Thứ Ba, 4 tháng 1, 2022

Ký ức phiên lãng 5

Ký ức phiên lãng 5

Gặp từ Bra-ti-sla-va...

BRA-TI-SLA-VA rộn ràng khác mọi ngày, những buổi chiều cuối tuần vào mùa đông. Bến xe buýt ở Sê-néc cách trung tâm hơn hai mươi ki-lô-mét, lố nhố người đeo súng săn, vai khoác hai ba con gà gô, con mòng cổ dài. Biết đấy là chiều chủ nhật, thứ bảy - những ngày nghỉ trong tuần và thế là đã bắt đầu mùa đông, cũng bắt đầu mùa săn ở những cánh rừng ngoại ô.

Những thành phố cổ châu Âu, dù hôm nay đương nhộn nhịp những bước hiện đại, nhưng người ta vẫn thích giữ cho được kiểu cách xưa mà chỉ ở đấy mới có. Một góc phố, một ngõ hẻm, những lề lối nền nếp mà mang hình ảnh một lịch sử, một quãng nào đó của nền văn minh Địa Trung Hải vốn phát triển sớm và liên tục - mỗi dân tộc ở quãng đất nước ấy trên trái đất, triền sông, con đường, bến nước, cách sinh sống của con người, gắn bó một vẻ riêng.

Những cái khác nhau của mỗi thành phố.

Đứng ở cổng thành Bren-đen-bua, nhìn sang góc Béc-lin bên kia - phần đất các nước Anh Pháp Mỹ chiếm đóng. Thấy mờ mờ một cảnh trớ trêu. Hai bên thành phố rầm rộ trong tốc độ công nghiệp đến chóng mặt, bỗng chợt hẫng đi. Đây ngày trước là quãng đường liền. Không thể tưởng được sự chia cắt nham nhở đến thế - lạ lùng đến nỗi cảm như thấy đấy mà là hư không.

Ở Bra-ti-sla-va, khác hẳn. Sông Đa-nuýp đương mùa kiệt, quãng ấy nước chảy nghiêng xiết gờ đá. Cây cầu lớn bắc qua sông, trên đỉnh một nhịp có một quán cà phê treo vắt vẻo, lơ lửng. Ngồi trong phòng ấm, nhấm tách cà phê pha rượu mạnh Bô-rô-vích-ka, nhìn ra cánh cửa sổ mở thấp xuống ngang chân, thấy nước Áo ngay trước mặt.

Không biết đấy là khói sóng hay làn sương cuồn cuộn trên rừng bạch dương về phía nước Áo. Một đoàn tàu đương qua cầu. Đường xe lửa từ Bra-ti-sla-va sang Áo, năm mươi ki-lô-mét đã vào thủ đô Viên. Mỗi ngày, tám chuyến đi về giữa hai thành phố bờ sông Đa-nuýp.

Không chút nào cảm thấy đây địa đầu hai đất nước khác nhau - như mấy người nhà báo ngồi ở Hoa Thịnh Đốn, ở Pa-ri hàng ngày ra rả nói mò về những “bức màn sắt”, “bức tường” ở nơi địa đầu này. Chính nghĩa cứ tự nhiên như những con tàu hàng ngày chở khách Bra-ti-sla-va đi Viên, như những chiếc ô tô du lịch, nóc xe chật ba lô, tăng bạt, gậy trượt tuyết - người châu Âu đi Tiệp Khắc chơi mùa đông, ô tô nối hàng cạnh những cột mốc, biển chỉ đường, cây đèn vàng đèn xanh, ba-ra lằn đỏ lằn trắng trên con đường tiêu chuẩn châu Âu từ Áo sang Tiệp sáu làn ô tô chạy một lượt. Ven đường có bãi cho xe nghỉ dọc đường, những cái “mô-ten” êm ấm như những tổ chim xinh xinh trong cây. Người du lịch các nước vào Tiệp Khắc không biết dừng chân. Đến đây lại háo hức đi nữa.

Vâng, từ Bra-ti-sla-va, bên Slô-va-ki sang Áo, đi đường kia, ai cùng đi đường ấy gần nhất. Đoàn tàu và những chiếc xe du lịch gia đình mải miết qua. Tôi tựa cửa sổ quán cà phê trên nhịp cầu sông Đa-nuýp nhìn ra. Mỗi toa tàu xanh rờn như một cành thông tuyết đem vào Nô-en. Những chiếc ô tô du lịch lại nhộn nhịp nối đuôi vào lòng cầu...

Một vẻ riêng đáng yêu của Bra-ti-sla-va.

Từ cửa rừng ở Sê-nec vào giữa thành phố, lại khác nữa. Đường phố đã mọc lên những rừng thông Nô-en mà từng đoàn xe tải còn đương đưa thêm vào. Ở khe cửa mỗi nhà, đã dựng sẵn. Trước nhà hát thành phố, một cây thông lớn mà trông cành cắt mới biết cây vừa cắm. Người ta đem về màu xanh cây giữa mùa đông trắng xóa. Có phải Nô-en là cuộc tiễn đưa nỗi nhớ màu xanh và hình như mong ước và đợi chờ bao giờ cũng làm cho tấm lòng thiết tha hơn.

Tôi không được biết mùa nào khác ở đây hơn là những buổi tối êm đềm vào mùa này mà tôi tưởng ra thế cũng nên. Nhất là vào những hoàng hôn, ánh tuyết non lẫn với bóng chiều lóng lánh như nhảy múa. Tưởng như suốt trên mặt đất lúc này đâu cũng một màu vàng tuyền như thế. Một chiếc lá phong còn sót lại, bảng lảng bay.

Muc-ka, bạn tôi bảo:

- Anh thấy chiều mùa đông của Bra-ti-sla-va chúng tôi thế nào?

- Tôi chưa thấy ở đâu thú vị như thế.

- Thành phố chúng tôi có những thói quen lâu đời, thói quen thưởng thức những buổi chiều vàng cho đến khi tối hẳn.

- Hay lắm.

- Bra-ti-sla-va xưa nay được tiếng nhiều quán rượu - nhiều hầm rượu rất cổ thì đúng hơn. Những bợm rượu, sâu rượu, người uống và ngẫm nghĩ thường ưa ngồi nhấm nháp ở chỗ tôi tối. Bởi vậy, những cái quán trong hầm của Bra-ti-sla-va đã được nhiều người biết đến. Hai bên sông Đa-nuýp quãng này, bên Đức, bên Áo hay bên Hung, từ bây giờ, người các nước ấy kéo đến không biết biên giới là đâu nữa. Tối thứ bảy, chủ nhật ở đây thường đông hẳn lên là vì thế. Ngồi trong những hầm rượu âm u trong lòng đất bên tường thành bờ sông mà nhìn ra cửa sổ thấy được hoàng hôn như ánh trăng.

Rồi Muc-ka mỉm cười:

- Chúng ta sẽ tới một nơi ấy.

Quán rượu cũ kỹ này có cái tên ngộ nghĩnh: Ông cố đạo . Cái tên cợt nhả, chẳng biết ai đã nghĩ ra để trêu ghẹo hay vì một câu chuyện chọc tức. Ông cố đạo vào hầm uống rượu vụng rồi thành chuyện hay đã có ông cố đạo chơi bời mở quán trong hầm này - không ai biết. Tôi hiểu thêm cái thú tiếu lâm rất hóm của người Slô-vắc. Bởi đây cũng chẳng gần một nhà thờ nào.

Hầm rượu... Ông cố đạo ở bờ sông Đa-nuýp. Có thể dòng sông mùa cạn đương chảy dưới cửa sổ mà người ngồi trong hầm không trông thấy, nhưng từ mặt nước hắt lên ánh nắng và ánh tuyết mỏng mảnh, khiến những vòng cửa kính tròn càng vàng rợn hơn.

Bậc đá đen ngoắt ngoéo, như lối xuống móng tường hang hốc những tòa lâu đài, những nhà thờ ở Ô-đét-xa, ở Ki-ép từ thế kỷ trước. Trên góc khuất, một ngọn đèn treo rủ, tù mù một cách cố ý. Người đi xuống không nhìn rõ mặt nhau. Ánh hoàng hôn hắt vào, chỉ thấy bóng người nhấp nhô lên bậc xuống bậc. Đến một đường thuốn dài, lườn gạch uốn đợt đợt ngay trên đầu, như đi trong bụng cá - phòng chính của quán rượu.

Mỗi bàn thắp một ngọn nến. Khách ngồi trên những mẩu gỗ ngất ngưởng. Cũng không biết đấy là ánh nến chập chờn hay đấy hãy còn là bóng chiều ngoài kia rớt vào.

Khách đều là những người đứng tuổi. Những người đàn bà nạ dòng mà kiểu tóc hợp với khuôn mặt bắt đầu võ vàng là mái tóc ngắn cúp xuống hai mang tai. Những người đàn ông ngồi cứ để nguyên chiếc mũ dạ đội hơi lệch nghiêng. Tẩu thuốc chốc lại lập lòe trên những cốc rượu vang bày ràn rạn. Hầu như thói quen lúc mới xuống hầm ai cũng ngồi uống và trầm ngâm thế không biết đến tận lúc nào mới bén chuyện qua lại, quán bắt đầu ấm và rì rào.

Nếu biết được gốc gác những khách đến đây, người ta có thể còn ngạc nhiên hơn (hoặc vẫn thấy cũng là bình thường, tùy theo suy nghĩ mỗi người). Tôi mới biết xưa nay người châu Âu cũng hay chuyển dịch nơi làm ăn sinh sống nhiều. Thế ra nghĩ về châu Âu định cư là nhầm. Mà không phải người châu Âu chỉ tha hương sang Bắc Mỹ, Nam Mỹ hay châu Đại Dương, mà người châu Âu còn lang thang quanh quẩn trên các triền sông, các cánh đồng khắp châu Âu. Vì nghèo khó. Vì các triều đại loạn lạc. Từ bao giờ không biết. Các dân tộc vùng giữa châu Âu càng lưu lạc nhiều. Phía bắc Rumani, cả vùng Cờ-lu, toàn người Đức, người Hung. Nước Ba Lan, nước Tiệp Khắc, nước Đức, nước Áo... đã mấy lần bị các cuộc chiến tranh xóa tên trên bản đồ. Người ta phải ra đi, như chim đàn, chỗ nào tránh được tai nạn rét, chỗ nào kiếm ra cái sống, ở đâu có ấm no thì tụ lại. Đã mấy đời rồi, không rõ gốc gác ở đâu.

Bra-ti-sla-va trên sông Đa-nuýp của Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Tiệp Khắc, giáp nước Áo và Tây Đức, đã là một nơi đô hội khá đậm màu sắc tứ chiếng như thế. Người Sec ở Nam Tư, người Ru, người Áo, người Đức, cả người Pháp, người Ý đã lâu đời đến ở thành phố này.

Cùng bàn chúng tôi, một người đàn ông Ru và một người đàn bà Áo. Chen vai sau lưng, mấy người Tây Ban Nha. Chị Mi-lô-sla-va làm y tá. Anh chàng Ru, nghề kế toán. Mấy người Tây Ban Nha, công nhân nhà máy bánh mì. Những người và những nghề nghiệp quen thuộc, lúc nào cũng có thế gặp trên đường. Người ta có cái thích vui tụ họp ở quán. Mọi người ưa uống vang hoặc vang pha rượu mạnh Bô-rô-vích-ka, một thứ nước quả trên núi Ta-tra, có mùi thuốc như lá cô-ca.

Chiều vẫn còn bảng lảng trong bóng sương mờ vàng ố ngoài kia. Trên đồi, đài kỉ niệm quân giải phóng Tiệp Khắc và hồng quân Liên Xô đã sáng điện, như một bó đuốc lên lưng trời.

Mảnh trăng non mọc phía trời nước Áo.

Tôi hỏi Ly-ních người Áo, công nhân nhà máy thủy tinh.

- Quê anh ở vùng nào bên nước Áo?

- Cách đây năm mươi ki-lô-mét, ở ngoại ô Viên thôi mà.

- Sang ở Bra-ti-sla-va lâu chưa?

- Bố mẹ tôi đến đây từ khi tôi được bảy tuổi. Năm nay tôi sáu mươi, tôi về hưu tháng sau.

- Có thể được nghỉ ngơi, anh trở về nước Áo?

Anh cười:

- Chỉ cách có một dòng nước. Tôi vẫn về chơi bên ấy luôn. Nhưng Bra-ti-sla-va đã là quê mình rồi.

Anh chàng Ni-cô-lai, người Sec gốc ở Ma-xê-đoan:

- Nếu về Ben-grat, cũng phải đi làm mới có bánh ăn. Thế thì ở Bra-ti-sla-va mình quen thuộc hơn nhiều.

Anh bạn Tây Ban Nha công nhân bánh mỳ nói:

- Thường những người Tây Ban Nha nghèo hay di cư đi quanh Địa Trung Hải hoặc sang Nam Mỹ. Nhưng bố mẹ tôi lại tìm đến sông Đa-nuýp và theo dòng đi ngược lên đây. Không hiểu tại sao?

Gần đấy, mặt bàn óng ánh chai vang và rượu vốt-ka Ba Lan. Có bốn người gốc Pháp. Cũng dễ nhận được vì những bộ ria rậm cong ngoắt, như ria ông Mô-pat-xăng. Họ làm nghề phiên dịch. Những nét mặt thờ ơ nghe một người kể chuyện hè vừa rồi đi xe lửa về chơi nước Pháp. Sao tôi thường có cảm tưởng những người phiên dịch nhà nghề ở đâu cũng có những nét không-cần-đời và một dáng lạnh lùng giống nhau. Người kể chuyện vừa đi chơi nước Pháp về tự giới thiệu tên là Vích-to Khô-va-niêc rồi đưa cho tôi xem một cuốn tiểu luận chính trị mới phát hành ở Pa-ri, tác giả là tổng thống Gút-sta Đet-tanh. Ông tổng thống nước Pháp bàn về chủ nghĩa Mác. Ông nói như đùa, ông nói chủ nghĩa tư bản đương vào vòng đua với Chủ nghĩa Cộng sản. Ông kể ra có đến hàng mấy chục cách ganh đua làm giàu của các công ty liên hợp trên thế giới. Và ông quả quyết ông sẽ được cuộc. Kể ra, cứ cái việc chúng tôi xem quyển sách của ông tổng thống nước Pháp nói lý lẽ về Chủ nghĩa Cộng sản ở trong hầm rượu. .. Ông cố đạo thành Bra-ti-sla-va xã hội chủ nghĩa cũng đã là quang cảnh đáng tiếu lâm lắm rồi. Mấy bạn Pháp ấy có thể quê cũ ở cảng Mạc-xây.

Những người quanh tôi đều là công dân Bra-ti-sla-va. Rồi đây, đời con đời cháu họ vẫn là người thành phố này - đất lành chim đậu. Nhưng vẻ riêng của họ vẫn có cách khác thường. Mà chỗ gặp nhau ở cái quán hầm rượu… Ông cố đạo trên bờ sông trông sang nước Áo này cũng là một nét vui, nét bâng khuâng của cái khác thường ấy. Họ chẳng có thói quen lang bạt không biên giới của người Di-gan. Họ cũng không bao giờ khắc khoải nhớ đất quê mơ hồ như những người Do Thái trôi dạt. Nhưng mà ở địa đầu một thành phố biên giới vẫn cứ là một cái gì khơi gợi.

Tôi nhớ năm trước trên sông Mê Kông ở Viêng Chăn trông sang huyện lỵ Xi-xiêng-mai tỉnh Nọng Khai. Các bạn bảo một dãy chi chít nhà bên mép nước ấy toàn nhà bà con Việt kiều. Những người Việt sang Thái Lan làm ăn đã từ mấy đời. Các bạn kể trong phố ấy có nhiều nhà sàn lửng và nhà bè có cửa sổ mở trông ra sông, đấy là những quán hàng mà Việt kiều hay ra đấy tụ hội. Một dòng sông, nửa bên này đất Thái, nửa dòng bên kia cũng chưa phải quê mình, nhưng cái biên giới không ai bao giờ trông thấy được cụ thể có đánh dấu thế nào vào cuộc đời một người không ở nơi mình được sinh ra. Cái đó thực khác mà lại rất bình thường đối với một con người lưu lạc - thứ tình cảm nơi sông hồ. Hay đấy cũng chỉ là những nghĩ ngợi miên man của chính mình đã có khi dừng chân những nơi ấy mà thôi.

Ngoài cửa sổ thành phố trên đồi, đường lát đá từng bậc lên. Chiếc đầu tàu điện cũ. Nhà. Lò sưởi. Mái ngói. Tất cả đều cổ xưa. Trung tâm Bra-ti-sla-va cổ mà thật mới, đẹp hơn nhiều thành phố hiện đại khác ở dáng dấp ấy. Mùa đông lặng lẽ tới, tuyết sa lần lần, mà những rừng thông xanh đen vẫn kiên trì. Con sông và thành phố, nghìn năm dòng sông Đa-nuýp vẫn qua giữa thành phố có vịt trời bơi đầy mặt nước, có những con chim mỏ trắng phau trong sương mù hiện ra cho trẻ con tung bánh mì, chim xúm lại cướp mồi ở giữa trời. Trời âm thầm như áp Tết ta. Các làng trong rừng thông và cánh đồng ngoại thành, cả đất nước mơ màng trong làn tuyết mới trắng tinh.

Quán càng khuya càng bộn lên, người chen chúc kín lòng hầm. Các bàn cứ rôm rả bốc chuyện. Những câu chuyện râm ran, người ta hay nói chuyện ngày trước và ở nơi khác. Những người có tuổi đều có một ngày xưa ám ảnh, ngày xưa buồn ngày xưa vui. Ngày xưa ở Bu-ca-rét có cửa hàng bán món ăn toàn các thứ cá, có hàng chỉ bán cho khách đàn bà, không biết bây giờ thế nào... Ngày xưa táo ở Viên to và ngọt, tiếng đồn sang tận Pa-ri, bây giờ táo Viên tạp giống rồi. Ngày xưa, ngày xưa...

Đên nửa đêm, mọi người đều ra nhảy và hát ngay ở các lối đi đầu bàn. Tiếng Đức, tiếng Slô-vac, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Ý..., những bài hát dân ca xôn xao lên. Các thứ tiếng chen nhau trong lòng hầm lung linh ánh nến. Cũng chẳng ai nghe tiếng ai hát.

Một vẻ không cắt nghĩa được của những con người quê gốc ở xa đến ở đây. Cuộc sống Bra-ti-sla-va bây giờ dễ chịu, chẳng ai còn muốn rời đây đi đâu. Mỗi ngày tám chuyến tàu qua lại nước Áo và thông thống đường ô tô, lúc nào cũng đi được và người ta vẫn về quê chơi. Những người bình thường, mỗi người mỗi công việc, chỗ nào có yên ổn, người ta ở, người ta đến và đấy là quê. Bra-ti-sla-va quê mình, dù là người Pháp, người Tây Ban Nha. Nhưng mà cái bâng khuâng mà người ta cứ thích đến mua vui ở nơi địa đầu sông nước - như ở hầm rượu... Ông cố đạo trông sang nước Áo đêm nay.

Tôi hỏi Muc-ka:

- Anh cũng là người gốc Hung?

Muc-ka cười. Lúc ấy, một người đến làm quen với chúng tôi. Đấy là cô Di-gan có nước da ngăm ngăm, miệng và mắt cười đẹp tuyệt. Mỗi buổi sáng vội đi đâu chúng tôi thường xuống ăn ở “bit-trô” 1 , nơi cô ấy đứng bán.

Muc-ka nói:

- Cô bạn chúng ta cũng ở Sê-néc.

Nhà Muc-ka ở thị trấn vệ tinh Sê-néc. Tôi biết ở Sê-néc phần nhiều là người gốc Hung. Bây giờ lại biết có cả người Di-gan. Muc-ka vẫn chưa trả lời câu tôi hỏi.

°
°     °

Tàu hỏa đưa tôi trở lại Pra-ha trưa hôm ấy. Tôi lại nghĩ hay là những điều tôi tưởng ra về những người công dân Slô-va-ky gốc Pháp, gốc Tây Ban Nha, gốc Hung... chỉ là những mơ màng của tôi. Trong đời tôi vì tình cờ mà có những ràng buộc tình cảm, những kỉ niệm ảm đạm thời ấy, với đất nước này.

Đến nước Tiệp Khắc, đôi khi tôi bồi hồi trở lại nguồn cơn những cái nghĩ, cái nhớ về những xa xưa hiu hắt một quãng đời người. Nhà giày Ba-ta ở nước Tiệp Khắc và cái “ông chủ Tây Tiệp” của tôi ngày trước. Ông Tây Tiệp! Ông Tây Tiệp và cái người đi làm cho nhà giày Ba-ta ở tít mù tận Hà Nội ngày xưa - vâng, lại chuyện ngày xưa, ngày xưa anh ta chỉ trông thấy những hòm đựng giầy dỡ ra, những đôi giày, các thứ giày mà ngỡ như cả nước Tiệp Khắc tận đẩu tận đâu chỉ có những ông chủ Tây Tiệp và một mùi da bò, da cừu, mùi than đá, mùi cao su hăng hắc như thế. Tôi vẫn phảng phất cái cảm tưởng ngẩn ngơ và thương tâm ấy.

Hôm trước tôi đã vào nhà máy Ba-ta cũ ở Pác-ti-da-na. Pác-ti-da-na trên đường tôi tới thành phố Ban-ka Bi-tri-ca hôm ấy. Không phải chỉ có một nhà máy giày da mà đây là một trong những thành phố kỹ nghệ giày da của Tiệp Khắc. Miền Mô-ra-vi có những thành phố giày da, nhà máy làm giày và các nhà máy phục vụ sản xuất. Tất cả các khu phố, nhà ở, chợ búa, các cửa hàng, nhà hát, nơi vui chơi công cộng, mọi sinh hoạt đều chỉ có công nhân và gia đình - thành phố người thợ giày.

Ở cửa vào câu lạc bộ, một đám công nhân xúm xít xem những tập ảnh giới thiệu các khu nghỉ đông trên núi Ta-tra biên giới Tiệp - Ba Lan, vùng nghỉ Si-nai-a bên Rumani trong dãy Cac-pat, ở U-krai-na... Những người thợ nghỉ đông đương chọn nơi đi chơi trượt tuyết.

Nhà máy giày da ở Pác-ti-da-na, của tư sản Ba-ta chỉ mới xây dựng thêm năm 1940. Nhà máy hồi ấy, ngày nay đã trở thành cơ ngơi đồ sộ, một thành phố nhà máy.

Pác-ti-da-na nghĩa là du kích, thành phố du kích. Tên mới của thành phố mãi mãi gợi lại lịch sử và truyền thống thành phố công nhân chống phát xít. Trong suốt cuộc chiến tranh, có tới trên ba nghìn công nhân đã trở thành chiến sĩ du kích. 142 công nhân nhà máy đã hi sinh, tên được khắc trên tảng đá lớn dựng trước cổng. Năm 1945, thành phố giải phóng, những công nhân đã bỏ đi, những người bị đầy các nơi, các chiến sĩ du kích công nhân, tất cả trở về xây dựng lại nhà máy.

Thành phố giày da ở Zlin - bây giờ là thành phố Klê-măng Gốt-van. Dưới này, nhà máy Ba-chô-va-ni được đổi tên kỉ niệm ngày giải phóng 29 tháng Tám cùng với tên thành phố mới, thành phố của những người du kích.

Thời trước, nhà máy ở Pác-ti-da-na hơn ba nghìn công nhân, hàng năm sản xuất 4 triệu giày dép.

Năm 1950, nhà máy mở rộng đợt đầu, công nhân trực tiếp đứng máy đã lên tới 17 nghìn, làm ra 35 triệu đôi giày một năm.

Rồi nhà máy dựng được một nhà máy công cụ sản xuất ra máy và sáu nhà máy ở Pác-ti-da-na cùng hoạt động.

Sản xuất phát triển, cuộc sống công nhân thay đổi. Khu tập thể công nhân trở thành nhà ở cả thành phố, thành phố công nhân. Nhà máy có nhà nghỉ trong suối nước nóng ở chân núi. Lại có một sân bay cho máy bay thể thao. Hàng năm, công nhân đi nghỉ xa, đi Bun, đi Ru, đi Nam Tư...

Trường đại học giày da trên thành phố Klê-măng Gốt-van đặt ở đây một số khoa. Công nhân tốt nghiệp đại học trở về nhà máy. Chẳng phải Tiệp Khắc chỉ giỏi máy công cụ, có pha-lê, có bia Pin-sen hay nhất thế giới... nghề giày da độc đáo Tiệp Khắc cũng nổi tiếng thế giới.

Tôi từ nhà máy giày da ở Pác-ti-da-na ra đi. Sáng sớm, người lên thành phố núi Ban-ka Bi-tri-ca miền giữa Slô-va-ki như đi trảy hội. Chúng tôi ăn cơm ở quán dọc đường. Chưa thấy ở đâu những hàng quán bình thường mà đáng nhớ như hàng quán dọc đường ở Tiệp Khắc. Tôi và anh, nỗi nhớ của mỗi chúng ta theo kỉ niệm của mình.

Quán ăn ấy, quán Chân đèo. Đúng, chân đèo ngay trước cửa. Chúng tôi uống những chai bia Pin-sen cổ vàng loại ngon nhất Tiệp Khắc. Quán ăn Chân đèo cũng có tủ nhạc của Ba Lan. Tiếng hát Đa-li-đa trầm trầm, ngao ngán, ngậm ngùi.

Ma quỉ làm sao, tôi được nghe ở cái quán Chân đèo không bao giờ còn trở lại này một bài hát cổ lỗ, không thích mà cứ nhớ. Chỉ vì nỗi đau không bao giờ nén được hay vì tuổi đời đã đến độ hay vẩn vơ với kỉ niệm. Tôi lại nghe bài hát Đêm Trung Hoa ấy - bài hát trong một phim Nhật thời phát xít Nhật chiếm Trung Quốc. Bài hát tả nỗi buồn của người lính Nhật đi chiếm đóng nước người. Bài hát rầu rĩ ấy, hơn mười năm trước, tôi đã nghe đĩa ở một tủ nhạc Ba Lan như thế này tại một quán hàng trên bè sông Mê Kông ở Phnôm Pênh, hôm nay làm sao mà lại gặp nó một ngày sương và tuyết bâng khuâng như thế này ở Tiệp Khắc. Tôi cứ nghĩ như mình có cái vui gặp gỡ và ôn lại - mặc dầu đấy là cuộc gặp lại tuổi hai mươi tôi không bao giờ còn muốn thấy hình ảnh trở lại nữa.

Tuyết phơi phới xuống mỗi lúc một dầy hơn. Các trái đồi bên đường in nét từng nhà màu xanh màu đỏ trong bóng chiều. Nhưng bạn Múc-ka cùng đi cho tôi biết không phải những xóm mạc ấy xưa nay vẫn ở đấy. Làng này đã bị phát xít Đức đốt trụi - cũng thời bài hát Đêm Trung Hoa của tên lính phát xít Nhật giày xéo đất Trung Quốc. Mái nhà và khói bếp chỉ mới lại được thấy như thế từ khi giải phóng.

Thành phố Ban-ka Bi-tri-ca có gió núi từ thung lũng lùa ra cuồn cuộn trên sông Hron. Trong căn phòng khách sạn yên tĩnh, tôi xem cuốn phim giới thiệu những thành phố dọc sông Hron đáng yêu. Cuộc đời con người, mái nhà và dòng sông từ thuở nào và mãi mãi bên nhau.

Từ Slô-va-ki lên Mô-ra-vi, đoàn tàu đương vào một khoảng trời mưa nhẹ nhẹ và bóng chiều ấm hơn. Tuyết lại xuống già hơn lúc nãy.

Vừng trăng mỏng mảnh treo ngoài cửa sổ con tàu từ chặp tối.

Trên ga nhỏ sáng trắng ánh điện, một đám người tíu tít bên tàu. Thoạt trông cũng biết phần nhiều là những người đi chơi tuyết trên núi. Vào dạo này, khắp nước Tiệp, bến xe buýt, người đi trên đường, xe đạp cuốc, ô tô riêng, chỗ nào cũng những người gọn gàng tương tự: ba lô trên lưng cài gậy trượt tuyết. Bộ quần áo thể thao xanh công nhân kẻ sọc trắng. Các chị đội mũ len chỏm có hoa xanh vắt vẻo. Ngỡ chỉ có mùa hạ người ta mới ưa thảnh thơi ngoài trời, nhưng hình như tiếng gọi mùa đông lại mang một vẻ quyến rũ riêng.

Thế là ngăn của tôi trong toa xe một mình từ Bra-ti-sla-va đến đây thêm một người. Bạn ấy đã đứng tuổi, trạc tuổi tôi. Nhưng thật là buồn và đáng cười, mỗi lúc thoáng trông vào chiếc gương treo trên vách bàn rửa mặt cuối phòng, cái dáng ốm o nhợt nhạt của tôi càng chỉ làm tôn thêm nước da đỏ săn trên nét mặt trầm ngâm của ông bạn mới, đĩnh đạc, hàm vuông bạnh cương quyết, người lực lưỡng to ngang mà người Đức, người Áo hay người Tiệp tương tự nhau một dáng dấp. Khách vừa lên xếp ba lô vào đầu giường, gài gậy trượt tuyết trong ngăn để va-li rồi quay sang, tự giới thiệu:

- Ru-đom Gat-pa-rich, giám đốc nhà máy 29 tháng Tám ở Pác-ti-da-na.

Tôi nắm chặt tay đồng chí ấy:

- A đồng chí Ru-đom...

- Vâng, Ru-đom...

- Tôi đã làm quen với đồng chí rồi

- Tôi chưa được đến Hà Nội lần nào!

- Không, ở nhà máy 29 tháng Tám người ta bảo tôi đồng chí giám đốc Ru- đom Gat-pa-rich đi nghỉ đông. Thế nào mà lại được gặp nhau ở đây...

- À ra thế.

Tàu qua những cánh rừng thưa suốt đêm. Buổi sáng, trông ra lại thấy tuyết vẫn tần ngần xuống. Cánh tuyết mong manh vương lại cành cây, kết thành những miếng mạng nhện trắng. Trong làng xa, tuyết rơi xếp ngấn quanh mái nhà. Cuộc sống mùa đông đương vun lại trong những căn phòng ấm áp mà người đi đường thèm dừng chân ghé vào và muốn được lây vui, khi trông thấy trên cửa sổ viền những chậu cây xanh và tấm màn đăng-ten trắng.

Chúng tôi nhận nhau là những người cùng nghề và đã có khi cùng có một ông chủ Ba-ta, “ông Tây Tiệp”.

- Ngày ấy, trên thế giới hầu như chưa ai biết Việt Nam đất nước tôi ở đâu, thế mà ở Hà Nội tôi biết nước Tiệp Khắc có thành phố thợ giày ở Zlin.

- Bây giờ tên của chủ tịch đầu tiên Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Tiệp Khắc được đặt cho thành phố công nhân ấy của chúng tôi. Zlin bây giờ là thành phố Klê-măng Gốt-van. Rồi đoàn tàu này sẽ đi qua thành phố Zlin của anh ngày xưa.

Tôi cười:

- Ngày xưa và trong mơ màng...

- Lúc ấy anh làm gì cho nhà Ba-ta ở Hà Nội?

- Tôi đứng bán giầy.

- Còn tôi lúc ấy là công nhân làm đế giày. Năm 1937, rồi khi có chiến tranh, thợ cả thành phố lập thành những đơn vị chiến đấu ở nước Tiệp và cả trên nhiều mặt trận ở châu Âu. Tôi ở lại hoạt động du kích trong thành phố.

Tàu đi dọc bờ sông Đa-nuýp rồi vào Mô-ra-vi đương tơi tả tuyết rơi. Từ đây tới Nô-en, tuyết dần dần ủ nước Tiệp vào trong tuyết, người ta đợi như thế.

- Giai cấp công nhân Tiệp Khắc dũng cảm đương đầu với phát xít Đức. Đó là sự việc lịch sử, chứng tích lịch sử. Những ngày ấy, tất cả bọn giàu có đã chạy ra nước ngoài. Chúng nó bỏ đi từ lúc thực dân Anh và Pháp khiếp nhược đã đánh lừa chúng tôi để phát xít Đức có cơ hội chiếm nước Áo, nước Tiệp.

Giai cấp tư sản Tiệp Khắc đã bỏ rơi Tổ quốc Tiệp Khắc.

- Chắc trong số ấy có lão chủ nhà giày Ba-ta của chúng ta.

- Tất nhiên có lão ta. Cả nhà vua giày Ba-ta đã chạy sang Ca-na-da.

- Ngót bốn mươi năm rồi.

- Con cháu lão ta vẫn kinh doanh và giữ tên giày Ba-ta. Nhưng không thể lẫn lộn nghĩa được với giày Tiệp Khắc. Bây giờ cả thế giới đi giày Tiệp Khắc. Anh có để ý không, trong vòng mười năm nay, giày đen mũi nhọn chuyển sang giày gan gà mũi vuông, đó là những mốt chúng tôi tung ra. Mốt giày Tiệp Khắc được mọi người đi giày trên trái đất này hoan nghênh. Tất nhiên, bọn Ba-ta ở Ca-na-da không thể mượn tiếng nước Tiệp mà làm giả giày Tiệp Khắc. Bởi lẽ dễ hiểu: thợ Tiệp Khắc làm ra giày đẹp chứ chúng nó làm sao đóng nổi, dù chỉ là một cái đinh đế giày!

Rồi anh bạn tôi cười to, lý thú và hào hứng quá.

Chặp tối hôm ấy, đoàn tàu qua thành phố Klê-măng Gốt-van xứ Mô-ra-vi thơ mộng.

Ngoài kia, bắt đầu cả mùa đông nước Tiệp Khắc đương lướt qua. Mặt hồ lấp lánh như những ánh sao rơi trên mặt đất. Tiệp Khắc không có biển, thế mà vùng Bô-hêm có hơn bảy nghìn đầm nước nuôi cá chép và lươn, quá nửa đầm hồ ấy là vùng nước nhân tạo. Hồ và những cánh rừng của bàn tay con người làm nên đã thay đổi cả thời tiết một vùng giữa châu Âu.

Thành phố Klê-măng Gốt-van đương sửa soạn tiệc đêm Nô-en mỗi nhà. Những cành thông theo phong tục Nô-en vẫn được từng đoàn xe nối nhau đưa vào thành phố. Nhưng người Tiệp phong lưu bây giờ lại mới có phong tục mới. Nhà nào cũng muốn bữa cỗ nửa đêm Nô-en nhà mình có món cá chép vảy vàng rán theo món ăn Pra-ha. Những hồ nước mới đào đã sinh ra phong tục đẹp ấy.

Chúng tôi cứ tự nhiên cùng đứng tần ngần nhìn ra ngoài khung cửa. Thành phố đã lên đèn. Tuyết và ánh sáng lạ lùng trắng xanh qua cửa sổ khoang tàu. Con tàu đi trong tuyết và ánh sáng lặng im, tưởng không thật mà thật. Zlin ngày xưa. Zlin ngày xưa... Cái thành phố Zlin thợ giày ngày xưa trong tưởng tượng của tôi bây giờ là đây. Zlin trong tưởng tượng của tôi và Klê-măng Gốt-van thật bây giờ - thành phố thủ đô giày thế giới, thành phố của công nhân giày da nước Tiệp Khắc là đây.

Tưởng tượng và ước mơ, tưởng tượng và ước mơ... Thật thì anh thợ học việc Ru-đom làm đế giày năm 1937 bây giờ là giám đốc nhà máy... Thật thì tôi đương cùng Ru-đom đương đứng kề vai nhau trên con tàu vào thành phố Klê-măng Gốt-van - thành phố Zlin của thợ giày Ba-ta mà cái thuở đi kiếm ăn ở Hà Nội năm ấy, tôi tưởng tượng đến như một giấc mơ xanh biếc, một cái gì xa xôi.

Thật thì tôi đương nghĩ lại

“Ngày lại ngày...

“Tôi vùi đầu ngồi chọn giày trong kho. Tòa nhà nào, bên trong cánh cửa nào cũng toàn những giày xếp chất ngất lên áp trần nhà. Giày ôi là giày, mùi cao su, mùi hộp giấy của các loại giày cao su, giày vải, giày đế kếp, giày nhựa giả cao su, giày da, giày giả da, giày than đá giả da, dầu lửa giả da, các thứ giày ấy đương dìm người ta chết ngạt trong những nhà kho dài như con đường hầm tức hơi kín bưng từ bên phố Hàng Khay đâm sang phố Ca-rô. Những người cu-li nằm ngủ lén trong đống giày chẳng khác những người chết đói trên đống rác thật. Giày ôi là giày, thế nhưng ở giữa lù lù những núi giày, cái hơi sơn, hơi da, hơi thuốc kỳ quái và những con số, những chữ lạ lùng, tôi lại nhìn ra trong bóng mờ mờ ngập đầu, hiện hình những đất nước và sông núi lạ lùng, tôi thấy thành phố Zlin tấp nập thợ đóng những đôi giầy to phải đến ba bốn người trèo lên mũi giầy mới khoan được một lỗ kim để xỏ dây khâu, kỳ quái như trong truyện Du ký Guy-li-ve , thành phố Zlin bên nước Tiệp Khắc xa vời có nhiều khoảng trời xanh và nhiều cột ống khói phun ra cả những đôi giày.

“Những ý nghĩ và ao ước vừa kỳ quặc vừa đau khổ, những chuyện thế giới đại đồng rất say sưa thường kể hồi trước, bấy giờ chúng tôi lại ngồi kể lại với nhau trong cái kho giày tối om” 2

Bây giờ tôi đương qua Zlin, thành phố ánh sáng của giai cấp công nhân Tiệp Khắc rộn ràng chờ đêm Nô-en. Tôi trông thấy ở một công viên, chiếc xe tăng số 25 được đặt trên cột đá. Chiếc xe tăng của đoàn chiến xa quân giải phóng đã tấn công giải phóng Zlin.

Nửa đêm ấy, lại đến một ga nhỏ nào, tôi chia tay với Ru-đom. Ru-đom, vừa gặp mà như đã anh em từ bao giờ. Nhớ lại, lúc ấy bối rối, vội vã. Cuộc chia tay thân thiết nào dường như cũng vội. Mà chỉ đến khi nhớ lại người ta mới càng nhớ thêm ra và cứ tiếc những điều sao lúc ấy lại quên.

--------------------------------

1

Quán ăn đứng và khách phục vụ lấy.

2

Tự truyện của Tô Hoài - NXB Văn học 1978.

Kính chào A-đi A-bê-ba

NHỮNG NGÃ BA

Ngã ba ngã tư ấy của vùng Trung Cận Đông, có gì khác. Những cái lạ thường của những phương trời khác nhau.

Không giống Trung Á, lẫn rừng hoang với đồng cỏ. Khác Trung Âu phì nhiêu ruộng như son phẳng lì.

Giữa hai bờ Hồng Hải, bên kia đã hết châu Á, phía này cũng chưa hẳn châu Phi. Mà châu Âu chỉ còn thấy mờ mờ hơi hướng.

Bay đêm trên Kô-oét, nhìn xuống lỗ chỗ những mồi lửa ống hơi các giếng dầu đỏ rực. Cô phục vụ báo tin A-ê-rô-phơ-lốt đương đưa quý khách qua Nam Y-ê-men. Tưởng ra dưới kia, cuộc cách mạng ngặt nghèo, quanh co, khốc liệt của thế giới Ả Rập và châu Phi đầy cạm bẫy đương diễn ra theo với đường bay.

Xung quanh cảng lớn A-đen, ô ruộng muối, cát trắng và sóng biển.

Vừa lúc nãy, trên U-krai-na, hơi tuyết còn ánh lên trắng tinh. Bây giờ, tăng cao, bụi nắng mịn như phấn. Cái nắng rưng rưng lên vàng rực. Những vệt cát mỏng mảnh trải xa đến chân trời, hiện ra những triền núi trơ trọi. Đầu núi đá nâu sẫm, không một chấm xanh cây, cứ vằn lên như sóng cát. Ngỡ những núi đá lẻ loi ấy vừa từ hành tinh nào rơi xuống, đứng trần trụi trơ ra đấy.

Có lẽ tới đây nơi chân mây cuối trời, cả đến thiên nhiên cũng chán chường, chẳng chịu dòm ngó tới, chỉ để rơi lại đôi ba quang cảnh hết sức bơ vơ: một mép biển, một vùng sa mạc nhợt nhạt, những ống lửa giếng dầu và một cây chà là xám mờ.

Nhưng cuộc sống con người thì không một phút thờ ơ. Đâu cũng sôi nổi, cũng tất tả. Đâu cũng chi chít những chứng tích ý nghĩa của lịch sử đời người.

Thành phố cảng Di-bu-ti trấn đầu ngõ vào Hồng Hải. Người đàn bà Ả Rập địu con trên lưng, chàng mạng đen che mặt, ngồi tựa tường trước nhà ga. Ở đất này, vài bước xuống qua vỉa hè đã sang nước khác. Một ông râu vểnh mặc váy đen không biết người Ả Rập, người Do Thái hay người Cuốc. Đầu quấn khăn trắng tày vố, hai tay khư khư ôm cái bát điếu, đôi mắt lờ đờ, chiếc xe điếu dài vẫn ngậm trên miệng. Người ấy sắp đi về Át-ma-ra ở Ê-rít-rê cách mạng hay sang bên kia với bọn tay sai đế quốc tại Sô-ma-li. Một người đi đường khoác con cừu quặp hai chân trên vai ung dung bước một, như sắp về đến nhà. Nhà anh ta ở Bắc Y-ê-men hay Nam Y-ê-men dân chủ nhân dân. Khắp nơi, cuộc sống đương dữ dội thay đổi.

Chủ nghĩa xã hội đã đến đương đầu với những thế lực già cỗi u tối ở đất này. Nam Y-ê-men, Ê-ti-ô-pi-a, Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la, suốt Dim-ba-uê vào Nam Phi.

Những người vào lứa tuổi tôi đến đây tất phải nhớ ngày trước tàu Pháp sang thuộc địa châu Á, châu Đại Dương phải qua cảng Di-bu-ti. Các nước công nghiệp phát triển châu Âu đi cướp đất phía Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương bao giờ cũng qua đây. Di-bu-ti tôi chưa được thấy, nhưng từ thuở nào, bỗng dưng ở đâu đâu, mà dội đến trong kỉ niệm những niềm cay đắng, những gian truân của số phận và cuộc đời đất nước mình.

Qua các vùng đất giao tiếp châu Âu, châu Á, châu Phi sôi sục hôm nay, vẫn thấy được những hôm qua của lịch sử. Không chỉ trong trí nhớ, mà sờ sờ trước mặt mình thôi.

Đầu đường, có một bà già ăn mày, váy rách như tổ đỉa, ngồi tựa lưng một con la nhỏ. Mặt và mắt bà lão nhăn nheo như quả trám khô. Đầu bà già ăn mày ấy đội trùm hụp chiếc mũ sắt viền cạnh đã rỉ. Lính Mỹ, lính Pháp, lính Anh vẫn đội mũ ấy - đấy là mũ sắt quân đội khối Na-tô. Mũ này bọn chúng nó vứt đi, ai nhặt được thì đội.

Trên cửa Hồng Hải vào Ấn Độ Dương, bà lão hành khất đội chiếc mũ sắt của khối quân sự Tây Âu, bỗng nhiên mang một ý tứ sao mà mỉa mai - những thế kỷ vừa qua, quân lính các nước thực dân phương Tây ấy đã qua cửa biển này vào cướp của, cướp đất, giết người các vùng Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, châu Đại Dương.

Thời đại máu vấy mặt bọn giết người - thời đại đáng phỉ nhổ (mà bọn đế quốc không bao giờ biết xấu hổ với lương tri con người) tưởng như đã qua rồi thế mà vẫn chưa dứt.

Bà già ăn mày ở cảng Di-bu-ti kia hiện lên cùng một lúc với hình ảnh ông tổng thống Pháp, bà thủ tướng Anh và có lúc cả phó tổng thống Mỹ, không biết thế nào là nhơ nhuốc, đã từng đi thăm một vài hòn đảo thuộc địa cỏn con còn lại trên biển châu Đại Dương.

Khác nào bà già ăn mày ngồi đóng đinh câu rút ở cảng Di-bu-ti như đề muôn đời phỉ nhổ vào cái oai hùng đã qua của bọn kẻ cướp. Bà già đội mũ sắt quân đội Tây Âu. Không ai cho bà ăn nữa, bà ốm lắm rồi, sắp chết rồi.

Nắng cứ rực rỡ lên, thinh không càng trong vắt.

Tôi đương vào mỏm sừng Đông châu Phi. Ê-ti-ô-pi-a, cánh diều bay trên Đông Phi.

MÙA TRONG NĂM ĐẸP NHẤT TRÁI ĐẤT
ĐẾN ĐÂY TRƯỚC

A-đi A-bê-ba - “Đóa hoa mới” của Ê-ti-ô-pi-a nguy nga trên triền núi En-tô tô.

A-đi A-bê-ba mà tôi được nghe từ thuở thanh niên giữa khi bọn phát xít quốc tế lộng hành trước Cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Một hành động dã man đầu tiên của chúng nó đã xảy ra ở A-bít-xi-ni - Ê-ti-ô-pi-a ngày nay. Phát xít Ý xâm lược A-bít-xi-ni. Hôm nay còn thấy di tích anh hùng của nhân dân A-đi A-bê-ba tại quảng trường Si-đi Ki-lô - đài kỉ niệm bao nhiêu người dũng cảm đã hi sinh trong ngày 12 tháng hai 1937 giữa cơn trả thù man rợ của bọn khát máu, khi tên tướng phát xít Ý Gờ-ra-di-a-ni bị giết chết giữa thành phố.

A-đi A-bê-ba trên núi cao. Cả bốn phía ngoại ô tỏa xuống những thung lũng cánh đồng. Thành phố cổ kính và hiện đại này đã đứng nguyên trên núi đá và rừng bạch đàn ở độ cao hơn mặt biển hai nghìn năm trăm thước.

Những đàn quạ mỏ to dữ dội, bay ngược từng đàn lên thành phố.

Rừng bạch đàn đã đốn đi vẫn còn gốc, gốc sùi ra, to xù như đống đất, nhánh mới lại chồi lên lớn thành cây. Người vác củi bạch đàn lũ lượt đi với những con lừa nhỏ chở củi cành vào các phố.

Những bông hoa dó trắng nở tròn trước cửa nhà như ngù hoa cẩm cù. Những cây vạn tuế to cao khác thường bằng cây dừa lửa, gốc vừa hai người ôm, xòe lá che dọc đại lộ thông cù. Những cây xương rồng lực lưỡng, hoa tím li ti nở. Trên bờ rào gỗ vườn nhà ai nhô lên một nhánh hoa lau xám mờ. Những hoa loa kèn trắng - màu trắng, màu đẹp nhất đất nước.

Mùa xuân đương đến khắp Đông Phi. Hoa trắng bạt ngàn khắp nơi, thành phố, cánh đồng, sa mạc, đem niềm vui đến những con người đương thay đổi. Cách mạng đã đến châu Phi biết bao đau khổ lưu cữu từ nghìn đời đọng lại. Tôi thấm thìa thông cảm với Ê-ti-ô-pi-a trong cảnh xúc động đến rưng rưng nước mắt, khi trông lên tường phố thấy những áp-phích viết tay, những áp-phích in máy vẽ hình búa liềm với hàng chữ: “Chủ nghĩa Xã hội muôn năm! Nhân dân Ê-ti-ô-pi-a muôn năm!”. Chữ đẹp như múa, như mùa xuân đến xóa đi, lau đi những giọt nước mắt. Trông ra cây bằng lăng hoa tím, tưởng con chim gì líu lo rồi một đàn chim gáy hiền hòa bay qua. Hoa hồng đỏ, hoa loa kèn trắng và niềm yêu thương đem đến những ngày đẹp nhất trong một năm từ phía nam địa cầu lên.

Mùa xuân đương về khắp châu Phi. Cách mạng đã đến trong đau thương và trái ngược như số phận và cuộc đời con người ở đây. Cuộc chiến đấu giằng co đến từng căn nhà vách đất loang lở, tối thui, có những em bé đôi mắt trắng xanh đứng thập thò. Khách lạ đi qua, các em vừa ngượng nghịu vừa mạnh dạn bước ra, giơ bàn tay nhợt nhạt vẫy theo.

Những mái nhà lợp lá vạn tuế xám ngắt bên những tòa nhà kiểu mới. Con la cắm cúi thồ trên lưng những bó rơm, bó củi, những cái hũ sành, đi chen với chiếc xe Méc-sơ-đét, chiếc Phi-át, lẫn lộn trong đám người lam lũ trên đường phố - những người hốc hác như vừa thoát từ nhà ngục nào ra, quần áo rách bươm, khoác trên mình mảnh vải choàng “chen-ma” trắng đã ngả màu cháo lòng.

Tiếng nhạc ngẩn ngơ phảng phất. Gợi lại thuở hồng hoang Kinh Thánh (Kinh Cô-ran) từ khi thành phố này vừa thành hình, những người đầu tiên đi bộ - đến tận bây giờ đến đây, qua thác suối Am-bo lên hồ trên núi Đơ-brơ-gie-ít rồi xuống sông Nin Xanh.

Phía đông bắc thành phố, chợ Méc-ca-đo sầm uất nhất châu Phi. . Cạnh gian chợ kiểu mới, la liệt những lều vách lá. Đàn cừu lũ lượt, chen chúc dưới những mái lợp tôn.

Người Ả Rập ưa màu đen - choàng mặt đen, váy áo đen. Buổi sáng Bát-đa, những người đàn bà váy áo toàn đen ngồi ngẩn ngơ đầu ngõ. Nhưng châu Phi mênh mông lại yêu màu trắng - màu sa mạc và khoảng trời...

Chợ Méc-ca-đo bán nhiều vải, nhiều chuối. Nhưng ớt đỏ, ớt vàng còn nhiều hơn. Đầy rẫy người lê la không công việc, như ở mấy góc đường đầu các chợ Sài Gòn hồi mới giải phóng, mà còn đông gấp mấy nữa. Châu Phi gian khổ đến cùng cực, thế mà tất cả những xa hoa cho ai ở đâu vẫn kè kè bên cạnh. Trong cánh đồng, người ta gieo kê, chọc lỗ vảy hạt, nhưng các đồn điền ngay cạnh đấy, đều cày máy. Quần áo người trong làng mặc kỳ cùng đến rách không biết vá. Nhưng những khách sạn sang trọng, khách sạn A-đi A-bê-ba Hin-tơn mà người Mỹ còn quản lý, vẫn nhởn nhơ thế mặc dầu trước cổng đã có trạm gác của dân quân. Mai kia, những đài trang tráng lệ ấy sẽ là của chúng ta, của con em chúng ta. Cuộc chiến đấu đã bắt đầu. Đây bắt đầu châu Phi trẻ, đây cũng là mắt xích đầu tiên đế quốc tan rã ở Đông Phi.

Các nhà hàng lớn rải rác đường phố núi. Ghi-on, Hin-tơn A-phi-ca, Rát...

Thành phố A-đi A-bê-ba trên một vùng núi gần kề châu Âu đã được các hãng xây cất khách sạn quốc tế chú ý từ lâu. Trong khi châu Âu bạt ngàn băng giá thì nắng núi ở đây ấm và đẹp nõn nà. Bọn triệu phú ở châu Âu, châu Mỹ thèm cái nắng trên núi đó. Chúng nó đã tới. Chúng nó vừa từ bể bơi nước xanh lơ giữa vườn khách sạn A-đi A-bê-ba Hin-tơn lên nằm phơi nắng trên thảm cỏ tĩnh mịch. Và đứng trên lầu cao mới nhìn thấy ngoài hàng bờ rào hoa râm bụt tím đằng kia lô xô những mái sắt tây, thùng phuy, bạt che một vùng nhà nấm. Có đám trẻ con cởi trần, lấy gạch và vỏ hộp sữa xếp lên chia đôi bãi cỏ, chúng nó hét hết cỡ cổ, tranh nhau đá quả bóng quấn bằng giẻ. Quả bóng giẻ hay quả bóng cao su, sự hăng hái cũng không kém. Tiếng hò la, tiếng cười loạn cả cái xóm tiều tụy.

Trái ngược và dữ dội. Lại trông thấy những chiến sĩ tự vệ đi tuần khắp nơi: dọc đường, các chợ, cửa ga...

Buổi chiều nắng nhạt trong. Cánh đồng, bóng núi và đường phố ánh lên từng dải vàng. Sân bay quốc tế phía đông. Trên bãi bằng lưng núi đã lên đèn trắng ngần. Chập tối, nghe tiếng gà gáy trong ngõ phố nào đó và trông thấy trẻ con đi tha thẩn, như ở quê mình.

°
°     °

Ê-ti-ô-pi-a được khai sinh từ vương quốc A-xum đã tự hào với nền văn hóa ba nghìn năm trước công nguyên. Không phải châu Phi chỉ thuần cát trắng và những bộ tộc người từ thuở giờ tới nay vẫn thế. Không, châu Phi có nền văn hóa truyền thống thừa sức dạy cho những nước thực dân đã đến đô hộ châu Phi.

Thủ đô Ê-ti-ô-pi-a cách Hồng Hải có hơn trăm ki-lô-mét. Từ thế kỷ thứ ba, phía bờ biển vào, cũng là đường giao lưu của nền văn hóa A-xum - một nền văn hóa sánh ngang với ba triều đại huy hoàng đương thời: Ba-bi-lon, La Mã và Ai Cập.

Sự tích dựng nước của Ê-ti-ô-pi-a đã bắt đầu bằng câu chuyện thật mơ mộng - cũng như bao nhiêu cổ tích kỳ thú quanh thành Cổ Loa của chúng ta.

Năm 980 trước Công nguyên, hoàng hậu Sa-ba Ma-kê-đa, vợ góa vua trị vì Ê-ti-ô-pi-a nghe tiếng tài giỏi của vua Sa-lô-mông ở Giê-ru-da-lem. Chỉ nghe tiếng mà đã thầm yêu.

Một ngày kia, hoàng hậu Sa-ba được mời sang thành Giê-ru-da-lem làm khách quý của vua Sa-lô-mông.

Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Trước khi Sa-ba rời Giê-ru-da-lem, Sa-lô-mông nói với người mình yêu:

- Tôi muốn có một đứa con với nàng.

Sa-ba đáp:

- Tôi không thể biết được điều đó.

Một chút nũng nịu làm duyên thôi. Vua Sa-lô-mông mở tiệc tiễn nàng và đêm ấy vua mời Sa-ba nghỉ lại trong cung của mình. Sa-ba nhận lời và nói: “Xin đừng ép tôi điều gì, nếu tôi không muốn”. Nhà vua nói: “Tôi cũng xin nàng đừng xâm phạm vật gì trong cung, tôi sẽ giữ lời hứa”.

Có điều là thức ăn trong tiệc tiễn có nhiều món dễ khát nước. Nửa đêm, Sa-ba trở dậy nhấc bình lấy nước uống. Sa-lô-mông đã đứng đấy từ bao giờ. Dáng hẳn cả người uống nước và người đến bắt lỗi khách cũng đã biết trước việc ấy rồi. Tình yêu là một cái gì mà người ta cứ làm ra cho thêm nhiêu khê, cho rắc rối...

Sa-ba Ma-kê-đa về sinh được một trai. Đến tuổi, nàng gửi con đi Giê-ru-da- lem để vua Sa-lô-mông dạy dỗ. Rồi người con trai đó trở về, lên ngôi vua, chính là Mê-lê-ni-a đệ nhất - triều đại mở đầu ba nghìn năm lịch sử và truyền thống huy hoàng của các dân tộc ở Ê-ti-ô-pi-a.

Ngày nay, đi qua cố đô A-xum, cánh đồng và dòng sông vẫn y nguyên. Như đương trở lại trong dĩ vãng. Những cột cao ba mươi ba thước. Những bậc đá hùng vĩ lên lầu cung vua Ta-kha Ma-ri-am.

Trên triền núi En-tô tô vắt ngang giữa nước, nghìn đời đã là trung tâm văn hóa dân tộc. Sau A-xum đã ra đời A-đi A-bê-ba. A-đi A-bê-ba có nghĩa là đóa hoa mới.

Đóa hoa mới A-đi A-bê-ba, thủ đô lịch sử và thủ đô cách mạng của cuộc sống mới hôm nay trên một đất nước cực kỳ gấm vóc, mà đầy rãy những trái ngược đến kiệt cùng.

Dọc bên này bờ Hồng Hải, cả Sô-ma-li và Kê-ni-a dồn về tiếp giáp phía tây Su-đăng. Triền núi Rát Đa-han chéo qua, dọc dài những thung lũng sâu, có sa mạc Đa-na-kin lẫn đồng cỏ hoang ở Ô-ga-đen.

Các dân tộc ở Ê-ti-ô-pi-a hai mươi lăm triệu người có nền văn hóa cổ nhất châu Phi. Từ thật sớm, Ê-ti-ô-pi-a đã trồng được các loại ngô rồi cao lương, kê, đậu, bông, thuốc lá, ớt là những vùng chè, cà phê. Cừu nuôi đàn và cừu nuôi trong nhà ở Ê-ti-ô-pi-a đứng thứ chín trên thế giới.

Cái giàu có là sự thật mà cái đói khát cũng là sự thật.

Người Ê-ti-ô-pi-a, từ 95 tới 98 phần trăm không biết chữ.

Hầu hết đất cày cấy trong cả nước là đất của nhà vua và hoàng tộc. Hơn ba mươi phần trăm là đất của nhà thờ và địa chủ. Chỉ còn vài phần cho hàng chục triệu nông dân.

Nhà cửa ở thủ đô A-đi A-bê-ba, bây giờ người ta tính lại, nhà vua, nhà thờ, công chức cao cấp, tư sản chiếm trên hai nghìn mẫu nhà ở. Có nghĩa là thành phố chỉ còn lại không được một phần trăm đất tư của mọi người bình thường.

Ê-ti-ô-pi-a bị hơn hai trăm chi nhánh công ty Mỹ các ngành bám khắp nước.

Bọn thống trị tàn phá cả xã hội. Nông dân cơ cực, ăn đói, ngủ lều. Mỗi buổi đi làm, nhai ít hạt đậu luộc rồi chiêu ngụm nước lã. Câu tục ngữ mỉa mai từ đời nào không biết: “Chỉ nằm mê thấy được ăn bơ cũng đã mắc phải bệnh hủi rồi”.

SÔI NỔI CHÂU PHI

Tôi bắt đầu nhận ra một vẻ gì thật quen thuộc. Trước nhất, tiếng hát. Những tiếng hát lạ tai mà sao thân thương.

Nhớ lại ở La Ha-ba-na, tôi gặp một người công nhân nhà máy làm xì gà. Ông già da đen ấy không biết tiếng Việt. Mà gặp tôi cũng là lần đầu ông trông thấy một người Việt Nam. Ông cầm tay tôi, cất tiếng thong thả, rất thong thả từng tiếng, ông hát bài “ Giải phóng miền Nam ”. Ở một nơi khác đất nước mình, nghe một người xa lạ, nói tiếng Việt nhẹ nhẹ không có dấu, tôi nghẹn ngào.

Tiếng hát rập rờn khắp bốn phía khắp nước Ê-ti-ô-pi-a. Tiếng hát đâu đâu cũng nghe. Đã thấy không ở đâu người da đen sung sướng như ở Cu Ba. Bây giờ chứng kiến rõ ràng là thoải mái ở Ê-ti-ô-pi-a. Tiếng hát, tiếng hát, người người đi trong tiếng hát tràn đầy.

Những giọng xa vời tiếng hát cổ xưa, tiếng hát chinh chiến, tiếng hát mãnh liệt chống chọi thiên nhiên dữ dội. Hát múa đi gặt, kéo bông, đánh cá, thật đẹp và dữ.

Chiếc đàn ma-xin-cô, tiếng trầm lên réo rắt, như tiếng hò mênh mông của người Mông Cổ. Tiếng ma-ra-cát lạo xạo, vời vợi vùng Trung Phi, tiếng của các dân tộc khát khao đi và kiếm cái sống. Dù người đương lặn lội trong băng tuyết phương bắc, người qua các vùng sa mạc hoang vu, người vượt rừng già, người vào đồng cỏ đến vùng đất mới xa xôi, đâu đâu cũng đều là tiếng đường trường, tiếng của đời sống và chiến đấu, dù phương trời nào thật khác lạ mà cũng rõ ràng một ý chí, một tâm sự như nhau.

Rạp chiếu bóng và sân khấu ấy ở khu vực giữa thành phố. Trước kia, đây là nơi giải trí sang trọng, đắt tiền. Bây giờ đây là câu lạc bộ của khu phố. Bà con kéo đến xem đông nghịt. Váy áo tơi tả, đỏ sạm đỏ rực, chốc lại chạy vào như lửa cuốn. Những đám trẻ con đen nhẻm, răng trắng tểnh, áo sơ-mi đứt hết khuy mà không biết, cứ giơ tay hát theo trên sân khấu một cách hết sức nhiệt tình.

Quốc huy Ê-ti-ô-pi-a hình búa liềm treo giữa rạp. Cờ búa liềm, tranh vẽ búa liềm, chỗ nào cũng thấy. Có cảm tưởng như đất nước này đương vui sướng khoe với mọi người: Chúng tôi đã có Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Cộng sản đã đến với nhân dân Ê-ti-ô-pi-a.

Trên sân khấu, một chiến sĩ bộ đội nữ, mũ lưỡi trai, sơ-mi và quần đi trận xanh lá cây, ưỡn ngực đeo súng rất hãnh diện, vừa hát vừa vỗ súng, chốc lại giơ tay thúc đẩy cả nhà hát đứng lên hát theo. Hàng trăm hàng nghìn nữ chiến sĩ tự vệ quân phục xanh đã đứng lên hát theo. Chiến sĩ ấy hát vừa xong một bài, tiếng sấm vỗ tay lại kéo cô ra hát lại. Bài hát chiến đấu cứ thế cất cao mãi, không bao giờ muốn hết. Cô chiến sĩ hòa trong bóng người và tiếng hát bốn phía vang dội, thênh thang như cuộc đời từ đây chỉ có cây súng, cây súng bảo vệ cách mạng và một tâm hồn chiến sĩ.

Tiếng hát khắp rạp hết sức náo động. Hát và múa rỡn lên, rỡn lên.

Quán ăn La-li-bê-la - tên kỉ niệm một nhà thờ Cơ Đốc thế kỷ mười hai ở cố đô A-xum.

Các bạn hình như cảm thấy ăn uống ở khách sạn A-đi A-bê-ba Hin-tơn của chúng tôi đến hôm ấy có thể là vừa. Gian phòng kiến trúc hiên rộng kiểu Mỹ rồi cũng quen và cũng chẳng để ý cả những vặt vãnh kỳ quái. Quyển Kinh Thánh trên bàn ngủ đầu giường nào cũng có, bánh xà phòng và khăn tắm cũng Hin-tơn đem đến từ Mỹ. Hàng ngày mà những công thức ăn sáng, bữa trưa bữa tối có tính rập khuôn ở các khách sạn thế giới, cứ tẻ dần. Có thể thấy ở đây hay ở Bây-rút, Tân Đê-li, sân bay Vạt-tày, ở Đa-mát, ở Bát-đa cũng tương tự.

Đến các quán ăn dân tộc là một háo hức đến nơi chưa từng đến.

Nhà hàng La-li-bê-la, nhà vách tròn giống kiểu nhà vùng quê châu Phi lấp ló sau một quãng dốc núi, rồi vào bãi phẳng phố xá. Những chiếc ghế đẩu cục kịch bằng một khúc cây hũm cong giữa làm chỗ ngồi.

Nhấm nháp rượu khai vị - một thứ rượu trắng nhẹ như rượu cần, pha mật ong.

Một mâm đậy lồng bàn cói kín đáo được bưng ra. Cái mâm “ma-sốp” chân cao lênh khênh, đặt xuống giữa, thành chiếc bàn ăn. Nhưng chiếc lồng bàn chưa được mở, những thức ăn bên trong mâm còn là một chờ đợi thú vị.

Lót mâm, một mảng bộ kê, thành dày như miếng bánh đúc. Trên mặt, những miếng thịt gà rán, những nạm thịt bò tươi. Ở chính giữa, bát nước chấm và những quả ớt đỏ bày quanh. Khách véo miếng bột, lấy miếng thịt bò, chấm vào nước xốt và cắn ớt. Những lúc hào hứng, không có phong tục mời rượu mà mời ăn, các bạn quấn bột và thịt, đưa vào miệng nhau.

Rượu mật ong cứ uống từ từ.

Như trước mặt mình đương có một mâm tú ụ bánh cuốn Thanh Trì ăn với chả quế, chấm nước mắm cà cuống.

Rượu mật ong êm đềm, lư đừ...

Hết mâm ấy, mâm khác được đặt ra. Bánh bột lót mâm. Lại thịt cừu, thịt bò, cả sách, cả lòng. Những quả ớt nguyên đỏ tươi đặt quanh bát nước chấm. Khách rón mẩu bánh bột, lấy miếng thịt mát tươi... Tưởng như tay đưa vào đóa hoa đài trắng, cánh nhiều màu, nhị đỏ rực rỡ.

Những điệu múa nổi lên, người múa, người nhảy, người hát rộn ràng. Bàn tay và đôi mắt thoạt đầu e lệ rồi rầm rập tay và mắt quấn vào nhau. Những điệu múa tỏ yêu thương, những tay đôi trai gái tỏ tình. Cái đẹp và cái yêu của con người nồng nàn đôi mắt và ngón tay, một ngón tay trỏ dài cong. Đôi mắt trắng xanh trên khuôn mặt đen mát, vẻ đẹp nhất trên mình người yêu. Đôi mắt ấy, đôi mắt phẳng lừ, đôi mắt trắng xanh, đôi mắt nhởn nhơ.

Ở nhà bảo tàng, tôi đã được xem những tranh dân gian ngộ nghĩnh vẽ con mắt người to gần bằng cả khuôn mặt. Con mắt trắng ngần, trông vào người chỉ thấy những con mắt thơ ngây ấy.

Cô San Dao bảo rằng con mắt người châu Phi là tín hiệu tình cảm sớm nhất cho hai người nhận biết nhau. Thấy nhau từ xa, là đôi mắt, đôi mắt ấy thảnh thơi như mây mùa hạ. Màu da, dáng đi, có thể lẫn với bóng cây và cát bụi, nhưng đôi mắt anh và em, tận xa lắm. Chúng ta đã nhận ra nhau rồi. Tôi chợt hiểu ra tình cảm mỗi khác mỗi phương trời...

Những điều tưởng như mảnh vụn, nhưng lại là cuộc đời, cuộc đời đáng yêu được dệt nên từ đấy.

Cây hoa vuông đỏ khé. Những bụi xương rồng, hoa như rắc hạt sương tím. Nét mặt ngơ ngác hồn nhiên. Đêm trong thành phố. Con đường huỳnh quang qua trước mặt, trắng xanh. Phía núi đằng xa, đêm vồng sáng xanh trên sân bay.

Những em bé học sinh áo vàng khăn quàng đỏ cũng nhảy lên múa hát. Giữa đường, những cô tự vệ quân phục xanh thẫm vừa đi vừa hát múa, giơ tay, giơ súng.

Bây giờ, cả đến khách ăn cũng vào cuộc múa với mọi người. Anh chàng Sê-nê-gan viết kịch: Ma-ma-đu, đã cởi phăng áo ra nhảy với cô San Dao, hai người vừa bước tới, mỉm cười, đôi mắt trắng thăm thẳm. Tay đôi ấy múa vai, những đôi vai, những đôi vai, những làn ngực cờn lên như sóng.

Người xung quanh - những khách hàng và người làm trong các phòng ăn sôi nổi quá, đã bước ra trong bước múa và tiếng trống vỗ, tiếng đàn ma-xin-cô rập rờn. Tôi đương đi giữa châu Phi hoang sơ và cực kỳ trẻ trung.

Nhớ lại đêm ở khách sạn A-đi A-bê-ba Hin-tơn, mấy người khách du lịch nhảy những điệu rừng bắt chước châu Phi. Cái lực lưỡng khoáng đạt thật của bước nhảy châu Phi, rừng và sa mạc mênh mông một trời một vực khác với những cung cách bắt chước, đem gán kiểu dâm loạn của những đứa học trò tồi Âu Mỹ cho biết bao đường nét vô cùng khỏe khoắn, lành mạnh này.

Giữa náo nhiệt hân hoan đến thế, cô San Dao từ cuộc nhảy ra, đưa cho tôi một mảnh giấy.

Chữ viết ngoáy lên đằng sau một tờ biên lai trả tiền ăn:

“Đồng chí Việt

Đồng chí ở Việt Nam châu Á. Tôi ở Ê-ti-ô-pi-a châu Phi. Đường đi trên mặt đất thì xa lắm. Nhưng Chủ nghĩa Cộng sản đã đưa chúng ta đến bên nhau.

Chủ nghĩa Cộng sản muôn năm!”.

Những lời bồng bột chí tình của một người khách nào đấy giữa cuộc múa. Tôi không gặp mặt, tôi không biết anh là ai. Nhưng, cả những khi gặp mỗi người ngoài đường, tôi có cảm tưởng như ai ở Ê-ti-ô-pi-a cũng có thể nói câu tình nghĩa như thế.

Trời A-đi A-bê-ba ngổn ngang mây. Nhà và cây lẫn với đá. Xa xa, chỗ này mưa trắng như buông màn, chỗ kia nắng đem phơi áo được. Mây đen tản mạn bay lẫn vào trời xanh, trời xanh.

CÁC PHƯỜNG - CHIẾN LŨY NHÂN DÂN BẢO VỆ THÀNH PHỐ CỦA CÁCH MẠNG

Đơn vị hành chính cơ sở của thủ đô A-đi A-bê-ba là các phường.

Tôi được có dịp đi thăm nhiều phường. Phường 11 gần ngoại ô phía Tây Nam. Ba nghìn năm trăm hộ thực tế là một đơn vị nhân dân sản xuất và chiến đấu, bảo vệ cách mạng, bảo vệ cuộc sống tự do mà cách mạng đã đem lại được.

Những người ấy, vẫn những người bình thường ấy hôm trước, trên sân khấu, trong cuộc múa hay đứng gác sân bay quốc tế, hôm nay thấy ở đấy, sơ-mi trắng, choàng “cham-ma” trắng, mặt trổ râu đen ngòm.

Trên tường gian giữa trụ sở phường lỗ chỗ vết đạn. Cũng không ai để ý, đến khi hỏi các bạn mới kể. Việc ghê gớm mà nói ra như bình thường. Sáu tháng trước, trụ sở này đã bị bọn phản cách mạng tiến công. Trận đánh dữ dội lúc chập tối đã xảy ra trong nhà, ngoài sân, ngoài đường, cả đội tự vệ và nhân dân đã đuổi đánh chúng nó đến cùng, cho đến lúc bắt được tất cả bọn sống sót. Vết đạn còn lỗ chỗ đấy. Và còn đấy, ra đón chúng tôi, đồng chí chủ tịch phường người bé nhỏ, râu rậm. Trong trận chống chọi ngay ở trụ sở, đồng chí ấy đã bắn chết hai tên phản cách mạng. Cuối cùng, đồng chí bị thương, gãy cả hai cánh tay. Và nay vẫn là chủ tịch phường như sáu tháng trước kia.

Tôi bỗng nghĩ lại hơn ba mươi năm trước, Hà Nội trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Những bận rộn, những căng thẳng. Trong các vụ bắt cóc, giết người của bọn phản cách mạng, có giặc Tàu Tưởng, có thực dân Anh và Pháp bắt đầu đổ bộ lên Sài Gòn, nhưng tinh thần nhân dân Hà Nội và cả nước đã quyết định và vượt lên tất cả.

Hôm trước thăm Ủy ban nhân dân thành phố A-đi A-bê-ba. Trên mặt tường chính treo ảnh 175 ủy viên Ủy ban nhân dân thành phố và ủy ban phường đã bị bọn phản cách mạng giết. Trong số những chiến sĩ cách mạng hi sinh có mười lăm đồng chí nữ. Cuộc cách mạng Ê-ti-ô-pi-a mở đầu từ tháng hai 1974 tới nay đã trải bốn năm, bốn năm lúc nào cũng đẫm máu và quyết liệt. Vận mệnh nhân dân mới thực sự được trong tay nhân dân từ khoảng một năm trở lại đây.

Ba gian buồng văn phòng xảy ra trận đánh bảo vệ cách mạng ấy bây giờ để dùng làm lớp bình dân học vụ. Cái bảng đen treo cạnh những vết đạn mang một ý nghĩa khắc sâu.

Trụ sở liền nhau các lớp học chống nạn mù chữ, lớp vỡ lòng và thư viện phường. Những bãi cỏ trước sân nhà đã thành vườn trồng cải bắp và hành. Cửa hàng hợp tác xã mua bán của phường kề bên đường cái. Cửa hàng đương bán gạo, đậu răng ngựa, ngô và trứng gà. Người mua gạo đến xúc lấy, đặt gạo lên cân rồi đổ vào túi, đem ra trả tiền ngoài quầy.

Trên các bàn làm việc, những chiếc vỏ đạn đại bác làm bình hoa.

Những bụi chuối hoa đỏ chói vườn nhà ai hiệu mùa xuân rực rỡ đương vào thành phố. Núi chiều đã mờ sương quanh những ánh đèn đường, thế mà bóng nắng vẫn còn lồng trong đám mây trắng bay qua - hoàng hôn thành phố núi thật khác những chiều thành phố ở ta.

Trong nhà trẻ, cô giáo đương dạy các em đếm, các em hát. Tôi nhận ra một cách thú vị dáng dấp và vẻ mặt các em. Không chỉ có nét mặt mà phải nói trước nhất nét mặt linh hoạt, rạng rỡ. Và những con mắt thông minh, ngộ nghĩnh to thô lố.

Tiếng trẻ em hát. Tiếng thánh thót, tiếng hùng dũng, tiếng dịu dàng và chốc lại nghe một tiếng uy nghiêm mà tôi hiểu được... Anh-pê-ri-a-lít... Anh-pê-ri-a-lít ... và những nắm tay bé nhỏ giơ lên rất náo nhiệt. Tôi bỗng nhớ quốc huy của nước Ê-ti-ô-pi-a mới, không hoa lá, không xanh trắng, chỉ có búa và liềm đỏ rực, chân thành và vô cùng hồn nhiên.

Giữ cho yên vui của con người, ngoài đường cái, đàn ông đàn bà thong thả đi. Áo choàng vải trắng thưa, bay lất phất, những người đi trong lòng đường như bóng sương đưa dài.

Lại trông thấy một người cõng một con cừu về nhà. Người đứng trong cửa nhìn ra, con cừu chui dưới chân cũng ngó ra, luẩn quẩn như con chó cạnh người. Trời tối rồi. Người ta vác cừu đã quen, mỗi chiều đến - như ta dồn về chuồng con gà con ngỗng ngoài bãi cỏ. Bụng con cừu no kềnh tựa vào gáy. Hai chân trước, hai chân sau quàng vào cổ, tay người quơ lên giữ lấy. Ở đây, con cừu trong mỗi nhà như con bò, con lợn ở ta. Có phần còn nhiều hơn. Chỗ nào có người, chỗ ấy người ta nuôi cừu - không phải chỉ có cừu đàn, mà cừu nhà. Cừu ngoan ăn cỏ, cỏ khô cỏ tươi, ăn lá ăn ngọn, đến mùa khô cằn, cả gốc rễ cỏ, cừu cũng rũi lên, nhá ngon lành.

Trong quán ăn, ông già nhà bếp đương hoa dao xả cả một con cừu luộc. Khách bưng đĩa đến lấy từng miếng. Cảnh no lành ấy ở hiệu ăn, ở chợ đâu cũng thấy.

Đấy là sinh hoạt phố xá phường 11 - cũng là đơn vị chiến đấu, mà thực tế vùng đất ấy đã là chiến trường. Trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, kẻ thù của cách mạng càng nham hiểm, hung ác. Nhưng cách mạng đã được bảo vệ dũng cảm và quyết liệt do chính tay người làm ra cách mạng.

°
°     °

A-đi A-bê-ba, thành phố núi, lúc mây rợp, lúc mưa lúc nắng. Như cách mạng Ê-ti-ô-pi-a đương ngổn ngang, sôi nổi. Như cách mạng châu Phi cực kỳ mãnh liệt và cũng vô cùng hồn nhiên. Ở đấy, có các bạn tôi A-tô, A-ka-la, San Dao...

1979

Ở An-giê

I.

BÓNG NƯỚC ĐỊA TRUNG HẢI hắt lên lẫn lộn khoảng vàng khoảng trắng rồi lại xanh thẫm xuống, thật hắt hiu. Cảm tưởng hờ hững của người nhìn qua cửa sổ không đúng với những gì của cuộc sống hối hả, sôi sục, gầm thét dưới kia. Châu Âu đương đòi quẳng đi hơn hai trăm cái tên lửa Cru-dơ đầu đạn nguyên tử tầm trung Mỹ vừa khiêng sang đặt khắp các xó xỉnh từ Hà Lan đến Tây Đức.

Nhưng mà chẳng mấy lúc, vùng đất hoảng hốt ấy cũng đã xa mờ.

Tôi đương xuống phía nam.

Hơn một nghìn cây số bờ biển An-giê-ri êm đềm. An-giê-ri đất nước châu Phi Địa Trung Hải, bao nhiêu dân tộc nghìn năm qua lại, những người Béc-ba, Phê-ni-xiêng, Ả-rập... gặp nhau trên ngã ba ngã năm kỳ lạ ấy. Vườn ô-liu xanh rờn, vườn cam vàng rực. Cả một cánh đồng chà là xòe tán vào mùa thu mà nước ở đây ấm hơn hẳn khi bờ bến Tây Ban Nha bên kia đã xuống tuyết. Một mặt biển mà cái lạnh và nóng nắng xen kẽ nhau. Dưới bãi Ti-pa-sa, người ta tắm và chơi thuyền. Trên núi Chê-rê-a ngay cạnh, bãi trượt tuyết đỉnh núi. Rừng thông, rừng bách phủ kín dãy Ka-bi-ki, giữ lại đấy một mùa hè mát dịu. Nhưng từ biển vào, khi đã qua những vùng đồi cỏ chăn cừu, những cánh đồng lúa mì, đồng củ cải đỏ, lại gặp một An-giê-ri khác. Đấy là những biển cát ở En-uát, những đồi sỏi Ga-dai trần trụi mở đường vào vùng dầu lửa và hơi đốt ở Hát-xi Mét-xau, ở Hát-xi R’men rồi từng đoàn lạc đà chậm rãi hàng trăm hàng nghìn con, ròng rã đằng đẵng đêm ngày đi ngập trong bóng cát sa mạc Sa-ha-ra huyền bí.

Ta lại tưởng đến đây thì gặp Hy Lạp trời trong xanh ở Séc-xen, các làng mạc đá trắng Ả-rập ở Công-xtăng-tin và thiên nhiên Thụy Sĩ mát rượi vùng núi Ka-bin với đôi chút hoang dã Mếch-xích trong lùm chà là cạnh giếng nước tình cờ bắt gặp ở nơi trú chân giữa mênh mông kia. Di tích lịch sử trên đá, nghệ thuật và kiến trúc I-xlam đồ sộ, bề bộn, chẳng khác lúc nào cũng khơi gợi người ta đợi vào nhảy trong tiếng trống “ráp”, tiếng kèn “gai-đa” dù trên thềm đá một dinh thự cổ hay trong lều bạt hoang vu khi mặt trời đương lặn. Đâu đâu cũng giao hòa hồn cốt các nền văn minh châu Phi với Trung Đông và Địa Trung Hải.

Những cái khác nhau mà ăn ý ấy cũng thật đậm, khi trông thấy trên sân bay Bu-mê-điên, hai đầu cánh chiếc Bô-ing 727 của hãng hàng không An-giê-ri như còn đượm hơi tuyết. Thế mà bốn phía gió khơi vào thành phố cảng An-giê dạt dào lên vòm lá chà là lấp lánh và nắng in hoa đôi cánh tay trần của cô gái bầu bĩnh, đen giòn, bưng khay cà phê tới. Đôi chút vào xuân băng tan rớt lại bên kia rồi. Mùa hạ đã thấp thoáng những con buồm trắng như bướm bay đậu rập rờn mép nước.

Ô hay, tôi chưa được đến An-giê bao giờ mà lại dường như đã từng đến. Vẫn trong một trái ngược dịu dàng mà xa xôi, mà hòa hợp. Có phải chỉ vì tôi bỗng nhớ lại những câu vè “bắt lính sang Tây” từ thuở nào, trẻ con trong làng đều thuộc vanh vách. “Kể từ khi bước chân đi... Ba tháng năm ngày thì đến An-giê... Vợ con nhớ giỗ ngày rày cho cam... Bên Tây có chiếc tàu sang. Sinh ra khố đỏ quần vàng... Vai vác khẩu súng, tay cầm bình toong...” Những câu vè ảm đạm, rầu rĩ được kể mãi tưởng không bao giờ hết. Chú Năm tôi ở Sơn Tây đã sang làm lính dắt con la, con lừa bên Ma-rốc, An-giê-ri. Người lính khố đỏ “An Nam” bị đưa đi dẹp “giặc” Mặc Đình Kim 1 nước “Tây đen”. Người lính châu Phi phải sang “An Nam” đánh “giặc” Bãi Sậy, “giặc” Đề Thám. Những mưu toan thế kỷ của thực dân đế quốc đã ràng buộc số phận đất nước chúng ta.

Cái ký ức tản mạn ngây dại của tuổi thơ tôi có chú Năm dắt lừa theo quan Tây ở Bắc Phi đã vào thành phố An-giê thời đại hôm nay, với tôi.

Ở đâu, những thành phố bờ biển, sóng rỡn lên đùa ướt cả gấu váy người đi đường không kịp xắn, bao giờ cũng giữ riêng một vẻ đẹp La-ha-ba-na. Bây-rút, I-an-ta, Bom-bay, Nha Trang, Bãi Cháy, cát và sóng mơn man. Cả màu xanh vườn ô-liu và cây thiên tuế cổ thụ, hoa chà là thơm cùng lẫn mùi muối.

Nhìn lên, An-giê như một lực sĩ vươn vai. Cao cao những dốc phố quanh lên châu tuần trước đài Chiến Thắng, nhóm tượng chiến sĩ súng trường lựu đạn hiên ngang, phía nào cũng thấy. Nhà Bưu điện nguy nga kiến trúc Ả-rập, nhà hàng Thánh Gioóc cũ, những lầu cao, như màu áo, như bắp tay mà cánh rừng xa xanh như mái tóc xõa. Khu An-giê cũ nhà cửa, hè phố phảng phất dáng dấp thời thuộc Pháp, anh em với Hà Nội và Sài Gòn, chỉ khác những đền đài đạo Hồi trơ trụi trắng xóa trên thành phố thoai thoải từ đỉnh núi xuống dầm chân bên bờ cát phẳng lặng.

Chỗ nào cũng thấy An-giê lẫn với núi, rừng cây, bãi cát và xa kia một ngấn biển xanh ngang trời. Khoanh đê chắn sóng ngay bên con dốc luồn dưới cây vắt lên núi.

Mỗi quãng, tưởng tắc vào hẻm đồi, lại mở ra một dãy phố, một ngã tư. An-giê, thành phố hãnh diện có tuổi ngoài nghìn năm, như Hà Nội với Cổ Loa, Tân Đê-li bên Đê-li cũ, như Tbi-li-xi mới cạnh thành cổ cùng soi bóng sông Gu-ra.

An-giê cổ kính đặc biệt. Trước cảng man mác mái nhà lúp xúp gồ ghề sần sùi da cóc. Phố xá chen chúc người lên xuống qua lại bậc đá, khu Cát-ba - mái nhà chồng diêm san sát nối tiếp. Hiệu cắt tóc, hiệu may, hàng quần áo cũ, quầy rau quả... Các quán ăn vách ám khói, sực nức mùi hành. Những bàn cờ, người ngồi quanh, chăm chú, lặng lẽ.

Cái vùng hang hốc ngoắt ngoéo thiên la địa võng đến rợn người này đã nổi tiếng là một khu du kích giữa lòng thành phố. Pháp đã ra công bắn giết, đốt phá. Nhưng chưa bao giờ phá vỡ được hết những bí mật của khu Cát-ba. Cho đến ngày Pháp cuốn cờ về bên kia Địa Trung Hải, Cát-ba vẫn thản nhiên ở nguyên đấy. Những hàng hiên trước nhà, những cột cây chống cửa sổ, như những con mắt tinh thần kháng chiến An-giê-ri. Cát-ba, tụ điểm kiêu hãnh giữa An-giê anh hùng. Những toán dù lê-dương cuối cùng của quan năm dù Mát-xu, viên tướng biệt kích đánh nhau toàn thua trên đồng chiêm Nam Định, Thái Bình ở Việt Nam, chạy về đây lại vỡ mặt vì các chiến sĩ du kích ở khu lao động Cát-ba.

Đài Chiến thắng trên đồi cao vòi vọi hình một lão du kích trong nhóm tượng đài các chiến sĩ tay vung lựu đạn đương vươn bóng dũng liệt từ những mái nhà lụp xụp ở Cát-ba lên.

Cả hạm tàu xâm lược đã vĩnh viễn cút khỏi cảng, có thể vào một buổi sáng nắng trắng toát thành phố tường trắng, trong veo biển xanh và tiếng sóng. Càng sâu thăm thẳm những con mắt cửa sổ tinh anh lạ lùng ấy của khu phố nghèo.

Vùng du kích Cát-ba anh hùng giữa “ba mươi sáu phố phường”, chằng chịt đại lộ xung quanh. Trên lầu hàng cao lâu A-lê-ti trông xuống, từng miếng mái nhà lởm chởm như vảy con tê tê khổng lồ, một đàn tê tê dựng vảy đương lịch kịch lên giữa dốc và nhà nào lúc nào cũng ồn ào, nồng mùi đinh hương, mùi ớt, mùi mù-tạt cay xè, kích thích.

Dạo quanh Cát-ba, gần nửa đêm tôi mới về đến vùng bắc thành phố. Đường lớn kề bên biển, ngọn sóng chồm lên ngang thành xe, dựng đứng.

Châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh hùng vĩ và đau thương trong máu và nước mắt. Trăm năm vừa qua, cuộc đời các dân tộc trên trái đất trải những biến thiên lịch sử lớn. Cả đến chú Năm tôi và những người lính da đen ở Đông Khê năm xưa và tôi, cả tôi nữa. Những ngôi sao li ti giữa trời sáng trăng dạt trên ánh nước, như những số phận hiển hiện.

Bờ bên kia, chỉ hơn nửa buổi tàu thủy hoặc ngót giờ bay đã vào cảng Mác-xây. Ngồi đây trông ra đầu vịnh, bán đảo Si-đi Phê-rúc, cây đèn biển thoáng trắng thoáng xanh, bờ đá và bãi tắm so le từng quãng. Ai còn chẳng biết nơi vui chơi đây có những khách sạn hiện đại, cầu kỳ nửa nổi nửa chìm, sóng xô vào tận cửa sổ phòng ăn, thế mà năm 1830, thực dân Pháp đổ quân lên chiếm An-giê-ri đầu tiên đã lập đầu cầu ở đấy.

Nhưng vùng biển Si-đi Phê-rúc đã quang đãng từ năm 1962. Cuộc xâm lược 132 năm của thực dân Pháp đã bị tan tành bằng tinh thần một Điện Biên Phủ - lời thề thiêng liêng của các chiến sĩ An-giê-ri.

Khách sạn càng kề mặt nước. Dãy tường đá cao như pháo đài, nhưng lại là những nhà nghỉ lịch sự. Những hàng ăn và quán cà phê ấm áp: Mùa dong thuyền chơi đương tới. Bến nước nhấp nhô những cái thoi xinh xinh. Có chiếc, nước sơn còn đỏ nhếnh nhoáng nằm trên cát, với chiếc chèo trắng bạch.

Xa xưa và hôm nay trong bóng trăng vằng vặc. Chú Năm tôi ngày xưa chắc đã đổ bộ lên đây. Ừ, thế nào người lính khố đỏ dắt la lừa cũng phải lom khom trèo qua cái bãi đá ngoài kia. Người lính thuộc địa ở An-giê, ở Ma-rốc, ở Pông-đi-sê-ri, ở Việt Nam đem thân ra đi, “Vợ con nhớ giỗ ngày rày…”

Người lính da đen trong đội quân viễn chinh Pháp ngày ấy có phải người An-giê hay không, nhưng tôi cứ ngỡ như phải. Trên chiến dịch Biên giới phía Bắc năm 1950, hôm quân ta giải phóng Đông Khê, một tốp tù binh được đưa từ trong đồn ra. Những người tù binh da trắng da đen lũ lượt đi vào gió rét chiều lất phất mưa dưới gốc đa đầu xóm. Nhiều người cởi trần, vẫn còn hốt hoảng như lúc bị lôi sống ở lô-cốt xuống.

Ai biết có Bác Hồ trong những người đứng ven đường. Hay là người ta biết mà im lặng bảo đảm kỷ luật chiến trường. Trông thấy bác sĩ Chánh tôi quen, tôi mới nhận ra. Anh Chánh cũng mặc quần áo bộ đội xám lá cây, quần xắn như Bác. Bác đội nón lá, cái khăn tay che ngang cằm, vắt ra sau cổ, chỉ nhìn được đôi mắt chăm chú.

Mưa mỗi lúc một nặng hạt. Người tù binh da đen sau cùng đương đi tới. Co ro, trần trùng trục. Bác Hồ bước ra, cởi nhanh cái áo sơ-mi Bác đương mặc, khoác vào vai người tù. Người ấy sững lại, lắp bắp nói, rồi lại lật đật chạy ngay theo hàng, trong khi bác sĩ Chánh lấy chiếc khăn mặt buộc túi của anh, vắt lên hai vai Bác đã ướt mưa.

Chẳng bao giờ người tù binh biết được ông già cho anh cái sơ-mi - đấy là người công nhân phụ việc “mạch lô” ngày trước đã từng qua các cảng An-giê, Ca-da-blăng-ca... khắp châu Phi.

 

II.

Thành phố An-giê, bờ biển cát trắng bên những ngọn đồi hoa mi-mô-da vàng hây quanh các dinh thự. Đâu cũng vẫn một An-giê xinh đẹp ấy. Những đường đá trắng đồi En Bia sang Mu-ta-pha sáng điện và xanh cây. Lại từ Bô-na-ri-da đến Ku-bai, đến những khu nhà đồ sộ giữa vườn cọ pan-ma và chà là, lại quanh xuống khu Cát-ba. Đến cửa rừng thông Đi En Ma-con nhìn xa, gặp lại mặt biển kẻ một đường xanh chân trời.

Mỗi lần tha thẩn, quanh quẩn lên dốc xuống dốc khu phố lao động Cát-ba lại khám phá ra những thú vị mới. Phố lao động, nhưng lại không phải dân tứ chiếng ở lều “bi đông” tường thùng sắt mái ni-lông. Cát-ba cổ kính đã ra đời trước cả những dinh thự thành quách xung quanh - có lẽ nơi tụ cư của những người thoạt đầu đến lập nên thành phố cảng.

Tôi xuống bậc đá cuối ngõ ẩm ướt. Thế nào mà tự dưng trông thấy cái bảng có dòng chữ Restaurant Hà Nội - Hiệu ăn Hà Nội, chữ viết sơn đen mờ trên miếng gỗ mộc ám khói trong bóng nhập nhoạng những mái nhà. Vậy mà thình lình, như có linh tính, sự chú ý hút ngay vào đấy. Ai như tôi lúc này, chắc cũng thế. Dường như gặp lại đất quê ngay trước mặt. Hai chữ “Hà Nội” vuông vắn, chân phương dấu huyền, dấu mũ, dấu nặng. Quanh tôi lại bồi hồi lẫn lộn hôm nay và ký ức, có chú Năm tôi dắt con la đến vắt chiếc thừng da vào cột hiên, có người tù binh năm nào ở Đông Khê đương ngồi hau háu trông ra, hình như vẫn mặc tấm áo sơ-mi ka-ki xám nhạt ấy.

Tôi bước vào quán. Tiếng chim sẻ róc rách trên đầu hồi. Cảm tưởng lạ lùng tôi vừa thấy đã hóa ra quen thuộc. Đây chẳng khác một hàng cháo lòng, hàng phở, hàng bánh cuốn mà khách ngồi chực bà hàng tráng từng chiếc, ở một khe cửa, một vỉa hè nào trong những ngõ phố khúc khuỷu, tun hút ở Hà Nội, ở Sài Gòn.

Ngoài thành tường, mấy người thong thả ngồi chơi, chân buông thõng. Một cụ già vác trên vai một con cừu nhỏ, không biết ông đi chơi hay đem cừu đi đâu. Trước mặt, bác thợ cắt tóc giơ kéo làm điệu tóc tách quanh đầu một chú bé ngồi im trên cái ghế sắt xếp. Chẳng ra vẻ cao lâu tửu quán gì cả, cái Restaurant Hà Nội chỉ là một hàng cháo bò.

Thành phố An-giê trên ngã tư ngã năm lịch sử. Bờ nam Địa Trung Hải này thêm cái hàng cháo bò cháo cừu của ông An càng đậm nét của thế kỷ. Một gian hẹp như mọi gian nhà ở khu lao động Cát-ba. Quầy làm hàng kê góc trong. Chiếc thùng tôn trắng phau đặt trên lò, nghe tiếng cháo sôi ùng ục đều đều. Một dãy móc sắt lủng lẳng những buồng gan, quả tim, quả cật, cái pín, chiếc cổ hũ, miếng sách xù xì vỏ mít, bộ lòng non vắt như chằng thừng. Mọi thứ sắp sẵn, chỉ đợi lẳng xuống chảo cho sủi tái. Bên trong, xếp những bó hành ta, rau húng, cả cà chua, khoai đã luộc, bóc vỏ và hành tây, tỏi tây cho những khách ưa món súp hổ lốn. Ông chủ hàng quấn tạp-dề xanh, một mình đứng giữa các thứ đồ nghề. Con dao xẻo miếng gan, miếng nầm, miếng thịt tái, ném xuống chảo. Từng bát đã lót sẵn rau thơm và gia vị được múc cháo nóng sôi vào.

Khách xúm xít nhìn chủ quán với tay và dao và muôi cứ múa hoa lên, rồi hí hửng được bưng bát cháo của mình ra bàn. Vào hàng này người ta thích thế và bao lâu nay đã thế.

Bàn ăn kê giữa nhà ôm một cái bể thủy tinh tròn to choán cả, khiến cái bàn rụt lại, chỉ như máng gỗ mép bể nước. Mặt bể nở những cánh bèo xanh ngắt. Ở làng xưa, ao bèo tấm, bèo ong, những ô bèo cái vuông vắn trong các sào nứa, ngày ngày cô gái ra xắn quần lên tận bẹn lội vớt - giống bèo cái nấu trộn cám, lợn đen, lợn ỉ ăn vào lớn trông thấy.

Thế mà giữa nhà hàng ở An-giê trong bể cảnh nở đầy bèo cái. Cánh bèo xanh phấn, mỡ màng, chùm rễ trắng ngà lưa thưa. Một đôi cá trắm lượn ra, giống cá trong tranh đớp trăng trung thu, những chiếc vẩy đẹp lấp lánh như đôi mắt trẻ thơ.

- Chào ông An!

Ông An ngước lên, dừng tay dao pha thịt, nhẹ nhàng hỏi:

- Anh mới sang à?

Tiếng cuối hơi nặng giọng người kẻ bể Thụy Anh, Diêm Điền. Và câu hỏi, cách hỏi ấy cũng có thể biết ông là người tinh ý và chắc ông thường quen biết anh em trong sứ quán. Ông hỏi thêm:

- Có ở đây lâu không?

Bấy giờ khách ăn đã vãn. Ông An bảo tôi:

- Ta làm bát mì ăn tạm nhé. Làm nghề gì thì sợ các thức nghề ấy. Anh bán phở thích cơm chan nước rau muống luộc, mà cái anh nhà bếp cao lâu suốt ngày phải đứng ngửi mùi mỡ lót chảo, đến lúc rời tay ra, chỉ còn ao ước bát nước chè tươi vò thật đặc. Nghề đời nó thế, anh ạ.

Tôi cười. Tôi lại để ý ông An thích gọi nhau bằng anh, dẫu sao chúng tôi chẳng ai còn trẻ nữa. Đấy cũng là thói quen của người suồng sã và chân tình.

Tôi hỏi:

- Anh ở An-giê lâu chưa?

Ông An cười nhếch mép :

- Xem nào, “pờ-lúy đờ tờ-răng tăng” 2

- Thế hẳn anh cũng biết restaurant cụ Quất bên Ma-rốc?

- À cụ Quất. Ông cụ quê ở Yên Hưng. Năm nay ngoài chín mươi rồi. Vẫn lịch sự như Tây. Năm nào tôì cũng nhận được thiếp chúc Tết cụ gửi từ Quảng Yên. Anh biết cụ Quất à?

Tôi cũng chỉ gặp cụ Quất một lần. Có dễ mười mấy năm đã qua. Lần ấy, cụ Quất từ Pa-ri tới và chúng tôi cùng đi chuyến bay từ Mát-xcơ-va về. Ghế tôi cạnh cụ Quất. Tình cờ thế thôi.

Mười năm tuổi, cậu bé Quất bỏ quê ra Hải Phòng làm phụ “mạch lô” hãng tàu Tây Diếc, chạy đường Mũi Ngọc. Ở cái làng Yên Hưng bãi lầy ngày đêm nghe tiếng biển mà làm nghề tàu biển cũng phải. Rồi Quất theo chúng bạn xuống tàu lớn đi đại dương vẫn chỉ là chú bé nhặt than, rửa bát, lau cửa kính. Không rõ đến năm nào Quất lên bờ. Chỉ biết nhiều người Việt Nam lưu lạc trên thế giới đã biết tiếng Phở Quất - restaurant Quất, đông khách đã trên năm mươi năm ở Ca-da-blăng-ca…

Bao nhiêu năm, đại chiến thứ nhất, lại đến đận đại chiến thứ hai, lính tráng các thuộc địa Pháp đổi đồn, đổi trại lung tung cả châu Phi, châu Á, châu Đại Dương ta sang “khố đỏ”, lại đến “ô en ét” - ONS, lính không nghề - nhiều người thường lui tới cửa hàng Phở Quất này.

Năm tôi gặp, ông Quất đã tròn tám mươi tuổi. Nước da săn bánh mật, khỏe, quắc thước. Ông Quất cười hếch hàm, khoe răng chưa rụng cái nào. Hàm răng bàn cuốc của ông nhuộm đen từ thuở trẻ, rồi cả đời lang bạt chân trời góc biển, mà ông cứ để thế, bây giờ thành răng cải mả nhờ nhờ.

Hồi ấy, các chuyến bay về Hà Nội, đường phía tây hay trên phía bắc, đều đợi nhập nhoạng tối mới vào Gia Lâm. Có lẽ đến giờ ấy không quân Mỹ mới ngớt hoạt động. Chiếc IL 18 bay thấp, trông rõ hoàng hôn dưới kia, dải núi Cai Kinh lởm chởm và con sông Kỳ Cùng uốn quanh thị xã Lạng Sơn. Làng xóm xinh gọn vun vào trong lũy tre. Tưởng nhìn được cả trẻ con đương chơi nhởn đầu ngõ.

Từ lúc qua biên giới, ông Quất cứ đăm đăm nhìn xuống.

Ông Quất về thăm đất nước lần ấy, lần đầu tiên. Nhưng ông Quất đã định về ở hẳn nhà, từ mấy năm nay. Cái người hai bàn tay không, dựng lên cơ nghiệp đã quen quyết đoán và làm dứt việc. Vốn liếng và số tiền sang cửa hàng, cả gia tài, ông gửi một nửa vào chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tại Pháp để ủng hộ Nhà nước. Còn đâu ông mang bằng ngân phiếu về đây. Ông sẽ gửi quỹ tiết kiệm cả. Một mình ông, chỉ cái lãi tháng lấy ra ăn cũng thừa phong lưu rồi. Ông đã gửi tiền cho xã xây cái trường phổ thông tám phòng lớp. Ông cũng đã nhờ xã làm nhà cho ông từ lâu. Ông đưa tôi xem ảnh nếp nhà hai gian một chái, lợp lá gồi. Mảnh sân nhỏ lát gạch bát tràng. Nhà và sân, cổng tán, bò rào đều theo quy cách của ông gửi về. Ông nhớ kỷ niệm thuở bé hay ở nông thôn Ma-rốc cũng tranh tre thế sao, nhưng ông nói hệt các cụ ta trong làng: “Nhà gạch bí lắm. Ở nhà lá mát mẻ lại khỏe người”. Rồi ông nheo mắt cười hề hề. Thoải mái y hệt chú Năm tôi ngày trước.

Ông Quất vẫn ngồi yên.

Tôi cũng nhìn ra cửa sổ rồi nói với ông:

- Cái khúc cong cong nước đỏ ấy là sông Hồng, sắp thấy cầu Long Biên rồi.

- Có phải cái cầu Long Biên xuống Phòng, hả me-xừ?

- Vâng xuống Hải Phòng.

Hai hàng nước mắt ông già bỗng ứa ra. Nhưng miệng ông lại mếu máo cười:

- Tôi chưa được biết Hà Nội, tôi chưa được biết...

Phải rồi, khi ông Quất ra đi... Tàu quay mũi bến Sáu Kho…

Chưa có dịp nào tôi trở lại Yên Hưng. Chỉ gặp cụ Quất lần ấy. Nhưng tôi đã đến Yên Hưng từ khi cụ Ọuất chưa về quê. Tôi vẫn nhớ cái làng khuất nẻo trong sương mù và bãi lầy. Nửa đêm nghe tiếng còi tàu rúc ngoài xa.

Tôi đã nói lại với ông An như thế. Chúng tôi trò chuyện về những người nước ta phiêu bạt các nơi. Ma-đa-gát-ca... Xê-nê-gan... Có người đã mất, có người lưu lạc đã hai ba đời... Biến cố đất nước và đời mỗi con người, biết bao số phận, bao nhiêu éo le. Ông Mậu làng tôi vào lính đi “phiếc-me” 3 nhà binh ở A-lép nước Xy-ri suýt lấy vợ bên ấy. Chú Năm tôi dắt con la, dắt con lừa, hết Ma-rốc lại An-giê-ri và cái “người nước Bắc Kỳ ở Bây-rút có cây đàn một dây” năm trước tôi đã có ý tìm nhưng không gặp. Và cả đến cái sự ông An chủ quán cháo bò tha hương gặp nhau ở ngõ phố lao động Cát-ba này.

Ông An kể mấy năm trước ông còn tráng cả bánh cuốn. Đông khách, nhưng mà bận lắm. Có cà cuống không à? Cái này thật thần tình. Tôi nghiệm thấy dẫu đến ở nơi xa lạ thế nào rồi người ta cũng mầy mò ra những cái ăn cái uống chẳng khác quê nhà. Mác-xây phía nam nước Pháp ấm áp, rau cỏ mắm muối nước ta được bà con mang sang từ bao giờ, giống má ra sao chẳng biết, nhưng có đủ cả. Mắm tôm, nước mắm, ớt chỉ thiên, cả ớt gió, ớt Quảng Bình, húng Láng hẳn hoi, không thơm hắc như húng bạc hà Sơn Tây, thìa là nhỏ cây mà đậm mùi khác thìa là Tây nhạt nhẽo. An-giê đối mặt với cảng Mác-xây tàu bè qua lại như phà sang ngang ấy mà.

- À mà tôi sẽ kể anh nghe chuyện cô Tâm. Hôm nay mấy ta nhỉ? - Hỏi thế, nhưng rồi ông An vào cầm tấm bìa lịch treo tường in ở thành phố Hồ Chí Minh có tờ lịch to tướng. Ông An lật lật mấy tờ. Thứ sáu này là rằm tháng bảy âm lịch. Các cụ ta ngày xưa ngoài cái Tết cả thì trọng nhất tết rằm tháng bảy đấy. Tết cúng vong nhân xá tội mà. Năm nào cô Tâm cũng lên ăn tết rằm tháng bảy.

Ở buồng trong nhà ông An có chiếc giường một kê bên cái án thư mộc, lùn vừa tới trần nhà thấp, trên bày chiếc mâm đồng sơn then và một ống hương. Chẳng khác cái giường thờ đơn sơ ở quê. Ông An đương nói về cô Tâm ở Ô-ran.

Tôi hình dung ra thành phố Ô-ran xa xôi, những vườn đồi bậc thang xung quanh mép núi, những bãi cát gập ghềnh chưa bao giờ đến mà trong lòng vấn vương ái ngại như mỗi khi ta nghĩ tới người con gái lấy chồng xa. Ai đã lên Hà Tuyên vào Bắc Mê, đến chặng dừng chân rẽ vào bản Khuổi Nọi phải lội cả buổi qua tám chín khúc suối lớn. Ở Khuổi Nọi cuối rừng ngọn nước ấy, người con gái đi lấy chồng thiên hạ, tưởng như chẳng bao giờ còn về thăm được suối quê mẹ nữa.

Bốn mươi năm đã qua rồi. Ngày ấy cô Tâm mới trạc hai mươi tuổi, chứ chưa phải bà lão sáu mươi như bây giờ. Cuộc kháng chiến toàn quốc mới bắt đầu. Các vùng ngoại thành Hà Nội thật sôi nổi. Du kích mỗi làng tập trung thành trung đội, đại đội. Cô Tâm tiểu đội trưởng một đại đội toàn nữ.

Cô Tâm mất tích trong một trận du kích chống càn. Không ai biết tiểu đội trưởng Tâm đã hi sinh hay bị bắt, trong lúc đánh nhau, lúc rút, đã có việc gì xảy ra. Khi ấy mạng con người như sợi tóc, vương ở đâu, biết đâu... Rồi mặt trận lan rộng ra, mãi đến tám năm sau, có người trở lại, có người không bao giờ trở về.

- Ở An-giê-ri bây giờ - ông An nói - khá nhiều chị em Việt Nam tài đảm có tiếng.

Chồng chị Tâm có nghề thợ nề. Chị Tâm làm nội trợ như thông thường các bà mẹ, các chị ở đây. Hai con chị Tâm, con gái bác sĩ, con trai kỹ sư, đã nên người cả. Vườn bưởi của chị Tâm, cái vườn bưởi hái ra tiền ấy, phải gọi là đồn điền bưởi mới đúng.

(Hôm trước, trên đường đi Khi-đa qua núi Chê-rê-a xuống thung lũng Mê-đi-a, tôi đã được qua một quãng những vườn bưởi. Hoa bưởi nở trắng ngần, người đi ngợp vào hương bưởi ngây ngất, muốn say).

Chị Tâm thật khéo nuôi lợn. Ở đây, người theo đạo Hồi kiêng thịt lợn . Không khí đạo giáo trùm lên những thành phố châu Phi. Những người đàn bà bối rối áo choàng trắng, vạt nâng ngang nửa mắt, đi loáng thoáng như chiếc bóng.

Đàn lợn chị Tâm nuôi, cứ bán năm hai lứa, ba lứa, không biết có ai đạo Hồi phá giới vì được ăn thịt lợn ngon giống đen tuyền. Chỉ biết lợn của chị đắt hàng, người mua lái xe tải đến bắt lợn tận chuồng, chị chẳng cần biết mặt cái chợ.

Cái bể bèo cái ông An nuôi làm cảnh đây của chị Tâm đem cho giống đấy. Ông An đã có về chơi nhà chị ở Ô-ran. Tòa nhà hai tầng khang trang. Trong nhà treo toàn ảnh phong cảnh Việt Nam. Sứ quán ta trên An-giê mua hộ các thứ bên nhà. Thỉnh thoảng, vợ chồng lên khuân về từng va-li sách báo. Hai con chị đều đọc được quốc ngữ. Cả phố khen nức nở, và ước: Làm thế nào cho con trai An-giê-ri sang lấy được vợ bên Việt Nam. Chị Tâm cười bảo: Như tôi, ở nước tôi chưa phải người chăm việc đâu - Thì hãy cứ được người chưa biết chăm việc như chị! - Mọi người nói thế.

Bây giờ qua đã lâu cái ngày những lo, những ngại ấy rồi. Cuộc đời đã nên như thế. Không phải chồng chị nói thế, mà từ khi An-giê-ri độc lập, người hàng phố hay nói: đất nước Việt Nam tận đâu đâu mà ai cũng nhắc nhớ. Vì tình cảm con người, xa xôi hóa gần gũi. Các vùng du lịch ở Công-xtăng-tin, ở Sau-ra và cả những “oa-di” giữa mênh mông, lâu rồi thấy quen cũng như chùa chiền và khoanh tre, cảnh đồng ở quê. Những khoảng vẽ trên đá thời tiền sử, người và bò tót, núi đá lạ ở I-li-xi, ở Hô-ga, bắt đầu lạc đà vào sa mạc... dưới cát có dầu lửa... đất nước tôi... Người ta bảo tôi cầm súng, đem tôi sang Đông Dương, thế nào mà tôi được gặp mình...

Con trai chị Tâm cằm bạnh giống như tạc các chú bên quê. Em gái nó, mặt trắng tròn bầu bĩnh, đặc biệt khuôn mặt các cô gái Bắc Phi láng giềng châu Âu. Chị Tâm không mặc quần áo ta, nhưng chị Tâm cũng không lòe xòe váy đầm như mọi người. Tết âm lịch, vợ chồng con cái lên An-giê chúc Tết sứ quán. Chị mặc quần áo mới - bộ ka-ki đồng phục xanh nhạt với chiếc mũ tai bèo. Lúc nào chị cũng chỉ mặc một kiểu giản dị chiến sĩ giải phóng như thế. Tết dương lịch, khu phố vui chơi ngoài công viên, cả nhà chị đều diện quân phục quân giải phóng đứng đồng ca bài “ Giải phóng miền Nam”, anh ấy xòe tay đập trống “ráp” đệm làm nhịp.

Và chẳng khác ai, chị Tâm cũng giỏi chơi không thua cô gái nào trong các hội hè… Tết hái cà chua tháng ba, tết trảy cam tháng tư, hội cừu tháng sáu, rồi sang hội vào xuân Địa Trung Hải… Tâm choàng khăn voan xanh lơ, nhảy điệu Da-dô-na nhịp nhàng vào hội hái chà là…

Tôi hỏi ông An:

- Chị Tâm có liên lạc gì với bên nhà không?

- Chị ấy đã gửi tiền ủng hộ xã xây trường học. Cái ảnh trường phổ thông thôn Vân được phóng to treo giữa nhà ở Ô-ran.

- Chị Tâm đã về chơi bên nhà...

Ông An nhìn tôi chăm chú rồi nhẹ nhàng lắc đầu:

- Chưa về lần nào, anh ạ.

Chúng tôi ngồi im một lúc lâu.

- Chị Tâm nói chuyện vui như liếu điếu. Nhưng cái gì mà chị không nói thì thôi đừng hỏi. Đến rằm này, thế nào chị ấy cũng lên. Mời anh ra chơi.

Nhưng rằm tháng bảy ấy chị Tâm không lên An-giê. Tôi nghĩ, biết đâu chị ấy có lên mà không muốn giáp mặt tôi chăng? Tôi không hề quen biết chị, nhưng tôi là người ngoại thành, khá thông thạo vùng Vân cửa sông Hát. Năm ấy, tôi đã làm phóng viên báo, khi các đội du kích ven sông Hồng làm nhiệm vụ tiếp tế bí mật cho Liên khu Một, những ngày đầu kháng chiến vô cùng ác liệt của Hà Nội. Có thể ông An đã kể về tôi với chị Tâm, cho nên chị không đến. Ồ, có thể như thế.

Mỗì người thường có một điều riêng gì không bao giờ ai hiểu được. Như cái ông An này mà chả lạ sao. Ông là tay bếp nghề và sành rượu. Thịt cừu nấu món “sóc ba”, gia giảm dầu dấm, trộn bột và giữ lửa nhỏ thế nào. Vang trắng để uống chơi, vang hồng cho bữa ăn nhẹ, má-ca-ra hay mê-đi-a. Vang đỏ ở Bu-sa-vi-ni trong tiệc thì vô địch. Gì ông An cũng thạo.

Nhưng tôi chẳng biết gì hơn nữa. Ông ở đâu trôi giạt đến cái xóm Cát-ba - khu du kích tự hào của An-giê này, ông là ai? Vẻ lịch lãm và trầm lặng của con người không để ý những câu hỏi ấy. Tôi lặng im.

Cây chà là trước cửa, hoa trắng ngà như hoa cau phảng phất thơm. Ngoài kia, sóng xô vào quanh mép tường phòng tôi ì oàm vật vã đến cả đêm.

1985

--------------------------------

1

Áp-đen Krim (đọc theo cách đọc của người lính Việt thời ấy trong quân đội thực dân không biết tiếng Pháp: Mặc Đình Kim): thủ lĩnh nghĩa quân, hoạt động chống Pháp trong vùng núi Ríp giáp giới Ma-rốc và An-giê-ri.

2

Tiếng Pháp: hơn ba mươi năm.

3

Tiếng Pháp: y tá

Chốc lát Tan-da-ni-a

TÔI XIN MƯỢN cái đầu đề bài ký Chốc lát ở Pa-ri của K. Pau-xtốp-xki. Đùa mà không cười, như một nhà văn bạn vong niên của tôi xưa kia, khi tôi ngờ ngợ văn anh có những câu mượn của người khác thì ông anh cười mà rằng: Của người ta hay quá, mình biết làm thế nào! Chốc lát ở Pa-ri.

Thoạt đầu tưởng K. Pau-xtốp-xki chỉ dừng chân, đâu đó đợi máy bay quá cảnh. Nhưng rồi thì biết được thực cái chốc lát của K. Pau-xtốp-xki ở thành phố hoa lệ bậc nhất Tây Âu ấy cũng đến vài ba tuần. Dẫu sao, cũng là chốc lát, cũng chỉ là chốc lát. Càng hiểu cái sâu sắc mộc mạc của hai chữ gọn ghẽ ấy. Cái chốc lát và cái cuộc đời, biết hay không biết, có khi chỉ chốc lát mà cũng là cả cuộc đời.

Lá bàng đỏ lẫn lá bàng xanh thẫm, nắng và nhiều gió. Trên cảng Đa-et-sa-lam, tiếng quạ kêu và diều hâu gào, “tí o” lượn vòng “xây giếng cho tròn” cả đêm trong sáng trăng.

Có những tình cờ, làm sao mà biết trước được đến đây tôi được quen hai bạn người Phi-lip-pin và Ni-ca-ra-goa. Mỗi chúng tôi một đất nước mãi chân mây cuối trời những Thái Bình Dương, những Đại Tây Dương nhưng lại thấy, ở Việt Nam hay ở Tan-da-ni-a hay ở quê hương các bạn, cả người và cảnh, đâu cũng thật lạ mà lại thật quen.

Bờ biển cảng lúc nào cũng lộng gió, cây cối loi thoi, sợ gió đến lùn cả thân mình. Cây xoài âm u bao bọc ngay trên đầu. Nhớ Bạch Long Vĩ ở Biển Đông quanh năm gió thổi vít còng cả lưng cây xuống.

Nhưng riêng những cây dừa thì vẫn cao lêu đêu. Dừa dâu ở Cái Bè chỉ bằng cây cau liên phòng hay rừng dừa Tam Quan đan lá ngang mắt. Cây dừa gầy và cao ở Đa-et-sa-lam giống dừa ở ao dừa Sấu Giá. Thân mốc xì, lặn nhẵn hết đốt, có lẽ được đến ngoài trăm tuổi điềm nhiên chơ chỏng giữa trời thế này. Suốt dọc biển, chỗ nào cũng lủa tủa, lao xao toàn một giống dừa cao cao.

Hoa cỏ vùng nhiệt đới phía trong đường xích đạo ở chỗ nào cũng thường họ hàng nhau. Cây phượng lá lăn tăn, cây xoài xanh già, bụi tre đằng ngà vàng chóe, dây hoa giấy tím ngẩn ngơ và giàn ti gôn đỏ đến rợ mắt và những đám cỏ gà xơ xác... Tất cả thành đường viền sặc sỡ dưới rừng dừa lênh khênh, ngất ngưởng ven biển Tan-da-ni-a. Chỉ một cái cây cũng cho ta biết được nhiều điều - nếu người đi đường không vô tình phí phạm cái chốc lát.

Rừng thông bốn phía vào Béc-lin, màu xanh trập trùng chẳng khác rừng thông trên Tủa Chùa, trên Đác Lây. Những ai biết rừng nước Cộng hòa dân chủ Đức, cây cổ thụ hay cây non, mỗi cây đều có tuổi, cây nào cũng mang lý lịch năm sinh viết trong mảng sơn trắng dưới gốc. Vào vườn thú ở Mát-xcơ-va, ngắm cây phong từ gốc lên ngọn, thấy được bàn tay người thày thuốc cây ở nhát cưa gọn, vết hắc ín, vết thuốc bôi chỗ trầy vỏ... Một ngọn cây, bất cứ ở đâu trong nước công nghiệp cũng được tổ chức, có tổ chức, như xã hội loài người.

Tôi cũng thấy tương tự thế, ở cây Hà Nội - cây quanh ta không xa rời cuộc sống con người bao giờ. Mỗi cây đường phố Hà Nội mang vết tích đời sống thành phố. Biết bao sẹo cây trong những năm máy bay Mỹ ném bom Hà Nội bây giờ đã lên da. Những cây nhập nội trồng các công viên nội thành đều in dáng dấp lịch sử từ thế kỷ trước để lại: cây pan-ma, cây cọ xước, cây chà là dại, toàn giống đại thụ lực lưỡng đã thích hợp thổ ngơi bản địa. Nhưng, lạ lùng sao, khá nhiều cây có hai gốc - không phải nạn dây tơ hồng hay cành tầm gửi nhẹ nhàng đâu, cây hai gốc hai ngọn hẳn hoi. Có cây ngọn thì chà là, ngọn cọ, nhưng gốc đề. Có cây ngọn cọ cùng mọc trên một gốc với ngọn đa. Có cây gốc cọ mà trên đầu lại tỏa ra vòm lá si xum xuê. Nghe như rỡn, mà lại là thật. Có biết đâu bởi con chào mào, con chim chích tha quả đa, quả đề, quả dướng đến đậu ngọn cây rỉa ăn rồi quệt mỏ, để rơi hạt vào khe lá. Giống đa, giống đề, giống si gân guốc, cực khỏe, nhoi nứt cả kẽ tường đá, xi măng, được ươm trong cây ẩm ướt, cứ mọc tơi tới. Đến bây giờ, cả trăm năm đã qua, các quan thực dân xâm lược cai trị thành phố chết đã được táng mả lâu rồi, thế mà còn lại vô khối cây cọ, cây chà là dại bị rễ cây si, cây đề quấn từ lưng cây thòng xuống, dữ dội, ác liệt, như đòn thù đương trói, đương bóp cổ kỳ chết cái bọn cây ở đâu đến đây. Nhiều rễ đề, rễ si, rễ đa đương núc, đến tan dần cây cọ, cây chà là. Ở quanh góc hồ Gươm, ở đường Điện Biên, đôi khi vẫn gặp những cây cổ thụ vật nhau, hình thù thật quái đản, - dấu vết thời sự của lịch sử.

Ở Đa-ét-sa-lam cũng vậy, thời thực dân qua đã lâu, nhưng những bức tranh cây, “bức tranh vân cẩu” còn tang thương ra đấy cảnh vật lộn sống còn. Sự tích cái cây bản địa bóp chết cây nhập nội cũng tợn tạo rất châu Phi. Hẳn cũng lại những con quạ phàm ăn đã tha cả quả muỗm, quả bàng vào cây cọ, ngoạm hết cùi rồi bỏ hạt đấy. Tôi trông thấy một cây bàng tán xanh đen nổi lên trên đầu thân cọ rụi xuống. Một cây xoài gốc loang lổ nửa cọ nửa xoài, cả cây cọ đã bị quấn núc đến phải chết chìm vào thân muỗm.

Ở Nam Mỹ, ở châu Đại Dương, ở châu Á và ở đây, cảnh và người còn lại biết bao khác nhau mà vẫn giống nhau. Ven biển Bắc Phi bờ nam Địa Trung Hải hay cảng Đa-ca trông ra Đại Tây Dương, hay ở Đa-ét-sa-lam, ở Nha Trang, ở Vũng Tàu, hai bờ Thái Bình Dương đều vẫn còn di tích thế kỷ đau thương vừa qua một cái gì đó. Như trên mỏm đá cảng A-đen. Tôi nhớ Cộng hòa nhân dân Y-ê-men hiên ngang đầu ngõ Hồng Hải. Những chiếc Bô-ing 727 hãng An-yen-đa đậu nối cánh ra tận mép nước cuối đường băng sân bay quốc tế A-đen. Sóng biển lao xao vẫy lên lẫn cánh bồ nông và hải âu trắng xóa. Bãi đất bạc cằn trong làn nắng gắt, tưởng như cây cối bao đời nay vẫn thế. Những cụm cỏ dừa cạn, cỏ xước, lá náng trước mảng tường đá lỗ châu mai cạnh căn nhà hoang tàn một tầng, hai tầng. Có phải đấy ngày trước là lô cốt biên phòng, đồn hải quan hay trạm gác bến riêng cho tàu buôn nô lệ vào cảng tải người. Không biết. Nhưng chắc đấy chỉ là dấu vết của một trong ba thứ ấy còn lại. Chẳng phải nhà lưu niệm cái gì, nhưng cũng không ai buồn dỡ đi. Nó chơ vơ cạnh tảng đá nham nhở vỏ hà. Ngoài cảng Đa-ét-sa-lam còn thấy chiếc cột cờ bằng sắt, hà bám ăn mòn cụt tròn đầu. Dấu vết những kẻ xâm lược châu Phi, từ dưới nước xông lên, bám bờ biển trước rồi mới dân dà chiếm sâu vào sa mạc. Những lá cờ, cờ quạt thời bọn cướp nước tàn bạo, các triều đế quốc Phổ, Bồ, Anh, Pháp chỉ còn rầu rĩ phảng phất trong tưởng tượng vàng ố của người nhớ lại.

Người đàn bà Ả Rập choàng chàng mạng đen âm u đến tận gót, hai bàn tay trổ hoa chàm xanh rêu. Tôi đương đi trong hân hoan tiếng trống và những cơn múa mãnh liệt, tung hoành, không thể để chàng mạng, sống áo nào vướng víu lấp đi được những nét hùng mạnh cực kỳ của con người khi hứng khởi nhất. Cũng như, giữa sa mạc cằn cỗi mà trong lòng sẵn kim cương và u-ra-ni-um giàu có không đâu sánh được và những đảo Pem-ba, đảo Dan-di-ba, mép biển cảng Đa-ét-sa-lam nước xanh ngọc chẳng khác đảo Thông của Cu Ba trong biển Ca-ri-bê. Nhưng trái ngược đến lạ lùng.

Chỉ có một điều bây giờ chúng ta không còn quằn quại trong u ám những thế kỷ trước. Ý nghĩa đoàn kết Á Phi, Mỹ La-tinh to lớn và thiêng liêng, chúng ta gặp nhau tưởng như tình cờ nhưng thật không rủi may chút nào, bởi chúng ta đương trong sự nghiệp lớn của con đường đi tới của mỗi đất nước.

Chị Da-la-na ở Phi-lip-pin, đất nước ấy đương quyết liệt, cuộc đấu tranh lan tới cả mỏm vịnh Xu-bích, căn cứ hải không quân Mỹ lớn nhất thế giới ngoài nước Mỹ, như mũi súng đế quốc đang kề vào lưng Ma-ni-la. Chị Da-la-na đến, đấy là tiếng nói của giai cấp công nhân Phi-lip-pin. Đồng chí thợ dệt Da-la-na đã đưa tới tiếng nói của những con người quyết định tương lai đất nước. Tôi không thể hình dung ra người đại diện lớn ấy lại là một phụ nữ nhỏ nhắn, duyên dáng, hoạt bát, không Hồng Kông, Đài Loan, không Nhật và chỉ có thể là Phi-lip-pin - người của tinh hoa dân lộc Vi-ga-ya tiếp xúc với các nền văn minh văn hóa láng giềng, đất nước ngót nghìn hòn đảo xinh tươi.

Chị Plô-ra thì từ thủ đô Ma-na-goa tới. Chị công nhân ngành luyện kim mà nét mặt và mầu da chị là sự chung chạ trộn lẫn lịch sử nghìn năm của Trung, Nam Mỹ da đỏ, da đen và da trắng. Chị Plô-ra - da mầu, chị cũng không còn biết gốc gác dòng họ thế nào nữa.

Chị Plô-ra cười nói:

- Không, tôi chỉ cần biết bọn độc tài Xô-mô-da tay sai Mỹ đã tan tành, nước Ni-ca-ra-goa độc lập rồi. Giờ đây Ma-na-goa từng phút sẵn sàng đánh lại đòn thù của đế quốc Mỹ.

Rồi chị nói:

- Nhất định như Việt Nam đánh Mỹ! Không lời nào chứa đựng hết được. Tôi được biết ở Cu Ba có năm Việt Nam, tháng Việt Nam, ngày Việt Nam. Giai cấp công nhân Ni-ca-ra-goa sẽ học tập nhân dân lao động Cu Ba như thế.

Tôi đã có lần đến La Ha-ba-na vào một “năm Việt Nam”. Năm Việt Nam ở Cu Ba không phải chỉ được nêu và giảỉ thích ở mít tinh với biểu ngữ, khẩu hiệu và những lời tốt đẹp ca tụng về cuộc kháng chiến nửa thế kỷ chống đế quốc của dân tộc Việt Nam anh em, mà các nhà máy, các nông trường, nông trang khắp Cu Ba đã sôi nổi thảo luận tinh thần Việt Nam và Cu Ba với sáng kiến Cu Ba. Tổng kết năm Việt Nam đem lại một vấn đề, một sáng kiến, một công tác mới, một thành tích mới của giai cấp công nhân và Đảng ở Cu Ba.

Trên sân thượng khách sạn Ki-li-man-gia-rô trông ra cảng, chúng tôi vẫn tiếp tục nhận xét với nhau về những trái ngược thấy quanh mình và trong dĩ vãng, từ cái lô cốt cột cờ của người Anh hay người Bồ chơ vơ ngoài kia và câu chuyện cứ như xa như gần, như chuỗi đèn viền bờ biển tít tắp lóng lánh như một vệt sao ven Ngân Hà.

Đảo Pem-ba hùng vĩ trước mắt nom tựa con đồi mồi nổi lưng giữa biển. Cả hòn đảo này sản xuất ra đinh hương, vùng đặc sản lớn nhất, duy nhất trên thế giới. Thế mà không đâu ngửi thấy mùi thơm kỳ dị của đinh hương, ở các quán ăn nhan nhản quanh chợ Đa-ét-sa-lam, trong các thứ gia vị quen, người ta nghiện “mù tạt” Tuy-ni-di và tương ớt Đài Loan. Không thấy thoảng mùi đinh hương trong mật ong, trong miếng trầu têm mời khách, như ở Tân Đê-li, ở A-gra... những nơi phải nhập đinh hương của Tan-da-ni-a.

- Chúng ta đã nói về những trái ngược, khó hiểu, mà thật dễ hiểu. Bởi chúng ta cũng biết rõ cái quyền lực tàn khốc, xảo quyệt không thể lường hết chứ không huyền bí mơ hồ như sức mạnh ông trời của các đạo giáo ở đâu đâu...

Chị Da-la-na nói rồi ngồi im. Có lẽ chị đương nghĩ về những trái ngược lạ đời tương tự ở Ma-ni-la. Phần tôi, tôi nhớ lại hồi nước Pháp thực dân không hề biết mặt cái lá cao su, nhưng những công ty độc quyền siêu quốc gia đã chở cao su sống ở Cam-pu-chia, ở Việt Nam về các nhà máy bên chính quốc, cao su chế ra lốp xe, giày Ba-ta đế kếp rồi tải các thứ ấy sang Đông Dương bán cắt cổ chúng tôi.

Không biết những trái ngược đau lòng này có trong tưởng tượng và khát vọng của nhà văn Mỹ E. Hê-min-uây, nhà văn say mê Đông Phi, đã viết nhiều về vùng đất dữ dội này. Ki-li-man-gia-rô - ngọn núi cao nhất châu Phi và già lão vô dịch trên thế giới, biểu tượng hiên ngang của châu Phi ngày nay. Ki-li-man-gia-rô, tên của khách sạn năm sao đồ sộ trên cảng thủ đô của Tan-da-ni-a mà chúng tôi đương trọ. Ki-li-man-gia-rô , tên một truyện nổi tiếng của E. Hê-min-uây.

Ki-li-man-gia-rô... giữa thung lũng lòng chảo bao bọc những hồ nước lớn, những đồng cỏ cao nguyên phên giậu ngăn vùng đất thiên nhiên dành riêng cho cỏ cây có nước này với cát và nắng sa mạc đằng đẵng Trung Phi, trên biên giới Tan-da-ni-a và Kê-ni-a, trong một dãy núi trọc, trồi cao 6.010 thước đỉnh đá. Từ bên này sông Nin xuống phía nam, cả một góc trái đất, rặt những tảng núi lụ khụ trần trụi, đột ngột, đỏ gắt, xám vằn. Ngước trông lên đỉnh núi Ki-li-man-gia-rô, tôi chợt buồn cười so sánh với cái đầu bạc của E. Hê-min-uây. Các cánh rừng quấn quanh chỏm Ki-li-man-gia-rô cũng ví như chòm râu quai nón của nhà văn, mà trên kia vòm đá đỏ là vừng trán cao lừng lững, những tảng băng mênh mông là làn tóc bạc phẳng lặng. Giữa Châu Phi nóng cháy quanh năm, thế mà đã ba năm nay Tan-da-ni-a chưa có một trận mưa và cả năm không một giọt nước mưa thường cũng không lạ. Những đám cỏ ấy xác xơ ven đường, nhưng đỉnh Ki-li-man-gia-rô lưng trời đã vĩnh cửu triệu triệu năm băng đóng trắng rợn mắt.

E. Hê-min-uây chưa lần nào lên tới ngọn núi Ki-li-man-gia-rô, cũng chưa nhà leo núi nào đặt chân được lên đỉnh núi ấy. Nhân vật tên là Phờ-răng của E. Hê-min-uây mới mạo hiểm vào được chân núi đã bị đau nặng, Tôi không nhớ anh ta bị gãy chân hay kiết lỵ. Ngòi bút E. Hê-min-uây đã cực tả những ngày những đêm ghê rợn trên sườn núi, người ấy nằm đợi chết và đợi máy bay lên thẳng vào cứu. Cùng đi với nhà leo núi, là một người đàn bà. Họ cứ đợi, đợi mãi... Đến lúc hấp hối, người ấy nửa tỉnh nửa mê kể với người đàn bà sau cùng ở bên mình là anh ta đương mơ thấy bay ngang qua đỉnh băng đóng... Ki-li-man-gia-rô, Ki-li-man-gia-rô kia kìa.

Cái ước mơ tưởng tượng tìm thấy điều mong muốn bên ngoài sự sống, triết lý của một nhà văn Mỹ, những năm cuối đời đã bỏ nước sang cư ngụ ở La Ha-ba-na. Ước mơ của E. Hê-min-uây biểu hiện trong sáng tạo như tấm gương soi tỏ những trái ngược mà nhà văn gặp đầy rẫy khắp châu Phi, chính là tấm lòng, cuộc đời và khát vọng trong toàn bộ tác phẩm của E. Hê-min-uây sừng sững như đỉnh Ki-li-man-gia-rô trắng ngần giữa trời nắng chói lói kia.

Tan-da-ni-a một trong “những nước tiền tuyến” đối mặt đương đầu với Nam Phi. Một nhúm tên phân biệt chủng tộc ngông cuồng, một đất nước 25 triệu người bị chúng hành hạ coi là hạ đẳng - cái đỉnh của sự kiêu căng đế quốc và cũng là những cặn bã cuối cùng từ thời thực dân đế quốc Bắc Mỹ, Tây Âu còn rơi rớt lại, như một bêu riếu trước loài người. Còn đối với chúng, thói hung bạo như một thách thức, lại như một vẻ đẹp hoài cổ của một thế lực đã tàn lụi. Nhưng nhất quyết chẳng kẻ nào vùi dập được sức sống con người ở chính Nam Phi, ở Na-mi-bi-a, với sức lực quây quần hỗ trợ anh em ruột thịt Tan-da-ni-a, Dim-ba-u-ê, Bốt - xoa-na, Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la và cả châu Phi cách mạng.

Sự thực và những trái ngược ở Nam Phi khó hiểu lại không khó hiểu khi ta biết từ thời còn mua bán nô lệ cho tới ngày nay, những công ty siêu quốc gia của Mỹ của Anh vẫn đương ngày đêm tối mắt đào bới được nhiều nhất thế giới những vàng, kim cương và u-ra-ni-um ở Nam Phi.

Chúng tôi không phải là khách đến Tan-da-ni-a có tổng thống xách gậy thống chế bịt bạc ra đón rồi duyệt đội binh danh dự để thấy đất nước hùng mạnh. Những ấn tượng lớn lao và trái ngược về Tan-da-ni-a mà tôi có được chỉ bởi những cuộc bát phố, chen vai đi vào chợ, ra cảng và các nơi ăn uống, vui chơi quần tụ. Một vùng phố xá, chợ búa nhộn nhịp rộn ràng mà cứ lặng lẽ như kiểu sinh hoạt người Phi. Dưa hấu, dưa hồng và sọ dừa, cam, chuối chồng chất khắp nơi. Khu dân cư đông đúc bao la vây quanh thành phố thuộc địa còn sót lại góc vườn hoa rườm rà kiểu Anh, một gác chuông nhà thờ Tin Lành, một dinh thự đổ nát ven biển...
Tự dưng, mấy hạt nước mưa lác đác rơi tiếng trầm tiếng thanh trên mặt đường, trên mái tôn như mưa đá mưa lẫn nắng, loáng thoáng bóng mây. Cả thành phố vội vàng bối rối đổ ra hứng mưa. Nhưng giọt nước trời chưa kịp đậu xuống vai, cơn mưa đã tạnh. Mấy năm rồi, chưa khi nào mưa lớn hơn, chỉ có mưa dứ như thế - cái nước trời hiếm hoi đến quái ác ở châu Phi.
Chị Plô-ra, nói chị đến Đa-ét-sa-lam càng nhớ Ma-na-goa đương sôi sục cách mạng, không hiểu tại sao. Còn chị Da-la-na thì vẫn lặng im nghe bạn nói, như thói quen. Tôi biết nói thế nào, khi Ma-ni-la, thành phố quê hương tôi, những tòa nhà cao tầng chen chúc giữa những phố xá nằm ngập ngụa ngổn ngang, lúc nhúc bốn phía. Chúng tôi là chủ vận mệnh đất nước, hay ai, chúng tôi chưa biết.
Không, không, Ma-ni-la của chị Da-la-na. Man-na-goa của chị Plô-ra, Hà Nội của tôi, Đa-ét-sa-lam của các bạn, nhất định thế và sự thực thế rồi - số phận và con đường mỗi dân tộc đương phát triển ở châu Phi, châu Á, ở Trung Mỹ giữa những thế lực giằng co, ánh sáng và bóng tối, địa ngục và hạnh phúc. Ở Cu Ba, Đảng của giai cấp công nhân đã đem đến một quang cảnh rực rỡ còn hiếm thấy trên trái đất, người da đen, da trắng, da đỏ, da màu hoàn toàn bình đẳng với tư cách chủ tập thể. Nhưng ở Nam Phi, lại Nam Phi đẫm máu và nước mắt, cũng người da đen ấy đã bị cấm ở chung phố với người da trắng, ai chống lại sự sỉ nhục ấy đã bị giết bị bỏ tù cả đời, có người bị giam liền 23 năm, như Nen-xơn Man-đê-la và còn đương bị giam.
- Nhưng các dân tộc ở Nam Phi đã quyết tâm chiến đấu.
- Nhân dân lao dộng Phi-lip-pin đương làm cho thế giới biết đất nước 900 hòn đảo xinh đẹp giàu có ấy của ai.
Chị Plô-ra nói:
- Việt Nam đã ngót nửa thế kỷ đánh giặc. Tấm gương Việt Nam. Chúng ta có tấm gương Việt Nam.
Các đất nước chúng tôi đã trỗi lên từ những bến bãi những con sông, những cánh rừng dài rộng nhất của trái đất. Dù bọn đồ tể Bô-tha ở Nam Phi, dù đế quốc Bắc Mỹ xảo trá hung hãn đến thế nào, chẳng qua cũng chỉ là những thủ đoạn vô vọng cuối cùng. Cả chính nghĩa thế giới đã đứng lên rồi.
Chúng tôi vẫn đương đi trong những khu phố lao động đông vui của Đa-ét-sa-lam. Mỗi nhà, mỗi góc phố, quanh các cổng chợ, sọ dừa, và cam chất thành gò, những xe tải chở ngô chạy đuổi nhau liên tiếp. Những cánh đồng ngô ngoài kia, đất hạn triền miên, giống ngô cũng phải thích ứng với thời tiết mà trổ ra sức sống, như giống ngô hốc đá trên cao nguyên Đồng Văn - cây ngô thấp loắt choắt, ở đây cũng thế, mỗi cây hai ba bắp hạt chắc, tròn xinh.
Chúng tôi đã ra tới ven biển. Gió khua ào ào trên hàng dừa.
Trong bóng mát gốc dừa tấp nập mọi công việc nhà chài, nhà thuyền. Những tấm lưới vàng hây phơi giăng kín các gốc dừa. Các cụ già, các chị xúm xít quanh những đống vỏ dừa đập giập bện thành chão. Từ thời xa xưa, ở châu Phi, người đi sông nước đã biết chỉ có thừng chão bằng vỏ dừa mới chịu được độ mặn nước biển.
Chiếc thùng tôn to tướng như cột tàu giữa khói um. Người ta sửa soạn bữa ăn trước khi ra khơi. Những người đàn ông cởi trần đen bóng, từ dưới thuyền vừa ghé, đội lên những bao bì cam vàng ối. Đương mùa cam, từ ngoài các đảo Pem-ba, Ma-phi-a, cả đêm thuyền cam nối nhau ghé vào đất liền trước gốc dừa. Mỗi dãy tàu đại dương trắng bạc mờ mờ đậu cạnh những con thuyền cổ sơ. Đấy cũng là hình ảnh vừa trái ngược lại vừa hài hòa, hình ảnh thiên nhiên và con người giàu có của những đất nước đương phát triển.
Đi đâu cũng không quên được cả nước Tan-da-ni-a múa hát, múa và hát châu Phi bộc lộ niềm tin mãnh liệt và lòng khát khao yêu đời.
Châu Phi đen - tôi đương đi vào giữa thế giới đen, trung tâm đen của những vùng đen. Đâu đâu cũng tiếng trống, tiếng hát và bừng bừng. Trên bãi cát bờ biển, giữa vườn cỏ dinh tổng thống.
Ngay bên đường chúng tôi đương qua, một người khuỳnh gối vần nghiêng mặt trống. Cả cái tang trống và tiếng trống cỡn lên dưới bàn tay kỳ dị chập chờn vả xuống mặt trống. Tiếng trống rầm rộ gọi tất cả các cô gái khắp bãi đến nhảy quanh tiếng trống. Những làn sóng ngực, sóng lưng cuồn cuộn, những tiếng đánh lưỡi đồng loạt, ngỡ như tiếng lạc đà gọi đàn quạ sa mạc.
Ôi mầu đen, mầu đen của huyền diễm bờ Ấn Độ Dương. Tiếng trống, trống cái, trống con, tiếng trầm tiếng đục bật ra nơi bàn tay, ngón tay, cùi tay. Châu Phi rừng rực trống và múa. Tiếng đánh lưỡi lại nổi lên như đàn ngựa đàn lạc đà hý rầm rập qua sa mạc.
Chị Da-la-na, công nhân dệt ở Ma-ni-la, chị Plô-ra, công nhân ngành luyện kim ở Ma-na-goa - quê chúng tôi ở những nơi hai đầu đại dương, chúng tôi đến Đa-ét-sa-lam những đêm những ngày trong tiếng trống và trong những cơn múa châu Phi. Phút chốc cảm nhận được sự cảm thông sâu xa - những đất nước và con người khao khát đương vùng lên.
Tô Hoài
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Hạnh Hạnh Hạnh cho tên mình là một sự mỉa mai. Trong hơn hai mươi năm mang cái tên ấy, chàng không một lần nào gọi là gặp may, mà cũng c...