Ký ức phiên lãng 5
Gặp từ Bra-ti-sla-va...
BRA-TI-SLA-VA rộn ràng khác mọi ngày, những buổi chiều cuối
tuần vào mùa đông. Bến xe buýt ở Sê-néc cách trung tâm hơn hai mươi ki-lô-mét,
lố nhố người đeo súng săn, vai khoác hai ba con gà gô, con mòng cổ dài. Biết đấy
là chiều chủ nhật, thứ bảy - những ngày nghỉ trong tuần và thế là đã bắt đầu
mùa đông, cũng bắt đầu mùa săn ở những cánh rừng ngoại ô.
Những thành phố cổ châu Âu, dù hôm nay đương nhộn nhịp những
bước hiện đại, nhưng người ta vẫn thích giữ cho được kiểu cách xưa mà chỉ ở đấy
mới có. Một góc phố, một ngõ hẻm, những lề lối nền nếp mà mang hình ảnh một lịch
sử, một quãng nào đó của nền văn minh Địa Trung Hải vốn phát triển sớm và liên
tục - mỗi dân tộc ở quãng đất nước ấy trên trái đất, triền sông, con đường, bến
nước, cách sinh sống của con người, gắn bó một vẻ riêng.
Những cái khác nhau của mỗi thành phố.
Đứng ở cổng thành Bren-đen-bua, nhìn sang góc Béc-lin bên kia
- phần đất các nước Anh Pháp Mỹ chiếm đóng. Thấy mờ mờ một cảnh trớ trêu. Hai
bên thành phố rầm rộ trong tốc độ công nghiệp đến chóng mặt, bỗng chợt hẫng đi.
Đây ngày trước là quãng đường liền. Không thể tưởng được sự chia cắt nham nhở đến
thế - lạ lùng đến nỗi cảm như thấy đấy mà là hư không.
Ở Bra-ti-sla-va, khác hẳn. Sông Đa-nuýp đương mùa kiệt, quãng
ấy nước chảy nghiêng xiết gờ đá. Cây cầu lớn bắc qua sông, trên đỉnh một nhịp
có một quán cà phê treo vắt vẻo, lơ lửng. Ngồi trong phòng ấm, nhấm tách cà phê
pha rượu mạnh Bô-rô-vích-ka, nhìn ra cánh cửa sổ mở thấp xuống ngang chân, thấy
nước Áo ngay trước mặt.
Không biết đấy là khói sóng hay làn sương cuồn cuộn trên rừng
bạch dương về phía nước Áo. Một đoàn tàu đương qua cầu. Đường xe lửa từ
Bra-ti-sla-va sang Áo, năm mươi ki-lô-mét đã vào thủ đô Viên. Mỗi ngày, tám
chuyến đi về giữa hai thành phố bờ sông Đa-nuýp.
Không chút nào cảm thấy đây địa đầu hai đất nước khác nhau -
như mấy người nhà báo ngồi ở Hoa Thịnh Đốn, ở Pa-ri hàng ngày ra rả nói mò về
những “bức màn sắt”, “bức tường” ở nơi địa đầu này. Chính nghĩa cứ tự nhiên như
những con tàu hàng ngày chở khách Bra-ti-sla-va đi Viên, như những chiếc ô tô
du lịch, nóc xe chật ba lô, tăng bạt, gậy trượt tuyết - người châu Âu đi Tiệp
Khắc chơi mùa đông, ô tô nối hàng cạnh những cột mốc, biển chỉ đường, cây đèn
vàng đèn xanh, ba-ra lằn đỏ lằn trắng trên con đường tiêu chuẩn châu Âu từ Áo sang
Tiệp sáu làn ô tô chạy một lượt. Ven đường có bãi cho xe nghỉ dọc đường, những
cái “mô-ten” êm ấm như những tổ chim xinh xinh trong cây. Người du lịch các nước
vào Tiệp Khắc không biết dừng chân. Đến đây lại háo hức đi nữa.
Vâng, từ Bra-ti-sla-va, bên Slô-va-ki sang Áo, đi đường kia,
ai cùng đi đường ấy gần nhất. Đoàn tàu và những chiếc xe du lịch gia đình mải
miết qua. Tôi tựa cửa sổ quán cà phê trên nhịp cầu sông Đa-nuýp nhìn ra. Mỗi
toa tàu xanh rờn như một cành thông tuyết đem vào Nô-en. Những chiếc ô tô du lịch
lại nhộn nhịp nối đuôi vào lòng cầu...
Một vẻ riêng đáng yêu của Bra-ti-sla-va.
Từ cửa rừng ở Sê-nec vào giữa thành phố, lại khác nữa. Đường
phố đã mọc lên những rừng thông Nô-en mà từng đoàn xe tải còn đương đưa thêm
vào. Ở khe cửa mỗi nhà, đã dựng sẵn. Trước nhà hát thành phố, một cây thông lớn
mà trông cành cắt mới biết cây vừa cắm. Người ta đem về màu xanh cây giữa mùa
đông trắng xóa. Có phải Nô-en là cuộc tiễn đưa nỗi nhớ màu xanh và hình như
mong ước và đợi chờ bao giờ cũng làm cho tấm lòng thiết tha hơn.
Tôi không được biết mùa nào khác ở đây hơn là những buổi tối
êm đềm vào mùa này mà tôi tưởng ra thế cũng nên. Nhất là vào những hoàng hôn,
ánh tuyết non lẫn với bóng chiều lóng lánh như nhảy múa. Tưởng như suốt trên mặt
đất lúc này đâu cũng một màu vàng tuyền như thế. Một chiếc lá phong còn sót lại,
bảng lảng bay.
Muc-ka, bạn tôi bảo:
- Anh thấy chiều mùa đông của Bra-ti-sla-va chúng tôi thế
nào?
- Tôi chưa thấy ở đâu thú vị như thế.
- Thành phố chúng tôi có những thói quen lâu đời, thói quen
thưởng thức những buổi chiều vàng cho đến khi tối hẳn.
- Hay lắm.
- Bra-ti-sla-va xưa nay được tiếng nhiều quán rượu - nhiều hầm
rượu rất cổ thì đúng hơn. Những bợm rượu, sâu rượu, người uống và ngẫm nghĩ thường
ưa ngồi nhấm nháp ở chỗ tôi tối. Bởi vậy, những cái quán trong hầm của
Bra-ti-sla-va đã được nhiều người biết đến. Hai bên sông Đa-nuýp quãng này, bên
Đức, bên Áo hay bên Hung, từ bây giờ, người các nước ấy kéo đến không biết biên
giới là đâu nữa. Tối thứ bảy, chủ nhật ở đây thường đông hẳn lên là vì thế. Ngồi
trong những hầm rượu âm u trong lòng đất bên tường thành bờ sông mà nhìn ra cửa
sổ thấy được hoàng hôn như ánh trăng.
Rồi Muc-ka mỉm cười:
- Chúng ta sẽ tới một nơi ấy.
Quán rượu cũ kỹ này có cái tên ngộ nghĩnh: Ông cố đạo .
Cái tên cợt nhả, chẳng biết ai đã nghĩ ra để trêu ghẹo hay vì một câu chuyện chọc
tức. Ông cố đạo vào hầm uống rượu vụng rồi thành chuyện hay đã có ông cố đạo
chơi bời mở quán trong hầm này - không ai biết. Tôi hiểu thêm cái thú tiếu lâm
rất hóm của người Slô-vắc. Bởi đây cũng chẳng gần một nhà thờ nào.
Hầm rượu... Ông cố đạo ở bờ sông Đa-nuýp. Có thể
dòng sông mùa cạn đương chảy dưới cửa sổ mà người ngồi trong hầm không trông thấy,
nhưng từ mặt nước hắt lên ánh nắng và ánh tuyết mỏng mảnh, khiến những vòng cửa
kính tròn càng vàng rợn hơn.
Bậc đá đen ngoắt ngoéo, như lối xuống móng tường hang hốc những
tòa lâu đài, những nhà thờ ở Ô-đét-xa, ở Ki-ép từ thế kỷ trước. Trên góc khuất,
một ngọn đèn treo rủ, tù mù một cách cố ý. Người đi xuống không nhìn rõ mặt
nhau. Ánh hoàng hôn hắt vào, chỉ thấy bóng người nhấp nhô lên bậc xuống bậc. Đến
một đường thuốn dài, lườn gạch uốn đợt đợt ngay trên đầu, như đi trong bụng cá
- phòng chính của quán rượu.
Mỗi bàn thắp một ngọn nến. Khách ngồi trên những mẩu gỗ ngất
ngưởng. Cũng không biết đấy là ánh nến chập chờn hay đấy hãy còn là bóng chiều
ngoài kia rớt vào.
Khách đều là những người đứng tuổi. Những người đàn bà nạ
dòng mà kiểu tóc hợp với khuôn mặt bắt đầu võ vàng là mái tóc ngắn cúp xuống
hai mang tai. Những người đàn ông ngồi cứ để nguyên chiếc mũ dạ đội hơi lệch
nghiêng. Tẩu thuốc chốc lại lập lòe trên những cốc rượu vang bày ràn rạn. Hầu
như thói quen lúc mới xuống hầm ai cũng ngồi uống và trầm ngâm thế không biết đến
tận lúc nào mới bén chuyện qua lại, quán bắt đầu ấm và rì rào.
Nếu biết được gốc gác những khách đến đây, người ta có thể
còn ngạc nhiên hơn (hoặc vẫn thấy cũng là bình thường, tùy theo suy nghĩ mỗi
người). Tôi mới biết xưa nay người châu Âu cũng hay chuyển dịch nơi làm ăn sinh
sống nhiều. Thế ra nghĩ về châu Âu định cư là nhầm. Mà không phải người châu Âu
chỉ tha hương sang Bắc Mỹ, Nam Mỹ hay châu Đại Dương, mà người châu Âu còn lang
thang quanh quẩn trên các triền sông, các cánh đồng khắp châu Âu. Vì nghèo khó.
Vì các triều đại loạn lạc. Từ bao giờ không biết. Các dân tộc vùng giữa châu Âu
càng lưu lạc nhiều. Phía bắc Rumani, cả vùng Cờ-lu, toàn người Đức, người Hung.
Nước Ba Lan, nước Tiệp Khắc, nước Đức, nước Áo... đã mấy lần bị các cuộc chiến
tranh xóa tên trên bản đồ. Người ta phải ra đi, như chim đàn, chỗ nào tránh được
tai nạn rét, chỗ nào kiếm ra cái sống, ở đâu có ấm no thì tụ lại. Đã mấy đời rồi,
không rõ gốc gác ở đâu.
Bra-ti-sla-va trên sông Đa-nuýp của Liên bang Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Tiệp Khắc, giáp nước Áo và Tây Đức, đã là một nơi đô hội khá đậm màu
sắc tứ chiếng như thế. Người Sec ở Nam Tư, người Ru, người Áo, người Đức, cả
người Pháp, người Ý đã lâu đời đến ở thành phố này.
Cùng bàn chúng tôi, một người đàn ông Ru và một người đàn bà
Áo. Chen vai sau lưng, mấy người Tây Ban Nha. Chị Mi-lô-sla-va làm y tá. Anh
chàng Ru, nghề kế toán. Mấy người Tây Ban Nha, công nhân nhà máy bánh mì. Những
người và những nghề nghiệp quen thuộc, lúc nào cũng có thế gặp trên đường. Người
ta có cái thích vui tụ họp ở quán. Mọi người ưa uống vang hoặc vang pha rượu mạnh
Bô-rô-vích-ka, một thứ nước quả trên núi Ta-tra, có mùi thuốc như lá cô-ca.
Chiều vẫn còn bảng lảng trong bóng sương mờ vàng ố ngoài kia.
Trên đồi, đài kỉ niệm quân giải phóng Tiệp Khắc và hồng quân Liên Xô đã sáng điện,
như một bó đuốc lên lưng trời.
Mảnh trăng non mọc phía trời nước Áo.
Tôi hỏi Ly-ních người Áo, công nhân nhà máy thủy tinh.
- Quê anh ở vùng nào bên nước Áo?
- Cách đây năm mươi ki-lô-mét, ở ngoại ô Viên thôi mà.
- Sang ở Bra-ti-sla-va lâu chưa?
- Bố mẹ tôi đến đây từ khi tôi được bảy tuổi. Năm nay tôi sáu
mươi, tôi về hưu tháng sau.
- Có thể được nghỉ ngơi, anh trở về nước Áo?
Anh cười:
- Chỉ cách có một dòng nước. Tôi vẫn về chơi bên ấy luôn.
Nhưng Bra-ti-sla-va đã là quê mình rồi.
Anh chàng Ni-cô-lai, người Sec gốc ở Ma-xê-đoan:
- Nếu về Ben-grat, cũng phải đi làm mới có bánh ăn. Thế thì ở
Bra-ti-sla-va mình quen thuộc hơn nhiều.
Anh bạn Tây Ban Nha công nhân bánh mỳ nói:
- Thường những người Tây Ban Nha nghèo hay di cư đi quanh Địa
Trung Hải hoặc sang Nam Mỹ. Nhưng bố mẹ tôi lại tìm đến sông Đa-nuýp và theo
dòng đi ngược lên đây. Không hiểu tại sao?
Gần đấy, mặt bàn óng ánh chai vang và rượu vốt-ka Ba Lan. Có
bốn người gốc Pháp. Cũng dễ nhận được vì những bộ ria rậm cong ngoắt, như ria
ông Mô-pat-xăng. Họ làm nghề phiên dịch. Những nét mặt thờ ơ nghe một người kể
chuyện hè vừa rồi đi xe lửa về chơi nước Pháp. Sao tôi thường có cảm tưởng những
người phiên dịch nhà nghề ở đâu cũng có những nét không-cần-đời và một dáng lạnh
lùng giống nhau. Người kể chuyện vừa đi chơi nước Pháp về tự giới thiệu tên là
Vích-to Khô-va-niêc rồi đưa cho tôi xem một cuốn tiểu luận chính trị mới phát
hành ở Pa-ri, tác giả là tổng thống Gút-sta Đet-tanh. Ông tổng thống nước Pháp
bàn về chủ nghĩa Mác. Ông nói như đùa, ông nói chủ nghĩa tư bản đương vào vòng
đua với Chủ nghĩa Cộng sản. Ông kể ra có đến hàng mấy chục cách ganh đua làm
giàu của các công ty liên hợp trên thế giới. Và ông quả quyết ông sẽ được cuộc.
Kể ra, cứ cái việc chúng tôi xem quyển sách của ông tổng thống nước Pháp nói lý
lẽ về Chủ nghĩa Cộng sản ở trong hầm rượu. .. Ông cố đạo thành
Bra-ti-sla-va xã hội chủ nghĩa cũng đã là quang cảnh đáng tiếu lâm lắm rồi. Mấy
bạn Pháp ấy có thể quê cũ ở cảng Mạc-xây.
Những người quanh tôi đều là công dân Bra-ti-sla-va. Rồi đây,
đời con đời cháu họ vẫn là người thành phố này - đất lành chim đậu. Nhưng vẻ
riêng của họ vẫn có cách khác thường. Mà chỗ gặp nhau ở cái quán hầm rượu… Ông
cố đạo trên bờ sông trông sang nước Áo này cũng là một nét vui, nét bâng
khuâng của cái khác thường ấy. Họ chẳng có thói quen lang bạt không biên giới của
người Di-gan. Họ cũng không bao giờ khắc khoải nhớ đất quê mơ hồ như những người
Do Thái trôi dạt. Nhưng mà ở địa đầu một thành phố biên giới vẫn cứ là một cái
gì khơi gợi.
Tôi nhớ năm trước trên sông Mê Kông ở Viêng Chăn trông sang
huyện lỵ Xi-xiêng-mai tỉnh Nọng Khai. Các bạn bảo một dãy chi chít nhà bên mép
nước ấy toàn nhà bà con Việt kiều. Những người Việt sang Thái Lan làm ăn đã từ
mấy đời. Các bạn kể trong phố ấy có nhiều nhà sàn lửng và nhà bè có cửa sổ mở
trông ra sông, đấy là những quán hàng mà Việt kiều hay ra đấy tụ hội. Một dòng
sông, nửa bên này đất Thái, nửa dòng bên kia cũng chưa phải quê mình, nhưng cái
biên giới không ai bao giờ trông thấy được cụ thể có đánh dấu thế nào vào cuộc
đời một người không ở nơi mình được sinh ra. Cái đó thực khác mà lại rất bình
thường đối với một con người lưu lạc - thứ tình cảm nơi sông hồ. Hay đấy cũng
chỉ là những nghĩ ngợi miên man của chính mình đã có khi dừng chân những nơi ấy
mà thôi.
Ngoài cửa sổ thành phố trên đồi, đường lát đá từng bậc lên.
Chiếc đầu tàu điện cũ. Nhà. Lò sưởi. Mái ngói. Tất cả đều cổ xưa. Trung tâm
Bra-ti-sla-va cổ mà thật mới, đẹp hơn nhiều thành phố hiện đại khác ở dáng dấp ấy.
Mùa đông lặng lẽ tới, tuyết sa lần lần, mà những rừng thông xanh đen vẫn kiên
trì. Con sông và thành phố, nghìn năm dòng sông Đa-nuýp vẫn qua giữa thành phố
có vịt trời bơi đầy mặt nước, có những con chim mỏ trắng phau trong sương mù hiện
ra cho trẻ con tung bánh mì, chim xúm lại cướp mồi ở giữa trời. Trời âm thầm
như áp Tết ta. Các làng trong rừng thông và cánh đồng ngoại thành, cả đất nước
mơ màng trong làn tuyết mới trắng tinh.
Quán càng khuya càng bộn lên, người chen chúc kín lòng hầm.
Các bàn cứ rôm rả bốc chuyện. Những câu chuyện râm ran, người ta hay nói chuyện
ngày trước và ở nơi khác. Những người có tuổi đều có một ngày xưa ám ảnh, ngày
xưa buồn ngày xưa vui. Ngày xưa ở Bu-ca-rét có cửa hàng bán món ăn toàn các thứ
cá, có hàng chỉ bán cho khách đàn bà, không biết bây giờ thế nào... Ngày xưa
táo ở Viên to và ngọt, tiếng đồn sang tận Pa-ri, bây giờ táo Viên tạp giống rồi.
Ngày xưa, ngày xưa...
Đên nửa đêm, mọi người đều ra nhảy và hát ngay ở các lối đi đầu
bàn. Tiếng Đức, tiếng Slô-vac, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Ý..., những
bài hát dân ca xôn xao lên. Các thứ tiếng chen nhau trong lòng hầm lung linh
ánh nến. Cũng chẳng ai nghe tiếng ai hát.
Một vẻ không cắt nghĩa được của những con người quê gốc ở xa
đến ở đây. Cuộc sống Bra-ti-sla-va bây giờ dễ chịu, chẳng ai còn muốn rời đây
đi đâu. Mỗi ngày tám chuyến tàu qua lại nước Áo và thông thống đường ô tô, lúc
nào cũng đi được và người ta vẫn về quê chơi. Những người bình thường, mỗi người
mỗi công việc, chỗ nào có yên ổn, người ta ở, người ta đến và đấy là quê.
Bra-ti-sla-va quê mình, dù là người Pháp, người Tây Ban Nha. Nhưng mà cái bâng
khuâng mà người ta cứ thích đến mua vui ở nơi địa đầu sông nước - như ở hầm rượu... Ông
cố đạo trông sang nước Áo đêm nay.
Tôi hỏi Muc-ka:
- Anh cũng là người gốc Hung?
Muc-ka cười. Lúc ấy, một người đến làm quen với chúng tôi. Đấy
là cô Di-gan có nước da ngăm ngăm, miệng và mắt cười đẹp tuyệt. Mỗi buổi sáng vội
đi đâu chúng tôi thường xuống ăn ở “bit-trô” 1 , nơi cô ấy đứng bán.
Muc-ka nói:
- Cô bạn chúng ta cũng ở Sê-néc.
Nhà Muc-ka ở thị trấn vệ tinh Sê-néc. Tôi biết ở Sê-néc phần
nhiều là người gốc Hung. Bây giờ lại biết có cả người Di-gan. Muc-ka vẫn chưa
trả lời câu tôi hỏi.
°
° °
Tàu hỏa đưa tôi trở lại Pra-ha trưa hôm ấy. Tôi lại nghĩ hay
là những điều tôi tưởng ra về những người công dân Slô-va-ky gốc Pháp, gốc Tây
Ban Nha, gốc Hung... chỉ là những mơ màng của tôi. Trong đời tôi vì tình cờ mà
có những ràng buộc tình cảm, những kỉ niệm ảm đạm thời ấy, với đất nước này.
Đến nước Tiệp Khắc, đôi khi tôi bồi hồi trở lại nguồn cơn những
cái nghĩ, cái nhớ về những xa xưa hiu hắt một quãng đời người. Nhà giày Ba-ta ở
nước Tiệp Khắc và cái “ông chủ Tây Tiệp” của tôi ngày trước. Ông Tây Tiệp! Ông
Tây Tiệp và cái người đi làm cho nhà giày Ba-ta ở tít mù tận Hà Nội ngày xưa -
vâng, lại chuyện ngày xưa, ngày xưa anh ta chỉ trông thấy những hòm đựng giầy dỡ
ra, những đôi giày, các thứ giày mà ngỡ như cả nước Tiệp Khắc tận đẩu tận đâu
chỉ có những ông chủ Tây Tiệp và một mùi da bò, da cừu, mùi than đá, mùi cao su
hăng hắc như thế. Tôi vẫn phảng phất cái cảm tưởng ngẩn ngơ và thương tâm ấy.
Hôm trước tôi đã vào nhà máy Ba-ta cũ ở Pác-ti-da-na.
Pác-ti-da-na trên đường tôi tới thành phố Ban-ka Bi-tri-ca hôm ấy. Không phải
chỉ có một nhà máy giày da mà đây là một trong những thành phố kỹ nghệ giày da
của Tiệp Khắc. Miền Mô-ra-vi có những thành phố giày da, nhà máy làm giày và
các nhà máy phục vụ sản xuất. Tất cả các khu phố, nhà ở, chợ búa, các cửa hàng,
nhà hát, nơi vui chơi công cộng, mọi sinh hoạt đều chỉ có công nhân và gia đình
- thành phố người thợ giày.
Ở cửa vào câu lạc bộ, một đám công nhân xúm xít xem những tập
ảnh giới thiệu các khu nghỉ đông trên núi Ta-tra biên giới Tiệp - Ba Lan, vùng
nghỉ Si-nai-a bên Rumani trong dãy Cac-pat, ở U-krai-na... Những người thợ nghỉ
đông đương chọn nơi đi chơi trượt tuyết.
Nhà máy giày da ở Pác-ti-da-na, của tư sản Ba-ta chỉ mới xây
dựng thêm năm 1940. Nhà máy hồi ấy, ngày nay đã trở thành cơ ngơi đồ sộ, một thành
phố nhà máy.
Pác-ti-da-na nghĩa là du kích, thành phố du kích. Tên mới của
thành phố mãi mãi gợi lại lịch sử và truyền thống thành phố công nhân chống
phát xít. Trong suốt cuộc chiến tranh, có tới trên ba nghìn công nhân đã trở
thành chiến sĩ du kích. 142 công nhân nhà máy đã hi sinh, tên được khắc trên tảng
đá lớn dựng trước cổng. Năm 1945, thành phố giải phóng, những công nhân đã bỏ
đi, những người bị đầy các nơi, các chiến sĩ du kích công nhân, tất cả trở về
xây dựng lại nhà máy.
Thành phố giày da ở Zlin - bây giờ là thành phố Klê-măng Gốt-van.
Dưới này, nhà máy Ba-chô-va-ni được đổi tên kỉ niệm ngày giải phóng 29 tháng
Tám cùng với tên thành phố mới, thành phố của những người du kích.
Thời trước, nhà máy ở Pác-ti-da-na hơn ba nghìn công nhân,
hàng năm sản xuất 4 triệu giày dép.
Năm 1950, nhà máy mở rộng đợt đầu, công nhân trực tiếp đứng
máy đã lên tới 17 nghìn, làm ra 35 triệu đôi giày một năm.
Rồi nhà máy dựng được một nhà máy công cụ sản xuất ra máy và
sáu nhà máy ở Pác-ti-da-na cùng hoạt động.
Sản xuất phát triển, cuộc sống công nhân thay đổi. Khu tập thể
công nhân trở thành nhà ở cả thành phố, thành phố công nhân. Nhà máy có nhà nghỉ
trong suối nước nóng ở chân núi. Lại có một sân bay cho máy bay thể thao. Hàng
năm, công nhân đi nghỉ xa, đi Bun, đi Ru, đi Nam Tư...
Trường đại học giày da trên thành phố Klê-măng Gốt-van đặt ở
đây một số khoa. Công nhân tốt nghiệp đại học trở về nhà máy. Chẳng phải Tiệp
Khắc chỉ giỏi máy công cụ, có pha-lê, có bia Pin-sen hay nhất thế giới... nghề
giày da độc đáo Tiệp Khắc cũng nổi tiếng thế giới.
Tôi từ nhà máy giày da ở Pác-ti-da-na ra đi. Sáng sớm, người
lên thành phố núi Ban-ka Bi-tri-ca miền giữa Slô-va-ki như đi trảy hội. Chúng
tôi ăn cơm ở quán dọc đường. Chưa thấy ở đâu những hàng quán bình thường mà
đáng nhớ như hàng quán dọc đường ở Tiệp Khắc. Tôi và anh, nỗi nhớ của mỗi chúng
ta theo kỉ niệm của mình.
Quán ăn ấy, quán Chân đèo. Đúng, chân đèo ngay trước
cửa. Chúng tôi uống những chai bia Pin-sen cổ vàng loại ngon nhất Tiệp Khắc.
Quán ăn Chân đèo cũng có tủ nhạc của Ba Lan. Tiếng hát Đa-li-đa trầm
trầm, ngao ngán, ngậm ngùi.
Ma quỉ làm sao, tôi được nghe ở cái quán Chân đèo không
bao giờ còn trở lại này một bài hát cổ lỗ, không thích mà cứ nhớ. Chỉ vì nỗi
đau không bao giờ nén được hay vì tuổi đời đã đến độ hay vẩn vơ với kỉ niệm.
Tôi lại nghe bài hát Đêm Trung Hoa ấy - bài hát trong một phim Nhật
thời phát xít Nhật chiếm Trung Quốc. Bài hát tả nỗi buồn của người lính Nhật đi
chiếm đóng nước người. Bài hát rầu rĩ ấy, hơn mười năm trước, tôi đã nghe đĩa ở
một tủ nhạc Ba Lan như thế này tại một quán hàng trên bè sông Mê Kông ở Phnôm
Pênh, hôm nay làm sao mà lại gặp nó một ngày sương và tuyết bâng khuâng như thế
này ở Tiệp Khắc. Tôi cứ nghĩ như mình có cái vui gặp gỡ và ôn lại - mặc dầu đấy
là cuộc gặp lại tuổi hai mươi tôi không bao giờ còn muốn thấy hình ảnh trở lại
nữa.
Tuyết phơi phới xuống mỗi lúc một dầy hơn. Các trái đồi bên
đường in nét từng nhà màu xanh màu đỏ trong bóng chiều. Nhưng bạn Múc-ka cùng
đi cho tôi biết không phải những xóm mạc ấy xưa nay vẫn ở đấy. Làng này đã bị
phát xít Đức đốt trụi - cũng thời bài hát Đêm Trung Hoa của tên lính
phát xít Nhật giày xéo đất Trung Quốc. Mái nhà và khói bếp chỉ mới lại được thấy
như thế từ khi giải phóng.
Thành phố Ban-ka Bi-tri-ca có gió núi từ thung lũng lùa ra cuồn
cuộn trên sông Hron. Trong căn phòng khách sạn yên tĩnh, tôi xem cuốn phim giới
thiệu những thành phố dọc sông Hron đáng yêu. Cuộc đời con người, mái nhà và
dòng sông từ thuở nào và mãi mãi bên nhau.
Từ Slô-va-ki lên Mô-ra-vi, đoàn tàu đương vào một khoảng trời
mưa nhẹ nhẹ và bóng chiều ấm hơn. Tuyết lại xuống già hơn lúc nãy.
Vừng trăng mỏng mảnh treo ngoài cửa sổ con tàu từ chặp tối.
Trên ga nhỏ sáng trắng ánh điện, một đám người tíu tít bên
tàu. Thoạt trông cũng biết phần nhiều là những người đi chơi tuyết trên núi.
Vào dạo này, khắp nước Tiệp, bến xe buýt, người đi trên đường, xe đạp cuốc, ô
tô riêng, chỗ nào cũng những người gọn gàng tương tự: ba lô trên lưng cài gậy
trượt tuyết. Bộ quần áo thể thao xanh công nhân kẻ sọc trắng. Các chị đội mũ
len chỏm có hoa xanh vắt vẻo. Ngỡ chỉ có mùa hạ người ta mới ưa thảnh thơi
ngoài trời, nhưng hình như tiếng gọi mùa đông lại mang một vẻ quyến rũ riêng.
Thế là ngăn của tôi trong toa xe một mình từ Bra-ti-sla-va đến
đây thêm một người. Bạn ấy đã đứng tuổi, trạc tuổi tôi. Nhưng thật là buồn và
đáng cười, mỗi lúc thoáng trông vào chiếc gương treo trên vách bàn rửa mặt cuối
phòng, cái dáng ốm o nhợt nhạt của tôi càng chỉ làm tôn thêm nước da đỏ săn
trên nét mặt trầm ngâm của ông bạn mới, đĩnh đạc, hàm vuông bạnh cương quyết,
người lực lưỡng to ngang mà người Đức, người Áo hay người Tiệp tương tự nhau một
dáng dấp. Khách vừa lên xếp ba lô vào đầu giường, gài gậy trượt tuyết trong
ngăn để va-li rồi quay sang, tự giới thiệu:
- Ru-đom Gat-pa-rich, giám đốc nhà máy 29 tháng Tám ở
Pác-ti-da-na.
Tôi nắm chặt tay đồng chí ấy:
- A đồng chí Ru-đom...
- Vâng, Ru-đom...
- Tôi đã làm quen với đồng chí rồi
- Tôi chưa được đến Hà Nội lần nào!
- Không, ở nhà máy 29 tháng Tám người ta bảo tôi đồng chí
giám đốc Ru- đom Gat-pa-rich đi nghỉ đông. Thế nào mà lại được gặp nhau ở
đây...
- À ra thế.
Tàu qua những cánh rừng thưa suốt đêm. Buổi sáng, trông ra lại
thấy tuyết vẫn tần ngần xuống. Cánh tuyết mong manh vương lại cành cây, kết
thành những miếng mạng nhện trắng. Trong làng xa, tuyết rơi xếp ngấn quanh mái
nhà. Cuộc sống mùa đông đương vun lại trong những căn phòng ấm áp mà người đi
đường thèm dừng chân ghé vào và muốn được lây vui, khi trông thấy trên cửa sổ
viền những chậu cây xanh và tấm màn đăng-ten trắng.
Chúng tôi nhận nhau là những người cùng nghề và đã có khi
cùng có một ông chủ Ba-ta, “ông Tây Tiệp”.
- Ngày ấy, trên thế giới hầu như chưa ai biết Việt Nam đất nước
tôi ở đâu, thế mà ở Hà Nội tôi biết nước Tiệp Khắc có thành phố thợ giày ở
Zlin.
- Bây giờ tên của chủ tịch đầu tiên Liên bang Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Tiệp Khắc được đặt cho thành phố công nhân ấy của chúng tôi. Zlin bây
giờ là thành phố Klê-măng Gốt-van. Rồi đoàn tàu này sẽ đi qua thành phố Zlin của
anh ngày xưa.
Tôi cười:
- Ngày xưa và trong mơ màng...
- Lúc ấy anh làm gì cho nhà Ba-ta ở Hà Nội?
- Tôi đứng bán giầy.
- Còn tôi lúc ấy là công nhân làm đế giày. Năm 1937, rồi khi
có chiến tranh, thợ cả thành phố lập thành những đơn vị chiến đấu ở nước Tiệp
và cả trên nhiều mặt trận ở châu Âu. Tôi ở lại hoạt động du kích trong thành phố.
Tàu đi dọc bờ sông Đa-nuýp rồi vào Mô-ra-vi đương tơi tả tuyết
rơi. Từ đây tới Nô-en, tuyết dần dần ủ nước Tiệp vào trong tuyết, người ta đợi
như thế.
- Giai cấp công nhân Tiệp Khắc dũng cảm đương đầu với phát
xít Đức. Đó là sự việc lịch sử, chứng tích lịch sử. Những ngày ấy, tất cả bọn
giàu có đã chạy ra nước ngoài. Chúng nó bỏ đi từ lúc thực dân Anh và Pháp khiếp
nhược đã đánh lừa chúng tôi để phát xít Đức có cơ hội chiếm nước Áo, nước Tiệp.
Giai cấp tư sản Tiệp Khắc đã bỏ rơi Tổ quốc Tiệp Khắc.
- Chắc trong số ấy có lão chủ nhà giày Ba-ta của chúng ta.
- Tất nhiên có lão ta. Cả nhà vua giày Ba-ta đã chạy sang
Ca-na-da.
- Ngót bốn mươi năm rồi.
- Con cháu lão ta vẫn kinh doanh và giữ tên giày Ba-ta. Nhưng
không thể lẫn lộn nghĩa được với giày Tiệp Khắc. Bây giờ cả thế giới đi giày Tiệp
Khắc. Anh có để ý không, trong vòng mười năm nay, giày đen mũi nhọn chuyển sang
giày gan gà mũi vuông, đó là những mốt chúng tôi tung ra. Mốt giày Tiệp Khắc được
mọi người đi giày trên trái đất này hoan nghênh. Tất nhiên, bọn Ba-ta ở
Ca-na-da không thể mượn tiếng nước Tiệp mà làm giả giày Tiệp Khắc. Bởi lẽ dễ hiểu:
thợ Tiệp Khắc làm ra giày đẹp chứ chúng nó làm sao đóng nổi, dù chỉ là một cái
đinh đế giày!
Rồi anh bạn tôi cười to, lý thú và hào hứng quá.
Chặp tối hôm ấy, đoàn tàu qua thành phố Klê-măng Gốt-van xứ
Mô-ra-vi thơ mộng.
Ngoài kia, bắt đầu cả mùa đông nước Tiệp Khắc đương lướt qua.
Mặt hồ lấp lánh như những ánh sao rơi trên mặt đất. Tiệp Khắc không có biển, thế
mà vùng Bô-hêm có hơn bảy nghìn đầm nước nuôi cá chép và lươn, quá nửa đầm hồ ấy
là vùng nước nhân tạo. Hồ và những cánh rừng của bàn tay con người làm nên đã
thay đổi cả thời tiết một vùng giữa châu Âu.
Thành phố Klê-măng Gốt-van đương sửa soạn tiệc đêm Nô-en mỗi
nhà. Những cành thông theo phong tục Nô-en vẫn được từng đoàn xe nối nhau đưa
vào thành phố. Nhưng người Tiệp phong lưu bây giờ lại mới có phong tục mới. Nhà
nào cũng muốn bữa cỗ nửa đêm Nô-en nhà mình có món cá chép vảy vàng rán theo
món ăn Pra-ha. Những hồ nước mới đào đã sinh ra phong tục đẹp ấy.
Chúng tôi cứ tự nhiên cùng đứng tần ngần nhìn ra ngoài khung
cửa. Thành phố đã lên đèn. Tuyết và ánh sáng lạ lùng trắng xanh qua cửa sổ
khoang tàu. Con tàu đi trong tuyết và ánh sáng lặng im, tưởng không thật mà thật.
Zlin ngày xưa. Zlin ngày xưa... Cái thành phố Zlin thợ giày ngày xưa trong tưởng
tượng của tôi bây giờ là đây. Zlin trong tưởng tượng của tôi và Klê-măng Gốt-van
thật bây giờ - thành phố thủ đô giày thế giới, thành phố của công nhân giày da
nước Tiệp Khắc là đây.
Tưởng tượng và ước mơ, tưởng tượng và ước mơ... Thật thì anh
thợ học việc Ru-đom làm đế giày năm 1937 bây giờ là giám đốc nhà máy... Thật
thì tôi đương cùng Ru-đom đương đứng kề vai nhau trên con tàu vào thành phố
Klê-măng Gốt-van - thành phố Zlin của thợ giày Ba-ta mà cái thuở đi kiếm ăn ở
Hà Nội năm ấy, tôi tưởng tượng đến như một giấc mơ xanh biếc, một cái gì xa
xôi.
Thật thì tôi đương nghĩ lại
“Ngày lại ngày...
“Tôi vùi đầu ngồi chọn giày trong kho. Tòa nhà nào, bên trong
cánh cửa nào cũng toàn những giày xếp chất ngất lên áp trần nhà. Giày ôi là
giày, mùi cao su, mùi hộp giấy của các loại giày cao su, giày vải, giày đế kếp,
giày nhựa giả cao su, giày da, giày giả da, giày than đá giả da, dầu lửa giả
da, các thứ giày ấy đương dìm người ta chết ngạt trong những nhà kho dài như
con đường hầm tức hơi kín bưng từ bên phố Hàng Khay đâm sang phố Ca-rô. Những
người cu-li nằm ngủ lén trong đống giày chẳng khác những người chết đói trên đống
rác thật. Giày ôi là giày, thế nhưng ở giữa lù lù những núi giày, cái hơi sơn,
hơi da, hơi thuốc kỳ quái và những con số, những chữ lạ lùng, tôi lại nhìn ra
trong bóng mờ mờ ngập đầu, hiện hình những đất nước và sông núi lạ lùng, tôi thấy
thành phố Zlin tấp nập thợ đóng những đôi giầy to phải đến ba bốn người trèo
lên mũi giầy mới khoan được một lỗ kim để xỏ dây khâu, kỳ quái như trong truyện Du
ký Guy-li-ve , thành phố Zlin bên nước Tiệp Khắc xa vời có nhiều khoảng trời
xanh và nhiều cột ống khói phun ra cả những đôi giày.
“Những ý nghĩ và ao ước vừa kỳ quặc vừa đau khổ, những chuyện
thế giới đại đồng rất say sưa thường kể hồi trước, bấy giờ chúng tôi lại ngồi kể
lại với nhau trong cái kho giày tối om” 2
Bây giờ tôi đương qua Zlin, thành phố ánh sáng của giai cấp
công nhân Tiệp Khắc rộn ràng chờ đêm Nô-en. Tôi trông thấy ở một công viên, chiếc
xe tăng số 25 được đặt trên cột đá. Chiếc xe tăng của đoàn chiến xa quân giải
phóng đã tấn công giải phóng Zlin.
Nửa đêm ấy, lại đến một ga nhỏ nào, tôi chia tay với Ru-đom.
Ru-đom, vừa gặp mà như đã anh em từ bao giờ. Nhớ lại, lúc ấy bối rối, vội vã.
Cuộc chia tay thân thiết nào dường như cũng vội. Mà chỉ đến khi nhớ lại người
ta mới càng nhớ thêm ra và cứ tiếc những điều sao lúc ấy lại quên.
--------------------------------
Quán ăn đứng và khách phục vụ lấy. |
|
Tự truyện của Tô Hoài - NXB Văn học 1978. |
Kính chào A-đi A-bê-ba
NHỮNG NGÃ BA
Ngã ba ngã tư ấy của vùng Trung Cận Đông, có gì khác. Những
cái lạ thường của những phương trời khác nhau.
Không giống Trung Á, lẫn rừng hoang với đồng cỏ. Khác Trung
Âu phì nhiêu ruộng như son phẳng lì.
Giữa hai bờ Hồng Hải, bên kia đã hết châu Á, phía này cũng
chưa hẳn châu Phi. Mà châu Âu chỉ còn thấy mờ mờ hơi hướng.
Bay đêm trên Kô-oét, nhìn xuống lỗ chỗ những mồi lửa ống hơi
các giếng dầu đỏ rực. Cô phục vụ báo tin A-ê-rô-phơ-lốt đương đưa quý khách qua
Nam Y-ê-men. Tưởng ra dưới kia, cuộc cách mạng ngặt nghèo, quanh co, khốc liệt
của thế giới Ả Rập và châu Phi đầy cạm bẫy đương diễn ra theo với đường bay.
Xung quanh cảng lớn A-đen, ô ruộng muối, cát trắng và sóng biển.
Vừa lúc nãy, trên U-krai-na, hơi tuyết còn ánh lên trắng
tinh. Bây giờ, tăng cao, bụi nắng mịn như phấn. Cái nắng rưng rưng lên vàng rực.
Những vệt cát mỏng mảnh trải xa đến chân trời, hiện ra những triền núi trơ trọi.
Đầu núi đá nâu sẫm, không một chấm xanh cây, cứ vằn lên như sóng cát. Ngỡ những
núi đá lẻ loi ấy vừa từ hành tinh nào rơi xuống, đứng trần trụi trơ ra đấy.
Có lẽ tới đây nơi chân mây cuối trời, cả đến thiên nhiên cũng
chán chường, chẳng chịu dòm ngó tới, chỉ để rơi lại đôi ba quang cảnh hết sức
bơ vơ: một mép biển, một vùng sa mạc nhợt nhạt, những ống lửa giếng dầu và một
cây chà là xám mờ.
Nhưng cuộc sống con người thì không một phút thờ ơ. Đâu cũng
sôi nổi, cũng tất tả. Đâu cũng chi chít những chứng tích ý nghĩa của lịch sử đời
người.
Thành phố cảng Di-bu-ti trấn đầu ngõ vào Hồng Hải. Người đàn
bà Ả Rập địu con trên lưng, chàng mạng đen che mặt, ngồi tựa tường trước nhà
ga. Ở đất này, vài bước xuống qua vỉa hè đã sang nước khác. Một ông râu vểnh mặc
váy đen không biết người Ả Rập, người Do Thái hay người Cuốc. Đầu quấn khăn trắng
tày vố, hai tay khư khư ôm cái bát điếu, đôi mắt lờ đờ, chiếc xe điếu dài vẫn
ngậm trên miệng. Người ấy sắp đi về Át-ma-ra ở Ê-rít-rê cách mạng hay sang bên
kia với bọn tay sai đế quốc tại Sô-ma-li. Một người đi đường khoác con cừu quặp
hai chân trên vai ung dung bước một, như sắp về đến nhà. Nhà anh ta ở Bắc
Y-ê-men hay Nam Y-ê-men dân chủ nhân dân. Khắp nơi, cuộc sống đương dữ dội thay
đổi.
Chủ nghĩa xã hội đã đến đương đầu với những thế lực già cỗi u
tối ở đất này. Nam Y-ê-men, Ê-ti-ô-pi-a, Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la, suốt Dim-ba-uê
vào Nam Phi.
Những người vào lứa tuổi tôi đến đây tất phải nhớ ngày trước
tàu Pháp sang thuộc địa châu Á, châu Đại Dương phải qua cảng Di-bu-ti. Các nước
công nghiệp phát triển châu Âu đi cướp đất phía Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương
bao giờ cũng qua đây. Di-bu-ti tôi chưa được thấy, nhưng từ thuở nào, bỗng dưng
ở đâu đâu, mà dội đến trong kỉ niệm những niềm cay đắng, những gian truân của số
phận và cuộc đời đất nước mình.
Qua các vùng đất giao tiếp châu Âu, châu Á, châu Phi sôi sục
hôm nay, vẫn thấy được những hôm qua của lịch sử. Không chỉ trong trí nhớ, mà sờ
sờ trước mặt mình thôi.
Đầu đường, có một bà già ăn mày, váy rách như tổ đỉa, ngồi tựa
lưng một con la nhỏ. Mặt và mắt bà lão nhăn nheo như quả trám khô. Đầu bà già
ăn mày ấy đội trùm hụp chiếc mũ sắt viền cạnh đã rỉ. Lính Mỹ, lính Pháp, lính
Anh vẫn đội mũ ấy - đấy là mũ sắt quân đội khối Na-tô. Mũ này bọn chúng nó vứt
đi, ai nhặt được thì đội.
Trên cửa Hồng Hải vào Ấn Độ Dương, bà lão hành khất đội chiếc
mũ sắt của khối quân sự Tây Âu, bỗng nhiên mang một ý tứ sao mà mỉa mai - những
thế kỷ vừa qua, quân lính các nước thực dân phương Tây ấy đã qua cửa biển này
vào cướp của, cướp đất, giết người các vùng Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, châu
Đại Dương.
Thời đại máu vấy mặt bọn giết người - thời đại đáng phỉ nhổ
(mà bọn đế quốc không bao giờ biết xấu hổ với lương tri con người) tưởng như đã
qua rồi thế mà vẫn chưa dứt.
Bà già ăn mày ở cảng Di-bu-ti kia hiện lên cùng một lúc với
hình ảnh ông tổng thống Pháp, bà thủ tướng Anh và có lúc cả phó tổng thống Mỹ,
không biết thế nào là nhơ nhuốc, đã từng đi thăm một vài hòn đảo thuộc địa cỏn
con còn lại trên biển châu Đại Dương.
Khác nào bà già ăn mày ngồi đóng đinh câu rút ở cảng Di-bu-ti
như đề muôn đời phỉ nhổ vào cái oai hùng đã qua của bọn kẻ cướp. Bà già đội mũ
sắt quân đội Tây Âu. Không ai cho bà ăn nữa, bà ốm lắm rồi, sắp chết rồi.
Nắng cứ rực rỡ lên, thinh không càng trong vắt.
Tôi đương vào mỏm sừng Đông châu Phi. Ê-ti-ô-pi-a, cánh diều
bay trên Đông Phi.
MÙA TRONG NĂM ĐẸP NHẤT TRÁI ĐẤT
ĐẾN ĐÂY TRƯỚC
A-đi A-bê-ba - “Đóa hoa mới” của Ê-ti-ô-pi-a nguy nga trên
triền núi En-tô tô.
A-đi A-bê-ba mà tôi được nghe từ thuở thanh niên giữa khi bọn
phát xít quốc tế lộng hành trước Cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Một
hành động dã man đầu tiên của chúng nó đã xảy ra ở A-bít-xi-ni - Ê-ti-ô-pi-a
ngày nay. Phát xít Ý xâm lược A-bít-xi-ni. Hôm nay còn thấy di tích anh hùng của
nhân dân A-đi A-bê-ba tại quảng trường Si-đi Ki-lô - đài kỉ niệm bao nhiêu người
dũng cảm đã hi sinh trong ngày 12 tháng hai 1937 giữa cơn trả thù man rợ của bọn
khát máu, khi tên tướng phát xít Ý Gờ-ra-di-a-ni bị giết chết giữa thành phố.
A-đi A-bê-ba trên núi cao. Cả bốn phía ngoại ô tỏa xuống những
thung lũng cánh đồng. Thành phố cổ kính và hiện đại này đã đứng nguyên trên núi
đá và rừng bạch đàn ở độ cao hơn mặt biển hai nghìn năm trăm thước.
Những đàn quạ mỏ to dữ dội, bay ngược từng đàn lên thành phố.
Rừng bạch đàn đã đốn đi vẫn còn gốc, gốc sùi ra, to xù như đống
đất, nhánh mới lại chồi lên lớn thành cây. Người vác củi bạch đàn lũ lượt đi với
những con lừa nhỏ chở củi cành vào các phố.
Những bông hoa dó trắng nở tròn trước cửa nhà như ngù hoa cẩm
cù. Những cây vạn tuế to cao khác thường bằng cây dừa lửa, gốc vừa hai người
ôm, xòe lá che dọc đại lộ thông cù. Những cây xương rồng lực lưỡng, hoa tím li
ti nở. Trên bờ rào gỗ vườn nhà ai nhô lên một nhánh hoa lau xám mờ. Những hoa
loa kèn trắng - màu trắng, màu đẹp nhất đất nước.
Mùa xuân đương đến khắp Đông Phi. Hoa trắng bạt ngàn khắp
nơi, thành phố, cánh đồng, sa mạc, đem niềm vui đến những con người đương thay
đổi. Cách mạng đã đến châu Phi biết bao đau khổ lưu cữu từ nghìn đời đọng lại.
Tôi thấm thìa thông cảm với Ê-ti-ô-pi-a trong cảnh xúc động đến rưng rưng nước
mắt, khi trông lên tường phố thấy những áp-phích viết tay, những áp-phích in
máy vẽ hình búa liềm với hàng chữ: “Chủ nghĩa Xã hội muôn năm! Nhân dân
Ê-ti-ô-pi-a muôn năm!”. Chữ đẹp như múa, như mùa xuân đến xóa đi, lau đi những
giọt nước mắt. Trông ra cây bằng lăng hoa tím, tưởng con chim gì líu lo rồi một
đàn chim gáy hiền hòa bay qua. Hoa hồng đỏ, hoa loa kèn trắng và niềm yêu thương
đem đến những ngày đẹp nhất trong một năm từ phía nam địa cầu lên.
Mùa xuân đương về khắp châu Phi. Cách mạng đã đến trong đau
thương và trái ngược như số phận và cuộc đời con người ở đây. Cuộc chiến đấu giằng
co đến từng căn nhà vách đất loang lở, tối thui, có những em bé đôi mắt trắng
xanh đứng thập thò. Khách lạ đi qua, các em vừa ngượng nghịu vừa mạnh dạn bước
ra, giơ bàn tay nhợt nhạt vẫy theo.
Những mái nhà lợp lá vạn tuế xám ngắt bên những tòa nhà kiểu
mới. Con la cắm cúi thồ trên lưng những bó rơm, bó củi, những cái hũ sành, đi
chen với chiếc xe Méc-sơ-đét, chiếc Phi-át, lẫn lộn trong đám người lam lũ trên
đường phố - những người hốc hác như vừa thoát từ nhà ngục nào ra, quần áo rách
bươm, khoác trên mình mảnh vải choàng “chen-ma” trắng đã ngả màu cháo lòng.
Tiếng nhạc ngẩn ngơ phảng phất. Gợi lại thuở hồng hoang Kinh
Thánh (Kinh Cô-ran) từ khi thành phố này vừa thành hình, những người đầu tiên
đi bộ - đến tận bây giờ đến đây, qua thác suối Am-bo lên hồ trên núi
Đơ-brơ-gie-ít rồi xuống sông Nin Xanh.
Phía đông bắc thành phố, chợ Méc-ca-đo sầm uất nhất châu
Phi. . Cạnh gian chợ kiểu mới, la liệt những lều vách lá. Đàn cừu lũ
lượt, chen chúc dưới những mái lợp tôn.
Người Ả Rập ưa màu đen - choàng mặt đen, váy áo đen. Buổi
sáng Bát-đa, những người đàn bà váy áo toàn đen ngồi ngẩn ngơ đầu ngõ. Nhưng
châu Phi mênh mông lại yêu màu trắng - màu sa mạc và khoảng trời...
Chợ Méc-ca-đo bán nhiều vải, nhiều chuối. Nhưng ớt đỏ, ớt
vàng còn nhiều hơn. Đầy rẫy người lê la không công việc, như ở mấy góc đường đầu
các chợ Sài Gòn hồi mới giải phóng, mà còn đông gấp mấy nữa. Châu Phi gian khổ
đến cùng cực, thế mà tất cả những xa hoa cho ai ở đâu vẫn kè kè bên cạnh. Trong
cánh đồng, người ta gieo kê, chọc lỗ vảy hạt, nhưng các đồn điền ngay cạnh đấy,
đều cày máy. Quần áo người trong làng mặc kỳ cùng đến rách không biết vá. Nhưng
những khách sạn sang trọng, khách sạn A-đi A-bê-ba Hin-tơn mà người Mỹ còn quản
lý, vẫn nhởn nhơ thế mặc dầu trước cổng đã có trạm gác của dân quân. Mai kia,
những đài trang tráng lệ ấy sẽ là của chúng ta, của con em chúng ta. Cuộc chiến
đấu đã bắt đầu. Đây bắt đầu châu Phi trẻ, đây cũng là mắt xích đầu tiên đế quốc
tan rã ở Đông Phi.
Các nhà hàng lớn rải rác đường phố núi. Ghi-on, Hin-tơn
A-phi-ca, Rát...
Thành phố A-đi A-bê-ba trên một vùng núi gần kề châu Âu đã được
các hãng xây cất khách sạn quốc tế chú ý từ lâu. Trong khi châu Âu bạt ngàn
băng giá thì nắng núi ở đây ấm và đẹp nõn nà. Bọn triệu phú ở châu Âu, châu Mỹ
thèm cái nắng trên núi đó. Chúng nó đã tới. Chúng nó vừa từ bể bơi nước xanh lơ
giữa vườn khách sạn A-đi A-bê-ba Hin-tơn lên nằm phơi nắng trên thảm cỏ tĩnh mịch.
Và đứng trên lầu cao mới nhìn thấy ngoài hàng bờ rào hoa râm bụt tím đằng kia
lô xô những mái sắt tây, thùng phuy, bạt che một vùng nhà nấm. Có đám trẻ con cởi
trần, lấy gạch và vỏ hộp sữa xếp lên chia đôi bãi cỏ, chúng nó hét hết cỡ cổ,
tranh nhau đá quả bóng quấn bằng giẻ. Quả bóng giẻ hay quả bóng cao su, sự hăng
hái cũng không kém. Tiếng hò la, tiếng cười loạn cả cái xóm tiều tụy.
Trái ngược và dữ dội. Lại trông thấy những chiến sĩ tự vệ đi
tuần khắp nơi: dọc đường, các chợ, cửa ga...
Buổi chiều nắng nhạt trong. Cánh đồng, bóng núi và đường phố
ánh lên từng dải vàng. Sân bay quốc tế phía đông. Trên bãi bằng lưng núi đã lên
đèn trắng ngần. Chập tối, nghe tiếng gà gáy trong ngõ phố nào đó và trông thấy
trẻ con đi tha thẩn, như ở quê mình.
°
° °
Ê-ti-ô-pi-a được khai sinh từ vương quốc A-xum đã tự hào với
nền văn hóa ba nghìn năm trước công nguyên. Không phải châu Phi chỉ thuần cát
trắng và những bộ tộc người từ thuở giờ tới nay vẫn thế. Không, châu Phi có nền
văn hóa truyền thống thừa sức dạy cho những nước thực dân đã đến đô hộ châu
Phi.
Thủ đô Ê-ti-ô-pi-a cách Hồng Hải có hơn trăm ki-lô-mét. Từ thế
kỷ thứ ba, phía bờ biển vào, cũng là đường giao lưu của nền văn hóa A-xum - một
nền văn hóa sánh ngang với ba triều đại huy hoàng đương thời: Ba-bi-lon, La Mã
và Ai Cập.
Sự tích dựng nước của Ê-ti-ô-pi-a đã bắt đầu bằng câu chuyện
thật mơ mộng - cũng như bao nhiêu cổ tích kỳ thú quanh thành Cổ Loa của chúng
ta.
Năm 980 trước Công nguyên, hoàng hậu Sa-ba Ma-kê-đa, vợ góa
vua trị vì Ê-ti-ô-pi-a nghe tiếng tài giỏi của vua Sa-lô-mông ở Giê-ru-da-lem.
Chỉ nghe tiếng mà đã thầm yêu.
Một ngày kia, hoàng hậu Sa-ba được mời sang thành
Giê-ru-da-lem làm khách quý của vua Sa-lô-mông.
Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Trước khi Sa-ba rời
Giê-ru-da-lem, Sa-lô-mông nói với người mình yêu:
- Tôi muốn có một đứa con với nàng.
Sa-ba đáp:
- Tôi không thể biết được điều đó.
Một chút nũng nịu làm duyên thôi. Vua Sa-lô-mông mở tiệc tiễn
nàng và đêm ấy vua mời Sa-ba nghỉ lại trong cung của mình. Sa-ba nhận lời và
nói: “Xin đừng ép tôi điều gì, nếu tôi không muốn”. Nhà vua nói: “Tôi cũng xin
nàng đừng xâm phạm vật gì trong cung, tôi sẽ giữ lời hứa”.
Có điều là thức ăn trong tiệc tiễn có nhiều món dễ khát nước.
Nửa đêm, Sa-ba trở dậy nhấc bình lấy nước uống. Sa-lô-mông đã đứng đấy từ bao
giờ. Dáng hẳn cả người uống nước và người đến bắt lỗi khách cũng đã biết trước
việc ấy rồi. Tình yêu là một cái gì mà người ta cứ làm ra cho thêm nhiêu khê,
cho rắc rối...
Sa-ba Ma-kê-đa về sinh được một trai. Đến tuổi, nàng gửi con
đi Giê-ru-da- lem để vua Sa-lô-mông dạy dỗ. Rồi người con trai đó trở về, lên
ngôi vua, chính là Mê-lê-ni-a đệ nhất - triều đại mở đầu ba nghìn năm lịch sử
và truyền thống huy hoàng của các dân tộc ở Ê-ti-ô-pi-a.
Ngày nay, đi qua cố đô A-xum, cánh đồng và dòng sông vẫn y
nguyên. Như đương trở lại trong dĩ vãng. Những cột cao ba mươi ba thước. Những
bậc đá hùng vĩ lên lầu cung vua Ta-kha Ma-ri-am.
Trên triền núi En-tô tô vắt ngang giữa nước, nghìn đời đã là
trung tâm văn hóa dân tộc. Sau A-xum đã ra đời A-đi A-bê-ba. A-đi A-bê-ba có
nghĩa là đóa hoa mới.
Đóa hoa mới A-đi A-bê-ba, thủ đô lịch sử và thủ đô cách mạng
của cuộc sống mới hôm nay trên một đất nước cực kỳ gấm vóc, mà đầy rãy những
trái ngược đến kiệt cùng.
Dọc bên này bờ Hồng Hải, cả Sô-ma-li và Kê-ni-a dồn về tiếp
giáp phía tây Su-đăng. Triền núi Rát Đa-han chéo qua, dọc dài những thung lũng
sâu, có sa mạc Đa-na-kin lẫn đồng cỏ hoang ở Ô-ga-đen.
Các dân tộc ở Ê-ti-ô-pi-a hai mươi lăm triệu người có nền văn
hóa cổ nhất châu Phi. Từ thật sớm, Ê-ti-ô-pi-a đã trồng được các loại ngô rồi
cao lương, kê, đậu, bông, thuốc lá, ớt là những vùng chè, cà phê. Cừu nuôi đàn
và cừu nuôi trong nhà ở Ê-ti-ô-pi-a đứng thứ chín trên thế giới.
Cái giàu có là sự thật mà cái đói khát cũng là sự thật.
Người Ê-ti-ô-pi-a, từ 95 tới 98 phần trăm không biết chữ.
Hầu hết đất cày cấy trong cả nước là đất của nhà vua và hoàng
tộc. Hơn ba mươi phần trăm là đất của nhà thờ và địa chủ. Chỉ còn vài phần cho
hàng chục triệu nông dân.
Nhà cửa ở thủ đô A-đi A-bê-ba, bây giờ người ta tính lại, nhà
vua, nhà thờ, công chức cao cấp, tư sản chiếm trên hai nghìn mẫu nhà ở. Có
nghĩa là thành phố chỉ còn lại không được một phần trăm đất tư của mọi người
bình thường.
Ê-ti-ô-pi-a bị hơn hai trăm chi nhánh công ty Mỹ các ngành
bám khắp nước.
Bọn thống trị tàn phá cả xã hội. Nông dân cơ cực, ăn đói, ngủ
lều. Mỗi buổi đi làm, nhai ít hạt đậu luộc rồi chiêu ngụm nước lã. Câu tục ngữ
mỉa mai từ đời nào không biết: “Chỉ nằm mê thấy được ăn bơ cũng đã mắc phải bệnh
hủi rồi”.
SÔI NỔI CHÂU PHI
Tôi bắt đầu nhận ra một vẻ gì thật quen thuộc. Trước nhất, tiếng
hát. Những tiếng hát lạ tai mà sao thân thương.
Nhớ lại ở La Ha-ba-na, tôi gặp một người công nhân nhà máy
làm xì gà. Ông già da đen ấy không biết tiếng Việt. Mà gặp tôi cũng là lần đầu
ông trông thấy một người Việt Nam. Ông cầm tay tôi, cất tiếng thong thả, rất
thong thả từng tiếng, ông hát bài “ Giải phóng miền Nam ”. Ở một nơi
khác đất nước mình, nghe một người xa lạ, nói tiếng Việt nhẹ nhẹ không có dấu,
tôi nghẹn ngào.
Tiếng hát rập rờn khắp bốn phía khắp nước Ê-ti-ô-pi-a. Tiếng
hát đâu đâu cũng nghe. Đã thấy không ở đâu người da đen sung sướng như ở Cu Ba.
Bây giờ chứng kiến rõ ràng là thoải mái ở Ê-ti-ô-pi-a. Tiếng hát, tiếng hát,
người người đi trong tiếng hát tràn đầy.
Những giọng xa vời tiếng hát cổ xưa, tiếng hát chinh chiến,
tiếng hát mãnh liệt chống chọi thiên nhiên dữ dội. Hát múa đi gặt, kéo bông,
đánh cá, thật đẹp và dữ.
Chiếc đàn ma-xin-cô, tiếng trầm lên réo rắt, như tiếng hò
mênh mông của người Mông Cổ. Tiếng ma-ra-cát lạo xạo, vời vợi vùng Trung Phi,
tiếng của các dân tộc khát khao đi và kiếm cái sống. Dù người đương lặn lội
trong băng tuyết phương bắc, người qua các vùng sa mạc hoang vu, người vượt rừng
già, người vào đồng cỏ đến vùng đất mới xa xôi, đâu đâu cũng đều là tiếng đường
trường, tiếng của đời sống và chiến đấu, dù phương trời nào thật khác lạ mà
cũng rõ ràng một ý chí, một tâm sự như nhau.
Rạp chiếu bóng và sân khấu ấy ở khu vực giữa thành phố. Trước
kia, đây là nơi giải trí sang trọng, đắt tiền. Bây giờ đây là câu lạc bộ của
khu phố. Bà con kéo đến xem đông nghịt. Váy áo tơi tả, đỏ sạm đỏ rực, chốc lại
chạy vào như lửa cuốn. Những đám trẻ con đen nhẻm, răng trắng tểnh, áo sơ-mi đứt
hết khuy mà không biết, cứ giơ tay hát theo trên sân khấu một cách hết sức nhiệt
tình.
Quốc huy Ê-ti-ô-pi-a hình búa liềm treo giữa rạp. Cờ búa liềm,
tranh vẽ búa liềm, chỗ nào cũng thấy. Có cảm tưởng như đất nước này đương vui
sướng khoe với mọi người: Chúng tôi đã có Chủ nghĩa Cộng sản, Chủ nghĩa Cộng sản
đã đến với nhân dân Ê-ti-ô-pi-a.
Trên sân khấu, một chiến sĩ bộ đội nữ, mũ lưỡi trai, sơ-mi và
quần đi trận xanh lá cây, ưỡn ngực đeo súng rất hãnh diện, vừa hát vừa vỗ súng,
chốc lại giơ tay thúc đẩy cả nhà hát đứng lên hát theo. Hàng trăm hàng nghìn nữ
chiến sĩ tự vệ quân phục xanh đã đứng lên hát theo. Chiến sĩ ấy hát vừa xong một
bài, tiếng sấm vỗ tay lại kéo cô ra hát lại. Bài hát chiến đấu cứ thế cất cao
mãi, không bao giờ muốn hết. Cô chiến sĩ hòa trong bóng người và tiếng hát bốn
phía vang dội, thênh thang như cuộc đời từ đây chỉ có cây súng, cây súng bảo vệ
cách mạng và một tâm hồn chiến sĩ.
Tiếng hát khắp rạp hết sức náo động. Hát và múa rỡn lên, rỡn
lên.
Quán ăn La-li-bê-la - tên kỉ niệm một nhà thờ Cơ Đốc thế kỷ
mười hai ở cố đô A-xum.
Các bạn hình như cảm thấy ăn uống ở khách sạn A-đi A-bê-ba
Hin-tơn của chúng tôi đến hôm ấy có thể là vừa. Gian phòng kiến trúc hiên rộng
kiểu Mỹ rồi cũng quen và cũng chẳng để ý cả những vặt vãnh kỳ quái. Quyển Kinh
Thánh trên bàn ngủ đầu giường nào cũng có, bánh xà phòng và khăn tắm cũng
Hin-tơn đem đến từ Mỹ. Hàng ngày mà những công thức ăn sáng, bữa trưa bữa tối
có tính rập khuôn ở các khách sạn thế giới, cứ tẻ dần. Có thể thấy ở đây hay ở
Bây-rút, Tân Đê-li, sân bay Vạt-tày, ở Đa-mát, ở Bát-đa cũng tương tự.
Đến các quán ăn dân tộc là một háo hức đến nơi chưa từng đến.
Nhà hàng La-li-bê-la, nhà vách tròn giống kiểu nhà vùng quê
châu Phi lấp ló sau một quãng dốc núi, rồi vào bãi phẳng phố xá. Những chiếc ghế
đẩu cục kịch bằng một khúc cây hũm cong giữa làm chỗ ngồi.
Nhấm nháp rượu khai vị - một thứ rượu trắng nhẹ như rượu cần,
pha mật ong.
Một mâm đậy lồng bàn cói kín đáo được bưng ra. Cái mâm “ma-sốp”
chân cao lênh khênh, đặt xuống giữa, thành chiếc bàn ăn. Nhưng chiếc lồng bàn
chưa được mở, những thức ăn bên trong mâm còn là một chờ đợi thú vị.
Lót mâm, một mảng bộ kê, thành dày như miếng bánh đúc. Trên mặt,
những miếng thịt gà rán, những nạm thịt bò tươi. Ở chính giữa, bát nước chấm và
những quả ớt đỏ bày quanh. Khách véo miếng bột, lấy miếng thịt bò, chấm vào nước
xốt và cắn ớt. Những lúc hào hứng, không có phong tục mời rượu mà mời ăn, các bạn
quấn bột và thịt, đưa vào miệng nhau.
Rượu mật ong cứ uống từ từ.
Như trước mặt mình đương có một mâm tú ụ bánh cuốn Thanh Trì
ăn với chả quế, chấm nước mắm cà cuống.
Rượu mật ong êm đềm, lư đừ...
Hết mâm ấy, mâm khác được đặt ra. Bánh bột lót mâm. Lại thịt
cừu, thịt bò, cả sách, cả lòng. Những quả ớt nguyên đỏ tươi đặt quanh bát nước
chấm. Khách rón mẩu bánh bột, lấy miếng thịt mát tươi... Tưởng như tay đưa vào
đóa hoa đài trắng, cánh nhiều màu, nhị đỏ rực rỡ.
Những điệu múa nổi lên, người múa, người nhảy, người hát rộn
ràng. Bàn tay và đôi mắt thoạt đầu e lệ rồi rầm rập tay và mắt quấn vào nhau.
Những điệu múa tỏ yêu thương, những tay đôi trai gái tỏ tình. Cái đẹp và cái
yêu của con người nồng nàn đôi mắt và ngón tay, một ngón tay trỏ dài cong. Đôi
mắt trắng xanh trên khuôn mặt đen mát, vẻ đẹp nhất trên mình người yêu. Đôi mắt
ấy, đôi mắt phẳng lừ, đôi mắt trắng xanh, đôi mắt nhởn nhơ.
Ở nhà bảo tàng, tôi đã được xem những tranh dân gian ngộ
nghĩnh vẽ con mắt người to gần bằng cả khuôn mặt. Con mắt trắng ngần, trông vào
người chỉ thấy những con mắt thơ ngây ấy.
Cô San Dao bảo rằng con mắt người châu Phi là tín hiệu tình cảm
sớm nhất cho hai người nhận biết nhau. Thấy nhau từ xa, là đôi mắt, đôi mắt ấy
thảnh thơi như mây mùa hạ. Màu da, dáng đi, có thể lẫn với bóng cây và cát bụi,
nhưng đôi mắt anh và em, tận xa lắm. Chúng ta đã nhận ra nhau rồi. Tôi chợt hiểu
ra tình cảm mỗi khác mỗi phương trời...
Những điều tưởng như mảnh vụn, nhưng lại là cuộc đời, cuộc đời
đáng yêu được dệt nên từ đấy.
Cây hoa vuông đỏ khé. Những bụi xương rồng, hoa như rắc hạt
sương tím. Nét mặt ngơ ngác hồn nhiên. Đêm trong thành phố. Con đường huỳnh
quang qua trước mặt, trắng xanh. Phía núi đằng xa, đêm vồng sáng xanh trên sân
bay.
Những em bé học sinh áo vàng khăn quàng đỏ cũng nhảy lên múa
hát. Giữa đường, những cô tự vệ quân phục xanh thẫm vừa đi vừa hát múa, giơ
tay, giơ súng.
Bây giờ, cả đến khách ăn cũng vào cuộc múa với mọi người. Anh
chàng Sê-nê-gan viết kịch: Ma-ma-đu, đã cởi phăng áo ra nhảy với cô San Dao,
hai người vừa bước tới, mỉm cười, đôi mắt trắng thăm thẳm. Tay đôi ấy múa vai,
những đôi vai, những đôi vai, những làn ngực cờn lên như sóng.
Người xung quanh - những khách hàng và người làm trong các
phòng ăn sôi nổi quá, đã bước ra trong bước múa và tiếng trống vỗ, tiếng đàn
ma-xin-cô rập rờn. Tôi đương đi giữa châu Phi hoang sơ và cực kỳ trẻ trung.
Nhớ lại đêm ở khách sạn A-đi A-bê-ba Hin-tơn, mấy người khách
du lịch nhảy những điệu rừng bắt chước châu Phi. Cái lực lưỡng khoáng đạt thật
của bước nhảy châu Phi, rừng và sa mạc mênh mông một trời một vực khác với những
cung cách bắt chước, đem gán kiểu dâm loạn của những đứa học trò tồi Âu Mỹ cho
biết bao đường nét vô cùng khỏe khoắn, lành mạnh này.
Giữa náo nhiệt hân hoan đến thế, cô San Dao từ cuộc nhảy ra,
đưa cho tôi một mảnh giấy.
Chữ viết ngoáy lên đằng sau một tờ biên lai trả tiền ăn:
“Đồng chí Việt
Đồng chí ở Việt Nam châu Á. Tôi ở Ê-ti-ô-pi-a châu Phi. Đường
đi trên mặt đất thì xa lắm. Nhưng Chủ nghĩa Cộng sản đã đưa chúng ta đến bên
nhau.
Chủ nghĩa Cộng sản muôn năm!”.
Những lời bồng bột chí tình của một người khách nào đấy giữa
cuộc múa. Tôi không gặp mặt, tôi không biết anh là ai. Nhưng, cả những khi gặp
mỗi người ngoài đường, tôi có cảm tưởng như ai ở Ê-ti-ô-pi-a cũng có thể nói
câu tình nghĩa như thế.
Trời A-đi A-bê-ba ngổn ngang mây. Nhà và cây lẫn với đá. Xa
xa, chỗ này mưa trắng như buông màn, chỗ kia nắng đem phơi áo được. Mây đen tản
mạn bay lẫn vào trời xanh, trời xanh.
CÁC PHƯỜNG - CHIẾN LŨY NHÂN DÂN BẢO VỆ THÀNH PHỐ CỦA CÁCH MẠNG
Đơn vị hành chính cơ sở của thủ đô A-đi A-bê-ba là các phường.
Tôi được có dịp đi thăm nhiều phường. Phường 11 gần ngoại ô
phía Tây Nam. Ba nghìn năm trăm hộ thực tế là một đơn vị nhân dân sản xuất và
chiến đấu, bảo vệ cách mạng, bảo vệ cuộc sống tự do mà cách mạng đã đem lại được.
Những người ấy, vẫn những người bình thường ấy hôm trước,
trên sân khấu, trong cuộc múa hay đứng gác sân bay quốc tế, hôm nay thấy ở đấy,
sơ-mi trắng, choàng “cham-ma” trắng, mặt trổ râu đen ngòm.
Trên tường gian giữa trụ sở phường lỗ chỗ vết đạn. Cũng không
ai để ý, đến khi hỏi các bạn mới kể. Việc ghê gớm mà nói ra như bình thường.
Sáu tháng trước, trụ sở này đã bị bọn phản cách mạng tiến công. Trận đánh dữ dội
lúc chập tối đã xảy ra trong nhà, ngoài sân, ngoài đường, cả đội tự vệ và nhân
dân đã đuổi đánh chúng nó đến cùng, cho đến lúc bắt được tất cả bọn sống sót. Vết
đạn còn lỗ chỗ đấy. Và còn đấy, ra đón chúng tôi, đồng chí chủ tịch phường người
bé nhỏ, râu rậm. Trong trận chống chọi ngay ở trụ sở, đồng chí ấy đã bắn chết
hai tên phản cách mạng. Cuối cùng, đồng chí bị thương, gãy cả hai cánh tay. Và
nay vẫn là chủ tịch phường như sáu tháng trước kia.
Tôi bỗng nghĩ lại hơn ba mươi năm trước, Hà Nội trong Cách mạng
tháng Tám năm 1945. Những bận rộn, những căng thẳng. Trong các vụ bắt cóc, giết
người của bọn phản cách mạng, có giặc Tàu Tưởng, có thực dân Anh và Pháp bắt đầu
đổ bộ lên Sài Gòn, nhưng tinh thần nhân dân Hà Nội và cả nước đã quyết định và
vượt lên tất cả.
Hôm trước thăm Ủy ban nhân dân thành phố A-đi A-bê-ba. Trên mặt
tường chính treo ảnh 175 ủy viên Ủy ban nhân dân thành phố và ủy ban phường đã
bị bọn phản cách mạng giết. Trong số những chiến sĩ cách mạng hi sinh có mười
lăm đồng chí nữ. Cuộc cách mạng Ê-ti-ô-pi-a mở đầu từ tháng hai 1974 tới nay đã
trải bốn năm, bốn năm lúc nào cũng đẫm máu và quyết liệt. Vận mệnh nhân dân mới
thực sự được trong tay nhân dân từ khoảng một năm trở lại đây.
Ba gian buồng văn phòng xảy ra trận đánh bảo vệ cách mạng ấy
bây giờ để dùng làm lớp bình dân học vụ. Cái bảng đen treo cạnh những vết đạn
mang một ý nghĩa khắc sâu.
Trụ sở liền nhau các lớp học chống nạn mù chữ, lớp vỡ lòng và
thư viện phường. Những bãi cỏ trước sân nhà đã thành vườn trồng cải bắp và
hành. Cửa hàng hợp tác xã mua bán của phường kề bên đường cái. Cửa hàng đương
bán gạo, đậu răng ngựa, ngô và trứng gà. Người mua gạo đến xúc lấy, đặt gạo lên
cân rồi đổ vào túi, đem ra trả tiền ngoài quầy.
Trên các bàn làm việc, những chiếc vỏ đạn đại bác làm bình
hoa.
Những bụi chuối hoa đỏ chói vườn nhà ai hiệu mùa xuân rực rỡ
đương vào thành phố. Núi chiều đã mờ sương quanh những ánh đèn đường, thế mà
bóng nắng vẫn còn lồng trong đám mây trắng bay qua - hoàng hôn thành phố núi thật
khác những chiều thành phố ở ta.
Trong nhà trẻ, cô giáo đương dạy các em đếm, các em hát. Tôi
nhận ra một cách thú vị dáng dấp và vẻ mặt các em. Không chỉ có nét mặt mà phải
nói trước nhất nét mặt linh hoạt, rạng rỡ. Và những con mắt thông minh, ngộ
nghĩnh to thô lố.
Tiếng trẻ em hát. Tiếng thánh thót, tiếng hùng dũng, tiếng dịu
dàng và chốc lại nghe một tiếng uy nghiêm mà tôi hiểu được... Anh-pê-ri-a-lít...
Anh-pê-ri-a-lít ... và những nắm tay bé nhỏ giơ lên rất náo nhiệt. Tôi bỗng
nhớ quốc huy của nước Ê-ti-ô-pi-a mới, không hoa lá, không xanh trắng, chỉ có
búa và liềm đỏ rực, chân thành và vô cùng hồn nhiên.
Giữ cho yên vui của con người, ngoài đường cái, đàn ông đàn
bà thong thả đi. Áo choàng vải trắng thưa, bay lất phất, những người đi trong
lòng đường như bóng sương đưa dài.
Lại trông thấy một người cõng một con cừu về nhà. Người đứng
trong cửa nhìn ra, con cừu chui dưới chân cũng ngó ra, luẩn quẩn như con chó cạnh
người. Trời tối rồi. Người ta vác cừu đã quen, mỗi chiều đến - như ta dồn về
chuồng con gà con ngỗng ngoài bãi cỏ. Bụng con cừu no kềnh tựa vào gáy. Hai
chân trước, hai chân sau quàng vào cổ, tay người quơ lên giữ lấy. Ở đây, con cừu
trong mỗi nhà như con bò, con lợn ở ta. Có phần còn nhiều hơn. Chỗ nào có người,
chỗ ấy người ta nuôi cừu - không phải chỉ có cừu đàn, mà cừu nhà. Cừu ngoan ăn
cỏ, cỏ khô cỏ tươi, ăn lá ăn ngọn, đến mùa khô cằn, cả gốc rễ cỏ, cừu cũng rũi
lên, nhá ngon lành.
Trong quán ăn, ông già nhà bếp đương hoa dao xả cả một con cừu
luộc. Khách bưng đĩa đến lấy từng miếng. Cảnh no lành ấy ở hiệu ăn, ở chợ đâu
cũng thấy.
Đấy là sinh hoạt phố xá phường 11 - cũng là đơn vị chiến đấu,
mà thực tế vùng đất ấy đã là chiến trường. Trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, kẻ
thù của cách mạng càng nham hiểm, hung ác. Nhưng cách mạng đã được bảo vệ dũng
cảm và quyết liệt do chính tay người làm ra cách mạng.
°
° °
A-đi A-bê-ba, thành phố núi, lúc mây rợp, lúc mưa lúc nắng.
Như cách mạng Ê-ti-ô-pi-a đương ngổn ngang, sôi nổi. Như cách mạng châu Phi cực
kỳ mãnh liệt và cũng vô cùng hồn nhiên. Ở đấy, có các bạn tôi A-tô, A-ka-la, San
Dao...
1979
Ở An-giê
I.
BÓNG NƯỚC ĐỊA TRUNG HẢI hắt lên lẫn lộn khoảng vàng khoảng trắng
rồi lại xanh thẫm xuống, thật hắt hiu. Cảm tưởng hờ hững của người nhìn qua cửa
sổ không đúng với những gì của cuộc sống hối hả, sôi sục, gầm thét dưới kia.
Châu Âu đương đòi quẳng đi hơn hai trăm cái tên lửa Cru-dơ đầu đạn nguyên tử tầm
trung Mỹ vừa khiêng sang đặt khắp các xó xỉnh từ Hà Lan đến Tây Đức.
Nhưng mà chẳng mấy lúc, vùng đất hoảng hốt ấy cũng đã xa mờ.
Tôi đương xuống phía nam.
Hơn một nghìn cây số bờ biển An-giê-ri êm đềm. An-giê-ri đất
nước châu Phi Địa Trung Hải, bao nhiêu dân tộc nghìn năm qua lại, những người
Béc-ba, Phê-ni-xiêng, Ả-rập... gặp nhau trên ngã ba ngã năm kỳ lạ ấy. Vườn
ô-liu xanh rờn, vườn cam vàng rực. Cả một cánh đồng chà là xòe tán vào mùa thu
mà nước ở đây ấm hơn hẳn khi bờ bến Tây Ban Nha bên kia đã xuống tuyết. Một mặt
biển mà cái lạnh và nóng nắng xen kẽ nhau. Dưới bãi Ti-pa-sa, người ta tắm và
chơi thuyền. Trên núi Chê-rê-a ngay cạnh, bãi trượt tuyết đỉnh núi. Rừng thông,
rừng bách phủ kín dãy Ka-bi-ki, giữ lại đấy một mùa hè mát dịu. Nhưng từ biển
vào, khi đã qua những vùng đồi cỏ chăn cừu, những cánh đồng lúa mì, đồng củ cải
đỏ, lại gặp một An-giê-ri khác. Đấy là những biển cát ở En-uát, những đồi sỏi
Ga-dai trần trụi mở đường vào vùng dầu lửa và hơi đốt ở Hát-xi Mét-xau, ở
Hát-xi R’men rồi từng đoàn lạc đà chậm rãi hàng trăm hàng nghìn con, ròng rã đằng
đẵng đêm ngày đi ngập trong bóng cát sa mạc Sa-ha-ra huyền bí.
Ta lại tưởng đến đây thì gặp Hy Lạp trời trong xanh ở
Séc-xen, các làng mạc đá trắng Ả-rập ở Công-xtăng-tin và thiên nhiên Thụy Sĩ
mát rượi vùng núi Ka-bin với đôi chút hoang dã Mếch-xích trong lùm chà là cạnh
giếng nước tình cờ bắt gặp ở nơi trú chân giữa mênh mông kia. Di tích lịch sử
trên đá, nghệ thuật và kiến trúc I-xlam đồ sộ, bề bộn, chẳng khác lúc nào cũng
khơi gợi người ta đợi vào nhảy trong tiếng trống “ráp”, tiếng kèn “gai-đa” dù
trên thềm đá một dinh thự cổ hay trong lều bạt hoang vu khi mặt trời đương lặn.
Đâu đâu cũng giao hòa hồn cốt các nền văn minh châu Phi với Trung Đông và Địa Trung
Hải.
Những cái khác nhau mà ăn ý ấy cũng thật đậm, khi trông thấy
trên sân bay Bu-mê-điên, hai đầu cánh chiếc Bô-ing 727 của hãng hàng không
An-giê-ri như còn đượm hơi tuyết. Thế mà bốn phía gió khơi vào thành phố cảng
An-giê dạt dào lên vòm lá chà là lấp lánh và nắng in hoa đôi cánh tay trần của
cô gái bầu bĩnh, đen giòn, bưng khay cà phê tới. Đôi chút vào xuân băng tan rớt
lại bên kia rồi. Mùa hạ đã thấp thoáng những con buồm trắng như bướm bay đậu rập
rờn mép nước.
Ô hay, tôi chưa được đến An-giê bao giờ mà lại dường như đã từng
đến. Vẫn trong một trái ngược dịu dàng mà xa xôi, mà hòa hợp. Có phải chỉ vì
tôi bỗng nhớ lại những câu vè “bắt lính sang Tây” từ thuở nào, trẻ con trong
làng đều thuộc vanh vách. “Kể từ khi bước chân đi... Ba tháng năm ngày thì đến
An-giê... Vợ con nhớ giỗ ngày rày cho cam... Bên Tây có chiếc tàu sang. Sinh ra
khố đỏ quần vàng... Vai vác khẩu súng, tay cầm bình toong...” Những câu vè ảm đạm,
rầu rĩ được kể mãi tưởng không bao giờ hết. Chú Năm tôi ở Sơn Tây đã sang làm
lính dắt con la, con lừa bên Ma-rốc, An-giê-ri. Người lính khố đỏ “An Nam” bị
đưa đi dẹp “giặc” Mặc Đình Kim 1 nước
“Tây đen”. Người lính châu Phi phải sang “An Nam” đánh “giặc” Bãi Sậy, “giặc” Đề
Thám. Những mưu toan thế kỷ của thực dân đế quốc đã ràng buộc số phận đất nước
chúng ta.
Cái ký ức tản mạn ngây dại của tuổi thơ tôi có chú Năm dắt lừa
theo quan Tây ở Bắc Phi đã vào thành phố An-giê thời đại hôm nay, với tôi.
Ở đâu, những thành phố bờ biển, sóng rỡn lên đùa ướt cả gấu
váy người đi đường không kịp xắn, bao giờ cũng giữ riêng một vẻ đẹp
La-ha-ba-na. Bây-rút, I-an-ta, Bom-bay, Nha Trang, Bãi Cháy, cát và sóng mơn
man. Cả màu xanh vườn ô-liu và cây thiên tuế cổ thụ, hoa chà là thơm cùng lẫn
mùi muối.
Nhìn lên, An-giê như một lực sĩ vươn vai. Cao cao những dốc
phố quanh lên châu tuần trước đài Chiến Thắng, nhóm tượng chiến sĩ súng trường
lựu đạn hiên ngang, phía nào cũng thấy. Nhà Bưu điện nguy nga kiến trúc Ả-rập,
nhà hàng Thánh Gioóc cũ, những lầu cao, như màu áo, như bắp tay mà cánh rừng xa
xanh như mái tóc xõa. Khu An-giê cũ nhà cửa, hè phố phảng phất dáng dấp thời
thuộc Pháp, anh em với Hà Nội và Sài Gòn, chỉ khác những đền đài đạo Hồi trơ trụi
trắng xóa trên thành phố thoai thoải từ đỉnh núi xuống dầm chân bên bờ cát phẳng
lặng.
Chỗ nào cũng thấy An-giê lẫn với núi, rừng cây, bãi cát và xa
kia một ngấn biển xanh ngang trời. Khoanh đê chắn sóng ngay bên con dốc luồn dưới
cây vắt lên núi.
Mỗi quãng, tưởng tắc vào hẻm đồi, lại mở ra một dãy phố, một
ngã tư. An-giê, thành phố hãnh diện có tuổi ngoài nghìn năm, như Hà Nội với Cổ
Loa, Tân Đê-li bên Đê-li cũ, như Tbi-li-xi mới cạnh thành cổ cùng soi bóng sông
Gu-ra.
An-giê cổ kính đặc biệt. Trước cảng man mác mái nhà lúp xúp gồ
ghề sần sùi da cóc. Phố xá chen chúc người lên xuống qua lại bậc đá, khu Cát-ba
- mái nhà chồng diêm san sát nối tiếp. Hiệu cắt tóc, hiệu may, hàng quần áo cũ,
quầy rau quả... Các quán ăn vách ám khói, sực nức mùi hành. Những bàn cờ, người
ngồi quanh, chăm chú, lặng lẽ.
Cái vùng hang hốc ngoắt ngoéo thiên la địa võng đến rợn người
này đã nổi tiếng là một khu du kích giữa lòng thành phố. Pháp đã ra công bắn giết,
đốt phá. Nhưng chưa bao giờ phá vỡ được hết những bí mật của khu Cát-ba. Cho đến
ngày Pháp cuốn cờ về bên kia Địa Trung Hải, Cát-ba vẫn thản nhiên ở nguyên đấy.
Những hàng hiên trước nhà, những cột cây chống cửa sổ, như những con mắt tinh
thần kháng chiến An-giê-ri. Cát-ba, tụ điểm kiêu hãnh giữa An-giê anh hùng. Những
toán dù lê-dương cuối cùng của quan năm dù Mát-xu, viên tướng biệt kích đánh
nhau toàn thua trên đồng chiêm Nam Định, Thái Bình ở Việt Nam, chạy về đây lại
vỡ mặt vì các chiến sĩ du kích ở khu lao động Cát-ba.
Đài Chiến thắng trên đồi cao vòi vọi hình một lão du kích
trong nhóm tượng đài các chiến sĩ tay vung lựu đạn đương vươn bóng dũng liệt từ
những mái nhà lụp xụp ở Cát-ba lên.
Cả hạm tàu xâm lược đã vĩnh viễn cút khỏi cảng, có thể vào một
buổi sáng nắng trắng toát thành phố tường trắng, trong veo biển xanh và tiếng
sóng. Càng sâu thăm thẳm những con mắt cửa sổ tinh anh lạ lùng ấy của khu phố
nghèo.
Vùng du kích Cát-ba anh hùng giữa “ba mươi sáu phố phường”,
chằng chịt đại lộ xung quanh. Trên lầu hàng cao lâu A-lê-ti trông xuống, từng
miếng mái nhà lởm chởm như vảy con tê tê khổng lồ, một đàn tê tê dựng vảy đương
lịch kịch lên giữa dốc và nhà nào lúc nào cũng ồn ào, nồng mùi đinh hương, mùi ớt,
mùi mù-tạt cay xè, kích thích.
Dạo quanh Cát-ba, gần nửa đêm tôi mới về đến vùng bắc thành
phố. Đường lớn kề bên biển, ngọn sóng chồm lên ngang thành xe, dựng đứng.
Châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh hùng vĩ và đau thương trong máu
và nước mắt. Trăm năm vừa qua, cuộc đời các dân tộc trên trái đất trải những biến
thiên lịch sử lớn. Cả đến chú Năm tôi và những người lính da đen ở Đông Khê năm
xưa và tôi, cả tôi nữa. Những ngôi sao li ti giữa trời sáng trăng dạt trên ánh
nước, như những số phận hiển hiện.
Bờ bên kia, chỉ hơn nửa buổi tàu thủy hoặc ngót giờ bay đã
vào cảng Mác-xây. Ngồi đây trông ra đầu vịnh, bán đảo Si-đi Phê-rúc, cây đèn biển
thoáng trắng thoáng xanh, bờ đá và bãi tắm so le từng quãng. Ai còn chẳng biết
nơi vui chơi đây có những khách sạn hiện đại, cầu kỳ nửa nổi nửa chìm, sóng xô
vào tận cửa sổ phòng ăn, thế mà năm 1830, thực dân Pháp đổ quân lên chiếm
An-giê-ri đầu tiên đã lập đầu cầu ở đấy.
Nhưng vùng biển Si-đi Phê-rúc đã quang đãng từ năm 1962. Cuộc
xâm lược 132 năm của thực dân Pháp đã bị tan tành bằng tinh thần một Điện Biên
Phủ - lời thề thiêng liêng của các chiến sĩ An-giê-ri.
Khách sạn càng kề mặt nước. Dãy tường đá cao như pháo đài,
nhưng lại là những nhà nghỉ lịch sự. Những hàng ăn và quán cà phê ấm áp: Mùa
dong thuyền chơi đương tới. Bến nước nhấp nhô những cái thoi xinh xinh. Có chiếc,
nước sơn còn đỏ nhếnh nhoáng nằm trên cát, với chiếc chèo trắng bạch.
Xa xưa và hôm nay trong bóng trăng vằng vặc. Chú Năm tôi ngày
xưa chắc đã đổ bộ lên đây. Ừ, thế nào người lính khố đỏ dắt la lừa cũng phải
lom khom trèo qua cái bãi đá ngoài kia. Người lính thuộc địa ở An-giê, ở Ma-rốc,
ở Pông-đi-sê-ri, ở Việt Nam đem thân ra đi, “Vợ con nhớ giỗ ngày rày…”
Người lính da đen trong đội quân viễn chinh Pháp ngày ấy có
phải người An-giê hay không, nhưng tôi cứ ngỡ như phải. Trên chiến dịch Biên giới
phía Bắc năm 1950, hôm quân ta giải phóng Đông Khê, một tốp tù binh được đưa từ
trong đồn ra. Những người tù binh da trắng da đen lũ lượt đi vào gió rét chiều
lất phất mưa dưới gốc đa đầu xóm. Nhiều người cởi trần, vẫn còn hốt hoảng như
lúc bị lôi sống ở lô-cốt xuống.
Ai biết có Bác Hồ trong những người đứng ven đường. Hay là
người ta biết mà im lặng bảo đảm kỷ luật chiến trường. Trông thấy bác sĩ Chánh
tôi quen, tôi mới nhận ra. Anh Chánh cũng mặc quần áo bộ đội xám lá cây, quần xắn
như Bác. Bác đội nón lá, cái khăn tay che ngang cằm, vắt ra sau cổ, chỉ nhìn được
đôi mắt chăm chú.
Mưa mỗi lúc một nặng hạt. Người tù binh da đen sau cùng đương
đi tới. Co ro, trần trùng trục. Bác Hồ bước ra, cởi nhanh cái áo sơ-mi Bác
đương mặc, khoác vào vai người tù. Người ấy sững lại, lắp bắp nói, rồi lại lật
đật chạy ngay theo hàng, trong khi bác sĩ Chánh lấy chiếc khăn mặt buộc túi của
anh, vắt lên hai vai Bác đã ướt mưa.
Chẳng bao giờ người tù binh biết được ông già cho anh cái
sơ-mi - đấy là người công nhân phụ việc “mạch lô” ngày trước đã từng qua các cảng
An-giê, Ca-da-blăng-ca... khắp châu Phi.
II.
Thành phố An-giê, bờ biển cát trắng bên những ngọn đồi hoa
mi-mô-da vàng hây quanh các dinh thự. Đâu cũng vẫn một An-giê xinh đẹp ấy. Những
đường đá trắng đồi En Bia sang Mu-ta-pha sáng điện và xanh cây. Lại từ
Bô-na-ri-da đến Ku-bai, đến những khu nhà đồ sộ giữa vườn cọ pan-ma và chà là,
lại quanh xuống khu Cát-ba. Đến cửa rừng thông Đi En Ma-con nhìn xa, gặp lại mặt
biển kẻ một đường xanh chân trời.
Mỗi lần tha thẩn, quanh quẩn lên dốc xuống dốc khu phố lao động
Cát-ba lại khám phá ra những thú vị mới. Phố lao động, nhưng lại không phải dân
tứ chiếng ở lều “bi đông” tường thùng sắt mái ni-lông. Cát-ba cổ kính đã ra đời
trước cả những dinh thự thành quách xung quanh - có lẽ nơi tụ cư của những người
thoạt đầu đến lập nên thành phố cảng.
Tôi xuống bậc đá cuối ngõ ẩm ướt. Thế nào mà tự dưng trông thấy
cái bảng có dòng chữ Restaurant Hà Nội - Hiệu ăn Hà Nội, chữ viết sơn
đen mờ trên miếng gỗ mộc ám khói trong bóng nhập nhoạng những mái nhà. Vậy mà
thình lình, như có linh tính, sự chú ý hút ngay vào đấy. Ai như tôi lúc này, chắc
cũng thế. Dường như gặp lại đất quê ngay trước mặt. Hai chữ “Hà Nội” vuông vắn,
chân phương dấu huyền, dấu mũ, dấu nặng. Quanh tôi lại bồi hồi lẫn lộn hôm nay
và ký ức, có chú Năm tôi dắt con la đến vắt chiếc thừng da vào cột hiên, có người
tù binh năm nào ở Đông Khê đương ngồi hau háu trông ra, hình như vẫn mặc tấm áo
sơ-mi ka-ki xám nhạt ấy.
Tôi bước vào quán. Tiếng chim sẻ róc rách trên đầu hồi. Cảm
tưởng lạ lùng tôi vừa thấy đã hóa ra quen thuộc. Đây chẳng khác một hàng cháo
lòng, hàng phở, hàng bánh cuốn mà khách ngồi chực bà hàng tráng từng chiếc, ở một
khe cửa, một vỉa hè nào trong những ngõ phố khúc khuỷu, tun hút ở Hà Nội, ở Sài
Gòn.
Ngoài thành tường, mấy người thong thả ngồi chơi, chân buông
thõng. Một cụ già vác trên vai một con cừu nhỏ, không biết ông đi chơi hay đem
cừu đi đâu. Trước mặt, bác thợ cắt tóc giơ kéo làm điệu tóc tách quanh đầu một
chú bé ngồi im trên cái ghế sắt xếp. Chẳng ra vẻ cao lâu tửu quán gì cả, cái
Restaurant Hà Nội chỉ là một hàng cháo bò.
Thành phố An-giê trên ngã tư ngã năm lịch sử. Bờ nam Địa
Trung Hải này thêm cái hàng cháo bò cháo cừu của ông An càng đậm nét của thế kỷ.
Một gian hẹp như mọi gian nhà ở khu lao động Cát-ba. Quầy làm hàng kê góc
trong. Chiếc thùng tôn trắng phau đặt trên lò, nghe tiếng cháo sôi ùng ục đều đều.
Một dãy móc sắt lủng lẳng những buồng gan, quả tim, quả cật, cái pín, chiếc cổ
hũ, miếng sách xù xì vỏ mít, bộ lòng non vắt như chằng thừng. Mọi thứ sắp sẵn,
chỉ đợi lẳng xuống chảo cho sủi tái. Bên trong, xếp những bó hành ta, rau húng,
cả cà chua, khoai đã luộc, bóc vỏ và hành tây, tỏi tây cho những khách ưa món
súp hổ lốn. Ông chủ hàng quấn tạp-dề xanh, một mình đứng giữa các thứ đồ nghề.
Con dao xẻo miếng gan, miếng nầm, miếng thịt tái, ném xuống chảo. Từng bát đã
lót sẵn rau thơm và gia vị được múc cháo nóng sôi vào.
Khách xúm xít nhìn chủ quán với tay và dao và muôi cứ múa hoa
lên, rồi hí hửng được bưng bát cháo của mình ra bàn. Vào hàng này người ta
thích thế và bao lâu nay đã thế.
Bàn ăn kê giữa nhà ôm một cái bể thủy tinh tròn to choán cả,
khiến cái bàn rụt lại, chỉ như máng gỗ mép bể nước. Mặt bể nở những cánh bèo
xanh ngắt. Ở làng xưa, ao bèo tấm, bèo ong, những ô bèo cái vuông vắn trong các
sào nứa, ngày ngày cô gái ra xắn quần lên tận bẹn lội vớt - giống bèo cái nấu
trộn cám, lợn đen, lợn ỉ ăn vào lớn trông thấy.
Thế mà giữa nhà hàng ở An-giê trong bể cảnh nở đầy bèo cái.
Cánh bèo xanh phấn, mỡ màng, chùm rễ trắng ngà lưa thưa. Một đôi cá trắm lượn
ra, giống cá trong tranh đớp trăng trung thu, những chiếc vẩy đẹp lấp lánh như
đôi mắt trẻ thơ.
- Chào ông An!
Ông An ngước lên, dừng tay dao pha thịt, nhẹ nhàng hỏi:
- Anh mới sang à?
Tiếng cuối hơi nặng giọng người kẻ bể Thụy Anh, Diêm Điền. Và
câu hỏi, cách hỏi ấy cũng có thể biết ông là người tinh ý và chắc ông thường
quen biết anh em trong sứ quán. Ông hỏi thêm:
- Có ở đây lâu không?
Bấy giờ khách ăn đã vãn. Ông An bảo tôi:
- Ta làm bát mì ăn tạm nhé. Làm nghề gì thì sợ các thức nghề ấy.
Anh bán phở thích cơm chan nước rau muống luộc, mà cái anh nhà bếp cao lâu suốt
ngày phải đứng ngửi mùi mỡ lót chảo, đến lúc rời tay ra, chỉ còn ao ước bát nước
chè tươi vò thật đặc. Nghề đời nó thế, anh ạ.
Tôi cười. Tôi lại để ý ông An thích gọi nhau bằng anh, dẫu
sao chúng tôi chẳng ai còn trẻ nữa. Đấy cũng là thói quen của người suồng sã và
chân tình.
Tôi hỏi:
- Anh ở An-giê lâu chưa?
Ông An cười nhếch mép :
- Xem nào, “pờ-lúy đờ tờ-răng tăng” 2
- Thế hẳn anh cũng biết restaurant cụ Quất bên Ma-rốc?
- À cụ Quất. Ông cụ quê ở Yên Hưng. Năm nay ngoài chín mươi rồi.
Vẫn lịch sự như Tây. Năm nào tôì cũng nhận được thiếp chúc Tết cụ gửi từ Quảng
Yên. Anh biết cụ Quất à?
Tôi cũng chỉ gặp cụ Quất một lần. Có dễ mười mấy năm đã qua.
Lần ấy, cụ Quất từ Pa-ri tới và chúng tôi cùng đi chuyến bay từ Mát-xcơ-va về.
Ghế tôi cạnh cụ Quất. Tình cờ thế thôi.
Mười năm tuổi, cậu bé Quất bỏ quê ra Hải Phòng làm phụ “mạch
lô” hãng tàu Tây Diếc, chạy đường Mũi Ngọc. Ở cái làng Yên Hưng bãi lầy ngày
đêm nghe tiếng biển mà làm nghề tàu biển cũng phải. Rồi Quất theo chúng bạn xuống
tàu lớn đi đại dương vẫn chỉ là chú bé nhặt than, rửa bát, lau cửa kính. Không
rõ đến năm nào Quất lên bờ. Chỉ biết nhiều người Việt Nam lưu lạc trên thế giới
đã biết tiếng Phở Quất - restaurant Quất, đông khách đã trên năm mươi năm ở
Ca-da-blăng-ca…
Bao nhiêu năm, đại chiến thứ nhất, lại đến đận đại chiến thứ
hai, lính tráng các thuộc địa Pháp đổi đồn, đổi trại lung tung cả châu Phi,
châu Á, châu Đại Dương ta sang “khố đỏ”, lại đến “ô en ét” - ONS, lính không
nghề - nhiều người thường lui tới cửa hàng Phở Quất này.
Năm tôi gặp, ông Quất đã tròn tám mươi tuổi. Nước da săn bánh
mật, khỏe, quắc thước. Ông Quất cười hếch hàm, khoe răng chưa rụng cái nào. Hàm
răng bàn cuốc của ông nhuộm đen từ thuở trẻ, rồi cả đời lang bạt chân trời góc
biển, mà ông cứ để thế, bây giờ thành răng cải mả nhờ nhờ.
Hồi ấy, các chuyến bay về Hà Nội, đường phía tây hay trên
phía bắc, đều đợi nhập nhoạng tối mới vào Gia Lâm. Có lẽ đến giờ ấy không quân
Mỹ mới ngớt hoạt động. Chiếc IL 18 bay thấp, trông rõ hoàng hôn dưới kia, dải
núi Cai Kinh lởm chởm và con sông Kỳ Cùng uốn quanh thị xã Lạng Sơn. Làng xóm
xinh gọn vun vào trong lũy tre. Tưởng nhìn được cả trẻ con đương chơi nhởn đầu
ngõ.
Từ lúc qua biên giới, ông Quất cứ đăm đăm nhìn xuống.
Ông Quất về thăm đất nước lần ấy, lần đầu tiên. Nhưng ông Quất
đã định về ở hẳn nhà, từ mấy năm nay. Cái người hai bàn tay không, dựng lên cơ
nghiệp đã quen quyết đoán và làm dứt việc. Vốn liếng và số tiền sang cửa hàng,
cả gia tài, ông gửi một nửa vào chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tại
Pháp để ủng hộ Nhà nước. Còn đâu ông mang bằng ngân phiếu về đây. Ông sẽ gửi quỹ
tiết kiệm cả. Một mình ông, chỉ cái lãi tháng lấy ra ăn cũng thừa phong lưu rồi.
Ông đã gửi tiền cho xã xây cái trường phổ thông tám phòng lớp. Ông cũng đã nhờ
xã làm nhà cho ông từ lâu. Ông đưa tôi xem ảnh nếp nhà hai gian một chái, lợp
lá gồi. Mảnh sân nhỏ lát gạch bát tràng. Nhà và sân, cổng tán, bò rào đều theo
quy cách của ông gửi về. Ông nhớ kỷ niệm thuở bé hay ở nông thôn Ma-rốc cũng
tranh tre thế sao, nhưng ông nói hệt các cụ ta trong làng: “Nhà gạch bí lắm. Ở
nhà lá mát mẻ lại khỏe người”. Rồi ông nheo mắt cười hề hề. Thoải mái y hệt chú
Năm tôi ngày trước.
Ông Quất vẫn ngồi yên.
Tôi cũng nhìn ra cửa sổ rồi nói với ông:
- Cái khúc cong cong nước đỏ ấy là sông Hồng, sắp thấy cầu
Long Biên rồi.
- Có phải cái cầu Long Biên xuống Phòng, hả me-xừ?
- Vâng xuống Hải Phòng.
Hai hàng nước mắt ông già bỗng ứa ra. Nhưng miệng ông lại mếu
máo cười:
- Tôi chưa được biết Hà Nội, tôi chưa được biết...
Phải rồi, khi ông Quất ra đi... Tàu quay mũi bến Sáu Kho…
Chưa có dịp nào tôi trở lại Yên Hưng. Chỉ gặp cụ Quất lần ấy.
Nhưng tôi đã đến Yên Hưng từ khi cụ Ọuất chưa về quê. Tôi vẫn nhớ cái làng khuất
nẻo trong sương mù và bãi lầy. Nửa đêm nghe tiếng còi tàu rúc ngoài xa.
Tôi đã nói lại với ông An như thế. Chúng tôi trò chuyện về những
người nước ta phiêu bạt các nơi. Ma-đa-gát-ca... Xê-nê-gan... Có người đã mất,
có người lưu lạc đã hai ba đời... Biến cố đất nước và đời mỗi con người, biết
bao số phận, bao nhiêu éo le. Ông Mậu làng tôi vào lính đi “phiếc-me” 3 nhà binh ở A-lép nước Xy-ri suýt lấy vợ
bên ấy. Chú Năm tôi dắt con la, dắt con lừa, hết Ma-rốc lại An-giê-ri và cái
“người nước Bắc Kỳ ở Bây-rút có cây đàn một dây” năm trước tôi đã có ý tìm
nhưng không gặp. Và cả đến cái sự ông An chủ quán cháo bò tha hương gặp nhau ở
ngõ phố lao động Cát-ba này.
Ông An kể mấy năm trước ông còn tráng cả bánh cuốn. Đông
khách, nhưng mà bận lắm. Có cà cuống không à? Cái này thật thần tình. Tôi nghiệm
thấy dẫu đến ở nơi xa lạ thế nào rồi người ta cũng mầy mò ra những cái ăn cái uống
chẳng khác quê nhà. Mác-xây phía nam nước Pháp ấm áp, rau cỏ mắm muối nước ta
được bà con mang sang từ bao giờ, giống má ra sao chẳng biết, nhưng có đủ cả. Mắm
tôm, nước mắm, ớt chỉ thiên, cả ớt gió, ớt Quảng Bình, húng Láng hẳn hoi, không
thơm hắc như húng bạc hà Sơn Tây, thìa là nhỏ cây mà đậm mùi khác thìa là Tây
nhạt nhẽo. An-giê đối mặt với cảng Mác-xây tàu bè qua lại như phà sang ngang ấy
mà.
- À mà tôi sẽ kể anh nghe chuyện cô Tâm. Hôm nay mấy ta nhỉ?
- Hỏi thế, nhưng rồi ông An vào cầm tấm bìa lịch treo tường in ở thành phố Hồ
Chí Minh có tờ lịch to tướng. Ông An lật lật mấy tờ. Thứ sáu này là rằm tháng bảy
âm lịch. Các cụ ta ngày xưa ngoài cái Tết cả thì trọng nhất tết rằm tháng bảy đấy.
Tết cúng vong nhân xá tội mà. Năm nào cô Tâm cũng lên ăn tết rằm tháng bảy.
Ở buồng trong nhà ông An có chiếc giường một kê bên cái án
thư mộc, lùn vừa tới trần nhà thấp, trên bày chiếc mâm đồng sơn then và một ống
hương. Chẳng khác cái giường thờ đơn sơ ở quê. Ông An đương nói về cô Tâm ở
Ô-ran.
Tôi hình dung ra thành phố Ô-ran xa xôi, những vườn đồi bậc
thang xung quanh mép núi, những bãi cát gập ghềnh chưa bao giờ đến mà trong
lòng vấn vương ái ngại như mỗi khi ta nghĩ tới người con gái lấy chồng xa. Ai
đã lên Hà Tuyên vào Bắc Mê, đến chặng dừng chân rẽ vào bản Khuổi Nọi phải lội cả
buổi qua tám chín khúc suối lớn. Ở Khuổi Nọi cuối rừng ngọn nước ấy, người con
gái đi lấy chồng thiên hạ, tưởng như chẳng bao giờ còn về thăm được suối quê mẹ
nữa.
Bốn mươi năm đã qua rồi. Ngày ấy cô Tâm mới trạc hai mươi tuổi,
chứ chưa phải bà lão sáu mươi như bây giờ. Cuộc kháng chiến toàn quốc mới bắt đầu.
Các vùng ngoại thành Hà Nội thật sôi nổi. Du kích mỗi làng tập trung thành
trung đội, đại đội. Cô Tâm tiểu đội trưởng một đại đội toàn nữ.
Cô Tâm mất tích trong một trận du kích chống càn. Không ai biết
tiểu đội trưởng Tâm đã hi sinh hay bị bắt, trong lúc đánh nhau, lúc rút, đã có
việc gì xảy ra. Khi ấy mạng con người như sợi tóc, vương ở đâu, biết đâu... Rồi
mặt trận lan rộng ra, mãi đến tám năm sau, có người trở lại, có người không bao
giờ trở về.
- Ở An-giê-ri bây giờ - ông An nói - khá nhiều chị em Việt
Nam tài đảm có tiếng.
Chồng chị Tâm có nghề thợ nề. Chị Tâm làm nội trợ như thông
thường các bà mẹ, các chị ở đây. Hai con chị Tâm, con gái bác sĩ, con trai kỹ
sư, đã nên người cả. Vườn bưởi của chị Tâm, cái vườn bưởi hái ra tiền ấy, phải
gọi là đồn điền bưởi mới đúng.
(Hôm trước, trên đường đi Khi-đa qua núi Chê-rê-a xuống thung
lũng Mê-đi-a, tôi đã được qua một quãng những vườn bưởi. Hoa bưởi nở trắng ngần,
người đi ngợp vào hương bưởi ngây ngất, muốn say).
Chị Tâm thật khéo nuôi lợn. Ở đây, người theo đạo Hồi kiêng
thịt lợn . Không khí đạo giáo trùm lên những thành phố châu Phi. Những
người đàn bà bối rối áo choàng trắng, vạt nâng ngang nửa mắt, đi loáng thoáng
như chiếc bóng.
Đàn lợn chị Tâm nuôi, cứ bán năm hai lứa, ba lứa, không biết
có ai đạo Hồi phá giới vì được ăn thịt lợn ngon giống đen tuyền. Chỉ biết lợn của
chị đắt hàng, người mua lái xe tải đến bắt lợn tận chuồng, chị chẳng cần biết mặt
cái chợ.
Cái bể bèo cái ông An nuôi làm cảnh đây của chị Tâm đem cho giống
đấy. Ông An đã có về chơi nhà chị ở Ô-ran. Tòa nhà hai tầng khang trang. Trong
nhà treo toàn ảnh phong cảnh Việt Nam. Sứ quán ta trên An-giê mua hộ các thứ
bên nhà. Thỉnh thoảng, vợ chồng lên khuân về từng va-li sách báo. Hai con chị đều
đọc được quốc ngữ. Cả phố khen nức nở, và ước: Làm thế nào cho con trai
An-giê-ri sang lấy được vợ bên Việt Nam. Chị Tâm cười bảo: Như tôi, ở nước tôi
chưa phải người chăm việc đâu - Thì hãy cứ được người chưa biết chăm việc như
chị! - Mọi người nói thế.
Bây giờ qua đã lâu cái ngày những lo, những ngại ấy rồi. Cuộc
đời đã nên như thế. Không phải chồng chị nói thế, mà từ khi An-giê-ri độc lập,
người hàng phố hay nói: đất nước Việt Nam tận đâu đâu mà ai cũng nhắc nhớ. Vì
tình cảm con người, xa xôi hóa gần gũi. Các vùng du lịch ở Công-xtăng-tin, ở
Sau-ra và cả những “oa-di” giữa mênh mông, lâu rồi thấy quen cũng như chùa chiền
và khoanh tre, cảnh đồng ở quê. Những khoảng vẽ trên đá thời tiền sử, người và
bò tót, núi đá lạ ở I-li-xi, ở Hô-ga, bắt đầu lạc đà vào sa mạc... dưới cát có
dầu lửa... đất nước tôi... Người ta bảo tôi cầm súng, đem tôi sang Đông Dương,
thế nào mà tôi được gặp mình...
Con trai chị Tâm cằm bạnh giống như tạc các chú bên quê. Em
gái nó, mặt trắng tròn bầu bĩnh, đặc biệt khuôn mặt các cô gái Bắc Phi láng giềng
châu Âu. Chị Tâm không mặc quần áo ta, nhưng chị Tâm cũng không lòe xòe váy đầm
như mọi người. Tết âm lịch, vợ chồng con cái lên An-giê chúc Tết sứ quán. Chị mặc
quần áo mới - bộ ka-ki đồng phục xanh nhạt với chiếc mũ tai bèo. Lúc nào chị
cũng chỉ mặc một kiểu giản dị chiến sĩ giải phóng như thế. Tết dương lịch, khu
phố vui chơi ngoài công viên, cả nhà chị đều diện quân phục quân giải phóng đứng
đồng ca bài “ Giải phóng miền Nam”, anh ấy xòe tay đập trống “ráp” đệm
làm nhịp.
Và chẳng khác ai, chị Tâm cũng giỏi chơi không thua cô gái
nào trong các hội hè… Tết hái cà chua tháng ba, tết trảy cam tháng tư, hội cừu
tháng sáu, rồi sang hội vào xuân Địa Trung Hải… Tâm choàng khăn voan xanh lơ,
nhảy điệu Da-dô-na nhịp nhàng vào hội hái chà là…
Tôi hỏi ông An:
- Chị Tâm có liên lạc gì với bên nhà không?
- Chị ấy đã gửi tiền ủng hộ xã xây trường học. Cái ảnh trường
phổ thông thôn Vân được phóng to treo giữa nhà ở Ô-ran.
- Chị Tâm đã về chơi bên nhà...
Ông An nhìn tôi chăm chú rồi nhẹ nhàng lắc đầu:
- Chưa về lần nào, anh ạ.
Chúng tôi ngồi im một lúc lâu.
- Chị Tâm nói chuyện vui như liếu điếu. Nhưng cái gì mà chị
không nói thì thôi đừng hỏi. Đến rằm này, thế nào chị ấy cũng lên. Mời anh ra
chơi.
Nhưng rằm tháng bảy ấy chị Tâm không lên An-giê. Tôi nghĩ, biết
đâu chị ấy có lên mà không muốn giáp mặt tôi chăng? Tôi không hề quen biết chị,
nhưng tôi là người ngoại thành, khá thông thạo vùng Vân cửa sông Hát. Năm ấy,
tôi đã làm phóng viên báo, khi các đội du kích ven sông Hồng làm nhiệm vụ tiếp
tế bí mật cho Liên khu Một, những ngày đầu kháng chiến vô cùng ác liệt của Hà Nội.
Có thể ông An đã kể về tôi với chị Tâm, cho nên chị không đến. Ồ, có thể như thế.
Mỗì người thường có một điều riêng gì không bao giờ ai hiểu
được. Như cái ông An này mà chả lạ sao. Ông là tay bếp nghề và sành rượu. Thịt
cừu nấu món “sóc ba”, gia giảm dầu dấm, trộn bột và giữ lửa nhỏ thế nào. Vang
trắng để uống chơi, vang hồng cho bữa ăn nhẹ, má-ca-ra hay mê-đi-a. Vang đỏ ở
Bu-sa-vi-ni trong tiệc thì vô địch. Gì ông An cũng thạo.
Nhưng tôi chẳng biết gì hơn nữa. Ông ở đâu trôi giạt đến cái
xóm Cát-ba - khu du kích tự hào của An-giê này, ông là ai? Vẻ lịch lãm và trầm
lặng của con người không để ý những câu hỏi ấy. Tôi lặng im.
Cây chà là trước cửa, hoa trắng ngà như hoa cau phảng phất
thơm. Ngoài kia, sóng xô vào quanh mép tường phòng tôi ì oàm vật vã đến cả đêm.
1985
--------------------------------
Áp-đen Krim (đọc theo cách đọc của người lính Việt thời ấy
trong quân đội thực dân không biết tiếng Pháp: Mặc Đình Kim): thủ lĩnh nghĩa
quân, hoạt động chống Pháp trong vùng núi Ríp giáp giới Ma-rốc và An-giê-ri. |
|
Tiếng Pháp: hơn ba mươi năm. |
|
Tiếng Pháp: y tá |
Chốc lát Tan-da-ni-a
TÔI XIN MƯỢN cái đầu đề bài ký Chốc lát ở Pa-ri của
K. Pau-xtốp-xki. Đùa mà không cười, như một nhà văn bạn vong niên của tôi xưa
kia, khi tôi ngờ ngợ văn anh có những câu mượn của người khác thì ông anh cười
mà rằng: Của người ta hay quá, mình biết làm thế nào! Chốc lát ở Pa-ri.
Thoạt đầu tưởng K. Pau-xtốp-xki chỉ dừng chân, đâu đó đợi máy
bay quá cảnh. Nhưng rồi thì biết được thực cái chốc lát của K. Pau-xtốp-xki ở
thành phố hoa lệ bậc nhất Tây Âu ấy cũng đến vài ba tuần. Dẫu sao, cũng là chốc
lát, cũng chỉ là chốc lát. Càng hiểu cái sâu sắc mộc mạc của hai chữ gọn ghẽ ấy.
Cái chốc lát và cái cuộc đời, biết hay không biết, có khi chỉ chốc lát mà cũng
là cả cuộc đời.
Lá bàng đỏ lẫn lá bàng xanh thẫm, nắng và nhiều gió. Trên cảng
Đa-et-sa-lam, tiếng quạ kêu và diều hâu gào, “tí o” lượn vòng “xây giếng cho
tròn” cả đêm trong sáng trăng.
Có những tình cờ, làm sao mà biết trước được đến đây tôi được
quen hai bạn người Phi-lip-pin và Ni-ca-ra-goa. Mỗi chúng tôi một đất nước mãi
chân mây cuối trời những Thái Bình Dương, những Đại Tây Dương nhưng lại thấy, ở
Việt Nam hay ở Tan-da-ni-a hay ở quê hương các bạn, cả người và cảnh, đâu cũng
thật lạ mà lại thật quen.
Bờ biển cảng lúc nào cũng lộng gió, cây cối loi thoi, sợ gió
đến lùn cả thân mình. Cây xoài âm u bao bọc ngay trên đầu. Nhớ Bạch Long Vĩ ở
Biển Đông quanh năm gió thổi vít còng cả lưng cây xuống.
Nhưng riêng những cây dừa thì vẫn cao lêu đêu. Dừa dâu ở Cái
Bè chỉ bằng cây cau liên phòng hay rừng dừa Tam Quan đan lá ngang mắt. Cây dừa
gầy và cao ở Đa-et-sa-lam giống dừa ở ao dừa Sấu Giá. Thân mốc xì, lặn nhẵn hết
đốt, có lẽ được đến ngoài trăm tuổi điềm nhiên chơ chỏng giữa trời thế này. Suốt
dọc biển, chỗ nào cũng lủa tủa, lao xao toàn một giống dừa cao cao.
Hoa cỏ vùng nhiệt đới phía trong đường xích đạo ở chỗ nào
cũng thường họ hàng nhau. Cây phượng lá lăn tăn, cây xoài xanh già, bụi tre đằng
ngà vàng chóe, dây hoa giấy tím ngẩn ngơ và giàn ti gôn đỏ đến rợ mắt và những
đám cỏ gà xơ xác... Tất cả thành đường viền sặc sỡ dưới rừng dừa lênh khênh, ngất
ngưởng ven biển Tan-da-ni-a. Chỉ một cái cây cũng cho ta biết được nhiều điều -
nếu người đi đường không vô tình phí phạm cái chốc lát.
Rừng thông bốn phía vào Béc-lin, màu xanh trập trùng chẳng
khác rừng thông trên Tủa Chùa, trên Đác Lây. Những ai biết rừng nước Cộng hòa
dân chủ Đức, cây cổ thụ hay cây non, mỗi cây đều có tuổi, cây nào cũng mang lý
lịch năm sinh viết trong mảng sơn trắng dưới gốc. Vào vườn thú ở Mát-xcơ-va, ngắm
cây phong từ gốc lên ngọn, thấy được bàn tay người thày thuốc cây ở nhát cưa gọn,
vết hắc ín, vết thuốc bôi chỗ trầy vỏ... Một ngọn cây, bất cứ ở đâu trong nước
công nghiệp cũng được tổ chức, có tổ chức, như xã hội loài người.
Tôi cũng thấy tương tự thế, ở cây Hà Nội - cây quanh ta không
xa rời cuộc sống con người bao giờ. Mỗi cây đường phố Hà Nội mang vết tích đời
sống thành phố. Biết bao sẹo cây trong những năm máy bay Mỹ ném bom Hà Nội bây
giờ đã lên da. Những cây nhập nội trồng các công viên nội thành đều in dáng dấp
lịch sử từ thế kỷ trước để lại: cây pan-ma, cây cọ xước, cây chà là dại, toàn
giống đại thụ lực lưỡng đã thích hợp thổ ngơi bản địa. Nhưng, lạ lùng sao, khá
nhiều cây có hai gốc - không phải nạn dây tơ hồng hay cành tầm gửi nhẹ nhàng
đâu, cây hai gốc hai ngọn hẳn hoi. Có cây ngọn thì chà là, ngọn cọ, nhưng gốc đề.
Có cây ngọn cọ cùng mọc trên một gốc với ngọn đa. Có cây gốc cọ mà trên đầu lại
tỏa ra vòm lá si xum xuê. Nghe như rỡn, mà lại là thật. Có biết đâu bởi con
chào mào, con chim chích tha quả đa, quả đề, quả dướng đến đậu ngọn cây rỉa ăn
rồi quệt mỏ, để rơi hạt vào khe lá. Giống đa, giống đề, giống si gân guốc, cực
khỏe, nhoi nứt cả kẽ tường đá, xi măng, được ươm trong cây ẩm ướt, cứ mọc tơi tới.
Đến bây giờ, cả trăm năm đã qua, các quan thực dân xâm lược cai trị thành phố
chết đã được táng mả lâu rồi, thế mà còn lại vô khối cây cọ, cây chà là dại bị
rễ cây si, cây đề quấn từ lưng cây thòng xuống, dữ dội, ác liệt, như đòn thù
đương trói, đương bóp cổ kỳ chết cái bọn cây ở đâu đến đây. Nhiều rễ đề, rễ si,
rễ đa đương núc, đến tan dần cây cọ, cây chà là. Ở quanh góc hồ Gươm, ở đường
Điện Biên, đôi khi vẫn gặp những cây cổ thụ vật nhau, hình thù thật quái đản, -
dấu vết thời sự của lịch sử.
Ở Đa-ét-sa-lam cũng vậy, thời thực dân qua đã lâu, nhưng những
bức tranh cây, “bức tranh vân cẩu” còn tang thương ra đấy cảnh vật lộn sống
còn. Sự tích cái cây bản địa bóp chết cây nhập nội cũng tợn tạo rất châu Phi. Hẳn
cũng lại những con quạ phàm ăn đã tha cả quả muỗm, quả bàng vào cây cọ, ngoạm hết
cùi rồi bỏ hạt đấy. Tôi trông thấy một cây bàng tán xanh đen nổi lên trên đầu
thân cọ rụi xuống. Một cây xoài gốc loang lổ nửa cọ nửa xoài, cả cây cọ đã bị
quấn núc đến phải chết chìm vào thân muỗm.
Ở Nam Mỹ, ở châu Đại Dương, ở châu Á và ở đây, cảnh và người
còn lại biết bao khác nhau mà vẫn giống nhau. Ven biển Bắc Phi bờ nam Địa Trung
Hải hay cảng Đa-ca trông ra Đại Tây Dương, hay ở Đa-ét-sa-lam, ở Nha Trang, ở
Vũng Tàu, hai bờ Thái Bình Dương đều vẫn còn di tích thế kỷ đau thương vừa qua
một cái gì đó. Như trên mỏm đá cảng A-đen. Tôi nhớ Cộng hòa nhân dân Y-ê-men
hiên ngang đầu ngõ Hồng Hải. Những chiếc Bô-ing 727 hãng An-yen-đa đậu nối cánh
ra tận mép nước cuối đường băng sân bay quốc tế A-đen. Sóng biển lao xao vẫy
lên lẫn cánh bồ nông và hải âu trắng xóa. Bãi đất bạc cằn trong làn nắng gắt,
tưởng như cây cối bao đời nay vẫn thế. Những cụm cỏ dừa cạn, cỏ xước, lá náng
trước mảng tường đá lỗ châu mai cạnh căn nhà hoang tàn một tầng, hai tầng. Có
phải đấy ngày trước là lô cốt biên phòng, đồn hải quan hay trạm gác bến riêng
cho tàu buôn nô lệ vào cảng tải người. Không biết. Nhưng chắc đấy chỉ là dấu vết
của một trong ba thứ ấy còn lại. Chẳng phải nhà lưu niệm cái gì, nhưng cũng
không ai buồn dỡ đi. Nó chơ vơ cạnh tảng đá nham nhở vỏ hà. Ngoài cảng
Đa-ét-sa-lam còn thấy chiếc cột cờ bằng sắt, hà bám ăn mòn cụt tròn đầu. Dấu vết
những kẻ xâm lược châu Phi, từ dưới nước xông lên, bám bờ biển trước rồi mới
dân dà chiếm sâu vào sa mạc. Những lá cờ, cờ quạt thời bọn cướp nước tàn bạo,
các triều đế quốc Phổ, Bồ, Anh, Pháp chỉ còn rầu rĩ phảng phất trong tưởng tượng
vàng ố của người nhớ lại.
Người đàn bà Ả Rập choàng chàng mạng đen âm u đến tận gót,
hai bàn tay trổ hoa chàm xanh rêu. Tôi đương đi trong hân hoan tiếng trống và
những cơn múa mãnh liệt, tung hoành, không thể để chàng mạng, sống áo nào vướng
víu lấp đi được những nét hùng mạnh cực kỳ của con người khi hứng khởi nhất.
Cũng như, giữa sa mạc cằn cỗi mà trong lòng sẵn kim cương và u-ra-ni-um giàu có
không đâu sánh được và những đảo Pem-ba, đảo Dan-di-ba, mép biển cảng
Đa-ét-sa-lam nước xanh ngọc chẳng khác đảo Thông của Cu Ba trong biển Ca-ri-bê.
Nhưng trái ngược đến lạ lùng.
Chỉ có một điều bây giờ chúng ta không còn quằn quại trong u
ám những thế kỷ trước. Ý nghĩa đoàn kết Á Phi, Mỹ La-tinh to lớn và thiêng
liêng, chúng ta gặp nhau tưởng như tình cờ nhưng thật không rủi may chút nào, bởi
chúng ta đương trong sự nghiệp lớn của con đường đi tới của mỗi đất nước.
Chị Da-la-na ở Phi-lip-pin, đất nước ấy đương quyết liệt, cuộc
đấu tranh lan tới cả mỏm vịnh Xu-bích, căn cứ hải không quân Mỹ lớn nhất thế giới
ngoài nước Mỹ, như mũi súng đế quốc đang kề vào lưng Ma-ni-la. Chị Da-la-na đến,
đấy là tiếng nói của giai cấp công nhân Phi-lip-pin. Đồng chí thợ dệt Da-la-na
đã đưa tới tiếng nói của những con người quyết định tương lai đất nước. Tôi
không thể hình dung ra người đại diện lớn ấy lại là một phụ nữ nhỏ nhắn, duyên
dáng, hoạt bát, không Hồng Kông, Đài Loan, không Nhật và chỉ có thể là
Phi-lip-pin - người của tinh hoa dân lộc Vi-ga-ya tiếp xúc với các nền văn minh
văn hóa láng giềng, đất nước ngót nghìn hòn đảo xinh tươi.
Chị Plô-ra thì từ thủ đô Ma-na-goa tới. Chị công nhân ngành
luyện kim mà nét mặt và mầu da chị là sự chung chạ trộn lẫn lịch sử nghìn năm của
Trung, Nam Mỹ da đỏ, da đen và da trắng. Chị Plô-ra - da mầu, chị cũng không
còn biết gốc gác dòng họ thế nào nữa.
Chị Plô-ra cười nói:
- Không, tôi chỉ cần biết bọn độc tài Xô-mô-da tay sai Mỹ đã
tan tành, nước Ni-ca-ra-goa độc lập rồi. Giờ đây Ma-na-goa từng phút sẵn sàng
đánh lại đòn thù của đế quốc Mỹ.
Rồi chị nói:
- Nhất định như Việt Nam đánh Mỹ! Không lời nào chứa đựng hết
được. Tôi được biết ở Cu Ba có năm Việt Nam, tháng Việt Nam, ngày Việt Nam.
Giai cấp công nhân Ni-ca-ra-goa sẽ học tập nhân dân lao động Cu Ba như thế.
Tôi đã có lần đến La Ha-ba-na vào một “năm Việt Nam”. Năm Việt
Nam ở Cu Ba không phải chỉ được nêu và giảỉ thích ở mít tinh với biểu ngữ, khẩu
hiệu và những lời tốt đẹp ca tụng về cuộc kháng chiến nửa thế kỷ chống đế quốc
của dân tộc Việt Nam anh em, mà các nhà máy, các nông trường, nông trang khắp
Cu Ba đã sôi nổi thảo luận tinh thần Việt Nam và Cu Ba với sáng kiến Cu Ba. Tổng
kết năm Việt Nam đem lại một vấn đề, một sáng kiến, một công tác mới, một thành
tích mới của giai cấp công nhân và Đảng ở Cu Ba.
Trên sân thượng khách sạn Ki-li-man-gia-rô trông ra cảng,
chúng tôi vẫn tiếp tục nhận xét với nhau về những trái ngược thấy quanh mình và
trong dĩ vãng, từ cái lô cốt cột cờ của người Anh hay người Bồ chơ vơ ngoài kia
và câu chuyện cứ như xa như gần, như chuỗi đèn viền bờ biển tít tắp lóng lánh
như một vệt sao ven Ngân Hà.
Đảo Pem-ba hùng vĩ trước mắt nom tựa con đồi mồi nổi lưng giữa
biển. Cả hòn đảo này sản xuất ra đinh hương, vùng đặc sản lớn nhất, duy nhất
trên thế giới. Thế mà không đâu ngửi thấy mùi thơm kỳ dị của đinh hương, ở các
quán ăn nhan nhản quanh chợ Đa-ét-sa-lam, trong các thứ gia vị quen, người ta
nghiện “mù tạt” Tuy-ni-di và tương ớt Đài Loan. Không thấy thoảng mùi đinh
hương trong mật ong, trong miếng trầu têm mời khách, như ở Tân Đê-li, ở
A-gra... những nơi phải nhập đinh hương của Tan-da-ni-a.
- Chúng ta đã nói về những trái ngược, khó hiểu, mà thật dễ
hiểu. Bởi chúng ta cũng biết rõ cái quyền lực tàn khốc, xảo quyệt không thể lường
hết chứ không huyền bí mơ hồ như sức mạnh ông trời của các đạo giáo ở đâu
đâu...
Chị Da-la-na nói rồi ngồi im. Có lẽ chị đương nghĩ về những
trái ngược lạ đời tương tự ở Ma-ni-la. Phần tôi, tôi nhớ lại hồi nước Pháp thực
dân không hề biết mặt cái lá cao su, nhưng những công ty độc quyền siêu quốc
gia đã chở cao su sống ở Cam-pu-chia, ở Việt Nam về các nhà máy bên chính quốc,
cao su chế ra lốp xe, giày Ba-ta đế kếp rồi tải các thứ ấy sang Đông Dương bán
cắt cổ chúng tôi.
Không biết những trái ngược đau lòng này có trong tưởng tượng
và khát vọng của nhà văn Mỹ E. Hê-min-uây, nhà văn say mê Đông Phi, đã viết nhiều
về vùng đất dữ dội này. Ki-li-man-gia-rô - ngọn núi cao nhất châu Phi và già
lão vô dịch trên thế giới, biểu tượng hiên ngang của châu Phi ngày nay.
Ki-li-man-gia-rô, tên của khách sạn năm sao đồ sộ trên cảng thủ đô của
Tan-da-ni-a mà chúng tôi đương trọ. Ki-li-man-gia-rô , tên một truyện
nổi tiếng của E. Hê-min-uây.
Ki-li-man-gia-rô... giữa thung lũng lòng chảo bao bọc những hồ
nước lớn, những đồng cỏ cao nguyên phên giậu ngăn vùng đất thiên nhiên dành
riêng cho cỏ cây có nước này với cát và nắng sa mạc đằng đẵng Trung Phi, trên
biên giới Tan-da-ni-a và Kê-ni-a, trong một dãy núi trọc, trồi cao 6.010 thước
đỉnh đá. Từ bên này sông Nin xuống phía nam, cả một góc trái đất, rặt những tảng
núi lụ khụ trần trụi, đột ngột, đỏ gắt, xám vằn. Ngước trông lên đỉnh núi
Ki-li-man-gia-rô, tôi chợt buồn cười so sánh với cái đầu bạc của E. Hê-min-uây.
Các cánh rừng quấn quanh chỏm Ki-li-man-gia-rô cũng ví như chòm râu quai nón của
nhà văn, mà trên kia vòm đá đỏ là vừng trán cao lừng lững, những tảng băng mênh
mông là làn tóc bạc phẳng lặng. Giữa Châu Phi nóng cháy quanh năm, thế mà đã ba
năm nay Tan-da-ni-a chưa có một trận mưa và cả năm không một giọt nước mưa thường
cũng không lạ. Những đám cỏ ấy xác xơ ven đường, nhưng đỉnh Ki-li-man-gia-rô
lưng trời đã vĩnh cửu triệu triệu năm băng đóng trắng rợn mắt.
E. Hê-min-uây chưa lần nào lên tới ngọn núi Ki-li-man-gia-rô,
cũng chưa nhà leo núi nào đặt chân được lên đỉnh núi ấy. Nhân vật tên là Phờ-răng
của E. Hê-min-uây mới mạo hiểm vào được chân núi đã bị đau nặng, Tôi không nhớ
anh ta bị gãy chân hay kiết lỵ. Ngòi bút E. Hê-min-uây đã cực tả những ngày những
đêm ghê rợn trên sườn núi, người ấy nằm đợi chết và đợi máy bay lên thẳng vào cứu.
Cùng đi với nhà leo núi, là một người đàn bà. Họ cứ đợi, đợi mãi... Đến lúc hấp
hối, người ấy nửa tỉnh nửa mê kể với người đàn bà sau cùng ở bên mình là anh ta
đương mơ thấy bay ngang qua đỉnh băng đóng... Ki-li-man-gia-rô,
Ki-li-man-gia-rô kia kìa.
Cái ước mơ tưởng tượng tìm thấy điều mong muốn bên ngoài sự sống,
triết lý của một nhà văn Mỹ, những năm cuối đời đã bỏ nước sang cư ngụ ở La
Ha-ba-na. Ước mơ của E. Hê-min-uây biểu hiện trong sáng tạo như tấm gương soi tỏ
những trái ngược mà nhà văn gặp đầy rẫy khắp châu Phi, chính là tấm lòng, cuộc
đời và khát vọng trong toàn bộ tác phẩm của E. Hê-min-uây sừng sững như đỉnh
Ki-li-man-gia-rô trắng ngần giữa trời nắng chói lói kia.
Tan-da-ni-a một trong “những nước tiền tuyến” đối mặt đương đầu
với Nam Phi. Một nhúm tên phân biệt chủng tộc ngông cuồng, một đất nước 25 triệu
người bị chúng hành hạ coi là hạ đẳng - cái đỉnh của sự kiêu căng đế quốc và
cũng là những cặn bã cuối cùng từ thời thực dân đế quốc Bắc Mỹ, Tây Âu còn rơi
rớt lại, như một bêu riếu trước loài người. Còn đối với chúng, thói hung bạo
như một thách thức, lại như một vẻ đẹp hoài cổ của một thế lực đã tàn lụi.
Nhưng nhất quyết chẳng kẻ nào vùi dập được sức sống con người ở chính Nam Phi, ở
Na-mi-bi-a, với sức lực quây quần hỗ trợ anh em ruột thịt Tan-da-ni-a,
Dim-ba-u-ê, Bốt - xoa-na, Mô-dăm-bích, Ăng-gô-la và cả châu Phi cách mạng.
Sự thực và những trái ngược ở Nam Phi khó hiểu lại không khó
hiểu khi ta biết từ thời còn mua bán nô lệ cho tới ngày nay, những công ty siêu
quốc gia của Mỹ của Anh vẫn đương ngày đêm tối mắt đào bới được nhiều nhất thế
giới những vàng, kim cương và u-ra-ni-um ở Nam Phi.
Chúng tôi không phải là khách đến Tan-da-ni-a có tổng thống
xách gậy thống chế bịt bạc ra đón rồi duyệt đội binh danh dự để thấy đất nước
hùng mạnh. Những ấn tượng lớn lao và trái ngược về Tan-da-ni-a mà tôi có được
chỉ bởi những cuộc bát phố, chen vai đi vào chợ, ra cảng và các nơi ăn uống,
vui chơi quần tụ. Một vùng phố xá, chợ búa nhộn nhịp rộn ràng mà cứ lặng lẽ như
kiểu sinh hoạt người Phi. Dưa hấu, dưa hồng và sọ dừa, cam, chuối chồng chất khắp
nơi. Khu dân cư đông đúc bao la vây quanh thành phố thuộc địa còn sót lại góc
vườn hoa rườm rà kiểu Anh, một gác chuông nhà thờ Tin Lành, một dinh thự đổ nát
ven biển...
Tự dưng, mấy hạt nước mưa lác đác rơi tiếng trầm tiếng thanh
trên mặt đường, trên mái tôn như mưa đá mưa lẫn nắng, loáng thoáng bóng mây. Cả
thành phố vội vàng bối rối đổ ra hứng mưa. Nhưng giọt nước trời chưa kịp đậu xuống
vai, cơn mưa đã tạnh. Mấy năm rồi, chưa khi nào mưa lớn hơn, chỉ có mưa dứ như
thế - cái nước trời hiếm hoi đến quái ác ở châu Phi.
Chị Plô-ra, nói chị đến Đa-ét-sa-lam càng nhớ Ma-na-goa đương
sôi sục cách mạng, không hiểu tại sao. Còn chị Da-la-na thì vẫn lặng im nghe bạn
nói, như thói quen. Tôi biết nói thế nào, khi Ma-ni-la, thành phố quê hương
tôi, những tòa nhà cao tầng chen chúc giữa những phố xá nằm ngập ngụa ngổn
ngang, lúc nhúc bốn phía. Chúng tôi là chủ vận mệnh đất nước, hay ai, chúng tôi
chưa biết.
Không, không, Ma-ni-la của chị Da-la-na. Man-na-goa của chị
Plô-ra, Hà Nội của tôi, Đa-ét-sa-lam của các bạn, nhất định thế và sự thực thế
rồi - số phận và con đường mỗi dân tộc đương phát triển ở châu Phi, châu Á, ở
Trung Mỹ giữa những thế lực giằng co, ánh sáng và bóng tối, địa ngục và hạnh
phúc. Ở Cu Ba, Đảng của giai cấp công nhân đã đem đến một quang cảnh rực rỡ còn
hiếm thấy trên trái đất, người da đen, da trắng, da đỏ, da màu hoàn toàn bình đẳng
với tư cách chủ tập thể. Nhưng ở Nam Phi, lại Nam Phi đẫm máu và nước mắt, cũng
người da đen ấy đã bị cấm ở chung phố với người da trắng, ai chống lại sự sỉ nhục
ấy đã bị giết bị bỏ tù cả đời, có người bị giam liền 23 năm, như Nen-xơn
Man-đê-la và còn đương bị giam.
- Nhưng các dân tộc ở Nam Phi đã quyết tâm chiến đấu.
- Nhân dân lao dộng Phi-lip-pin đương làm cho thế giới biết đất
nước 900 hòn đảo xinh đẹp giàu có ấy của ai.
Chị Plô-ra nói:
- Việt Nam đã ngót nửa thế kỷ đánh giặc. Tấm gương Việt Nam.
Chúng ta có tấm gương Việt Nam.
Các đất nước chúng tôi đã trỗi lên từ những bến bãi những con
sông, những cánh rừng dài rộng nhất của trái đất. Dù bọn đồ tể Bô-tha ở Nam
Phi, dù đế quốc Bắc Mỹ xảo trá hung hãn đến thế nào, chẳng qua cũng chỉ là những
thủ đoạn vô vọng cuối cùng. Cả chính nghĩa thế giới đã đứng lên rồi.
Chúng tôi vẫn đương đi trong những khu phố lao động đông vui
của Đa-ét-sa-lam. Mỗi nhà, mỗi góc phố, quanh các cổng chợ, sọ dừa, và cam chất
thành gò, những xe tải chở ngô chạy đuổi nhau liên tiếp. Những cánh đồng ngô ngoài
kia, đất hạn triền miên, giống ngô cũng phải thích ứng với thời tiết mà trổ ra
sức sống, như giống ngô hốc đá trên cao nguyên Đồng Văn - cây ngô thấp loắt choắt,
ở đây cũng thế, mỗi cây hai ba bắp hạt chắc, tròn xinh.
Chúng tôi đã ra tới ven biển. Gió khua ào ào trên hàng dừa.
Trong bóng mát gốc dừa tấp nập mọi công việc nhà chài, nhà
thuyền. Những tấm lưới vàng hây phơi giăng kín các gốc dừa. Các cụ già, các chị
xúm xít quanh những đống vỏ dừa đập giập bện thành chão. Từ thời xa xưa, ở châu
Phi, người đi sông nước đã biết chỉ có thừng chão bằng vỏ dừa mới chịu được độ
mặn nước biển.
Chiếc thùng tôn to tướng như cột tàu giữa khói um. Người ta sửa
soạn bữa ăn trước khi ra khơi. Những người đàn ông cởi trần đen bóng, từ dưới
thuyền vừa ghé, đội lên những bao bì cam vàng ối. Đương mùa cam, từ ngoài các đảo
Pem-ba, Ma-phi-a, cả đêm thuyền cam nối nhau ghé vào đất liền trước gốc dừa. Mỗi
dãy tàu đại dương trắng bạc mờ mờ đậu cạnh những con thuyền cổ sơ. Đấy cũng là
hình ảnh vừa trái ngược lại vừa hài hòa, hình ảnh thiên nhiên và con người giàu
có của những đất nước đương phát triển.
Đi đâu cũng không quên được cả nước Tan-da-ni-a múa hát, múa
và hát châu Phi bộc lộ niềm tin mãnh liệt và lòng khát khao yêu đời.
Châu Phi đen - tôi đương đi vào giữa thế giới đen, trung tâm
đen của những vùng đen. Đâu đâu cũng tiếng trống, tiếng hát và bừng bừng. Trên
bãi cát bờ biển, giữa vườn cỏ dinh tổng thống.
Ngay bên đường chúng tôi đương qua, một người khuỳnh gối vần
nghiêng mặt trống. Cả cái tang trống và tiếng trống cỡn lên dưới bàn tay kỳ dị
chập chờn vả xuống mặt trống. Tiếng trống rầm rộ gọi tất cả các cô gái khắp bãi
đến nhảy quanh tiếng trống. Những làn sóng ngực, sóng lưng cuồn cuộn, những tiếng
đánh lưỡi đồng loạt, ngỡ như tiếng lạc đà gọi đàn quạ sa mạc.
Ôi mầu đen, mầu đen của huyền diễm bờ Ấn Độ Dương. Tiếng trống,
trống cái, trống con, tiếng trầm tiếng đục bật ra nơi bàn tay, ngón tay, cùi
tay. Châu Phi rừng rực trống và múa. Tiếng đánh lưỡi lại nổi lên như đàn ngựa
đàn lạc đà hý rầm rập qua sa mạc.
Chị Da-la-na, công nhân dệt ở Ma-ni-la, chị Plô-ra, công nhân
ngành luyện kim ở Ma-na-goa - quê chúng tôi ở những nơi hai đầu đại dương,
chúng tôi đến Đa-ét-sa-lam những đêm những ngày trong tiếng trống và trong những
cơn múa châu Phi. Phút chốc cảm nhận được sự cảm thông sâu xa - những đất nước
và con người khao khát đương vùng lên.
Tô Hoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét