Ký ức phiên lãng 4
Chủ nhật Ô-đét-xa
TRONG CUỘC CHIẾN TRANH vừa qua, thành phố cửa biển Ô-đét-xa bị
tàn phá đến đỗi một bức tường, một kè đá, một cái cầu, phát xít Đức cũng đặt
mìn đánh sụp nốt, trước khi chúng rút chạy.
Tôi đến Ô-đét-xa bây giờ chỉ thấy những phố phường và lâu đài
xinh đẹp. Tôi đến Ô-đét-xa một đêm cuối thu trời trong. Ô-đét-xa xòe ra như một
vùng hoa lửa chói lọi lên tận lưng trời lẫn với các vì sao. Tôi đã chỉ thấy
nguy nga, tráng lệ và kỳ ảo như hình tượng trưng Ô-đét-xa: người đàn bà xõa dài
tóc vượt ngọn sóng.
Nhưng, một hôm tôi đi vào một khu phố, thấy giữa những tòa
ngang dãy dọc đồ sộ có một ngôi nhà đổ nát còn trơ lại mấy mảnh tường đá ong.
Trước chiến tranh, đấy là trường trung học số 36. Bây giờ, Ô-đét-xa đã xây lại
trường trung học số 36 ở chỗ khác. Nơi đây, cái trường học của trẻ em bị phá được
giữ lại làm một di tích chiến tranh.
Người Ô-đét-xa cố tình để sót lại vết thương chiến tranh ấy.
Tôi càng rõ thêm tính người Ô-đét-xa vốn sinh sống trên đất liền cũng như trên
mặt biển, có nhiều đức tính kiên nhẫn, gan dạ, vừa thâm thúy lại vừa hồn nhiên,
rất hồn nhiên.
Ngày trước, I-van Pét-tô-vích Gay-đa-ên-cô là một người lính
thủy. Cuộc đời Gay-đa-ên-cô cũng như hết thảy người Ô-đét-xa, dù bây giờ làm gì
nhưng thường thường ai cũng từng sống trên bể, làm nghề bể và đã đi bể, hoặc phục
vụ cho nghề bể. Cho nên, cũng không có gì đặc biệt, khi ta biết, ở lứa tuổi
Gay-đa-ên-cô, như biết bao người cùng lứa tuổi ấy, Gay-đa-ên-cô đã trôi nổi khắp
các đại dương. Anh từng đến Sài Gòn nước ta. Anh đã đến Tây Ban Nha năm 1934,
có mặt trong đạo quân tình nguyện quốc tế chống phát xít Phờ-răng-cô. Gay-đa-ên-cô
cao lớn, tóc vàng, thích nói cười, trông đã biết ngay người Ô-đét-xa. Khách lạ
có thể dễ nhận thấy một vóc dáng, một lối ăn nói, một tâm hồn như thế của những
người cửa bể Ô-đét-xa. Mà lạ, ai đến đây ở rồi cũng cứ Ô-đét-xa hóa cả.
Nhiều dân tộc các vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, Trung Đông
đã tới cửa bể này từ thế kỷ trước. Người U-cờ-ren, người Nga, người Ý, người Đức,
người Ba Lan, người Rumani, người Do Thái, người Tác-ta, người Thổ... nhưng bất
cứ ai, chỉ ít lâu sinh sống trên cửa bể, đã trút bỏ những thói quen và bắt đầu
nhiễm tính nết Ô-đét-xa. Thật ghê gớm, Ô-đét-xa cũng giống phần đông cửa bể
trên thế giới, nó “ăn” được người!
Người Ô-đét-xa phóng khoáng, lạc quan, lúc nào cũng sẵn một
kho chuyện hóm hỉnh.
Gay-đa-ên-cô muốn khoe cho tôi biết rượu vốt-ka của Liên Xô
là một thứ rượu ngon có cỡ, một thứ khẩu vị quốc tế, Gay-đa-ên-cô kể:
“Hai mươi năm trước, tôi còn làm thủy thủ. Lần ấy, tàu vào cảng
Nữu Ước. Chúng tôi lên bộ. Người lính hải quan nước Mỹ gác bến hỏi những người
thủy thủ Liên Xô đầu tiên vừa lên bờ:
- Các anh có đem rượu vốt-ka đấy không?
Trông bộ mặt, con mắt thèm khát của lão ta, tôi biết ngay câu
hỏi ấy chẳng phải của một người làm phận sự hải quan. Tôi liền đưa cho lão ta một
chai vốt-ka bố. Lão ta cười rất to, rồi một tay lão nắm cổ chai rượu, một tay
lão chìa cho tôi chiếc dùi cui trắng. Lão nói:
- Chúng ta đổi hai thứ này kỉ niệm cho nhau!”
Thật là chuyện Mỹ nguyên si do một thủy thủ Ô-đét-xa kể.
Nếu người Ô-đét-xa vui tính như phần nhiều người các cửa bể
thì họ còn có một tính khác, đó là tình yêu đặc biệt đối với Ô-đét-xa của họ.
Chưa đặt chân xuống Ô-đét-xa, khi máy bay mới xuống độ thấp,
hành khách đương rục rịch lấy áo khoác, chuẩn bị xuống, chị phục vụ trên tàu đã
nói một câu như nhận xét, như phân trần, lại nửa như hờn dỗi: “Ô-đét-xa chúng
tôi về mùa này thì chỉ có người đi, không có người đến”. Ý nói bóng rằng, bây
giờ thì vắng người đến, nhưng người ta đã phải nô nức đến nhiều với mùa hè tuyệt
vời của Ô-đét-xa. Thật là thú vị, chưa giáp mặt mà đã được nghe mấy lời “tựa”
tình tứ xiết bao. Rồi, vào đời sống hàng ngày của người Ô-đét-xa, tôi còn biết
những thứ “Ô-đét-xa tính”, lúc vui cũng như lúc buồn, đều sắc một nét chân thật
và hồn nhiên vậy. Họ quả quyết nào cá Scum-bờ-ri-a lẳn mình, thịt chắc,
chỉ các vùng nước quanh cửa bể Ô-đét-xa mới có. Nào Nhà hát Thành phố của
Ô-đét-xa lâu đời của châu Âu - cũng có nghĩa là một nhà hát lâu đời nhất thế giới.
Nào mùa đông này thì chỉ riêng Ô-đét-xa mới có hoa cúc trồng được ngoài trời...
Trong viện Bảo tàng Lịch sử, xem những hiện vật, tài liệu cuộc chiến đấu dũng cảm
của thành phố anh hùng Ô-đét-xa 1 thấy một mảnh giấy viết bút chì bỏ vào một
cái chai nút kín. Mảnh giấy nguệch ngoạc dòng chữ: “Ở nơi này chúng tôi đã chiến
đấu quên mình vì Tổ quốc”. Ô-đét-xa giải phóng, người ta cày vỡ hoang lại những
cánh đồng của nông trang ngoại thành, đã nhặt lên được cái chai đựng thư vĩnh
biệt ấy. Người đi bể nếu gặp nguy hiểm, thường bỏ cái thư vào chai rồi thả xuống
nước làm hiệu. Đó là phong tục trên sông nước đã lâu đời. Cái chai mang thư
vĩnh biệt Tổ quốc vùi trong ruộng này của người lính thủy đã lên chiến đấu bảo
vệ cửa bể. Khi cùng đường, họ đánh dấu lại cho cuộc sống. Cái chai đựng thư vùi
trong đất cũng như cái chai đựng thư vùi trên sóng. Lại có những chiến sĩ hải
quân lên chiến đấu trên bộ, khi rút lui xuống nước đã đứng đầu thuyền, giơ tay
hô: “Ô-đét-xa hãy chờ chúng ta! Ô-đét-xa hãy chờ chúng ta về!”. Thật như thế,
giữa mùa hè năm 1944, những người lính phanh cổ áo thủy quân đã trở lại tấn
công giải phóng cửa bể thân yêu. Vẫn một tin tưởng hồn nhiên như khi ra đi, họ
lại giơ tay lớn tiếng chào trở về với Ô-đét-xa quê hương.
Hôm nay, người thủy thủ cũ Gay-đa-ên-cô đưa tôi đi chơi cửa bể
và các bến tàu Ô-đét-xa. Ngày chủ nhật, Ô-đét-xa chan chứa duyên dáng thiên
nhiên như một cô gái đương thì. Trời và nước Ô-đét-xa trong xanh một màu. Màu
xanh lơ đậm. Có lẽ không phải. Một màu xanh kỳ lạ, xanh thăm thẳm, xanh thủy
tinh. Cũng không phải. Tôi chưa hề bắt được màu xanh lạ ấy trên trời bất cứ ở
miền nào nước tôi.
Ô-đét-xa vào mùa đổi lá khoác một vẻ đẹp khác thường. Trên những
con đường gọn ghẽ dọc bờ bể, lá cát-stan vàng chóe rụng xuống. Lá vàng rơi lao
xao như hoa hòe bay lẫn với trăm nghìn màu áo quần người đi đường. Chưa ai nghĩ
đến mặc rét. Ô-đét-xa chưa xuống tuyết, đương còn mùa thu. Tôi vừa từ phương bắc
xuống, với cái áo cổ lông cừu bù xù chưa hợp thời. Có lẽ sáng ấy tất cả Ô-
đét-xa cũng chỉ một mình tôi mặc áo lông cừu đại hàn ra phố. Ở đây, đi ngoài đường
chưa phải mặc áo choàng và xỏ đôi giày sù sụ chống tuyết. Người ta còn có thể
khoe trong ánh trời những màu áo quần rực rỡ và màu da tốt tươi nhất. Các chị rất
thích thời tiết này. Các chị lộng lẫy phơi phới trên đường. Họ muốn níu hơi hướng
những ngày mùa thu đáng yêu đi chậm, còn sót lại, như hôm nay.
Ô-đét-xa xanh trong một màu. Người ta bảo nước Ý đẹp nhất
châu Âu. Trên nước Ý đứng chỗ nào cũng thấy bể. Ở nước Ý quanh năm bao phủ một
nền trời xanh và hơi bể thì suốt đời ướp lên mặt đất một khí hậu hiền hòa. Các
bạn Ô-đét-xa bảo tôi rằng nhiều cái Ô-đét-xa giống đất Ý. Trước nhất là màu trời
xanh trong. Và các bạn đã dẫn tôi đến những nơi giống Ý. Có một quãng phố Nhỏ
đã được giả làm phố xá Ý để quay ngoại cảnh cho phim “ Ruồi trâu ”. Phố
ấy giống phố ở Vơ-ni-dơ, mặc dầu nhà Ô-đét-xa không ngồi trên mặt nước. Đây có
những cổng, những cửa cuốn và những bức tường rất Ý. Tôi chưa hề được đặt chân
lên cái doi đất của châu Âu dũi ra giữa Địa Trung Hải là nước Ý bao giờ. Nhưng
tôi đã đi trên các con đường ven biển của Ô-đét-xa trong óng như những ngấn nước.
Cả ba phía Ô-đét-xa đều quay mặt về bể. Tất cả những đại lộ của Ô-đét-xa đều
song song với bờ bể. Trông xa tun hút phẳng như những cửa sông chảy ra bể. Ngõ
phố nào trổ xuống bể cũng thấy lưng trời xanh phía trên. Và đứng chỗ nào cũng
chỉ một trời xanh, trời xanh lạ lùng. Nhà văn Kuyếc-di-ô Ma-la-pac thường tả
thành phố Náp ở Ý. Ta đọc phong cảnh trong truyện và tưởng tượng thêm ra, bao
giờ cũng đẹp hơn phong cảnh thật. Nhưng, trông Ô-đét-xa, tôi cảm thấy thành Náp
trong tưởng tượng tôi có thể còn thua đây. Thật thế, hỡi thành phố cửa bể tuyệt
vời của tôi, mà những đường phố dài trông nghiêng sang, bao giờ cũng thấy đằng
xa những tầng gác hai, gác ba, có lan can chạy dài, những cổng cuốn uy nghiêm
kiểu thế kỷ trước, những cánh cửa có dóng sắt và vấu cột, như cột neo thuyền,
nhưng thật ra là những cổng cuốn vừa cho xe ngựa xưa kia các nhà quý phái đánh
vào.
Những hè phố hèm hẹp, quãng hơi vồng lên, quãng thì chúc xuống,
trổ ra những ngõ phố liền với biển, người đi từng đám. Mỗi quãng bờ hè lại có một
cái quán bát giác nhỏ bán giải khát hoặc rượu bánh và bách hóa. Nom như những
tán tròn hoa mặt trời lổ đổ nở trên ngõ bể. Và xa nữa, bao giờ cũng thế, là bờ
bể mà tất cả nhà, cổng, hè phố, gác và lan can đều im như cất hình lên màu xanh
trời và nước bể. Hệt một chiếc cốc pha-lê đựng nước lá la-văng thơm thoảng, người
ta đã khéo đặt mấy nhánh lá đậm màu vào đáy cốc.
Nhưng trái lại, sóng bể tù mùa đông trên Hắc Hải dữ đã nổi tiếng.
Sóng bể tù, đánh quần đi quần lại, chỉ rình lật tàu. Người thủy thủ lão luyện gặp
sóng dữ Hắc Hải cũng phải dè chừng lắm.
Nhưng hôm nay, Hắc Hải nõn nà trải ra, mơn mắt nhìn như tay
vuốt trên tấm nhung hoa. Và dọc bờ bể, ngày chủ nhật ánh xuống nước như một súc
lụa sặc sỡ cuốn dài dưới hàng cây.
Chúng tôi qua ga bể số 2. A-các-đi, nơi nghỉ mát danh tiếng
thế giới của Ô-đét-xa.
Đầu sóng nhấp nhô chiếc cầu ra bể cho khách tíu tít xuống ga,
khách ra tàu. Đã qua ga số 3: Bãi Vàng.
Trên bờ biển cao Bãi Vàng, một dãy ba tầng nhà đá ong vàng sậm.
Đây là những lâu đài Nhà sáng tác một trăm năm mươi buồng của Hội Nhà văn Liên
Xô.
Trên bãi cát, thành đá, lô nhô mái nhà, vòm nước. Sương đã
quang. Trông xuống cột tàu chi chít mặt biển; trông lên ngoại ô, cứ đến mỏi tầm
mắt thì thôi, không hết được ống khói, mái nhà và vòm nước. Và người, nhiều người
và các thứ xe du lịch. Theo bờ biển, tấm lụa hoa mở dài - người đi ngày chủ nhật,
đông vui xôn xao. Người các làng về thành chơi. Người các công trường, các nhà
máy vào phố chơi. Người trong phố ra chơi ngoại thành thoáng đãng.
Những công nhân và từng toán thanh niên cộng sản tới xây dựng
bến mới đương lũ lượt về phố chơi chủ nhật. Người đi ô tô buýt, người xuống ga
bể. Họ ồ vào những đám đợi ô tô trong bến nắng đương khiêu vũ trong tiếng phong
cầm và tiếng cười. Trên những chiếc cầu gỗ xuống ga bể, từng đám người chờ tàu
đến. Áo váy như những bó hoa nhiều màu. Đám người chờ tàu cũng đương đàn hát và
nhảy ngay ở bến. Đám vui lay động như những giàn hoa rung rinh trong làn gió
thơm nhẹ. Nắng vàng ối đường cây bờ biển.
Chiếc ca-nô xinh xắn của chúng tôi cập vào một cầu tàu, gỗ
thành cầu còn thơm sực nức. Đã tới bến mới Ô-đét-xa. Các nhà máy ở Ô-đét-xa
đương chuẩn bị cho năm 1960 thi hành chế độ làm việc ngày bảy và sáu tiếng.
Trên bến mới, mỗi đợt làm bảy tiếng, các kíp càng thay phiên
liên tiếp làm, không biết chủ nhật, không có ngày đêm. Đâu cũng thấy người và
máy. Quay máy, đào đất. Bụi than mù mịt. Trên mặt nước, những cánh tay máy ầm ầm
quay đi quay lại. Công nhân mặc đồ lặn nhấp nhô bơi trên mặt nước, quanh tàu cuốc
có trục tròn móc liên tiếp lên từng hộc bùn lớn.
Trước đây hai năm, vùng bãi Lu-khôi Lúc-man chỉ là nơi bến nước
đọng cho những người Ô-đét-xa ra chơi câu cá. Bây giờ, một thành phố nhỏ của
công nhân cảng đã soi bóng bên bờ nước. Bến cũ Ô-đét-xa ngót hai trăm tuổi, có
sáu mươi cái cần trục tự động bốc hàng. Bến mới Ô-đét-xa mới lên một tuổi,
đương vỡ da vỡ thịt mà đã mọc lên hơn mười cái cần trục. Một già một trẻ vượt
nhau có một năm đã khác xa như vậy. Tôi tưởng như một lần nào tôi lại tới đây,
chắc tôi sẽ gặp thành phố Ô-đét-xa chạy ra tới đây vậy đó.
Lớn nhất các cửa bể Liên Xô, cảng Ô-đét-xa dài hơn hai mươi
cây số, kề bên thành phố, có hơn năm nghìn công nhân và kỹ sư làm việc. Một làn
sương thu mỏng phủ thấp trên đầu người. Những cánh tay cần trục, và những đàn
chim hải âu nhô lên, vút lên trên vòm sương đương tan.
Bên cổng chính vào cảng, một tòa nhà bốn tầng đồ sộ: Câu lạc
bộ công nhân. Ngày trước, quãng những năm 1891, Mắc-xim Goóc-ky đã có lúc lưu lạc
đến làm phu bốc vác trên cảng này. Tòa nhà xưa là quán rượu và tiệm nhảy.
Goóc-ky từ bến lên ăn uống rồi ngủ ngay đấy. Bây giờ, cái ghế tràng kỷ mà
Goóc-ky nằm, vẫn nguyên chỗ cũ. Bên tường đầu ghế đóng một chiếc biển đồng khắc
dòng chữ “Nhà văn Mắc-xim Goóc-ky từ năm ấy... đến năm ấy... thường ăn ngủ ở
quán này”.
Cảng Ô-đét-xa có ba bến: bến tàu du lịch, bến tàu vận tải và
bến tàu chở dầu. Ngày 19 tháng tư năm 1944, quân phát xít Đức chạy khỏi thành
phố, phá nốt chiếc cầu tàu cuối cùng. Sóng biển lại đánh vào bờ đá, như
Ô-đét-xa hoang vu ngót hai thế kỷ trước, chưa có phường phố và người ở. Khi
Ô-đét-xa khởi công dựng lại bến, có những người chuyên môn xây cửa bể nước Anh
đến thăm. Họ đã nói một câu bất hủ của những kẻ chào hàng nhà nghề: “Các ông phải
tốn tiền vào đây mười lăm năm và phải có bàn tay chúng tôi giúp thì mới xong được”.
Nhưng chỉ trong ba năm, Ô-đét-xa đã làm sống lại được tất cả các bến cũ, không
có người Anh giúp. Chẳng những thế, bến Ô-đét-xa ngày nay còn to gấp ba trước.
Ngày trước, các bến chỉ có mười lăm cái vừa cầu tàu, vừa cần trục. Bây giờ hơn
sáu mươi cái. Và cầu tàu nào cũng to rộng thênh thang, đón dễ dàng vào trong
lòng những chiếc tàu đến cỡ trên hai vạn tấn.
Bến tàu vận tải Ô-đét-xa buổi sớm. Trời xanh trên cao, nhưng
sương mù còn đương tan dài mặt bến. Từng đàn hải âu vi vút. Những cần trục nhấp
nhô làm việc. Mấy tàu vận tải Bi-lê-ô-rút-si, tàu Mắc-xim Goóc-ky ở Địa Trung Hải
vừa vào bến. Tàu Páp-lốp mới từ Thái Bình Dương về. Cao-su mua ở Viễn Đông về dỡ
dưới hầm tàu lên còn chất bao từng núi, trắng xóa cả bến. Ven đường, trước cửa
nhà kho, sắp hàng những máy kéo, cày máy, bừa máy xếp dãy như chiến lũy. Hàng ấy
sắp sửa xuống tàu đi Cam-pu-chia, đi Ê-ti-ô-pi, đi Ai Cập, đi Tích Lan, đi Ấn Độ,
đi Hải Phòng... Trên cao, những chiếc cần trục lủng lẳng thò cánh tay có ngoàm
sắt tự động xuống mỗi lần quắp lên hàng chục bao đựng cao-su hoặc cả một chiếc
máy kéo nghênh ngang rồi bốc hẳn ra, thả xuống tận hầm tàu, thả xuống lưng những
chiếc xe vận tải hạng đại đã đứng từng dãy, chờ sẵn.
Một đoàn tàu đánh cá voi vừa rời bến. Đoàn tàu mười lăm chiếc,
quây quần mười bốn tàu “con” với một tàu “mẹ”. Những chiếc tàu “con” tỏa đi rồi
lại châu tuần về quanh tàu “mẹ”. Đoàn tàu xuống săn cá voi dưới Nam cực, chừng
nửa năm mới trở về.
Chúng tôi đến dãy bến tàu chở dầu.
Ngoài xa đã tắt từ lâu tiếng còi như tiếng hú đàn sói bể, thế
mà vẫn còn quanh quất tiếng rúc dài và hình đoàn tàu “mẹ”, tàu “con” đương đi
trong sương mù. Thật thì đoàn tàu đi đã xa. Nhưng câu chuyện của người phụ
trách cái bến chở dầu còn đương kể, sôi nổi thú vị, tưởng như đoàn tàu đánh cá
voi còn đậu ngoài bến. Tôi chưa từng gặp ai vui tính, kể chuyện lý thú như người
thủy thủ già ở bến tàu chở dầu này. Ông ta cắt nghĩa về lợi ích của cá voi như
sau:
- Cái giống cá voi là rất quý. Không có một mảy trên người nó
bỏ phí. Mỡ cá voi để làm nhiều thứ thuốc tốt. Tinh mũi cá voi có thể chế thành
một thứ nước hoa thượng hảo hạng. Nhớ nhé: nước hoa thượng hảo hạng của các bà
làm bằng tinh mũi cá voi. Cá voi phục vụ chị em. Vẫn chưa hết đâu. Những sợi
gân ở cái răng mềm của cá voi, gỡ ra, để làm nịt bụng. Các chị làm đẹp, muốn
cho thót bụng đều cần cái gân răng cá voi. Tóm một câu: giới phụ nữ rất quý cá
voi, văn minh loài người rất cần cá voi. Đoàn tàu đánh cá voi “Nước Cộng hòa
U-cờ-ren” chúng tôi đương đi xuống Nam cực làm cái nhiệm vụ mà văn minh và giới
phụ nữ đòi hỏi.
Đằng xa hiện ra một chiếc tàu vào ăn dầu. Những tiếng còi
“hút hút” rúc lên như tiếng sói biển, khiến mọi người chú ý. Câu chuyện vui của
chúng tôi phải bỏ đoàn tàu đánh cá voi, trở lại bến tàu. Bến tàu chở dầu biệt lập
ra một khu riêng. Con đê ăn ra mặt biển như hai vai một người lực lưỡng mấp mé
mặt nước xanh biếc ánh dầu. Bến này của Liên Xô chuyên bán ra dầu ma-dút và chở
thuê dầu săng cho nước Cộng hòa nhân dân Rumani. Hàng dãy tàu ống khói trắng
sơn màu cờ nhiều nước khác nhau ngủ dọc đê biển, vừa ăn đầy bụng dầu, đương sắp
đi Thụy Điển, đi Ý, đi Pháp. Ống dẫn dầu lên tàu như những con trăn khổng lồ
còn quằn ngổn ngang trên mặt đê.
Người thủy thủ già khoát tay trỏ ra thân đê bể thẳng băng,
đôi chỗ chon von mấy đám cây nhỏ. Ông vẫn rất vui, rất hăng, nói rung cả bộ râu
ria vàng chóe:
- Các đồng chí hãy nhìn xem! Cái đê đắp ra bể ngăn nước làm bến
thì còn có gì nữa, ngoài đá và xi-măng. Nhưng không, chúng tôi không chịu sống
khô khan như vậy. Chúng tôi đã làm theo thói quen kiên nhẫn của Ô-đét-xa khi
nhân dân chúng tôi moi đất làm thành phố này. Chúng tôi đã khiêng đất xuống
đây, đắp thành luống để trồng hoa hồng, trồng táo, trồng cây cát-stan có bóng
mát. Chúng tôi đã làm một việc mà bao giờ và ở đâu loài người cũng ao ước là chỗ
nào có đất thì ở đấy phải có cây cỏ. Chúng tôi lại làm chuồng nuôi bồ câu.
Khách lạ cứ đặt chân đến đầu cái bến chở dầu này là cảm thông ngay với tình yêu
hòa bình của chúng tôi.
Rồi người thủy thủ già ấy phanh ngực áo, đưa chúng tôi đi dọc
trên thân đê bể. Những cây cát-stan mới trồng còn gầy leo khoeo. Nhưng chúng đã
rất tốt, rất khỏe trong con mắt lạc quan đặc biệt Ô-đét-xa của ông phụ trách bến.
Chưa hết. Lúc chia tay, ông còn làm quà cho chúng tôi một câu
chuyện:
- Cũng chuyện cái bến chở dầu này. Năm ngoái, nước Ca-na-da đến
mua một chuyến dầu ma-rút Liên Xô. Người của họ tới đây trông nom bơm dầu và sắp
xếp hàng hóa lên tàu. Chuyến ấy đến lượt chiếc tàu “Các Mác” chở dầu. Những ông
khách hàng Ca-na-da của chúng tôi chỉ mới trông thấy tàu “Các Mác” đã hốt hoảng
quá. Họ nhất định bắt chúng tôi đổi cho một cái tàu mang tên khác, dù phải trả
tổn phí đổi tàu nhiều thế nào họ cũng chịu. Họ nói thật rằng nếu họ phải dẫn một
chiếc tàu “cộng sản Các Mác” to như thế vào bến thì họ chỉ còn có hai con đường
mà nhà nước Ca-na-da sẽ bắt họ đi, một là thất nghiệp, hai là ngồi tù.
Sương trắng, từng đám nhỏ, thấp thoáng nhạt dần trên cửa bể.
Những chiếc tàu tránh nhau trong sương rúc dài hiệu còi. Chúng tôi đương theo
đường bờ biển ra bến mới của Ô-đét-xa.
Cửa bể Ô-đét-xa ngày nay đã đứng lên như trước, hơn trước.
Nhưng người Ô-đét-xa chưa chịu bằng lòng cái bến già đã ngót hai trăm tuổi. Họ
không bằng lòng giống trước chiến tranh. Thời đại đã khác trước. Cho nên, khi dựng
lại bến cũ, Ô-đét-xa cũng bắt đầu làm một cái bến mới, thích hợp và hiện đại
hơn.
Bến mới của cảng Ô-đét-xa cách trung tâm thành phố ba mươi
cây số về phía tây. Vùng bãi cạn Lu-khôi Li-man, có một quãng eo bể tự nhiên
sâu mấy chục cây số vào đất liền. Cả cái eo cạn này trở thành một cái bể nhân tạo
sâu trên mười lăm thước. Những chiếc tàu to nhất thế giới đều ra vào thoải mái.
Hơn hai năm nay, công việc bến mới Ô-đét-xa rầm rộ phát triển. Tháng mười hai
1959, một cầu bến thứ nhất đã làm xong, đón được đủ các cỡ tàu vào.
Sớm chủ nhật ấy tôi đi chơi bến mới. Cùng đi với tôi, vẫn nhà
tiểu thuyết I-van Pét-tô-vích Gay-đa-ên-cô. Chúng tôi rủ thêm được nhà thơ trẻ
I-van Ri-a-chên-cô. Một ca-nô nhỏ - chiếc ca-nô thường ngày chở khách các ga
ven bể, đưa chúng tôi đi.
Những ga bể ven bờ Hắc Hải. Trên mặt sương nhạt nhạt dần, những
tiếng còi tàu như thăm thẳm từ ruột bể nứt lên. Cửa bể cuối thu, lá cát-stan
vàng lót đầy đường. Khi mù sương đã cất quang, thinh không lồng lộng trong xanh
bay lượn từng đàn hải âu cánh trắng. Trông lại thành phố, Ô-đét-xa đứng sừng sững
những tường đá ong vàng đậm. Càng xa ra ngoài càng tăm tắp. Không trông thấy
sinh hoạt của người nữa, nhưng vẫn thấy nguy nga những công trình kiến trúc.
Hàng cột bình phong của Cung Thiếu nhi ánh lên như những chiếc ngà voi khổng lồ.
Pus-kin vẫn đời đời đứng nhìn xuống bến suy nghĩ trầm ngâm. Trên nóc một lâu
đài kia vẫn trông rõ hai tượng đàn bà ngồi. Người nhìn ra bể là thần Ngày, người
quay mặt vào trong là thần Đêm. Đằng xa, lô nhô bãi chơi, bãi tắm xinh xắn viền
lưỡi cát nhỏ bên chân đá. Những nhà an dưỡng người hỏng mắt, nhà dưỡng lão, nhà
nghỉ mát thấp thoáng trong bóng cây. Xa kia, xanh mờ đường đi Xê-bát-tô-pôn.
Ngoài khơi Hắc Hải, sóng rập rờn lặn vào sương tan. Tôi đã đến
bể Ban Tích, một ngày bình thường. Tôi chỉ thấy một màu biển vẩn đục, nhạt nhẽo.
Không thể ví Ban Tích với trời nước Hắc Hải hôm nay. Hình như màu nước kỳ lạ Hắc
Hải khá hòa hợp, ăn nhịp với nền xanh trời và màu vàng óng ả trong cây lúc đổi
mùa. Từng dải nước xanh lơ, từng dải nước xanh đen từ bờ bể nguồn ra. Đấy Hắc Hải
là một thảm rêu ánh lên màu xanh đen khác thường đó. Người ven biển cũng nói rằng
bể này thành tên là “bể Đen” còn vì những khi mây xuống thấp thì nước Hắc Hải
biến ra màu đen thẫm. Những người thủy thủ đi nhiều biển và đại dương không gặp
đâu một màu nước thẫm đen như màu nước Hắc Hải. Hắc Hải rất hiền về mùa hè. Nó
là bể ưa thích của người nghỉ ngơi.
Chúng tôi đi khỏi khu bến mới Ô-đét-xa đương dồn dập công việc.
Ca-nô trở về nhởn nhơ ven Hắc Hải. Ô tô trên đường, ca-nô dưới bể, như những xe
hoa. Đây lao động, kia giải trí, quang cảnh thông thường khắp mọi nơi.
Bữa ăn trưa của chúng tôi trong phòng ăn xinh xắn của ca-nô.
Tôi mới biết rõ hơn một chút cái khả năng uống của anh thủy thủ Gay-đa-ên-cô
năm xưa đã từng cho lính hải quan bến Nữu Ước một chai vốt-ka bố. Sóng Hắc Hải
hôm nay chẳng có gì đáng gọi là sóng. Nhưng, cũng không phải là một cuộc chơi
vui trên đất. Những ngọn nước rập rềnh đôi khi hắt xô người lại, có lúc người uống
đã phải giữ lấy cái chân cốc. Cứ thế, nhà tiểu thuyết Gay-đa-ên-cô và nhà thơ
trẻ tuổi Ri-a-chên-cô ngả nghiêng trên sóng biển và sóng vốt-ka suốt dọc đường.
Chúng tôi trở lại bến cầu tàu du lịch đón mấy bạn nhà văn U-cờ-ren
đi du lịch châu Âu về. Trên tàu “Thắng Lợi” của Liên Xô, họ vừa làm một vòng Địa
Trung Hải, ghé nhiều bến, nhiều thành phố. Chiều nay, về tới đây.
Tàu đi tàu về như hội. Bến tàu du lịch có thang xuống như
Ô-đét-xa xuống đường hầm. Năm 1959, hơn hai triệu người các nước từ thang tàu ấy
xuống bến đến chơi Liên Xô. Có lẽ Liên Xô đương là một quãng địa dư trên trái đất
nhiều người đến chơi nhất hiện nay. Sân bay Mát-xcơ-va và bến tàu Ô-đét-xa là
những chiếc cầu bắc vào phe tư bản. Chỉ vài giờ, người ta tới Ăng-ca-ra, tới
Pa-ri và trở về chỉ vài giờ, đã thành những gặp gỡ quốc tế.
Dù sao thì một người như chúng ta, trong đời đã biết ít nhiều
bến tàu và trải ít nhiều những tiễn đưa xưa kia, trên Tổ quốc dày đặc bóng tối,
cuộc đi nào cũng chỉ là vất vả, mà kẻ đi về như xé đôi người. Tôi không thể nào
quên cảnh ga xe lửa ở Hà Nội, ở Sài Gòn, bến tàu thủy Nam Định, Thái Bình trong
những năm đói và những năm Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, khi phát xít Nhật
chiếm Đông-dương. Bao nhiêu người đói, người chết đau đớn rời bỏ quê hương! Tất
nhiên, không thế lấy đó làm một so sánh với hôm nay và ở đây, nhưng sao lúc này
tôi càng cảm thương những người không còn và cả quãng đời mình đã trầm luân những
khổ ải ấy. Không, nhà ngục đế quốc nhất định khác cuộc sống tự do của con người.
Bến tàu du lịch Ô-đét-xa hàng năm có hàng vạn triệu người Liên Xô đi về. Vạn
triệu người ấy là công nhân nghỉ hạn hàng năm, là cán bộ các ngành công tác, là
cầu thủ bóng đá, đấu kiếm, là một đoàn xiếc, là văn nghệ sĩ, họ đi công việc và
họ đi chơi ra nước ngoài. Không có người đi tìm việc, không có người đói xa lìa
quê hương. Bởi vậy, tâm hồn và con người họ trống dong cờ mở, chỉ biết có vui
như hội.
Trong khi đợi tàu “Thắng Lợi” về, chúng tôi lên xem một chiếc
tàu du lịch mang tên nhà phê bình văn học Bê-linh-ky. “Bê-linh-ky” là một tàu
du lịch đưa người chơi ven Hắc Hải và trên sông Đơ-ni-ép. “Bê-linh-ky” ra đời
năm 1952, xinh đẹp như một đóa hồng trứng. Thuyền trưởng, một sĩ quan hải quân
chuyển ngành. Tuổi hơn sáu mươi, nhưng rất quắc thước, đồng chí ấy đã đón chúng
tôi bằng một câu cảm động và khá khêu gợi: “Tôi chưa bao giờ đoán trước được sẽ
có một người bạn Việt Nam lên chơi “Bê-linh-ky”. Tàu “Bê-linh-ky” chúng tôi
quanh năm chạy dọc sông Đơ-ni-ép, qua những vùng đồng ruộng rất đẹp và người rất
đẹp! Tiếc rằng bạn không đi được với chúng tôi!” Nhưng khi lão thuyền trường của
chiếc tàu trẻ tuổi ấy biết tôi là người viết văn thì lại cười và nói: “Nhà văn
cũng như thủy thủ, đâu cũng đi được. Tôi tin sẽ có lần đồng chí đến đây, đáp
tàu “Bê-linh-ky” ngược sông Đơ-ni-ép với chúng tôi”. Tôi xin hẹn lại các bạn. Lời
nói phấn khởi của một người nhiều tuổi nhiều lạc quan rất Ô-đét-xa ấy đã bốc mạnh
thêm tưởng tượng của tôi. Rằng tới một mùa hè phương nam trong sáng và mát rượi
kia, tôi sẽ có dịp chơi sông Đơ-ni-ép trên chiếc “Bê-linh-ky” rất trẻ, qua
trong lòng những vùng giàu của đẹp người xứ U-cờ-ren biết bao thơ mộng.
Bên chiếc “Bê-linh-ky” nằm nghỉ, chiếc “Nước Nga” đương rời bến.
“Nước Nga” to nhất Hắc Hải và “Nước Nga” cũng thường qua lại trên Đại Tây
Dương. “Nước Nga” mình trắng bạch viền xanh, một khách sạn nổi đẹp muốt như chiếc
kiệu hoa quỳ khổng lồ thả trên mặt nước. Bấy giờ, mặt bể xuống sương còn bảng lảng
những tia nắng cuối cùng, càng nổi trắng phau những thân tàu, càng bạc thiếc những
đàn hải âu thoáng qua thoáng lại. “Nước Nga” từ từ dời bến - chiếc hoa quỳ trắng
từ từ trôi. Bến “Nước Nga” đỗ hở ra một quãng nước trắng hiu quạnh. Đàn hải âu
quanh quẩn bay tìm ăn trên làn nước vẩn. Những người đi đưa tàu lặng im, đứng xế,
muốn nhìn đuổi mãi cái tàu đi. Đằng kia, “Nước Nga” lên đèn sáng trắng mấy tầng
tàu. Những lỗ cửa tròn trên tầng tàu vẫn động bóng người lấp ló vẫy. Tựa một
đám hội đêm trên nước, “Nước Nga” lừ lừ trôi vào sương mù.
Chiếc “Nước Nga” vừa khuất, tàu “Thắng Lợi” ló ra trong mù
sương. Đằng kia, những chiếc nào nữa đến, chiếc nào nữa đi. Tàu đi và tàu đến.
Bây giờ tôi mới phân biệt được: người đón tàu cười nhiều hơn người đưa tàu. Tàu
tới. Trẻ con la hét, chỉ trỏ. Người lớn đuổi theo mạn tàu, đón chỗ nọ chỗ kia.
Các bà các chị càng quanh quanh rối rít.
Tàu “Thắng Lợi” sáng nay còn đậu cảng Ít-xtan-bun nước Thổ,
giờ đã đến đây. Vợ, chồng, cặp nào cặp nấy, các nhà văn Gôn-sa, Đơ-ba-nát-sky,
từ trên thang tàu bước xuống. Bạn bè xúm quanh. Tôi lặng lẽ ngắm các bạn mới,
nhưng trong lòng sôi nổi nghĩ: đây là những hành trình bình thường mà vô cùng
thú vị của nhà văn.
Tối hôm ấy, các bạn về khách sạn Ô-đét-xa làm một cuộc “tẩy
trần” có khiêu vũ. Tôi tiếc vì đã hẹn đến mừng sinh nhật bà An-na Mác-cô-na tối
nay. Tuy nhiên, sáng hôm sau, tôi vẫn dễ dàng gặp nhà văn Gôn-sa và các bạn còn
tiếp tục “tẩy trần” ở khách sạn Ô-đét-xa, trước khi ra máy bay về Ki-ép.
Khách sạn Ô-đét-xa có một người phục vụ đã luống tuổi. Thường
ở những nơi ăn chơi công cộng, vẫn gặp những người già lão luyện trong nghề, ai
cũng quý trọng. Tôi cũng chỉ biết chung như thế. Nhưng lần này, ngay từ hôm đầu,
Gay-đa-ên-cô đã làm cho tôi phải chú ý tới một người và một cái thú riêng mà
tôi chỉ thấy ở Ô-đét-xa.
Một người phục vụ trong phòng ăn tiến lại. Râu tóc đỏ như cước
già. Bộ quần áo trắng mới. Chiếc “nơ” đen nhánh. Gay-đa-ên-cô mời thuốc. Ông
già ấy rút thuốc, và tự nhiên, quen thuộc, ngồi xuống bàn với chúng tôi.
Gay-đa-ên-cô giới thiệu:
- Ông I-sim-ba-ê Đa-ki-ri-a I-bơ-ra-ghi-mô-vích nấu cà phê
“tuyếc” 2 nổi tiếng.
Và cười, thêm:
- Xưa kia, ông đã từng nấu cà phê cho nhà vua nước Thổ. Rồi
khi ông tới đây, các đàn anh chúng ta, Sê-khốp và Goóc-ky đã từng mê cà phê ông
I-sim-ba-ê nấu.
Chỉ một dòng thành tích ấy cũng đủ khiến tôi phải chú ý ông
già nấu cà phê “tuyếc”. Ông già I-sim-ba-ê, người dân tộc Tác-ta năm nay bảy
mươi tư tuổi. Dòng họ Tác-ta ấy đã nhiều đời sinh sống bên Thổ Nhĩ Kỳ, đã mấy đời
làm nghề nấu cà phê cho vua Thổ. Nhưng, cũng không vì bán cuộc đời và nghề nghiệp
cho chúa đất mà những người Tác-ta ấy được sung sướng hơn. Cho tới đời anh em
I-sim-ba-ê thì mỗi người phải ly tán mỗi nơi. I-sim-ba-ê phiêu bạt đến Ô-đét-xa
từ trước Cách mạng tháng Mười. I-sim-ba-ê đã thấy Sê-khốp đến đây. Sê-khốp rất
thú cái vị cà phê “tuyếc” của người thanh niên Tác-ta ấy. Đến bây giờ, người
Ô-đét-xa vẫn mê cà phê “tuyếc” ông già I-sim-ba-ê. Quả là kỳ thú, cái vị cà phê
I-sim-ba-ê! Những bạn từng đến Liên Xô bảo tôi rằng nếu anh đã uống cà phê phin
thượng hạng Hà Nội thì khó lòng anh ưa được cà phê Liên Xô. Khi tôi uống cà phê
câu lạc bộ Hội Nhà văn ở Mát-xcơ-va, tôi nghiệm các bạn ấy đã đe dọa khá đúng.
Dù rằng câu lạc bộ Hội Nhà văn đã công phu cầu kỳ sắm một máy pha cà phê của nước
Ý rất choáng lộn, đồ sộ, ta chỉ việc bấm từng nút điện thì ra ngữ bao nhiêu nước
sôi, xuống bao nhiêu đường và bao nhiêu cà phê sẽ vào cốc đúng theo sự cần thiết.
Thế mà nó vẫn chỉ thành ra nước đường cà phê thôi! Nhưng, đến như cà phê “tuyếc”
của ông già I-sim-ba-ê thì, ôi thôi! Lời khen cà phê phin Hà Nội đã hoàn toàn mất
hết hiệu lực. Cái vị cà phê Ô-đét-xa nấu lối “tuyếc” hôm ấy tôi đã uống cả một
phần bã, sao nó đậm đậm, bùi bùi, không nước đường cà phê như những thứ pha tồi,
cũng không quá tinh vi, ngon khéo như cà phê Hà Nội. Thú thực, chỉ chợt nhắp,
tôi đã mê ngay cà phê “tuyếc” của ông già Tác-ta I-sim-ba-ê. Không phải vì cái
lẽ khôi hài là ông từng phục vụ nhà vua nước Thổ hoặc quí cái ông đã từng nấu
cà phê cho Sê-khốp, Goóc-ky và Gay-đa-ên-cô bạn tôi bây giờ. Ở Ô-đét-xa, tôi chẳng
bỏ một buổi cà phê nào của ông. Chẳng những chỉ vì vị cà phê ngon nổi tiếng, mà
còn vì cảm tình thân thiết của ông già coi nghề chúng tôi cũng là một thứ nghề
nghiệp lân cận với nghề ông.
Ông già Tác-ta I-sim-ba-ê vẫn ngồi hút thuốc lá. Ông tò mò,
thưởng thức “xem, nghe” chúng tôi uống. Tới lúc cốc chúng tôi chỉ còn có tầng cấn,
ông mới đứng dậy.
Khách sạn Ô-đét-xa nhìn xuống mặt biển ngay trên cảng. Ông
nói:
- Mùa này đi chơi sáng chủ nhật thì thích đấy!
Gay-đa-ên-cô cười:
- Cũng bởi vừa uống cà phê “tuyếc” của ông I-sim-ba-ê!
Nhưng ông già I-sim-ba-ê có lẽ không chú ý câu khen đùa của
Gay-đa-ên-cô. Ông vẫn đương ngước nhìn ra. Ngoài kia, hơi đêm từ mặt bể bốc lên
còn đượm ướt đường phố. Qua những chòm lá cát-stan vàng, không khí lẫn cả màu
tím mặt biển hiu hiu gió. Có phải, bờ bên kia Hắc Hải là nước Thổ Nhĩ Kỳ? Ông
đương nhìn về nước Thổ. Ông I-sim-ba-ê vừa nói một câu khôi hài:
- Trong Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ chẳng biết còn cà phê ngon thế này
không?
Ồ, vua Thổ không biết nấu cà phê! Nước Thổ không có cà phê. Lấy
đâu ra cà phê ngon!
Nhưng, ngoài đường đương vui quá. Chúng tôi cũng không thể
còn kịp thưởng thức câu khôi hài của ông già Tác-ta đáng quý và đáng kính đã đến
tuổi hưu trí lâu lắm mà vẫn tiếc nghề không chịu nghỉ. Chắc ông sẽ cứ thong thả
nấu cà phê cho tới khi không nấu được nữa. Chẳng ai can ông được!
Đường cái lại sôi nổi một ngày chủ nhật đương quyến rũ ta ra
khỏi nhà. Bây giờ đã cuối thu, nhưng trời sương còn bảng lảng, nước bể mới bắt
đầu ấm, hàng ăn “Hạt Ngọc” ở A-các-đi vẫn mở cửa. Trên ghế, các cửa hàng nho,
táo chất đầy giá, thùng gỗ đựng cao lưng nhà, bề bộn cả ra vỉa hè. Những chùm
nho mọng trắng, mọng tím. Táo chín xanh, táo chín đỏ. Lại đương mùa hoa cúc trắng,
cúc tím và hoa hồng. Hai mươi nhăm đồng rúp một bó cúc bạch to một vòng tay ôm.
Đâu đâu cũng rực ứ hoa. Chỉ ở một thành phố ấm áp phương nam mới. Cho mãi tận nửa
đêm, quá mười hai giờ khuya, những chuyến xe điện đông nghịt người chơi ngoại ô
về, ánh đèn xanh đỏ lướt dữ dội dưới những tàn cây cát-stan. Những gốc liễu, gốc
phong chầu hai bên mặt đường đã đẫm sương và hơi biển.
Nhưng không phải cứ ngày chủ nhật thì ai cũng chỉ đổ ra đường.
Ngày chủ nhật ấm trời cũng chưa thể mê hoặc được hết thảy. Tôi biết gia đình
ông kỹ sư Phay-in Lép-ma-cô-vích, hai vợ chồng và mấy con nhỏ, họ ở nhà suốt
ngày chủ nhật và cứ chủ nhật thì chén rất sang. Tôi biết nhà ông Ga-đác Gia-cốp,
cán bộ hành chính một xí nghiệp kia, cả nhà đều mê vô tuyến truyền hình. Mọi
tin tức và những hoạt động vui nhất ngày chủ nhật, nào đá bóng, nào xiếc, nào
xi-nê, kịch, nào ca vũ đoàn văn công U-cờ-ren đều có thành tích hoạt động trên
cái màn bạc xinh xinh của máy vô tuyến truyền hình đặt góc kia. Trong phòng
khách gia đình, họ đã thu nhỏ lại được tất cả ngày chủ nhật giải trí ngoài trời.
Họ ít cần đi chơi đâu. Mỗi người có một cái thích. Ông Ga-đác Gia-cốp thì thích
như thế. Cũng như, trước kia, tôi cứ tưởng ở Liên Xô, chỉ có ăn tập thể. Không
phải, ở Liên Xô, ăn cơm gia đình càng là cả một sự thú vị. Ai muốn ăn gia đình,
ai muốn ăn tập thể, cũng thế thôi. Có điều là bếp núc lối châu Âu của họ rất giản
tiện không lích kích như ta. Thức ăn thì tạt vào hiệu thực phẩm nào mua cũng sẵn.
Thường thường, một bữa ít cần nấu, chỉ mua về rồi dọn ăn ngay. Mỗi nhà ở có một
bếp hơi, sạch như mặt bàn viết. Dù dùng đến bếp, bếp cũng rất gọn. Phần đông,
thanh niên chưa vợ hoặc chưa chồng thích đi ăn hàng. Nhiều khi, tất nhiên không
phải vì ngon hoặc vì rẻ, đối với lớp tuổi ấy. Tuy nhiên, có lẽ cũng do cái tính
chung của những người sở trường nội trợ, các bà các chị hay nhận xét rất khắt
khe: “Ăn hàng thì có tiện, nhưng đắt hơn ăn ở nhà”. Nhưng mà ăn hàng, ăn nhà.
Thế nào thì tùy thích, vẫn là câu chuyện mỗi người có một cái thích.
Người chơi ngoài đường phố mỗi lúc một nhiều hơn. Tôi đã tập
tọng phân biệt được vẻ và dáng người. Phụ nữ Ô-đét-xa dịu dàng, tóc nâu xõa, mảnh
người, ngực lớn, vế chân thon. Họ nói cười xởi lởi khác người Lên-nin- grat tóc
vàng hây và người Mát-xcơ-va kín đáo, trầm lặng. Ô-đét-xa có một vẻ gì nhẹ, thật
nhẹ. Vâng, Ô-đét-xa có những người đẹp vẻ đẹp vừa riêng vừa phổ biến. Một nét mặt
trái xoan. Đôi lông mày đen. Nước da tươi ròn đượm màu biển. Nhiều người từa tựa
như vậy. Khi một sắc đẹp tới mức có nhiều người từa tựa thì chắc rằng miền ấy
nhiều người đẹp. Tôi vẫn nhớ lời ông thuyền trưởng trên chiếc tàu xinh đẹp
“Bê-linh-ky” trên sông Đơ-ni-ép: “Tàu chúng tôi chạy qua những vùng xiết bao đẹp
của, đẹp người”. Mà Ô-đét-xa là một vùng trên cửa con sông hùng vĩ và tình tứ
này.
Ngoài đường hôm nay có nhiều người du lịch nước ngoài. Ở Liên
Xô rất thường gặp những người du lịch nước ngoài, gặp thì biết ngay. Họ đeo máy
ảnh, và đáng chú ý một đặc điểm, người du lịch Đức, có khi đeo tòn ten cả ba, bốn
chiếc máy ảnh trước ngực và bên sườn - cơ chừng họ muốn bảo ta là máy ảnh Đông
Đức đương tốt nhất thế giới!
Dọc đại lộ trên bến cảng, đông những người du lịch đeo máy ảnh.
Hỏi mới biết vừa có một chiếc tàu từ Thổ Nhĩ Kỳ chở tới một lúc những hơn năm
trăm nhà du lịch Mỹ. Thảo nào!
Từng toán các nhà du lịch đương nháo nhác chọn chỗ chụp ảnh.
Dưới chân tượng Pus-kin. Trước nhà hát thành phố. Bên bờ biển. Người Ô-đét-xa
xúm quanh. Nhanh chóng, người Mỹ và người Ô-đét-xa đã túm tụm trò chuyện trên
hè, giữa đường và dưới bóng cây. Không biết họ trò chuyện những gì, nhưng trông
rất muộn. Nghe loáng thoáng giọng tiếng U-cờ-ren, tiếng Nga, tiếng Mỹ, tiếng
Pháp và họ trò chuyện cả bằng ra hiệu tay, chân, mắt, miệng. Thỉnh thoảng, đám
người lại dãn ra để chụp ảnh, cười hô hố. Các chị đương đi đường cũng xúm lại,
làm quen với các bà già người Mỹ. Các bà già người Mỹ ăn mặc khá cầu kỳ. Trên đầu,
trên vai áo mỗi bà còn cắm thêm một cành lá giả xanh rờn. Người Ô-đét-xa bàn
tán nhiều về cái cành lá giả trai lơ đó, và chưa hiểu vì sao. Chuyến tàu này đã
đem đến Ô-đét-xa nhiều ông bà già người Mỹ. Có lẽ xưa nay những đồn đại hư hư
thực thực về Liên Xô đã khiến các cụ ấy quyết sang Liên Xô chơi dối già một
phen chăng?
Một nhà văn nổi tiếng của Mỹ là Giôn Xít-tinh-bếch, cách đây
vài năm đã đến Liên Xô. Ông ta cũng mang tâm lý sup “thử đến xem sao” na ná như
những ông già bà cả này. Ngày nay thủ đô Ki-ép của nước Cộng hòa Xô Viết U-cờ-ren
như một vườn trồng liễu và hoa hồng. Đã khác hẳn lúc Xit-tinh-bếch đến Ki-ép.
Và khi bóng tối vừa buông, ta từ cao nhìn xuống, thấy cả thành phố thủ đô lung
linh nghiêng tà áo dát bạc dát vàng kéo dài ra những chuỗi ánh sáng xa vời.
Nông thôn U-cờ-ren đã điện khí hóa. U-cờ-ren trong hạnh phúc và hòa bình! Ngày ấy,
từ những năm Ki-ép còn đầy mình thương tích chiến tranh, Xit-tinh-bếch đã phải
kêu lên: “Ki-ép, thành phố tuyệt đẹp! Những người đàn bà Ki-ép tuyệt đẹp...”
Chiến tranh đã cướp của Liên Xô ngót hai chục triệu người. Thế mà Xit- tinh-bếch
đã không nghe ở đâu một lời thù oán. Xít-tinh-bếch cũng chẳng ưa gì chế độ Xô
Viết, nhưng ông ta cũng không thể làm thế nào hơn là viết một câu kết luận cho
tập Nhật ký rằng: “Chúng tôi đã khám phá được một điều: dân tộc Nga
là một dân tộc đáng yêu. Những người Nga mà chúng tôi gặp đều rất ghét chiến
tranh. Ai cũng một nguyện vọng như tất cả mọi người: đời sống yên lành và ngày
một sung sướng” 3 . Xít-tinh-bếch không thể nghĩ khác. Bởi
vì, đó là sự thật.
Trông nét mặt hớn hở của những người Mỹ bình thường đương chụp
ảnh lia lịa, đương đi dạo, đương trò chuyện với người Ô-đét-xa, tôi có thể đoán
trước được cái câu kết luận của một người Mỹ đến đây đã ngót mười năm cũng sẽ
là cảm tưởng lúc ra về của những người Mỹ hôm nay. Phải, trước và sau, ở Liên
Xô cũng chỉ một sự thật. Những điều không thật đều thuộc về môn độc quyền bịp bợm
của bọn đế quốc mà thôi.
Trong vườn hoa trung tâm thành phố hôm nay có phiên chợ sách
- một phong tục Ô-đét-xa. Ba tháng một lần, có một ngày mở chợ bán sách tại vườn
hoa chính. Vườn rực trong nắng ấm và lá cát-stan vàng. Các cụ già chống gậy,
ngày nào cũng đến vườn ngồi chơi, lúc cụ đếm bước sưởi nắng trong lối đi, lúc cụ
ngồi im hằng giờ trên ghế tựa quanh các cầu hoa cúc, hoa hồng. Ngày chợ sách,
xung quanh các cụ thêm ngộn những người. Khắp vườn la liệt các bàn bán sách và
những quán sách mái gỗ. Cô bán sách, miệng cười đẹp như những bông hồng chúm
chím kia. Chen cạnh quán sách là những xe kem, những quán rượu bánh, những hàng
bán hoa. Một dàn nhạc hòa tấu suốt ngày trên bục cao giữa vườn. Bán sách, bán
kem, bán hoa, bán các thức ăn uống, đều là những cô hàng xinh đẹp.
Người ta đã đưa đến bán hàng ở cái chợ sách đáng yêu hôm nay
những đóa hoa hồng, hoa cúc chọn lọc của Ô-đét-xa đây. Có lẽ tôi nói không quá.
Tôi không khỏi chạnh nghĩ. Một bài báo Rạng đông của một phái tư sản
Pháp hôm 14 tháng mười 1959 viết về Liên Xô, nêu một so sánh mỉa mai: “Đến Liên
Xô, sẽ không lấy làm lạ khi thấy người phụ nữ phải làm tất cả mọi việc cực nhọc:
những việc về đường sá, cầu cống nặng nề không còn bí mật đối với phụ nữ. Trong
khi đó, ở các nước “tư bản”, người đàn bà chỉ là những cô nàng trong những công
việc đẹp đẽ...” Chắc rằng người viết báo Rạng đông kia muốn giấu,
quên tính con số những phụ nữ thất nghiệp, những phụ nữ không bao giờ có việc ở
các nước tư bản. Bởi vì phụ nữ thất nghiệp và vô nghề nghiệp thì không thể là
“những cô nàng trong những công việc đẹp đẽ” được, vấn đề lao động ở Liên Xô đặt
ra khác hẳn các xã hội tư bản. Người viết báo nọ không thể hiểu hoặc không muốn
hiểu. Ở Liên Xô, ai cũng làm việc, ai cũng có công việc làm. Không kể người ốm
yếu và người đến tuổi được nghỉ việc, đã có nhà nước và các cơ quan xã hội phát
lương hưu và cứu tế mãi mãi cho họ. Ở Liên Xô, các chị đã tùy khả năng, trình độ
và tùy thích - gánh vác tất cả công việc trong xã hội mà nam giới làm được. Chẳng
những thế, riêng đối với các chị, những công việc hợp tạng phụ nữ đã được xếp đặt
hợp lý đến độ tinh vi. Tôi chưa vào một văn phòng hành chính nào mà thấy ở đấy
có nam giới làm việc. Phải, nếu nhìn như người viết báo Rạng đông thì
họ sẽ có cớ hình thức để rêu rao rằng chế độ Xô Viết bắt phụ nữ làm mọi công việc
nặng nề. Nhưng, chúng ta chỉ có thể thương hại những người đàn bà ở bất cứ nước
tư bản nào, không có công việc, không có nghề nghiệp, chịu đói khát trụy lạc, bị
áp bức hành hạ, bị lệ thuộc vào người khác đến u mê như người bán mình. Trong
khi ở Liên Xô, tất cả phụ nữ đều làm việc. Người nào làm việc ấy. Đời sống vật
chất độc lập đã đem lại tự do cho mỗi người. Ở hội chợ sách hôm nay tôi đã thấy
các chị làm việc, cũng như ở khắp mọi nơi.
Trên sân khấu giữa vườn hoa có dàn nhạc. Từng lúc, máy phóng
thanh lại giới thiệu các tác phẩm có bán ở chợ, các tác giả có mặt ở chợ và các
nhà văn, nhà thơ ấy họ đương đứng đâu trò chuyện với bạn đọc và ký vào sách cho
các bạn đọc mua sách mình. Nhiều tác giả đã đến chợ sách. Phóng viên đài vô tuyến
truyền hình tíu tít làm việc suốt buổi. Người viết với bạn đọc thân mật chuyện
trò. Đôi khi họ đưa nhau ra ăn uống lý thú. Từ lúc gặp ở chợ sách, đã thành
tình bạn giữa người đọc và người viết. Chợ sách ồn ào thế cho mãi tới chiều.
Tối đến, bể nước giữa vườn phun lên như mưa ra ánh sáng ngũ sắc.
Công viên lại biến ra nơi hội họp tự nhiên của những người bàn tán về bóng đá.
Ô-đét-xa thích đá bóng nhất Liên Xô. Chỗ nào, ở đâu người ta cũng nói chuyện đá
bóng. Và cái nơi bàn tán nhiều nhất là ở vườn hoa ấy. Người đến bàn về bóng đá
trong vườn hoa đã thành một lệ nghiện. Người đến tán chuyện chỉ đứng, cứ xúm xụm
đứng. Chiều chiều, những tay thích và thành thạo tán chuyện bóng kéo đến. Không
quen nhau cũng bắt chuyện được. Người đến sau cứ bu vào, đắp chuyện vào đám đến
trước. Những hôm có đá bóng thì càng nghìn nghịt đông nữa.
Tôi đã đến cái chỗ tán gẫu công cộng về bóng đá, tối hôm ấy.
Đông chẳng kém chợ bán sách ban ngày. Người cứ chạy đám này nghe đám khác. Chỗ
nào thích thì đứng lại nghe, góp chuyện. Người xúm xít say sưa nói không ngớt về
trận đấu bóng của đội tuyển B Ô-đét-xa đấu với đội A của Mát-xcơ-va. Tôi đã đi
xem trận ấy. Tôi cùng đi với bà Mác-cô-na, người rất ham bóng đá. Các chị
Ô-đét-xa mê xem đá bóng như mọi người. Những trận đấu được tổ chức bất kể ngày
nào, không cứ chủ nhật. Đội tuyển Ô-đét-xa đã thắng Mát-xcơ-va ba bàn, thua một.
Trận đấu vừa chấm dứt, người xem chạy ùa vào sân cỏ, xô rạt cả công an ra can.
Họ kông kêng những người vừa chiến thắng, rước quanh đi mấy vòng. Rồi cuộc bàn
luận về trận thắng oai hùng của Ô-đét-xa còn kéo dài tới mấy đêm sau mà các đám
tán gẫu ở vườn hoa vẫn còn xúm xít. Thật khuya, chuyến tàu điện cuối cùng xanh
biếc đèn ràn rạt chạy về, những người say bóng đá mới chịu rã đám. Rồi tối mai
lại bắt đầu, vẫn đông đặc, vẫn xôm chuyện như hôm trước, hơn hôm trước.
Từ phía trước Nhà hát Thành phố, tôi lững thững theo con đường
dọc biển. Đã khuya. Cuộc biểu diễn của đoàn văn công dân tộc U-cờ-ren tan từ
lâu. Những chiếc tàu điện khuya vun vút sáng xanh sáng đỏ dưới bóng cây, nghe
đã thưa chuyến. Trên bể, trăng xuộm vàng như chiếc hải đăng cũ. Mặt bể đầm ánh
sáng. Dường như ánh nước đương dâng cao đến lưng trời. Bây giờ đường phố không
còn đám đông ồ ạt nữa. Người ta lặng lẽ đi chụm thành đôi; từng đôi đi trên những
con đường thấp thoáng bóng cây. Ngày chủ nhật đã gần hết. Một ngày chủ nhật đầy
đủ. Một ngày chủ nhật vui. Từ đồng hoang Trung Á lên các đô thị phương Bắc, xuống
vùng ôn đới phía nam, ở đâu tôi cũng chỉ gặp những ngày chủ nhật vui sướng và đời
sống con người thật thong dong.
Một ngày chủ nhật sắp qua, như một ngày hội lớn sắp hết. Có
phải vì cái vị cà phê “tuyếc” của ông già Tác-ta I-sim-ba-ê mà tôi còn chưa muốn
dời chân về lầu khách sạn? Hay tôi còn vương vấn với đêm thu Ô-đét-xa tuyệt đẹp
này? Tôi cũng không biết và không muốn biết. Vì lẽ nào cũng được cả. Đêm Ô-đét-
xa thẫm xanh. Ngước lên, tưởng như ta đương đi trên boong tàu ra khơi. Một làn
sương mỏng nhẹ lướt ngay trên mặt. Những ngôi sao ẩn hiện, le lói. Trong không
khí có tẩm cả hơi đêm lạnh ngọt. Đêm đứng im một vẻ đẹp dị thường. Khác
Mát-xcơ-va không lúc nào nghỉ. Ô-đét-xa càng về khuya càng lắng một yên tĩnh
thú vị. Xa xa, những tiếng thì thào mơ hồ đưa tới trước thềm, trên cửa kính,
như tiếng động mê ngủ của em bé thức giấc cựa mình. Tiếng nước vỗ và trăm nghìn
tiếng rì rầm xa lạ của biển cả. Dưới cửa bể trắng xóa ánh sương và sáng điện, nổi
một tiếng còi tàu như tiếng nấc từ ruột bể lên. Lúc nãy có người nói tàu chở
hơn năm trăm người du lịch Mỹ lại trở về Thổ Nhĩ Kỳ đêm nay. Tiếng còi tàu này
đây.
Những người du lịch Mỹ ấy tôi đã gặp họ từ sáng. Họ đi trên
đường phố. Họ chơi chợ sách. Họ xem đá bóng. Họ xem văn công U-cờ-ren biểu diễn.
Họ ăn uống và nhảy ồn ào khách sạn “Đỏ” và khách sạn “Ô-đét-xa”. Bây giờ họ
đương đi khỏi Liên Xô. Những người Mỹ ấy là nhà triệu phú, nhà kỹ sư, nhà
chuyên môn kinh tế, là nhà thể thao, nhà báo... là những người thừa tiền vô
công rồi nghề... là những ông già bà cả giàu có đi chơi dối già. Những người Mỹ
tò mò đến xem một đất nước đương tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản. Ồ, những điều họ
nghĩ sẵn nay đã khác những điều họ mang về. Họ không thể thấy như những người cầm
quyền nước Mỹ đã nói xấu và dọa dẫm họ. Họ đã đi khắp Liên Xô, nhưng họ không
thể gặp đâu, nghe đâu những chuyện khủng khiếp, ít nhất cũng bằng chuyện “chuột
ăn thịt trẻ con” 4 ở nước Mỹ. (Trước khi đi, họ đã được bài vở
và tranh ảnh nhiều báo chí Mỹ quả quyết ở Liên Xô đầy rẫy những chuyện khủng
khiếp hơn thế nhiều). Nhưng họ đến đây chỉ thấy một đất nước chỉ có làm ăn,
giàu có và bình yên. Khác nước Mỹ, của cải đến cho một số người, ở đây, công việc,
tiền bạc và yên vui đã đến với tất cả. Họ chỉ tìm thấy ở Liên Xô những sung sướng,
có lẽ cũng một phần giống họ. Nhưng hơn và khác họ là ở Liên Xô không phải chỉ
vài người giàu có mà cả nước đã no đủ, yên vui.
Chuyến tàu đưa hơn năm trăm người du lịch Mỹ trở về...
Ngoài trời sương, tôi thấy hai vòi ánh hải đăng chiếu suốt
đêm soi bể cho tàu bè đi. Tôi đứng lại trước Cung Thiếu nhi. Những chiếc cột lớn
trông ra trời và bể trong bóng đêm ngát. Xuống bến, bậc dốc rộng dài, ánh điện
pha một chút ánh trăng, sáng bạch như trải lụa. Trên đầu dốc, bóng cao một pho
tượng bán thân. Ngày trước, quân đế quốc Anh đã có lần đến tấn công cảng
Ô-đét-xa, bắn sứt mất một mảng tượng. Người Ô-đét-xa để nguyên tượng sứt như thế
làm kỉ niệm. Đằng kia, trong vòm lá cát-stan, đêm sương bóng nhoáng tượng
Pus-kin. Trong chiến tranh vừa rồi, Pus-kin bị phát xít Đức bắn mất một bên má.
Phát xít muốn giết nhà thơ Pus-kin. Nhưng Pus-kin vẫn trơ trơ đứng với vết sẹo
trên má. Người Ô-đét-xa giữ cái sẹo kỉ niệm ghê gớm trên má Pus-kin. Tôi nhớ
trong giữa phố, trường trung học số 36 bị quân phát xít phá hủy, cũng được để
làm kỉ niệm chiến tranh. Người Ô-đét-xa xiết bao sâu sắc và tự tin!
Đồng hồ lớn đâu vang âm mười hai giờ, chấm hết ngày chủ nhật.
Tôi vẫn lững thững xuống từng bậc thềm đá cảng. Những ý nghĩ, những hình ảnh vẫn
lộn xộn, mênh mang, xa gần, chắp nối... xa xa trăng đã xế xuống phía nước Thổ,
bên kia Hắc Hải. Tưởng tượng một cách kỳ lạ: một bọn kẻ cướp muốn làm rối loạn
trái đất núp bên nước Thổ, đương dìm mặt trăng ngã xuống bể. Một cái gì ghê rợn
đằng ấy. Trong khi ở đây, cảng Ô-đét-xa giữa đêm khuya, tiếng còi tàu, tiếng động
máy và tiếng thì thầm sóng nước, ta nghe rõ ràng hơi thở của cửa bể, của văn
minh khoa học, của thơ mộng và bình yên.
Trên kia, thành phố ngủ yên trong những bức tường đá ong vàng
sẫm. Ngót hai thế kỷ trước, Ô-đét-xa là một bãi cạn và những gờ đá. Người ta
vác đất từ xa đến đắp. Người ta moi ngay ruột Ô-đét-xa lấy đất xây tường. Sức
nào phá được tính kiên nhẫn và lòng can đảm phi thường ấy. Trên bờ thành đá
ong, nhũng tòa nhà lấp lánh sáng từng ô cửa sổ.
Không bao giờ có thể phá được tính kiên nhẫn và lòng can đảm
của những người cửa bể đã tạo nên Ô-đét-xa. Nếu thần tiên nghĩa là một điều gì
sung sướng thì qua đây đương là một quê hương thần tiên của Liên Xô, trên bờ Hắc
Hải.
--------------------------------
Ô-đét-xa là thành phố được phong danh hiệu “Thành phố anh
hùng” trong cuộc chiến tranh chống phát xít vừa qua của Liên Xô. |
|
Cà phê đen pha uống theo lối người Thổ Nhĩ Kỳ. |
|
“Nhật ký nước Nga” của Giôn Xít-tinh-bếch. |
|
Nữu Ước, phố Brooklyn số nhà 2919, anh công nhân Fox ở với
vợ và hai con. Ngày 30 tháng chín 1959, khi vợ chồng anh và con lớn đi vắng,
đứa con bốn tháng nằm ngủ trong nôi, bị một đàn chuột ra ăn thịt chết (Tin
báo Nhân đạo (Pháp) ngày 22.10.1959, theo Nữu Ước thời báo). |
Tháng chạp Vác-sa-va
VÀO THÁNG NÀY, lúc thành phố còn mờ mịt sương, đi xe lửa rời
Vác-sa-va xuống Gracốp, trông vào những khung tủ kính các cửa hàng hai bên phố
chưa có người mua bán, chỉ mơ màng ánh điện trắng xanh và lá vàng rơi trong
bóng tối, tưởng như những đốm tuyết. Nhưng không phải. Chỉ có sương sáng sớm
như thế. Suốt dọc đường qua những cánh đồng. Thoáng qua luống bắp cải đỏ đương
được hái, những con ngựa lực lưỡng kéo xe. Rồi màn sương khép lại, mở ra…
Những thị trấn mái ngói đỏ. Chợt nhìn cũng cảm thấy được yên
vui. Cánh đồng Ma-đô-vi cũng như đồng đất các nơi ở Bắc Âu đâu cũng phẳng lặng
đến chân trời.
Thủ đô cũ Gracốp trang nghiêm giữa những đài trang cung điện
trên đồi Vaoen với một dãy đường cây vòng quanh, có trường đại học từ thế kỷ
13, có bức tường đá phố Pigiaka vẫn giữ được phong tục cũ, các họa sĩ nổi tiếng
trong nước quanh năm mang tranh đến bầy trên bờ tường, vừa vẽ, vừa bán, bây giờ
vẫn thế, có hầm bia Mikhaivích khai trương từ thế kỷ 18, trong quán treo những
tranh đẹp và mỗi chiều thứ bảy, có các nhà thơ đến đọc thơ - từ hơn một trăm
năm nay vẫn thế. Chân thành cổ Babican thế kỷ 15, tường gạch tròn lợp mái đỏ,
nhấp nhô chòi canh. Vinh quang và truyền thống văn hóa Ba Lan, Gracốp nền nếp một
trung tâm văn hóa lâu đời châu Âu.
Tôi đi dưới những tán cây bụi đại thụ như rừng quanh thành cổ.
Mùa thu già ở Gracốp thật lạ. Lá rụng ủng sẫm mặt đường. Nhưng những cô gái che
dù hoa, đi giày cao cổ da cừu mềm đỏ chói - mốt giày diện của năm nay. Đi khắp
vùng giữa châu Âu đến đây mới gặp được những cô gái Ba Lan xinh đẹp nhỏ nhắn, bắp
chân mảnh mai thoăn thoắt dưới làn mưa thu. Mưa như trời có ý vương xuống chút
bụi nước cho ai đó được khoe cái ô đẹp.
Nhà văn Stô-la-rếch nói:
- Anh trông nóc nhà thờ, tháp ngói xanh cao vút trên thành phố,
cung điện Vaoen tượng trưng cho nền văn hóa truyền thống Ba Lan. Nhưng anh biết
không, mọi thứ quý giá trong lâu đài đã bị tên tướng phát xít Đức Han Phơrăng,
mà nó đã tự xưng là “vua nước Ba Lan”, cuỗm đi hết. Khi chiến tranh kết thúc,
chúng tôi phải đi lùng tìm khắp nước Đức, đem được về đủ tranh và tượng chúng lấy
trộm. Công phu lắm!
Sông Vít-tuyn đã vào mùa kiệt, mặt nước cứ ngơ ngác tiêu sơ một
cách dễ thương. Đàn bồ câu đứng nghiêng mắt nhìn xuống dòng nước cạn, còn để
quên lại những bụi cây sậy xanh rờn ôm ngoài bờ thành.
Trên đường lên Dacôpan, một thành phố trên núi Tatri hay là
Tatra ở Tiệp, nối sang triền Suđét, đường qua cổng trời Maravi, đến Tiệp Khắc
phía đông dãy Cácpát. Người lũ lượt vác gậy đi chơi trượt tuyết sớm trên núi.
Đường ra ngoại ô Gracốp phía ấy, mùa thu còn đậm nét hơn cả quang cảnh từ
Vác-sa-va xuống.
Đồng quê từ vùng Pô-mê-đa-in, lưu vực sông Ô-đe sang sông
Vít-tuyn đượm một phong vị cổ kính đến hồn nhiên. Tưởng như đất trời vẫn từ thuở
nào. Cây bách tán cổ thụ sum suê giữa cánh đồng. Một chiếc xe hai ngựa thong
dong qua. Người đi làm đồng trò chuyện cười nói rộn rã trên thùng xe. Mùa thu
trong mưa tơi tả bâng khuâng. Những luống cải bắp đương được cắt - cải bắp tía,
củ cải tía. Đôi chốc, như chợt bắt một cái lặng im đến đỗi hai con choi choi giỡn
nhau trên đỉnh cây rơm mà nghe được cả tiếng chân chim ró ráy xéo lên một cọng
rơm. Rồi dòng sông lại trắng như lụa bên những ruộng cải bắp đỏ. Nhà nào cũng
phơi ngược trên bờ rào những cây cải mới cắt. Trẻ con tan học ríu rít qua đồi bạch
dương và hàng cây cát-stan lẫn lộn trong vàng nắng, vàng lá.
Những cánh đồng cuối thu, chỗ mưa chỗ mát, trời thoáng xanh,
thoáng nắng, như mở như đóng, đợi tuyết xuống - ngày nông nhàn của người và đồng
đất. Thong thả, những mái nhà phòng tuyết xuống đương được trát xi măng lại,
thay chỗ rêu mốc.
Giữa trưa mà còn bảng lảng trời sương. Ô-vết-kim cách Gracốp
sáu mươi ki-lô-mét.
Đoàn tàu dừng lại trên sân ga thị trấn. Người lên xuống nhộn
nhịp. Cũng như đường về Vác-sa-va, đường đi Đa-cô-pan mùa trượt tuyết đương tíu
tít, rộn ràng.
Nhưng ở Ô-vết-kim có cái khủng khiếp mà tuổi trẻ bây giờ có lẽ
ít biết. Hơn bốn triệu người châu Âu đã bị bọn phát xít Hít-le đem về giết ở
đây.
Đi qua Ô-vết-kim đẹp như tranh hôm nay, khó lòng tưởng tượng
về những năm 1940 u ám có bao nhiêu người khắp nơi, người già và cả trẻ con, đã
bị đẩy đến đây rồi chịu chết thiêu.
Những cây phong quanh Ô-vết-kim khoác áo mùa thu vàng dịu.
Chiều chủ nhật, hàng quán ven đường đã rực rỡ ánh đèn. Tiếng kèn ở một sàn nhảy
nào đó nổi nhộn nhạo.
Lại một đoàn xe lửa kéo còi dừng trên sân ga. Những người đi
chơi chiều thứ sáu cuối tuần, chặp tối chủ nhật mới trở lại. Họ rời thành phố,
vác lều bạt, ba lô, đèn bão vào rừng cắm trại. Trên những túi du lịch lúc trở về,
còn gài kỉ niệm bó hoa rừng sặc sỡ - bông hoa hiếm, phải vào đến quãng suối còn
ẩm mới tìm thấy. Hớn hở và ngẩn ngơ, vừa đi khỏi nhà có hai ngày, nhưng đã đến
những nơi thật rừng, thật thanh vắng, giờ về tưởng xa thành phố đã lâu lâu.
Stô-la-rếch nói:
- Ngày mùa thu thế này hay ngày rét nhất tháng giêng tháng
hai quanh năm, ngày nào cũng vậy, khói lò thiêu người của Phát xít Đức ở Ô-vết-kim
cũng ngùn ngụt, khói thiêu người toàn là khói đen.
Ngày ấy, có những đoàn tàu chạy suốt qua những cơn nắng dằng
dặc, tới Ô-vết-kim, người bị lèn vào toa đóng kín đã hấp hơi, cửa tàu vừa mở,
người chết rơi xuống chồng đống lên nhau. Nắng Ô-vết-kim đẹp thế này, anh có
tin những chuyện thê thảm ấy là thật không. Kuyếc-di-ô Ma-la-pac, phóng viên
chiến tranh trong quân đội phát xít Ý ngày ấy đã tả như thế trong thiên phóng sự
thê thảm Tan rã .
Làm sao tưởng tượng ra được những ghê gớm nhường ấy. Tôi làm
sao ngỡ thế. Những người du lịch từ châu Âu, châu Mỹ đương lũ lượt đến chơi nước
Ba Lan xinh đẹp, trông mặt người đi chơi chỉ có hớn hở, làm sao biết được.
Ở những cánh ruộng ngoài thành phố, đã bắt đầu mùa làm rau.
Con ngựa kéo bừa dừng lại giữa luống đất màu đen mỡ. Một chị váy áo đỏ rực dắt
đứa bé bước thủng thỉnh. Màu đất ẩm mùn như đã được tra phân. Luống củ cải cà
chua, dưa gang vào đất ấy chắc bỡi lên như thổi.
Em bé lững thững chơi bên luống đương làm đất.
Trước mặt tôi, những cái cột sắt đầu gắn đèn pha ngoàm xuống,
chằng chịt dây thép gai, mỗi bước đi vào lại nhô lên, chạy dài trong lớp cỏ cao
ngang đầu. Tôi biết tôi đương đi tới trại tập trung Ô-vết-kim, nơi đau thương
nhất thế giới.
Nếu trường tiểu học Tung Sleng ở Phnôm Pênh đã được nhiều nhà
báo thế giới đặt tên là lò giết người theo “phương pháp thủ công” thời Trung Cổ,
có chày, kìm, bàn vả, búa, dao bàu, có khóa đuôi chuột Trung Quốc khóa tay,
khóa chân người và khóa cửa cùng một lúc, thì phải kể địa ngục trần gian Ô-vết-kim
là một nhà máy của kỹ nghệ công nghiệp giết người.
Trại Ô-vết-kim và trại Dêdinga, bọn phát xít Đức dựng lên từ
năm 1940 ở Dasôn, ngoại ô thị trấn Ô-vết-kim. Năm 1943, thêm hai lò thiêu mới đốt
được một vạn người trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ.
Tất nhiên, bọn phát xít không mất công đem người tới đây chỉ
để có việc giết đi, mà cũng như các trại tập trung khác ở khắp nước Đức và châu
Âu, chúng bắt người ta phải làm khổ sai đến kiệt sức, rồi được đưa đi “khám sức
khỏe” để hủy đi, rồi lại lấy người mới còn khỏe khoắn tới.
Một vùng trại giam xung quanh rộng bốn mươi ki-lô-mét vuông từ
bờ sông Vít-tuyn đến bờ sông Sôla, mười làng bị đuổi đi nơi khác, trên khu đất ấy,
mọc lên nhà máy hóa chất Buna, nhà máy Krup đúc đạn đại bác, nhà máy xi măng… lẫn
lộn, ống khói các nhà máy nọ và khói lò thiêu nhả đêm ngày.
Lúc nào trại cũng có khoảng hơn bốn mươi vạn người. Nhưng người
tù không có tên, được gọi bằng những con số thích chàm trên cánh tay. Người Ba
Lan, rồi người Áo, Bỉ, Tiệp, Pháp, Hy Lạp, Hà Lan, Đức, Nga, Hung… người
Di-gan, người Do Thái khắp các nước được điệu tới.
Khu vực tù ở liền bên nhà máy và bên những lò thiêu mái thấp,
đen sẫm, xanh sẫm trong bóng cây, vẫn những cây sau sau - nhưng ở đây, cây sau
sau, cây cát-stan thoáng trông đến bây giờ ngỡ vẫn còn ám khói xám ngắt.
Có lẽ cũng là một cố ý của cơ quan bảo tồn di tích tội ác
phát xít. Sự khác nhau, ngoài kia vẫn cái nắng nhạt ấy như trong này, nhưng
bóng nắng trong này tạnh hẳn tiếng người. Như tội ác hiện hình, khiến cho dù
người ba mươi năm sau đặt chân tới cũng không thể quên - không bao giờ có thể
quên. Nhưng chắc không ai nỡ muốn trở lại đây lần nữa để lại phải nhìn lại những
thê thảm ấy. Nhà văn Pháp Phrăng-xoa Mô-ri-ắc đã viết một câu về trại tập trung
này: “Người ta thường chóng quên. Tính người như vậy, cũng bởi đời sống hàng
ngày cứ qua đi. Nhưng những hòn đá kỉ niệm sẽ giữ mãi lại. Trại tập trung, trại
tập trung Ô-vết-kim! Phải làm cho thế giới thấy được tội ác dã mãn đã biến người
ta thành con vật. Làm sao mà tới thế kỷ hai mươi này hãy còn đầy rẫy đau khổ,
con người đẩy dưới chân những đạo lý sơ đẳng như thế về con người!”
Cả một gian những chiếc giầy vẹt đế, há mõm còn lại của người
chết ốm , người chết thiêu, người bị đánh chết, bị treo cổ. Những đống
giày cao ngổn ngang. Những chiếc giày bỏ bơ vơ chẳng nói được câu gì. Chiếc
giày lặng im, cũng như chiếc giày dưới chân tôi đang đi. Có những chiếc giày trẻ
con, chỉ bằng một gang tay. Những người sống sót, khi được giải phóng, đã rời
khỏi đây không biết có ai còn giày đi không. Nhưng chắc chắn thì còn lại những
đôi giày của người chết, cả những đôi giầy của trẻ con chết. Trẻ con cũng bị giết,
hay là bị thiêu, hay là bị bắn, bị treo cổ. Thiên phóng sự Tan rã của
C. Malapác, người đã được mắt thấy những trại tập trung người Do Thái ở
Vác-sa-va. Trẻ con trong trại hay đào lỗ dưới chân tường, trốn ra mua bánh mì
ngoài phố. Bọn phát xít, cứ chập tối, thường đến ngồi góc tường, thấy đầu người
lấp ló, thì giơ súng bắn, như bắn chuột. Và đấy cũng là những trò tiêu khiển buổi
chiều rỗi rãi của chúng nó.
Những lò thiêu có cửa tò vò trông ù lì như cái lò nướng bánh
mì. Có buồng cho người sắp chết vào cởi xống áo để lại. Những buồng trống hốc,
nơi bọn đồ tể gọt tóc, cạo râu, và phòng bẻ lấy răng vàng người đã chết ngạt,
trước khi đẩy xác vào lò. Những cột treo cổ còn lại vẫn đứng sừng sững. Căn buồng
chứa hàng trăm người chồng nhau trên những chiếc giường tầng, quanh tường đen
nhẫy vệt mồ hôi. Cạnh đó, ba tòa nhà xinh xinh, nơi ở của hai trăm năm mươi con
chó béc giê canh gác.
Tất cả đã vắng tanh, nhưng lại cứ như thể hiện âm thầm quằn
quại những người sống người chết quanh quẩn đâu đây.
Cả một gian nhà chất đầy toàn những mắt kính, những gọng
kính. Cái mắt kính đã rạn. Cái mắt kính còn lành, cái kính chỉ còn bộ gọng. Gọng
kính bằng dây thép, bằng thau, bằng kền đã méo mó, xám xì vì thiêu không cháy
hay vì sao không biết. Chỉ biết chắc chắn những gọng kính ấy của người chết.
Sao nhiều thế, nhiều quá, chỉ những gọng kính ấy mà chất lên lù lù như một đống
rạ. Không bao giờ người ta lại nghĩ có khi trông thấy một đống gọng kính lăn
lóc ngay cạnh chân mình cao như gò thế.
Bất giác, tôi sờ lên cái gọng kính tôi đương đeo. Có khi tôi
cũng một trạc tuổi với những ai đeo kính đã chết đi kia. Những lứa tuổi tôi
trên thế giới, ở châu Âu cũng như châu Á, lúc ấy ở đâu tuổi thanh niên chúng
tôi cũng phải chìm đắm, phải đương đầu với họa phát xít, họa đế quốc. Những người
chết chỉ để lại có cái gọng kính. Tôi cầm gọng kính của tôi, những cái kính của
những người ra đi kia cũng giống cái gọng kính của tôi thôi.
Tôi ra về. Tôi đã trở về đến chỗ đồng không - vẫn một ngày
thu vàng Ô-vết-kim. Tôi không biết nghĩ thế nào. Quanh quẩn, bối rối vẫn còn
trong đầu hình ảnh những người gầy ọp ẹp lẫn lộn những bộ xương đứng, bộ xương
nằm thò đầu lâu, thò đầu gối ra trong lớp giường chồng sáu tầng như những ô
ngăn kéo. Cả một gian nhà chứa tóc, tóc để chúng nó dệt thành vải, mỡ người để
chúng nó làm xà phòng. Cột dây thép gai chằng chịt quanh hai mươi bảy dãy nhà.
Những cây sau sau bây giờ thành cổ thụ đã chứng kiến ngần nào thê thảm.
Tôi trở về. Có tiếng cười ròn khanh khách trên bờ ruộng. Tiếng
cười trẻ con. Phải tiếng cười của cậu bé đi theo mẹ lúc nãy. Có lẽ vẫn cậu bé ấy.
Và một lũ bạn nhóc nữa trong xóm đương chạy ra.
Bây giờ trông mùn đất mặt ruộng vừa bừa để đánh luống, màu đất
đen mỡ trên cánh đồng, tôi bỗng ngờ ngợ ra một màu khác; không biết hay là
trong đất có còn lẫn tro người bị thiêu mà bọn phát xít đã đổ ra đấy. Trong đất
này còn tro người chết chưa ngấu hết. Có thể. Tội ác của chúng vẫn
nguyên, vẫn mới nguyên đây.
Tiếng còi xe lửa vào ga. Những người đi chơi về muộn. Tiếng
còi rộn rã. Tiếng còi tàu chở người đi chơi về. Chợt nghĩ ngày ấy cũng một tiếng
tàu thế này mà người tù nửa đêm nghe rùng mình: lại một chuyến xe lửa đưa người
đến, lại một đợt tù mới. Đường xe lửa chằng chịt châu Âu nhánh ấy chỉ đến Ô-vết-kim
thì cộc. Ngày ấy, xe lửa bọn phát xít chỉ đem tù đến Ô-vết-kim, tiếng còi tàu,
tiếng còi tàu...
Cái gọng kính của tôi và gọng kính của người khuất cũng thế.
Tội ác chúng nó vẫn thế ở Chi Lê, ở Cam-puchia...
Nhưng cuộc sống vẫn đây. Không bao giờ, không ai tiêu diệt được
cuộc sống con người. Nước Ba Lan dũng cảm vẫn đấy. Sông Vít-tuyn, con đường
xanh, con sông uốn vòng cung trong lòng đất nước, đầu nguồn trên núi Tatri, cửa
mở ra biển Ban Tích, Vít-tuyn vươi mình qua cả năm thành phố lớn của Ba Lan. Lịch
sử sông Vít-tuyn cũng là lịch sử dân tộc và đất nước. Vít-tuyn, con sông mẹ của
những con sông Ba Lan. Tiếng sông thầm thì không bao giờ ngớt, tiếng của dân tộc
và đất nước, tiếng ngân vào đêm thời gian, như lời thơ Stê-phan Giê-rôm-ski đã
nói về dòng sông quê. Cánh đồng từ cửa sông Vít-tuyn sang các thung lũng ở
Madari, bắt đầu quang cảnh những hồ nước tuyệt vời. Hồ Handa trong suốt tận
đáy. Hồ Siniavi một trăm mười ki-lô-mét vuông, sóng cao ngang đầu. Một vùng trời
nước hơn sáu nghìn con hồ khắp nước Ba Lan như những con mắt, như những ngôi
sao.
Dòng sông, cánh đồng và vùng hồ - nơi câu cá, hái nấm và lặng
yên. Mùa hạ, khách nô nức đến Vula trên bờ sông San, vào vườn nhà nhạc sĩ thiên
tài Phêđêrich Chôpanh chơi đàn.
Cuộc sống vẫn đấy.
°
° °
Hôm trước, qua Mát-xcơ-va, đương những ngày cuối thu hiếm
hoi. Nắng vào đầy phòng chếch cửa đông sang cửa tây khách sạn nước Nga. Thủ đô
Mát-xcơ-va nguy nga nhất lúc vừa dựng sáng, đèn đường đèn xe đã tắt hết, thành
phố đột nhiên im lặng hiện ra trong ánh sáng ban mai. Những chiếc tàu và sà lan
nối nhau từ từ qua trên dòng sông dưới tường lâu đài Kremli. Những mảng cỏ
xanh, những cây thông tuyết, những tháp cổ đỏ hắt. Tít xa, trập trùng những lầu
cao, những ô cửa sổ vuông lần lượt tắt đèn. Mặt trời lên đỏ ối trên thành phố
mênh mang đồ sộ.
Gái đẹp Vác-sa-va khác. Vác-sa-va xinh xắn, thật dịu - như cô
gái Ba Lan mảnh mai giấu một vẻ quyến rũ riêng. Mình vốn người thành phố nhỏ, đến
Vác-sa-va thấy dễ chịu, chóng quen, thật đáng yêu.
Không phải chỉ vì một vẻ bề ngoài mà Vác-sa-va và Hà Nội
chúng tôi có những giống nhau. Tháng Chạp ở hai nơi, nhưng mà hai nơi giống
nhau.
Stô-la-rếch và tôi vừa đi một vòng sang vùng ngoại ô bên kia
sông Vít-tuyn - khu phố mới xây dựng. Trở về, anh đưa chiếc xe Pôn-ki Phi-át bốn
chỗ ngồi xinh xinh của anh vào bãi gửi - anh đã thuê chỗ để xe cả năm ở bãi. Rồi
chúng tôi lững thững tản bộ vào trung tâm thành phố.
Chúng tôi tìm một quán uống chè. Phong tục Hà Nội và thói
quen Vác-sa-va về uống chè có khác nhau. Chúng mình nhấp chén chè xanh, thưởng
thức vị chè chát thơm. Các bạn uống cốc chè đen pha đặc thật nóng cho đường,
trong cái chát bùi có vị ngọt. Nhưng ở Vác-sa-va cũng như ở Hà Nội, uống chè là
một cái thú. Ở Vác-sa-va, đầu phố cuối phố nào cũng có quán chè và bánh ngọt.
Người uống chè đông ních, nhất lúc chiều chiều.
Chúng tôi ngồi ở khu chợ Cũ trông ra khoảng rộng quảng trường
trước mặt. Những thành phố cổ còn đến bây giờ thường hay khoe mình đã giữ gìn
được những nét xưa như thế này. Tân Đê-li và Đê-li cũ, Sài Gòn chợ Bến Thành và
Sài Gòn Chợ Cũ... Tbilitxi cách thành phố cổ hai ki-lô-mét. Vác-sa-va cổ ở ngay
giữa lòng thành phố hiện đại, tựa như hồ Hoàn Kiếm với Hàng Ngang, Hàng Đào.
Ở khu chợ cũ Vác-sa-va trong lúc thành phố tấp nập nhất, ban
đêm trên đại lộ bên kia, những làn đèn đỏ đuôi ô tô hoa lên như dải sao ngân hà
lấp lánh trôi, thì ở vùng này vẫn đầm mình vào tĩnh mạc.
Những viên gạch lá nem đỏ mơ hồ một chút rêu xanh. Những chân
tường đá tảng lồi lõm tự nhiên. Một bà cụ ném ruột bánh mì cho những đàn bồ câu
xúm xít. Bà cụ ngần ngừ chọn phía rắc bánh cho những con chim đến sau.
Đằng kia, một dẫy bồn hoa hồng đỏ, hồng vàng, hồng bạch. Những
đóa hoa cúc vàng, cúc tím dài bằng cả luống hoa đất. Bồn hoa đặt đấy lại có thể
đẩy đi mọi nơi, trông như những bó hoa lớn bọc băng trắng. Ở Vác-sa-va, trong
công viên có luống hoa, và trên đường phố lại có những bồn hoa nhẹ nhàng đặt
trang trí khắp nơi, gây cho người đi đường những hứng thú thình lình. Khách từ
ngõ phố Thánh Giăng khúc khuỷu đường đá gồ ghề, hai bên tường cao sát vai, vừa
ló ra, chợt gặp một bồn hoa hồng vàng ở chỗ mà không ai ngờ. Người và hoa, chỉ
nghiêng mình, cánh hoa và mùi hương đã lướt trên má.
Hai cỗ xe song mã đậu trước cửa nhà thờ, bên cột đá chống dịch
tả 1 với
hai con ngựa thắng yên cương hoa đỏ. Người xà ích đánh xe mũ ngù ngất ngưởng,
áo nẹp điều, ngồi cao lêu đêu phía trước. Những thứ ấy để chiều khách muốn dạo
chơi phố cũ, nghe tiếng vó ngựa cóc cách mặt đường đá của phố xá thế kỷ trước.
Hay là xin mời bạn đến trước xe, chụp “bô” ảnh kỉ niệm, sau lưng nổi bóng hai
mái nhà thờ lớn, đúng hình ảnh Vác-sa-va xa xưa.
Một sân khấu ngoài trời đương được lắp đóng giữa quảng trường.
Lại sắp có cuộc vui nào đây. Quảng trường này chỉ dành cho những tụ hội đặc biệt
và cổ truyền của thành phố. Như ngày hội tháng sáu, hàng năm cứ đến hai ngày 23
và 24 - mà đã từ bao đời, người ta cho là trong một năm chỉ có hai ngày hai đêm
tháng sáu ấy dài bằng nhau. Cả thành phố ra quảng trường giữa chợ vui hát nhảy
múa mừng ngày và đêm sóng đôi đẹp nhất trong năm.
Trong yên tĩnh, hơi chè ngọt tỏa ấm gian phòng đông người.
Nhưng ai nấy đều lặng lẽ. Ngoài kia, Vác-sa-va yêu kiều, và duyên dáng như thế.
Tôi có cảm tưởng thành phố này rất ý thức vẻ đẹp kiêu kỳ của mình.
Stô-la-rếch nói, như trả lời cho tôi, bằng câu chuyện mỗi lúc
một làm tôi ngạc nhiên:
- Vác-sa-va của chúng tôi thế nào? Một thành phố huy hoàng bậc
nhất giữa châu Âu. Vác-sa-va của ba mươi triệu người Ba Lan trên đất nước, của
trên mười hai triệu kiều dân Ba Lan ở Chi-ca-gô, ở Đê-troa, Pa-ri. Anh biết
không, tất cả những gì anh đương trông thấy: tòa nhà thờ cổ, ngõ phố Hầm Bia,
phố Thánh Giăng u ẩn từ thế kỷ trước để lại vẫn như xưa, vẫn thế...
Những tường thành mái cỏ, gạch đỏ. Đêm sáng hửng như trăng
suông. Phố chợ ở trung tâm có những hàng quán mua bán theo thói quen cũ. Hầm rượu
và cao lâu Ba-si-lích có món ăn dân tộc tên là “cá sấu”. Phiđen Cátstrô thăm Ba
Lan đã tới ăn quán ấy. Phiđen đã gửi tặng quán một con cá sấu Cu Ba nhồi treo đồ
sộ gần kín mặt tường phòng ăn.
Đứng ngoài hiên ngắm ra sông Vít-tuyn, những đàn bồ câu thơ
thẩn quanh chân khách...
Stô-la-rếch cười:
- Những thứ ấy và cả đến từng viên gạch đỏ lát quảng trường
mà anh tưởng là gạch từ thời trước, là ngày xưa, nhưng không phải. Không còn
cái gì thời trước đâu. Đây là Vác-sa-va thứ hai. Vác-sa-va sống lại của chúng
tôi.
Ngày 1 tháng chín 1939, quả bom phát xít Đức đầu tiên ném xuống
Vác-sa-va, thành phố một triệu hai mươi vạn người.
Ngày 7 tháng giêng 1945, sáu năm sau, khi hồng quân Liên Xô
và quân đội Ba Lan vượt cầu phao sông Vít-tuyn sang giải phóng trung tâm
Vác-sa-va, cả thủ đô chỉ còn có mười lăm người sống sót chui từ các đống gạch
ra đón những chiến sĩ đến cứu mình.
- Trước mặt chúng ta là đại lộ tám làn ô tô đạt đường tiêu
chuẩn châu Âu thông luôn từ Ma-drít lên Pa-ri qua Béc-lin đến đây. Một thế kỷ
nay, bốn lần nước Ba Lan bị xóa tên trong chiến tranh. Cả bốn lần, bốn thứ quân
xâm lược, từ đế quốc Đức đến phát xít Đức kéo quân qua đại lộ trước mặt kia.
Một thế kỷ, đất nước bị tàn phá tới bốn lần, làm sao đối với
mỗi người, những tiếng như Tổ quốc, đất quê và chuông nhà thờ trong cánh đồng
còn đáng được những tiếng trong lành nước Ba Lan chết đã lâu rồi.
Nhưng Ba Lan vẫn sống, mãnh liệt sống. Và Ba Lan ngày nay
đương là một đất nước hấp dẫn du lịch nhất thế giới. Người ta nói: Đến xem sự lạ
Ba Lan.
Vâng, sự lạ Ba Lan.
Kể ra châu Âu đã được chứng kiến sự lạ Ba Lan từ lâu, cùng với
quang cảnh mỗi lần Ba Lan bị xâm lược. Ở nhiều thủ đô các nước có người Ba Lan
cư trú, người Ba Lan ở đâu cũng lập nên các tổ chức cứu quốc “Chúng tôi vì nền
tự do của các bạn và của chúng tôi”. Người Ba Lan đã chiến đấu vì sự nghiệp của
nơi mình đương ở, và vì sự nghiệp của Ba Lan. Trong quân đội Na-pô-lê-ông, tham
gia công xã Pa-ri, theo Garibanđi, theo Abraham Lincôn, chiến sĩ bảo vệ thành
Viên, hoạt động ở Ca-na-da hay ở nước Mỹ... Nhất là trên khắp các mặt trận châu
Âu trong chiến tranh thế giới vừa qua. Với người Ba Lan, dù ở đâu cũng là đương
đi con đường trở lại Vác-sa-va.
Một dân tộc phải trải bốn cuộc chiến tranh trong vòng một thế
kỷ, cả bốn lần, nước Ba Lan bị xé nát, nhưng Ba Lan vẫn như ngày nay, Ba Lan
đương như ngày nay. Trên mười hai triệu người Ba Lan tha hương khắp nơi trên thế
giới, những người phải ra đi từ bao đời, vì đói kém triền miên ở Giam-mút, ở
Si-lê-si, ở Ma-đô-vi, vì là nạn nhân các triều đại vua chúa tranh chấp nhau, lại
vì mỗi lần mất nước... Nhưng dù ở đâu, Tổ quốc Ba Lan vẫn canh cánh bên lòng.
Phát xít Đức chiếm Ba Lan. Nhiều người yêu nước phải chạy ra
nước ngoài, chiến đấu trên các mặt trận, tham gia giải phóng tất cả các nước
châu Âu bị phát xít Đức chiếm đóng, cuối cùng tiến về giải phóng nước nhà.
Vài con số những trận tiêu biểu:
NA UY - Phát xít Đức đánh Na Uy tháng tư 1940, tấn công cảng
Nácuých do quân đội Na Uy, Anh, Pháp, Ba Lan phòng thủ. Sư đoàn Ba Lan Pôhan
đông bằng một phần ba quân số quân Đồng minh. Đức không chiếm được cảng.
ANH - Nhiều đơn vị Ba Lan đã bảo vệ bờ biển nước Anh từ mùa
hè 1940. 50 phi công Ba Lan gia nhập không quân hoàng gia Anh. 139 phi công
trong các phi đội độc lập của Ba Lan. Bốn phi đội máy bay Ba Lan: 2 đội khu trục
302 Pôhan, 303 Kôtsinhkô, 2 đội ném bom 300 Masôvi, 301 Pômêrami. Kết thúc chiến
tranh, riêng trên mặt trận nước Anh, phi công Ba Lan hạ 214 máy bay phát xít Đức
- mười hai phần trăm tổng số máy bay địch bị hạ trên đất Anh. Ngày 15 tháng
chín 1940, trận không chiến lớn nhất của phát xít Đức đánh Luân Đôn, 250 máy
bay Anh, trong đó có 50 máy bay phi công Ba Lan lái, bảo vệ trời Luân Đôn, 56
phi cơ phát xít rơi - phi công Ba Lan hạ 26 chiếc.
Ý - Trên đường đánh giải phóng La Mã, quân đội Ba Lan hi sinh
924 người, bị thương 2.923 người.
HÀ LAN - Quân đội Ba Lan tham dự trận tấn công cuối cùng trên
đất tây Âu ở Ácnhem, trước khi tiến vào đất Đức.
LY BI - Ở cảng Tôbrúc, quân Ba Lan cùng liên quân Anh, Tiệp
chiến đấu chống quân của tướng phát xít Rômmen.
ĐỨC - Ngày 16 tháng tư 1945, 40 vạn quân Ba Lan phối hợp với
Hồng quân Liên Xô tấn công Béc-lin. Quân Ba Lan đánh chiếm nhà Quốc hội, tổng
hành dinh Hít-le, cắm cờ Ba Lan trên cửa thành Brenđenbua.
Thủy quân Ba Lan đánh 665 trận trên các đại dương.
Ở trong nước Ba Lan, 15 vạn du kích có vũ khí. Người Ba Lan
đã có mặt trong hàng ngũ du kích ở các nước Pháp, Hà Lan, Bỉ, Đan Mạch, Na Uy,
Liên Xô...
Khi kết thúc chiến tranh, Ba Lan đã phát triển tới 50 vạn bộ
binh chính quy, 1.000 chiến xa, 554 máy bay - lực lượng quân sự Ba Lan đứng thứ
tư ngay sau Liên Xô, Mỹ, Anh.
Sự lạ Ba Lan! Sự lạ Ba Lan! Quốc ca Ba Lan đã hình thành từ
tinh thần Ba Lan khắp nơi trên thế giới vọng về, như thế:
Không, nước Ba Lan không thể chết
Bởi vì chúng tôi vẫn sống
Đúng vậy, nước Ba Lan bị xóa tên trên bản đồ thế giới. Nước
Ba Lan phải chịu tang sáu triệu người bị thảm sát trong các trại tập trung, hơn
nửa triệu người hi sinh trong chiến đấu. Nước Ba Lan đã bị chia thành những tỉnh
mới của nước Đại Đức.
Nhưng thủ đô Vác-sa-va, trung tâm và linh hồn người Ba Lan hướng
về, vẫn sống. Tháng tư, tháng năm 1943, các khu tập trung người Do Thái Ba Lan
giữa thành phố nổi dậy. Tháng tám 1944, cả Vác-sa-va đứng lên trong 22 ngày đêm
chiến đấu, 30 vạn người đã hi sinh và cả thành phố bị hủy diệt. Vác-sa-va,
thành phố kháng chiến quyết liệt nhất châu Âu.
Stô-la-rếch nói:
- Tôi đã ở lại công tác bí mật trong thành phố suốt cả sáu
năm.
Những nét nhăn trên khuôn mặt gò má cao của Stô-la-rếch như vạc
thêm, trầm xuống. Con người ấy trong lúc vui, dù anh có mỉm cười, vẻ đăm đắm khắc
khổ những ngày qua vẫn hằn lại nguyên đấy.
Khi thành phố đã hoàn toàn bị phát xít chiếm đóng, cuộc chiến
đấu bí mật bắt đầu. Hai anh em Stô-la-rếch vừa viết báo vừa in báo bí mật ngay
trong thành phố.
Ngày 1 tháng tám 1944, cả Vác-sa-va vùng lên. Hít-le ra lệnh:
Hủy diệt Vác-sa-va! Treo cổ Vác-sa-va! Xóa tên Vác-sa-va!
Không quân phát xít ném bom triệt hạ từng khu nhà. Xe tăng địch
húc đổ từng bức tường.
- Trận đánh gần chợ, cách chỗ chúng ta ngồi một góc, ngay chỗ
ngõ hẻm Hầm Bia ra, tôi bị một mảnh đạn vào bụng. Đội cứu thương cáng tôi ra
ngoại ô. Anh tôi có ra thăm tôi một lần. Lần ấy cũng là lần cuối. Tôi được đưa
sang chữa vết thương ở Liên Xô. Anh tôi trở vào thành phố, hi sinh trong trận
đánh xe tăng ở khu Chợ.
Thành phố không còn một ngôi nhà. Xe tăng phát xít Đức nghiền
nát tất cả mặt đá, mặt gạch các quảng trường. Cả thành phố là một đống gạch.
Trong khoảnh khắc, rõ ràng tôi thấy được Vác-sa-va càng lạ
lùng, kỳ diệu, không phải chỉ một vẻ mảnh mai yểu điệu đáng yêu hôm nay. Thành
phố đã được xây dựng lại bằng trí nhớ của những người Vác-sa-va còn sống, bằng
hồ sơ tài liệu Vác-sa-va các thư viện trên thế giới, bằng ảnh trong những tập ảnh
gia đình nào còn giữ được. Mỗi nhà, mỗi người cố nhớ... Mỗi người nói lại với
các nhà chuyên môn. Phố này ngày trước thế nào, chỗ ấy đường lát đá hay lát gạch,
gạch gì...
Trước nhất, Vác-sa-va được xây lại khu Vác-sa-va cũ. Khu chợ
với dãy phố cổ kính, đúng từng nét. Phải tìm thêm trong các tài liệu nghệ thuật
kiến trúc Ý ba thế kỷ trước. Quảng trường này xưa kiến trúc rất Ý, bao quanh là
dãy nhà ba tầng, hai tầng, mái và cửa sổ gần nhau như những con mắt và cặp lông
mày tinh nghịch của những người đứng cao thấp, nghé nghiêng, nhòm ngó. Người
Vác-sa-va ước ao làm lại cái cũ vì một niềm thương yêu hơn cả sự cần dùng hôm
nay. Họ muốn ở đây, nhà cửa vẫn nền nếp cổ sơ như thế. Vẫn màu tường xám quen
thuộc, có những cửa hàng mặt kính chi chít ánh đèn. Tượng đá nhà thông thái
Côpêních ngồi nhìn sang tượng Giêsu đứng trước cửa chính. Trong nhà thờ, trái
tim Phêđêrích Chôpanh đựng trong hộp đá.
Người ta muốn tất cả lại như thế. Trong năm năm, các nhà kiến
trúc đã dựng lại được Vác-sa-va, Vác-sa-va nguyên vẹn, Vác-sa-va tất cả lại như
thế.
Khi những ngọn đèn điện đầu tiên trở lại với thành phố, các cụ
già sung sướng đến chảy nước mắt. Rồi rạp hát số 1, rồi chuyến xe điện thứ nhất...
°
° °
Nhà bạn Stô-la-rếch gần bức tường thành đỏ hắt cao khác thường,
giữa khu trung tâm. Bây giờ, Vác-sa-va chỉ còn giữ lại một đoạn tường để giúp
cho khách qua đường, nếu là người hay chú ý đến những cửa sau của Vác-sa-va có
thể có được một ý niệm về Vác-sa-va ngày trước. Đây là bức tường khu người Do
Thái bị tập trung.
Vác-sa-va đương vào những ngày sửa soạn Nô-en. Thành phố thật
rộn ràng. Đây là một phong tục lâu đời của người các xứ lạnh phương bắc, lễ này
là một dịp tụ hội đầm ấm trước khi có ngày lễ Giáng sinh của đạo Cơ đốc. Người
ta ăn uống và cúng lễ cơn rét mướt băng giá đại hàn đương tới.
Những cành thông lớn được cắm trên những khoảng đất trống. Mỗi
người đều mang về nhà mình một nhành thông xanh óng. Hoa cúc vàng, cúc trắng
bày bán trên các dọc phố. Nến xanh, nến hồng, nến vàng được đựng vào những chiếc
bát nhỏ - người ta đốt bát nến, những bát nến xinh xinh.
Vừa chặp tối, trông ra đường phố đã ánh lên những bát nến
lung linh. Trong thành phố Vác-sa-va, tất cả những nơi đã xảy ra trận đánh, những
nơi có người bị chết treo, chết bắn khi Vác-sa-va bị chiếm đều được thắp nến
trong những dịp kỉ niệm. Tất cả những người đã khuất, những người đem lại sự sống
cho thành phố hôm nay, đều được nhớ ơn. Mỗi bát nến ở chân tường đã cắt nghĩa
điều thiêng liêng đó. Người ta đánh dấu lại tất cả. Vác-sa-va, thành phố của kỉ
niệm. Kỉ niệm lòng quả cảm của con người đã làm sống lại đất nước và dân tộc.
Một chân tường, một bát nến. Người nào đã đem đến đặt bát nến
nữa. Nến của những ai, không biết. Chập tối, có những người xách cả túi nến ra
đường, đi đặt nến vào những nơi kỉ niệm. Ở Vác-sa-va những nơi kỉ niệm không phải
chỉ là nghĩa trang, không phải chỉ có tượng đài liệt sĩ và công viên. Nơi ấy là
chỗ chân tường, có người chiến sĩ đã nằm xuống. Một miếng đồng nhỏ ghi sự tích
trận đánh. Để ghi nhớ, chiếc mũ sắt được chôn chìm một nửa vào trong tường. Như
còn thấy người chiến sĩ đương bước vào chiến lũy, chiếc mũ sắt nhấp nhô, cạnh cửa
chợ, gắn một quãng mắt xích xe tăng ghi lại trận đánh ấy, xe tăng phát xít xông
vào từng khu chợ, đánh nhau với du kích. Tòa nhà thờ đầu chỗ chợ cũ. Xe tăng
phát xít đã đánh nhau với du kích cả trong nhà thờ, cày nát nền sân gạch, húc đổ
bốn mặt tường. Tài liệu của địch còn ghi trong hồ sơ trận hủy diệt: hơn một vạn
phát đại bác bắn vào nhà thờ. Không còn một cái cột, một bức phù điêu tượng
thánh. Bây giờ nhà thờ đã được dựng lại như cổ. Vào những ngày này, xung quanh
nhà thờ, hoa và nến chồng chất tưởng niệm các chiến sĩ đã hi sinh.
Chân tường chỗ này... Chân tường chỗ này... khắp các mặt đường
Vác-sa-va đầy ánh nến của kỉ niệm và ghi nhớ công ơn...
Ánh nến trắng như ánh trăng. Thành phố tràn ngập một ý nghĩa
thiêng liêng sâu thẳm. Cả Vác-sa-va đi nghĩa trang trong hoa cúc trắng, những
cành thông và những bát nến. Người trên đường phố đặt hoa và thắp nến. Người đi
nghĩa trang, đi suốt đêm, tất cả các thứ tàu xe ở Vác-sa-va đã được tập trung
cho ngày hôm nay cho các nghĩa trang.
Bốn chiếc cầu đông nghịt người song sóng qua sông Vít-tuyn.
Mùa đông về chậm. Những đàn bồ nông chưa đi tránh rét, bay lượn trên cầu
Pô-ni-a-tốp-suy yểu điệu, như còn lưu luyến dòng sông.
Chúng tôi vào nghĩa trang các liệt sĩ. Stô-la-rếch đưa tôi đi
thăm mộ anh của anh ấy. Ở mỗi lối đi vào, đội thiếu niên quàng khăn đỏ đứng
nghiêm. Các cháu, các em canh gác cho giấc ngủ chiến sĩ ngày kỉ niệm trang
nghiêm.
Hoa và nến đặt trên mộ người thân, trên cả những nấm mộ không
quen biết. Các em thiếu niên đứng gác. Các em cầm kéo, cầm chổi đi sửa cây,
quét các nấm cỏ và ghế ngồi quanh mộ. Nến sáng trong lá như bao nhiêu trăng sao
cùng mọc lên giữa vườn cây.
Trên nấm mộ anh của Stô-la-rếch đặt phiến đá trắng. Trước mặt
kê đứng hai chiếc ghế để nguyên cả thân cây bạch dương làm ghế ngồi. Tấm ảnh in
vào phiến đá, anh ấy thật giống mặt Stô-la-rếch khi còn trẻ.
Stô-la-rếch để hai bát nến vàng xuống bên bó hoa cúc trắng của
tôi. Ai đã đặt những nhánh hoa cúc vàng, hoa cúc trắng và những bát nến hồng
đương leo lét cháy?
- Có người nhà đã đến viếng anh ấy trước chúng ta
- Không, anh em tôi không có ai thân thích ở đây. Và anh ấy
hi sinh từ khi chưa yêu ai. Hoa và nến này của người Vác-sa-va. Phong lục
Vác-sa-va là ngày và đêm Nô-en dành cho các chiến sĩ.
Ánh nến lung linh như sáng trăng trên khoảng cách những dãy mộ
hai bên.
Tôi hỏi:
- Anh có nhớ Khâm Thiên của Hà Nội?
- Nhớ. Cũng tháng chạp này.
Stô-la-rếch đã đến thăm Hà Nội. Năm trước, chúng tôi đã cùng
đi thắp hương đài tưởng nhớ ở Khâm Thiên.
1980
Thời trước ở châu Âu bệnh dịch tả còn là một tai nạn khủng
khiếp, trước cửa nhà thờ thường chôn một cột đá. Người mê tín cho là cột đá
có phép lạ cản được bệnh dịch. |
Trời xanh Bungari
SÔPHIA, nửa đêm. Trên trời, sáng trăng. Đến lúc xuống, đi
trong phố, thấy ông trăng chỉ bằng một ngọn điện mơ màng. Cả thành phố dìu dịu
ánh điện như trăng xuống. Có người mách tôi “Sôphia có cái gió lạ lắm”. Gió tự
dưng ở đâu đến, giật lên, thế là các cửa sổ, cả đến mỗi đám lá thông đều rào rạt
và những hộp sắt tây lăn leng keng quay cuồng khắp nơi.
Tôi đã được nếm ngay cái gió Sôphia lạ lùng. Hốc vòm trên đầu
nhà như con chó bị gió quất, chốc chốc hú lên. Nhưng lát sau, yên tĩnh như
không. Gió Sôphia hay làm nũng như thế.
Buổi sáng êm đềm, sương mỏng tan dần, trời đất trước mặt như
sân khấu vén màn. Triền núi Vi-tô-xa xanh mờ. Tôi hiểu được cơn gió thình lình
nửa đêm qua. Đấy là gió trong núi tràn xuống thung lũng, thổi quẩn lại. Ở Hoàng
Liên Sơn, gió Than Uyên trên đèo Khau Co quật ngã cả người đi đường. Gió núi đá
bên huyện Văn Bàn lùa xuống thành bão cạn. Quét đổ nhà cửa cánh đồng Mường
Than.
Ô, đương kể chuyện thủ đô Sôphia mà.
Bungari trên bờ phải sông Đa-nuýp, Tây Nam châu Âu, lập quốc
đã ngoài 1.300 năm. Ngót nửa thế kỷ đã qua, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Bungari
đã trở thành nước công nghiệp hiện đại và công nghiệp tiên tiến với 289 nông
trường, nông trang nông công nghiệp trên cả nước. Lợi tức quốc gia hàng năm có
sức tăng vào bậc các nước cao nhất thế giới.
Nước Bungari anh em hôm nay tự hào về sự phát triển xã hội và
kinh tế, những con đường đã trải không phải dễ dàng. Bởi con người ở vùng ruộng
đồng này đã đổi thay từ đèn dầu đến sử dụng năng lượng nguyên tử, từ người nông
dân cầm cái liềm bước lên ngồi máy gặt đập, còn các bà chị thì ngày trước vẫn
phải đem váy áo ra rũ ngoài sông, giờ nhà đã sắm máy giặt.
Không đâu mà quang cảnh hài hòa đến lạ lùng của văn minh và
thiên nhiên, như ở Sôphia. Bốn phía, những cánh đồng, những trái đồi rỡn quanh
công trường và nhà máy đương thúc rộng ra ngoài thành phố.
Cả Sôphia là cuộc nô rỡn rồng rắn uốn khúc của đường, của nhà
và của những làn cây. Rừng thông cao cao chạy thi với đường cái. Đương mùa đào,
anh đào và mận, mỗi thứ chín đỏ đậm khác nhau. Búi cỏ mượt mà quanh những tòa
nhà cao tầng như cái đinh khổng lồ đóng xuống mặt đất trơ trọi. Nhưng đã có
bóng cây xanh biếc lượn khéo bốn bên, như bó lá nõn ôm bông lay ơn mảnh khảnh.
Trên núi Vi-tô-xa nhìn xuống, Sôphia hệt một vịnh biển, biển
xanh sóng cây đung đưa. Những dãy phố cao cao, những lâu đài, dinh thự như những
con thuyền bơi giữa làn sóng xanh rờn.
Cửa sổ quầy giải khát tầng hai khách sạn Vi-tô-xa trông ra một
đường phố nhỏ. Buổi sáng tôi có thể nhìn thấy đầy đủ mọi sinh hoạt gia đình. Dưới
bóng giàn lưa thưa, thấp thoáng quần áo phơi tựa hoa li la hồng nở trái tiết.
Những tấm chăn sặc sỡ vắt lên thành cửa sổ trên gác. Vườn anh đào trước nhà như
cái ô che. Tiếng vòi nước róc rách góc sân và gà gáy xa xa đằng kia. Rác rưởi
trong nhà đem bỏ thùng trước cửa. Xe hốt rác tới, ngoạm quai thùng hất rác lên
xe rồi hạ xuống đặt thùng vào chỗ cũ. Cái xe lần lượt đi suốt phố rợp bóng cây.
Giáo sư A Lanh Lơ Roa ngồi trước chai bia Thổ Nhĩ Kỳ, cũng
đương ngắm xuống phố. Giáo sư đã 92 tuổi, khách của ngành giáo dục Bungari, đã
nhiều lần thăm Sôphia.
Giáo sư chắp tay lịch sự, hỏi tôi:
- Ông đến Pa-ri chưa?
Tôi đáp:
- Tôi chưa được đến Pa-ri lần nào.
Giáo sư kêu lên:
- Trời ơi, may cho ông chưa đến. Những cái nhà chọc trời đã
dìm cả Pa-ri xuống rồi. Nhưng ông cũng phải đến mà thấy. Không thể tưởng tượng
được, những khu nhà chọc trời dìm chết một thành phố. Ở đây, nhà, cây, đường thật
hòa hợp. Ồ, nếu tôi còn trẻ, chắc tôi đã dọn nhà đến Sôphia rồi.
Nhà ở thành phố lớn sống theo mùa. Mùa hè mở cửa sổ, tiếng động
bên ngoài hòa với người nói và làm việc ở nhà cửa. Mùa đông, người ta quen với
mọi riêng tư trong nhà. Nhưng ở Pa-ri bây giờ không biết thế nào là mùa nào nữa.
Cánh cửa rung lạch cạch suốt mùa đông, những cái xe, những cái xe ghê gớm rên
xiết đêm ngày ngoài đường - giáo sư Lơroa cắt nghĩa cho tôi và lại thở dài.
Tôi đương đi vào vùng bắc Sôphia chi chít ống khói nhà máy và
nhan nhản trên ngã ba những tấm bảng treo ảnh chiến sĩ công nhân với thành tích
thi đua trong tháng. Hai bên đường ngổn ngang ống cống, phiến xi măng đúc sẵn
và xe húc làm việc, công trường như chiến lũy - chiến lũy của mặt trận công
nghiệp hiện đại. Những thành phố vệ tinh của Sôphia bạt ngàn nhà máy đương sôi
nổi lao động. Nhưng con đường đi qua đấy lại tới vùng núi nghỉ ngơi. Người ta
làm việc mãnh liệt và người ta giải trí thảnh thơi, hai sinh hoạt sóng đôi.
Chẳng mấy chốc đã vào chân núi. Con sông Itka vẫn quấn quít
bên đường cái bắt đầu hẹp lại và dòng nước uốn lên gờ núi đã đổi dáng ra con suối
đổ theo hai dòng, một tự nhiên, một vào đường ống về thành phố. Sông suối nghìn
đời cũng tham gia chiến tuyến công nghiệp. Nước và điện cho Sôphia đều bắt nguồn
từ nhà máy thủy điện trên hồ chứa ngọn suối này.
Dãy núi Rila xanh ngợp mắt. Nhưng trong các đỉnh rừng, các
đèo yên ngựa, giữa hoang dại lại mở ra những thành phố, đường sá, những khu nhà
nghỉ, dài rộng lên xuống quanh co hàng trăm cây số trong thế giới rừng. Giữa
bóng đại ngàn, đôi chỗ thoáng mặt nước sáng loáng, con suối ứa nước thành hồ
khe đá những hồ nước như con mắt thơ ngây chợt mở thao láo. Có tới trên bảy
mươi hồ nước xinh xinh vùng núi Rila.
Đâu cũng rợp rừng, giữa trưa mà râm mát như vào hoàng hôn. Có
hai cụ già bước nhanh trước mặt tôi. Các cụ mặc quần áo lông cừu thể thao. Ba
lô trên lưng ngang gáy tóc bạc, giày cao cô, tay ôm bó cần câu. Cụ nào cũng râu
bạc cước, mặt đỏ bừng hơi núi, đi thoăn thoắt như chạy.
Quán Bờ Suối ôm hai dãy nhà bên suối lởm chởm những tảng đá
được sắp xếp lại thành ghế ngồi và mặt bàn. Khách gọi nước ngọt hay bia và nếu
đói bụng, làm chiếc bánh mì kẹp ba tê rồi lắp cần trúc, mở túi mồi ốc sên và
buông câu. Suối trên núi Rila nhiều giống cá hoa. Cá hoa mảnh mình như cá diếc,
cá thiều, lưng điểm những chấm hồng. Cả suối núi đá thịt chắc và thơm. Nhà hàng
đã đưa lò than và xiên sắt cho khách đặt những con cá vừa câu được lên nướng
ngay, nhắm cá nướng với bia. Đôi chỗ, khói nước cá bốc lên xanh xanh.
Người câu cá rải rác bên suối. Một cụ bắt những con sên bỏ
vào hộp mồi. Cụ ngẩng đầu lên nói với đồng chí lái xe đương loay hoay tìm chỗ
thả câu. Cô Ni-cô-lai-va bảo tôi:
- Cụ ấy hỏi anh có muốn câu cá hoa không?
- Tôi rất mê câu cá.
- Cụ có hai cần và đủ mồi cho anh mượn.
Tôi cười và cảm ơn.
Cụ nói:
- Câu cho vui. Khi trẻ chỉ thích đi biển, về già thích lên
núi tìm yên tĩnh. Hè năm nào tôi cũng lên đây câu cá hoa.
Nhiều người ngồi câu cá đến xế chiều mới trở về nhà nghỉ
trong rừng thông. Hỏi ra, các cụ đều thọ trên chín mươi, có cụ ngoài trăm tuổi
vững vàng.
Đằng xa, ríu ran như chim hót. Từng đoàn các cháu nhỏ vừa đi
vừa hát. Các cháu cầm gậy, đeo ba lô con cóc. Có lẽ tối nay đoàn học sinh cắm
trại trong rừng. Từng đám dài đi ngoằn ngoèo như dòng suối xanh chảy ngược lên
đá.
Ở cửa rừng ra, lại gặp hồ nước sáng trong. Rừng càng xanh,
càng ánh bóng xuống làn nước sáng rợn. Trên thuyền, người đứng cầm cột buồm như
lực sĩ, lướt ngang mặt sóng.
Một đoàn xe khách lên núi. Xe đỗ trước những nhà nghỉ bên hồ,
những xe khác chạy tiếp vào rừng. Khách xuống xe, phần nhiều những người trẻ tuổi,
trai gái gọn gàng xách chiếc túi, cái va li nhỏ. Hôm nay thứ bảy, chắc đây là
công nhân các nhà máy lên núi chơi hai ngày cuối tuần.
Chúng tôi trèo đến đỉnh Muxala. Đứng đây trông sang dãy Pirin
thấy thành phố Bankô mùa hè băng đóng trắng lưng núi - thành phố của những người
thích chơi tuyết giữa nắng hạ. Ở Bankô có cây bách cổ thụ, cùng tuổi 1305 năm với
nước Bungari.
Thành phố Plôđíp giữa bảy quả đồi. Sông Miruca vắt ngang các
phố trong tiếng chim, không biết tiếng chim gáy trên cành cao hay những con le
le ở búi sậy đương thì thầm, lẫn tiếng nước chảy, tiếng nhà máy dụng cụ dọc bờ
sông, tiếng của phố xá.
Vụ lúa mì xuân hè chín vàng suốt dọc đường. Cánh đồng ngô trổ
cờ xanh rờn chen bên đồng nho, đồng cà chua. Ống dẫn nước tưới tỏa trắng mù mịt,
đổi làn như đuôi công múa. Những đàn cừu, đàn dê lúc nhúc quanh quẩn bên chân
những ông chăn cừu có bộ râu dài rậm vàng ám khói, nhác trông tưởng lão vác con
cừu đi cắt lông.
Một chú cò bạch thơ thẩn trên đồng cỏ xanh ngắt.
Những phố cổ như Plôđíp vẫn giữ nguyên hình dáng những thế kỷ
đã qua. Nhưng không phải, khu bảo tàng làng, bảo tàng phố có hàng rào, có người
gác và sổ ký tên lưu niệm, mà đây cũng vẫn có các nhà và người ở như mọi phố
phường hàng ngày. Chỉ đặc biệt, nhà cửa, đường phố, một phiến đá, và giàn hoa hồng,
màu tường đều phảng phất thời xưa. Đường phố lát đá củ đậu lổn nhổn. Ngày trước,
những cỗ xe hai ngựa, bốn ngựa chạy qua, tiếng móng ngựa gõ sôi nổi một thoáng.
Thành phố Trung Cổ vừa dân cư ở, vừa chiến lũy chống giặc ở trên đỉnh đồi
nghiêng nghiêng xuống giữa dốc. Dốc phố lát đá tảng xanh. Một tòa nhà đột cao,
khác những ngôi nhà liền tường hàng phố. Đấy là cơ ngơi của lão lái giàu có người
nước Thổ chuyên buôn bên Ấn Độ về định cư ở đây. Ngôi nhà đã trên hai trăm năm,
ngoài sân còn những chiếc chum đại đứng xếp dẫy cạnh giếng nước. Trong lầu, rèm
lụa hoa buông quanh những phòng rộng, thành cửa sổ cao nhọn đầu kiểu kiến trúc
Thổ. Lối vào hai bên cạnh đá gồ ra, cái ngõ cũng sâu tun hút. Chỉ một góc phố
cũng nhận ra được mọi tạo tác và sinh hoạt pha trộn trên ngã năm ngã bảy châu
Âu, châu Á.
Tối hôm ấy chúng tôi được mời ăn ở quán Pantôm giữa phố. Nhà
hàng kín đáo mà ở nơi trung tâm, lấy lại cái dáng thời ấy, khi những đèn treo vừa
được thắp lên trên cột cổng, tưởng như người ngựa chập tối dập dìu đổ đến cái
quán có tiếng. Cỏ ngoài sân mọc lan cả vào thềm, không biết là ánh mờ của bóng
đèn ấn trong hốc cột hắt ra hay chỉ có trăng xuống, mà ngọn nến đỏ lung lay
trên quầng đèn cũng chẳng tỏ tường hơn. Khách ngồi, từng cỗ, trai gái bè bạn,
dóng đôi, dóng bốn, dóng tám trên những tấm ghế bằng cả cây gỗ quanh những cái
bàn thép mộc.
Khuya rồi, chưa ai muốn trở lại nhà. Có lẽ, bắt chước phong tục
cũ, ăn uống xong, các bạn kéo ra nhà hát giữa trời. Những bậc đá xoáy chôn ốc,
người ngồi vòng tròn xuống đến quãng trống dưới cùng đáy, đấy là sân khấu.
Văng vẳng tiếng hát dân ca. Tiếng hát như thoảng qua, như gần
gũi sao mà trong óng đến thế. Tôi thấy ra ý nghĩa của cái sân khấu trũng giữa
và người xem quây quần thành vành trăng xung quanh. Lời hát từ dưới bay lên, rõ
đến như nhìn được tiếng thánh thót lượn vòng bậc thềm. Như một chỗ đọng nước, rồi
ánh trăng sóng sánh rung rinh tỏa tròn rộng ra. Bóng sương xuống mờ, không
trông thấy người đứng hát, mà tiếng ai thiết tha lượn lên, ngân mãi.
Chúng tôi đương đi giữa Bungari cổ kính và hiện đại trong những
cánh đồng và làng mạc giàu có màu mỡ. Quận Kranêvô phía tây, năm nay mở tới 400
cửa hàng tổng hợp bách hóa và thực phẩm. Nhiều nông trang bên sông Đa-nuýp có
nhà máy sản xuất nấm xuất khẩu. Chỉ mười cái hầm đất ủ hơi ấm nước sông nuôi nấm
mọc đã được 200 tấn nấm một năm. Thị trấn ngoại thành Pêlin được tiếng đến cả
khách nước ngoài cũng dừng xe vào quán ăn Gaiđơrét có món thịt cừu nướng lối “sốp”
Vác-na.
Những cánh đồng phì nhiêu. Thấp thoáng cánh nhạn trong sương
mờ. Những con nhạn bay khắp sông hồ, đâu cũng thấy. Khi mặt trời lên, nhìn ra,
bốn phía đã rưng rưng những đồng hoa mặt trời. Hoa mặt trời rực rỡ cao ngang
người, đường cây và thị trấn ngập trong màu vàng hoa.
Đến thành phố Pra-véc phải qua nhiều triền núi, núi chuyền
sang núi.
Nhưng những quãng đường “cua” theo lối cũ vòng vèo mãi mới lựa
ra chỗ vượt sang núi bên kia đều đã được xây cầu nối thẳng, cầu qua suối, cầu cạn,
cầu trên sông, chân cao lênh khênh ba trăm, năm trăm thước. Những cây cầu và những
hầm xuyên ruột núi gây cho người đi đường những cảm giác khác thường. Núi rừng
chỉ còn như lớp phông trên sân khấu. Mỗi quãng đường mở ra một phông mới chưa
bao giờ thấy. Bên đường vẫn những tảng đá chất ngất, những khóm rễ chùm, những
bông hoa đỏ hoa tím không có tên phất phơ buông trong gió, những thác nước trên
cao rơi xuống đá, bụi nước tỏa ra như mưa phùn quanh năm - quang cảnh tương tự
mọi nơi, mà lại không phải đã gặp. Bởi bây giờ chỉ có đi thẳng, đường núi mà
không một chút vòng vèo. Các tấm bảng giao thông ghi ký hiệu “qua suối”, “đường
gấp”, “nguy hiểm” đã biến mất.
Những đường núi ở Bungari đều đương được nắn thẳng xuyên đường
hầm và những cầu cạn như thế. Con đường băng núi đã hoàn toàn đạt đường “tiêu
chuẩn châu Âu” sáu làn xe chạy một lúc. Có lẽ các đường núi trên thế giới chưa
đâu bề thế khoáng đạt như ở đây.
Có năm dãy núi dọc ngang Bungari: từ Vi-tô-xa ngoại vi Sôphia
ngược lên Pirin và Ôđôpi giáp Hy Lạp. Vùng núi Stragia biên giới Thổ Nhĩ Kỳ và
dãy núi Già - núi Strômônira mà tôi đương đi qua. Núi Già hùng vĩ, dãy núi nhiều
tuổi nhất các núi vùng Ban Căng. Người ta gọi tên là Già, bởi tục truyền đây là
dãy núi mẹ đẻ ra các núi con núi cháu tỏa khắp Nam Tư, Hy Lạp, Rumani, Thổ Nhĩ
Kỳ và bọc quanh nửa bờ Hắc Hải.
Quê đồng chí Tôđo Gipcôp ở thành phố Pra-véc dưới chân núi.
Đường Pra-véc xanh cây như mọi con đường vào thành phố. Dàn cây lila, khoảng vườn
trước nhà, cây mận quả chín đỏ thậm, một con ngỗng thò đầu ra, ngơ ngác sau
lưng cái ghế gỗ cạnh gốc bạch dương. Cụ già ngồi lặng lẽ nhìn người qua lại. Cỏ
tóc tiên xõa ra lối đi vào căn nhà một tầng, nhà hai tầng mái ngói. Những ngôi
nhà giản dị, mộc mạc cả phố từ xưa tới nay với người qua lại tương tự thế.
Bên hè, cạnh một cây liễu cổ thụ có ghế đá và vòi nước phun
mát rợi. Chúng tôi nghỉ chân trong bóng nước. Cô Ni-cô-lai-va trỏ tay sang bên
kia đường:
- Nhà đồng chí Tôđo Gipcôp đấy.
Chẳng khác các nhà hai bên láng giềng, tôi vào thăm ngôi nhà
đồng chí lãnh đạo yêu quí của nước bạn. Cánh cổng gỗ đã mở sẵn khóa, người ra
vào tự nhiên. Những cụm cỏ tóc tiên hai bên lối quết ngọn vào bước đi. Nhà hai
gian tầng dưới thấp lửng, vừa nhà ở, lại là hầm đựng thùng rượu vang. Tầng
trên, buồng khách và buồng ngủ, hai bên, giữa nhà là bếp. Cái chảo còn đặt trên
kiềng và bàn ăn kê luôn cạnh bếp. Góc hiên, cái khung cửi dệt tay của bà mẹ,
chiếc giường nhỏ bên bàn học của đồng chí Gipcôp với bộ quần áo học sinh treo
trên mắc. Một nhà nông dân như mọi nhà trong làng xóm vùng này thời ấy.
Khu nhà cao tầng mọc giữa thành phố chỉ lan ra đến đầu đường
đằng kia và dừng lại. Thành phố giữ một quãng phố cũ này như người ta bảo tồn
vùng phố cổ Plôđíp. Cũng giống phố cổ ở Plôđíp, quang cảnh như nguyên nhưng
không cắt lìa với sinh hoạt thành phố. Mọi nhà đều có hộ ở bình thường. Nhà đồng
chí Tôđo Gipcôp có một ông già ở trông nhà và làm vườn.
Ra khỏi thành phố, gặp một hồ lớn mênh mang trước mặt.
Nắng rực rỡ lên. Người bơi, người lướt thuyền vi vút trên mặt
hồ. Chúng tôi không xuống tắm, chỉ mua kem ăn. Những cái vỏ cốc kem bỏ vào
thùng rác, đàn ong mật đương bay vù vù đến. Có lẽ ong kiếm đường dính ở các hộp
kem còn dễ hơn đi tìm nhụy hoa mùa thu. Ở tầng cửa sổ nhà máy, trong vườn táo, ở
công viên đâu cũng trông thấy những tổ ong lỗ chỗ cửa tròn sơn trắng.
Ở bờ biển Vác-na, nhiều bạn nhỏ ra đón chúng tôi. Các cháu
gái gấu váy thêu viền màu hoa cà, các cháu trai áo sơ-mi trắng bốp là mới cứng.
Các cháu từng đôi nhảy thành những vòng lớn như dang tay chào đón. Đằng kia, một
dàn nhạc đứng nghiêm, thật oách. Dàn nhạc trường học sinh cấp một. Thế mà đủ
kèn đồng, có sáo, có ắc-coóc, có kèn “gai-đơ”...
Tôi yêu cái kèn “gai-đơ”, tôi chưa trông thấy ở đâu bao giờ.
Kèn kiểu này ở Trung Á cũng khác. Làm thế nào thấy được, lần này tôi mới đi qua
các vùng đồng bằng, đồi núi và bờ biển Ban Căng, xứ sở những đàn cừu đông đến
vàng mờ đồng cỏ.
Cái kèn “gai-đơ” làm bằng cả bộ da con cừu bột, một chân thuỗi
ra làm ống thổi và một lỗ bắt nhịp. Cái gì gần người cũng thành bạn thân thiết
với người. Cây trúc làm cái sáo, thanh sinh tiền và đàn T’rưng, quả bầu lọ hóa
chiếc đàn bầu và con cừu biến thành cái kèn cừu. Trong truyện Những vì sao của
A.Đôđê dễ thường cái cậu chăn cừu trên đồi đêm ấy đã thổi cây kèn cừu này cho
cô gái con ông chủ trại nghe. Tiếng kèn “gai-đơ” hay đến đỗi những vì sao xa lắc
xa lơ trên trời cũng mê tiếng réo rắt phải xuống bậu vai người thổi kèn.
Cái kèn vắt trên vai, như người ta vác con cừu đi chơi. Cả
dàn nhạc vang lừng chào khách: kèn “gai-đơ” giơ lên, chú bé nhạc sĩ thổi căng
ra, như con cừu con ngóc dậy. Tòe tòe... pòm pòm..., tiếng “gai-đơ” ấm hơi da,
không thể lẫn với bất cứ tiếng nào khác. Thấy như mình đương chen chúc đi giữa
đàn cừu với người chăn cừu thổi chiếc kèn kỳ diệu. Bất giác, cả những tiếng sáo
véo von, tiếng ắc-coóc sôi nổi cũng lạc đi đâu mất, bên tai chỉ trầm trầm những
tiếng tòe tòe... pòm pòm ấm áp mùi cừu, tiếng cừu.
Ban nhạc hoa tay lên chào, dứt tiếng. Cái kèn cừu xẹp xuống
và chú bé thổi kèn lại vắt bộ da cừu lên vai, bước ra giữa đám vui nhộn quây lấy
chúng tôi. Dưới kia, bãi cát trắng ngần ven biển, sát mép núi. Người ta đi vào
những đêm những ngày thần tiên trên bờ biển Hắc Hải, từ Vác-na, Buốc-ga sang
Pla-tăng-ga bên Rumani và Yanta, Pitsunđa, Ô-đét-xa Liên Xô... Chỉ một khu du lịch
An-bê-na này ở Vác-na đã có 40 khách sạn và hàng trăm hiệu ăn, chưa kể các nhà
trọ rải rác trong núi ven biển. Bungari kinh doanh du lịch khắp nước. Những
vùng xa xôi dọc đường dọc sông đều có nhà trọ và quán hàng đủ tiện nghi hiện đại
cho khách quốc tế. Ở nông trang quận Ruta mỗi tuần hàng nghìn khách du lịch
trong nước ngoài nước đi đường tạt vào và dưới sông lên nghỉ lại, và ăn uống.
Quán “Phong Lan” trên cửa hang núi. Lại rộn tiếng “gai-đơ”
kèn cừu và điệu múa “sốp”, hát “sốp” của người Vác-na thời cổ, váy áo tưng bừng
đến hoa mắt. Những rễ đá cổ thụ im lìm rủ xuống trước lò nướng có ông nhà bếp
mũ trắng tạp dề trắng, nghiêng ngả quay những xiên thịt theo nhịp kèn cừu ngoài
sân.
Vác-na đây rồi, ngay trước mặt. Trong mỗi khe núi hé ra,
sương mù và mặt biển dâng lên như miệng cốc, những cốc nước sóng sánh giữa hai
gờ đá. Đố ai đoán được ngay dưới chân núi dựng đứng ấy lại là những bờ cát mịn,
những bãi tắm. Nghe tiếng sóng có thế phân biệt được. Sóng thì thào vào cát,
khác sóng gầm thét vỗ vào đá...
Khắp thành phố treo những tấm áp phích xanh tươi vẽ một nửa
trái đất tròn như một tổ chim, một vỏ trứng chim vừa nở. Trong đó có những con
chim con, dẩu mỏ, mắt tròn hồn nhiên nhô đầu lên.
Hơn một nghìn các vị khách bé bỏng từ 116 nước trên trái đất
tới Sôphia. Các bạn khác nhau khuôn mặt và tiếng nói. Nhưng các bạn lại giống
nhau trong vui chơi và tình bạn, ý nghĩa cuộc họp mặt thiếu nhi “ Ngọn cờ
hòa bình ” sâu xa ở đấy.
Một vệ tinh lớn ở dải thiên hà nào không biết, đã từ từ hạ xuống
hội trường. Các bạn ấy ở hành tinh khác nghe trái đất có hội thiếu niên hòa
bình Sôphia bèn rủ nhau đến chơi. Những thế hệ của mai sau, quê tận những tinh
cầu xa xôi. Những người nhìn thấy, cũng tưởng mình bay vào khoảng không không
biết có chân trời. Con cháu loài người khắp vũ trụ đương mở hội hòa bình ở đây.
Chúng ta phải làm cho khắp nơi đâu cũng được biết tin vui.
Các bạn kéo lên đồi Chuông. Trên đồi Chuông trong cánh đồng ngoại thành Sôphia
treo bao nhiêu chuông của các bạn nhỏ các nước gửi tới. Thiếu nhi Việt Nam đã đến
treo lên đấy một quả chuông chùa Việt Nam thật to.
Những tiếng chuông thế giới cùng gióng một lúc. Đủ các kiểu
chuông và các dạng chuông khác nhau từ thành phố hòa bình này vang lên đỉnh
núi, ngọn sông, đến từng vì sao xa nhất. Tiếng chuông vang lên: Chúng em
yêu hòa bình! Chúng em đương vui chơi ở Sôphia.
Thành phố Sôphia tuyệt đẹp của chúng em. Các đường phố lớn đã
thành vườn chơi hóa trang của thiếu nhi Sôphia và các bạn thiếu nhi quốc tế.
Chúng em khoác vai bạn gấu. Chúng em cưỡi ngựa, cưỡi voi, thò tay xuống vuốt
râu ông phễnh đi xe đạp một bánh. Chúng em dung dăng dung dẻ với các bạn thỏ,
các bạn cừu.
Những sân chơi và những sân khấu giữa trời chỗ nào cũng vây
quanh cung văn hóa Lút-mi-la Gipkôva nguy nga đồ sộ. Các cháu gái Nhật Bản cười
lúm má đồng tiền đương cắm hoa - nghệ thuật cắm hoa Nhật, biếu khách.
Cháu Rakhila quê ở nước Li Băng, cháu bé bỏng nhất cuộc chơi.
Bé hát, người nghe ra tiếng thương, tiếng đau của nước Li Băng đương bị bọn đế
quốc giày xéo giết chết biết bao nhiêu trẻ con.
Các cháu cầm phấn màu vẽ thi trên sân.
Cung Văn hóa xanh đầy mơ mộng và tiếng trẻ thơ.
Các cháu Thái Lan múa sự tích nàng tiên và con quỷ.
Các cháu Phi-líp-pin hát tốt giọng nhất hội. Các cháu Bungari
chơi ú tim mèo bắt chuột. Các cháu Tangiania có bộ nhạc gõ...
Ô kìa, các cháu Việt Nam. Nguyên đương dẻo tay vừa múa quạt vừa
hát giữa các bạn chơi vi-ô-lông và thổi sáo. Liên ở thành phố Hồ Chí Minh uốn dẻo,
lắc vòng trơn, vòng lửa. Các bạn xúm lại xem reo lên, vỗ tay rào rào rồi chìa sổ
tay đòi Liên ký. Trà đương hí húi vẽ những cảnh nhà em, trường em ngoài sân.
Mai Hương làm thơ:
Màu xanh gửi vào trong giỏ
Lời cây nói
Những bông hồng trong nắng
Chúng em yêu hòa bình
Hòa bình.
Một em bé người Anh lấy khăn cọ mặt cho một em bé da màu người
Ma đagatxca. Bé tưởng mặt bạn bị nhọ. Ôi là tình cảm hồn nhiên. Cứ thế này, đến
hôm chia tay, tha hồ mà nhớ, mà khóc nhé. Và tôi đã rưng rưng chứng kiến những
trận khóc như thế. Lên cửa máy bay rồi, các cháu Cu Ba còn quay lại vẫy các bạn
đứng dưới chân cầu thang, rồi cả trên cả dưới bưng mặt khóc nức nở.
Chiều hôm ấy, nhà khách Chính phủ thết cỗ hơn một nghìn khách
tí hon, cháu ngoan, cháu học giỏi khắp thế giới hội lại. Quang cảnh nhà khách
Bôyana chứa chan tình bác cháu, tình bạn giữa thiên nhiên. Một đội kèn thổi
vang lừng. Tất nhiên, phải có kèn “gai-đơ”, kèn cừu! Trên vườn cỏ, đến ven hồ
chân đồi, bàn thức ăn bày ra bên cạnh gò đông, những đào và anh đào cùng đỏ thắm
như dưa hấu, như táo. Ở mỗi góc sân, lại gặp nụ cười của một bác nhà bếp đội mũ
trắng ngất ngưởng, đưa từng hộp kem cho các cháu. Kem Sôphia ngon có tiếng rồi.
Cả thành phố của chúng em. Sôphia, Sôphia của chúng em - một
vùng yên vui trên trái đất của các thế hệ chúng em.
Đêm Sôphia sáng rực trong quầng đèn, đêm bình yên.
Tô Hoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét