dò xét trong nhà.
Nhà vắng. Chủ nhà đã vác xe đạp đi đâu từ sáng sớm. Giữa gian
buồng, có một cái giường nhỏ. Bên cạnh một chiếc tủ cao khóa kín. Gần đấy, một
cái mắc áo, trên tường có một bức địa đồ. Dưới đất, xê cửa, một chiếc bàn con
con, trên để mươi thứ lặt vặt và lủng củng mấy đôi giầy vải. Trong nhà, chỉ có
thế. Không thể tìm ra một vật gì hơn nữa. Chĩnh gạo không. Chai nước mắm không.
Đến mấy ông vua bếp cũng không có nốt. Chăng hiểu chủ nhà này họ sống ra sao?
Quái thực.
Tôi lần ra bãi cỏ, phía cửa sau, thấy gã chuột gầy đương đứng
ngẩn ngơ, vêu mõm, nhìn xuống rãnh. Anh ta vừa nói vừa khóc :
- Bác ấy ơi! Đêm hôm qua, tôi mất một người anh em họ...
hi... hi... Chú Chuột Chù nhà tôi...
- Chú ta đi đâu?
- Chết đuối. Nước lụt vào nhà, chết rồi.
Chuột Chù không biết leo, phải nước ngập mà chết, có lý lắm.
Tôi khuyên anh chuột gầy không nên khóc nữa.
- Chết rồi, khóc cũng bằng thừa.
- Từ đây mà đi, một mình tôi thui thủi trong cái nhà này...
- Có tôi nữa chứ!
Anh ta ngước mắt nhìn tôi, hơi ngạc nhiên :
- Bác bằng lòng sống ở đây?
- Chúng ta nhận nhau làm anh em, ở chung cho vui nhà.
- Ở đây khổ lắm.
- Chả mùi gì. Tôi chịu khổ đã quen. Bây giờ bác dẫn tôi đi kiếm
cái ăn. Tới giờ ăn rồi.
Gà dẫn tôi đi. Gã gầy lắm, lại thọt một chân sau.
- Tôi có tật từ khi mới sinh. Bởi vậy, tôi biệt hiệu là Chuột
Thọt.
Chuột Thọt tập tễnh đưa tôi đến cái bàn nhỏ, bảo tôi cùng leo
qua mặt bàn. Tôi leo. Mặt bàn có một cái đĩa trong đựng một bánh sà boong. Tôi
hỏi :
- Thức ăn đâu?
- Đó.
- Bánh sà boong này a?
- Phải chớ.
- Mẹ ơi! Ai lại ăn sà boong!
- Hai năm nay, tôi chỉ ăn sà boong.
- Hèn chi, anh gầy như con mắm. Sà boong để giặt quần áo, ăn
vào bụng, nó nạo ruột nạo gan ra, có mà chết toi.
- Ăn mãi cũng quen. Vả lại, ở đây chỉ có một thức này để ăn.
Tôi chưa biết thịt là gì cả.
Rồi anh cắm đầu xuống miếng sà boong. Hai chân gãi gãi, mõm
húc húc, nhai nhỏ nhẻ từng ít một. Tôi cười bảo Chuột Thọt :
- Anh đừng ăn nhảm nhí vậy nữa. Rồi tôi kiếm gạo kiếm thịt
cho anh cùng chén.
Nhưng gã cũng đã chén xong bữa sà boong hắc nhức mũi. Tôi đi
kiếm. Nhưng trong nhà không có một thức gì ăn, ngoài bánh sà boong đó. Tôi hỏi
:
- Vậy chủ nhà ăn gì?
- Họ không ăn cơm đây. Chỗ này chỉ là chỗ nằm ngủ.
Mò mãi không ra một thức gì ăn, tôi cũng phải húc mõm ăn sà
boong, cắn miếng sà boong vào miệng, khó ăn thì ít - vì tôi đã quá đói - mà ngượng
với anh Chuột Thọt nhiều. Đã trót khoác lác với anh. Sà boong đắng quá mà tôi
cũng xơi được đúng một nửa. Thấy thế, Chuột Thọt sợ, bảo :
- Chết tôi rồi! Ăn lắm thế này, người ta biết.
- Sợ quái gì?
- Rồi người ta cất đi thì mất ăn.
Nhưng mà đói thì không đừng được. Tôi ăn khỏe gấp mấy Chuột
Thọt. Buổi chiều, tôi lại đánh hết một góc bánh sà boong, mặc dầu buồn nôn quá
và bụng tôi cứ sôi lên ùng ục. Bánh sà boong to, bây giờ chỉ còn như một quả
cau. Chuột Thọt sợ xanh mắt, run từ râu xuống đuôi. Hôm sau, chủ nhà, buổi sáng
rửa mặt, nhìn đến bánh sà boong. Chủ nhà là một chàng trẻ tuổi, đi làm cho một
xưởng máy. Chàng ngắm nghía bánh sà boong có những vết chân, vết răng chuột.
Chàng cau mặt, lẩm bẩm :
- À, mấy con chuột nhãi! Phải cất sà boong vào tủ mới được.
Lập tức, chàng ta bỏ bánh sà boong vào tủ và khóa tách lại.
Tôi nghe tiếng anh Chuột Thọt tấm tức khóc dưới gậm giường. Chắc anh oán tôi lắm.
Mọi khi có một mình anh ăn - anh lại ăn yếu - nên chẳng thấm thía vào đâu. Tôi
nhá hai bữa thì bằng anh rỉ rả mười bữa lọn. Chao ôi, khổ anh chuột tàn tật
này. Tôi lại tìm lời an ủi anh. Và để an ủi cả tôi nữa. Vì tôi cũng đương lo lắng
về vấn đề ăn không kém gì anh ta. Các nhà bên hàng xóm cũng đông chuột lắm. Và
xem chừng cũng nghèo khổ, bữa no bữa đói như nhau. Vì dường như xóm này là xóm
của những người đi làm, không mấy ai ăn cơm nhà.
Chúng tôi bắt đầu nhịn đói. Đêm đến, nghe tiếng anh bạn nhai
giấy ken két. Bỗng dưng, tôi ở đâu mò đến đây để làm khổ anh. Một đêm, tôi gọi
Chuột Thọt :
- Đi theo tôi.
- Đi đâu?
- Ăn.
Anh theo tôi liền. Xuống dưới gậm bàn, tôi nhìn đôi giầy, nói
:
- Những cái này ăn được. Còn ngon hơn giấy.
Tôi ngậm chiếc dây giầy. Có đoạn tôi nuốt chửng. Đoạn thì tôi
nhả ra cho anh bạn ăn. Ăn dây giầy chẳng khác ăn đất. Vậy mà chúng tôi cứ nhấm,
cứ nhai lấy được. Song dù sao cũng có vị hơn giấy vụn. Chúng tôi đỡ đói được một
phần ngày.
Nhưng, sự đỡ đói trong một lúc lại làm hại chủng tôi nhiều,
mà lúc ăn chiếc dây giầy nhạt nhẽo, tôi không nghĩ tới. Sáng hôm sau anh chàng
chủ nhà trở dậy đi làm, vớ giầy để đi, thấy đứt mất một chiếc dây. Chàng ta cau
mặt, lẩm bẩm "Chắc, lại chuột!". Nhưng chàng vẫn xỏ đôi giầy đứt dây
vào chân, rồi đóng cửa lại, đạp xe đi làm như thường.
Ở nhà, chúng tôi lại đói. Bởi vậy, lẽ cố nhiên chúng tôi lôi
đôi giầy vải trắng ra gậm. Chúng tôi vật giầy ra cắn rách toạc mép một chiếc.
Chẳng may, chiều về anh chủ nhà biết ngay. Anh ta gầm lên :
- Lại chuột! Chuột làm hại tôi!
Rồi anh cất cả hai đôi giầy vào tủ, khóa lại. Thôi thế là
xong.
Đứng trong gậm, chúng tôi nhìn nhau, ngao ngán. Chúng tôi biết,
nếu những đôi giầy cứu tinh đó bị cất đi, không thể còn một cái gì mà ăn cho đỡ
đói lòng được nữa.
° ° °
Anh Chuột Thọt lại khóc ti ti. Tôi yên lặng nghĩ một mưu kế
mà chẳng ra mưu kế gì. Đó là cái cách của chúng tôi, hai ngày sau khi chủ nhà cất
đôi giầy. Rồi tôi đi cầu cứu các bạn láng giềng. Nhưng ông nào, bà nào cũng
nghèo mướp, lo kiếm cơm cho đàn con đông chưa đủ, thừa của đâu mà giúp cho ai
được.
Tôi bảo Chuột Thọt :
- Ta phải bỏ cái nhà này, đi nơi khác. Trời đất rộng rãi bao
la, chẳng nên chỉ rúc xó nhà mà chịu đói.
Chuột Thọt bùi ngùi :
- Một mình anh đi thôi.
Anh giơ cái chân tập tễnh lên. Tôi hăng hái :
- Anh cứ cố đi. Anh cứ tin rằng có thể đi thì đi được. Chúng
ta đi ngay chiều nay. Nếu trì hoãn tới sáng mai, thì đến đói lả đi mất.
Tôi còn khuyến khích Chuột Thọt nhiều câu nữa. Bùi tai và hứng
chí, Thọt cũng bằng lòng. Ngay chiều đó, chúng tôi đi.
Đi được một quãng, Chuột Thọt rên la ầm ĩ. Bởi cái chân đau
không thể bước được. Chuột khóc :
- Chết đói thì chết, tôi đành quay trở lại. Chân tôi đau thế
này, không thể đi được nữa.
Chuột Thọt trở về. Tôi đứng trông theo cái bóng thất thểu cho
tới khi khuất hẳn, mới lừng khừng đi. Từ đấy, không còn có lần nào gặp nữa.
Không biết anh ta làm sao mà sống được, hay chỉ ngắc ngoải được vài hôm.
V
Tôi còn trải qua trăm cay nghìn đắng, nỗi cơ cực này đè lên nỗi
cơ cực kia. Có khi nhịn ăn tới năm bữa. Có khi đói luôn hai ngày. Thế rồi cũng
quen. Ra ai cũng sống vì thói quen. Và sở dĩ nên quen được cũng do một đức tính
mà tôi đã luyện cho có được, trong bước đường gian nan. Đó là sự kiên gan không
nản chí. Bởi nếu không, kiên gan, nếu nản chí, chắc tôi đã quay về với anh
trai, chị dâu tôi từ lâu, cho được sự no thân ấm cật. Nhưng không, tôi đã nghĩ
trái lại. Tôi cứ đi. Thôi kể chi nỗi khổ sở dọc đường, làm sao chỉ vài dòng mà
hết được gian truân.
Trong đoạn đường đã trải qua, chỉ một việc nhỏ này, cũng đủ
khiến bạn đọc có thể phải kinh hãi. Bữa ấy, tôi ngủ ở một nhà đầu phố. Chẳng
may, lại trọ phải một nhà toàn chuột giặc, chuột kẻ cướp. Nghĩa là chúng nó
chuyên phá hại của người ta. cắn quần, cắn áo. Cái gì cũng tha. Cái gì cũng gặm.
Thậm chí, chúng đùa nhau, nhảy qua cả ngực người ta đương nằm ngủ. Rồi khi buồn
răng, muốn gặm nhấm, chúng lẩn thẩn kéo ra gặm cả chân những người đương nằm.
Người ta triệt chúng bằng mọi cách. Nuôi mèo. Bỏ bả, giăng bẫy không vào. Còn hễ
trông thấy bác mèo dữ, chúng trốn biệt. Nhưng không phải đi hẳn. Lúc nào trời đất
thái bình chúng lại trở về như thường.
Tôi trọ, đúng vào cái đêm người ta sửa soạn một cuộc đánh đuổi
chúng kịch liệt. Nghe tiếng ầm ầm. Rồi tiếng chí chí. Chuột bị khua ở các khe
nhà, chạy ra hàng đàn. Những ánh đèn rọi theo. Các cửa ngõ đều khép chặt. Chí
nguy. Song, chỉ một loáng, lũ chuột ranh đã tẩu thoát, một cách rất nhẹn. Không
một con nào bị chết vì một ngọn roi, vì một cán dao. Chúng đã khoét cái ngách
riêng, dù bít hết cửa, cũng có thể chuồn được.
Tôi luống cuống. Tôi luýnh quýnh. Những ngọn roi của người đập
vun vút xuống xung quanh tôi. Tôi đã tưởng phen này thì chết oan. Trong lúc hỗn
loạn, tôi nghe tiếng chí chí ở đâu khe cửa bên cạnh. Tôi nhảy phóc một cái.
Vút, một ngọn roi sắt trượt từ lưng tôi xuống. Tôi đau nhói.
Nhưng tôi cũng thoát và ngã xoài ra ngoài cửa. Tôi bò dậy, chạy miết, quên cả
hình như mình bị thương. Mãi đến khi tôi ngoái lại, mới biết đuôi mình bị ngọn
roi giáng xuống xé rách một mẩu. Máu chảy loe loét. Tôi đau thì ít, mà lo lắng
thì nhiều. Nhưng lũ chuột vô hạnh kia cứ rởn tôi hoài. Chúng coi sự đau đớn của
ai khác là một trò đùa. Bởi chúng đùa với cái chết cũng đã quen. Chúng hô :
- Đặt tên cho anh này là thằng Chuột Cộc.
- Chí chí chí!
Tôi đấy, biệt hiệu mới của tôi là Chuột Cộc. Tôi mỉm cười. Tôi
nghĩ có cái biệt hiệu như vậy, cũng hay hay. Nó gợi mãi cho ta một kỷ niệm.
Ngay đêm hôm xảy ra cái tai nạn khiến cho tôi bị cộc đuôi, tôi chia tay với bọn
chuột nghịch ngợm kia. Ở đấy có khi chết oan.
Tôi đi luẩn quẩn trong các cống ngầm của thành phố. Những ngõ
cống của thành phố này dài thăm thẳm, sâu hun hút, không bao giờ cùng đường.
Tôi chịu khó lội trong bùn lầy. Nhưng cũng do những nơi bùn lội bẩn thỉu đó mà
tôi lùng được một vài thức ăn, những mẩu xương, mẩu bánh gậm cho đỡ đói lòng.
Một ngày kia, tôi tìm được một chỗ ở tốt. Nơi này là một xóm
lao động. Mà xung quanh có những đầm nước và công rãnh lầy lội. Tôi đã biết sợ
những căn nhà có cái vỏ sang trọng rồi. Bởi vậy, tôi lần đến những nơi nghèo,
có đàn bà và có trẻ con ở. Ở những nơi này mới có những vại nước, có chạn thức
ăn, có những hạt cơm quăng vãi.
Nơi tôi tìm đến, trước tôi tới, chỉ có vài mống chuột. Cuộc sống
êm đềm thong dong. Các bạn tiếp đón tôi rất niềm nở. Tôi kết thân ngay. Một đống
cơm nguội thay cho cái lễ gặp mặt. Mấy anh em ăn uống hể hả.
Cuộc đời tôi, đến quãng này, cũng tạm là êm đềm.
VI
Không những êm đềm, tôi lại còn được nên danh giá nữa. Xóm
nhà lá ấy, chỉ có đúng năm mông chuột. Cả năm mông đều hiền lành, xưa nay không
biết sinh sự với ai bao giờ. Tôi có vẻ hoạt bát, lanh lợi và khỏe mạnh là khác.
Bởi vậy, họ phục tôi lắm. Sau khi giao thiệp qua loa, họ đã biết tôi ít ra cũng
là một tay hảo hớn chi đây. Họ có ý muốn tôn tôi làm trưởng thôn. Tôi phải bảo
:
- Đừng làm thế. Tôi đây, đối sức ra ngoài thiên hạ chưa đáng
kể mùi gì. Xin anh em, có lòng yêu cho được ở đây cùng quây quần giúp đỡ lẫn
nhau.
Họ cũng nghe, nhưng không nghe hẳn. Họ quyết tôn tôi làm anh
cả, nghĩa là tay đầu đàn. Tôi phải bằng lòng vậy. Nghĩa là từ đây, tôi là anh
Hai - nói theo lối Sài Gòn. Còn các chú chuột kia, cứ thứ tự mà gọi, anh hai, rồi
anh ba, cho tới út. Sáu anh em ở trong một khu nhà lá rộng, tha hồ đi kiếm mồi,
chẳng ai dòm ngó tới. Người ta, những người chủ nhà, thì không làm hại đến
chúng tôi. Bởi chúng tôi biết điều. Chúng tôi chẳng ăn uống vụng trộm gi đến
quá miệng để người ta phải lên tiếng than phiền, kêu ca. Chúng tôi chỉ ăn cho vừa
đủ no bụng thì thôi. Đất này, người hiếm, của nhiều, không ai phải đến nỗi khổ
sở bởi miếng ăn ngụm uống.
Chúng tôi sống trong cảnh Bồng Lai. Ngày tháng êm đềm trôi
đi. Ngày lại ngày.
Chao ôi! Có thể bình yên như thế mãi? Nhưng cuộc đời không chỉ
dễ như ta kể chuyện, đặt thế nào nên thế ấy.
Tôi không nhớ hôm ấy là sau cái ngày tôi tới đây được bao
nhiêu lâu. Chú Tư hớt hải báo tin :
- Có một đứa vào nhà.
- Có quen mặt không?
- Chưa trông thấy bao giờ. Nó đương lẩn vẩn ngoài bậu cửa,
coi bộ ngơ ngác lắm, anh ra coi...
Tôi chạy ra. Có một gã chuột lạ thực. Gã chuột cũng trạc tuổi
tôi và khổ người như tôi. Có điều cái mõm anh vuông bè bè, lông trên mình nhỏ, ngắn
và lưa thưa. Cái đuôi cũng hơi ngắn. Tôi cất tiếng hỏi :
- Bác kia, đi đâu?
- Tôi đi chơi lạc vào đây.
Rồi gã cúi hai chân trước, vuốt râu chào mà quay ra. Chúng
tôi cũng trịnh trọng đáp lễ và khen với nhau rằng con người ấy lịch sự, nho
nhã.
Mươi hôm sau, tôi đương nhằn mấy hạt thóc ở đằng sau nhà, bỗng
chú ba và chú tư, hốt hoảng chạy vào.
- Chí nguy! Chí nguy!
- Có việc gì đó?
- Anh ơi! Đương đánh nhau to ở ngoài kia!
- Mấy đứa?
- Hai.
- Đừng hốt hoảng!
- Nhưng chúng nó khỏe lắm
Tôi lật đật ra. Đến nơi, thì hai con chuột lạ đã bị bại trận
mà chạy xa rồi. Ba anh chuột nhà đánh hăng quá, mồ hôi toát đầm đìa. Câu chuyện
đầu đuôi thế này:
Hai nhách chuột lạ lò dò vào trong nhà. Hai con chuột này
cũng hình dáng như hai con chuột bữa nọ, mõm vuông và lông thưa, đuôi ngắn.
Chúng chỉ hình dáng nho nhã mà rất bướng. Hỏi đi đâu? Chúng đáp: đi chơi. Lại hỏi:
Đi chơi sao dám dò dẫm vào tận đây? Chúng gân cổ lên, đáp rằng chỗ nào cũng là
đất của trời sinh ra, đâu cũng đi được. Chúng đáp xằng như vậy có khác gì chẹn
gạch vào họng? Có mà chúng tôi đả liền. Hai thằng kẻ cướp, không thể địch lại với
ba anh em chúng tôi.
Quả nhiên rồi bọn chuột kéo đến đông thực. Không phải hai tên
thua, mà vô số chuột của cánh chúng nó rầm rộ đến. Con nào cũng như con nào,
mõm vuông và đuôi ngắn. Chúng xô vào trong cống, làm nhặng lên. Cả thẩy có độ
hơn một chục con. Có một con đầu đàn, lớn tiếng gọi chúng tôi. Chúng tôi ra,
tôi đi đầu. Con chuột đầu đàn gật gù định nói, tôi đã nhận ra tên chuột mõm
vuông vờ lạc đường hôm đầu tiên. Tôi lên tiếng trước :
- Chúng bay vô cớ đến đất của anh em ta, lại còn sinh sự đánh
nhau, thiệt là to gan. Có muốn sống thì bước ngay.
- Chúng ta đến đây không có chủ ý đánh nhau đánh nhiếc gì hết.
Chỗ này rộng rãi quá, mát mẻ quá. Anh em hãy cho chúng tớ đến ở chung.
Tôi quát :
- Những quân năm cha ba mẹ kia, cút ngay đi, không có thì tan
xương bây giờ. Nhà ta ở không phải là cái lều hoang.
Chúng đáp rất vênh :
- Đã đến thì không đi.
Chúng tôi kêu :
- Cút đi! Cút đi!
Biết không thể điều đình được, nhưng bọn kia cũng không chịu
lùi bước. Chẳng những thế, chúng lại còn hò nhau xông vào đánh. Chúng tôi quần
chúng nó một trận mê tơi. Tuy ít, nhưng cánh tôi lợi thế hơn. Đường vào trong
nhà, có mỗi một cái ống nhỏ năm anh em tôi chắn ngay đó. Rút cục, chỉ bùn rãnh
bắn tứ tung, tất cả lấm như vùi.
Song quả chúng là những tay can trường. Chúng tôi nhờ cái cửa
cống hẹp, chỉ thò nửa mõm ra, giơ hai chân trước lên, đã đủ chơi với bọn hung
hăng. Chúng tôi đâm ra khinh chiến. Nhưng phàm cái gì cứ coi thường, hay bị quật
lại đáo để. Chúng tôi gặp đúng như vậy. Trong bọn kia, có đứa ranh mánh, luồn
theo mép cống vào tìm được khe hở ở một chỗ nối hai khúc cống. Chúng đã đánh tập
hậu bất ngờ.
Chúng tôi thua trận, bị mất đường ra cái cống. Bọn ăn cướp,
đã có chỗ tạm ở. Nhưng chỉ ở trong cống. Khi tới bữa nấu ăn, người ta đổ nước
xuống cống, chúng nó ướt nhẵn từ đầu đến chấm đuôi. Ấy là, cũng chưa kể, nếu trời
đổ mưa, nước tràn cống, nếu không ngoi ra, chắc phải chết đuối cả lũ. Chúng tôi
cầu trời mưa. Chúng tôi cầu trời mưa to. Nhưng nắng chang chang, búng trời cũng
không rơi được một giọt nước xuống.
VII
Cố nhiên, trời không thể mưa theo ý muốn của chúng tôi, dù rằng
độ ấy đương mùa mưa. Một buổi chiều, tôi đương gặm mấy hạt ngô, chợt nghe tiếng
lục cục đầu công, lố nhố mấy bóng đen. Chúng nó. Nhưng chúng không xông tới như
mọi khi. Chúng đứng nấp sau những tảng gạch, nói chõ vào :
- Ra đây nói chuyện phải trái.
- Cho chúng tao vào đấy.
Tôi đáp :
- Bay cũng khôn đấy. Ta đã biết tại sao bay kéo vào đây. Ta
biết rồi. Mấy bữa nay trời u ám. Ngày mai, ngày kia, thế nào cũng có mưa lớn.
Mưa lớn chúng bay sẽ trôi ra sông, chết mất xác hết.
Tôi đã nói một câu trúng tim họ. Không dừng được, một tên nói
:
- Không phải vì trời sắp mưa.
Tôi gạt phắt :
- Vậy thì lại đánh nhau.
Sợi dây căng đến độ đứt. Chúng tôi xô ra.
Cuộc chiến lần này thật dử dội. Bởi một bên thì cố thủ. Một
bên thì liều đánh.
Cuộc chiến càng tăng độ nóng. Tôi đánh dụi xuống được một
tên. Bị thương, nó không leo lên được nữa, cứ nằm dưới cống kêu choe chóe.
Chẳng may cho anh em tôi. Chú Năm, chú Sáu lớ quớ bị ngã. Chú
út thì chết, chú Năm phải nhuôi người ra, giả cách hết thở, mới thoát chết.
Chúng tôi, vừa đánh vừa lùi, lùi mãi vào đến cửa buồng, chúng tôi giữ thế thủ
trong khe cửa. Nhưng chúng cũng không tiến thêm. Bởi, vào được trong nhà là thắng
trận rồi, huống hồ chúng lại đã dồn chúng tôi vào buồng. Chúng tôi ôm nhau,
khóc chú Út đã tử trận, xác nằm phơi ngoài đầu cống.
Tôi nói :
- Đứng khóc thế này, nước mắt không đánh chết kẻ địch được.
Tôi đã nghĩ được một kế. Tôi đi một lát. Thưa cùng bạn đọc
yêu quý, bạn thử đoan toi đi đâu? Đến lúc tôi trở về, bốn em reo đón. Tôi hô lớn
:
- Ta vào cả đây.
Tức thì, lũ lượt kéo vào một đàn chuột. Ai cũng đã nhận ra đấy
là các bạn láng giềng bên phía tây.
Anh em hăng hái quá, toan xô cả ra đánh nhau ngay. Tôi phải cản
lại. Tôi nói :
- Chẳng nên ra bây giờ. Đợi khuya một chút, chúng ta đánh bất
ngờ, chắc được.
Chúng tôi nán đợi tới nửa đêm mới đổ ra. Tôi định bắt sống
vài đứa. Nhưng quả là những đứa lọc lõi trận mạc. Chúng tôi vừa ra, đã nghe tiếng
quát :
- Có động! Có động!
Cuộc quần thảo lần này ở giữa nhà, dưới gậm giường, không núp
ẩn chi hết. Choảng nhau bằng tất cả sức khỏe, chẳng nhờ khe vách hố tường được.
Giữa đêm, trong nhà yên tĩnh quá. Mọi người đã ngủ yên. Cái đồng hồ treo trên
tường vẫn còn thức. Nó đếm tích tắc tích tắc như cầm nhịp cho cuộc chiến của
chúng tôi. Nghe như hồi trống thúc quân, càng hăng hái. Bên địch đã bị ngả mấy
mạng. Chúng tôi càng hò hét tợn.
Nhưng sự yên tĩnh đã làm hại chúng tôi. Vì yên tĩnh quá, và
chúng tôi hò hét loạn xạ người ta thức giấc cả. Đánh nhau loạn xạ ở dưới đầu
người ta, làm gì chẳng thức giấc. Một người đàn ông mở mắt ra, lắng nghe. Đầu
tiên, tưởng kẻ trộm khoét ngạch. Nhưng sau, gã tặc lưỡi :
- À, chuột chạy.
Chuột chạy lục cục ngay dưới gậm giường, gã không ngủ lại được.
Gã trở dậy, cầm cái gậy và bật đèn điện. Ánh sáng vừa lóe, cả đôi bên trận mạc
bỏ chạy tan tác. Cho đến sáng, không dám ra tái chiến nữa.
Ở trong gậm phản, nhiều đêm sau còn xảy ra nhiều cuộc chiến kịch
liệt nữa, ầm ĩ, ỏm tỏi cả lên. Nhưng đều bất phân thắng bại. Bởi vì, lần nào
cũng thế, đương đả nhau hăng hái thì y như rằng có người trở dậy và người ta bật
đèn, cầm cái gậy. Chỉ một đầu gậy cũng đủ đập vỡ cả mặt trận đương hung hăng.
Một ngày kia, ở trong buồng văng vẳng vang lên một tiếng lạ lắm.
- Meo... Meo... Meo...
Nhà này mới đem về một lão mèo, một lão mèo mướp. Lão ta dạo
khắp quanh nhà, hai mắt sáng như hai hòn bi ve.
- Meo... Meo... Meo...
Chúng tôi chạy rối rít, cuống cuồng. Trong lúc hỗn loạn,
chúng tôi quáng quàng xô lẫn cả vào nhau. Chúng tôi chạy về phía cuối phố. Văng
vẳng sau lưng vẫn vang dội tiếng "meo meo" đuổi theo. Chúng tôi cắm cổ
chạy bán sống bán chết. Nhưng, đàn chuột mõm vuông kia đã mau chân, đã chạy trốn
lão mèo từ lúc nào. Khi chúng tôi tới căn nhà trú ẩn cuối phố, thì chúng đã vào
đó từ bao giờ. Chúng đẩy bọn tôi ra. Chúng tôi không thể vào được, đành ra
ngoài bụi cây trú.
VIII
Đêm ấy, ngoài bãi cỏ, bụi cây, chân một bức tường đổ, dọc
theo một cái rãnh ăn theo một căn nhà, có cuộc họp to của một phố chuột. Đây là
cuộc họp can hệ sống còn, đàn chuột vô lại nọ chiếm nhà đã gây nên, đã khiến cả
phố chuột tức giận. Huống hồ lại vì chúng gây chuyện khiến nhà người ta rước về
một lão mèo kếch xù.
Tất cả nhường tôi ngồi làm chủ tọa. Tôi từ chối, nhưng một
anh nói :
- Chuột Cộc phải ngồi lên. Bởi vì sự xung đột xảy ra ở nhà
anh trước. Anh biết rõ hơn ai hết đầu đuôi câu chuyện.
- Hàng phố ta, bao nhiêu năm nay, sống trong cảnh thái bình,
không hề xảy ra một cuộc cãi lộn nhỏ nào. Bỗng nhiên, có một lũ ở đâu đến, gây
rối ren. Chúng ta phải ghép chặt hàng ngũ, đi bắt sống chúng nó về đây hỏi tội
thì mới mong tìm lại được sự thái bình ngày xưa.
Cả mấy đàn chuột kéo ngay vào khu nhà, giữa đêm tối mù mịt.
Chúng tôi lặng lẽ đi sát mặt đất, lổm ngổm như những củ khoai biết bò. Đã trông
thấy lấp ló mấy kẻ địch chạy thậm thọt phía bên trong. Thế là cuộc vây đánh bắt
đầu.
Cuộc chiến không có gì khó khăn. Bởi chúng tôi đông. Cuộc thắng
nghiêng ngay về chúng tôi. Chúng chết luôn mấy mạng, hoảng quá, còn lại bao
nhiêu, ba chân bốn cẳng chạy. Chúng tôi không đuổi theo, và cũng không chiếm cứ
khu đất của chúng. Binh tướng rút lui, đợi bận sau lại đánh nữa. Quyết đánh bao
giờ chết đến tên thủ chỏm mới thôi.
Một đêm, chúng tôi lại tới bao vây khu nhà. Nhưng lạ thay,
chúng tôi vào tận giữa nhà, sục sạo mọi chỗ mà không thấy mõm mũi một tên nào.
Mấy cái xác chuột chết nằm còng queo, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Chúng tôi
còn đương ngạc nhiên, bỗng nghe tiếng chí chí ở ngoài rồi một gã chuột chạy tọt
ngay vào. Chúng tôi hô lên: "Đây rồi! Nó đây rồi!".
Chúng tôi chưa kịp xông ra thì đã vang lên ba tiếng
"Meo! Meo! Meo!" ghê gớm. Lão Mèo hiện ra. Cả đàn tan chạy.
Tôi đã biết cái cớ tại sao bữa đêm nọ lão Mèo đến đúng vào chỗ
chúng tôi. Ra cũng cùng là một mưu của bọn mũi vuông đuôi ngắn. Chúng biết là bọn
tôi kéo đến rất đông, một đứa đi báo lão Mèo. Chuột đi tìm mèo, thực là một sự
lạ. Nó đã quên cả cái thù truyền kiếp, mèo với chuột, nó muối mặt giết anh em rồi.
Nhưng nó cũng tính toán cẩn thận. Trông thấy Mèo, gã chạy miết. Lão Mèo lập tức
đuổi theo. Nó chạy về chỗ chúng tôi vừa kéo đến. Thế thì khác nào nó dẫn lão
Mèo đến làm thịt chúng tôi.
Trong khi ấy, mùi thối chuột chết càng ghê gớm. Thế này thì bệnh
dịch hạch nguy hiểm phát sinh đến nơi.
Đùng một cái, quả nhiên như thế. Và lão Mèo là nạn nhân đầu
tiên. Lão Mèo ốm rên hừ hừ rồi lăn quay ra chết.
Tôi bàn với anh em :
- Phải đi gọi mấy ông chuột Cống tới, để ông vác cho mấy cái
xác chết trận kia đi, không thì bệnh cả nút đây.
Anh em bảo tôi đi tìm chuột Cống ở cách đây mấy phố. Cống là
một chi họ chuột to lớn khỏe nhất nhà chuột, chuột Cống chuyên nghề khuân vác.
Trời đất ơi! Không ngờ, tôi đi tìm chuột Cống lại thoát một đại
họa.
Trong nhà, có một người chết, bệnh dịch hạch. Bao nhiêu đầu cống,
ngách tường suốt một dãy phố đều bị bịt lại hết. Các cửa ngõ, dán giấy kín mít.
Nghĩa là chuột ở phố, không còn lối nào mà thoát ra được. Bấy giờ người ta mới
bơm vào những làn khói vôi tẩy uế. Khói bay đến đâu, chuột ngửi phải, hắt hơi một
cái, là lăn quay ra. Người ta tẩy uế các phố, bỏ phố hoang trong hơi vôi độc
đúng một tháng.
Bao nhiêu chuột chết ráo. Có mỗi tôi thoát thân.
Sự thảm khốc này, gây ra bởi bọn chuột khốn nạn. Chúng tôi đã
sống êm đềm ở phố này bao nhiêu năm nay mà.
Chiều hôm đó, đứng trên một căn gác, vọng về phía dãy phố bị
hun khói độc, tôi khóc :
- Thù này không đội trời chung. Cộc tôi xin khắc cốt ghi tâm.
Những quân mõm vuông đuôi ngắn kia là kẻ thù số một của nhà chuột.
O chuột
Trong nhà, không kể người, thì chó và mèo làm chúa tể. Chó giữ
về mặt bộ, mặt thủy. Hắn có phận sự chạy nhông khắp chốn, để đánh hơi, để hỏi
han và để mắng những người lạ đi tơ lơ mơ vào trong ngõ. Có khi cao hứng, hắn lội
xuống ao, tắm; hoặc nếu có ai cầm hòn gạch ném vào nước và huýt sáo mấy tiếng,
hắn cũng động cỡn mà nhảy tùm xuống. Một đôi bận, sự đùa cợt của hắn cũng được
việc. Ấy là khi hắn bơi ở trong ao để dồn vịt về chuồng. Chó hay lèm bèm, ủng oẳng,
sinh sự nhỏ nhen. Nhưng tính tình lại phổi bò, dễ dãi và thường chóng quên.
Còn mèo, rất khác. Mèo lừ đừ và nghiêm nghị tựa một thầy giáo
nhà dòng, trên mình có khoác bộ áo thâm. Hắn có cái cốt cách quý phái và trưởng
giả. Lúc nào cũng ra vẻ nghĩ ngợi như sắp mưu toan một việc gì ghê gớm. Có phải
thế chăng, hỡi cái gã lừ đừ và nghiêm nghị kia? Gã lại càng làm ra vẻ khó hiểu
tợn. Nhưng cái vỏ ngoài chưa thể đủ nói rỏ được bề trong. Biết đâu, mèo ta
không khó chịu như mình tưởng. Mà vốn hắn lại lành hiền cũng nên.
Hôm nay, tôi kể chuyện một gã mèo, một gã mèo trẻ tuổi. Y sống
lặng lẽ trong một nếp nhà ngói cổ kính, giữa một vườn cây, ở làng Nghĩa Đô,
cùng một sân với bọn chó, bọn gà ri, bọn ngỗng.
Y là một chàng mèo mướp. Giống đó, nhà quê người ta nuôi nhiều.
Cái bộ lông mèo mướp thực là kỳ dị. Nó vừa trắng màu lụa, vừa xám màu tro, lại
vừa đen xỉn. Khắp mình, ba màu ấy trộn lẫn với nhau, mà trộn rất nhỏ, hòa hợp lại
thành một màu đặc biệt như màu cái chăn dạ của các chú lính tập. Chỉ ở dưới bụng
mới có một mảng lông trắng mềm mềm. Màu mướp ấy trông bẩn, vì đen ngòm ngòm,
nhưng chính ra sạch lắm. Nó sạm như đất, mà không phải là có đất bám. Nó lại mờ
mịt như tro ở bếp phủ lên - bếp tro là chỗ ngủ tốt nhất của loài mèo - mà thực
ra cái bờm lông xấu xí đó chẳng vẩn một chút tro bụi. Ngắm thì không đẹp mắt,
nhưng nếu sờ tay vào, nó mịn mướt như sờ tay trên tấm nhung tơ.
Hai mắt mèo tròn và quắc lên như đôi hòn bi ve để dưới ánh
sáng mặt trời. Hắn không có môi, song hắn có cái mũi đo đỏ, đẹp như cặp môi son
hồng của cô con gái mười tám đương thì. Không ai ưa cái mũi mèo đỏ. Người ta bảo
mèo mũi đỏ là mèo hay ăn vụng. Hai bên mép hắn có hai hàng ria cứng ngắc như
ria làm bằng thép nước. Lũ trẻ con, có lúc nghịch đè ngửa hắn xuống, lấy kéo cắt
trụi cả đôi hàng ria suôn đuột. Nhưng chỉ qua ít ngày, những sợi ria lại trổ ra
như thường.
Gã mèo mướp ăn ở thì giờ như một người đúng mực. Ban ngày hắn
ngủ hoài; cái dáng mèo nằm, dáng êm, dáng nhanh, dáng lâng, đẹp biết bao. Lúc bấy
giờ thân hắn nhẹ muốt, chỉ như một chút gợn gió phẩy bay một nắm bông gạo nõn.
Mà giá ban ngày hắn có thức cũng không làm gì; hắn chỉ nằm gù
gù. Để đến đêm, trong cái bóng tối mung lung, hắn mới ra tay hoạt động. Hắn đi
rà rà thâu canh như người trương tuần.
Gã mèo có cái vẻ đạo mạo như một ông đứng tuổi, đương bắt đầu
để râu. Hắn hiền hiền mà lại ang ác. Nghĩa là trông hắn thì không tài nào đoán
được trong óc hắn nghĩ ngợi gì. Mà chừng hắn chẳng tư tưởng chi ráo! Hắn chỉ là
một người rong chơi lông bông. Chẳng đã có những bác trông mặt thì ra dáng đăm
chiêu tư lự mà thực ra trong đầu không chứa đựng một ý nhỏ nào.
° ° °
Gã ngồi đây, ở trên mặt giại bể. Hai chân trước đứng thẳng,
đôi chân sau gập lại, y lối ngồi xổm. Đôi mắt nhìn xa xôi... Thỉnh thoảng, theo
thói quen, hắn đưa cẳng chân phải lên để gãi mép cũng như người ta sờ tay lên
vuốt ria cho nó oai vậy.
Trời đã xê chiều rồi. Một chiều thu êm ả. Vài gợn nắng vàng
nhạt đọng lại trên những tàu cau rách rưới màu xanh om. Bên nhà ngang tiếng guồng
tơ quay đều đều. Trên đường cái lũ trẻ con đi học về, vừa chạy thi nhau vừa la,
nghe vang động xa vời vợi. Ngoài giếng thơi, người kéo nước rào rào. Cái gáo mo
lạt xạt đụng vào thành giếng đá.
Trong bếp lặng tờ. Bây giờ là sau bữa cơm chiều, người ta
không dùng đến bếp nữa. Gã mèo mướp ngồi ngắm trời, ngắm đất mãi thì cũng chán.
Gã bèn đứng lên, uốn cong cái lưng và nhuôi bốn chân ra để vươn vai, rồi đi về
căn nhà hiu quạnh. Hắn bước đi từ tôn và uyển chuyển như một con hổ nhỏ. Khi
qua gốc cau, chẳng biết ý định ra sao, hắn leo tót lên ngay, quào quào mấy móng
sắc vào cái vỏ cây cau ráp trắng, rồi lại tụt xuống, lại đi lểu đểu, đạo mạo
như trước. Hắn thường có những cử chỉ rất đột nhiên. Hắn làm bất ngờ như trong
lòng đang khoái một điều gì mà hắn vừa nghĩ đến. Luôn luôn gã mèo mang một nét
mặt tư lự.
Y vào ngồi thì lì bên bếp tro. Y nghiêng màng tai để dũi vào
một ông đồ rau, to bằng hòn gạch vồ lớn. Lúc nào y cũng ngứa và cũng cần gãi.
Bỗng y đứng im. Y nghếch đầu lên. Hai cái tai mỏng vểnh ra để
nghe ngóng. Hình như có tiếng lịch kịch ở sau đống củi. Nhưng khi bước lại thì
không thấy động gì nữa. Gã quay đầu ra, ngước mắt nhìn lên đám mạng nhện mắc bồ
hóng đen sạm, bị gió đưa lúc lắc trên trần bếp.
Có tiếng động thực. Lần này gã mèo dúm bốn chân lại bước từng
bước rất nhẹ vào phía đống củi. Đống củi đó người ta để phiền quá, vừa chướng bếp,
vừa làm cái rừng bùm tum, chỉ tiện cho quân gian núp náu.
Giống mèo là một giống, đứng ở chỗ nào, không thể chịu có được
một tiếng động nhỏ. Đã có khi gã mèo mướp nằm ngủ suốt đêm ở trên đống củi. Đây
là chỗ ra vào của lũ chuột ngày, cái lũ chuột con rất vô danh, hễ tha được một
hột cơm nhỏ cũng chạy thọt ngay vào đó để nhấm nháp.
Mèo và chuột là đôi loài có thù không đội trời chung với
nhau. Mèo ghét chuột quá, ghét kịch liệt. Ý giả mèo ta tin rằng giống mình là
giống giỏi nhất thiên hạ; những tên chuột, tất cả lò nhà chuột, chỉ đáng đem
thân làm nô lệ cho loài mèo thần thánh. Thế mà cái giống thấp hèn ấy không biết
điều lại cứ hay tắt mắt, táy máy, bặng nhặng làm nghịch mắt và rác tai ông bề
trên.
Hai cái tai gã mèo mướp hơi động đậy. Ấy là khi gã đương hết
sức lắng nghe. Tai mèo mỏng tanh, gần soi bóng qua được, dỏng lên như chiếc tai
lừa tí hon. Cái vành tai rộng mở và loe ra. Chả trách gã nghe rõ lắm.
Gã khum hai chân trước xuống, nhìn vào gậm đống củi. Rõ ràng
gã trông thấy một cái đuôi nhỏ mà dài thò lò dưới một mẩu gỗ. Đúng cái đuôi chuột.
Gã nép về một bên, thon người lại.
Lúc này trông gã mèo quái ác dị thường, thoát hẳn cái dáng lừ
đừ, hiền hậu hằng ngày. Y quờ quờ cái chân. Sau y biết là làm thế hấp tấp quá,
phải chờ cho cái đuôi chuột lùi ra nữa mới được.
Lại có tiếng rúc rích ở trong. A, có hai thằng chuột rửng mỡ
đang đùa nhau. Chúng nó hẳn đến ngày tận số. Ai đời chuột lại dám đánh đu ở miệng
mèo!
Tuy cáu, nhưng mèo cũng đủ kiên nhẫn đê chờ cơ hội tốt đến.
Trong kia, hai con chuột vô tình, vẫn đùa cợt vui vẻ. Nhiều lúc, có nhách lại
chạy ra tận ngoài, thò cái mõm nhọn ngửi chung quanh. Lộn tiết, gá mèo đã toan
chộp. Nhưng chuột lại chạy ngay vào mất. Con mèo lại im lặng, chịu khó ngồi
rình.
Bóng tối chụp xuống mau nhẹ. Vừa mới nhọ mặt người. Bây giờ
đã đêm hẳn. Đêm nay là đêm rằm. Mặt trăng đã nhô tròn ở đằng đầu tường. Một mảnh
sáng nhờn nhợt in trước sân bếp.
Trên nhà, người ta đã quẹt diêm để châm đèn sáng cho trẻ học.
Tiếng những đứa trẻ ra ao rửa chân, vừa đi vừa khua guốc lóc cóc. Hai chú chuột
ở trong gậm củi, dáng hẳn thày trời tối thì muốn ra ngoài kia lắm.
Cái thằng mèo mướp ốm bệnh hen cò cử quanh năm mà không chết ấy,
bữa nay tất đi chơi đâu vắng; nếu nó có nhà tất đã nghe thấy nó rên gù gù ở
trên đầu ông đồ rau. Chúng mình ra ngoài kia đùa một tí hoặc kiếm chác được cái
gì ăn thì hay quá.
Hai cái đầu ló ra. Rồi hai gã chuột bước hẳn ra khỏi đống củi,
đi lần về phía bếp. Chúng vui vẻ cãi nhau choe chóe.
Hai cái bóng bé nhỏ quá, chụm lại với nhau chưa bằng được một
ngón chân cái của người lớn ta. Đấy là hai con chuột nhắt. Chuột nhắt bé hơn
chuột chù. Nhưng nó nhanh và hoạt hơn nhiều. Anh chuột chù có cái mõm dài nghêu
- cứ vác mõm đã đủ mệt - đi đến đâu cũng rụt rụt rè rè. Hề hơi có cái gì đáng sợ
là vội hốt hoảng chạy cuống lên, vãi cả đái và kêu rối rít. Đã thế lại còn chậm
và cũng không biết leo tường, leo cột, chỉ ở luẩn quẩn sát mặt đất. Thật là một
thứ chuột cùng dân, thấp kém nhất trong xã hội chuột. Vậy mà thiên hạ lại ưa thứ
chuột đó. Không phải ưa cái thân hôi hám của nó - chẳng đã có câu mỉa:
"hôi như chuột chù", - nhưng người ta chỉ ưa có cái tiếng kêu:
"chuúc... chuuuúc...". Các cụ ta nói: Ấy là chuột chù bảo: "túc
túc" nghĩa là "đủ đủ". Nhà ai, chuột chủ mà cứ "túc
túc" luôn, ắt nhà ấy hẳn sắp có việc phát tài.
Và đây chỉ là hai con chuột nhắt. Thân chúng nhỏ nhắn, mõm
xinh xinh vừa phải, về sự nhanh nhẹn, phải biết rằng nhờ ở cái thân hình bé bỏng,
chúng leo vun vút, chạy nhoăn nhoắt như có phép biến hóa.
Thoạt thấy bóng đôi chuột lúi húi ra khỏi đống củi, gã mèo mướp
mừng khấp khởi. Nhưng rồi gã chán đớ ngay ra. Tưởng chuột chiếc to tát thế nào,
chứ nếu biết chỉ là hai chuột nhắt nhép ranh ấy thì gã đã bước từ nãy, không phải
tốn công, tốn hơi sức mà rình nấp vô ích. Mèo ta cũng khá đại lượng. Song thực
cũng tại cái tính lười nhác cố hữu, chả muốn cắt đại công trình mà chỉ được có
một tí ti kết quả đấy thôi.
Nhưng đã thế này thì cứ bắt chơi. Hầy! Đùa một mảy vậy. Nghĩ
vậy, mèo ta co lưng lại để lấy thế, rồi vươn hai chân ra chộp cả hai cái bóng
đen cọ quậy ở trước mặt. Có tiếng kêu "chí... í...". Một con chạy
thoát được. Còn một bị nắm lại. Mèo gầm gừ để thị uy và dọa dẫm. Chú chuột khốn
nạn bị túm lại, nằm ngất trong hai bàn tay sắt đầy vuốt cong và nhọn hoắt của
ông mèo, y như cái cảnh rúm ró của chị cua nhà quê mà bị cụ đại vương ếch lấy một
bàn tay mà vỗ vào mai.
° ° °
Chú chuột nhắt bị mèo tha ra cửa bếp và được thả xuống đây.
Mèo không hề nghĩ đến sự nhắm chú chuột nọ. Dễ thường gã ta ví mình như một người
anh hùng cái thế có thèm sát hại lũ trẻ oắt bao giờ đâu! Sinh phúc cho chúng sống
còn hơn là túm lấy chúng mà nhai. Chưa bõ dính răng.
Nhưng vốn mèo vẫn ác tính. Gã không ăn. Mà gã cũng không thả
chuột ra. Cái mùi hôi ở lông chuột khiến cho gã mèo nhớ rằng thịt chuột ngon và
loài chuột là cái loài đáng ghét lắm.
Mèo nhả chú chuột xuống đất, rồi ngồi ngây ra mà nhìn. Con vật
khổ sở nằm co ro. Mèo ta đắc chí, lấy một chân vờn vờn vào mặt chuột. Bất tỉnh
nhân sự từ này, giờ mới lai hồn, chuột khe khẽ thoi thóp thở. Mèo yên lặng,
dáng ngẫm nghĩ. Gã không để ý đến chú chuột đương giương đôi mắt lồi như hai hột
chàng ràng ra nhìn gã. Chỉ ti hí mắt lươn, mà ranh thượng hạng.
Bỗng thoáng một cái, chú chuột chạy vụt vào phía trong. Nhưng
gã mèo vẫn nhanh hơn. Gá vươn tay ra. Lại chộp liền ngay lấy gáy chú nhỏ. Ôi
chao! Gã ta mới đập cho chú nhỏ một cái nhá! Chú nhỏ kêu "chí...
chí..." rầm cả lên.
Có lẽ nhân cuộc chạy trốn ấy, gã mèo bầy ra một trò chơi tiêu
khiển cho qua thì giờ. Gã đem chuột ra chỗ ánh trăng. Giả vờ để yên chú ta đấy.
Rồi mèo yên lặng. Chú chuột sợ hãi, không nhúc nhích. Nhưng chính ra chuột vẫn
rình mèo và mèo cũng lại rình chuột. Để hễ khác ý là chuột chuồn biến. Còn mèo,
mèo cũng chỉ chờ chuột chạy là vồ ngay lấy. Gã mèo dương oai thả lỏng và chắc
chắn chăng khi nào chú chuột chạy thoát nổi đôi bàn chân nanh móng của gã.
Mà cũng thế thật. Chú chuột tưởng bác mèo hấc lờ, cứ xểnh một
chút lại chạy. Có đến mươi lần. Nhưng vẫn không lần nào khỏi bị tóm lại. Mỗi bận
chuột động chân, mèo ta chỉ nhoi đi một tí đã túm lại được rất dễ dàng. Mãi rồi
con chuột hóa mệt lử. Nó chạy chậm dần và cuộc chơi cũng dần mất thú vị.
Khi đó, ở trong đống củi, bỗng lại có tiếng rúc rích. Lại có
tiếng lao xao của lũ chuột nào khác. Chả biết là chúng đùa nhau hay chúng định
chơi cái lối chó cậy gần nhà, đứng trong ấy chửi đổng ra. Toan nhảy vào vồ cho
chúng chết một mẻ, nhưng mèo lại vướng có con chuột tù binh ở dưới chân. Đã thế,
phải mắng cho chúng một trận mới được. Mèo liền gầm gừ, gầm gừ, làm như sắp lăn
ngay vào chiến tranh với những quân thù cỏ rác kia. Lũ chuột nhép câm ngay,
song chúng cũng không câm hẳn. Hễ mèo mà ngớt tiếng, là chúng nó lại
"chííí chííí" rầm rầm. Làm điệu như sỉ vả mèo.
Bực mình, mèo ta nhảy một bước. Chú chuột nhắt đang nằm yên
như chết, vụt vùng chạy. Mèo hoảng hốt, thò dài chân ra, nắm lấy nó. Nhưng chỉ
nắm hụt được bóng cái lưng của chú chuột in thoáng trên nền đất giãi đầy ánh
trăng. Hai mắt mèo long lanh, sáng quắc! Cũng không thể đủ sáng để chọc thủng
được bóng tối dày ra mà tìm lấy chú chuột nhắt tí hon.
Gã mèo sục vào đống củi. Giá gã đâm đến vỡ đầu ra, cũng chẳng
tóm được một nỡm chuột. Mà những tiếng "chíí... chíí" quái ác, rất
khó chịu vẫn văng vẳng đâu hai bên lỗ tai.
° ° °
Gã mèo mướp - mà gã mèo nào cũng thế - không cố ý ăn thịt chuột
nhắt bao giờ. Mèo chỉ bắt những con chuột tiểu yêu đó để đùa nghịch và để hả
cơn cáu kỉnh; vì loài chuột nhép cứ bặng nhặng, rúc rích trong xó bếp, là chỗ
nghỉ ngơi của mèo. Chính những con chuột lớn lại đứng đắn, không ầm ĩ đến thế.
Chỉ vì bực mình mà mèo bắt chuột nhắt. Nhưng chú chuột nhỏ khôn ngoan vẫn hay
chạy trốn được. Đời đời, cái giống chuột nhắt ma quái cứ làm rức tai loài mèo.
Suổt đêm hôm đó gã mèo mướp kia chỉ đi quanh đi quẩn để tìm,
để lùng chuột nhắt. Và có những đêm sau, hắn cũng đi tìm chuột, nhưng - vẫn khờ
dại như thường - hắn chỉ tìm để đùa chơi một chút. Rồi nó có rông mất, hắn lại
khó chịu, bực dọc, hậm hực mà đi lùng bắt những con khác. Cái loài chuột nhãi cứ
làm cho ta rối đầu và ngứa mắt quá.
Cơ chừng gã mèo mướp phải dành tất cả cái hoa niên của mình để
mà chỉ luẩn quẩn đi o chuột.
Một cuộc bể dâu
Ấy là một tay hảo hán trong đám Gà Chọi - cái loài sống ở
trên đời, nhất sinh chỉ có một nghề đi đánh lẫn nhau cho người ta xem. Tay ấy
oai lắm. Chẳng thể có đủ chữ mà tả cho hết cái oai lẫm liệt của chàng. Ờ, mà có
thể gọi chàng là ông Từ Hải. Từ Hải chọc mây khuấy nước, đầu thì đội trời, chân
thì đạp đất.
Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường đường một đấng anh hào...
Đấng anh hào nọ được phong vương - hay tự xưng cũng thế - ở đất
này để cai trị một khoảng vườn. Mà trong vườn có một góc gồm một chuồng gà, một
chuồng vừa vịt, vừa ngan, vừa ngỗng và một chuồng chim bồ câu. Đại vương chỉ có
mỗi một mắt và mang trên mình bộ mã ô miến tía - cái thứ áo có lông đen nháy,
điểm dòng dọc đỏ. Chàng bị độc nhãn là bởi trong cuộc lên sới, phải địch thủ
đánh một cái đá mé, lòi bật con ngươi. Từ đấy, người ta không cho hắn ra trận nữa.
Để nuôi cho đẹp sân.
Chàng Gà Chọi đứng thẳng người, hai cái cẳng chân cứng và lẳn
như hai thanh sắt, phủ những vảy lớn sắp vàng bóng. Đôi bắp đùi chắc nịch, gân
lên những thịt. Chàng chỉ có lông trổ ra hai cánh, ở trên lưng, ở đuôi và lơ
phơ mấy chiếc quăn queo dưới bụng. Lông ấy được xén, cắt thực gọn. Đầu chàng to
và hung dữ như dáng một chiếc nắm đấm. Cái cổ bạnh và hai bắp đùi thì để lộ ra.
Da chàng đỏ gay, đỏ gắt, đỏ tía, đỏ bóng lên như có quết một nước sơn thắm. Mặt
chàng lùi sùi những mào, những tai, những mấy cái ria mép - tím lịm như mặt anh
say rượu. Một bên mắt thì lép mịt mờ, còn một bên chóp chớp nháy nháy tròng
vàng hoe.
Lúc chàng đi, hai đầu cánh nhô lên thụt xuống, rõ ra điều một
anh chàng cuồng võ, lúc nào cũng chỉ ngứa ngáy chân tay.
Buổi sớm, khi cậu Gà Ri te tái chạy ở trong chuồng ra, dẫn đầu
ba chị gà, một bác ngan với một lũ con líp nhíp và mấy thím vịt, thì, ở nóc chuồng,
Chọi ta cũng nhảy xuống, hai cái chân gieo bịch trên nền đất. Chàng không ngủ
trong chuồng với những con gà khác. Chúng làm quẩn chân. Bởi vì chàng cao quá,
đầu đụng tới nóc chuồng; nếu phải đứng khom khom cô thì chàng chịu, không thể
cúi được.
Chàng đưa mắt nhìn quanh sân một lượt rồi vỗ đồm độp đôi
cánh, lấy gân thẳng hai chân, cong bạnh cần cổ, phưỡn ngực ra gáy lên một hồi:
côôô... côô... cô... cô... ô... Tiếng gáy mới to khiếp. Nghe ồ ồ như tiếng nước
mưa rào chảy vào trong một vành cống hẹp.
Côôô... côô... cô... cô... ô...
Những thim vịt nhút nhát luống cuống đôi chân, nghiêng một
bên má để hiếc mắt lên trời, ra điệu nghe ngóng. Có thím hải quá, cạc cạc một hồi
ầm ĩ, như muốn kêu: "Ai cứu tôi với! Cạc cạc cạc! Ai cứu tôi với!". Cậu
Gà Ri đương làm bộ làm tịch, đứng diễu võ giương oai ở trên đầu mỏm cọc tre
cũng giật nẩy mình, hai mắt nhớn nhác. Hai khoeo chân đã khum xuống, chực lủi,
rõ ra bộ anh hùng rơm.
Loài ngan xưa nay có tiếng là gan góc, lúc nào cũng lỳ lỳ lầm
lầm. Thế mà nghe tiếng Gà Chọi gáy, mụ ngan cái cũng vừa kêu kíu kíu, vừa thò
ra thụt vào cái cổ, dường như muốn hỏi các bạn cùng sân xem: "Cái gì thế?
Cái gì thế? Kíu kíu...".
Lại đến tình cảnh những nỡm chó con ra ăn vụng cơm của gà mới
buồn cười. Nghe tiếng gà ồ ồ gáy, chả biết tiếng người ta chửi, người ta mắng
hay tiếng máy móc ghê gớm gì, các ranh cứ nháo mắt lên, đuôi cúp thụt xuống tận
bụng, len lét chuồn thẳng.
Cái tiếng gáy mới kinh khủng chứ! Ai mà chả phải sợ ông Từ Hải.
Côôô... côô... cô... cô... ô... ô...
° ° °
Có những buổi trưa.
Những buổi trưa mùa hè, nắng to. Ngoài vườn, cây cối rủ rượi
đứng chịu tội trong ánh nắng lửa. Những mảnh lá mướp to bản đều cụp uốn xuống,
để lộ ra những cánh hoa màu vàng gắt. Có tiếng vỗ cánh sè sè của vài con ong bò
đen bóng, bay rập rờn trong bụi cây chanh.
Nắng dữ quá. Gã Đực nằm đầu hiên, thè dài lưỡi ra thở hực hực.
Lũ ngan, lũ ngỗng thì rủ nhau chúi xuống bờ ao, núp bên những tàu lá khoai sơn
hà xanh rời rợi. Ở dưới gậm cụm lá sói, hai ba chị mái tơ thi nhau dũi đất. Thỉnh
thoảng lại rủ cánh phành phạch.
Ấy vậy mà có hai người bạn vàng kia quên cả nắng, quên cả
tròi đất nóng nực. Đó là hai trái tim: một anh Gà Chọi và một chị Gà mái nạ
dòng. Nếu mà đối Gà Chọi với chàng Từ Hải thì phải kể chị ta vào cái độ cô Kiều
gặp người anh hùng đó, sau mười lăm năm luân lạc, trên vai nàng đã đeo nặng hơn
ba mươi cái gánh xuân. Mà chàng Từ Hải thì trải bao trận thư hùng, đã tàn tạ rồi
mà vẫn có mã, vẫn đỏm dáng như thường.
Cho nên, trời nắng là thế mà thuyền quyên cũng chịu khó đứng ở
dưới gốc cây thầu dầu tía, gần bờ ao. Nàng xù bộ lông vàng, phờ phạc, lốm đốm
trắng như mớ rơm rửa bát. Vậy mà nàng cũng chớp chóp đôi mắt, rung rung cái mào
xám xịt ngả về một bên má.
Nàng nghển cổ lên, nhìn sang phía gốc cam - chỗ có anh Gà Chọi
đứng; hơi he hé đôi mỏ, chị cất một giọng oang oác, rất bổng rồi trầm xuống:
"Kééééc. .. kéééc... kééc... k... éc... k... é... é... é... c..."
Ý như làm duyên mấy câu Kiều lẩy.
Cái tiếng éc cuối câu cứ kéo dài, vang động khắp vườn một
cách lâm ly và não nuột khiên cho anh Gà Chọi đứng bên kia dường như phải ngơ
ngẩn bồi hồi mà nghếch một bên mắt lên nhìn lơ láo. Và chàng vừa kêu cộôc cộôc
vừa đi về phía cô ả.
Ấy thế là khách biên đình sang chơi. Kiều nhi bèn ra bộ làm
gái, thấy tình nhân thì không hát nữa. Muốn tỏ với nàng rằng ta đây cũng là tay
thiệp đời, gà Chọi xõa hai cánh, doạng mấy móng chân để bới đất và cúi mỏ xuống,
giả cách vừa mổ vừa kêu cộc cộc, làm điệu gọi mái đến ăn chung. Rất tình tứ.
Nhưng mà xác anh ta thì nặng, hai cái cẳng chân to lều nghều, khi anh lấy cái
dáng đẹp nhất, cái điệu chân dẻo nhất để bới, trông hóa ra ngây ngô và ngượng
nghịu, đến hay.
Chị ả còn làm bộ mãi, không chịu đến. Để cho chàng hết rủ rê,
tán tỉnh bằng điệu chân, điệu mỏ, lại xòe cánh ra đập phành phạch. Mà cô nàng cứ
còn cao giá làm lơ và lại bắt đầu hát kéc kéc ầm ĩ.
Ôn tồn, dịu ngọt mãi không được thì chột ta tức lắm. Chàng ngẩng
đầu lên.
Cái tính hung hăng, nóng nảy cố hữu của chàng ở đâu lại kéo đến
ầm ầm. Chàng đỏ mặt tía tai, lộc ngộc chạy đến tận nơi. Chị ả cũng ù té chạy biến
phía bờ ao.
Nhưng này, ối ai ơi! Chị ả nõn nường đó chỉ giả cách khệnh khạng
một chút đấy thôi. Đến chỗ khuất bóng cây chanh, nàng đã nằm khụy hai chân xuống.
Để đợi người yêu.
Sáng nào chị mái nạ dòng ấy cũng lên ổ để đẻ. Mỗi lần đẻ
xong, chị nhảy choàng từ trong ổ ra đứng giữa sân mà cục te cục tác rồn rã. Chừng
muốn khoe với làng xóm rằng mình vừa mới đẻ được một cái trứng, công phu khó nhọc
nhiều lắm đây.
Được có chín trứng ả đã thôi và bắt đầu nằm ấp. Ả ấp ham lắm.
Suốt buổi. Quên cả ăn. Cứ nằm sù sù cả ngày thâu đêm trong ổ. Ai động đậy ở đâu
gần đấy là ả đã kêu cục cục, lông cánh xù ra, chực những sự vừa chửi vừa đánh.
Ả nằm ấp vừa đứng cữ hai mươi mốt ngày. Từ đầu tuần trăng lưỡi
liềm cho tới những đêm trăng chỉ còn nhô lên lúc gà gáy sáng là tới thời kỳ những
cái thai bắt đầu cựa quậy và mổ vỏ ra để tìm ánh sáng.
Nửa tháng sau, xung quanh chuồng gà đã ríu rít những gà con.
Bây giờ cái mảnh sân sau ấy vui lắm. Qua một ít bữa, chín con gà nhỏ vỡ lông, vỡ
cánh và lần lần trên người chúng, hiện ra những màu sắc của một bộ mã. Mỗi con
một mã: hoa mơ, tía, trứng cuốc, mãn trắng. Cũng có những đứa đeo cái màu vàng
bềnh bệch như mẹ. Đây là một đàn gà pha.
Có thêm những một đàn chín con gà nhỏ, sân và vườn bây giờ trở
nên âu tri viên. Cả ngày, rối lên những tiếng líp nhíp, líu nhíu. Gà con, chúng
kêu luôn mỏ. Nếu không chép chép to tướng thì ít ít be bé trong cuống họng. Xô
nhau cũng kêu. Mổ hạt tấm, cũng kêu. Đến cả khi mẹ ngồi xuống, xòe cánh ra cho
chúng rúc vào bụng, chui vào nách, nhảy lên lưng, cũng kêu í ới.
Còn mẹ chúng nó? Thật là một người đàn bà giỏi giang, đa tình
thì nhất mực mà khi phải vào cái bổn phận dạy dỗ, nuôi nấng con trẻ, lại đáng
nên bậc mẹ hiền gương mẫu. Luôn đi cạnh các con, mụ không rời chúng lấy nửa bước
ngắn. Mụ cong chòm đuôi, xù vành lông cổ lên, làm điệu nghiêm khắc và ác. Thật
ra, với các con thì mụ rất ngọt ngào. Bới được một hạt giền đỏ, mụ cũng gọi
chúng đến, cho chúng ăn. Vừa nhìn các con ăn, mụ vừa cúc cúc, nói chuyện vui vẻ.
Nhưng hễ động một bà ngan đãng trí - những con ngan hay đãng trí, lúc nào cũng
bước đi thanh thản, lơ tơ mơ, ngất ngưởng tới bên cạnh là mụ Gà nhảy lên như
choi choi, bao nhiêu lông đuôi lông cánh dựng đứng ngay lên, miệng kêu oang
oác, khoéc khoéc, chân thì đập, mỏ thì mổ khiến cho mụ kia mở mắt không kịp,
chúi đầu xuống đưa vòng kiềng hai chân mà lạch bạch chạy.
Mụ mê mải chăn nuôi con đến quên cả mình. Chả thế mà trong
khi săn sóc trẻ, thân hình mụ gầy xác, gầy xơ. Bây giờ thì không thể bảo mụ là
cô gái giang hồ gần bạc tóc mà vẫn ưa lá gió cành chim được nữa. Phải gọi mụ là
một bà xã trong làng, một bà xã chỉ biết tảo tần nuôi con cho đi thả chim thả
diều và nuôi chồng một ngày hai bữa rượu. Những điều nguyệt nọ hoa kia, giờ tịnh
câm, mụ không màng tới, mà lại còn ghét là khác. Mỗi khi có cô mái tơ phớn phở
đi qua, mụ đuổi đuổi, mổ mổ, túi bụi.
Còn anh Gà Chọi mã ô miến tía? Thôi thôi thôi, nói làm chi đến
cái quân lang chạ, phất phơ.
° ° °
Một ngày cuối tháng năm. Mấy hôm nắng dữ dội như muốn hun héo
cả xóm làng. Đến hôm ấy, từ buổi sớm, nắng không loe lên như mọi khi. Trời vần
vụ đầy mây trắng. Song không phải là mây trắng đục, báo hiệu cơn mưa. Mây trắng
tinh chẳng biết ở đâu trôi lừ đừ đến từng tảng lớn, ngổn ngang cả nền trời xanh
ngắt - trời xanh lắm, ở mỗi khoảng không có mây. Mây đến rồi mây đi, mây đến,
mây lại đi, mây chuyển vùn vụt. Ấy thế rồi gió nổi lên dạt dào trong các lũy
tre. Cái thứ tiếng dạt dào của lá tre rung vào nhau liên miên, tưởng như tiếng
heo may cuối thu, mà không bao giờ ngớt, gây nên bởi từng luồng gió rất dài, rập
rờn trên sóng lúa, từ ngoài đồng xa về. Người ta gọi gió ấy là gió giải đồng -
gió quạt mát cho những người cầy dưới ruộng.
Bữa đó, Gà mái dẫn đàn con lách qua bờ tre, ra ngoài ruộng nhửn
nhơ chơi. Bởi vì không có nắng nên cả mẹ, cả con mải bắt nhái, bắt châu chấu,
mãi tới xế chiều mới dò về. Về tới chuồng, trời đổ một trận mưa rào. Mưa rào đến
đêm thì tạnh. Nhưng còn sập sùi mãi tới lúc sang canh mới dứt hạt.
Sớm hôm sau, khi cửa chuồng đã mở, chỉ thấy chị Gà mái mẹ dẫn
có bốn con nhỏ lủi thủi ra. Nhòm vào trong: năm chú gà con kia đã nằm mỗi chú một
xó chết còng queo từ bao giờ. Và chỉ từ sáng tới buổi trưa, cả bốn gà còn lại
này cũng mỗi con nằm rụi ở một góc vườn. Những cái diều cơm cứng ních lại. Lặc
kêu ầm lên rằng :
- Biết ngay mà. Trở gió! Trở gió! Trái gió. Trái gió. Gà bên
nhà bác xã Khóm cũng lăn đùng ra thế đấy.
Sẩm tối, ông ngoại tôi sai Lặc hun một đống bồ kếp ở trước cửa
chuồng, chỗ thang gà leo lên leo xuống. Trong sự tĩnh mặc âm thầm của vườn sau,
đám khói hoàng hôn sực mùi bồ kếp thơm gây gây càng làm cho cái khu gà vịt ở có
một không khí ảm đạm như một xóm nhuốm bệnh thời khí. Thế mà sáng hôm sau, lại
có ba chị Gà mái tơ nằm chết chỏng hai cẳng lên trời.
Một sự đổi đời ghê gớm. Tai nạn chỉ bởi có một thoáng thay thời
tiết. Mụ Gà mái mẹ và anh Gà Ri sợ không dám ở chuồng nữa. Tối đến, chúng ngủ
cao trên bụi tre. Còn ở lại chỉ có lũ nhà ngan, họ nhà vịt - cái tụi ngu ngơ
lúc nào cũng đờ đẫn mà khỏe - và anh Gà Chọi đứng ngang nhiên trên nóc chuồng.
Dáng hẳn thấy cảnh vật phút chốc bỗng trở nên quạnh hiu, anh không hộc mỏ kêu kộôc
kộôc như mọi hôm.
Chẳng những chỉ vắng vẻ thế mà thôi!
Một sớm kia, Gà Chọi không cất tiếng gáy. Tay nhà võ đi có
dáng lừ đừ, đầu rúc xuống, mà cổ thì hình như nằng nặng. Loài gà không bao giờ ốm
bệnh gì, chỉ có bệnh dây. Khi lử khử, tất chàng mắc bệnh ghê gớm đó. Chàng bị
truyền nhiễm bởi bọn gà chết hôm qua, hôm kia. Chắc thế. Bởi chàng khỏe cho nên
chàng không quỵ ngay. Song cũng khó lòng qua khỏi được. Có sức khỏe, bệnh chỉ
kéo dài. Thể nào, một ngày rất gần đây, cũng sẽ đi đời.
Chàng không ăn được nữa. Chỉ uống nước thôi. Mà uống nước
luôn luôn. Cái bìu diều cơm rắn lại. Cho đến chiều thì chắc đanh, sờ tay không
bóp chuyển được. Đêm, chỉ nghe tiếng quéc quéc, như vướng cái gì trong cuống họng.
Cái tiếng quéc sắc rợn và lạnh. Nghe ghê người.
Sang hôm sau, mào, bắp chân và bụng Gà Chọi đã xám lại. Chàng
bước đi; cái cần cổ gục xuống, hai vai cánh so lên, xiêu vẹo như lão kiết đã
nghiện nặng lại thiếu cả sái hút. Đôi chân hiên ngang nọ như sắp không khiêng nổi
cái mình to lớn nữa. Thảm hại quá. Ôi! Con Gà Chọi, ôi! Con Gà Chọi! Con Gà Chọi
chỉ còn mở thao láo một mắt ra nhìn. Không còn hục hặc đạp phành phạch. Không
còn gáy cồô... cộộ, không kêu cộô... cộ gì cả.
Ngày hôm sau nữa thì đành chẳng thể nào nhấc chân được. Chàng
Gà Chọi nằm gục một chỗ, chỏng đuôi lên, đầu lả rụi. Người tọp lại, như một người
thân thể to lớn, bây giờ chỉ còn lần da, ôm một bọc xương. Buổi chiều thì Gà Chọi
tắt thở.
Lặc được nhận việc xách một bên cẳng nó, đem ném ra ngoài đồng
xa.
Hỡi ôi! Ông Từ Hải về với đất.
° ° °
Cậu Gà Ri không dám bén mảng về đến sân nhà. Trông trước,
trông sau chẳng có ai, chỉ còn một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn ngơ.
Mụ ngan
Sự chết chóc ghê rợn trong họ nhà gà không ảnh hưởng đến các
chú ngan, thím ngan cũng cùng ngụ một sân. Loài ngan khỏe mạnh, ít khi trở trời
mà bị trái gió.
° ° °
Xóm gà vịt này có hai con ngan trắng.
Độ nọ cũng còn có thêm một đàn ngan nhỏ. Nhưng bây giờ đã tan
tác mất cả. Chẳng phải vì bệnh dây, mà là vì nhiều sự không may khác. Đời sống
lăn dài vào thời gian rộng lớn và cao cả, triền miên đã bao nhiêu năm, trong khối
óc tí hon của muôn loài. Với chúng - nhất là những con vật luẩn quẩn xung quanh
thì trái lại. Ngày tháng vụn vặt, chỉ có những đau thương nhỏ bé, những xa cách
ít đáng để ý. Ấy là cuộc sống tủn mủn, bèo nhèo. Chúng chẳng làm hại ai, chẳng
hít hớt mất của ai ít khí trời, dù chúng cũng thở ra, thở vào cẩn thận. Như những
con giun, cái kiến làm sao mà được nhòm ngó tới.
Đếm đàn ngan con có được sáu cái đầu cả thảy. Sáu cái đầu
xinh xinh, sáu cặp mắt tròn xoe, đen láy và ngơ ngác. Chúng luẩn quẩn líp nhíp
xung quanh hai bàn chân tõe ngón rất thô kệch của bà mẹ. Mà tâm tính của mẹ
chúng thì cũng "thô kệch" như hai bàn chân nọ. Mụ đần độn đến phát
ghét lên được. Thực là một thứ đàn bà đoảng. Mặt mũi lúc nào cũng ngẩn ngơ, lúc
nào cũng lắc lư như một bà nhiêu ra chợ mà bị kẻ cắp xén mất túi. Mỗi khi cất
bước, đôi chân khụng khiêng đi vòng kiềng lại đu đưa tất cả mình lên. Nom đến
chậm.
Cũng bởi cái tối dạ, chậm chạp ấy mà vô tình, mụ đã giết một
đứa con của mụ.
Một hôm, cu Lặc đem ngô ra sân cho ngan ăn. Mụ ngan xô đến.
Đàn con cũng tất tả chạy theo. Chúng len, đun, tranh nhau trèo vào chậu ngô. Mẹ
chúng đứng ngoài xốc cành cạch từng hột một.
Nhưng lũ trẻ leo vào đầy chậu, khiến cho mụ bị vướng, không
xoi được hột nào nữa. Tức mình mụ cũng thò chân vào cái chậu sành. Rồi mụ bước
nốt cả chân kia vào. Thành ra mụ đứng phè phè giữa chậu, cứ cúi xuống mà xốc,
tranh ăn của cả các con. Một bàn chân mụ - cái bàn chân có ba ngón trước tõe
ra, mạng liền với nhau - giẫm lên lưng một con nhỏ. Con ngan nhỏ kêu thảm thiết.
Nhưng mụ mẹ vẫn chưa biết, vẫn dí chặt chân lên lưng nó mà đớp ngô như thường.
Đến khi mụ dịch chân đi để thò mỏ ăn chỗ khác thì con ngan khốn nạn kia không
thể đứng dậy được nữa. Nó gãy xương lưng.
Ăn no rồi, mụ vỗ hai cánh dẫn năm trẻ xuống ao lội chơi. Mặc
thây một con bị trọng thương, cứ việc nằm rụi, kêu khắc khoải. Mụ lờ tít hay là
không biết. Đến chiều, con nhỏ ấy chết. Mụ như không biết có một đứa con mình vừa
mới chết. Thế thì cố nhiên không phải lỗi ở mụ. Bởi vì mụ vẫn thò ra thụt vào
cái cổ, vẫn lúc lắc bộ đuôi. Những tiếng kíu kíu thốt ra, như vẫn biểu lộ một nỗi
vui sướng vu vơ, ngây ngô.
Thế là một ngan con chết. Mươi hôm sau, hai mống nữa cũng chết
theo. Chúng bơi dưới ao, rúc đầu mò vào ven bờ. Hai con lập tức bị lươn rút vào
tổ. Lũ trẻ con trong nhà đi tìm chỉ thấy hai cái đuôi chổng vọc lên. Cái đầu kẹt
trong lỗ, bị lươn cắn thủng một vết sâu hoắm.
Còn lại có ba nhách lơ láo.
Lại một hôm nữa, mụ dẫn ba trẻ ấy ra ngoài ruộng chơi. Mấy bữa
trời đổi gió, cả đàn diều hâu ở miền xa đâu trên núi bay về. Chúng dang cánh ra
liệng vòng tròn trên đồng lúa. Chúng lửng lơ trong không, lẫn vào từng khoảng
mây xanh. Những tiếng kêu rin rít nổi lên như tiếng sáo đẩu. Không phải là
chúng cứ liệng chơi "xây giếng cho tròn" mãi ở trên trời cao thăm thẳm
ấy. Chúng liệng đi, liệng lại thỉnh thoảng sà xuống ở một chỗ quạnh quẽ, hoặc để
tìm một cái ngòi nước vào mà tắm, hoặc để kiếm mồi. Hôm ấy, có một con diều hâu
liệng vòng tròn rất cao. Bỗng nghiêng cánh, đâm bổ xuống. Nó vừa trông thấy mấy
cái mồi. Đó là ba con ngan nhỏ cùng với mẹ ra nhởn nhơ ngoài đồng. Diều hâu sà
xuống tận nơi, thò dài hai cái chân sắt, quắp lấy một con ngan, rồi bay bổng
lên, vụt đi. Nó tìm đến một nơi thanh vắng, thả ngan xuống, mổ cho chết rồi ăn
thịt. Một lát sau, có một gã diều hâu nữa sà đến cũng quắp một con ngan. Văng vẳng
tiếng ngan kêu thảm thiết trên cao.
Mụ ngan mẹ cũng nghe được rõ ràng những tiếng kêu cứu ấy. Bởi
vì mụ có nghển cổ, có liếc mắt lên trời. Nhưng rồi mụ lại cúi xuống mổ cỏ và
lúc lắc cái đuôi của mụ. Còn có mỗi một con ngan nhỏ khiếp sợ, chúi vào bụng mẹ.
Song mẹ nó cũng vô tâm, không để ý chi. Thế là hai con ngan nhỏ bị diều hâu bắt
ăn thịt. Phải tay một mụ gà thì không bao giờ mụ chịu im như vậy. Sống chết mụ
cũng xù lông ra, nhảy lên đánh nhau ngay với quân thù. Đằng này, có thể như
không bao giờ mụ ngan nghĩ đến cái điều phiền nhiễu đó. Mụ đủng đỉnh dẫn một
con lõng chõng về, mỏ và mắt thản nhiên như lúc đi ra.
Cả đàn sáu con ngan, chỉ còn vỏn vẹn có một. Cái sân gà vịt vừa
bị một trận chết dây kinh khủng, bây giờ lại càng vắng vẻ thêm. Các cổng chuồng
bị bỏ trống, không cài then. Những lối bùn đã mọc rêu xanh. Chẳng có mấy vết
chân ba ngón qua lại.
Tối đến, nhà ngan ngủ dưới gậm chuồng gà. Con ngan nhỏ nằm
bên cạnh, mỏ rúc xuống cánh. Bao giờ chúng cũng ngủ đây. Cái giống ngan luộm
thuộm yên trí rằng ngủ ở đấy đã là sạch sẽ.
Một đêm kia, có một con rắn mai gầm từ dưới ao bò lên. Thân
nó trườn bằng một cái đòn gánh và vằn những khúc vàng, khúc đen. Bởi vậy, rắn ấy
còn có tên là rắn cạp nong cạp nia. Nó luồn men bờ ao, đánh hơi thấy mùi tanh ở
chuồng gà thì bò vào. Và nó bắt gặp ba con ngan, liền rướn bạnh cổ ra, phun phè
phè. Hai ngan lớn lật đật chạy. Bởi rắn ấy là ông Ba Mươi, đối với các loài vật
trong nhà. Cũng chẳng biết có phải vì sợ mà vợ chồng nhà ngan chạy, có khi chẳng
biết sợ cũng nên. Chú ngan nhỏ chậm chân, bị rắn tiêm một nhát vào lưng. Tội
nghiệp, chú nằm quay lơ, giẫy giụa một lát thì gục xuống chết. Con rắn lừ đừ
trườn đi mất.
Sáng hôm sau, Lặc thấy xác con ngan nằm chết rũ. Nhìn một vệt
dài lằn nhẵn trong rãnh bùn ướt từ dưới ao lên trên gậm chuồng, Lặc biết ngay
là con ngan kia bị rắn phun. Nó chạy vào nhà, hô hoán ầm lên. Lũ trẻ thập thò
ra xem, níu nhau, rón rén bước từng bước một, như sợ con rắn nguy hiểm hãy còn
luẩn quẩn đâu quanh ở đấy.
Lặc xách cẳng con ngan lên. Nó ngắm nghía và nói :
- Hoài của. Thế lày mà rắn cắn chết. Thịt ăn đương mềm nắm.
Chốc nữa tôi vào xin ông mang về...
- Ăn?
- Chứ nỵ gì! Hôm lọ, con gà chọi tôi cũng mang
về ăn đây. Chỉ phải bỏ cái diều đựng cơm thôi. Ngon đáo để. Tôi gì, thịt ăn chẳng
có, có thịt vứt đi.
- Nhưng đằng này rắn phun độc lắm.
- Độc xộc vào mồm. Tôi đếch sợ.
Lũ trẻ xanh mắt lại. Chúng chắc rằng ăn thịt ngan rắn cắn, thể
nào nhà Lặc cũng chết ngay đuôi ra. Lặc mang con ngan về.
Nhưng sáng hôm sau, Lặc vẫn đến như thường. Mặt mũi vẫn hồng
hào và cái bụng vẫn như chiếc trống cái. Cả bọn trẻ xúm lại.
- Ăn hết thịt ngan chưa?
- Mấy con lữa cũng hết bay.
- Thế thực anh không sợ nọc rắn độc hử?
Lặc nói nhỏ, ra lối bí mật :
- Sợ quái gì. Núc nuộc gà thì bỏ một cái đinh lăm phân
vào lồi. Sắt kỵ nhau với rắn, thế nà nọc rắn tan ra lước.
Chỉ phải bỏ đi có lước suýt, còn thì nhắm được tuốt!
Lũ trẻ ngẩn ngơ nhìn nhau. Ra lối phục cái mẹo ấy là đúng.
Con ngan nhỏ cuối cùng chết đi, hết dấu vết của đàn ngan.
Không ai nhớ nữa. Cả mẹ và cả đến cha chúng. Tàn mùa hè thì hoa xoan rụng.
Hai vợ chồng nhà ngan lại quanh quẩn. Chồng là một chàng ngan
bạch. Thằng cha to gấp đôi vợ. Loài này, bao giờ đực cũng lớn hơn mái. Toàn
thân trắng muốt. Nhưng ở cuối mỏ, sùi lên những mụn đỏ. Nếu nó in ít, có thể tưởng
đấy là trứng cá của loài ngan, nhưng đây nó dầy bì bì, đỏ tía như màu hoa mào
gà và ngay ở trên trán, mụn đỏ cũng mọc cao lên như một cái nấm. Những cái mụn
đỏ ấy làm xấu dáng của ngan, dù là một con ngan trắng muốt. Vì còn có những thứ
ngan khác, hoặc đen biếc, hoặc trắng đốm đen, bẩn như những bà già trong làng
đi chợ mùa lạnh mà mặc váy rách vá chùm vá đụp.
Nhưng vẫn chỉ vì tính nết của ngan làm cho người ta ít ưa
chúng.
Chàng ngan kia bướng bỉnh lạ. Nếu bị người đuổi, chàng chỉ rảo
từng bước thủng thỉnh. Và lại còn thò cổ lại "hỏi han" người ta. Nếu
chỉ bị đuổi xoàng, chàng còn mổ lại người ta là đằng khác nữa. Chàng không nhát
như mấy anh vịt, lúc nào cũng chỉ đứng ngẩn tò te ra nghe ngóng để rình chạy.
Song chắc là vốn bẩm sinh ra thế, chứ thực ngan ta chẳng có tâm tính chi. Đã một
lần, có một đứa trẻ ngắt hai chiếc lá khoai san hà. Nó vật hai con ngan xuống
và lấy lá khoai chùm kín cả đôi bên mắt của chúng. Đôi ngan bừng mắt ra, thấy
màu xanh xanh của lá phủ trên mặt thì quên hết cả trước sau. Chúng cho rằng
chúng đương được lơ mơ ở trong bụi cỏ. Bụi cỏ non xanh và mát. Thế là chúng cứ
nằm chỏng chân lên, im lặng không nhúc nhích, cho mãi tới lúc hai chiếc lá khô
cong, hé nhìn lên thấy trời, mới lóp ngóp bò dậy. Lại thủng thỉnh bước một,
gieo những bước nặng lạch bạch xuống nền sân.
Một hôm chàng ngan lừ đừ ra đầu ngõ. Hắn đi ngơ ngác lờ phờ,
lắc lư cái mình, lắc lư cái chân, mà lắc lư cả đến chiếc đuôi ngắn củn. Bất đồ
gặp một đứa trẻ độ ba bốn tuổi, chập chững đi vào trong ngõ. Ngõ hẹp và sâu, có
những cây xoan cao, thân mốc trắng, cành nặng trĩu những chùm quả chín khô,
vàng thẫm. Thằng bé cũng trông thấy con ngan. Nó cởi trần, cởi truồng nhưng nó
không sợ ngan chút nào. Nó thò tay ra vớ lấy đầu con vật. Chàng ngan cũng chẳng
sợ thằng bé, chàng liền rúc một mỏ vào rốn nó. Thấy buồn buồn, nó lấy tay gạt
đi. Chàng ngan lại rúc nữa. Lần này chàng rúc xuống phía dưới. Đúng. Thế là
chàng cứ bặp bặp hai cái mỏ, vừa lôi vừa nhay thằng bé.
Thằng bé giãy giụa, gào "Mẹ ơi! Mẹ ơi!" ầm lên. Mọi
người chạy ra thì bé đã cố dứt được cái mỏ ngan tai quái ra rồi. Chẳng ai ngờ
là gã ngan đờ đẫn nọ lại vừa đánh nhau với thằng bé. Bởi thằng bé chưa biết nói
sõi. Nó chỉ khóc. Mà gã ngan thì vẫn đứng cạnh đấy, thò dài cổ ra "hỏi
han" mọi người, với một điệu ngẩn ngơ.
Người ta tưởng có một ổ kiến lửa chi đó ở quanh đấy.
° ° °
Sau nhà, có một vườn cải. Đấy là một khoảng đất tận góc vườn
đằng kia, giáp bờ ao, vun xới bón tưới do công trình của Lặc. Cũng là ở trong
vườn, nhưng Lặc rào kín bốn phía. Để đề phòng sự tàn phá của bọn gà vịt nghịch
ngợm. Chỉ hở mỗi một cái cửa nhỏ. Mỗi ngày hai buổi, Lặc xách vò nước vào tưới.
Bốn luống cải chạy đều một hàng. Màu xanh tươi tắn trải lên
trên màu đất vàng sẫm. Có luống vừa bén chân, mới trổ được đôi ba tờ lá bé. Những
mảnh lá xanh rờn, có khía răng cưa xung quanh, khum xuống sát đất. Cải này trồng
để ăn vào tết Nguyên Đán. Cũng có luống những tầu lá cải đã vồng cao. Khía lá
rách mảnh vào chiều sâu. Ở giữa chòm lá lòe xòe, vươn lên một cái thân dài mụ mẫm
và phấn trắng. Đầu thân, lơ thơ có những chùm hoa nhỏ, những chùm hoa của những
đóa hoa nhỏ xíu ấy, nở ra những cánh vàng li ti. Đó là những luống cải đã già rồi
để làm dưa. Nhưng vườn chỉ đẹp, khi những cây cải già nở hoa vàng. Có không biết
bao nhiêu bướm trắng từ xứ mô tê nào rủ nhau đến chơi vườn cải. Chúng họp thành
đàn, bay rập rờn trên từng cánh lá. Chỉ bay thôi mà không đậu. Những cánh trăng
trắng phấp phới trên nền cải xanh lốm đốm hoa vàng. Lại thêm mưa xuân về sớm.
Mưa không ra mưa, mà là trời đổ bụi mưa xuống. Trước gió hiu hiu, những bụi trắng
bay loăng quăng, vẩn vơ.
Căn vườn xinh xinh là thế, mà một bữa kia, có kẻ phàm phu nào
vào bới tung hết cả lên. Chỉ vì hôm ấy, Lặc tưới vườn nhưng lúc ra quên cài
then cửa. Một lúc sau, nghe có tiếng khịt khịt thở mũi. Rồi lại tiếng chân lạch
bạch. Rồi thì một cái mỏ vàng to bè bè, hai con mắt lơ láo và cả cái đầu đỏ
khé, thò vào trong phên. Thấy phên ngỏ rộng, hai cái chân thấp lũn chũn cũng
rún lên nữa: à, chàng ngan đực đương ỳ ạch leo vào vườn. Chàng vừa leo vào
xong, còn đứng nhởn nhơ nhìn khu vườn man mác một màu xanh ngợp mắt, thì ở
ngoài lại có tiếng thở, lại có tiếng chân đi, lại có cái đầu đỏ nữa thò vào.
Con mụ! Mụ ngan cũng nhảy vào vườn nốt.
Ôi chao! Thực là hả hê, thực là phê pha. Mấy khi có được những
lá xanh non và mềm thế kia để cho mát ruột. Vợ chồng nhà ngan cắm cúi vặt mổ lá
cải. Chúng tỉa từng lá, xốc ngoem ngoẻm. Chúng ăn những cây lá cải non.
Chúng nằm xệp cả xuống giữa luống mà xốc xoàn xoạt. Vừa ăn, vừa
giày vò, vừa ngoe nguẩy cái đuôi lý thú. Chẳng bao lâu quang đãng hết một góc
hai luống cải. Còn trơ lại mặt đất những cái gốc trụi. Ăn mệt ư? Không, chỉ vỗ
cánh đành đạch, đứng nghỉ ngơi một lát rồi lại tiếp tục. Chúng ăn vô hồi kỳ trận.
Vườn cải nát hết. Đàn bướm trắng lờn vờn trong bụi mưa. Bụi mưa vẫn phơi phới
xuống. Hai cái mỏ, hai cái chân, giẫm và nuốt tan hoang cả.
Cuộc tàn phá đương dữ dội thì có một đứa trẻ đi ra vườn, nghé
qua khe nứa, trông thấy, nó hoảng hốt chạy vào trong nhà.
Cu Lặc hớt hơ hớt hải chạy ra. Môi nó mắm lại. Những bước
chân giận dữ vang thình thịch, có thể dẫm chết cả chó. Có đứa cướp vườn cải! Có
đứa cướp vườn cải! Làng nước ơi, hại cu Lặc chưa!
Lặc giương to đôi mắt mà nhìn vào vườn, hai con ngan mải ăn,
không biết. Đến lúc Lặc bước vào thì chúng mới nghếch mắt lên nhìn, nhưng lại
cúi xuống ngay, lại xốc lá cải liền liền. Lặc thì Lặc, nhà ngan ít cần, mà nói
rằng chúng chẳng cần mới đúng. Cửa ngỏ thì đi vào. Có lá non đấy, tha hồ xơi tự
nhiên. Giản dị lắm. Nhưng người ta lại không thể nghĩ giản dị như vậy.
Lặc co cẳng đá phốc anh ngan đực một cái. Thằng nỡm bắn bổng
lên, chúi vào khe giậu. Con mụ cũng được ăn một đá tương tự. Chúng lóp ngóp bò
dậy, và trong lúc thảng thốt, không hiểu thế nào ra thế nào cả. Chúng vươn cái
cổ chĩa là là xuống, trợn mắt lên, đồng thanh cất tiếng kêu kíu kíu. Cái gì thế?
Cái gì thế hử?
Lặc đá liền liền. Lũ trẻ reo à à. Mỗi lần bị ngã mà lóp ngóp
bò dậy, hai con ngan lại càng vươn thưỡn cổ ra, đôi mỏ đánh vào nhau cặp cặp.
Như cố ý hỏi rồi kháng cự lại. Chúng quay cổ nghênh địch, không chịu chạy. Lặc
đá tới tấp. Loài ngan khỏe thực. Người đá lắm chỉ nghe tiếng bồm bộp. Sau, Lặc
xách cổ cả đôi ngan, đem nhốt vào chuồng. Nó cài kỹ lưỡng cả hai cái chốt lại.
Vợ chồng nhà ngan bị bỏ tù. Cho đến lúc ấy, chúng vẫn không
hiểu chi, cứ vung cổ ra kêu kít kít, rất bướng.
Ba hôm sau, đôi ngan được thả ra. Chúng vỗ cánh, rướn chân,
bay vè vè trong sân. Nhưng bỗng nhiên, chàng ngan đực vù lên cao. Chị vợ cũng nối
cánh. Hai con ngan trắng phau phau bay bổng lên không trung, thấp thoáng trong
nền mây trắng. Chúng bay cả ra cánh đồng. Thực là một sự bất ngờ kỳ khôi. Loài
ngan có bay biếc trên trời bao giờ đâu. Kỳ tình ngan cũng biết và có thể bay
cao lắm. Nhưng ít khi chúng trổ tài cho thiên hạ rõ. Chắc là mấy bữa nay cậu mợ
quẩn chân lắm, bây giờ đã được tự do thì xê dịch lên trên trời một tí cho sướng
cái thân.
Lặc co cẳng chạy đuổi theo. Hai con ngan hạ cánh xuống giữa
cánh đồng. Lặc túm được và lại xách cổ cả hai, bôông bêêng lôi chúng về nhà.
° ° °
Chàng ngan đực bị xử tội chết ngay ngày hôm sau.
Người ta bày ra một cái bát chiết yêu. Một đứa trẻ túm hai
cánh ngan, giơ cao lên. Một đứa khác cầm hai chân, Lặc tóm cổ ngan, vặt nhẵn một
tụm lông ở phía mỏ dưới. Nó kề lưỡi dao vào đấy, khía mạnh một cái. Máu đỏ tươi
chảy xuống bát. Con ngan giương mắt ra thở khò khè. Nhưng cái màng trắng ở một
bên mi kéo lên, khép kín đôi mắt ấy lại. Nó giẫy mấy cái mạnh, rồi nhuôi ra.
Mụ ngan đứng cạnh, nhìn vớ vẩn. Mụ nghĩ ngợi chi? Vẫn thò ra
thụt vào cái cổ, như là thản nhiên. Thực mụ cũng chẳng biết người ta đương xúm
lại để làm gì chồng mụ. Giống này có nhớ chi biết chi. Một việc qua rồi, được
coi tựa như việc chưa có lần nào đã tới. Mụ chỉ nhớ khi có hạt ngô đo đỏ, hạt
thóc vàng vàng, tàu lá xanh xanh thì xô đến khởi sự ăn.
Mụ chưa bị chết. Mụ chỉ phải xén cụt hai đầu cánh, để từ giờ
cụt hứng bay. Nhưng án của mụ cũng đã được tuyên. Ông ngoại tôi nói:
- Còn con ngan này thì đến hăm ba, cho nó về chầu ông Công.
Tô Hoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét