Xóm nhỏ
Khi gia đình Mai dọn về Ngã Tư Bình Hòa thì nó vừa lên tám. Anh Tú hai mươi và
chị Thơ mười tám, đang mang bầu thằng Phương.
Trước đó hai năm, chỉ có một mình ba lên Sàigòn ở tạm nhà chú Sáu Tuấn bên Thị
nghè. Ba giữ chân kế toán trưởng cho một viện bào chế thuốc tây vào hạng lớn nhứt
Sàigòn thuở đó. Ông chủ người Pháp quanh năm ở tuốt bên Kinh đô ánh sáng. Năm
thì mười họa mới giá lâm một lần để xem nhân viên mần ăn ra sao ? Mọi việc đều
giao cho một quản lý người Việt nên cái màn " vắng chủ nhà gà vọc riêu
tôm" cũng có lúc xảy ra. Trong đám phụ tá của ba Mai có chú Thạnh, nhỏ hơn
ba năm, sáu tuổi nhưng số nhi đồng lại đông gấp đôi, nên nhà chú thường xuyên
thiếu trước hụt sau. Có lần thiếm Thạnh vô nhà thương mổ ruột dư, túng quá chú
đành vô văn phòng của ba, gãi đầu gãi tai một hồi mới ấp úng :
- Anh Thăng, vợ em nằm nhà thương... (thở dài!), em cũng biết là làm phiền anh
lắm, nhưng mà... (chắc lưỡi...), em hết biết tính sao!
Ba Mai không nói không rằng, rút đại một cái hoá đơn của một nhà thuốc nào đó
còn thiếu tiền, đưa cho chú Thạnh:
- Nè, đi đòi đi. Rồi tháng sau ráng trả lại cho đàng hoàng nghe không.
Chú Thạnh hớn hở cầm cái hóa đơn cứu mạng, miệng cám ơn rối rít.
Ba thích giúp đỡ mọi người nên được các đồng nghiệp yêu mến. Thỉnh thoảng mấy
chú kéo đến nhà Mai nhậu nhẹt, cả anh chàng dược sĩ trẻ người Pháp từ Paris
qua. Má Mai làm đồ nhậu là số một.
Sau này, thấy mỗi lần má dẫn Mai lên Saìgòn thăm ba cực khổ quá, vì phải đi tàu
từ Cao Lãnh qua Sađéc. Không muốn phiền người quen nên má và Mai phải ngủ qua
đêm trên mui tàu, sáng hôm sau mới lấy xe đò lên Sàigòn. Nội qua cái bắc Mỹ Thuận
cũng mất mấy tiếng đồng hồ. Thành thử quãng đường chỉ dài độ 140 cây số mà phải
đi cả ngày mới tới. Má còn cụ bị lủ khủ nào gạo, khô, gà vịt, trái cây... Lần
nào cũng bị lơ xe cằn nhằn. Đó là chưa kể tình hình dưới quê rất lộn xộn. Lính
Quốc gia. Lính Hòa Hảo. Việt Minh. Người dân ở giữa giống như trái độn. Nạn cướp
tới thăm có khi một tháng đôi lần.
Mai nhớ lần nọ má và chị Thơ chở một ghe xoài qua bán bên tỉnh Bến Tre, Mai phải
qua ở với ông bà nội. Đêm đó ngày rằm nên trăng sáng vằng vặc. Mai ngủ chung với
bà nội ở gian nhà giữa. Chị Yến con cô Hai ngủ trên bộ ván gỏ cạnh cửa sổ ngó
ra vườn. Không hiểu cao hứng gì mà đêm đó chị gác một chân lên thành cửa sổ. Nửa
đêm giựt mình, có cảm tưởng như hai cánh cửa nhúc nhích. Chị ngồi bật dậy ngó
qua khe cửa thấy một người mặc đồ đen, vai đeo súng đang cố sức kéo cho cánh cửa
bật ra. Chị la:
- Cướp! Cướp! Cậu bảy ơi, ăn cướp!
Cả nhà tỉnh ngủ tức thì. Bà nội kéo Mai chun xuống gầm giường, con nhỏ run như
cầy sấy. Bà mò xuống bếp lấy cái mâm thau hay nồi đồng gì đó Mai cũng quên mất,
chun trở vô gầm giường, tay vừa gỏ xèng xèng, miệng niệm Phật lia lịa. Ông nội
có chổ bí mật để ngủ mỗi đêm, nên không khi nào lên tiếng. Nghe tiếng báo động
của bà nội, cả xóm kẻ gõ nồi, người gõ mâm, người khác gõ mõ vang rân cả xóm.
Chị Yến gan lì hết sức, vừa chạy vòng vòng vừa ngó qua khe cửa. Trong nhà tối,
bên ngoài trăng sáng như ban ngày, mỗi lần thấy bóng một tên cướp, khoảng 3 đứa,
đi xung quanh nhà, gặp cửa nào cũng giựt thử là chị lại thét lên - chắc đế cướp
tinh thần địch:
- Nó nè cậu bảy ơi. Chỉa đâu đưa đây con đâm nó (!??)
Chú Bảy cũng phụ họa:
- Đâu đâu. Để đó cho tao!
Lính ở đồn Mỹ An bên kia sông, xéo xéo nhà ông nội nghe tiếng báo động bên Tân
An liền bắn qua mấy tràng súng thị uy. Bọn cướp thấy không xong bèn rút lui có
trật tự...
Mờ sáng hôm sau, vị hôn phu của chị Yến, ở tuốt luốt bên xã Mỹ Ngãi, lật đật
qua vấn an người yêu. Chị cười lỏn lẻn hỏi sao biết, thì anh Dương cũng rất thiệt
thà thổ lộ rằng, tối hôm qua, lẫn trong tiếng xèng xèng, cóc cóc, anh còn nghe
tiếng cướp cướp được phát ra từ cái giọng Soprano "vượt bức tường âm
thanh" của chị, bay qua tận bên nhà của anh. Tuy rằng hai nhà cách nhau một
cánh đồng xa độ cây số rưỡi. Vì vậy anh thấp thỏm đợi hừng sáng là qua
"thăm dân cho biết sự tình ". Thấy chị bình an vô sự anh rất mừng.
Mai không biết khi khám phá ra cô vợ tương lai có cái giọng "cao hơn người"
này - chị Yến vốn cao chưa tới thước rưỡi - anh Dương có lo sợ cho hai cái màng
nhỉ của anh không nữa?!. Cứ vậy, không thành công lần này chúng tiếp tục trở lại
hỏi thăm sức khỏe lần khác. Tuy không tổn thất vật chất, nhưng tinh thần lại
thiệt hại trầm trọng. Ba thấy vậy kêu cả nhà lên Sàigòn ở luôn.
Ba má mua lại một căn nhà mái tôn, vách bổ kho nho nhỏ trên đường Lê Quang Định.
Sau này buôn bán khá, căn nhà được nới rộng thêm ra. Nhà cách ngả tư độ trăm
thước đi về hướng chợ Cây Quéo. Cũng nhờ bác Ba Đại của Mai an cư lạc nghiệp tại
xóm này hơn hai mươi năm rồi. Bác có tám ngườii con - năm trai, ba gái. Lớn nhứt
là anh Hai Jean. Nhưng bị mọi người "nhất trí" kêu là Răng. Lúc ông
Diệm lên chấp chánh bắt phải đổi lại quốc tịch Việt. Không hiểu do óc khôi hài
cao độ hay vì lý do nào khác, anh lấy tên là Nguyễn Văn Vàng. Từ đó tên anh trở
thành Hai Răng Vàng, tuy cả hai hàm, kiếm bảy ngày cũng không ra cái răng vàng
nào hết. Anh giống bác Ba trai, đẹp như tài tử Mỹ, cái miệng lại trơn như thoa
mỡ. Mỗi lần anh ghé thăm là cả nhà cười nghiêng cười ngửa. Ông bà già vợ quý
anh như vàng. Hai ông bà trước sau chỉ có hai cô con gái rượu. Chị Tâm và chị
Nguyệt. Anh lấy cô em là chị Nguyệt. Tin tưởng tuyệt đối nơi chàng rể quý, nên
năm ba bữa bà má vợ lại nhờ:
- Răng à, chở dùm chị hai con vô Chợ Lớn khui hụi cho má. Bữa nay má ể mình đi
hổng được!
- Răng à, chở chị hai con vô nhà bà Tôn đòi tiền dùm má. Trời Phật ngó xuống mà
coi. Thiếu có năm ngàn mà đi mòn đường cũng hổng chịu trả. Ứ hự!!
Cho tới một hôm chị Tâm khăn gói ra đi không một lời từ biệt cha mẹ già. Tra khảo
riết, cuối cùng anh Răng cũng phải thú thiệt là đã đem chị Tâm dấu một chỗ chờ
ngày đập bầu. Vì ngoài những chuyện bà má vợ nhờ làm, anh còn thày lay làm luôn
những chuyện bả không hề nhờ tới mới là khổ!!
Nghe tin động thiên đình bà già lăn ra sàn gạch khóc lóc thảm thiết, nhưng cuối
cùng cũng đành chấp nhận thương đau !! Nhưng từ đó hai chị em không thèm nhìn mặt
nhau nữa. Riêng cái mục sản xuất nhi đồng thì không bà nào chịu thua bà nào. Cứ
chị Tâm một đứa thì chị Nguyệt một đứa cho huề!
Nhà bác ba Đại ở ngay mặt đường cái. Kế đó là quán cà phê, hủ tiếu của vợ chồng
chú ba Lâm. Mỗi buổi sáng quán này đông nghẹt khách tới ăn điểm tâm. Phần lớn
là dân thợ thuyền hoặc phu xích lô. Hai ông bà không con, nuôi một con chó vàng
khôn hết sức. Không hiểu sao một bữa cao hứng, chú cẩu ta chạy băng qua đường
(chắc thấy một bóng hồng nào đó đang nhởn nhơ bên kia chăng ? Vì chỉ có tình
yêu mới khiến cho muôn loài đâm ra mù quáng, không còn sợ trời sợ đất gì hết!) bị xe xích lô máy cán chết tươi. Thiếm ba khóc quá chừng vì thương chú cẩu
này như con... Nhà Mai kế bên nhưng thụt sâu vô trong. Khoảng sân trước giáp với
quán cà phê. Mỗi buổi sáng, Mai chỉ cầm cái ly bước vô sau bếp chú ba Lâm là có
cà phê sữa nóng hổi và khi thì cái bánh tiêu, khi cái giò chéo quảy, dĩa xíu mại
đem về cho ba ăn sáng trước khi đi làm. Gần đường, sát vách quán má Mai chất đống
củi khô bán cùng xóm. Vì thời đó nhà nào cũng chụm củi hoặc chụm than. Mỗi tối,
cơm nước xong, cả nhà quây quần ở chiếc bàn tròn trước sân. Nói chuyện tầm phào
hoặc nghe ké mấy tuồng hát bội từ cái ra dô bên quán cà phê. Vì vậy ngay từ nhỏ,
Mai đã thuộc lòng chuyện Bà Chung Vô Diệm với lão vua dê xồm Tề Tuyên Vương. Mỗi
lần nghe cái giọng khẩn cầu thảm thiết của lão khi giặc tràn tới biên cương:
- Hậu ơi Hậu. Hậu ráng cứu trẫm chuyến này. Trẫm thề sẽ...v..v..và v..v... để rồi
sau đó, khi bà dẹp xong giặc trở về, lão ta lại nghe lời mấy con Thứ phi xí xọn
dèm xiểm, kiếm mọi cách tống bà vô lãnh cung là Mai lại tức cành hông. Có lần
nhỏ hỏi má:
- Má à, sao bà Chung Vô Diệm giỏi võ như vậy, mà lúc bị đày vô lãnh cung, bả hổng
chém cho ông vua một nhát để ổng chết phứt cho rồi ?
Chị Thơ háy một cái lạnh lùng luôn:
- Vậy cũng nói ! giết "thằng chả" chết rồi là hết chuyện, lấy đâu cho
mày nghe mỗi buổi tối?
Má cũng nói ối chuyện người ta đặt ra mà, hơi đâu thắc mắc! Vậy chớ Mai cũng cứ
ấm ức! Cái bà Chung Vô Diệm ngoài chiến trường thì oai phong lẫm liệt, trước mặt
lão vua già lại yểu xìu như cái bánh tráng ướt ! Lão chỉ cần "thở" ra
vài lời đường mật là bà ta lại hồ hởi đem thân xông pha ra chiến trường dẹp giặc.
Có lần vác cái bầu gần ngày sanh ra trận. Bị kẹt trong vòng vây, bèn đẻ rớt
luôn một hoàng tử giữa trận tiền. Trong khi đó lão vua già phây phây ở nhà ôm ấp
mấy con Thứ Phi cà chớn ! Bà Chung Vô Diệm hiền chớ Mai là chém ráo trọi. Từ
lão dâm tặc cho tới mấy mụ thứ phi cà chua. Chị Thơ nói con nhỏ này mới nứt mắt
mà đã dữ như bà chằn. Mai mốt chắc ở giá hổng ai dám rước!
Sát vách nhà Mai là nhà cô Bảy Huệ. Lúc gia đình Mai tới định cư thì họ đã ở đó
rồi. Bà mẹ lúc đó độ ngoài năm mươi, tóc hoa râm, rất đẹp người. Cô bảy độ chừng
hăm lăm, hăm sáu tuổi và thằng Bảo là con người anh ruột của cô. Nghe bác Ba
gái nói ông này theo lính Bình Xuyên đóng bên kia cầu chữ Y. Nó bằng tuổi Mai
mà sáng nào cũng ngồi trước hàng ba khóc nhèo nhẹo cho tới khi bà Hai Cần, bà nội
no,ù xì tiền ra cu cậu mới chịu nín. Ba cấm không cho Mai chơi với nó. Ông nói
ba nó là giặc Bình Xuyên. Mai thấy thiệt là vô lý. Ba nó theo Bình Xuyên có phải
tại nó xúi đâu mà bắt lỗi nó? Vì vậy sau giờ học, Mai hay lén qua sân nhà cô Bảy
Huệ để chơi nhảy lò cò với thằng Bảo. Trường Mai học ở gần nhà trong khi ba đi
làm tuốt ngoài đường Catinat. Nhưng phải canh chừng, hể thấy bóng chiếc Alcion
trờ tới trứơc cửa nhà nhỏ Kim Châu, cách nhà Mai hai căn, là phải lẹ lẹ nhảy
phóc qua cái lan can mà về tức thì, nếu bị bắt tại trận tối đó sẽ bị phạt quỳ...
Thật ra cho tới bây giờ, nghĩ lại tình cảnh cô Bảy Huệ lúc bấy giờ, Mai không
biết nên thương hay nên trách?
Cô Bảy người tầm thước, nước da bánh mật, miệng hơi móm duyên, cười khoe hai
hàm răng nhỏ rức. Không phải sắc nước hương trời, nhưng là một nhan sắc hiền diệu,
ưa nhìn. Cô nói năng rất nhỏ nhẹ, chừng mực. Sáng nào Mai cũng thấy cô mặc bộ đồ
nữ quân nhân , đúng giờ một chiếc xe nhà binh tới ngừng trước ngõ, rước cô đi
làm. Chiều cũng chiếc xe nhà binh đó đưa cô về. Ngoài giờ làm việc Mai chưa thấy
cô đi chơi với bạn trai bao giờ, tuy rằng thời đó, ở tuổi cô, có thể nói là đã
lỡ thời! Mai không biết lương hướng của cô ra sao, chỉ biết ngoài mẹ cô là bà
Hai Cần (mắc bịnh ghiền đánh tứ sắc) cô phải cưu mang thêm thằng Bảo. Mất mẹ sớm,
ba nó lại đi lính Bình Xuyên giao đứt nó luôn cho má con cô nuôi. Thấy nó côi
cút tội nghiệp, đôi khi bà Hai cưng chiều quá đáng. Sau này, khi quân chính phủ
dẹp tan đám Bình Xuyên, ba thằng Bảo bị bắt ở tù. Vì vậy ngoài má con cô Bảy Huệ
và thằng Bảo, nhà không bao giờ có bóng đàn ông... Vậy mà một bữa đi học về, mới
tới đầu ngõ Mai thấy một người đàn ông trọng tuổi từ trong nhà cô Bảy đi ra.
Dáng người hơi thấp, mập mạp, trắng trẻo, tóc hoa râm. Nhìn ông, người ta đoán
ngay được là dân có tiền. Tò mò Mai đứng lại nhìn. Ra tới cổng, ông ta còn dòm
bên trái, bên phải như kiếm ai rồi mới đeo cặp kiến đen, bước hối hả ra đường,
đi về hướng ngã Tư Bình Hòa. Mai vô nhà gặp chị Thơ đang nấu cơm chiều, nhỏ kể
luôn:
- Em mới thấy có một "ông già" từ nhà cô Bảy Huệ đi ra.
Chị Thơ thì thầm, vì bếp nhà Mai sát vách nhà cô Bảy:
- Ổng là "mèo" của cô Bảy đó.
Mai nhảy dựng như bị phỏng lửa:
- Cái gì? Mèo của cô Bảy?
Chị Thơ cú lên đầu Mai một cái đau điếng:
- Nhỏ họng chút coi. Mày la om sòm bên kia "họ" nghe được làm sao?
Mai vừa vò đầu vừa nhăn nhó:
- Chị có lộn hông đó. Chắc ổng là "mèo" của bà Hai...
Chị Thơ xì một cái:
- Mày biết gì mà nói. Hôm kia bà Hai qua đây "tâm sự", khóc lóc một
trận quá trời với má đây nè. Bả nói tại nghèo, lại cần tiền lo cho ba thằng Bảo
ra khỏi tù, nên có người bà con làm mai cho cô Bảy làm bé ông này, cổ đành ưng
thuận. Ổng có vợ mà gần hai mươi năm nay bả cứ trơ trơ, chẳng chịu chửa đẻ cho ổng
đứa con nào hết trơn. Mà ổng thì giàu quá trời. Chủ một hãng xe đò, tới cả chục
chiếc lận. Ổng ham con lắm nên chịu bảo bọc hết gia đình cô Bảy. Hổm nay tao thấy
ổng vô đây mấy lần rồi đó. Nghe đâu ổng gần năm mươi tuổi , nhưng nhờ giàu có tẩm
bổ nhiều thành thử còn "chiến" lắm. Mày hổng để ý lúc này cô Bảy đâu
còn đi làm nữa.
Ờ há, cả tháng nay Mai không thấy chiếc xe nhà binh mỗi sáng tới rước cô Bảy
như thường lệ. Nhưng ai đâu để ý "chiện" người lớn ? Bữa nay chị Thơ
nhắc Mai mới nhớ ra. Rồi sau những lần gặp gỡ lén lút tại nhà cô Bảy, kết quả
là cái bụng cô mỗi ngày một lớn thêm ra. Ông Kiện mừng hết lớn luôn. Bình thường
ông ta đến và đi đều trong giờ làm việc, chắc để bà vợ khỏi nghi , đậu xe xa xa
rồi mới tà tà đi bộ đến cái "tổ oan ương". Mỗi lần người khách quý
này tới là bà Hai Cần phải kiếm cớ, khi thì xách giỏ đi tuốt xuống chợ Bà Chiểu,
lúc lại dọt qua nhà Mai ngồi tán dóc với má ít lâu cho "đôi trẻ" mần
việc - Mà họ làm việc này rất nghiêm chỉnh, vì đối với ông Kiện, thì giờ thật sự
là tiền bạc! Có lẽ sung sướng quá nên ông đâm ra bất cẩn, không coi chừng cẩn
thận như trước. Một ngày đẹp trời đi học về, Mai thấy một bà đứng tuổi - cở má
- phốp pháp, mặt mày đầy son phấn đứng trứơc cổng nhà cô Bảy (đương nhiên là được
cài móc phía trong rất kỹ để phòng hờ...). Bàn tay có những móng sơn đỏ chót,
đang xiûa xói vô nhà, miệng chửi dòn tan. Lối xóm bu lại coi đông nghẹt. Bả
phân bua:
- Từ mấy tháng nay tui biết là thằng chả có mèo. Theo dõi riết bây giờ mới bắt
được tại trận. Tui biết chắc là tụi nó đương hú hí với nhau ở trỏng. Rồi bả
nghiến răng trèo trẹo rít lên:
- Trời ơi thằng già dịch. Đầu hai thứ tóc rồi mà còn ngu (?) đem tiền
cho"con ngựa" đáng tuổi con nó ăn. Trời ơi là trời ! Tui có lầm lỗi
gì đâu mà bị đối xử tàn nhẫn như vầy? Đồ ác nhơn thất đức! Tội nghiệp, bả quên
là trong xã hội Việt Nam, vợ chồng lấy nhau không con cũng là một vấn đề trọng
đại. Có được bao nhiêu người đàn ông rộng lượng? Phần nhiều là các ông hay chụp
ngay cái cớ đó để lập phòng nhì, phòng ba. Réo đôi gian phu dâm phụ ra chửi tơi
bời hoa lá mà thấy trong nhà vẫn áng binh bất động, bả đâm mất hứng đành lui
binh, sau khi ném lại một câu đe dọa xanh dờn:
- Rồi tụi bây sẽ biết tay tao!
Nghe nói chiếc Peugeot 203 của ổng đậu tuốt ngoài ngả tư, gần rạp Cao Đồng Hưng
bị bà Hoạn Thư đập tan tành hết mấy cái kiếng. Thôi thì không bị đốt như chồng
cô Hườn là may rồi, nhằm nhò gì ba cái kiếng xe!
Sau đó, không biết ổng về điều đình với bà vợ ra sao mà không thấy bả trở lại
đánh ghen cô Bảy Huệ nữa. Thằng Toàn ra đời trong sự vui mừng tột cùng của ông
Kiện. Đầy tháng của nó, cô Bảy cúng nguyên một con heo quay to tướng. Bà Hai
đem biếu hàng xóm mỗi nhà một phần ăn lấy thảo. Mai còn nhớ lúc nó được đâu
năm, sáu tháng gì đó, ông Kiện bị tai nạn gẫy một chân phải nằm nhà thương. Vậy
mà ngày nào ổng cũng bắt tài xế chở tới đậu trước cổng nhà, cô Bảy Huệ ẳm thằng
Toàn ra cho ổng nựng nịu, hôn hít một hồi rồi mới chịu trở vô nhà thương. Thấy
đống đồ chơi của nó mà bắt thèm. Chị Thơ sanh thằng Phương trước nó năm tháng,
mà tội nghiệp quanh đi quẩn lại chỉ có hai ba món đồ chơi quèn. Bù lại nó là đứa
cháu đầu nên được cả nhà cưng như cưng trứng. Nó lại đẹp quá trời nên ba lúc
nào cũng trong tư thế sẵn sàng móc... hình thằng cháu ngoại ra khoe!...
Ngay phía sau hè nhà cô Bảy là gia đình bác Hân, người Bắc, mới di cư vào Nam
được gần năm nay. Bác trai độ bốn mươi tuổi nhưng gầy còm, mặt mũi nhăn nheo
như trái táo khô. Con trai lớn nhứt mới mười sáu và đứa út bảy tuổi. Cả nhà từ
lớn tới nhỏ cộng thêm hai người thợ suốt ngày đánh vẹc ni đàn. Đủ thứ:
guitare, mandoline, violon. Chỉ đánh vẹc ni thôi, xong rồi đem giao chỗ khác.
Vì vậy hể mở cửa sau là nghe "nồng nàn" mùi vẹc ni, bắt nhức cái đầu
! Mai không hiểu sao cả nhà bác Hân có thể hít thở cái mùi khó ngửi này quanh
năm ngày tháng? Chị Thơ nói thì quen lỗ mũi chớ sao. Giống như bác ba gái nhà
mình ghiền dầu cù là, lúc nào cũng thủ một chai trong túi áo. Bác Hân trai mắc
bịnh suyển. Đôi khi đang làm, bác ngưng tay, vói lấy cái điếu cầy rít thuốc lào
ròng rọc, sau đó lại nổi cơn ho sù sụ, cái lưng cong như con tôm luộc! Bác Hân
gái hiền, cũng ốm o, hàm răng trên hô, chìa ra khỏi cặp môi dày lúc nào cũng sẵn
sàng toét ra cười. Tội nghiệp bác, tối ngày chúi đầu trong bếp nấu ăn cho chồng
con và đám thợ.
Cạnh bác Hân, tức ngay sau hè nhà Mai, chỉ cách cái sân rộng độ ba thước là nhà
bà cụ Hiền. Cụ cũng khoảng sáu mươi, người nhỏ bé ( bây giờ gọi những người sáu
mươi bằng cụ dám bị vác chiếu ra tòa vì tội... phỉ báng!). Tóc còn đen mượt, được
vấn trong chiếc khăn nhung đen. Lần đầu, Mai giựt mình khi thấy cụ cười khoe
hai hàm răng đen thủi đen thui. Mai tưởng cụ bị sâu răng, nhưng sau mới biết tại
cụ nhuộm. Theo phong tục ngoài Bắc, đàn bà phải răng đen mới đẹp. Hổng giống
"người Việt" mình, răng trắng chừng nào đẹp chừng nấy, má nói. Cụ có
một người con duy nhứt là cô Lành, trắng trẻo, mảnh khảnh, trái với ông chồng
tên Thịnh, mang lon trung sĩ, nghe đâu lớn hơn cô cả một con giáp. Chú Thịnh to
lớn, mặc đồ nhà binh đầy vẻ oai vệ. Có lần cụ than với má:
- Khổ lắm bà ơi. Thân tôi góa bụa, lại chỉ có một mụn con gái, không ở với nó
thì ở với ai? Ông rể thì suốt ngày lầm lầm, lì lì không nói một lời, nên mình
cũng chẳng biết nó thương hay nó ghét. Thôi thì cứ cắn răng mà chịu!
Nói xong cụ rơm rớm nứơc mắt. Đều đều, sáng sớm cụ bưng một thúng xôi bắp nóng
hổi, đi một vòng vô xóm trong độ hai tiếng đồng hồ là hết nhẵn. Thú thật cho tới
bây giờ Mai cũng chưa hiểu tại sao người Bắc kêu xôi bắp là xôi lúa? Có lần Mai
ngây thơ hỏi cụ ơi, lúa làm sao mà nấu thành xôi được hả cụ? Cụ cười khoe hàm
răng đen nhánh:
- À, thì từ xưa người ta vẫn gọi thế!
Nhà cụ còn một nhân vật mà Mai rất thích là chú Phong, em họ chú Thịnh. Chú
Phong thuộc loại bạch diện thư sinh, tuổi chỉ độ ba mươi, ăn nói duyên dáng.
Đôi khi chú qua nhà Mai chơi, gặp bữa cơm, má mời:
- Mời chú Phong dùng ba hột cơm với gia đình tui cho vui.
Chú giả bộ sửng sốt:
- Trời, bà chị chỉ mời em đúng có ba hột cơm thôi à? Chưa đủ cho em nhét kẽ
răng nữa là!!
Cả nhà ai cũng cười má, vì tuy ở Saigòn mấy năm rồi mà vẫn không bỏ được cái
câu "ăn ba hột cơm cho chắc bụng". Ba nói ba hột cơm của má bây chắc
là ba hột cơm Thạch Sanh! Cụ Hiền kể cho má nghe hồi còn ngoài Bắc, gia đình
chú Phong ở dưới quê giàu lắm. Chú bị tảo hôn nên mới lên mười đã bị nhà cưới
cho một cô vợ tới hai mươi cái xuân xanh. Lúc hết tiểu học, chú phải lên Hà Nội
ở trọ để học tiếp. Mỗi lần về quê chơi trở lên, cô vợ có phận sự phải theo hộ tống
ông chồng hỉ mũi chưa sạch này. Có điều rất mất mặt bầu cua là chú đi vé trẻ
con và cô vợ thì phải mua vé người lớn. Khỏi nói, với làn sóng di cư năm năm
tư, chú rất hồ hởi đơn ca bản: Tung cánh chim tìm về tổ...khác. Chú âm thầm
theo gia đình chú Thịnh xuống Hải Phòng lên tầu há mồm đi một lèo vô Nam.
Khít vách nhà cô Bảy Huệ là gia đình cô Tư Kim Anh, em bà con của thiếm Ba Lâm,
chủ tiệm cà phê kế nhà Mai. Cô Tư ốm yếu xanh xao, lúc nào cũng buồn rười rượi
! Chớ vui sao đựơc mà vui ? Mới ba mươi hai cái xuân xanh mà cô đã phải
"quản lý" một đàn con bảy đứa! Con Mỹ Lan lớn nhứt lên mười và thằng
cu út mới biết bò. Ông chồng lính kín của cô tối ngày nồng nực mùi rượu, lại mắc
chứng bịnh ghen kinh niên. Đi làm thì thôi, về nhà là ổng kiếm chuyện gây gỗ,
đánh đập cô rất tàn nhẫn. Tiếng chưởi bới, la hét, khóc lóc từ nhà cô vọng ra
thường lắm. Mới đầu chú thiếm ba Ba Lâm còn nóng ruột em, chạy qua can gián,
nhưng bị ông em rể trời đánh này "xực" luôn:
- Bộ anh chị là đồng lõa của con vợ tui hay sao mà binh nó? Muốn ở tù rục xương
hả?
Chú thiếm đành phó mặc cô em với định mệnh đau thương ! Mai có gặp cái thằng
cha ác ôn đó vài lần, mà lần nào cũng thấy cặp mắt, chắc là đỏ ngầu, của chả dấu
kỹ sau cặp kiến đen, mặt mũi sần sùi coi rất dữ dằn, sặc mùi... lính kín!
Giữa tiệm cà phê chú Ba Lâm và nhà bác ba Đại là con hẽm chạy ngoằn ngoèo vô rất
sâu trong xóm. Sở dĩ nó ngoằn ngoèo là vì bà con trong hẽm khi cất nhà không
thèm theo một nguyên tắc nào cả mà tùy hứng, lồi ra thụt vô một cách rất
"tự ro". Vì vậy mà tất cả các con hẽm ở cái đất Sàigòn đều ngoằn
ngoèo như những cái ruột gà! Phiá mặt đường, ngay góc tiệm cà phê là giang sơn
của bà Năm Hậu. Đối với Mai lúc đó thì bà đã già lắm rồi. Chiếc khăn rằn đỏ
quanh năm trùm mái tóc bạc trắng. Khuôn mặt và hai bàn tay nhăn nheo, đen sạm
vì suốt ngày dãi nắng, dầm mưa. Không chồng cũng chẳng có con, bà thui thủi một
mình trong căn nhà lá ngay phía sau nhà bác Ba Đại và sống nhờ vào cái sạp hàng
nhỏ xíu trước quán cô Ba Lâm. Cái sạp gỗ cao hơn mặt đường độ hai tấc. Trên đó
bày đủ thư,ù mà trăm phần dầu là nhằm vào các bà, các cô và các đấng... nhi đồng:
cóc được gọt vỏ, tỉa ra từng cánh để xơi cho lẹ, ổi mận, chùm ruột, me, soài sống...
bên cạnh tô muối ớt giã đỏ tươi và tô mấm ruốt để chấm những thứ kể trên. Vài
hũ kẹo bột, thèo lèo cứt chuột, bánh in, bánh tai heo... và cái món mà bà moi
tiền tụi nhóc nhiều nhứt là món khô mực nướng. Từng miếng khô cắt vuông vức độ
bốn ngón tay, được nướng trên lửa than. Than cháy đỏ đựng trong cái soong nhôm
cũ móp méo thảm hại. Lúc chín tới, bà để lên trên cái thớt me dày cộm, rồi dùng
cái búa nhỏ đặp nhẹ cho tới khi miếng khô mực tơi ra, sau đó mới phết lên trên
một lớp tương ớt mỏng. Chèn đét, mới hồi tưởng lại đã chảy nước miếng ! Tội
nghiệp bà, bữa nào nắng ráo thì khá, những hôm mưa dầm, chẳng có ma nào mua, lại
còn bị nước mưa tạt vô ướt nhẹp, phải dọn hàng về sớm. Phần lớn số tiền má cho
Mai đều chạy tuốt vô túi bà năm Hậu qua những trái cóc, ổi, khô mực nướng. Phần
còn lại nộp mạng cho cái xe nước đá nhận trước nhà con Bích Thủy. Má cấm không
cho Mai với nhân vật này vì trên đầu nó có nuôi khoảng... một triệu con chí!
Chỉ cần vén một nhánh tóc lên thôi, là cả một sư đoàn chí đực, chí cái, chí mén
rơi xuống ào ào như sao sa lá rụng! Về sau nó phải cạo trọc đầu mới thanh toán
nổi cái đám chí khổng lồ đó. Vậy mà ở trường, thầy nào, cô nào cũng cố gắng
nhét cho bằng được vô đầu đám học trò vô tội cái câu: ở đời có... chí thì nên! Hay có lẽ tại má chưa từng nghe câu này nên mới cấm Mai không được có chí? Hỡi
ơi bà đâu có biết cái hậu quả tai hại Mai phải gánh chịu là cho tới bây giờ,
Mai chẳng có một ly ông cụ ý chí nào hết. Làm cái gì cũng bỏ dỡ nửa chừng! Phải
chi hồi nhỏ...
Buổi tối, khi đèn đường bắt đầu bật sáng, không biết từ đâu một chiếc xe mì được
đẩy tới trấn thủ ngay phía trước nhà bác Ba Đại, dưới tàn cây trứng cá. Bao giờ
cái tiếng tắc xịt, tắc xịt của hai thanh gỗ cũng vang lên từ xa, trước khi bóng
dáng chiếc xe mì xuất hiện. Mùi thơm từ mấy thùng nước lèo xông lên điếc mũi.
Chiếc xe đẹp hết ý. Bên trên những thùng nước lèo và dưới cái mái nho nhỏ che
mưa nắng là một giàng kiếng có bốn mặt. Một mặt được vẽ sự tích Tề Thiên Đại
Thánh - Một mặt vẽ sự tích Tiết Đinh San cầu Phàn lê Huê và hai mặt nhỏ hai bên
chỉ vẻ chim chóc, hoa lá, tất cả đều tô mầu sắc rực rỡ. Chủ nhân là chú Woòng,
người dong dỏng cao, trạc độ ba mươi ngoài, trên môi lúc nào cũng có sẵn nụ cười
cầu tài, tay thì xóc mì lẹ như người ta múa kiếm. Mỗi lần anh Hai Răng vô thăm
bác Ba đều được đám em út "queo - cơm" hết mình, vì mười lần hết chín
anh cho phép "xực" mì thả cửa.
Tới trể hơn xe mì một chút là gánh cháo huyết của một ông Tàu già. Mai không biết
tuổi, nhưng thấy ông già lắm, lại ốm yếu hom hem. Tuy vậy tiếng rao cháo...
huy...ết... ết... của ổng còn vang rất xa. Cho tới bây giờ, Mai chưa được ăn lại
một tô cháo huyết nào ngon như những tô cháo huyết của Ông Tàu già ngày xửa
ngày xưa. Những hạt gạo trắng ngần, nở bung, đặc sánh lại với nhau. Những miếng
huyết màu đỏ sậm không bao giờ vỡ vụn khi cháo bị khuấy lên, mềm dịu trên đầu
lưỡi. Cái kéo trong tay ông cắt xầm xập những miếng dầu cháo quẩy vàng rợm, dòn
tan lẹ thoăn thoắt. Rắt chút tiêu, thêm chút hành lá đã có một tô cháo huyết
thơm ngon, béo ngậy dù chẳng có một miếng thịt nào...
Sau này nghĩ lại Mai thấy thiệt hú vía. Vì ngoài hai cái địa danh rất ư là bất
lợi : ngã Ba Chú Ía và ngã Năm Chuồng Chó, ba má lại chọn đúng cái ngã Tư Bình
Hòa để cư ngụ. Giống y như tên, cái xóm nhỏ của Mai thiệt là hiền lành, dễ
thương. Ngoài cái ông lính kín say sưa và hay ghen ẩu kia, mọi người đối xử với
nhau rất thân tình. Ngay cả cô Bảy Huệ, tuy mang tiếng làm bé ông Kiện mà cả
xóm cũng không ai nhìn cô bằng cặp mắt khinh khi rẻ rúng. Mai cũng không hề thấy
chuyện trộm cướp xảy ra lần nào. Chỉ có một lần cả xóm náo loạn vì cô Loan con
bà Ba Trà Huế ở ngay phía sau nhà bác Đại bị đáng ghen. Cô có một đời chồng
nhưng người này bỏ vô bưng theo Việt Minh. May mắn chưa có mụn con nào nên cô về
ở với mẹ. Bà ba có sạp bán nước trà huế dưới chợ Bà Chiểu, nhưng cô Loan lại
theo người quen đi buôn hàng chuyến miệt Ban Mê Thuộc. Đi buôn lâu ngày cô cặp
với một anh tài xế xe hàng. Mấy ông này phần lớn thuộc giống đa tình. Mấy bà lại
muốn lợi dụng chở hàng vừa nhiều vừa rẻ, nên hai bên đều sẵn sàng kẻ cho người
nhận. Vui vẻ cả làng!
Trung bình một tháng cô Loan đi buôn chừng hai ba chuyến. Mỗi chuyến độ năm
ngày. Thời gian còn lại cô ở nhà hoặc ra quán phụ mẹ chút đỉnh. Khi nào ông bồ
cô tới hú hí thì hai người đóng cửa ở lì trong nhà suốt ngày. Cả xóm ai cũng biết
vì ông ta tới bằng chiếc xe mô tô, máy nổ bành bạch rùm trời đất. Một bữa nọ
ông ta vừa tới độ nửa giờ thì một đám ba bà trên dưới ba mươi tuổi, mặt mày hầm
hầm đi vô hẻm. Tới trước cửa nhà cô Loan, nhìn thấy chiếc xe mô tô thì một bà
nói đúng chỗ này rồi. Chắc chắn thằng khốn nạn đó đang hú hí với con ngựa bà ở
trỏng. Chị em, tụi mình tiến vô. Vừa nói bà này vừa đạp cửa rầm rầm, miệng réo
tên chồng và tình địch chưởi um sùm. Nhà bà ba Trà Huế vách bổ kho, mái lá.
Cánh cửa bằng cây thô sơ coi bộ chống không được mấy lăm hơi. Cả xóm nghe ồn ào
bu lại coi đông nghẹt. Bỗng cánh cửa mở bất thình lình, một người đàn ông đi
chân đất, mặc trần sì cái quần xà lỏn, tay ôm áo sơ mi và cái quần tây chạy ào
ra, vẹt mấy người đang bu trước cửa, phóng lên chiếc mô tô giông mất. Mấy bà
đánh ghen bất ngờ phản ứng không kịp đành để tên gian phu cao bay xa chạy. Bắt
tên này không được họ bèn trút giận lên đầu con dâm phụ. Vậy là a lê hấp ba bà
Hoạn Thư xông vô nhà đè cô Loan xuống đánh một trận tơi bời. Mái tóc dài đẹp đẽ
bị xởn nham nhở như người bị đau ban mới dậy! Lối xóm còn xầm xì với nhau là cô
Loan bị mấy bà chằng lột trần truồng, xát muối ớt vô ... Vì họ nghe bà vợ bị cắm
sừng la lớn sặc mùi thù hận: tưởng cái của mày dát vàng dát ngọc gì mà thằng chồng
tao mê đắm mê đuối. Trận này bà cho mày tởn tới già, hết dám quyến rũ đàn ông.
Và tiếng thét đầy sự đau đớn của cô Loan khiến mọi người nổi da gà, nhưng không
ai dám vô can. Khi bà Ba hay tin tất tả chạy về thì chỉ gặp cô con gái nằm trên
giường, thân thể bèo nhèo như chiếc mền rách. Sau trận bị đánh ghen tơi bời
này, cô Loan mắc cỡ bỏ xóm đi luôn.
Khi cô út của Mai dọn nhà ra Nha Trang buôn bán, cô nhường cái tiệm tạp hóa của
cô lại cho má trông coi. Ba má Mai bán căn nhà ở Bình Hòa dọn về Bến Chương
Dương, gần nhà đèn Chợ Quán. Mai không thích lắm, vì cái tiếng u u từ nhà đèn
phát ra rất là khó chịu. Má nói riết rồi cũng quen. Tụi bây thử tưởng tượng những
người không nhà cửa ở dưới gầm cầu chữ Y, sát bên nhà đèn, họ còn chịu được huống
chi mình ở xa gần hai cây số.
Thỉnh thoảng cả nhà trở về xóm cũ thăm bác Ba Đại. Bác gái ráp bo : ông Kiện đã
ly dị bà vợ, chia đôi số xe đò và bây giờ chánh thức ở luôn với cô Bảy Huệ. Để
đền đáp cái tình sâu nghĩa nặng này, cô sanh thêm cho ổng hai đứa con gái nữa.
Hèn chi đi ngang nhà cũ thấy đã lên thêm một từng lầu. Thôi cũng mừng cho cổ.
Bà cụ Hiền theo con rể đổi về miệt Hậu giang, mất liên lạc luôn. Chú Phong nhứt
định ở lại Sàigòn, tiếp tục cuộc đời độc thân vui tính. Gia đình bác Hân làm ăn
khấm khá, đổi ra căn nhà ngoài mặt tiền đường, có trương bản hiệu đàng hoàng và
hai ông bà cũng phát tướng, mập mạp hơn xưa.
Cô Tư Ánh sau lần sẩy thai vì bị ông chồng lính kín "âu yếm" hơi nặng
tay, đợi thằng chả đi làm, cô dẫn bầy con bảy đứa trốn luôn về nhà cha mẹ cổ ở
tuốt dưới Trà Vinh. Ông ta tìm xuống, năn nỉ cách mấy cổ cũng nhứt định hát bài
"Kiếp nào có yêu nhau" của nhạc sĩ Phạm Duy, trong đó có những câu rất
hợp với cô như: Đừng nhìn nhau nữa anh ơi - Xa nhau đã xa rồi, quên nhau đã
quên rồi - Đừng "tìm" chi, đừng tìm chi nữa anh ơi...! Ông ta đành
trở về Sàigòn tiếp tục tìm vui trong men rượu đắng và trút mối hận lòng bằng
cách "hỏi han sức khỏe" một cách tận tình mấy người bị lính kín bắt...
Phần bà Năm Hậu sau một trận sưng phổi nặng vì trúng mưa, tuổi già sức yếu chịu
không nổi cũng đã từ trần. Hàng xóm láng giềng kẻ ít người nhiều, đóng góp lại,
làm cho bà một cái đám tang nho nhỏ. Vậy cũng xong một đời cô quạnh! Chỉ có xe
mì chú Woòng và gánh cháo huyết của ông Tàu già vẫn bền theo năm tháng...
Ôi cái xóm nhỏ thân thương. Với muôn vàn nhớ nhung, nhưng Mai không thích sống
lại cái cảnh ngỡ ngàng của Từ Thức, khi giã biệt chốn Thiên Thai để trở lại
làng xưa... Biết bao vật đổi sao dời. Mai muốn cái Xóm Bình Hòa nhỏ xíu muôn đời
là một kỷ niệm long lanh trong tâm tưởng của mình mà thôi!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét