Tôi sống độc lập từ thủa bé
Một sự ngỗ nghịch đáng ân hận suốt đời
Lứa sinh ấy, chúng tôi có cả thảy ba anh em. ba anh em chúng
tôi chỉ ở với mẹ hai hôm. Tối hôm thú ba, mẹ đi trước, ba đứa tôi tấp tểnh, khấp
khởi đi sau, nửa lo nửa vui theo sau. Mẹ dẫn chúng tôi đi và mẹ đem đặt mỗi đứa
vào một cái hang đât ở bờ ruộng phía bên kia, chỗ trông ra đầm nước mà không biết
mẹ đã chịu khó đào bới, be đắp tinh tươm thành hang thành nhà cho chúng tôi từ
bao giờ.
Tôi là em út, bé nhất, nên được mẹ tôi, sau khi dắt vào hang. lại bỏ theo một
ít ngọn cỏ mẫm trước cửa để nếu tôi còn bỡ ngỡ thì đã có thức ăn sẵn trong vài
ngày.
Rồi mẹ tôi trở về.
Tôi cũng không buồn. Trái lại, còn lấy làm khoan khoái vì được ở một mình nơi
thoáng đãng mát mẻ. Tôi vừa thầm cảm ơn mẹ, vừa sục sạo thăm tất cả cái hang mẹ
đưa đến ở. Khi đã xem xét cẩn thận rồi, tôi ra đứng ngoài hang ngẩng mặt nhìn
trời. Qua những ngọn cỏ ấu nhọn và sắc, tôi thấy màu trời trong xanh. Tôi dọn
giọng, vỗ đôi cánh ngắn đến nách rồi cao hứng gáy lên mấy tiếng rõ to.
Từ đây, tôi bắt đầu vào cuộc đời của tôi. Cho dù tôi sẽ sung sướng hay tôi khổ
sở, cái đó tuỳ ở tính tình tôi khôn ngoan hay đần độn. Song tôi chưa cần biết đến
thế, tính đến thế. Mà hãy lấy sự được ung dung độc lập một mình là điều thích lắm
rồi.
Ngày nào cũng vậy, suốt buổi tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất làm
thành cái giường ngủ sang trọng. Rồi, cũng biết lo xa như các cụ già trong họ dế,
tôi đào hang sâu thành hai ngả làm thành những con đường tắt, những cửa sau, những
ngách thượng, phòng khi gặp nguy hiểm có thể thoát thân ra lối khác được.
Chập tối, tôi tạm nghỉ tay và ra đứng ngoài cửa, họp cùng anh chị em hàng xóm
quanh bờ ruộng vừa gảy đàn vùa hát một bài hát hoàng hôn tạm biệt ông mặt trời.
Khi đêm đã xuống hẳn, cả xóm chúng tôi, các bô lão dế lụ khụ già cốc đế cũng bỗng
nhiên vui tính, ai nấy ra khỏi hang, đến tụ hội thật đông tận giữa bãi trong
đêm tối mát lạnh, cùng uống sương đọng, ăn cỏ ướt và những gã tài hoa thì gảy
đàn thổi sáo, cùng nhau ca hát, nhảy múa linh đình đến tận sáng bạch, lúc ông mặt
trời quen thuộc lại nghiêm trang ló lên đằng đông, mới tan cuộc, ai về nhà đấy.
Ngày nào đêm nào, sớm nào chiều nào cũng ngần ấy thứ việc, thứ chơi. Kể đời mà
được như thuế cũng khá an nhàn nhưng mới đầu còn thấy hay hay, về sau cũng nhàm
dần.
Bởi tôi ăn uống điều độ, làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao
lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên cường tráng. Ðôi càng tôi mẫm
bóng. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt. Thỉnh thoảng, muốn
thử sự lợi hại của những chiếc vuốt, tôi co cẳng lên đạp phanh phách vào các ngọn
cỏ. Những ngọn cỏ ngã rạp y như có nhát dao vừa lia qua. Ðôi cánh tôi, trước
kia ngắn hủn hoẳn bây giờ thành cái áo dài kín tận đuôi. Mỗi khi tôi vù lên, đã
nghe thấy tiếng phành phạch giòn giã. Lúc tôi đi bách bộ thì cả người tôi rung
rinh một màu nâu bóng mờ soi gương được và rất ưa nhìn. Ðầu tôi to ra và nổi từng
tảng, rất bướng. Hai cái răng đen nhánh lúc nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai
lưỡi liềm má làm việc. Sợi râu tôi dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng.
Tôi rất lấy làm hãnh diện với và con về cặp râu ấylắm. Cứ chốc chốc tôi lại trịnh
trọng và khoan thai đưa cả hai tay lên vuốt râu.
Tôi đi đứng oai vệ. Mỗi bước đi, tôi làm điệu nhún nhẩy, rung lên rung xuống
hai chiếc râu. Cho ra kiểu cách con nhà võ. Tôi tợn lắm. Dám cà khịa với tất cả
mọi bà con trong xóm.Khi tôi to tiếng thì ai cũng nhịn, không ai đáp lại. Bởi
vì quanh quẩn ai cũng quen thuộc mình cả. Không nói, có lẽ họ nể hơn là sợ.
Nhưng tôi lại tưởng thế là không ai dám ho he. ấy vậy, tôi cho là tôi giỏi. Những
gã xốc nổi thường lầm cử chỉ ngông cuồng là tài ba. Tôi đã quát mấy chị Cào Cào
ngụ ngoài đầu bờ khiến mỗi lần thấy tôi đi qua, các chị phải núp khuôn mặt trái
xoan dưới nhánh cỏ, chỉ dám đưa mắt lên nhìn trộm. Thỉng thoảng, tôi ngứa chân
đá một cái ghẹo anh Gọng Vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới đầm lên. Tôi càng tưởng
tôi là rất ghê gớm, có thể đứng đầu thiên hạ rồi.
Chao ôi, tôi có biết đâu rằng: hung hăng, hống hách láo chỉ tổ đem thân mà trả
nợ những cử chỉ ngu dại của mình thôi. Tôi đã phải trải cảnh như thế. Thoát nạn
rồi, mà còn ân hận quá, ân hận mãi. Thế mới biết, nếu đã trót không suy tính, lỡ
xảy ra những việc dại dội, dù về sau có hối cũng không thể làm lại được.
Câu chuyện ân hận đầu tiên mà tôi ghi nhớ suốt đời.
Bên hàng xóm tôi có cái hang của Dế Choắt. Dế Choắt là tên tôi đặt cho nó một
cách chế giễu và trịch thượng thế. Choắt nọ có lẽ cũng trạc tuổi tôi. Nhưng vì
Dế Choắt bẩm sinh yếu đuối nên tôi coi thường và gã cũng sợ tôi lắm.
Cái chàng Dế Choắt, người gầy gò và dài lêu nghêu như một dã nghiện thuốc phiện.
Ðã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn ngủn đến giữa lưng, hở cả mạng sườn như người
cởi trần mặc áo gi-lê. Ðôi càng bè bè nặng nề, trông đến xấu. Râu ria gì mà cụt
có một mẩu và mặt mũi thì lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Ðã vậy tính nết lại
ăn sổi ở thì ( thật chỉ vì ốm đau luôn, không làm được) có một cái hang ở cũng
chỉ bới nông sát mặt đất không biết đào sâu rồi khoét ra nhiều ngách như hang của
tôi.
Một hôm, tôi sang chơi, thấy trong nhà luộm thuộm, bề bộn, tôi bảo :
- Sao chú mày sống cẩu thả quá như vậy! Nhà cửa đâu mà tuềnh toàng. Ngộ có kẻ
nào phá thì thật chú chết ngay đuôi! Này thử xem : khi chú chui vào tổ, lưng
chú phải lồm cồm đụng sát mặt đất, làm cho ai trên vệ cỏ nhìn sang cũng viết
chú đương đi đứng chỗ nào trong tổ. Phòng thử có thằng chim Cắt nó nhòm thất,
nó tưởng mồi, nó mổ cho một phát, nhất định trúng giữa lưng chú, thì chú co mà
đi đời! ôi thôi, chú mày ơi! Chú mày có lớn mà chẳng có khôn.
Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy cho sướng miệng tôi. Còn Dế Choắt than thở thế nào,
tôi cũng không để tai. Hồi ấy, tôi có tính tự đắc, cứ miệng mình nói tai mình
nghe chứ không biết nghe ai, thậm chí cũng chẳng để ý có ai nghe mình không.
Dế Choắt trả lời tôi bằng một giọng rất buồn rầu :
- Thưa anh, em cũng muốn khôn nhưng khôn không được. Ðụng đến việc là em thở rồi,
không còn hơi sức mà đào bới nữa. Lắm khi em cũng nghĩ nỗi nhà cửa như thế này
là nguy hiểm, nhưng em nghèo sức quá, em đã lo ròng rã hàng mấy tháng cũng
không biết làm thế nào. hay là bây giờ em định thế này.....Song anh có cho thì em
mới dám nói....
Rồi Dế Choắt loanh quanh, băn khoăn. Tôi phải bảo :
- Ðược, chú mình cứ nói thẳng thừng ra nào.
Rồi Dế Choắt nhìn tôi mà rằng:
- Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp em một cái ngách sang
bên nhà anh phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy
sang.....
Chưa nghe hết câu, tôi đã hếch răng lên, xì một hơi rõ dài. Rồi với điệu bộ
kinh khỉnh, tôi mắng :
- Hức !Thông sang ngách nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này tao
nào chịu được. Thôi em cái điệu hát mưa dầm sụt sùi ấy đi! Ðào tổ nông thì cho
chết!
Tôi về không một chút bận tâm.
Một buổi chiều, tôi ra đứng trước cửa hang như mọi khi, xem hoàng hôn xuống.
Mấy hôm nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt, nước dâng trắng
mênh mông. Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấp nập xuôi ngược, thế là bao
nhiêu cod, sếu, vạc, cốc le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mông, két ở các bĩa
sông xơ xác tận dầu cũng bay cả về vùng nước mới để kiếm mồi. Suốt ngày, họ cãi
cọ ầm bốn góc đầm, có khi chỉ vì tranh một mồi tép, có những anh Cò gầy vêu vao
ngày ngày bì bõm lội bùn tím cả chân mà vẫn hếch mỏ chẳng được miếng nào. Khổ
quá, những kẻ yếu đuối, vật lộn cật lực thế mà cũng không sống nổi. Tôi đứng
trong bóng nắng chiều toả xuống ánh nước của hang mà suy nghĩ việc đời như thế.
Bỗng thấy chị Cốc từ mặt nước bay lên, đến đậu gần hang tôi, cách có mấy bước.
Chừng rớ được món nào, vừa chén xong, chị ta tìm đến đứng chỗ mát đứng rỉa
lông, rỉa cánh và chùi mép.
Tính tôi hay nghịch ranh. Chẳng bận đến tôi, tôi cũng nghĩ mưu trêu chọc chị Cốc.
Tôi cất tiếng gọi Dế Choắt. Nghe tiếng thưa, tôi hỏi:
- Chú mình có muốn cùng tớ đùa vui không?
- Ðùa trò gì? Em đương lên cơn hen đây, Hừ hừ....
- Ðùa chơi một tí.
- Hừ hừ.....cái gì thế?
- Con mụ Cốc kia kìa.
Dế Choắt ra cửa, hé mắt nhìn chị Cốc. Rồi hỏi tôi:
- Chị Cốc béo xù đứng trước cửa nhà ta ấy hả?
- Ừ
- Thôi thôi...hừ hừ......Em xin vái cả sáu tay. Anh đừng trêu vào.......Anh phải
sợ.....
Tôi quắc mắt:
- Sợ gì ? mày bảo tao phải sợ cái gì ? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa!
- Thưa anh, thế thì, hừ hừ......em xin sợ. Mời anh cứ đùa một mình thôi.
Tôi lại mắng Dế Choắt và bảo:
- Xem tao têu chọc con mụ Cốc đây này.
Tôi rình đến lúc chị Cốc rỉa cánh quay đầu lại phía cửa tổ tôi, tôi cất giọng
véo von:
Cái Cò, cái Vạc, cái Nông
Ba cái cùng béo vặt lông cái nào?
Vặt lông cái Cốc cho tao
Tao nấu, tao nướng, tao xào, tao ăn.
Chị Cốc nghe tiếng hát từ trong đất văng vẳng lên, không hiểu như thế nào, giật
nẩy hai đầu cánh muốn bay. Ðến khi định thần lại, chị mới trợn tròn mắt giương
cánh lên, như sắp đánh nhau. Chị lò dò về phía cửa hang tôi, hỏi :
-Ðứa nào cạnh khoé gì tao thế? Ðứa nào cạnh khoé gì tao thế?
Tôi chui tọt vào hang, lên giường nằm khểnh bắt chân chữ ngũ. Bụng nghĩ thú vị:
"Mày tức thì màu cứ tức, mày ghè vỡ đầu mày cho nhỏ đi, nhỏ đến đâu thì
mày cũng không chui nổi vào tổ tao đâu !"
Một tai hoạ đến mà đứa ích kỉ thì không thể biết trước được. Ðó là : không
trông thấy tôi, nhưng chị Cốc đã trông thấy Dế Choắt loay hoay trong cửa hang.
Chị Cốc liền quát lớn:
- Mày nói gì?
- Lạy chị, em nói gì đâu!
Rồi Dế Choắt lùi vào.
-Chối hả? Chối này! Chối này!
Mỗi câu "Chối này! " chị Cốc lại giáng một mỏ xuống. Mỏ Cốc như cái
dùi sắt, chọc xuyên cả đất. Rúc trong hang mà bị trúng hai mỏ. Choắt quẹo xương
sống, lăn ra kêu váng. Núp tận đấy đất mà tôi cũng khiếp, nằm im thít. Nhưng đã
hả cơn tức, chị Cốc đứng rỉa lông cánh một lát nữa rồi lại bay xuống đầm nước,
không chút chú ý đến cảnh khổ đau vừa gây ra.
Biết chị Cốc đi rồi, tôi mới mon men bò lên. Trông thấy tôi, dế Choắt khóc thảm
thiết.
Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Sao? Sao?
Choắt không dậy được nữa, nằm thoi thóp. Thấy thế tôi hốt hoảng quỳ xuống nâng
đầu Choắt lên mà than rằng:
- Nào tôi đâu biết cơ sự lại ra nông nỗi nào ! Tôi hối lắm. Tôi hối hận lắm !
Anh mà chết thì chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của tôi.
Tôi biết làm thế nào bây giờ?
Tôi không ngờ Dế Choắt dành cho tôi một câu như thế này:
-Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi khuyên
anh ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn rồi
cũng mang vạ vào cho mình đấy.
Thế rồi Dế Choắt tắt thở. Tôi thương lắm. Vừa thương vừa ăn năn tội mình. Giá
tôi không trêu chị Cốc thì đầu đến nỗi Choắt việc gì. Cả tôi nữa, nếu không
nhanh chân chạy vào hang thì tôi cũng chết toi rồi.
Tôi đem xác Dế Choắt đến chôn ở một vùng cỏ bùm tum. Tôi đắp thành nấm mộ to.
Tôi đứng lặng giờ lâu, nghĩ về bài học đường đời đầu tiên.
II
Cuộc Phiêu lưu bất ngờ
làm đồ chơi cho trẻ con mà không biết
lại anh xiến tóc cho tôi một bài học mới
Tôi tập suy nghĩ về mọi hành động của mình. Lòng đoan với
lòng rằng từ đây phải biết phân biệt hành vi lố lỉnh với những việc làm có suy
nghĩ. Như thế tôi bắt đầu sống bình tĩnh. Nhưng những ngày sống phẳng lặng đó
cũng chỉ được ít lâu. Bao nhiêu lâu thì tôi cũng không nhớ. Rồi tình cờ tôi trải
qua một cuộc phiêu lưu sóng gió và kì lạ.
ấy là vào đầu mùa hè một năm kia. Buổi sáng tôi đang đứng ngoài cửa gặm mấy
nhánh cỏ non ăn điểm tâm. Bỗng đằng cuối bãi tiến lại hai cậu bé con, tay cầm
que, tay xách ống bơ nước. Thấy bóng người tôi vội lẩn xuống cỏ, chui nhanh về
hang.
Bỗng chốc, tôi nghe tiếng chân bước thình thịch loạn trên đầu. Và ríu rít tiếng
nói, tiếng gọi:
- Á à. Này!
- Cái gì?
- Chỗ này đích rồi. Ðất đùn mới tinh!
- Ờ ờ đúng. Gớm chửa, bao nhiêu đất mới đùn. Lại vết chân cu cậu mới vào còn nhẵn
thín. Bé ơi ! Ðưa dao đây để tớ khoét lỗ, đằng ấy đi xách nước đi. Nhanh lên.
Lập tức tôi nghe tiếng thọc dao chuyển cả đất và thấy đất rơi lả tả xuống ngay
đầu. Biết có biến lớn, tôi vội nhảy lên nấc cao trên ngách thượng. Ðứng đấy một
chốc thì thấy có nước ộc tới. Bọn trẻ đổ nước định lùa tôi ra. Nhưng mỗi đợt nước
vào chỉ dâng đúng đến vuốt chân tôi rồi lại rút đi. Bởi vì khi bình thời, tôi
đã có ý đào cái ngách thượng rất cao và đào ra nhiều đường ngang. Bây giờ nước
vào nhưng không có chỗ đọng nước trong hang mà nước theo ngách thoát cả ra
ngoài.
Hai đứa trẻ ranh lắm. Chúng không chịu bỏ. Chúng huỳnh huỵch chạy quanh, xem
xét các dấu vết. Nhất là cái cậu tên là Nhớn. Mấy lần Bé đổ nước không thấy dế
bò ra đã toan đi nhưng Nhớn cứ khăng khăng:
- Tớ cam đoan với cậu thế nào cũng phải có. Mà lại là dế to hạng nhất cơ. Cái
thứ dế cụ nó bạo nước lắm, ngập cả râu trong nước nó cũng vẫn đứng được, phải
ngâm nước đến hàng giờ thì dế cụ mới chịu sặc mà chui ra. Bây giờ mình phải lấp
hết các ngách xung quanh cho nước đọng lại trong hang, cu cậu tắc thở, thế nào
cũng tuồi ra thôi.
Nói thế là làm y như vậy, nghe rợn gáy. Lập tức tôi thấy hang tối sẫm. Những
ngách ngang, ngách dọc vào hang tôi đều bị lấp cả. Chỉ còn mỗi một con đường
chính để chui ra. Chúng bắt tôi phải xộc ra con đường ấy cho chúng tóm cổ. Bấy
giờ nước lùa đến đâu đọng đến đấy và cứ dâng dần dần....... Trước đến lưng, sau
lủm cả đẩu, chỉ còn hai cái râu thò lên đụng đậy. Rồi râu cũng ngập nốt. Nhưng
tôi vẫn cố nhịn thở, không chịu ló đầu ra. Tôi nghĩ nước có ngập cũng chỉ ngập
một chốc rồi lại thấm vào đất, đất này là đất cát, tôi nhịn thở được.
Song dù đất thấm nước khoẻ thế cũng không phải cách bền vững. Quả nhiên, chẳng
mấy chốc đất cát cũng đã ngấm no nước, không chịu thấm nữa, vậy là nước lại ứ
lên.
Tôi lo quá, phen này phải bò ra mất. ôi thôi, nếu bò ra bây giờ, đời tôi còn gì
? Hai đứa trẻ kia sẽ bắt tôi đem về làm miếng mồi ngon cho con gà chọi, con hoạ
mi, con sáo mỡ gà của chúng xơi ngon. Bọn cá chậu chim lồng ấy mà vớ được món
ăn mỡ màng như thằng tôi thế này thì phải biết là thích. Mà cứ gan liền chôn
chân ở đây thì cũng chết ngạt, chết đuối mất.
Rồi, tuy không định ra hẳn nhưng mỗi lần nước ộc vào, tôi cứ tự nhiên nhích người
ra một mảy. Làm như vậy tôi thấy đầu tôi được thò lên mặt nước. Như thế nghĩa
là tôi lại hít được một ít không khí. Có dễ chịu hơn. Từ đấy, hễ bọn trẻ đổ nước
vào, tôi lại hơi nhoi ra một tí, một tí mà không cảm thấy mình đang nhoi dần
ra.
Không may cho tôi biết bao ! Tôi không biết rằng như thế, tuy có được thở dễ,
nhưng nguy hiểm là mỗi lần nhấc chân lên là nhích ra. Thế rồi, một lần nước vừa
rút xuống dưới khoeo, đột nhiên ở ngoài cửa hanh bọn trẻ trông vào thấy cái đầu
tôi.
- Ðây rồi ! Ðầu to gộc, bóng quá.
Tôi vôi rụt ngay vào. Song đã muộn. Họ trông thấy tôi rồi. Ðã trông thấy là họ
phải bắt cho kì được. Quả nhiên, nước càng dội vào, tiếng hò hét càng tợn, có
lúc, tiếng chân tay vỗ, giậm doạ rung chuyển cả đất bốn bên. Tôi run người lên,
tôi bí thở, tôi vùng vẫy vì bức nước. Rồi trong bụng không định mà chân lại cứ
nhấc dần ra. Bỗng nghe một tiếng xoạt ngay sau lưng, như tiếng sét. Quay lại. một
thanh nứa, lại cả một mũi dao nữa, đã thịch xuống, chắn ngang đường vào cuối
hang.Thì ra hai đứa trẻ khôn ngoan, trông mặt nước động biết tôi đã chui ra đứng
cửa tổ. Họ xiên dao xiên nứa xuống chặn sau lưng tôi. Nếu trúng người tôi thì đứt
đôi người ! Nhưng tôi chưa kịp giật mình, đã có cảm tưởng cái thanh nứa chẹn
lưng đương bẩy tôi ra. Hai đứa trẻ, đứa thì đẩy thanh nứa, đứa thì ngồi gõ vào
cái ống bơ đựng nước, mồm kêu thòm thòm giả cách làm trống ngũ liên doạ nạt,
thúc giục váng cả bãi.
Bị hất mạnh. bí quá tôi liền nhảy ra.
- Anh em ơ ơi ! Dế cụ ! Dế cụ!
- Ha Ha! Bắt được dế cụ!
- To bằng bốn thằng ve sầu !
- Dế cụ mà lị !
Nhớn tóm được tôi. Tôi cắn cho cậu bé một miếng vào ngón tay, nó kêu thét. Tôi
bồi cho cái đạp hậu, nó buông rời tôi ra. Ðược dịp, tôi vội nhảy trốn vào giữa
bãi cỏ. Nhưng hai đứa trẻ, đứa cầm giỏ đứa cầm ống bơ đuổi theo úp tôi. Chỉ
loáng mắt, tôi đã nằm chổng vó giữa giỏ. Tôi cố cắn cái nan giỏ mỏng rớt, nhưng
chưa nhay được mắt nào thì họ đã đem buộc túm cái đít giỏ lại khiến tôi không
nhúc nhích, cựa quậy được nữa. Họ xếp ống bơ xách nước và các đồ chơi lại, rời
bờ đầm, rửa chân rửa tay và đem tôi theo.
Họ vui vẻ ra về. Chân bước theo nhịp tay múa. Miệng hát ý o ra vẻ khoái tỷ lắm.
Nằm tròn trong đáy giỏ,,tôi đưa mắt nhìn lần cuối phong cảnh nơi tôi ở. Cỏ non
xanh rờn, nước bạc mênh mang. Nắng vàng trải trên lá cây, vàng một màu tươi lạ
lùng.lòng tôi đau như cắt, hai hàng nước mắt tuôn rơi. Dần dần mỗi bước một xa.
Ngoảnh đầu lại không trông thấy nữa, thế là khuất hẳn. Phen này tôi tất chết.
Hai đứa trẻ đem tôi ra khỏi bãi, qua một quãng đường ngoắt nghoéo bên thành tre
rậm rạp, tới một lối đi nhỏ men đến một cái cổng tán. Nhớn vào nhà cất mọi thứ
đồ đạc " đúc " dế, còn Bé thì đặt giỏ xuống.
Biết số phận mình sắp được định đoạt, tôi thấy hồi hộp và lạnh cả sáu gan bàn
chân. Sắp làm mồi cho gà, cho chim chăng ? Nhưng quanh đây, tôi không nghe tiếng
móng chim hoạ mi cào vào nan lồng, cũng không thấy con gà chọi đỏ mặt tía tai
nào. Tôi hơi yên yên.
Nhớn ở trong nhà ra. Bé nói:
- Ðem thằng dế này quẳng ra ao cho " xừ " vịt bầu của chúng mình
" xực " một bữa, Nhớn ạ.
Tôi giật người đánh thót một cái. Nhưng Nhớn xua tay, bảo:
- Không ! Ðúc được thằng dế cụ thế này, hiếm lắm. Dế này là dế cụ, gan liền tướng
quân đây. Thằng Thịnh hôm nọ cũng có một con dế, nó khoe dế nó khoẻ nhất, cho
đánh nhau, thằng dế nào cũng phải thua. ( Tôi đã hơi nóng gáy và ngứa hai cái
càng ). Chúng ta nên bỏ dế cụ này vào lồng đem sang nhà thằng Thịnh cho đánh
nhau với thằng dế bên ấy. Ðể xem a...ha...thắng bại như thế nào...........Bé vỗ
tay:
- Phải, phải lắm.
ấy thế là tôi không chết. Ðiều may mắn không lường trước ra được.
Hai cậu bé đem giam tôi vào một cái lồng tre vốn để đựng châu chấu, có cửa gài
then chắc chắn. Tôi đành nằm yên, chờ sự thay đổi nào đó mà tôi không thể tưởng
tượng ra được. Tôi chỉ biết thế là tôi sắp phải đi đánh nhau. Nhưng cứ nói đến
đánh nhau tôi lại muốn múa chân lên. Quên cả cái thân tù đáng nhẽ phải tìm cách
thế nào cho được tự do. Tâm tính ngông nghênh của tôi muốn hung hăng trở lại
như dạo trước.
Buổi trưa, quả nhiên anh em nhà ấy đem tôi sang cho " giáp chiến" với
một cậu dế nhà bên cạnh.
Nhớn đứng ngoài ngõ gọi :
- Thịnh ơi, Thịnh !
Thịnh từ trong nhà chạy ra.
- Cái gì thế ?
- Dế cụ tao đây, có giỏi đem dế mày ra chọi nào.
Thịnh cười khanh khách, vẻ coi thường, quay vào xách lồng dế ra. Cả bọn rủ nhau
đến giữa khu vườn lưa thưa bóng cây nhãn lùn. Chúng nằm sấp xuống cỏ, lúc nào
thích thì cong chân lên đạp không khí. Chúng giáp hai cách cửa lồng dế làm một
cho thật chắc, như đuôi toa nọ kề cửa toa kia lúc tàu hoả chạy, rồi mới rút
then ra để hai thằng dế chúng tôi không muốn cũng phải xông sang lồng của nhau.
Chàng dế nọ nhảy tót sang lồng tôi. ái chà, vẻ ta đây. Hắn bé hơn tôi một chút.
Nhưng hắn ngạo mạn và xấc xược làm sao! Bé loắt choắt thế mà đã bắt chước đâu
được cái bộ mặt hờm hợm, khinh khỉnh từ cái dáng chân đi khụng khiệng, vẻ coi
thiên hạ như rác. Thoáng thấy đã lộn tiết, Vừa thấy tôi, hắn vuốt rung hai sợi
râu nói :
- Ờ ờ, chú mày đờ mặt ra thế kia thì liệu có mấy hồi sức, chịu nổi nửa cái đá
song phi của ta không?
Rõ chối tai ! Tôi đã cáu lắm. Nhưng lạ sao lúc ấy tôi vẫn tỏ ra dịu dàng được.
Có lẽ vì lòng quá khinh bỉ.
- Này anh kia ! Làm chi mà ầm lên. Ðứa không ngoan ở đời thì không nên nói trước.
Hắn nhe răng ra hằm hè :
- Mặc kệ ! Có giỏi thì ra đây chơi nhau chứ đứng nói xó đấy à ?
Máu nóng trong người tôi sôi sùng sục, tưởng nghe tiếng được. Biết quân này
không phải quân ăn lời, tôi bèn nhảy phắt đến, chúng tôi bắt đầu đánh nhau giữa
những tiếng cười reo, vỗ tay của ba đứa trẻ. Mới quần thảo vài hiệp, tôi đã rõ
anh dế lếu láo kia, chọi với tôi, không được mấy nả sức. Ðúng thế, tôi chỉ thọc
mạnh một chiếc đạp càng, hắn đã bổ ngửa ra. Tôi bồi thêm chiếc đá nữa, hắn ộc
máu mồm đen sì, gãy một cẳng, lăn quay. Tôi chẳng thèm đánh thêm. chỉ ghé xuống
tận tai hắn, lạnh lùng bảo :
- Cho mày bài học thuộc lòng về sự hống hách nhé. Từ giờ chừa đi con ạ.
Hắn chỉ còn biết có việc run rẩy chắp chân, lạy rối rít.
Nhưng nếu từ đấy chàng dế kia có thể biết chừa cái thói ngông nghênh thì tôi lại
ăn phải đũa của hắn. Bệnh ngông nghênh của hắn lây sang tôi, thế mới kì lạ chứ.
Làm sao tôi đâm khốn kiếp đến như vậy. Thật tôi không cắt nghĩa được hết cái
khúc khuỷu của tính tự kiêu và tự đại. Tôi chỉ biết thế là những cái hung hăng
gàn bướng và lên mặt hão huyền ở đầu óc tôi chưa gội được sạch hẳn. Khi tôi đá
ngã thằng dế kia rôi, mắng nó rồi, thì tôi lại nghĩ nịnh tôi rằng : " ồ
mình giỏi đấy. Mình giỏi thật. Chỉ gảy khẽ một cái mà thằng cha đã lăn chiêng
".
Và chỉ nhờ cái đá xoàng ấy mà tiếng tăm tôi vang rộn, ít nhất là trong cái xóm
này. Tôi phổng mũi.
Lũ trẻ trong xóm thì nhau đi " đúc " dế. đào dế, săn dế đem về cho chọi
với tôi- tôi đã trở nên tay võ giỏi khét tiếng. Phải, dế nào tôi cũng chỉ phóng
vài các đạp hậu, cậu ta đã chạy bán xác. Hồi ấy, tôi đương giữa tuổi thanh
xuân. sức lực cường tráng, nhất là thêm cái tính kiêu. tính hợm chẳng coi ai ra
gì nên cứ càng làm bộ.
Vì tôi thắng tợn nên hai cậu cho lên đứng uống sương trên giàn mồng tơi, gọi là
lên chơi sương trên giàn mồng tơi, nhưng vẫn bị một sợi chỉ buộc vào càng. Tôi
có thể cắn đứt sợi chỉ dễ như chơi nhưng tôi không cắn. Tôi uống từng giọt
sương lóng lánh trên lá mồng tơi rồi ung dung ca hát trong ảnh bị trói buộc như
thế. Tệ quá nữa, muốn làm đẹp lòng hai cậu bé, tôi chỉ loanh quanh cả ngày cạnh
cái hộp diêm buồng ngủ của tôi, không nghĩ đi đâu xa một bước. Thỉnh thoảng,
cao hứng, tôi đạp hai càng cất tiếng gáy riii........riiii, ôi tôi đã quên cái
thân bị đem làm trò chơi. Mẩu lá cỏ non và thói ngông cuồng đã khiến tôi đâm ra
ngu tối đến thế.
Nhưng một ngày kia, tôi phải cảm ơn một sự tình cờ đã đến mở mắt tôi.
Tôi vẫn đi đánh nhau thuê, mua vui. Tôi vẫn được đem đi chọi nhau như thế. Ðối
thủ của tôi lần này là một anh chàng có bộ cánh chưa kín lưng, người mới dài bằng
nửa tôi. Vừa bị đẩy vào đứng đối diện, anh ta đã nháo nhác kêu tru tréo :
- Em lạy bác, em lạy bác, bác tha cho em. Bác là người lớn, bác đã có rằng có
càng to rồi, còn em, em vừa ra đời có mấy hôm, hôm qua được mẹ em dắt cho đi ở
riêng thôi mà.
Tôi thản nhiên. Tôi xông vào chiến ngay thằng bé, nó khóc hu hu rồi chạy quanh
lồng. Mấy đứa trẻ xem chọi dế cười ha hả. Tôi lại càng nổi hăng.
Có một anh Xiến Tóc bay xè xè trên trời rồi đậu xuống cành nhãn gần đấy, nhìn
đám dế chọi nhau. Anh Xiến Tóc vểnh hai cái sừng dài như hai chiếc lưng cong
cong có khắc từng đốt, chõ xuống mắng tôi :
- Dế mèn nghếch ngác kia ! Mày to đầu thế mà mày nỡ đánh thằng bé bằng ngần ấy
à? Không được quen thói bắt nạt.
Tôi ngoảnh nhìn lên : anh Xiến Tóc lực lưỡng và uy nghi bọc mình trong bộ giáp
đồng hun rất cứng, bộ mặt hung tợn lắm. Nhưng tôi cóc sợ. Coi bộ chẳng làm gì nổi
tôi ! Bởi tôi biết anh ta cũng hãi lũ trẻ, chỉ đứng trên cây, không dám xuống.
Tôi hích mũi ra một câu:
- Ngứa mồm!
Rồi tôi lại đuổi đánh thằng bé như thường. Tôi ngổ ngáo vụt lên trước, hếch
càng, chặn. Thảm hại, mới nếm thêm có cái đá hậu, thằng bé đã quay đơ và chỉ
còn thoi thóp thở. Tôi cũng chẳng biết thế nào là thương xót. Tai tôi chỉ nghe
có tiếng hoan hô râm ran của bọn trẻ.
Thấy không ngăn nổi tôi mà tôi còn đánh gần chết chú dế nhỏ, Xiến Tóc nghiến
răng ken két, chõ hai cái sừng dài xuống, quát:
- A được! Mày giờ hồn ! Bảo lời phải không nghe, rồi sẽ biết tay.
Tôi còn trêu tức, ngước răng lên:
- Có giỏi thì xuống đây chơi nhau.
Rồi tôi ung dung nhắm nhánh cỏ lũ trẻ vừa tranh nhau tuồn vào thưởng cho tôi.
Làm như không thèm để ý đến câu chuyện vặt! Xiến Tóc tức rung sừng, rung răng,
nhưng không biết làm thế nào, vì có lũ trẻ ngồi đông trên bãi cỏ. Cuối cùng, Xiến
Tóc cất cánh vù đi. Tôi chẳng thèm để ý. ừ, anh chàng khoẻ thì có khoẻ đấy,
nhưng đâu có thể làm gì nổi tôi.
Ðêm hôm ấy, theo thường lệ, bọn trẻ đem tôi ra ngoài gian mồng tơi, để tôi uống
sương tẩm bổ và thở hít khí trời trong lành. Trên cao, mặt trăng sáng vằng vặc.
làn gió đưa đẩy những chiếc lá tre dài và nhọn đẫm sương óng ánh thành một nét
sắc trong bóng trăng. Tôi duỗi thẳng cả chân, cả cánh, vừa ôn một bài võ, vừa
hát, ngẩng đầu nhìn vòm trời trăng sáng và chắc là vẻ mặt tôi lúc ấy có tự đắc
tự mãn lắm.
Ðương ung dung thế, lắng nghe tiếng cái máy gì xè xè đâu dần tới bên cạnh. Rôi
anh Xiến Tóc oai linh ban chiều vụt hạ cánh xuống ngay bên nách tôi. Tôi rú lên
một tiếng kinh khủng. Tôi cứng cả khoeo, không nhích chạy được. Tôi không ngờ.
Phen này chết thật chứ không chơi.
Phen này chết thật chứ không chơi! Răng nó như sắt thế kia, cái vuốt chân như
dao thế kia. Một mình tôi ở nơi vắng vẻ thế này. Tất chết!
Tuy tôi cố mím môi, mà cánh, mà chân, mà càng tôi cứ run lên bần bật. Xiến Tóc
nghé nghiêng hai cái sừng cười nhạt chế nhạo:
- Rõ đồ hèn! Sao lúc chiều hống hách thế!
Rồi Xiến Tóc lục tội:
- Này ta hỏi, mày đáng khép tội gì?
- Lạy anh.....
Có lẽ lúc bấy giờ tôi cuống quýt những điệu bộ đáng xấu hổ và nực cười khiến Xiến
Tóc khinh bỉ đến nỗi không thèm giết tôi cho bẩn gươm. Bởi vậy tôi chỉ thấy Xiến
Tóc cúi hai cái sừng sát mặt tôi, kênh mũi tôi lên mà bảo rằng:
- Á bây giờ thì co vòi lại rồi có phải không.........Còn gì xấu bằng cậy sức mà
đi bắt nạt. Khôn ngoan đá đáp người ngoài...... Ta tha cho lần này. Nhưng ta
hãy tạm mượn đi của mày hai cái râu. Ðể từ đây mỗi khi mày làm việc gì bậy bạ,
hãy sờ lên chiếc râu cụt, lúc ấy nhớ lại lời ông Xiến Tóc nhé.
Nói rồi Xiến Tóc đưa răng lên cắt cụt luôn hai sợi râu mượt óng trên đầu tôi.
Ðau điếng, mà tôi đành ngậm tăm, không dám hé răng.
Ðường đời nhiều bài học, mỗi bài học một kiểu, chịu nghĩ thì học được, học giỏi,
bằng không thì khốn khổ như thế này đây. Cho đến bây giờ tôi vẫn trọc lông lốc
bởi mất hai sợi râu từ cái tích tôi được thêm bài học mới vừa đắt vừa đau đêm ấy.
Nhưng cũng vì thế mà tôi tỉnh ngộ. Trời ơi, thế ra từ khi bị hai đứa trẻ bắt
vào vòng u tối, tôi đi đánh nhau làm trò cười cho thiên hạ, tôi cchỉ làm ác mà
tôi không biết. Mà những kẻ bị tôi đánh, họ cũng là họ hàng xa gần nhà dế cả.
Tôi thở dài, thầm nghĩ:
- Hôm trướcta đã vướng điều lẫm lỗi, bây giờ lại mắc lỗi nữa.....ôi, ta hèn
quá. Cũng may bác Xiến Tóc không giết ngoém ngay ta đi. Mới biết đời này hồ dễ
ai bắt nạt nổi ai. Ta đánh kẻ yếu hơn ta thì kẻ khác mạnh hơn ta đánh ta. Thôi
thôi, giấc mê kia đã tỉnh ra rồi.
Nghĩ được thế, lòng tôi mới tạm yên. Nhưng nói cho hết nhẽ, nếu bây giờ tôi muốn
bỏ tính hung hăng xằng bậy đi thì tôi nhất quyết phải rời hai đứa trẻ này ra. Bởi
mục đích của họ là để bắt tôi làm trò choảng nhau, cho họ cười. Văng vẳng bên
tai tôi hai tiếng thoát ly.
Tôi bồi hồi muốn đi ngay lúc ấy. Nằm trong lồng, tôi trông thấy
cửa lồng chưa cài. Thế là tôi bò ra luôn.
Nhưng cũng ngay lúc ấy, Bé và Nhớn từ đâu chạy tới, kêu lên:
- Á á!
Rồi Bé nắm gáy tôi ném vào lồng. Không bao giờ tôi cảm thấy nhục nhã hơn! Từ
lúc ấy, tôi bị canh giữ khác hẳn mọi khi. Buổi tối, vẫn được lên giàn mồng tơi
nhưng phải nằm trong lồng, không ai cho nghênh ngáo ngoài trời như mọi khi- dù
là nghênh ngáo với sợi chỉ buộc vào bẹn.
Tôi càng thấm thía nung nấu ý nghĩ trốn đi.Tôi chờ một dịp khác.
Trong những ngày chờ đợi, buồn ơi là buồn. Tôi buồn lắm, buồn tưởng chết đi được.
Phần thì ăn năn tội lỗi. Phần thì ngao ngán đời mình. Cuộc đời đã nửa thời xuân
mà nay chưa làm nổi điều gì gọi là có ích. Chỉ những nay lầm mai lỗi. Tôi ủ rũ,
chẳng buồn ăn, chẳng buồn đi, đứng cũng không buồn đứng. Suốt ngày nằm phục vị,
thở dài.
Thấy tôi đâm ra lù dù lả thế, bọn trẻ chỉ biết ra công săn sóc. Nhưng họ càng
săn sóc thì lòng tôi càng chán ngắt, càng cảm thấy họ nuôi béo thân mình để làm
chuyện mua vui. Tôi ăn đuểnh đoảng, nhấm nháp. Dần dần, bọn trẻ cũng chán tôi.
Trò trẻ chơi cái gì cũng thường hay chóng chán. Vì không hiểu được cái ốm và đầu
óc nghĩ ngợi của tôi bấy giờ, chúng cho tôi là bệnh gì đấy, có lẽ bị đau dạ
dày. Rồi, cứ bỏ vào lồng toàn thứ cỏ thượng hạng mà chỉ thấy tôi đủng đỉnh, nhếch
răng thì sự săn sóc cũng nhạt dần. Họ lại xách ống, dao và que nứa, hì hục đúc
dế, mải tìm cuộc chơi khác.
Thế rồi, cứ ốm nghĩ mãi. tôi đâm ra ốm đau thật. Tôi cảm thấy khặc khừ rồi tôi
ngạt mũi, nhức đầu luôn. Mấy lần bị mang đánh nhau, tôi chỉ đứng yên. Anh dế
bên lồng kia sang cũng không dám đánh tôi, thế là nhạt trò. Nghĩa là tôi không
còn hoạt bát, khoẻ khoắn như trước nữa. Mấy ngày không nhớ ca hát, buổi sáng buổi
chiều không gáy chào hoàng hôn và bình minh.
Một hôm, Nhớn thấy tôi nằm lử đử, bèn bảo Bé:
- Không phải nó đau dạ dày đâu thằng dế này đánh nhau nhiều quá đến nỗi kiệt sức
nên bây giờ mắc bệnh ho lao. Chúng mình chả nên nuôi một thằng dế ốm. Thả nó
đi, Bé ạ.
Bé gàn:
- Thế thì phải đem ra ao cho vịt bầu ăn.
Tôi lạnh đến tận hai chân răng:
- Không, thế cũng phí. Ta sẽ đem nó làm cúp đá bóng. Cúp đá bóng là một dế cụ.
Thế mà oai!
Rồi hai đứa kéo nhau đi rủ tất cả trẻ trong xóm hợp bọn lại đá bóng ăn giải thưởng.
Cái " cúp" ấy đúng là dế tôi vậy. Thân tôi lại thành cái giải thưởng,
nghĩ cực quá.
Không đầy một lúc đã có một lũ đến mười, mười lăm đứa kéo đến. Chúng rủ nhau ra
ngoài bãi, đem theo tôi ra. Ðám trẻ chia làm hai phe. Một đứa đã nhặt được ở vườn
nào về một quả bưởi để làm bóng.
Tôi được đặt trịnh trọng đứng trong cái nắp vỏ diêm mới, trên một hòn gạch. Nhớn
giao hẹn các bạn:
- Bên nào được ba " gôn" trước thì ăn thưởng lão dế này. A lê.........toe
toe toe.....
Tôi đứng thẳng, lấy vẻ mặt tươi tỉnh, vui như cũng đương xem đá bóng. Không ai
nghi ngờ gì cả. Cũng thật là bọn trẻ con thì mới sơ ý như thế. Cơ hội thoát ly
có thể sắp đến rồi. Ðôi bên tranh nhau đá quả bóng bưởi mỗi lúc một kịch liệt
hơn. Ðám này đá bóng cũng xoàng. Tôi nhận xét thế. Có cậu cứ giẫm vào bóng, ngã
bổ chửng. Có cậu biu vai chèn nhau rách toạc cả áo. ấy vậy mà vẫn mải mê, hò
hét vang góc bãi.
Nhưng tôi cũng vội nhận ra tôi đứng đây không phải để xem đá bóng, thế là trong
khi bọn trẻ đang xô đẩy kịch liệt trên bãi thì tôi len lén rời nắp bao diêm, bò
khỏi bệ gạch vỡ. Tôi lẻn ra đầu vườn, chui vào đám cỏ rậm, rồi chuồn thẳng đến
tận bụi dứa dại đằng xa. Xổ lồng một cái, khỏi ốm ngay, nhanh thế!
Chẳng biết lúc tan cuộc bóng, thấy mất cái giải thưởng quí giá, bọn trẻ có cáu
kỉnh mà cãi nhau không.
Khi đã được thảnh thơi đứng trong bụi dứa xanh mờ, tiếng hò reo của bọn trẻ
nghe đã xa lắm, không còn lo ngại gì nữa, tôi mới duỗi cánh vươn vai thở một
hơi dài. Tôi vộigặm một tí cỏ cho đỡ đói. Mấy bữa nay, quả là tôi cũng vờ ốm
thêm để đỡ phải đi chọi nhau, cho nên nhịn ăn, có mệt mỏi đi thật. No rồi, tôi
phủ phục xuống chụm chân, đánh một giấc ngủ ngon.
Lúc tỉnh dậy, xung quanh và đằng xa, chỉ có cái im lặng chập chờn buổi trưa. Lũ
trẻ chắc đã về trong xóm. nghĩ xa, nghĩ gần, trông bụng tôi phân vân. Nửa muốn
một phen đi chơi xa lại nửa muốn về thăm nhà.
Dẫu sao, trong mấy ngày qua, tôi cũng nảy ra một ý nghĩ rất đẹp là đã được thấy
mặt đất này bao la, không phải chỉ có cái bờ ruộng, cái đầm nước của quê mình.
Có phải trong cảnh trói buộc lại hay có những ao ước phóng khoáng chăng? Chỉ biết,
lũ trẻ kia giam giữ mình, nhưng phong cảnh non nước thì bao giờ cũng chờ đón và
thúc giục ta hãy vui chân lên, hãy cố đi cho khắp thế gian, đời trai mà không
biết bay nhảy, không biết đó đây thì cuộc sống sẽ nhạt nhẽo lắm.
Sau cùng, trước khi đi, tôi quyết định trở lại nhà. Tôi nhớ từ ngày bị bắt,
mình xa nhà đã lâu. Tôi chắc ngày ấy có khi mẹ tôi lại hang thăm tôi, thấy giường
màn tan tành, hẳn người đã khóc không biết bao nhiêu nước mắt. Nghĩ như thế thì
tôi nhớ và thương mẹ tôi lắm. Tôi là con út trong lứa sinh. Mẹ thương tôi, đã
cho bao nhiêu cỏ non, lúc đem tôi đến ở hang mới.
Tôi trở về quê hương. Tôi cũng tính thêm rằng: Sau khi về thăm mẹ, khi mẹ tôi
nhìn thấy mặt, mừng tôi còn sống, vẫn khoẻ, người an tâm rồi, bấy giờ tôi sẽ
tính một cuộc du lịch xa xôi.
Tôi rẽ cỏ, tìm lối về........
Ðường về xa lắ xa lơ.......
Một hôm, qua một vũng cỏ xước xanh dài, chợt nghe tiếng khóc tỉ tê. Tôi lắng
tai, đoán ra tiếng khóc quanh quẩn đâu đây. Vài bước nữa tôi gặp chị Nhà Trò ngồi
gục đầu bên một tảng đá cuội.
Chị Nhà Trò này đã bé nhỏ lại gầy guộc, yếu đuối quá, người bự những phấn, như
mới lột. Chị mặc áo thâm dài, đôi chỗ chấm điểm vàng, hai cách cô nàng mỏng như
cánh bướm non, lại ngắn chùn chùn. Hình như cánh yếu quá, chưa quen mở, mà cho
dù có khoẻ cũng chẳng bay được xa. Các chị Nhà Trò vốn họ bướm, cả đời chỉ biết
vởn vơ quanh quẩn trong bờ bụi mà thôi. Nhà Trò đương khóc.
Nghe như có điều oan trái chi đây, tôi bèn hỏi:
- Làm sao mà khóc đường khóc chợ thế kia, em?
Chị chàng ngẩng lên, nước mắt đầm đìa rồi cúi chào, lễ phép- các cô Nhà Trò bao
giờ cũng lịch sự và mềm mại.
- Em chào anh, mời anh ngồi chơi!
Tôi nói ngay:
- Có gì mà ngồi! làm sao khóc nào?
Thế là chị ta bù lu bù loa:
- Anh ơi!Anh ơi!..........Hu..hu.........Anh cứu em.......hu.......hu
- Ðứa nào? Ðứa nào bắt nạt em?
- Thưa anh, bọn Nhện. Anh cứu........Hu.....hu.......
Tôi sốt ruột:
- Nhện nào? Sao cứ khóc thế? Kể rõ đầu đuôi mới biết làm sao mà cứu được chứ!
Nhà Trò kể:
- Năm trước, phải khi trời làm kém đói, mẹ em phải vay lương ăn của Nhện. Sau đấy,
không may mẹ em mất đi, còn lại lủi thủi một mình em. Mà em ốm yếu, kiếm bưa ăn
cũng chẳng đủ, làm ăn chả ra thế nào, bao nhiêu năm nghèo túng vẫn hoàn nghèo
túng, món nợ cũg chưa trả được. Nhện cứ nhất định bắt trả nợ, Mấy bận Nhện đã
đánh em. Hôm nau bọn Nhện chăng tơ ngang đường đe bắt em, vặt chân vặt cánh ăn
thịt em.
Tôi xoè cả hai càng ra, bảo Nhà Trò:
- Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây. Ðứa độc ác không thể cậy khoẻ ăn hiếp
kẻ yếu. Ðời này không phải như thế.
Tôi dắt Nhà Trò đi.
Một quãng, tới chỗ mai phục của bọn Nhện.
Bọn nhện đã công phu chăng bên đường nọ sang bên đường kia, chằng chịt biết bao
nhiêu tơ nhện, trùng trùng điệp điệp, đối giá một chú Muỗi Mắt nhỏ nhất loài muỗi
cũng không chui lọt. Lại thêm, sừng sững giữa lối đi, một anh Nhện canh gác. Hễ
thấy bóng Nhà Trò là làm hiệu cho lũ Nhện nấp hai bên đường kéo ra.
Khi tôi gần tới mạng lưới, nhìn vào các khe đá xung quanh đã thấy lủng củng những
nhện là nhện: Nhện mẹ, Nhện con, Nhện già, Nhện trẻ, Nhện nước, Nhện tường, Nhện
võng, Nhện cây, Nhện đá, Nhện ma......đủ họ nhà Nhện. Chúng đứng im như đá mà
coi vẻ hung dữ.
Chị Nhà Trò bíu lấy tôi, nấp sau càng tôi, khiếp quá, thu mãi người lại. Có lẽ
bọn Nhện chưa trông thấy.
Tôi cất tiếng hỏi lớn:
- Ai đứng chóp bu bọn này? Ra đây cho ta nói chuyện.
Từ trong hốc đá, một mụ Nhện cái to nhất, cong chân nhảy ra, hai bên có hai Nhện
vách nhảy kèm. Ðúng đây là vị chúa trùm nhà Nhện. Nom cũng đanh đá, nặc nô lắm.
Vậy thì đầu tiên tôi hãy ra cái oai của tôi. Tôi quay phắt lưng, phóng càng đạp
mạnh vào đầu mụ Nhện một cái đạp. Mụ nọ hoảng hốt, co dúm người lại hãi ngay. Rồi
thế là mụ cứ rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo, tỏ ý hối hận và sự hãi một
điều gì đó- điều đó có lẽ mụ ta cũng chưa biết.
Tôi thét:
- Cớ sao dám kéo cánh ra bắt nạt em Nhà Trò yếu ớt thế kia? Chúng mày có của ăn
của để, đứa nào cũng béo múp mông đít cả lượt như thế mà cứ cố tình đòi nó một
tí tẹo nợ đã mấy đời rôi, là không được. Ta cấm từ giờ không được đòi nợ Nhà
Trò nữa. Nó bé bỏng, làm chưa đủ nuôi thân, phải thương nó, xuý xoá công nợ cho
nó. Trên đời này, thù hằn, độc ác làm gì. Thử trông đấy, bay bắt nạt nó, nhưng
còn có ta khoẻ hơn, ta mới thử gió mấy cái đá hậu, mà xem ra chúng mày đã thất
đánh nghĩ lắm rồi, phải không?
Bọn Nhện núp phía trong cùng dạ vâng lao xao " nghe rồi ạ" rối rít
khe đá.
Tôi ra lệnh:
- Phá các vòng vây đi. Ðốt hết văn tự nợ đi..
Lũ Nhện nghe ngay lời tôi. Cả họ nhanh nhẹn chạy ngang chạy dọc, phá các dây tơ
chăng lưới. Con đường về tổ Nhà Trò trên cành lá mua có một chiếc hoa tím phút
chốc đã quang hẳn. Rồi vô số Nhện nhấp nhô tung tăng đến, chân nắm chân ả Nhà
Trò mà nhảy múa, hát ầm ĩ, rất vui.
Họ nhà Nhện còn định mở tiệc thết tôi. Ðược cái họ nhà Nhện thì lúc nào cũng
khéo trữ lắm thức ăn ngon. Nhưng tôi từ chối, nói rằng phải vội đi. Hẹn dịp
khác sẽ qua chơi.
Tôi từ giã bọn Nhện và Nhà Trò. Chị Nhà Trò ôm vai tôi cảm động không nỡ ly biệt,
cứ theo tiễn một quãng đường dài. Còn tôi, trong lòng hoan hỉ vì đã làm được việc
đầu tiên có ích cho đời.
Mấy hôm sau, tôi về tới quê nhà.
Cái hang bỏ hoang của tôi, cỏ và rêu đã xanh kín lối vào. Nhưng đằng cuối bãi,
mẹ tôi vẫn mạnh khoẻ. Hai mẹ con gặp nhau, mừng quá, cứ vừa khóc vừa cười.
Tôi kể lại từ đầu chí cuối những ngày tháng qua trong may rủi và thử thách mà bấy
lâu tôi trải. Bắt đầu từ chuyện anh Dế Choắt khốn khổ bên hàng xóm.
Nghe xong, mẹ tôi ôm tôi vào lòng, y như người ôm ẵm khi mới sinh tôi và bảo rằng:
- Con ơi! mẹ mừng cho con đã qua nhiều nỗi hiểm nguy mà trở về. Nhưng mẹ mừng
nhất là con đã rèn được tấm lòng chín chắn thật đáng làm trai. Bây giờ con muốn
ở nhà mấy ngày với mẹ rồi con đi du lịch xa mẹ cũng bằng lòng, mẹ không áy náy
gì về con đâu. Thế là con của mẹ lớn rồi. Con đã khôn lớn rồi. Mẹ chẳng phải lo
gì nữa.
Mẹ tôi nói thế rồi chan hoà nước mắt sung sướng và cảm động. Tôi nhìn ra cửa
hang, nơi mới ngày nào tôi còn trứng nước ở đây và cùng cảm thấy nay mình đã
khôn lớn.
Tôi thưa lại với mẹ:
- Mẹ kính yêu của con! Không bao giờ con quên được lời mẹ. Rồi mai đây con lên
đường, con sẽ hết sức tu tỉnh được như mẹ mong ước cho con của mẹ.
IV
Ông annh Cả và ông anh Hai của Mèn
Tri âm không đợi mà gặp
Bạn đọc hẳn đã biết mục đích tôi về quê chuyến này, vừa thăm
mẹ và vừa có ý tìm bạn cùng nhau đi du lịch. Việc hỏi thăm mẹ, thế là đã xong.
Giờ tôi đi tìm bạn. Đất này biết mấy ai kẻ tri âm ? Tìm bạn đã khó, huống chi lại
là sự đánh bạn với nhau trong cuộc lên đường lâu dài. Lên đường ! Lên đường ! Mỗi
bước chân sẽ thấy một đổi thay. Mỗi sớm mỗi chiều ta lại gặp cảnh vật mới. Lúc
nào cũng đi tới một nơi xa lạ. Không ai có thể mong ước hơn. Mới tưởng đến cũng
đủ nao nức, bồi hồi.
Hỡi ôi ! Còn chi buồn bằng, tuổi thì trẻ, gân thì cứng, máu thì cuồn cuộn với
trái tim và lòng thiết tha mà đành sống theo khuôn khổ bằng phẳng : ngày hí húi
đào bới đất làm tổ, đêm thì đi ăn uống và tụ tập chúng bạn nhảy múa dông dài.
Tôi không muốn cho đến lúc nhắm mắt vẫn phải ân hận chẳng biết là cuối cánh đồng
mênh mông kia còn những gì lạ và cuộc đời ở đấy ra sao.
Tôi có hai anh một lứa sinh, và ba anh em tôi đã được mẹ tôi cùng đưa đi ở hang
riêng năm trước. Trong cuộc đi tìm bạn, tôi nghĩ đến ông anh hai tôi đầu tiên.
Tôi đến thăm anh hai tôi.
Thoạt nhìn cửa hang của anh, tôi đã hơi thất vọng. Cửa hang bé và nham nhở, bẩn
như lỗ giun đùn, lúc chui vào thì có từng đám rễ cỏ quệt xuống đầu, y như vào một
hang hoang, càng sâu càng ẩm mốc, lạnh tanh.
Trông thấy anh, tôi giật mình. Trong bóng tối âm thầm, tôi phải chú ý mãi mới
nhìn thấy và nhận ra được mặt anh. Anh tôi gầy kheo như đến nỗi tưởng sức tôi
mà đá thì chỉ phách một cái cũng đủ khiến anh tôi bắn xa mười lăm trượng.
Nghe tiếng chân tôi bước thình thịch, anh hoảng hốt, luống cuống, bối rối cả
càng lẫn râu rồi cứ quanh quẩn chạy vòng tròn, không biết chạy đi đâu. Tôi phải
đánh tiếng mãi, anh mới nhận ra tôi, bấy giờ anh tôi mới yên lòng và đứng im,
chỉ còn hơi rung râu. Dáng chừng tôi khoẻ mạnh, cứng cáp và đen bóng như cột
nhà cháy bôi mỡ, anh còn sợ. Thế là đôi râu cứ rung mạnh dần lên. Thật đáng cười
và đáng thương !
Tôi hỏi :
- Anh ơi ! Anh ốm hay thế nào mà còm nhỏm vậy ?
Anh nhăn mặt :
- Chú nói be bé chứ không có anh váng cả đầu. Không anh không ốm, Tạng người
anh thế Bấy lâu chú đi làm ăn đâu mà những đứa độc mồm độc miệng bảo chú chết rồi.
Tôi cười :
- Em chết làm sao được ! Đi xa thích lắm. Em về chuyến này, trước thăm mẹ và
các anh, sau rủ anh cùng đi xa.
Anh hoảng hốt hỏi lại :
- Đi đâu ?
Tôi đùa, quát to :
- Đi xa ! đi xa !
Thế là ông anh tôi thất kinh, trễ cả hai râu mũi xuống. Anh khụyu chân ngã giụi
và nói lảm nhảm : "Đi...xa...chết...nó...chết".
Thảm hại quá ! Vì đâu anh tôi mắc bệnh sợ đến như vậy, cái gì cũng sợ, chưa chi
đã sợ, sợ đến chết ngất. Không phải bệnh ấy có từ bẩm sinh đâu. Lúc bé, anh em
chúng tôi đều khoẻ mạnh như nhau. Câu chuyện bệnh sợ của anh tôi như sau :
Ra ở hang riêng ít lâu, một hôm anh đi chơi tha thẩn vào vườn rau. Anh đứng dưới
chân một cây cải xanh. Trên mép lá, một chim Chích đang nhặt sau. Có thể là vô
ý, chim Chích ỉa toẹt một bãi trúng lưng anh. Anh giũ cánh, lẩm bẩm chửi đứa
nào bậy bạ, mà anh không biết đứa nào, bởi vì lúc ấy chim Chích làm xong công
việc vô ý ấy rồi điềm nhiên cong đuôi chui vào khều con sâu trong kẽ chiếc lá cải
to.
Nghe tiếng chửi, chim Chích quay ra, Chim và Dế đâm chuyện cãi nhau. Một bên
thì chửi đứa ỉa xuống lưng tao. Một bên thì bảo mày vu oan cho ông. ( Vì anh
tôi đã giũ sạch ngay bãi cứt chim trên lưng rồi ).
Không ai chịu nhau thì phải đến đánh nhau vậy. Thằng chim Chích kia thì bằng hạt
mít, chân nó leo kheo như cái tăm hương và cái mỏ oặt như sợi bún, còn anh tôi
thì nào răng sắc, nào có ngạnh vênh rất hiểm, cứ dấn mạnh lên thì choảng cho nó
vỡ mày vỡ mặt ra chứ. Thế mà đù đờ đến nỗi anh tôi thua. Anh tôi co cổ chạy, Nó
đuổi theo. Anh chạy thục mạng, nó cứ bay trên đầu, nó mổ xuống. Anh tôi sợ quá,
vấp ngã ngửa, nó cũng không tha, nó vẫn đuổi đánh, có lúc anh tưởng chết dọc đường.
Rồi phải lê dần, chạy lê thế mà nó vẫn mổ, vẫn đánh, nó đuổi đến khi lẩn được
vào trong hang thì khắp người máu me, hai cánh ngoài rách nát cả và nằm chết ngất.
Không biết mấy hôm mới tỉnh. Từ đấy, nghe tiếng gió thổi ngoài cửa hang cũng sợ,
tưởng thằng chim Chích lại đến đuổi đánh trên đầu. Không dám đi đâu nữa. Đói lắm
mà đến khuya mới dám ra cửa lôi vội mấy cái cỏ già vào nhấm nháp. Thế là ốm dần.
Cứ thế này rồi thì mai kia cũng đến chết vùi thân trong hang mà thôi.
Một lúc sau, anh tôi mới dần dần tỉnh. Tôi cũng chẳng muốn nói thêm lời nào.
Càng không dám đùa nữa. Ngại anh tôi có thể chết ngất mà chết hẳn chăng .
Tôi ra ngoài bãi, hái mớ cỏ non và tươi nhất đêm vào biếu anh. Tôi lựa nói mấy
câu an ủi. Đến lúc anh tôi tỉnh táo như thường rồi tôi mới khéo trách sao hồi
đó anh không ngửa mặt giơ càng lên vừa đánh vừa đỡ vừa lùi vào hang, phỏng thử
thằng Chích láo lếu đã làm chi nổi ! Anh tôi cũng chẳng tỏ vẻ gì ngẫm nghĩ để
hoạ may còn nhớ lại được chút mạnh bạo nào không, anh chỉ lắc đầu.
Tôi lặng lẽ ra khỏi hang anh. Cũng không có một ý nghĩ rõ rệt. Còn nghĩ sao nữa,
khi anh ấy đã run rẩy hèn đớn đến nỗi ai nói to cũng giật mình thì có gì mà hy
vọng rủ anh đi được.
Tôi đến thăm anh trưởng tôi.
Hang anh trưởng tôi rất khang trang. Coi vẻ phong lưu. Tôi đã biết tính anh
thích ăn ngon, ưu phép tắc tôn ti trật tự, hay bắt bẻ vặn. Tôi chào. Mặt anh hằm
hằm đương tức tối điều gì. Tôi phải thưa với anh rằng bao nhiêu lâu anh em xa
cách, em đã trải những phút gian nan, tính mệnh treo đầu sợi râu, anh có biết
không, em lặn lội từ xa về đây để gặp anh, sao trông thấy em, mặt anh cứ lạnh
như đá thế kia ?
Anh tôi nói mát :
- Chả dám ! Chú còn nhớ phép lịch sự đến thăm anh. Xin chả dám.
Tôi đáp :
- Thưa anh, đi đâu thì em vẫn nhớ anh em ta cùng lứa mẹ sinh ra.
Anh cười nhạt :
- Hừ, chú bảo chú nhớ anh mà lại vào nhà thằng hai trước khi đến đây, thế thì
phỏng thử chú coi gia giáo nhà ta ra cái gì, đuôi lộn lên đầu hử ?
Thế ra anh tính giận tôi đã quên tôn ti thứ bậc. Thảo nào, mặt anh nặng như cái
bị. Tôi định cãi lại một câu. Chẳng gì thì tôi đã đi đây đi đó, tôi không thể
cung kính theo được cái thói trên dưới thứ bậc và cái việc chấp nhặt nhỏ mọn
này. Nhưng chợt nhớ đến đây để rủ anh cùng đi, tôi đã quên tức và từ tốn trình
bày :
- Thưa anh, em cũng biết thế, nhưng vì anh hai đau yếu, lai tiện em đi qua nhà,
thấy nên vào thăm anh ấy trước. Thế đấy, chắc anh vui lòng rồi.
Anh tôi không vui lòng, anh tôi vẫn to tiếng, hỏi giật giọng :
- Mấy năm nay chú đi đâu ?
- Em đi du lịch.
- Du lịch ? Đi du lịch, đi buôn bán ?
Tôi cười :
- Chẳng buôn bán gì đâu. Du lịch là xem xét các nơi cho mở mang trí óc ra.
Anh tôi cười khẩy :
- Đi không kiếm được món ngon thì chỉ đi mỏi chân, có động dại mới đi như thế.
Đi lang thanh thất thểu thì ai ở nhà trông nom phần mộ tổ tiên, ai đèn hương
cúng giỗ các cụ ? Thời bây giờ đứa nào cũng nống lên với đi ! Quân bất mục bất
hiếu là chú, chú biết không ?
Tôi giận lắm, nhưng chỉ cười thầm. Đáng lẽ mẹ tôi nói những câu ấy mới phải.
Nhưng mẹ hiểu, mẹ đã vui mừng thấy con bay nhảy sông hồ. Tôi lại nghĩ giá tổ
tiên tôi mà biết được việc này hẳn các cụ cũng phát chán cái thằng con cháu cứ
khư khư ôm miếng đất đến mòn đời, chẳng làm được gì để lấy tiếng thơm cho cha
ông, Anh này mới dúm tuổi mà lụ khụ hơn cả người già lẫn cẫn.
Đằng nào tôi cũng cần nói rõ ý kiến của tôi. Tôi nói :
- Thưa anh, em cũng biết rằng trên đời này muốn mở mang trí óc thì phải bước
chân đi ra bốn phương "một ngày đàng một sàng khôn", tổ tiên ta dạy
thế chứ các cụ không khuyên ta ngồi xó đâu. Cho nên em về đây, trước thăm anh,
sau muốn rủ anh cùng đi phiêu lưu với em.
Anh tôi hét to :
- Mày chửi tao à ? Mày chửi tao.
Rồi xông đến trước mặt tôi. Nhưng tôi biết dù nổi nóng thế, anh cũng chẳng dám
động đến tôi. Bởi tôi lực lưỡng to gấp mấy anh. Quả thế, cáu lắm anh cũng chỉ
dám cụng trán tôi và dừng lại, trừng mắt thế thôi.
Tôi bực mình, song vẫn cố làm vẻ bình tĩnh. Cái bình tĩnh lạnh lùng ngụ ý khinh
khi.
Tôi nghênh mặt lên, không chào, lặng lẽ quay ra. Đuôi cánh tôi quay chổng vào mặt
anh một cách kinh thường. Tôi đã từ giã ông anh cổ hủ của tôi một cách ngạo mạn
như vậy. Để mặc ông anh tức tím ruột. Tuy vậy anh cũng không dám đuổi đánh tôi,
đành ôm mối căm hờn vì có đứa em hỗn láo dám đi phiêu lưu !
Tôi còn đi tìm vài anh em quen nữa. Song xem ra chỉ phường giá áo túi cơm thì lắm
lắm. Có anh cũng như anh trưởng đã nói rằng nhà mình con một, không thể nhất
đán rời quê hương. Có anh mới nghe tôi nói đu du lịch đã xanh mặt lại và vái
tôi. Có anh ngẩn ngơ hỏi :"Đi xa thế độ mấy hôm thì về được ?" Tôi chẳng
buồn trả lời.
Một buổi chiều, tôi đứng bờ đầm nước, trông ra. Khi hoàng hôn xuống, mặt nước
trời bỗng sáng lên trong giây lát, đượm vẻ bao la khêu gợi vô hạn lòng giang hồ.
Bỗng sau lưng có tiếng ồn ào. Quay lại, tôi thấy một Dế Trũi đương đánh nhau với
hai mụ Bọ Muỗm. Hai mụ Bọ Muỗm vừa xông vào vừa kêu om sòm. Ai đã nói rằng
"vừa đánh trống vừa ăn cướp", lúc ấy tôi đã thấy tận mắt cái cảnh thật
đúng câu ví vậy. Hai mụ giơ chân, nhe cặp răng dài nhọn, đánh tới tấp. Trũi
bình tĩnh, dùng càng gạt đòn rồi bổ sang. Hai càng Trũi móc toẽ đằng trước, khi
hươi lên, coi oai như cặp chuỳ đồng.
Tôi đứng ngắm và khen thầm. Xưa nay tôi vẫn có ý coi thường các cậu Dế Trũi - Dế
Trũi quê kệch, mình dài thuồn thuỗn, bốn mùa mặc ái gi-lê trần. Nhưng bây giờ,
nhìn anh Trũi nhanh nhẹn này, tôi hiểu rằng không nên chỉ xem bề ngoài mà coi
thường ai một cách hồ đồ như vậy.
Trũi gan góc, một chống với đôi mà mà địch thủ vẫn luôn luôn bị cú đòn đau.
Nhưng hai mụ Bọ Muỗm cứ vừa đánh vừa kêu, làm cho họ nhà Bọ Muỗm ở ruộng lúa gần
đấy nghe tiếng. Thế là cả một bọn Bọ muỗm lốc nhốc chạy ra. Trũi biết thế nguy,
lủi khỏi vòng chiến nhảy bòm xuống dòng nước, bơi sang bên này. Cách nước rồi,
yên trí, Trũi lại nghênh ngang đứng hướng về bên kia, giơ chân, giơ càng doạ lại
bọn Bọ Muỗm vừa kéo tới. Thấy thế, bọn Bọ Muỗm tức, bật lên một cử chỉ bất ngờ
là chúng bay ào sang rợp cả mặt nước.
Trũi ta không dè bọn Bọ Muỗm bay mau thế. Anh ta chỉ kịp giơ hai cái càng răng
cưa tròn xoe lên thì đã thấy không biết bao nhiêu răng, móc đánh, chém tới tấp
xuống. Trũi ngã quay. Lũ kia xô cưỡi lên. Nhất định có án mạng phen này.
Tôi vội nhẩy tới. Bọn Bọ Muỗm hốt hoảng bay đi hết. Trũi nằm chỏng gọng, bất tỉnh
nhân sự. Tôi vực về cửa hang, lấy nước phun vào mặt Trũi.
Một lát, Trũi tỉnh, còn rên hừ hừ. Bị nhiều đòn đau thâm tím cả mình.
Trũi kể tôi nghe. Vốn trước kia hang Trũi xóm xa bên cánh đồng khác. Một lần
sang bên sông, thấy cỏ tốt quá bèn đến ở bên đó. Xóm ấy có Bọ Muỗm trú ngụ nhiều.
Bọn Bọ Muỗm thấy tự dưng có kẻ lông bông ở đâu đến, không ngày nào không có Bọ
Muỗm đến sinh sự. Chúng cắt lượt nhau suốt ngà vào cà khịa, làm cho Trũi không
chịu được. Nhưng Trũi vẫn gan lì. Có khi chúng dọa đánh chết Trũi.
Trũi rất ngang, không sợ. Đứa nào chửi thế nào, Trũi chửi lại thế ấy. Đứa nào
muốn đánh nhau, Trũi đánh nhau. Tiếng Bọm Muỗm bắng nhắng thế, nhưng dù thế
cũng phải kiềng kẻ gan dạ, nên cũng mới chỉ có những cuộc xô xát xoàng thôi. Trận
ẩu đả hôm nay là to nhất. Bọn bọ muỗm định đánh chết Trũi thật. Chúng cho hai mụ
ra sinh sự, lấy cớ rồi kéo cả lò ra. Đây là trận đòn thù chứ không phải cuộc ẩu
đả tình cờ như tôi tưởng lúc mới đầu.
Trũi rối rít tạ ơn. Tôi khuyên Trũi nên ở lại hang tôi mà chữa bệnh cho tới khi
khỏi hẳn mới về.
Được ít lâu, các vết thương của Trũi lành dần.
Mấy hôm trò truyện cũng Trũi, tôi biết tính Trũi rấy vui, hay nói pha trò và
yêu đời. Nhưng tôi thích nhất Trũi cũng ưa sự đi đây đi đó, Trũi thường khoe rằng
tuy Trũi còn ít tuổi nhưng đã từng đi xa. Tôi ngỏ ý rủ Trũi sẽ cùng đi du lịch.
Tôi bảo rằng ở phía chân trời xa kia chắc có nhiều cái lạ, không nên về đồng cỏ
cũ nữa. Trũi reo lên, nhận lời ngay.
Chúng tôi kết làm anh em.
Từ hôm ấy, Trũi ở luôn hang tôi và Trũi tôn tôi là anh. Còn tôi gọi Trũi là em.
Thề rằng từ đây sinh tử có nhau.
Chúng tôi sửa soạn.
Một ngày cuối thu, tôi và Trũi lên đường. Hôm ấy nước đầm trong xanh. Những áng
cỏ mượt rời rợi. Trời đầy mây trắng. Gió hiu hiu thổi như giục lòng kẻ ra đi.
Thế là tôi rời quê hương lần thứ hai.
V
Một sự vô ý rất nguy hiểm
Địa thế và tình hình các xóm lầy lội
vì lẽ gì mà Mèn và Trũi trốn đi được ?
Đi lùi về phía sau hang tôi, có một cánh đồng lớn. Trèo lên
ngọn cỏ lau cao nhất, ngước mắt trông chỉ thấy xa tít tắp mà chẳng thấy chân trời.
Khởi đầu, chúng tôi định đi suốt cánh đồng và bãi hoang.
Chúng tôi, ngày đi đêm nghỉ, cùng nhau say ngắm dọc đường. Non sông và phong tục,
mỗi nơi mỗi lạ, mỗi bước rời chân mỗi thấy tuyệt vời. Nhìn không biết chán. Mỏi
chẳng muốn dừng. Bạn đọc yêu quý, thật có đi, có trải, còn như ro ró cái thân sớm
chiều ngơ ngẩn góc bãi cửa hang thì sao hiểu được trời đất, bến bờ là đâu.
Ngày kia, chúng tôi mê mải đi, tối lúc nào không biết. Một lúc, mặt trăng trắng
bạch từ từ nhô lên.
Đêm ấy, trăng sáng lắm. Tôi bàn với Trũi, nhân đêm sáng trăng, trời đẹp và mát,
ta cứ đi, không cần ngủ đỡ. Nhưng nửa đêm, nổi cơn mưa lớn. Chúng tôi ẩn lại dưới
tàu lá chuối, cả đêm nghe mưa rơi như đánh trống trên đầu. Sáng hôm sau, bừng mắt
dậy, trời đã tạnh hẳn. Tôi nhìn ra trước mặt, thấy một làn nước mưa mới chảy
veo veo giữa đôi bờ cỏ. Đây là con sông mà đêm qua chúng tôi không rõ.
Tôi bảo Trũi : "Xem như dòng sông này chảy ngoặt về phía bên kia, tức là
cũng dọc theo đường mà chúng ta định đi. Mấy hôm chúng mình quốc bộ đã nhiều,
bây giờ ta thử xuống sông đi thuỷ một chuyến. Trũi nghĩ thế nào ? Cũng phải tập
cho quen sông nước chứ !"
Trũi nghe ngay. Trũi bàn mỗi đứa nên đi một chiếc thuyền bằng lá sen thật khô.
Mùa nước lớn muộn này cái giống sen nhật trôi lang thang mặt nước vẩn vơ như
chim vỡ tổ. Mỗi chiếc lá có một bầu phao khô to như quả trứng, cưỡi lên thì nhẹ
và êm lắm. Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng tôi bàn thêm : lấy vài lá sen nhật ghép lại
đóng thành bè đi chung, tiện lợi hơn nhiều. Chúng tôi bèn ghép ba bốn cánh sen
nhật lại, làm một chiếc bè.
Bè chúng tôi theo dòng trôi băng băng.
Mùa thu mới chớm nhưng nước đã trong vắt. Trông thấy cả hòn cuội trắng tinh nằm
dưới đáy/ Nhìn hai bên ven sông, phong cảnh thay đổi đủ điều ngoạn mục. Cỏ cây
và những làng xa gần, núi xa luôn luôn mới. Những anh Gọng Vó đen xạm, gầy và
cao, nghênh cặp chân gọng vó đứng trên bãi lầy nhìn theo hai tôi, ra lối bái phục.
Những ả Cua Kềnh cũng giương đôi mắt lồi, tình tứ và âu yếm ngó theo hai tôi với
muôn vẻ quý mến. Đàn Săn Sắt và cá Thầu Dầu thoáng gặp đâu cũng lăng xăng cố
bơi theo bè hai tôi hoan nghênh váng cả mặt nước.
Mỗi hôm, cứ chừng gần nửa buổi. Trũi lại khoan thai thò cái càng như chiếc bơi
chèo thả xuống nước lái bè vào bờ lấy cỏ ăn. Cái cách vừa đi vừa nghỉ ấy cũng mất
thì giờ nhiều. Sau chúng tôi định đi luôn một thôi nhiều ngày. Thế rồi có lần
ghé vào bờ, chúng tôi chọn bụi cỏ tốt, hái đầy xuống đầy bè cỏ non, tưởng phải
chén đến hai phiên chợ mới hết. Nhưng đi sông nước chóng đói, mới có hai ngày một
đêm, đã lại phải tạt vào hái cỏ. Tuy vậy, cũng nhanh hơn trước nhiều.
Đêm ấy, trời tối như mực. Tôi ngồi phục vị, mơ màng nghe nước óc ách chảy như
tiếng đàn thảnh thơi ai gảy dưới gầm bè mà ngủ quên lúc nào không biết. Khi dậy,
trời đã sáng.
Nhưng ô hay ! Sao thế kia ? Nhìn xung quang tôi không biết để đâu cho hết bâng
khuâng. Quay sang bên cạnh, thấy Trũi cũng đương đờ ra. Hai cái râu Trũi hơi đụng
đậy, chắc cu cậu đương xúc động lắm. Bè chúng tôi không còn ở trong dòng sông
xinh đẹp hôm qua với hai bờ cỏ non xanh tươi mà bây giờ chúng tôi đương trôi
vào quãng mênh mông, không trông thấy hút bờ phía nào. Như ở giữa bể. Nghĩa là
chúng tôi đã từ sông mà trôi ra vùng nước lớn từ đêm hôm qua. Chao ôi những bất
trắc gì đang đợi chúng tôi đây ?
Tôi sục tìm trong bè xem có vật nào khả dĩ dùng làm bè bơi chèo được. Nhưng chẳng
có chi, ngoài mấy cái xương sống lá và một ít cỏ. Trũi lại thò hau chiếc càng
bơi chèo của mình xuống bơi một lúc. Nước to, bè dềnh ngược dềnh xuôi, cái bơi
chèo càng kia chẳng thấm vào đâu. Trũi tỏ vẻ chán nản, ngước lên thở dài. Bây
giờ đành lênh đênh giữa nước, không cách gì khác là mặc gió đưa đi đâu thì đưa.
Đưa vào bờ nào đó chờ đợi ở chỗ tận cùng ấy. Mà gió thì đương thổi bè đi xa.
Chúng tôi đành nằm yêu chờ đổi gió và rủi may. Sóng đánh cao quá. Đứng trên bè
trông ra thấy sóng nối nhau nổi lên lồi lõm như núi trước mặt. Bè chúng tôi lao
từ ngọn sóng xuống cuối sóng, nhiều lúc tưởng chui ngụp cả vào trong nước. May
nhờ được cái bè vốn nhẹ nên tuy nước dữ, chúng tôi bán chật chắc sóng cũng
không lật chết nổi chúng tôi.
Có điều tôi quên chưa nói cùng bạn đọc, ấy là cái dạ dày của chúng tôi vốn rất
háu ăn, lại phải xốc vác trên sông nước, cho nên chóng lép ghê. Thường một ngày
tôi chén tới ba bữa là ít. Mà bây giờ, dần dần mới vài ngày lênh đênh đã nhẵn hết
cỏ. Thế là bốn phía vẫn mênh mang không thấy bến bờ nào hết. Trũi lại nhìn tôi,
băn khoăn, buồn. Tôi cố bình tĩnh, vẫn vui như thường. Thấy thế, Trũi cũng hơi
yên lòng. Tôi vũ cánh múa càng, vừa múa vừa hát nghêu ngao. Trũi cười. Rồi Trũi
cũng múa càng lên. Trong cơn gian nguy, có được sự bình tĩnh cũng đã là có một
cớ để tin tưởng.
Qua ngày thứ hai thì tôi cũng hết hơi. Mỗi khi há miệng, ruột lép muốn co lên/
Trũi tìm cách gặm lại những mép lá sen khô. Nhưng ăn lá khô khác gì ăn gỗ không
nuốt được. Vừa đói vừa mệt, mà chúng tôi lại không dám nhắm mắt ngủ, sợ nếu chợp
đi, vô ý không bám vững vào bè, gặp sóng to đánh, bè úp không kịp níu lại, hoặc
có con cá lớn đói mồi nào quẫy lên đớp nhằng một cái thì mất mạng như chơi.
Ngày thứ ba, một màu nước trắng
Ngày thứ tư, vẫn một màu nước trắng
Ngày thứ năm, màu nước trắng
Ngày thứ sáu, nuớc trắng.
Ngày thứ bảy...trắng...
Ngày chín
Ngày mười
Qua ngày mười, cả hai chúng tôi không đứa nào còn có thể đứng lên được. cái đói
ghê gớm cứ đánh liệt dần từng bộ phận trong người, bây giờ đến lúc nó làm dúm
kheo lại, chân run lẩy bẩy, lại phải nằm móp bụng xuống. Từ chỗ này muốn qua chỗ
khác, chúng tôi chỉ lách nhích từng tẹo.
Trũi khẽ thở dài :
- Chết mất, anh ạ.
Tôi đáp :
- Đừng lo. Xem mây vẩn trời, đêm nay có cơ đổi gió. Anh thấy hình như có cái
bóng xanh mờ mờ đằng kia. Có phải đấy là bờ, gió mà đưa được anh em ta về chỗ bờ
xanh xanh ấy là tốt rồi. Trũi bảo Trũi không nhìn thấy . Còn tôi, không biết là
loá mắt hay đấy cũng chỉ là tưởng tượng trong hy vọng mà thôi. Hơi sức mỗi lúc
một khác. Chiều hôm ấy thì đã đến cung cảnh muốn nói đôi câu, chúng tôi phải
ghe vào nhau thì thào, tiếng cứ phào phào.
Trũi băn khoăn. Trũi hay nhìn trộm tôi, tôi đoán thế, tôi hỏi luôn :
- Chú sắp có mưu gì bàn cùng anh ?
Trũi lắc đầu. Nhưng lát sau, Trũi nói :
- Thưa anh, em nghĩ anh em mình khó lòng thoát chết.
Tôi gạt :
- Chú đừng nghĩ thế mà nản lòng anh em ta.
Trũi tiếp :
- Anh mắng thì em cũng nói. Em tuyệt vọng rồi, mắt em mờ đi rồi đây này.
Trũi im một lát rồi lại thều thào :
- Em trộm nghĩ chết thì đành chết. Nhưng không nên chết cả, vô ích, ta phải tìm
cách...
Tôi hỏi :
- Chú nói như vậy nghĩa là sao ?
Trũi ngập ngừng :
- Nghĩa là...Nghĩa là...ta tìm thứ gì tạm ăn cho sống được. Em có đôi
càng...anh...
Tôi ngắt lời :
- Thôi anh hiểu bụng chú rồi. Chú cứ nghĩ rằng không nhẽ anh em ta lại chịu chết
lênh đênh cả như thế này, mà phải cứu sống lấy một. Chú định để anh ăn thịt
chú, chú chịu hy sinh cho anh sống. Ta khen chú điều thủy chung. Nhưng em ơi !
Tử sinh là lẽ thường mà mạng em cũng như mạng anh, đều quý cả. Huống chi, chẳng
lẽ chúng ta chịu nằm chết đói trên mặt nước này ? Dù thế nào cũng không bao giờ
nản chí...
Trũi cứ khẩn khoản rồi chìa càng lên mời tôi ăn. Trũi gượng cười bảo rằng Trũi
cụt cả hai càng cũng không sao, không thể chết, vẫn khoẻ như thường. Trũi đã thấy
có anh dế cụt càng như thế. Tôi gạt phắt đi và mắng Trũi. Sau cùng anh em tôi
ôm nhau mà khóc. Những giọt nước mắt thương nhau ấy đã làm Trũi yên tâm và bình
tĩnh trở lại.
Đêm ấy, trời trở gió, chơ vơ giữa trời nước, gió lại thổi nhiều, lạnh quá.
Chúng tôi nằm co quắp vào nhau. Trũi ngửa mặt lên trời, gần như ngất đi. Họ dế
chúng tôi, ai cũng vậy, chỉ có khi sắp chết thì mới chịu phải nằm ngửa. Bây giờ
thấy Trũi như thế, tôi đã lo lo. Tôi sờ lên mặt Trũi xem còn thở không, rồi lay
gọi, mãi Trũi mới ú ớ tỉnh. Trời nghe trở gió ầm ầm trên mặt nước. Tôi chợt nảy
cái mừng vu vơ: " Có lẽ gió này đưa chúng tôi vào bờ. Có lẽ thế...Có lẽ..."
Tôi chợp mắt, cũng chiêm bao thấy thế. Tới nửa đêm, tôi cũng mệt quá, thiếp đi.
Sớm sau, nghe đầu bè có tiếng động rền như tiếng sấm. Tôi thức dâhy, hé cặp mắt
nặng nề.
Nhưng mắt vừa hé đã bị chói đầy ánh sáng mặt trời. Tôi nhích đầu lên - cổ đây
như bị ai cứa - tôi thấy ngợp mắt một bờ cỏ xanh rì. Thì ra bè chúng tôi, từ
lúc nào đã trôi vào gần một bờ cơ, cái tiếng sấm đằng kia vang lại chỉ là những
tiếng động quen thuộc của làng xóm đằng ấy đương rộn rã trong một ngày nắng.
Tôi bò đến lay Trũi. Trũi vẫn nằm nhuôi như chết. Tôi phải nghe và đập vào ngực
xem còn thở không. Vẫn còn. Tôi cúi xuống ngậm nước phun vào mặt Trũi. Chốc
Trũi hắt xì hơi liền ba cái. Vừa tỉnh, mắt còn nhắm, Trxu đã rền rĩ kêu. Tôi trỏ
vào bờ xanh xanh. Trũi nghển cổ nhìn rồi rú lên. Trông thấy sống. Thế là tự
nhiên chúng tôi khỏe hẳn hơn lúc nãy.
Nhưng cũng phải đến chiều, bè chúng tôi mới giạt vào và bấy giờ chúng tôi mới
lên được bờ. Bè vào sát bụi cỏ, tôi túm lấy leo. Trũi cũng làm như tôi, không đến
nỗi rơi xuống nước.
Chúng tôi lên bờ, để lại đằng sau chiếc bè trống không nhẹ bỗng, vụt cái, trôi
vèo vèo vào gió nước. Bè ơi bè, từ nay giã biệt mày.
Tôi cúi xuồng gặm miếng cỏ. Bên cạnh, Trũi húc đầu hi húi ngồm ngoàm ngốn tự
lúc nào. Thứ cỏ đó, cỏ nước. Lá cứng nhiều gân và ngăm ngăm đắng. Phải như mọi
ngày, tôi chẳng thèm ghé răng. ấy vậy mà lúc đó chén ngon đáo để. Thế mới biết,
đã đói, nuốt đất cũng thấy được.
Ăn xong, trời đổ tối. Cẩn thận, chúng tôi chạy một mạch vào trong đề phòng nếu
đêm có mưa, nước lớn không cuốn chúng tôi đi được. Đến bãi cỏ trên mô đất cao,
chúng tôi lăn ra đánh giấc say sưa.
Sáng hôm sau, tôi trèo lên ngọn hoa cỏ xước, ngắm địa thế chỗ chúng tôi bạt
phong vào. Đó là khoảng bãi rộng, lầy lội bùm tum toàn giống cỏ nước. Quá phía
trên, đất hơi ráo, nhưng cũng chỉ độc một thứ cây ké hoa vàng rượi. Xóm ấy xưa
rày sống vất cả trong bùn lầy nước đọng. Dân cư chỉ có vài nhà Cóc, mấy anh ễnh
Uơng, Chẫu Chàng, Nhái Bén, một ếch Cốm và một chú Rắn Mòng. Hoặc giả cũng có
thêm một vài giống nữa, nhưng cả cái xóm bùn lội đen ngòm với da dẻ chân tay
loài ở bùn cũng om như thế, ít ai mới nhìn đã mới nhìn đã phân biệt ngay ra được.
Xóm ở chơ vơ trong cái cù lao giữa nước, muốn vào đất liền phải qua bãi lầy và
một dòng sông nhỏ. Theo thói quen ở bãi, vả lại, đường sá đi lại diệu vợi, mọi
nhà trong cù lao không mấy ai ra ngoài, không ai nghe biết tin tức mọi nơi. Suốt
ngày bàn tán quanh quẩn lúc nào cũng vang động tiếng cãi cọ, tranh nhau đoán
suông xem bao giờ thì trời mưa. Suốt đời họ mong mưa. Bởi có mưa, đất lầy nhuyễn
ra, dễ đào bới, mới được cái ăn. Cứ điều qua tiếng lại, mỗi miệng thêm một lời,
không ai nhịn ai, uồm uồm oang oang mãi lên. Cánh này đã to tiếng thì thì phải
biết là ầm ĩ. Mới có cậu ễnh ương căng mép, phình bụng chỉ nói một câu bình thường
cũng vángt ai cả xung quanh rồi.
Chúng tôi vào đây, nghe loạn xạ, mà đi một lúc chưa gặp ai. Mãi sau có anh Rắn
Mòng trông thấy chúng tôi Rắn Mòng ngoe nguẩy trườn ra - chỉ có trẻ em nhút
nhát thì sợ Rắn Mòng chứ thật ra anh Rắn Mòng hiền như cái đụn rạ, Không ai thấy
anh nói bao giờ, tưởng câm, nhưng anh ấy chỉ có tính ít nói thôi. Hàng ngày,
anh Mòng vơ vẩn trên mặt nước đợi mồi. Một Muỗi Mắt, một gã Bọ Bèo lạc tới, anh
tợp ngay. Nhưng thường đợi cả tháng cũng chẳng được cái tợp nào. Mòng đương lúc
đói, mới nghe tiếng chân chúng tôi đi tới liền bò ra. Nhưng khi thấy chúng tôi
to lớn, chân càng gai ngạnh không thể là mồi của anh thì, thì Mòng lại cúp mắt
xuống, nhìn chỗ khác và trườn đi.
Sau có Nhái Bén trông thấy chúng tôi. Nhái Bén tính nhau nhảu liền ra bảo ễnh
ương đi rong khắp nơi đánh lệnh vang vang rao cho cả làng nước biết có người lạ
vào địa phận. Thế là, cả xóm lô nhô kéo ra. Trông những cái bụng lép và nét mặt
vêu vao, tôi đoán biết họ kéo ra làm gì. Họ ra xem chúng tôi có gì cho ăn hoặc
chúng tôi có phải là thức ăn được không. Nhưng thấy chúng tôi sừng bướng, đầu
mình bọc giáp sắt, chân mang khí giới nhọn hoắt thì họ lại lờ vờ lảng dần.
Đã lâu trời không mưa, không có nước dềnh vào xóm - nước hồ lâu mưa thì trong vắt,
chỉ đẹp mắt mà không có thức gì ăn nên dân cư trong hồ đói lắm. Bao giờ cũng vậy,
sự cùng quẫn hay khiến ta nghĩ ngợi và giận dữ. Không biết vặc vào ai. Chẳng biết
trời ở đâu mà lôi xuống bắt làm mưa - dù cho tiên sinh Cóc có được tiếng là cậu
ông trời đi chăng nữa thì cũng đành chịu, cho nên họ đâm ra nóng tính, động một
tí cũng cáu kỉnh, bực tức ầm cả lên. Trong xóm không lúc nào dứt tiếng chửi vã.
Nhà này đòi nợ nhà kia, chỗ này bàn, chỗ kia tán, inh ỏi những uôm oạp, những
kèng kẹc ngày đêm không bao giờ ngớt, bởi vì không biết giải quyết thế nào.
Thấy chẳng ăn thua gì, mấy anh nọ lảng đi như Rắn Mòng. Chỉ còn đôi ba bác Cóc
ngẩn ngơ đứng lại. Một Cóc tóp tép miệng, như tợp được mồi, vờ nhai cho đỡ
thèm. Một Cóc khác bước ra, cất lên một giọng rất văn vẻ ( Cóc vẫn nổi tiếng thầy
đồ, thầy đồ Cóc trong tranh Tết ) :
- Hà cớ mà nhị vị tráng sĩ du nhàn qua bản thôn ?
Rõ chán, nói chữ mà chưa chắc đã biết nghĩa, tôi bấm bụng nhịn cười thầy đồ Cóc
rồi dùng cái khoa giao thiệp hoa mỹ khôi hài đó đáp đùa lại :
- Thưa tiên sinh, chúng tôi đi du lịch.
- Kèng kẹc ! Du lịch ! Kèng kẹc ! Du lịch ! Vậy bỉ phu xin hỏi nhị vị tráng sĩ,
nhị vị xưa rày là tay dọc ngang nào biết trên đầu có ai, thế thì chắc nhị vị phải
nghe tiếng từ lâu rằng bỉ phu mặc dầu thanh bạch ở hang dưới đất nhưng bỉ phu
là cậu thằng Trời đấy ! Nhị vị qua chơi nhiều nơi trên hoàn cầu, nhị vị có gặp
thằng cháu "trời đánh thánh vật" nhà tôi ở đâu không ?
Trũi mỉm cười, dùng càng hích tôi một cái. Tôi nháy, ý bảo phải nghiêm một
chút, gặp đứa dở hơi thì cũng cứ liệu lời cho qua chuyện mới được. Tôi bèn lấy
điệu vuốt râu tưởng tượng, làm vẻ đứng đắn trả lời rằng :
- Thưa tiên sinh, chúng tôi có gặp ông Trời.
- Kèng kẹc ! Rất tiếc ! Kèng kẹc ! Rất tiếc không được tương kiến trước. Thế
thì nếu như từ nay về sau nhị vị tráng sĩ có còn gặp nó thì hỏi nó cho bỉ phu rằng
: Vì lẽ gì mà lâu nay bản thôn không có nước mưa ? Cái thằng "trời đánh
thánh vật" cháu tôi mê mải tổ tôm xóc đĩa ở đâu mà không biết suốt đêm cậu
Cóc nó phải nghiến răng kèng kẹc đến nỗi đâu đâu cũng nghe như tiếng trống đăng
văn ấy chăng, đến đỗi cậu nó đã nghiến mòn hết cả răng rồi đấy chăng ?
Suýt nữa tôi bật cười thành tiếng. Giỡn chơi thế chứ nào tôi biết cái lão Trời
"trời đánh thánh vật" ấy ở mô tê ! Tôi còn đương bụm miệng nhịn cười,
nhưng Trũi đã ngứa tai không giữ nổi vai kịch, bỗng choang một câu :
- Trời với đất, cậu với cháu, chỉ vớ vẩn ! Nói thẳng thừng là muốn ăn mà chỉ ngửa
tay thế thì kêu đến sái cổ, gãy răng, gãy hàm nữa cũng chẳng quả sung nào rụng
trúng vào mồm đâu.
Cóc còn đương ngơ ngác nghe chưa thủng câu nói mỉa mai của Trũi, tôi đã chen
vào, át đi, tôi cung kính, lễ phép nói to :
- Thưa tiên sinh, tôi nhớ ra rồi, tôi nhớ dù chưa được tiên sinh dặn thế, chúng
tôi cũng đã có tâu hỏi việc lâu nay sao hạ giới không mưa. Ông Trời ông ấy cứ
xua tay nhăn mặt mà rằng hồi này tôi mắc bận, chưa mưa được, chưa mưa, bận lắm
lắm. Việc ông Trời là việc làm mưa mà ông ấy lại kêu mắc bận, chẳng hiểu bận
gì, tôi cũng chẳng hiểu ra sao cả, nhưng không dám hỏi nữa.
Tôi nói thế, Cóc ta đã kêu kèng kẹc vẻ mãn nguyện, ầm ĩ :
- Bỉ phu hiểu rồi ! Hiểu rồi ! Hiểu rồi ! Thế ra cháu nó bận quá đến nỗi quên cả
cho cậu nó uống nước. Cháu nó bận quá ! Có thế chứ ! à ra thế ! Thảo nào !
Cóc cứ dấm dớ lý sự và lẩm nhẩm một mình nghĩ, một mình nói thế trong khi cả
đàn cóc nhô nhốp nhảy ra lại nhảy vào, vừa kèng kẹc, vừa gật gù : Có thế chứ, à
ra thế ! Thảo nào ! Tự an ủi mình bằng câu chuyện tầm phơ của tôi. Các cậu cóc
chỉ quanh quẩn xó hang mà khoái cái oai hờ "con cóc là cậu ông trời"
là như thế.
Chúng tôi nhắm mắt, nhắm mũi lại lăn ra cười. Đến khi mở được mắt, không thấy
Cóc đâu nữa chỉ thấy đi tới một chàng Nhái Bén gầy, lêu đêu cao, hai cái đùi bé
quắt mà dài quá nửa thân mình. Bộ quần áo thể thao của Nhái Bén bó sát người, cứ
so le, xộc xệch, càng có cảm tưởng như cái cẳng chân nó dài thêm ra. Chúng tôi
lại toan cười. Nhưng mặt Nhái Bén vốn nhợt bây giờ nghiêm xám hẳn lại. Tôi im.
Tôi ngờ có điều gì đây.
Quả thật. Lão Cóc có tính khuyếch khoác chứ không phải lão Cóc là cục đất mà ai
chửi vào mũi lão cũng được ! Còn có câu ví "gan cóc tía" cơ mà. Lão
cũng thâm lắm, cho nên sự chế giễu và nhạo báng lão của chúng tôi không qua nổi
ý tứ lão, đến lúc chúng tôi nhắm mắt lại cười vào mũi lão như thế thì lão cáu lắm,
và thành cái kết quả ngay là các lão đi khắp xóm là có kẻ trộm vào xóm.
Nháy mắt, Nhái Bén nhảy thoắt đến trước mặt, nói :
- Đại vương ếch có lệnh đòi.
Chúng tôi theo Nhái Bén đến dưới một búi cúc tần ẩm thấp, nhớp nháp, trông vào
thấy ếch chồm chỗm ngồi vênh mõm trên viên gạch vuông như kiểu ngồi trên sập,
ra điều uy nghi lắm. Đôi mắt lồi nghiêm nghị của lão ta cứ giương trừng trừng.
Hai khoeo chân trước khoảnh ra, đôi chân sau xếp tè he lại. Ngực và bụng trắng
bóng giống lối cổ áo thầy kiện, cứ phập phồng đưa lên đưa xuống lấy hơi sắp
nói, nhưng mãi chẳng thấy nói gì. Đặc biệt trên gáy lão ra điểm mấy miếng xanh ở
cổ áo và lưng áo như hạt cốm. Bởi thế, lão cũng có tên là ếch Cốm.
Và có lẽ trong hoàn cảnh đói kém này, lão cậy mình còn to béo khoẻ mạnh nhất
vùng nên lão xưng là đại vương, đại vương ếch Cốm ! Với chúng tôi, đại vương
hay là cái gì thì cũng chẳng bận tâm, qua câu chuyện tôi chỉ có nhận xét tính
lão cũng hệt bọn đồ cóc đã dốt lại còn hay khoe chữ, còn cái tính khoác lác của
ếch thì một tấc đến trời, hơn Cóc nhiều. Chuyện với anh nói khoác nó chỉ biết
nói cho nó nghe và không biết nghe ai nói cả, cứ tức anh ách như bị bò đá.
ếch cốm hỏi ( hay nói cũng không rõ )
- Chúng bay sang buôn ngọc bên vùng Rùa Rùa trong chân núi...
Tôi đáp:
- Thưa, tôi...
- Biết rồi, ta biết rồi, đây vào đến vùng Rùa Rùa còn xa một phiên chợ. Ngày
trước ta đã...
Trũi sẵng tiếng ngắt lời :
- Không, tôi không đến vùng Rùa Rùa !
- Ta biết rồi... Ngày trước ta đã vào chơi vùng Rùa Rùa trong chân núi ấy...Ngày
trước ta...Ngày trước ta...Ngày trước ta...
Nói có mấy câu thì đầu đuôi câu nào cũng "ngày trước ta..." và
"ta biết rồi...". Nên cho anh chàng khuếch khoác này thêm cái biệt hiệu
là anh "ngày trước ta" hay anh "biết rồi". Cái lão đại
vương ếch Cốm này chẳng biết cóc gì nhưng cái gì cũng nói trước, mình chưa nói
hết câu nó đã nói nốt câu mình nói, cái gì cũng tỏ vẻ biết, và cái gì ta cũng
giỏi. Bây giờ tôi mới rõ câu tục ngữ "ếch ngồi đáy giếng" thế mà thâm
và ý nghĩa sâu.
Không ai chịu được những anh đã dốt lại hay tự đắc và dở hơi. Trũi có tính nóng
nảy. Thấy trái tai, Trũi cãi phăng, nói phăng. Rồi muốn ra sao thì ra !
Trũi văng một câu :
- Này ông hỏi chúng tôi, chúng tôi đã trả lời đâu mà ông biết được, ông chẳng
biết cóc gì hết ! Ông là ếch ngồi đáy giếng, ếch ngồi đáy giếng chỉ trông thấy
mẩu trời trong miệng giếng đã tưởng nom thấy cả vòm trời ! Ha ha ! ếch ngồi đáy
giếng. Hôm nay mới thấy thật ếch ngồi đáy giếng.
ếch cốm tức quá, hét ầm ỹ đuổi Trũi, Trũi điềm nhiên giơ càng. ếch Cốm không
dám xông đến. Chúng tôi không chạy, cũng không nói, chúng tôi ung dung đi ra.
Làm vẻ ngông nghênh cũng không tốt, nhưng lúc ấy chúng tôi thú vị như thế đấy.
ếch cốm gọi cả xóm lại, bàn cách nện chúng tôi. Nhưng buồn cười thay, xóm này mới
chỉ rỉ tai bàn bí mật mà đi tận xa xa cũng nghe tiếng uôm oạp. Nói thế này, thế
nọ, cứ ầm ỹ rối xoè. Ai cũng kêu là ghét hai thằng lếu láo, giá thấy mặt bây giờ
thì phải đánh cho chúng mấy đánh. Những quân lang chạ ở đâu đến rõ bọn đầu trộm
đuôi cướp. Phải vặn cổ nó xuống, tức lắm, phải nện cho chúng nó một trận nhừ tử.
ếch cử ễnh ương và Chẫu Chàng đi đánh chúng tôi, cả hai anh chàng cùng nhăn nhó
là có bệnh đau bụng kinh niên. ếch bảo Cóc. Đáng lẽ Cóc phải hăng hái đi nhất
thì Cóc trả lời rằng với chúng tôi, Cóc là chỗ quen biết, xưa nay có giao thiệp,
vả chăng, đã là thầy đồ nho nhã biết ngậm cái bút lông mèo thì không bao giờ
thượng cẳng chân, hạ cẳng tay như kẻ tầm thường. Đến lượt Nhái Bén, Nhái Bén
ngoẹo mình, giơ mạng sườn, làm hiệu và kiếu : tôi gầy lắm, đứa nào thổi mạnh một
cái tôi cũng ngã huống chi chúng nó những hai đứa... Rắn Mòng khước mình vừa lột,
xương cốt mình mẩy còn mỏng manh lắm, chưa làm việc nặng được.
Đến khi cả bọn Cóc, ễnh ương, Nhái Bén, Chẫu Chàng, Rắn Mòng đồng thanh cử đại
vương ếch cốm hãy tạm rời cái mà ếch mùa đông ở bờ đầm nước và cái sập gạch
kiên cố ấy, bước ra, đi trước, bọn họ sẽ theo sau trợ chiến thì ếch cốm ra phồng
bụng, phồng mép, trố mắt, quát :
- Như ta đây đường đường một đấng trượng phu hai nhãi ấy chưa đáng mặt đọ sức với
ta...
Rút cuộc, ai về nhà nấy và lại làm công việc hàng ngày của mình. Mòng và Cóc đi
rình muỗi. Nhái Bén leo cây. Chẫu Chàng hát nghêu ngao. Những kẻ khác thì ngồi
than vãn, khóc lóc hoặc cãi vã nhau cho qua ngày. Còn đại vương ếch Cốm vẫn lặng
im tư lự một cách vô tích sự trên hòn gạch vuông - suốt mùa đông lão ngồi ngậm
hơi không một lần nhích đít khỏi cái sập oai vệ trong cái mà của lão.
Chúng tôi chẳng muốn gây sự và cũng không lưu luyến gì đất này, đất buồn. Có
đáng kỷ niệm đây chỉ là nhớ nơi mà chúng tôi lênh đênh từ ngoài nước lớn giạt
vào - một lần thoát chết.
Tôi cùng Trũi đi ngược lên phía những rặng cây ké hoa vàng lấp lánh một giòng
sông. Chúng tôi định vượt qua đấy có thể tìm một ít cỏ tốt rồi nghỉ ngơi vài
ngày chăng.
Trũi nhảy xuống nước, bơi sang. Bơi một quãng bỗng nhiên chìm nghỉm. Cả hai cái
râu cũng không thấy ngo ngoe trên mặt nước, như bị đột ngột rút chân xuống. Chốc,
thấy Trũi ngoi lên, kêu váng rồi hớt hải quay lại. Tôi định thần nhìn kỹ thấy
quanh đấy có luồng sóng cồn đuổi theo. Một đàn cá săn sắt đương rầm rập kéo đến.
Những cái đuôi cờ ngũ sắc bay hoa cả mặt nước. Vừa rồi mải bơi, chính là Trũi bị
mấy gã Săn Sắt ấy kéo tụt xuống. May, Trũi cố vùng thoát lên.
Bây giờ tôi mới kinh hãi nhìn dần ra khắp dọc sông, chỗ nào cũng thấy đông đặc
cá Săn Sắt với những đuôi cờ múa rợp bóng nước. Chúng lượn đi lượn lại, vẻ
nghênh ngang, chặn đường. Cái này chắc có âm mưu gì đây. Rồi tôi thấy Săn Sắt
kéo đến mép nước phía chúng tôi, hằm hè toan nhảy hẳn lên bờ đòi choảng nhau, rất
hung hăng. Thế này phải tìm cách thoát ngay mới được. ờ ! có thể ếch cốm lập ra
mưu này, cái lão khoác lác một tấc đến trời mà cũng mưu lược gớm.
Lại vài mụ Diếc trắng trẻo, béo tròn con quay, lò mò đến. Các mụ tung tăng múa
vây, múa gáy. Rồi mấy bác cá Ngão mắt lồi đỏ, dài nghêu, mồm nhọn ngoác ra, ở
đâu bơi chớp nhoáng đến, đỗ kề ngay bờ trước mặt, há miệng đợi đớp. Ôi chao, nếu
không mau chân, bọn này cứ thắt mãi vòng vây, chí nguy ! Trũi lau tau mà đã thấy
cuống. Trũi nóng tính, nóng hăng thì cũng nóng nhụt ! Chưa chi cả mà đã hốt.
Tôi bảo :
- Khoan khoan liệu việc, nhốn nháo thì hỏng đấy.
Bỗng Trũi lại tru lên :
- Kìa kìa.. lũ nữa đến...
Nhìn lên đầu sông thấy mấy bác cá Chuối đương lừ lừ tới. Bóng cá Chuối loáng cả
dòng nước, răng nhe trắng như lưỡi cưa, nó lướt vào đến trước mặt thì dòng nước
đương trong vắt bỗng đen sạm như nền trời cơn mưa.
Phải tính việc tẩu ngay.
Nhìn sang bên kia sông, tuy xa, nhưng tôi cảm thấy nếu tôi cố thì có thể bay
qua được. Tôi sẽ bay qua ngay trên đầu chúng nó. Nhưng đôi cánh của Trũi ngắn
thun lủn, không thể bay xa thế. Trong khi ấy, nếu còn trù trừ thì chết. Đàn cá
Chuối hung hăng sẽ ngoi lên tận bờ bùn này đớp chân chúng tôi. Hoặc một thằng
Chạch, một thằng Lươn có thể độn thổ lên ngay vũng bùn dưới chân chúng tôi đứng
đây.
Tại sao nên tai nạn như vậy ? Về sau tôi mới hiểu chỉ vì cái thói nghịch ác và
sự coi thường xung quanh của chúng tôi. Chẳng là bị khích thế, cả xóm ếch Nhái
đương buồn bã kia bỗng phát cáu lên và các xóm Cá ngoài này nghe phong thanh có
hai thằng dế bơ vơ ở đâu đến làm loạn sông thì cá kéo ra đánh đuổi đi.
Lúc ấy, tôi khom người xuống. Tôi đã nghĩ ra một cách. Tôi bảo Trũi trèo lên
lưng. Tôi mím miệng nghiến răng, gắng sức bình sinh cõng Trũi bay qua sông.
Không cất cao mình lên được, tôi chỉ đủ sức bay là là mặt nước.
Cả đàn mấy chục các loại cá đuổi theo, chen nhau đánh sóng và quẫy đuôi, ngoáp
miệng bắn nước lên đầy mặt tôi, ướt cánh và ướt cả bụng tôi. Tôi chỉ núng cánh
một chút, nó mà tợp được chân tôi lôi xuống thì tan xương cả. Lưng tôi nặng như
cái cối đá đè. Tôi cố sức, cố sức, cố sức... Cuối cùng, tôi lướt khỏi mặt nước,
sang tới bờ bên này bãi cỏ. Tôi lăn kềnh ra bãi, trong khi Trũi bị hất tung ngã
tít đằng kia.
Trở dậy, trông bờ bên ấy đã thấy cả xóm ếch Nhái kéo ra. Tuy vậy, vẫn không thấy
đại vương ếch Cốm đâu. Thêm viện binh ! Bốn bác Cua Núi đen sì như bốn cái xe bọc
sắt to kềnh, múa lên những chiếc càng rất lớn. Tưởng nếu bị càng đó cắp thì bụng
tôi có thiết giáp cũng phải phòi ruột.
Nhưng chúng tôi đã qua được sông. Thách cũng chẳng mống cá nào dám lên bờ đuổi.
Nghĩ cứng thế, nhưng tôi lại chợt nghĩ thêm : biết đâu ai học được chữ ngờ, như
cái lần Trũi bị cả xóm Bọ Muỗm bay qua sông sang đánh suýt chết đấy. Tôi vội bảo
Trũi cùng nhau chạy trốn ngay. Trũi cũng hiểu, chúng tôi biến rất nhanh.
Tuy vậy, trước khi chạy, vẫn làm oai ta đây, chúng tôi giơ càng lên, ri ri hát
một bài. Trũi xỏ hai chân vào hai râu, cong cong râu, làm hiệu giễu cợt. Giở
trò trêu ngươi cái đã.
Nhưng bên kia bọn bên kia sông chưa kịp nổi giận thêm tôi đã kéo Trũi chạy một
mạch đến tận hàng cây xanh xanh mờ mờ đằng xa.
Nghĩa Đô 12-1941
Tô Hoài
Theo https://vietmessenger.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét