Công dân mới xóm Chùa
Năm thứ ba đại học, tôi bị đuổi khỏi ký túc xá vì khuya nào cũng vượt cổng, leo
tường. Ông quản lý viết bản tường trình lên ban giám hiệu cho rằng tôi nhậu nhẹt,
đàn đúm, "nhảy múa". Không phải vậy. Quán cà phê tôi chạy bàn bưng bê
đến 12 giờ đêm chủ quán mới cho nhân viên nghỉ việc. Tôi túc trực ở quán từ lúc
phố vừa đỏ đèn, lương tháng bốn trăm ngàn đồng, tiêu pha dè dặt, đủ tiền ăn học.
Tôi ôm rương đến xóm Chùa thuê nhà trọ. Xóm Chùa nổi danh tệ nạn xã hội. Những
tấm liếp, vải bạt được phủ lên tạm bợ; con đường dẫn vào ngoằn ngoèo, nước từ
các hộ thải ra có, nước cống rãnh từ nhà máy bao bì to tướng ngoài đường xì vào
cũng đầy. Bạn bè khuyên tôi đừng đến đây. Tôi có gì phải sợ! Tuổi thơ mười lăm
năm lăn lóc ở khu chợ nghèo Nghĩa Trung, tám năm tôi cày cục trong thiếu thốn ở
làng Châu, ba năm đại học tôi vừa làm vừa học, va chạm với quá nhiều thành phần...
Tài sản tôi mang đến xóm Chùa có gì ngoài ba bộ quần áo không còn hợp thời và đống
sách vở.
Dân xóm Chùa từ các xứ đổ về, nhiều nhất là miền Trung, kế đến miền Bắc. dân miền
Tây chiếm số ít. Ngoài phụ hồ, chạy xe ôm, đĩ điếm, ma cô, còn phần đông hành
nghề tu giả. Những ông, những bà, những anh, những chị, thằng nhóc, con bé cạo
đầu nhẵn bóng, áo thụng cà sa, ôm bình bát, tay nải sách bói toán... đi vào các
ngôi chùa lớn trung tâm phố gạ gẫm khách nước ngoài cùng thân đồ tín nữ. Kiếm
được bao nhiêu, dân xóm Chùa bỏ bụng bấy nhiêu. Ở xóm Chùa hai tháng, tôi chưa
thấy người nào giàu; ăn nhậu thì có nhiều. "Đại đức Lân" là ví dụ điển
hình. Lân cắn đùi cầy, ngấu nghiến, nói:
- Túng quá làm liều, mày?
"Nhưng anh còn có khả năng làm nghề khác", tôi định mở miệng.
- Xài sang, làm việc nhẹ nhàng quen rồi, mày!
Lân ngửa cổ đón những giọt rượu mầu đỏ chạch.
Căn nhà tôi thuê của bà cụ điếc, giá ba chục ngàn một tháng. Bà cụ lúc trước có
cô con gái, từ ngày cô này lấy chồng Đài Loan, cô ta không tin tức gì về cho mẹ.
Bà cụ đêm ngồi góc tối, lần tràng hạt.
Lân nói với tôi, bà cụ thành tâm thờ Phật. Còn Phật của Lân là Phật giả.
Chính quyền địa phương cùng các phương tiện thông tin đại chúng nhiều lần truy
quét, lên án tệ nạn tu hành giả ở xóm Chùa, nhưng việc ra tay nhổ tận gốc thì
chưa rốt ráo. Một tháng Lân bị chính quyền mời lên một lần, nhắc nhở, viết cam
kết nhưng chứng nào vẫn tật ấy. "Nhốt tao vào tù chỉ tổ tốn cơm", Lân
ngang tàng. Một phần chính quyền không rảnh để theo dõi mãi những thành phần
như Lân; một phần việc Lân làm chưa gây tác động mạnh đến xã hội; một phần nữa,
Lân giỏi đối phó. Tôi nghĩ thế.
Bình thường Lân đội tóc giả, mặc đồ "dân sự", ăn nói bặm trợn.
Lân tự hào:
- Tao tu giả, nhưng sống thật!
Lân muốn ám chỉ gì? Tôi. Không, tôi đâu dám ba que xỏ lá với dân xóm Chùa. Tôi
sống giả với tôi thì có.
Tôi vừa bị chủ quán đuổi việc. Tội tôi gian lận tiền bạc. Chuyện bất nguồn từ sự
bày vẽ của thằng bạn (cũng sinh viên như tôi, nhưng khác ngành).
Khách quán tôi ngồi toàn trai gái đang yêu, ban đêm chở đến quán ghế đôi, chọn
góc tối tình tự. Nhân viên tính tiền ít khi khách chú ý giá, trừ khách quen. Thằng
bạn bày tôi "chém". Lần đầu tiên tôi run tay, cũng lần đầu tiên tôi bị
chủ quán chộp cổ. Té ra đã nhiều lần khách phản ánh với chủ quán vì hiện tượng
gian lận của đám nhân viên. Chủ quán phải giữ uy tín với khách, và chủ quán phải
dạy nhân viên tính liêm chính.
Tôi rời quán hai ngày, nghe thằng bạn giới thiệu cho chủ quán đứa nhân viên mới,
cũng sinh viên đi làm thêm.
Tôi bị mất việc, lâm vào tình cảnh bi đát. Bà cụ tinh ý phát hiện, cho tôi trọ
và ăn cơm với điều kiện khi có tiền tôi trả đủ. Tôi vui bởi xung quanh còn những
người có tấm lòng. Cha tôi từng nói cái khó nhất của đời người là thời gian để
tìm hiểu người khác. Cha tôi thích mặc đồ cũ, chơi với người cũ. Tôi thích mặc
đồ mới, quan hệ với nhiều người, nhưng tìm bạn tâm giao thì khó quá.
Vợ Lân dân giang hồ. Cặp này đúng câu "Trai tứ chiếng...". Vợ Lân tên
Bé Hai, ở quán bia lúc Hồng, lúc Cúc, lúc Thủy... Bữa nào có tiền kha khá, đủ
xài, tối Lân không cho vợ ra khỏi cửa. Những lúc như vậy nằm bên nhà bà cụ (nhà
Lân sát vách nhà bà cụ), tôi nghe rõ tiếng giường Lân cút kít, cút kít...
Bé Hai ăn nói đốp chát, tục tĩu. Ả máu mê tứ sắc, ngồi lê đôi mách. Ả khoái chọc
chuyện đời tư người khác. Một lần ả hỏi cặn kẽ thành phần gia đình tôi. Tôi
không dối ả điều gì, cả chuyện chú Hiếu cuỗm bộ "Dân sinh toàn tập"
cùng chuyện cha tôi có thời gian lén chạy xích lô phụ tôi ăn học.
Ả la lên:
- Kinh khủng quá, nhưng có thật không cha nội?
Ả không tin chú Hiếu tôi đọc nhão "Dân sinh toàn tập" mà tham ô công
quỹ. Ả cũng nghi ngờ dân ăn học mà nghèo túng, xuất thân từ bần nông gốc rạ.
Cũng có thể "Thượng đế" đến với ả phần đông những tay ăn học nghiêm
túc, nhiều người tước vị đầy ngực, tiền vung như rác...
Túng tiền, tôi không còn thú vui đến trường. Tôi nằm bẹp dí trong căn nhà; bốn
góc đầy hợp âm chuột, thằn lằn, gián; ngoài đường tiếng cãi cọ chửi tục ầm ĩ.
Tôi cũng thường đạp xe long rong đến các quán sách cũ, ngồi mân mê những tác
gia tôi hằng kính phục. Càng túng tôi càng khát khao và ngộ nhận.
Tôi mơ trở thành nhà văn lớn có những trang sách để đời cùng đám độc giả chờ
tác phẩm của tôi như đói chờ cơm. Nhà văn cần yếu tố gì? Thầy ở trường dạy tôi
quan niệm kiến thức, vốn sống, tạng... Kiến thức tôi có, vốn sống tôi không ít,
tạng tôi gân guốc. Vậy sao tôi chưa cầm bút?
Chẳng còn ai tâm sự, tôi qua nhà Lân, giữa lúc Lân đang gỡ tóc giả ra khỏi đầu,
chuẩn bị uống rượu. Lân nghe xong, cười hô hố.
- Mày mà làm nghệ sĩ? Tao khuyên suy nghĩ lại - Sau khi bỏ miếng chả dồi qua kẽ
răng, Lân nói tiếp - Tao thấy tụi nghệ sĩ đói nhăn răng! Nếu mày muốn kiếm tiền,
tốt nhất là theo tao.
Tôi cạo đầu, mặc cà sa, mang bình bát, tay nải như Lân? Tôi cười văng nước bọt.
Con người tôi mà tu giả? Nếu cha tôi biết được, thế nào ông cũng đập cho bể mặt.
Tôi lắc đầu. Lân khoát tay.
- Tùy mày. Tao không ép. Dù gì thằng có học như mày cũng biết xoay cách.
Ở gần, tôi tởm Lân. Bộ cà sa hắn không bao giờ giặt, cả tháng tôi mới thấy hắn
giũ giũ rồi đem phơi nắng; bộ tóc giả thì khỏi nói, khứu giác tôi không chịu nổi.
Tính cha tôi ghét nhất ở dơ, đến đôi dép nhựa cũ mèm, ngày nào ông cũng chà đi
chà lại.
Cuối cùng, tôi cũng tìm được việc làm. Thông qua mẩu quảng cáo nhỏ xíu nằm góc
khuất một tờ báo, tôi biết được có một tập san số lượng phát hành hạn chế cần
tuyển một cộng tác viên.
Sau khi nhìn kỹ thân hình, kiểm tra sơ qua trình độ, ông thư ký tòa soạn chịu
nhận tôi. Công việc tôi không có gì khó, chỉ tốn công tôi chạy khắp các chợ lớn
nhỏ trong thành phố, tìm hiểu giá gạo, nếp dầu, cùng giá thịt heo, bò để viết
tin.
Bài đầu tiên của tôi được xài. Tôi cầm vài ngàn tiền còm lòng không vui không
buồn. Công việc cứ thế trôi qua.
Lân biết chuyện, hỏi tôi:
- Nếu báo mày cần điểm người đi chùa thì tao giúp - Lân cười - tiền công là hai
xị cùng đĩa cầy càng tơ càng tốt.
Tôi đi làm, có tiền trả cho bà cụ. Và khi có tiền sự vui thú đến trường trong
tôi trở lại.
Một lần, ông thư ký đưa mục phiếm đàm xã hội cho tôi, bảo tôi viết thử. Thật
ra, hàng ngày đối mặt với dân xóm Chùa, chất liệu đời sống trong tôi ngồn ngộn.
Phiếm đàm đầu tiên tôi đề cập đến vấn đề nạn tu giả. Báo lên khuôn, tòa soạn nhận
được thư khen ngợi. Ngặt nỗi, tôi chỉ nhận nhuận bút bởi bài ký tên ông thư ký.
Tôi không đem tờ báo về nhà trọ. Chẳng hiểu sao, chiều, Lân ném tờ báo trước mặt
tôi:
- Đ.m mày, mai tao đập vào mặt thằng phóng viên tòa soạn mày.
Tôi năn nỉ Lân đủ điều, nào đâu phải báo tôi mới lên án chuyện này, người viết
bài này chỉ làm theo sự chỉ đạo của cấp trên. Lân vẫn nóng bừng bừng. Tôi bắt đầu
dọa hắn, nếu anh quậy thì có khả năng anh bị đòn và thằng em này cũng sẽ bị mất
sở làm!
Chắc Lân nghĩ lại. Hôm sau và mấy hôm sau nữa tòa soạn tôi vẫn không có biến cố
nào.
Tôi viết phiếm đàm say mê. Nội dung tôi sâu sát nhân tình thế sự; câu cú tôi
gãy gọn, khúc chiết; lập luận tôi lô-gíc; tư duy tôi đủ chuyện Đông chuyện
Tây... Thư khen ngợi, điện thoại gọi về tòa soạn tôi rối rít. Tên tuổi ông thư
ký được dân báo chí, cùng đám độc giả đánh giá có tầm cỡ. Tôi cũng được lợi,
nhuận bút ngày càng tăng. Ông thư ký chiều cuối tuần chở tôi đến quán uống bia,
ôm gái. Trời xui đất khiến, một hôm tôi gặp mặt Bé Hai.
Hôm sau, cả xóm Chùa biết tin một thằng sinh viên là tôi ăn chơi trác táng. Bé
Hai tung tin tôi từ trước đến giờ mang mặt giả, giả nghèo, giả khổ để ăn cơm, sống
nhờ tiền bún riêu bà cụ.
Ả chỉ phía tôi, rồi khoanh hai ngón tay bàn tay trái vào nhau, sau đó ả đưa
ngón tay của bàn tay phải "thụt" vào.
Lân hỏi tôi có chuyện đó không. Tôi lấp lửng. Trước khi bỏ đi, Lân nghiến răng:
- Tùy mày, đểu đâu cũng được, phải trừ bà cụ.
Tôi đểu? Tôi đểu cái gì chứ?
Tôi nằm xoay qua xoay lại, không tìm được câu trả lời. Bên kia giường tre của
Lân phát tiếng cút kít, cút kít...
Số lượng phát hành báo tôi tăng từ hai ngàn đến ba chục ngàn, ngoài sức tưởng
tượng! Lúc đầu trên những bài tin giá cả thị trường tôi ký tên thật, sau ký tắt
lung tung. Giai đoạn này ông thư ký chỉ yêu cầu tôi viết tốt phiếm đàm, phần
"râu ria" có cũng được, không có cũng chẳng sao.
Bà cụ nấu bún riêu bằng thứ nước đùng đục - nước mua của gã chở thùng phuy bán
dạo. Một khối nước gã bán sáu ngàn.
Một đêm hứng chí, trong phiếm đàm, tôi nêu lên tình trạng thật giả trong xã hội,
đơn cử trường hợp chính tác giả mắt thấy cách nấu bún riêu bằng nước cống của một
bà già ở xóm Chùa! Nội dung tôi đề cập đến ghê rợn đến nỗi đọc xong, ông thư ký
khạc nhổ liên tục. Số là lúc sáng ông đưa vợ con đi ăn quán.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét