Những gương mặt 2
Chân dung văn học
NHƯ PHONG
Nhà Như Phong ở trước cửa chợ Đồng Xuân, anh thật cũng không
rõ nhà mấy đời ra Hà Nội, ở vùng chợ Đồng Xuân. Chỉ biết ngày trước ở trên Yên
Ninh, Hàng Than rồi chuyển dần xuống phố chợ búa buôn bán này.
Có thể nói, gốc gác anh người Hà Nội. Nhà anh nòi võ. Cụ nội
anh đã từng đi thi võ - cụ bạn bè với cụ cử Tốn, cử võ mà thời chúng tôi cũng
còn biết tiếng.
Nhưng rồi Tây sang, cái thuở Kẻ Chợ trên bến người dưới thuyền
mảng vào đậu bến Nữa tự nhiên cũng không còn nữa.
Thời ấy, các phố cũ chật chội, nhưng để ý cũng phân biệt được
những khác nhau. Chỉ một dọc từ Hàng Giấy xuống cuối Hàng Đào thấy dần dà mọc
lên những nhà giàu mới nổi: Cửu Nghi Hàng Bồ, Lê Thuận Khoát Hàng Ngang, nhà đỏ
Chấn Hưng Hàng Bạc nhô ra những dinh cơ đồ sộ như những con trâu, con voi giữa
đám tường so le dựa nhau của những nhà ở phường cùng nghề phố Hà Trung, Hàng Quạt,
Hàng Mành, Hàng Hòm... Vùng buôn bán sầm uất của người Tầu, hiệu thuốc và hiệu
cao lâu, chè Chính Thái. Ninh Thái - dâu Đại Quang và Hàng Buồm, phố Kiến (Phúc
Kiến). Quãng Hàng Đường, Hàng Chiếu (phố Mới) vẫn có những nhà buôn cổ, nền nếp
nhiều đời. Cửa hàng cũ kỹ, thạp đường khay chè sơn then mà ngày nay vẫn còn có
thể trông thấy những tấm ảnh chụp trong các sách của người Pháp thời kỳ ấy, ở
các thư viện khoa học. Và những nghìn giấy bản, giấy moi, cửa hàng kẹo bột, kẹo
chày, nước hoa bưởi cất, hàng đường cát, đường phèn, hàng chè búp, hàng thùng,
hàng củ nâu...
Nhà Như Phong vốn nghề cất bán lẻ những thứ hàng cổ xưa ấy.
Hai bên chen những dãy nhà như những bao diêm chồng cạnh nhau, nhà hẹp mà thấp
sâu trông vào tối âm xâm, tun hút, không có gió lùa cửa ngách: hơi ẩm đất, ẩm gồ,
ẩm ngói lành lạnh đến gây người.
Những nhà, những phố, những cửa hàng cũ kỹ già như tuổi của
thành phố.
Những truyện ngắn đầu tiên của Như Phong viết về các mái nhà
phố phường Kẻ Chợ, về mỗi căn nhà và mỗi con người ở đấy. Những truyện ngắn của
anh đượm một hơi văn, một tinh thần và quang cảnh vừa trang trọng vừa lịch sự lại
là thật hiện đại. Trong cái eo xèo thường ngày của đời sống thành phố, phảng phất
một thoáng trong sáng, mới lạ. Đấy là cảm tưởng tôi lần đầu đọc truyện ngắn của
Như Phong ở Hà Nội, của Cao Thọ Ân ở Hải Phòng, in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ
bảy, quãng năm 1936.
Có khi Như Phong nói vui: “Mình được sinh ra giữa những
bức tường và mái nhà, cả đời chưa bao giờ trông thấy mặt trời mọc. Mỗi ngày
nhìn lên đã gặp ánh nắng ở trên đầu tường rồi”. Dễ thường câu nói nhận xét ấy
cũng phản ánh hình ảnh mơ ước của tuổi thơ, của tinh thần những sáng tác đầu
tiên của chàng trai phường phố khi đưa xuống bút những ý nghĩ xa vời của mình.
Tôi ngỡ như thế và thông cảm sự ham chuộng cái gì khác thường ngày trong những
sáng tác đầu tay của Như Phong. Những suy nghĩ, những khắc khoải, những ước mơ,
những tưởng tượng xanh trong như trời xanh trên kia của lứa tuổi nhìn ra cái ô
cửa sổ cánh gỗ gạn sát mái nhà, mỗi khi mở then lại phải nhấc tấm mành, mà cũng
chỉ thấy gờ lên những mái nhà, lại những mái quanh quẩn.
Ai từng ở những căn gác hẹp chật chội quanh co giữa thành phố
mới nhìn ra được vùng sóng quái lạ nhấp nhô những mái nhà, những đầu tường, những
mỏm chuôi vồ nóc mái cứ xám mờ như làn sóng đất.
Sóng quẩn, cao thấp quành quanh, phía nào cũng thấy thế, mái
nghiêng, từng miếng chìa ra dưới cánh cửa mắt bò ti hí hé như con mắt ngái ngủ
ngỡ ngàng trước làn ngói lô xô vây bọc cả đời.
Nhưng mà ngẩng đầu lên trên làn sóng mái ngói u uất ấy, in một
khoảng trời xanh. Trời thu thành phố xanh vô cùng xanh. Đấy có phải là biểu tượng
một khắc khoải, một hy vọng trên cái trơ trọi tẻ ngắt nổi lên niềm mơ ước đến
không cùng.
Trong những cây bút viết truyện ngắn thời kỳ này mà tôi thường
đọc, tôi không thích những truyện ngắn nhẹ nhàng của Khái Hưng, Nhất Linh, mà
trong lớp trẻ hơn viết truyện ngắn như Nguyên Hồng, Cao Thọ Ân, Nguyễn Xuân
Huy, Ngọc Giao, Thanh Châu, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du. Tôi yêu truyện ngắn Cao
Thọ Ân và Như Phong hơn cả, mặc dù Như Phong viết không nhiều. Truyện ngắn Như
Phong gọn thoáng, mới lạ, khơi gợi nhiều đối với một người đương tìm học và tìm
lẽ sống như tôi.
Trong đời viết, Như Phong chỉ sáng tác có độ trên, dưới mười
truyện ngắn đầu tay. Sau này, vào kháng chiến chống Pháp, khi ở Gia Điền (Phú
Thọ), Như Phong cũng viết một tiểu thuyết, nhân vật chính tên là Tâm và Như
Phong cũng định đặt tên tiểu thuyết là Tâm. Có lẽ là một tiểu thuyết tự truyện.
Nhưng anh cũng chỉ mới viết được có mỗi một chương.
Những truyện ngắn của Như Phong mang tâm sự và khát vọng của
một thanh niên mới lớn ngồi trong ô cửa sổ con con nhìn ra “thèm chân trời
mà chưa hề thấy chân trời”. Nỗi lòng cùng ý chí và ước muốn của người trai trẻ
giữa chật hẹp, bức bối mà xa kia là trời xanh thăm thẳm.
Đấy không chỉ là dáng nét quang cảnh bề ngoài, mà là những
con người, những tâm sự. Trong truyện ngắn, Như Phong miêu tả một lớp nhân vật
trẻ tuổi. Lớp người, có cả tác giả, có cả bạn đọc, cả lứa chúng tôi luôn lầm lụi
quanh quẩn dưới những mái nhà hũ nút, bao nhiêu đời nay đã thế, có thể còn cứ
thế mãi với cuộc sống vật lộn bon chen, nhưng mỗi lúc cực nhọc, u uất quá,
trông ra, thấy được mảnh trời xanh hình như có đem lại một ý nghĩa khác. Đối với
những ai trong khắc khoải, những gì làm cho thấu hiểu thêm nỗi đau khổ cùng lứa
tuổi chúng tôi, nhân vật - người viết và người đọc cũng như nhau, tất cả đều cảm
thương những người trẻ tuổi ấy cứ xám ngắt lại có cơ cộc cằn, tàn úa đi, nếu chỉ
như thế ngày ngày...
Những cái như tưởng tượng đó lại chính là hình thù mọi mặt của
sự thật cuộc sống và tư tưởng một lớp thanh niên vào quãng trên dưới thập niên
40 của thế kỷ này, những năm cao trào công khai Mặt trận Dân chủ Đông Dương, cờ
đỏ được trương lên giữa cuộc mít-tinh quần chúng ngày 1 tháng năm 1938 ở khu
nhà Đấu Xảo với những đợt chúng tôi hô đến khản giọng, đả đảo tờ-rốt-kít. Tình
thế đã khẩn trương thật đặc biệt.
Thế rồi, chiến tranh thế giới xảy ra. Đợt khủng bố ác liệt ập
đến. Pháp, Nhật: thực dân và phát-xít đều vằn máu mắt, ra tay bắt và giết.
Nhưng sức mạnh nổi dậy đã là một sự thật, như mảnh trời xanh nguyên rất Hà Nội
kia, chàng thanh niên Như Phong, lớp tuổi trẻ Như Phong thời ấy, đã có mặt và
tham gia Tổng khởi nghĩa.
Dưới mái những nếp nhà cổ xưa ngói lượn lộn xộn, trong ô cửa
mắt cáo tối om, những bàn tay con người giơ ra, đã vốc được trời xanh, trời
xanh lồng lộng trong mắt, trên tay. Tiếng nói gửi gắm vào những truyện ngắn của
Như Phong đã thành sự thật của hiện thực ước vọng của tuổi trẻ.
Cuộc sống chẳng bao giờ đơn giản. Nhìn lại tình thế thời đó,
tình thế ở mỗi người, dằng dặc, éo le những khủng khiếp mà người ta đã vượt qua
hay đành chết chìm trong ấy. Một bên, đêm ngày khốc liệt những tàn sát đẫm máu
của thực dân và phát-xít. Một bên, những hoạt động cách mạng đưa từ âm ỉ tới thức
tỉnh. Hai làn sóng sôi sục, lay động tất cả. Mỗi con người phải thế nào, sẽ thế
nào. Không ai có thể đứng yên, ở yên.
Chúng tôi, những người đương quằn quại trong sóng gió ấy,
chúng tôi rã rời đi hay là tới được khoảng trời xanh vẫy gọi kia.
Khi tôi bắt đầu cầm bút, các nhà văn lớp trước như Tản Đà,
như Vũ Trọng Phụng đã mất, tôi không được biết mặt. Các đàn anh Nguyễn Công
Hoan, Lê Văn Trương, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân đều ở lứa tuổi trên. Các nhà văn trước
kia đã từng sôi nổi hướng nghĩa như Trúc Khê, Nhượng Tống cũng đã luống tuổi và
sống yên phận ngày ngày đi làm công việc dịch thuật, trước tác lĩnh lương
tháng.
Hình ảnh lý tưởng về con người cầm bút khá hấp dẫn lúc ấy đối
với tôi là Như Phong và Nguyên Hồng - những người viết gần gũi, xấp xỉ trên tuổi
tôi một chút.
Chúng tôi thường gặp nhau tại phố Phạm Phú Thứ tòa báo Thế giới,
cơ quan Đoàn thanh niên Dân chủ. Ở đấy có Đào Duy Kỳ, giỏi lý luận, có Trần Mai
Ninh viết lối văn vừa thơ mộng, vừa khác lạ, cực mới, có Thành Ngọc Quản biết bốc
ăng-lê và chúng tôi say sưa bàn về một tờ báo phiêu lưu mà lý thú, tòa soạn ở
Hà Nội, nhưng in và phát hành ở Sài Gòn. Tôi còn nhớ, cái nhà báo Thế giới, mặc
dầu chỉ là một gian hẹp, khác nào cái cửa sổ mở ra trên nóc những đợt sóng mái
nhà trước cửa chợ Đồng Xuân. Giữa phòng kê tấm áp-phích to hơn chiếc chiếu liền
dán lên cót ngăn đôi gian phòng. Áp-phích của Đoàn thanh niên Cộng sản Pháp: Một
đám trai gái giơ nắm đấm kiểu chào mặt trận Bình dân. Tờ tranh khuấy động không
khí gian nhà âm thầm. Và ở đấy nhiều khi đã sôi nổi những cuộc tranh luận quanh
những gói thịt chó, gói thịt vịt quay và cút rượu mua ở chợ Hàng Da về.
Những người viết văn, viết báo ở Hà Nội thời kỳ này sống ồ ạt,
phóng túng, làm ăn và chơi bời, không ai coi như thế là không bình thường.
Nhưng chúng tôi cũng không hẳn là những tay ăn chơi đến vục mặt xuống. Sống và
sáng tác, chúng tôi vừa ngoi ngóp, lại vừa tự vượt lên. Cuộc sống thời thượng,
sa đọa kề cạnh những hoạt động mải mê, hăng hái. Có khi thức trắng đêm viết một
cái truyện ngắn trên gác một nhà ả đào ở dưới Ngã Tư Sở. Không cắt nghĩa mà chỉ
thấy thế là ngang tàng, tối hôm trước ngủ xăm đầu phố Sinh Từ, sáng hôm sau
xông đi gặp tờ-rốt-kít Nguyễn Tế Mỹ tranh luận một trận lôi đình. Ở một tiệm
hút cuối phố Hàng Chiếu, âm thầm nghi ngút như trong cửa điện đồng cô, cãi nhau
rầm rĩ về H. Bác-buýt, về Phít-ni-ê...
Tôi ngỡ thế mới thật kiểu nghệ sĩ và cách mạng. Nhưng, thời
thế biến chuyển hàng ngày, tình hình không phải lúc nào cũng đọng lại, phóng
khoáng và miên man như vậy. Trên Hàng Giấy, những hiệu bán đối trướng Tùng Lâm,
Tiến Cảnh - cơ quan liên lạc bí mật của Xứ ủy Bắc kỳ, đã biến mất. Ô tô mật
thám lùng bắt người suốt ngày. Những người ở tòa báo của Đảng không biết đã rút
kịp hay đã bị bắt: Đoàn thể gọi Nguyên Hồng xuống Hải Phòng định đưa đi thoát
ly, nhưng rồi Nguyên Hồng bị bắt, bị đầy lên căng Bắc Mê, Như Phong bị xích tay
giam ở sở mật thám...
Thành phố đêm trong ánh đèn phòng thủ thụ động tối như hũ
chum. Những người còn sót lại có cảm tưởng rỗng không.
Mật thám dung dưỡng cho mấy tay tờ-rốt-kít đánh võ mồm mặc sức
hò hét “giai tầng vô sản làm cách mạng thế giới”. Cánh ấy ra báo, cũng in
bí mật dưới tên báo Tranh đấu có dòng chữ “Đệ tứ quốc tế phụng sự cách mạng
thế giới!”. Trên đường phố len lét mấy người mất tinh thần trước cơn khủng bố
trắng. Bọn mật thám để yên cho những người ấy trước cũng hoạt động bây giờ đi
lang thang. Có người gặp ai cũng xin tiền ăn, hút. Họ viết báo, sáng tác tầm
phơ - mà trước đây đã có những bài rất cách mạng đã đi mít-tinh đứng trước chị
em tiểu thương chợ Đồng Xuân, tay cầm ba-toong, mặc vòi rồng xả nước vào người,
vẫn đứng.
Không còn ai nữa. Những sôi nổi đã qua. Chúng tôi bàng hoàng,
lặn ngụp giữa ngột ngạt, giữa bế tắc, giữa những tình huống quái ác ấy. Khác
nào lại ngồi nhìn làn sóng quẩn các mái nhà, có trời xanh trên kia. Hoặc là ngạt
trong tăm tối ấy, hoặc là mở cửa tới được.
Ở một tiệm thuốc phiện phố Mã Mây. Gác xép trong ngõ tối tăm,
ướt át kiểu này, cứ nhô lên khỏi cái thang gỗ, chỗ nào cũng là tiệm hút. Những ổ
rệp rải rác các ngóc ngách tồi tàn. Mấy tấm phản kê đổi đầu đổi đuôi, vừa bằng
hai cái áo quan ghép một, đã nhếnh nhoáng mồ hôi lên nước nhẵn thín, với khúc gối
gỗ trơ trọi.
Những hạng người nào lui tới đây? Ở tuổi tôi lúc ấy chưa đủ
trải biết những lọc lõi đến thế. Tôi trông thấy chỗ nào cũng người ngả lưng âm
thầm, lúc nhúc như nhau. Đám áp-phe. Du côn. Me tây. Con bạc.
Người sắp đi tự tử. Những đứa choai choai tập tọng ăn chơi.
Đám nhà văn, nhà báo với bọn đàn em để sai bảo. Quần áo, mặt mũi người nào cũng
rầu rĩ u ám. Họ không phải những ông nghiện bóng môi lên như ông Thạch Lam hay
ông Lê Văn Trương. Nhiều người còn thật trẻ cũng không đoán được tuổi tác thế
nào. Lại những ông bị đoàn thể bỏ rơi, viết báo nhăng nhít và đi xin tiền. Sợ bọn
này hơn cả, có khi họ đã muối mặt làm mật thám rồi.
Họ là ai? Có phải họ là những người bơ vơ sau cơn địch khủng
bố? Sự trống rỗng đến khủng khiếp. Không, ở Sở mật thám, Như Phong bị đánh, bị
tra điện, bị dọa từ giờ phải “chừa làm cộng sản”. Nhưng Như Phong vẫn
nghiêm nghị và chững chạc thế. Như Phong vẫn như thế. Chúng tôi gặp nhau, kể lại
những tin đồn anh nào, anh nào đã chạy thoát. Nghi ngờ anh nào trước hăng hái
thế mà sao bây giờ không phải bắt? Tiếc Nguyên Hồng đã không đi thoát ly, lại bị.
Chuyện huyền thoại Thành Ngọc Quản trốn xuống bãi Nghĩa Dũng, chập tối mật thám
ập vào Quản chơi miếng bốc hay quá, bọn chó chỏng kềnh, thế là Quản thoát.
Chẳng biết có thật vậy không, nhưng chuyện cứ rỉ tai mãi như
sự tích thần kỳ. Chúng tôi không hốt hoảng. Nhưng mà trống rỗng, buồn đến thê
thảm.
Phản hút ở góc u ám ấy thật tĩnh, không còn biết mình ở đâu,
ai cũng trầm ngâm im như chết. Cả cái gác lỉnh kỉnh giường kê ngang kê dọc, những
ngọn đèn dầu lạc trong khay thuốc, lúi húi như ánh đèn bên bát cơm quả trứng cạnh
những xác người còng queo. Cái chỗ chui lên gác đã được đậy nắp gỗ xuống. Những
cửa sổ đều kín mít, đến chỗ mảnh kính trên nóc đón chút ánh sáng vào, các ông
khách bẹp tai cũng bắt chủ tiệm phải bịt mảnh giấy nhật trình lại. Cho đỡ hả
hơi thuốc. Trong nấm mồ lơ lửng giữa trời này cứ khói um lên, người như những
cái bóng sợ gió và ánh sáng.
Không biết đương trưa, hay chiều, hay đã tối. Nghĩ gì, làm thế
nào. Mỗi thời kỳ khi bước ngoặt lịch sử tiến tới ở từng con người đều tới lui
những tâm trạng khác nhau, ai biết ở nơi tàn tạ cùng cực đây, cả đến hai chữ “trụy
lạc” cũng ý nghĩa khác ở mỗi người.
Nghe có người kỳ cạch trèo lên thang gác, rồi tiếng đội nắp cửa
lên. Hẳn phải là khách quen. Rồi cũng chẳng ai để ý. Bóng tối vẫn âm u trầm lẳng
lặng.
Người ấy nhô đầu, nhìn quanh một lát cho khỏi quáng mắt rồi vịn
phản đến chỗ chúng tôi. Chẳng rõ mặt mũi, nhưng thấy trên đầu trăng trắng vành
khăn ngang. Biết rồi. Lại cái anh đã vung ba-toong giơ nắm đấm hô ủng hộ đám biểu
tình của chị em tiểu thương chống thuế, ở cửa chợ Đồng Xuân, mặc vòi rồng đội xếp
phun nước vào mặt. Bây giờ thế này đây.
Như Phong “à” một cái, không nghe rõ là thở dài hay
tiếng kêu nhận ra hắn. Người chít khăn ngang ngả vào giường chúng tôi, anh cứ tự
nhiên kéo một điếu rồi nằm yên thưởng thức hơi thuốc ngấm vào mình. Nghe chừng
một lát mới lại hơi, rồi nói rầu rầu nho nhỏ:
- Bố tao chết đã được một tuần. Biết tin thế, mà chẳng cách
nào về được.
Im lặng.
Như Phong mở ví, nói:
- Này, cầm tiền về mà làm ma cho bố mày.
Người ấy nhét tờ giấy bạc vào ngực áo, rồi lại ngóc cổ lên,
tay đặt vào dọc tẩu, tay xoe tiêm trên đèn sắp sửa làm điếu nữa. Cái môi thưỡn
ra, nhầy lên một màu đói khát trong ánh đèn dầu lạc lờ mờ.
Như Phong giằng cái tẩu rồi thong thả nói từng tiếng:
- Mày xin tiền tao để làm ma bố mày đã mấy lần, quên rồi à?
Tao bảo cho mày biết lần này là lần cuối tao thí cho, từ nay mà mày còn mở mồm
ra xin tiền làm ma bố nữa, ông đập vỡ mặt, biết không!
Người ấy thản nhiên cầm lại cái tẩu, vê điếu thuốc, có lẽ là
điếu sái, anh ta vừa mới tự tiêm xong. Hút đoạn rồi chiêu một ngụm nước, nằm
im, ngửa mặt lên.
Bỗng rền rĩ anh ta ngâm:
Tự quân chi xuất hỹ
Bất phục lý tàn ky
Tư quân như mãn nguyệt
Dạ dạ giảm thanh huy.
(Thơ Trương Cửu Linh, đời Đường)
(Dịch nghĩa: Từ khi chàng ra đi. Thiếp không còn lòng dạ nào
sửa sang lại khung dệt dở. Nhớ chàng chẳng khác mặt trăng tròn. Từng đêm, từng
đêm hao mòn vẻ trong sáng.)
Tiếng ngâm thơ hay tiếng rên, tiếng khóc, tiếng ô hô bố chết
mẹ chết đằng sau lưng. Hay là tiếng cái thằng chính trị vỏ một thời viết báo
lăng nhăng lại đến.
Không biết tiếng gì, và không liên quan đến câu Như Phong chửi
thằng này. Chúng tôi mặc nó đấy. Chúng tôi lật đật xuống cái lỗ cửa thang dựng
đứng.
Rồi có bao lần Như Phong trở lại cái tiệm hút phố Mã Mây ấy,
không biết. Nhưng viết về Như Phong mà nhỡ tôi không kể lại cái lúc anh đã nói
như những câu tát vào mặt đau đớn khủng khiếp đến như thế với cái thằng mất
tinh thần “bố chết không biết bao lần”, thì thật không phải với anh.
Đứng trên bờ sông, chỗ cột Đồng Hồ trông xuống bãi, Như Phong
hỏi tôi:
- Mày có được tin tức gì không?
Những câu hỏi han như thế thường hay xảy ra sau những chuyện
đau lòng tương tự vừa rồi. Chúng tôi vừa kinh rợn quanh mình, vừa mong ngóng,
chờ đợi một cái gì, một khoảng trời xanh.
Một hôm, Như Phong lên nhà tìm tôi, anh lấy trong túi áo ra mấy
tờ in litô bé bằng bao diêm, bìa đỏ nhạt “Chương trình và điều lệ Việt
Minh”.
Chúng tôi nhìn nhau, không nói. Lời nào hơn được khoảng khắc
im lặng này. Vẫn là mảnh trời xanh vô cùng chờ đợi ngoài cái cửa sổ gác xép tù
túng của một lớp trẻ trong một tình thế sôi lên giữa cuộc sống thật và cái chết
tan rã.
Mùa thu 1944 Như Phong và tôi bị bắt. Bị bắt lần thứ hai,
nhưng Như Phong vẫn thế. Bình tĩnh can đảm, không hoảng hốt, không khai. Được
tha ra lại lao vào cơn lốc những ngày chuẩn bị Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội.
Đêm 17 tháng 8 năm 1945, Như Phong cùng đội tuyên truyền xung
phong Hoàng Diệu võ trang đột nhập ba nhà in báo hàng ngày, các tờ Tin mới,
Đông Pháp và cả tờ Bình minh thân Nhật. Những đội công nhân cứu quốc các nhà in
này đã sẵn sàng. Các báo đều phải in trang nhất bài tường thuật Như Phong viết
về cuộc mít-tinh ban chiều của công chức biến thành mít-tinh ủng hộ Việt Minh ở
quảng trường Nhà hát Lớn.
Cũng trên trang nhất, Việt Minh thành Hoàng Diệu ra lời hiệu
triệu toàn thành võ trang xuống đường ngày hôm sau: Mười chín tháng Tám. TRÚC
ĐƯỜNG
Trúc Đường, tác giả chín kịch bản sân khấu về đề tài lịch sử:
Nguyễn Trãi, Hoàng Diệu, Bà đô đốc áo đỏ, Khuôn mặt đời Trần, Tấm vóc đại hồng,
Thái hậu Dương Vân Nga, Quang Trung đại phá quân Thanh...
Hơn bốn mươi năm về trước, khi anh Trúc Đường dạy học trường
Hà Văn, một trường tư trong thị xã Hà Đông, đấy là ông giáo còm, còm tiền và
còm gù cả lưng mà lũ đàn em chúng tôi hay đến quấy nhiễu quá nhiều.
Ông giáo dạy tư Nguyễn Mạnh Phác lấy việc gõ đầu trẻ nuôi miệng.
Nhưng rồi Nguyễn Bính từ quê lên ở hẳn với anh, sau khi được giải khuyến khích
về thơ của Tự Lực văn đoàn. Cái vinh quang ảo ảnh xui chàng thanh niên bỏ làng
lên “kinh thành gió bụi” chứ có ăn thua gì đâu. Bọn chết đói dở, Nguyễn
Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, lại còn cả một lũ cùng trường phái thơ văn với
nhau, nào Trần Nhân Cư ký ga Đầu Cầu, nào Trần Hồi (làm thơ ký là Jeannine Lệ
Thủy!) vốn sống nhờ vợ bán thịt lợn chợ Hôm, nào các Tản diệt Nguyễn Tố, Nguyễn
Tuất, Phan Như chạy hiệu xuất bản... Chúng tôi cứ dông dài đâu đâu đến lúc
không đào ra được một tiếng tử tế lại mò về báo hại anh Trúc Đường.
Tất nhiên, thày giáo trường tư hay ông ký công nhật nhà in
Trúc Đường cũng chỉ có thể đãi được bữa cơm rau dưa hay mỗi người một bát phở
trộn cơm nguội, chẳng hạn.
Ba năm trở lại đất Hà Đông
Người cũ cô Oanh má vẫn hồng
Tóc vẫn bỏ lơi răng vẫn trắng
Vẫn ngồi bên cửa liếc qua song
Mã vẫn vô tình với khách thơ...
Cái cô Oanh con cái nhà ai ở thị xã thật tình cũng chẳng quen
thuộc và đăng đối gì với cuộc sống khó khăn từng ngày của bọn thất nghiệp dở
này. Cả thơ, cả người cũng chỉ phất phơ bóng gió đầu đường mà thôi.
Thế mà như thật. Một hôm, vào lúc chập tối, đương đi ở phố
Hàng Bông, Nguyễn Bính bấm tôi: “Oanh đấy! Oanh đấy!”. Tôi nhỏm sang bên
kia hè. Trời ơi! Oanh! Thiên tình sử Ngậm miệng não nùng của Nguyễn Bính đăng
nhiều kỳ trên báoTiểu thuyết thứ năm: Tâm hồn tôi chỉ là bình rượu nhỏ... Rót lẩn
lần rót mãi xuống nàng Oanh... Bây giờ gặp Oanh đây...Một cô con gái hình như mặt
tròn như chiếc bánh đúc, chít khăn sa tanh đen, kiểu các cô bán cau khô, hàng
xén chợ tỉnh, mà cái chàng “khách thơ” Nguyễn Bính đâu có quen người
ta cho cam! Hình như chỉ biết là con ông ách, ông quản hay bà giáo, bà ký gì ở
tỉnh lỵ. Thế mà cứ rối cả lên.
Đã có lần tôi có nhận xét trên Tạp chí Văn học về những sự việc
và con số không đúng trong một cuốn từ điển các tác gia Việt Nam trong đó có chỗ
về Nguyễn Bính. Sách nói Nguyễn Bính đi Nam tiến 1945 rồi tham gia kháng chiến ở
Nam Bộ. Đúng, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến ở Rạch Giá. Lời bài nhạc Tiểu
đoàn ba lẻ bảy thơ Nguyễn Bính mà Quốc Hương đã hát một cách hết sức trầm hùng,
cả nước đều thuộc.
Rồi Nguyễn Bính ra tập kết. Nhưng không phải Nguyễn Bính đi
Nam tiến thời kỳ Tổng khởi nghĩa, mà anh đã có mặt ở Cần Thơ rồi Rạch Giá và là
một trong những nhà thơ kháng chiến có tiếng nhất ở Nam Bộ.
Và ở thời kỳ đầu, trên chiến trường Nam Bộ, thơ Nguyễn Bính
có ảnh hưởng nhiều trong hơi thơ Huỳnh Văn Nghệ, Bảo Định Giang, Xuân Miễn,
Hoàng Tố Nguyễn, Vũ Anh Khanh...
Quãng những năm 1940, đói rách cả rồi, ở lại Hà Nội ăn bám
anh em mãi không còn được, đành phải kéo nhau đi kiếm ăn nơi xa xôi. Lúc đầu
thì ba người: Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can và tôi. Bạn bè lại phải làm một cuộc
đưa các Kinh Kha sang Tần ở ga Hàng Cỏ lần nữa. Lần này những ba Kinh Kha! Anh
Trúc Đường cũng đi tiễn chúng tôi.
Ghé xuống Thanh Hóa trước tiên. Ở Thanh, lại ăn vạ người ta,
đến nỗi bạn bè không kham nổi, phải tống tiễn lo cho ba suất vé tầu hỏa vào Sài
Gòn. Nhưng lại xuống Huế. Vào Huế cũng sống vật vờ như ở Thanh.
Thỉnh thoảng, Nguyễn Bính gửi thơ về Hà Nội. Những bài thơ
Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương... Nguyễn Bính viết. Hồi ấy, Trúc Đường cho
đăng báo Đàn bà rồi gửi tiền nhuận bút vào. Nhưng thơ làm sao nuôi nổi người,
huống chi lại những ba người. May nhờ có các bạn yêu thơ Lỡ bước sang ngang mà
chúng tôi vẫn thất thểu dưới nước và trên bờ sông Hương được. Rồi gặp may, có họa
sĩ Nguyễn Đức Nùng đương dạy vẽ ở Huế.
Thời ấy, bất cứ ai đi làm cho nhà nước, đem so với nghề còm
cõi khác, thì cũng gọi là ung dung hoặc có máu mặt đôi chút. Văn thơ là việc
dông dài lông bông, không được gọi là một nghề. Thế là chúng tôi đến ăn báo cô
nhà anh Nguyễn Đức Nùng ít lâu. Tôi cũng không nhớ được ai mách báo, một hôm
lên chơi với sư chùa Trúc Lâm. Nhà sư trí thức Thích Mật Thể, tu tại đấy. Rồi lại
không biết làm sao mà Vũ Trọng Can nảy ra sáng kiến đọc sách Phật rồi cặm cụi
viết quyểnTinh thần Phật giáo (Nhà xuất bản Đời Mới ở Hà Nội đã in). Sư Thích Mật
Thể nuôi Vũ Trọng Can ngồi tại chùa viết sách Phật. Thế là Nguyễn Bính và tôi
cũng được nuôi lây. Chúng tôi ở yên chùa Trúc Lâm có đến hàng tháng, cũng đến
ngày phải đi khỏi Huế. Nhưng lần này tôi đã thoái trí lang thang cầu bơ cầu bất,
tôi trở về Hà Nội.
Hai người ở lại Huế. Không biết có phải chuyến ấy Nguyễn Bính
ghé Bình Định chơi với Yến Lan và hai anh đã cùng viết kịch thơ Bóng giai nhân
không. Mới đây, tôi được Yến Lan nói là khi ấy Yến Lan đã ra Huế, vở kịch thơ
được viết và diễn lần đầu tiên ở Huế, đông người xem mà bị coi như thất bại vì
nhiều nỗi.
Cuối năm 1943, lại gặp Nguyễn Bính ở Sài Gòn - chuyến này tôi
lấy vé đi tầu suốt đàng hoàng. Ngày ngày ăn cơm thố. Hôm nào có tiền đi uống rượu
quán cháo cá Chợ Cũ. Nhưng xem ra Nguyễn Bính có vẻ ung dung. Chẳng cần đoán
thì cũng biết bạn bè nuôi thôi.
Không biết bạn còn những ai nữa, nhưng Nguyễn Bính đưa tôi đến
làm quen với nhà thơ Việt Châu, người có đạo Hòa Hảo - tác giả tập Lông ngỗng
gieo tình mới in. Người anh của Việt Châu đi làm cho hãng buôn Nhật, có tiền và
sau này vào đảng thân Nhật.
Chúng tôi hẹn hụt nhau một chuyến đi Hà Tiên, rồi thôi, tôi lại
trở ra Hà Nội.
Tôi phải lan man “chuyện ngày xưa” một chút về Nguyễn
Bính. Bởi vì làm sao mà hai anh em ấy khác nhau và cũng giống nhau thế. Trúc Đường
được học hết bậc trung học thời Pháp. Nguyễn Bính, chẳng biết có ngồi xong cái
lớp bét trường huyện không. Mỗi người một tính, một nết, một hoàn cảnh khác
nhau.
Trúc Đường đứng đắn, chăm chỉ, mực thước, nhũn nhặn. Nguyễn
Bính hoang toàng, khinh bạc, tự cho “tài mình phải được cung phụng”, mà đời
(bạn) không nuôi thì chửi. Bởi vậy, với Nguyễn Bính chúng tôi thường cứ vừa mến
vừa thương lại vừa giận, anh Trúc Đường thì thật bao dung và quý tài em. Không
khi nào Trúc Đường đi chơi bời hát xướng phá phách như em, nhưng bao giờ anh
cũng thương yêu em. Vì thế nên khi ở Hà Nội chúng tôi mới theo được với Nguyễn
Bính về ăn hại “phá nhà” anh được.
Cái hồi Trúc Đường thôi dạy học ở Hà Đông - tôi không nhớ năm
nào, anh ra Hà Nội làm tuần báo Ích hữu của Nhà xuất bản Tân Dân với Lê Văn
Trương.
Làm báo ở ban biên tập có lương hẳn hoi, chứ không chỉ gửi
lai cảo ăn tiền bài mà thôi, anh còn dạy thêm chữ Pháp cho một người bà con
trên phố Bờ Sông. Bấy giờ, tôi cũng đương ham hố viết văn. Thằng Đào Hanh ở Bờ
Sông bảo tôi: “Ông Mạnh Phác làm báo Ích hữu đấy”. Tôi đã phục lắm.
Ở báo Ích hữu giữ một mục, như kiểu mục “Lọng cụt cán” của
Tam Lang báo Tin Mới. Mỗi kỳ anh phác họa chân dung châm biếm, cười cợt một
nhân vật xã hội, anh ký tên thật là Mạnh Phác. Thỉnh thoảng, có in một truyện
ngắn, kịch ngắn.
Ích hữu ra đời được ít lâu thì báo chết. Trúc Đường tìm được
việc sửa bài nhà in tại nhà in Lê Cường phố Hàng Bồ. Hồi này anh thuê nhà ở Nam
Tràng, chỗ những phố ngắn ngủi giữa cái bán đảo nhô ra hồ Trúc Bạch trong Ngũ
Xã.
Tôi quen Nguyễn Bính thời kỳ ấy. Vì thế mới biết anh Trúc Đường.
Tôi nói tôi được biết anh Trúc Đường, tôi chỉ biết Trúc Đường,
bởi cho tới khi anh đã về già và tôi cũng đã già, làm sao tôi vẫn cứ cảm như đối
với nhau vẫn như ngày ấy, anh ấy bao giờ cũng là đàn anh bọn chúng tôi. Không
bao giờ trong công việc trước tác, anh bàn một câu nào với chúng tôi. Chúng tôi
cũng không hề hỏi. Chỉ biết với nhau là anh đi làm, có khi mình túng thiếu, cho
mình nương nhờ được, anh là nhà báo, nhà văn, có “học cao”, có nghề nghiệp.
Bao giờ cũng nền nếp bậc anh, không kéo bè kéo lũ lông nhông chơi bời, chẳng
khi nào “phùng trường tác hí” với chúng tôi cả. Chúng tôi kính trọng
anh từ cung cách ăn, ở, đi đứng. Đi làm đúng giờ giấc. Về nhà, ngồi vào bàn bật
đèn sáng, đọc sách, viết văn.
Tôi chỉ biết có thế. Nhưng một điều tôi biết hơn là từ ngày ấy,
anh đã viết kịch. Và viết nhiều. Tôi đã trông thấy bản thảo những vở kịch đài từng
tập giấy trên bàn anh. Hồi này, Vũ Trọng Can đương viết truyện ngắn. Thấy Trúc
Đường viết kịch, anh chàng này cũng học đòi. Nhưng rồi thế nào mà kịch Biển lận
của Vũ Trọng Can được diễn ở nhiều nơi. Vũ Trọng Can lại có cả một cái kịch dài
tên là Cái vạ in nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự Lực văn đoàn. Bài được in
báo Ngày nay là sang trọng lắm. Còn kịch Trúc Đường, chỉ xếp trên bàn, chẳng thấy
tăm hơi ở đâu in, ở đâu diễn.
Trúc Đường kiếm sống bằng nghề sửa bài cho nhà in Lê Cường,
anh còn kiêm làm báo Đàn bà của Thụy An. Cũng là tình cờ mà làm báo ấy. Chỉ vì
báo Đàn bà in ở nhà in Lê Cường.
Nói về cái nghề làm báo ở Hà Nội mấy năm rối ren này thật phức
tạp và mỉa mai. Phức tạp vì những âm mưu của Pháp, của Nhật, chúng nó chui vào
làng báo, có tay chân có mưu đồ khác nhau. Mỉa mai, vì thời ấy phần nhiều làm
báo cũng như đi buôn chạy hàng xách mà thôi.
Theo luật lệ của Pháp: Có ra báo mới được mua giấy cung cấp
theo giá nhà nước qui định (rẻ hơn giá chợ đen). Nhiều người xin giấy phép ra
báo, mua được giấy, bán ngay giấy đi: chỉ tìm cách sắp chữ in vài tờ gởi lưu
chiểu. Báo Đàn bà của Thụy An không hẳn làm như thế. Nhưng nó cũng chỉ in số lượng
ít. Chủ báo đem giấy bán buôn cho lái. Trên báo Đàn bàcòn có một mục lạ kiểu
hơn tất cả các báo lúc ấy. Đó là mục nhắn tin mua hàng hộ bạn đọc. Các bà các
cô đọc báo Đàn bà có thể là người phong lưu. Ở tỉnh xa, gặp thời buổi chiến
tranh, cái gì cũng khan hiếm, son phấn vải vóc và mọi thứ trang sức đều khó tìm
khó mua. Báo Đàn bà đứng ra làm việc ấy, môi giới hoặc mua hộ rồi thiến tiền
hoa hồng. Cái mục mua hàng giúp bạn đọc mỗi kỳ dài mấy cột chứ không ít!
Chủ báo Đàn bà thuê Trúc Đường cáng hai trang văn thơ ở giữa
báo. Vì vậy, thời kỳ này, ở Huế hay ở Sài Gòn, nhiều thơ Nguyễn Bính gửi về báo
Đàn bà ở Hà Nội. Trúc Đường viết truyện, Nhà xuất bản Lê Cường đã xuất bản tiểu
thuyết Nhan sắc của Trúc Đường.
Ngày nay, Trúc Đường là một tác giả nổi tiếng kịch đề tài lịch
sử của văn học Việt Nam. Nhưng thời ấy, kịch chỉ là một nghề chơi, dẫu rằng nghề
chơi cũng lắm công phu. Ở thành phố, mà cũng chỉ Hà Nội là chính, người ta chơi
kịch chứ đâu có nghề kịch, nghệ thuật kịch. Mà nghề chơi, thì đến tay chơi lọc
lõi như Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ còn chật vật, huống chi lại chân chỉ hạt bột như
Trúc Đường thì mọc mũi sủi tăm làm sao.
Có người bây giờ cứ nghe mang máng ngày xưa mỗi năm, những
đêm mở đầu mùa kịch (mùa thu, như bên Tây) các tác giả kịch mời bạn bè đi xem tổng
diễn tập không khí huy hoàng, tưng bừng làm sao. Có phải thế không? Tôi cũng là
bạn bè với một vài kịch gia như Vũ Hoàng Chương, Vũ Trọng Can, có được hưởng ít
nhiều cái “hân hoan” ấy trong đêm mở đầu mùa kịch. Tôi cũng nghĩ bây
giờ ta nên cải tiến sao cho những đêm duyệt kịch phải là những đêm làm việc mà
vui, thật vui, như đêm chờ đợi đứa con ra đời.
Nhưng tôi cũng phải kể thêm là không phải “ngày xưa” mở
màn mùa kịch chỉ có phấn khởi rồi rủ nhau “xuống xóm” làm chầu hát kỷ
niệm. Cái nao nức ấy phần nhiều cũng nằm trong ao ước và tấm lòng của tác giả
và bạn bè. Còn phải kể đến một việc tày đình phải lo, đấy là Tây có nhòm ngó và
có cho qua hay không, rồi diễn cho khách xem không, hay chỉ đông khách vì giấy
mời như đêm Bóng giai nhân ở Huế.
Còn nhớ, năm ấy, anh em chúng tôi ở trong làng hay tổ chức những
đêm kịch cỏn con ở sân đình. Tuy vậy cũng tự đặt tên cho oai là Nghĩa Đô kịch
đoàn!
Kịch diễn sân khấu giữa trời người xem không mất tiền nên đứng
chật cả cửa đình. Chúng tôi diễn Tòa án lương tâm của Vũ Đình Long, Không một
tiếng vang của Vũ Trọng Phụng, Tấm lòng vàng của Nguyễn Công Hoan. Năm trước,
diễn Biển lận của Vũ Trọng Can và Gái không chồng của Đoàn Phú Tứ. Người xem
đông và mọi sự đều ổn. Lần này, quan đồn Bưởi không để yên cho. Đêm ấy không
buông phông sớm mà chuồn đi (vì có một chú lính khố xanh tốt bụng ra mách), nếu
cái nhân vật ông già lòa mắt lại ốm nặng của Vũ Trọng Phụng trong Không một tiếng
vang mà thằng Điều đóng cứ nằm còng queo giữa sân khấu kêu khóc, chửi rủa lão
chủ đến đòi tiền nhà thêm lúc nữa, thì chắc hẳn là bọn chúng tôi phải vào nhà
giam trong đồn đêm ấy. Chỉ có một tên khố xanh đã có thể tóm cổ cả bọn được,
còn đến mật thám duyệt vở, duyệt sách thì bỏ tù như bỡn chứ gì.
Ấy mặt nọ còn có mặt kia là thế.
Cái khó nghề kịch ngày nay đã không kiếm ăn nổi, lại còn nói
người ta có để yên cho hay không, làm sao có Trúc Đường được. Mà chỉ đến ngày
nay Trúc Đường mới trở lại viết kịch và thực sự trở thành kịch tác gia.
Trong kháng chiến, Trúc Đường về quê ở Nam Định, anh làm báo
Công dân của Ủy ban kháng chiến tỉnh. Các bạn làm báo Công dân với Trúc Đường,
các anh Lộng Chương, Phạm Lê Văn, Chu Hà, Trần Lê Văn, Bùi Hạnh Cẩn... đã gần
gũi và cộng tác cùng anh ở Liên khu Ba.
Mặt trận lan rộng, cuộc kháng chiến trên vùng đồng bằng sông
Hồng gay gắt dần lên. Theo đuổi kháng chiến hay trở về các thành phố bị chiếm:
Mỗi người công dân đương đứng trước một thử thách lớn.
Một số như Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng đã về Hà Nội trong những
giờ phút quyết liệt này.
Khi ấy, nghe tin Trúc Đường đã thoát khỏi vòng vây những cuộc
càn quét của địch vào Thái Bình, anh đưa gia đình chạy lên ngược, vượt đường số
6 dày đặc đồn bốt, tới được Thái Nguyên. Rồi Trúc Đường cùng vợ con vào cư ngụ
trong Khe Mo vùng đồi huyện Đồng Hỷ. Sốt rét, ròng rã ốm cả năm trời.
Nhưng anh Trúc Đường đã ở Đồng Hỷ suốt cho tới kháng chiến
thành công. Trúc Đường ở với gia đình một người em đã lên đấy từ ngày trước
cùng làm ruộng sinh sống. Thực sự, anh trở thành người nông dân.
Nhưng ở nơi đồng đất bán sơn địa, không thể mỗi chốc làm chơi
ăn thật, như dưới xuôi. Ruộng trằm, ruộng dốc, đất hoang... Bà con trong làng
nhường cho một phần, vợ chồng bỏ công khai phá. Nơi cấy lúa nước, lúa nương,
nơi trồng chè, trồng thuốc lá.
Cuộc sống ruộng vườn chợ búa qua ngày, nhà tranh vách đất. Có
lẽ hai chữ tên biệt hiệu “Trúc Đường” của anh lúc này mới thật đắc ý.
Như mọi nhà trong cuộc kháng chiến, Trúc Đường đã gánh vác việc nhà việc nước
bình thường, bền bỉ và kiên nhẫn của một người công dân chân chính, cũng như cả
triệu triệu công dân từ Nam chí Bắc.
Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, Hà Nội được giải phóng,
Trúc Đường trở về.
Hình ảnh một người anh chân chỉ, đức độ từ ngày nảo ngày nào ở
Ngũ Xá, tới hôm nay, tôi vẫn hình dung ra nguyên như thế.
Nhớ như thế, lại nhớ Trúc Đường đã đeo đuổi viết kịch từ thời
trai trẻ. Có lẽ những vở kịch ấy, anh đã vứt đi cả rồi. Nhưng, không phải ngẫu
nhiên khi có tuổi anh mới viết kịch, anh đã say mê kịch từ khi mới cầm bút. Cái
thiết tha và tâm sự ấy ít anh em bạn trẻ bây giờ biết, và chỉ đến khi sân khấu
cách mạng đã đưa nghệ thuật và thể loại kịch Việt Nam trở thành một bộ môn văn
học và nghệ thuật không thể thiếu, Trúc Đường mới đạt được mơ ước của đời mình.
Nếu như trước kia, kịch chỉ là chơi kịch - thật sự ngày ấy chúng tôi nói
là “chơi kịch”, Trúc Đường cũng chưa chơi nổi kịch.
Trúc Đường, con người với quyết tâm và sự dùi mài của anh và
sân khấu đã tạo thành kịch tác gia Trúc Đường của đề tài lịch sử trong nghệ thuật
sân khấu Việt Nam.
Còn nhớ một đêm, vở Tấm vóc đại hồng của Trúc Đường diễn ở hội
trường Ba Đình. Có lẽ đêm ấy tác giả hào hứng lắm, anh giục tôi phải đi xem.
Nửa đêm ra về, trên đường Điện Biên Phủ lá đa rụng xào xạc
thành tiếng lẫn ánh điện và bóng trăng.
Tôi nhận ra sức mạnh sáng tạo của Trúc Đường, sở trường dựng
những nhân vật lớn như Trần Thủ Độ, Lê Hoàn, Quang Trung..., những quang cảnh lớn:
Hội thề Đông Quan, cuộc tụ nghĩa Lam Sơn, điện Diên Hồng.
Đề tài và người viết như cá gặp nước. Trúc Đường đã đặt ra được
nhiều giải pháp mới cho lịch sử, nổi bật như vấn đề Dương Vân Nga.
Và ở kịch Trúc Đường, lại còn thấy những vương vấn, bâng
khuâng, những thiết tha thấp thoáng trong bóng trúc, ngõ tre, trên đò ngang bến
nước. Một cô gái canh cửi. Một ông tiều. Một quán bên đường. Những vai phụ, những
nhân vật không có tên của Trúc Đường đều ý nghĩa lạ lùng. Chỉ một cảnh thoáng
qua nhưng lại là một nét nhướn mày của người đàn bà họ Dương vốn tài sắc kiên
nghị.
Tôi tưởng như đây cũng là, đây mới là, ở đây có tâm sự người
viết. Người viết nào chẳng gửi gắm vào sáng tác niềm vui, nỗi hờn của tâm sự, của
tấm lòng vào một cảnh, một người, một vấn đề. Cái lớn của sự sáng tạo được góp
lại từ mảnh trấu, một hạt kê, và từ những đam mê, những thương cảm đến không
bao giờ nguôi của người nghệ sĩ. Với Trúc Đường là cái bóng của hình ảnh vách
trúc nhà tranh đơn chiếc... những hoài vọng không bao giờ còn... Khóm trúc thêm
tuôn dòng lệ cũ. Con thuyền đấy là Trúc Đường ư?
Một hôm, tôi nói với anh như vậy, anh cười hiền lành như mọi
lúc, rồi bảo tôi: “Thằng này thế mà quái”. Tôi hiểu có thể là anh có ý
khen.
TRÚC ĐƯỜNG
Trúc Đường, tác giả chín kịch bản sân khấu về đề tài lịch sử:
Nguyễn Trãi Hoàng Diệu, Bà đô đốc áo đỏ, Khuôn mặt đời Trần, Tấm vóc đại hồng,
Thái hậu Dương Vân Nga, Quang Trung đại phá quân Thanh...
Hơn bốn mươi năm về trước, khi anh Trúc Đường dạy học trường
Hà Văn, một trường tư trong thị xã Hà Đông, đấy là ông giáo còm, còm tiền và
còm gù cả lưng mà lũ đàn em chúng tôi hay đến quấy nhiễu quá nhiều.
Ông giáo dạy tư Nguyễn Mạnh Phác lấy việc gõ đầu trẻ nuôi miệng.
Nhưng rồi Nguyễn Bính từ quê lên ở hẳn với anh, sau khi được giải khuyến khích
về thơ của Tự Lực văn đoàn. Cái vinh quang ảo ảnh xui chàng thanh niên bỏ làng
lên "kinh thành gió bụi" chứ có ăn thua gì đâu. Bọn chết đói dở, Nguyễn
Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, lại còn cả một lũ cùng trường phái thơ văn với
nhau, nào Trần Nhân Cư ký ga Đầu Cầu, nào Trần Hồi (làm thơ ký là Jeannine Lệ
Thuỷ!) vốn sống nhờ vợ bán thịt lợn chợ Hôm, nào các Tản diệt Nguyễn Tố, Nguyễn
Tuất, Phan Như chạy hiệu xuất bản... Chúng tôi cứ dông dài đâu đâu đến lúc
không đào ra được một tiếng tử tế lại mò về báo hại anh Trúc Đường.
Tất nhiên, thầy giáo trường tư hay ông ký công nhật nhà in
Trúc Đường cũng chỉ có thể đãi được bữa cơm rau dưa hay mỗi người một bát phở
trộn cơm nguội, chẳng hạn.
Ba năm trở lại đất Hà Đông
Người cũ cô Oanh má vẫn hồng
Tóc vẫn bỏ lơi răng vẫn trắng
Vẫn ngồi bên cửa liếc qua song
Mã vẫn vô tình với khách thơ...
Cái cô Oanh con cái nhà ai ở thị xã thật tình cũng chẳng quen
thuộc và đăng đối gì với cuộc sống khó khăn từng ngày của bọn thất nghiệp dở
này. Cả thơ, cả người cũng chỉ phất phơ bóng gió đầu đường mà thôi.
Thế mà như thật. Một hôm, vào lúc chập tối, đương đi ở phố
hàng Bông, Nguyễn Bính bấm tôi: "Oanh đấy! Oanh đấy!”. Tôi nhỏm sang bên
kia hè. Trời ơi! Oanh! Thiên tình sử Ngậm miệng não nùng của Nguyễn
Bính đăng nhiều kỳ trên báo Tiểu thuyết thứ năm: Tâm hồn tôi chỉ là
bình rượu nhỏ... Rót lẩn lần rót mãi xuống nàng Oanh... Bây giờ gặp Oanh đây... Một
cô con gái hình như mặt tròn như chiếc bánh đúc, chít khăn sa tanh đen, kiểu
các cô bán cau khô, hàng xén chợ tỉnh, mà cái chàng "khách thơ" Nguyễn
Bính đâu có quen người ta cho cam! Hình như chỉ biết là con ông ách, ông quản
hay bà giáo, bà ký gì ở tỉnh lỵ. Thế mà cứ rối cả lên.
Đã có lần tôi có nhận xét trên Tạp chí Văn học về những sự việc
và con số không đúng trong một cuốn từ điển các tác gia Việt Nam trong đó có chỗ
về Nguyễn Bính. Sách nói Nguyễn Bính đi Nam tiến 1945 rồi tham gia kháng chiến ở
Nam Bộ. Đúng, Nguyễn Bính tham gia kháng chiến ở Rạch Giá. Lời bài nhạc Tiểu
đoàn ba lẻ bảy thơ Nguyễn Bính mà Quốc Hương đã hát một cách hết sức trầm
hùng, cả nước đều thuộc.
Rồi Nguyễn Bính ra tập kết. Nhưng không phải Nguyễn Bính đi
Nam tiến thời kỳ Tổng khởi nghĩa, mà anh đã có mặt ở Cần Thơ rồi Rạch Giá và là
một trong những nhà thơ kháng chiến có tiếng nhất ở Nam Bộ.
Và ở thời kỳ đầu, trên chiến trường Nam Bộ, thơ Nguyễn Bính
có ảnh hưởng nhiều trong hơi thơ Huỳnh Văn Nghệ, Bảo Định Giang, Xuân Miễn,
Hoàng Tố Nguyễn, Vũ Anh Khanh...
Quãng những năm 1940, đói rách cả rồi, ở lại Hà Nội ăn bám
anh em mãi không còn được, đành phải kéo nhau đi kiếm ăn nơi xa xôi. Lúc đầu
thì ba người: Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can và tôi. Bạn bè lại phải làm một cuộc
đưa các Kinh Kha sang Tần ở ga Hàng Cỏ lần nữa. Lần này những ba Kinh Kha! Anh
Trúc Đường cũng đi tiễn chúng tôi.
Ghé xuống Thanh Hoá trước tiên. Ở Thanh, lại ăn vạ người ta,
đến nỗi bạn bè không kham nổi, phải tống tiễn lo cho ba xuất vé tàu hoả vào Sài
Gòn. Nhưng lại xuống Huế. Vào Huế cũng sống vật vờ như ở Thanh.
Thỉnh thoảng, Nguyễn Bính gửi thơ về Hà Nội. Những bài
thơ Xuân tha hương, Xuân vẫn tha hương... Nguyễn Bính viết. Hồi ấy, Trúc
Đường cho đăng báo Đàn bà rồi gửi liền nhuận bút vào. Nhưng thơ làm
sao nuôi nổi người, huống chi lại những ba người. May nhờ có các bạn yêu
thơ Lỡ bước sang ngang mà chúng tôi vẫn thất thểu dưới nước và trên bờ
sông Hương được. Rồi gặp may, có hoạ sĩ Nguyễn Đức Nùng đương dạy vẽ ở Huế.
Thời ấy, bất cứ ai đi làm cho nhà nước, đem so với nghề còm
cõi khác, thì cũng gọi là ung dung hoặc có máu mặt đôi chút. Văn thơ là việc
dông dài lông bông, không được gọi là một nghề. Thế là chúng tôi đến ăn báo cô
nhà anh Nguyễn Đức Nùng ít lâu. Tôi cũng không nhớ được ai mách báo, một hôm
lên chơi với sư chùa Trúc Lâm. Nhà sư trí thức Thích Mật Thể, tu tại đấy. Rồi lại
không biết làm sao mà Vũ Trọng Can nảy ra sáng kiến đọc sách Phật rồi cặm cụi
viết quyển Tinh thần Phật giáo (Nhà xuất bán Đời Mới ở Hà Nội
đã in). Sư Thích Mật Thể nuôi Vũ Trọng Can ngồi tại chùa viết sách Phật. Thế là
Nguyễn Bính và tôi cũng được nuôi lây. Chúng tôi ở yên chùa Trúc Lâm có đến
hàng tháng, cũng đến ngày phải đi khỏi Huế. Nhưng lần này tôi đã thoái trí lang
thang cầu bơ cầu bất, tôi trở về Hà Nội.
Hai người ở lại Huế. Không biết có phải chuyến ấy Nguyễn Bính
ghé Bình Định chơi với Yến Lan và hai anh đã cùng viết kịch thơ Bóng giai
nhân không. Mới đây, tôi được Yến Lan nói là khi ấy Yến Lan đã ra Huế vở kịch
thơ được viết và diễn lần đầu tiên ở Huế, đông người xem mà bị coi như thất bại
vì nhiều nỗi.
Cuối năm 1943, lại gặp Nguyễn Bính ở Sài Gòn - chuyến này tôi
lấy vé đi tàu suốt đàng hoàng. Ngày ngày ăn cơm thố. Hôm nào có tiền đi uống rượu
quán cháo cá Chợ Cũ. Nhưng xem ra Nguyễn Bính có vẻ ung dung. Chẳng cần đoán
thì cũng biết bạn bè nuôi thôi.
Không biết bạn còn những ai nữa, nhưng Nguyễn Bính đưa tôi đến
làm quen với nhà thơ Việt Châu, người có đạo Hoà Hảo- tác giả tập Lông ngỗng
gieo tình mới in.
Người anh của Việt Châu đi làm cho hãng buôn Nhật, có tiền và
sau này vào đảng thân Nhật.
Chúng tôi hẹn hụt nhau một chuyến đi Hà Tiên, rồi thôi, tôi lại
trở ra Hà Nội.
Tôi phải lan man "chuyện ngày xưa" một chút về Nguyễn
Bính. Bởi vì làm sao mà hai anh em ấy khác nhau và cũng giống nhau thế. Trúc Đường
được học hết bậc trung học thời Pháp. Nguyễn Bính, chẳng biết có ngồi xong cái
lớp bét trường huyện không. Mỗi người một tính, một nết, một hoàn cảnh khác
nhau.
Trúc Đường đứng đắn, chăm chỉ, mực thước, nhũn nhặn. Nguyễn
Bính hoang toàng, khinh bạc, tự cho "tài mình phải được cung phụng”, mà đời
(bạn) không nuôi thì chửi. Bởi vậy, với Nguyễn Bính chúng tôi thường cứ vừa mến
vừa thương lại vừa giận, anh Trúc Đường thì thật bao dung và quý tài em. Không
khi nào Trúc Đường đi chơi bời hát xướng phá phách như em, nhưng bao giờ anh
cũng thương yêu em. Vì thế nên khi ở Hà Nội chúng tôi mới theo được với Nguyễn
Bính về ăn hại “phá nhà" anh được.
Cái hồi Trúc Đường thôi dạy học ở Hà Đông- tôi không nhớ năm
nào, anh ra Hà Nội làm tuần báo Ích hữu của nhà xuất bản Tân Dân với
Lê Văn Trương.
Làm báo ở ban biên tập có lương hẳn hoi, chứ không chỉ gửi
lai cảo ăn tiền bài mà thôi, anh còn dạy thêm chữ Pháp cho một người bà con
trên phố Bờ Sông. Bấy giờ, tôi cũng đương ham hố viết văn. Thằng Đào Hanh ở Bờ
Sông bảo tôi: "Ông Mạnh Phác làm báo Ích hữu đấy”. Tôi đã phục lắm.
Ở báo Ích hữu giữ một mục, như kiểu mục "Lọng cụt
cán" của Tam Lang báo Tin Mới. Mỗi kỳ anh phác hoạ chân dung châm biếm, cười
cợt một nhân vật xã hội, anh ký tên thật là Mạnh Phác. Thỉnh thoảng, có in một
truyện ngắn, kịch ngắn.
Ích hữu ra đời được ít lâu thì báo chết. Trúc Đường tìm được
việc sửa bài nhà in tại nhà in Lê Cường phố Hàng Bồ. Hồi này anh thuê nhà ở Nam
Tràng, chỗ những phố ngắn ngủi giữa cái bán đảo nhô ra hồ Trúc Bạch trong Ngũ
Xã.
Tôi quen Nguyễn Bính thời kỳ ấy. Vì thế mới biết anh Trúc Đường.
Tôi nói tôi được biết anh Trúc Đường, tôi chỉ biết Trúc Đường,
bởi cho tới khi anh đã về già và tôi cũng đã già, làm sao tôi vẫn cứ cảm như đối
với nhau vẫn như ngày ấy, anh ấy bao giờ cũng là đàn anh bọn chúng tôi. Không
bao giờ trong công việc trước tác, anh bàn một câu nào với chúng tôi. Chúng tôi
cũng không hề hỏi. Chỉ biết với nhau là anh đi làm, có khi mình túng thiếu, cho
mình nương nhờ được, anh là nhà báo, nhà văn, có “học cao”, có nghề nghiệp. Bao
giờ cũng nền nếp bậc anh, không kéo bè kéo lũ lông nhông chơi bời, chẳng khi
nào "phùng trường tác hí" với chúng tôi cả Chúng tôi kính trọng anh từ
cung cách ăn, ở, đi đứng. Đi làm đúng giờ giấc. Về nhà, ngồi vào bàn bật đèn
sáng, đọc sách, viết văn.
Tôi chỉ biết có thế. Nhưng một điều tôi biết hơn là từ ngày ấy,
anh đã viết kịch. Và viết nhiều. Tôi đã trông thấy bản thảo những vở kịch đài từng
tập giấy trên bàn anh. Hồi này, Vũ Trọng Can đương viết truyện ngắn. Thấy Trúc
Đường viết kịch, anh chàng này cũng học đòi. Nhưng rồi thế nào mà kịch Biển
lận của Vũ Trong Can được diễn ở nhiều nơi. Vũ Trọng Can lại có cả một cái
kịch dài tên là Cái vạ in nhiều kỳ trên báo Ngày nay của Tự
Lực văn đoàn. Bài được in báo Ngày nay là sang trọng lắm. Còn kịch
Trúc Đường, chỉ xếp trên bàn, chẳng thấy tăm hơi ở đâu in, ở đâu diễn.
Trúc Đường kiếm sống bâng nghề sửa bài cho nhà in Lê Cường,
anh còn kiêm làm báo Đàn bà của Thuỳ An. Cũng là tình cờ mà làm báo ấy.
Chỉ vì báo Đàn bà in ở nhà in Lê Cường.
Nói về cái nghề làm báo ở Hà nội mấy năm rối ren này thật phức
tạp và mỉa mai. Phức tạp vì những âm mưu của Pháp, của Nhật, chúng nó chui vào
làng báo, có tay chân có mưu đồ khác nhau. Mỉa mai, vì thời ấy phần nhiều làm
báo cũng như đi buôn chạy hàng xách mà thôi.
Theo luật lệ của Pháp: có ra báo mới được mua giấy cung cấp
theo giá nhà nước qui định (rẻ hơn giá chợ đen). Nhiều người xin giấy phép ra
báo, mua được giấy, bán ngay giấy đi: chỉ tìm cách sắp chữ in vài tờ gởi lưu
chiểu. Báo Đàn bà của Thuỵ An không hẳn làm như thế. Nhưng nó cũng chỉ
in số lượng ít. Chủ báo đem giấy bán buôn cho lái. Trên báo Đàn bà còn
có một mục lạ kiểu hơn tất cả các báo lúc ấy. Đó là mục nhắn tin mua hàng hộ bạn
đọc. Các bà các cô đọc báo Đàn bà có thể là người phong lưu. Ở tỉnh
xa, gặp thời buổi chiến tranh, cái gì cũng khan hiếm. son phấn vải vóc và mọi
thứ trang sức đều khó tìm khó mua. Báo Đàn bà đứng ra làm việc ấy,
môi giới hoặc mua hộ rồi thiến tiền hoả hồng. Cái mục mua hàng giúp bạn đọc mỗi
kỳ dài mấy cột chứ không ít!
Chủ báo Đàn bà thuê Trúc Đường cáng hai trang văn
thơ ở giữa báo. Vì vậy, thời kỳ này, ở Huế hay ở Sài Gòn, nhiều thơ Nguyễn Bính
gửi về báo Đàn bà ở Hà Nội. Trúc Đường viết truyện, nhà xuất bản Lê
Cường đã xuất bản tiểu thuyết Nhan sắc của Trúc Đường.
Ngày, nay, Trúc Đường là một tác giả nổi tiếng kịch đề tài lịch
sử của văn học Việt Nam. Nhưng thời ấy, kịch chỉ là một nghề chơi, dẫu rằng nghề
chơi cũng lắm công phu. Ở thành phố, mà cũng chỉ Hà Nội là chính, người ta chơi
kịch chứ đâu có nghề kịch, nghệ thuật kịch. Mà nghề chơi, thì đến tay chơi lọc
lõi như Thế Lữ, Đoàn Phú Tứ còn chật vật, huống chi lại chân chỉ hạt bột như
Trúc Đường thì mọc mũi sủi tăm làm sao.
Có người bây giờ cứ nghe mang máng ngày xưa mỗi năm, những
đêm mở đầu mùa kịch (mùa thu, như bên Tây) các tác giả kịch mời bạn bè đi xem tổng
diễn tập không khí huy hoàng, tưng bừng làm sao? Có phải thế không? Tôi cũng là
bạn bè một vài kịch gia như Vũ Hoàng Chương, Vũ Trọng Can, có được hưởng ít nhiều
cái “hân hoan” ấy trong đêm mở đầu mùa kịch. Tôi cũng nghĩ bây giờ ta nên cải
tiến sao cho những đêm duyệt kịch phải là những đêm làm việc mà vui, thật vui,
như đêm chờ đợi đứa con ra đời.
Nhưng tôi cũng phải kể thêm là không phải "ngày
xưa" mở màn mùa kịch chỉ có phấn khởi rồi rủ nhau "xuống xóm"
làm chầu hát kỷ niệm. Cái nao nức ấy phần nhiều cũng nằm trong ao ước và tấm
lòng của tác giả và bạn bè. Còn phải kể đến một việc tày đình phải lo, đấy là
Tây có nhòm ngó và có cho qua hay không, rồi diễn cho khách xem không, hay chỉ
đông khách vì giấy mời như đêm Bóng giai nhân ở Huế.
Còn nhớ, năm ấy, anh em chúng tôi ở trong làng hay tổ chức những
đêm kịch cỏn con ở sân đình. Tuy vậy cũng tự đặt tên cho oai là Nghĩa Đô kịch
đoàn!
Kịch diễn sân khấu giữa trời người xem không mất tiền nên đứng
chật cả cửa đình. Chúng tôi diễn Toà án lương tâm của Vũ Đình
Long, Không một tiếng vang của Vũ Trọng Phụng, Tấm lòng vàng của
Nguyễn Công Hoan. Năm trước, diễn Biển lận của Vũ Trọng Can và Gái
không chồng của Đoàn Phú Tứ. Người xem đông và mọi sự đều ổn. Lần này,
quan đồn Bưởi không để yên cho. Đêm ấy mà không buông phông sớm mà chuồn đi (vì
có một chú lính khố xanh tốt bụng ra mách), nếu cái nhân vật ông già loà mắt lại
ốm nặng của Vũ Trọng Phụng trong Không một tiếng vang mà thằng Điều
đóng cứ nằm còng queo giữa sân khấu kêu khóc, chửi rửa lão chủ đến đòi tiền nhà
thêm lúc nữa, thì chắc hẳn là bọn chúng tôi phải vào nhà giam trong đồn đêm ấy.
Chỉ có một tên khố xanh đã có thể tóm cổ cả bọn được, còn đến mật thám duyệt vở,
duyệt sách thì bỏ tù như bỡn chứ gì.
Ấy mặt nọ còn có mặt kia là thế.
Cái khó nghề kịch ngày nay đã không kiếm ăn nổi, lại còn nói
người ta có để yên cho hay không, làm sao có Trúc Đường được. Mà chỉ đến ngày
nay Trúc Đường mới trở lại viết kịch và thực sự trở thành kịch tác gia.
Trong kháng chiến, Trúc Đường về quê ở Nam Định, anh làm
báo Công dân của Uỷ ban kháng chiến tỉnh. Các bạn làm báo Công
dân với Trúc Đường, các anh Lộng Chương, Phạm Lê Văn, Chu Hà, Trần Lê Văn,
Bùi Hạnh Cẩn... đã gần gũi và cộng tác cùng anh ở Liên khu Ba.
Mặt trận lan rộng, cuộc kháng chiến trên vùng đồng bằng sông
Hồng gay gắt dần lên. Theo đuổi kháng chiến hay trở về các thành phố bị chiếm:
mỗi người công dân đương đứng trước một thử thách lớn.
Một số như Vũ Hoàng Chương. Đinh Hùng đã về Hà Nội trong những
giờ phút quyết liệt này.
Khi ấy, nghe tin Trúc Đường đã thoát khỏi vòng vây những cuộc
càn quét của địch vào Thái Bình, anh đưa gia đình chạy lên ngược, vượt đường số
6 dày đặc đồn bốt, tới được Thái Nguyên. Rồi Trúc Đường cùng vợ con vào cư ngụ
trong Khe Mo vùng đồi huyện Đồng Hỷ. Sốt rét, ròng rã ốm cả năm trời.
Nhưng anh Trúc Đường đã ở Đồng Hỷ suốt cho tới kháng chiến
thành công. Trúc Đường đã ở với gia đình một người em đã lên đấy từ ngày trước
cùng làm ruộng sinh sống. Thực sự, anh trở thành người nông dân.
Nhưng ở nơi đồng đất bán sơn địa, không thể mỗi chốc làm chơi
ăn thật, như dưới xuôi. Ruộng trằm, ruộng dốc, đất hoang... Bà con trong làng
nhường cho một phần, vợ chồng bỏ công khai phá. Nơi cấy lúa nước, lúa nương,
nơi trồng chè, trồng thuốc lá.
Cuộc sống ruộng vườn chợ búa qua ngày, nhà tranh vách đất. Có
lẽ hai chữ tên biệt hiệu "Trúc Đường” của anh lúc này mới thật đắc ý. Như
mọi nhà trong cuộc kháng chiến, Trúc Đường đã gánh vác việc nhà việc nước bình
thường, bền bỉ và kiên nhẫn của một người công dân chân chính, cũng như cả triệu
triệu công dân từ Nam chí Bắc.
Kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, Hà Nội được giải phóng,
Trúc Đường trở về.
Hình ảnh một người anh chân chỉ, đức độ từ ngày nảo ngày nào ở
Ngũ Xá, tới hôm nay, tôi vẫn hình dung ra nguyên như thế.
Nhớ như thế, lại nhớ Trúc Đường đã đeo đuổi viết kịch từ thời
trai trẻ. Có lẽ những vở kịch ấy, anh đã vứt đi cả rồi. Nhưng, không phải ngẫu
nhiên khi có tuổi anh mới viết kịch, anh đã say mê kịch từ khi mới cầm bút. Cái
thiết tha và tâm sự ấy ít anh em bạn trẻ bây giờ biết, và chỉ đến khi sân khấu
cách mạng đã đưa nghệ thuật và thể loại kịch Việt Nam trở thành một bộ môn văn
học và nghệ thuật không thể thiếu, Trúc Đường mới đạt được mơ ước của đời mình.
Nếu như trước kia, kịch chỉ là chơi kịch - thật sự ngày ấy chúng tôi nói là
"chơi kịch", Trúc Đường cũng chưa chơi nổi kịch.
Trúc Đường, con người với quyết tâm và sự dùi mài của anh và
sân khấu đã tạo thành kịch tác gia Trúc Đường của đề tài lịch sử trong nghệ thuật
sân khấu Việt Nam.
Còn nhớ một đêm, vở Tấm vóc đại hồng của Trúc Đường diễn ở hội
trường Ba Đình. Có lẽ đêm ấy tác giả hào hứng lắm, anh giục tôi phải đi xem.
Nửa đêm ra về, trên đường Điện Biên Phủ lá đa rụng xào xạc
thành tiếng lẫn ánh điện và bóng trăng.
Tôi nhận ra sức mạnh sáng tạo của Trúc Đường, sở trường dựng
những nhân vật lớn như Trần Thủ Độ, Lê Hoàn, Quang Trung... những quang cảnh lớn:
Hội thề Đông Quan, cuộc tụ nghĩa Lam Sơn, điện Diên Hồng.
Đề tài và người viết như cá gặp nước. Trúc Đường đã đặt ra được
nhiều giải pháp mới cho lịch sử, nổi bật như vấn đề Dương Vân Nga.
Và ở kịch Trúc Đường, lại còn thấy những vương vấn, bâng
khuâng, những thiết tha thấp thoáng trong bóng trúc, ngõ tre, trên đò ngang bến
nước. Một cô gái canh cửi. Một ông tiều. Một quán bên đường. Những vai phụ, những
nhân vật không có tên của Trúc Đường đều ý nghĩa lạ lùng. Chỉ một cảnh thoáng
qua nhưng lại là một nét phướn mày của người đàn bà họ Dương vốn tài sắc kiên
nghị.
Tôi tưởng như đây cũng là, đây mới là, ở đây có tâm sự người
viết. Người viết nào chẳng gửi gắm vào sáng tác niềm vui, nỗi hờn của tâm sự của
tấm lòng vào một cảnh, một người, một vấn đề. Cái lớn của sự sáng tạo được góp
lại từ mảnh trấu, một hạt kê, và từ những đam mê, những thương cảm đến không
bao giờ nguôi của người nghệ sĩ. Với Trúc Đường là cái bóng của hình ảnh vách
trúc nhà tranh đơn chiếc... những hoài vọng không bao giờ còn... Khóm trúc thêm
tuôn dòng lệ cũ. Con thuyền đấy là Trúc Đường ư?
Một hôm, tôi nói với anh như vậy, anh cười hiền lành như mọi
lúc, rồi bảo tôi: "Thằng này thế mà quái". Tôi hiểu có thể là anh có
ý khen.
NGUYỄN BÍNH
Nhà thơ Thâm Tâm giới thiệu cho tôi quen với Nguyễn Bính. Những
năm ấy Nguyễn Bính đã được giải thưởng thơ Tự Lực văn đoàn và đương đăng nhiều
thơ trên tuần báo Tiểu thuyết thứ năm. Tôi chỉ mới viết vài truyện ngắn đầu
tay.
Ở cái nghề báo, nghề văn bát nháo hội này, lắm người vừa cầm
bút, lại làm áp-phe, làm du côn, vay chẳng, chơi bửa, tống tiền, ăn tiền mật
thám, người ở lẫn với ma, người nửa người nửa ma, không biết thế nào, cho nên
cách người ta làm quen với nhau cũng lắm sự lạ. Có thể trông thấy thì quay mặt
đi, lỉnh ngay. Có thể khệnh khạng không thèm giơ tay đáp lễ. Có thể xông luôn đến
cho một cú “thôi sơn” quai hàm, mạng mỡ. Lại có thể sụp xuống, chắp
tay “đại huynh mới là thiên tài, hân hạnh... hân hạnh...”. Tôi biết như thế
thôi. Chứ tôi mới cầm bút, được làm quen với một bạn viết nào cũng là điều mình
mong mỏi. Và với Nguyễn Bính, cũng thấy dễ chịu ngay, anh nhà thơ này dường như
cũng tàng tàng, cảnh mình.
Còn nhớ Nguyễn Bính mặc bộ quần áo tây trắng đã tã, gấu quần
và ống tay áo lờm xờm như tóc tai, anh không cắp mấy quyển sách gì đó như mốt của
những người viết trẻ lúc ấy. Nguyễn Bính lại còn cầm một hộp sắt tây màu đỏ lựu
- cái hộp đựng bánh bích quy.
Nhưng đây là cái hộp không đựng bánh. Những chiếc hộp này và
những cái vỏ chai thường thấy các bà “chai bao chè đồng nát” mua ở
các nhà Tây vứt đi, bồi bếp nhặt bán rồi người ta quảy đi bán rong ở các phố
ta.
Tôi chưa hiểu Nguyễn Bính có cái hộp bích quy đựng gì.
Bắt tay rồi, Nguyễn Bính hỏi tôi.
- Này, có tiền không?
Như đã biết nhau từ bao giờ. Tôi cảm động được anh hỏi han
thân tình như thế. Tôi mỉm cười. Thế là, cũng chẳng đợi tôi trả lời, có lẽ cái
cười hiền lành của tôi đã khiến anh thấy tôi sẵn sàng, anh sai luôn:
- Vào nhà bánh giò “Đờ-măng” chỗ kia, mua dăm chiếc
nhé, năm chiếc cũng không thừa đâu. Từ sáng, tớ chưa được miếng nào vào bụng.
Hàng bánh giò ngon có tiếng, ở xế cửa tòa báo hàng ngày Trung
Bắc tân văn gần vườn hoa Cửa Nam, bên cái nhà gì của Tây mà người ta gọi là
nhà “Đờ-măng” và cũng thành tên hàng bánh giò cạnh đấy.
Nhưng cũng không phải Nguyễn Bính không có đồng nào trong
túi. Buổi trưa oi nắng ấy, chúng tôi đem cả xâu bánh rúc vào một tiệm thuốc phiện
đầu phố Nhà Hỏa. Nguyễn Bính và Thâm Tâm không ai nghiện, nhưng đi hút, đua đòi
đi hút cũng là một thói của thời thượng. Chúng tôi đánh trần ra, ngồi chầu rìa
quanh tấm phản gỗ trong bóng tối ẩm thấp trần nhà bọc nhật trình thấp gần đụng
đầu của cái tiệm hút cà khổ, vắng ngắt, thế mà dường như chẳng ai biết nóng bức
thế nào. Kéo xong một điếu, Nguyễn Bính nằm gối đầu lên chiếc hộp bánh quy, mắt
môi nhẫy lên, rợn như mắt mèo.
Chỉ một lát sau, tôi đã biết được sự tích cái hộp bánh quy,
khi Nguyễn Bính ngồi lên, vuốt ve, xếp đặt lại các thứ trong ấy. Đấy là bản thảo
những bài thơ của anh và những bức thư tình, một hộp thư tình. Tờ trắng, tờ
xanh, vết tay mồ hôi mờ đọc đi đọc lại đã về vệt cả. Bao nhiêu thư của một mối
tình, của những mối tình, anh xếp chật cái hộp. Có điều chắc chắn đấy là những
cái thư cũ và những người ta ở những đâu đâu ấy đã “cho rơi” anh rồi.
Chỉ còn lại những lá thư trong hộp. Cơ chừng, mỗi lúc canh tàn rượu tỉnh, lại
lôi những của oan trái giời ơi trong cái hộp gối đầu ra.
Bây giờ nghĩ lại những ngày ấy, đứng ở góc nào mà ngẫm, khi
vui khi buồn cũng thế, chỉ rặt một màu ảo não, mặc dầu khi đó chúng tôi đương
vào lứa tuổi đôi mươi và mỗi bài thơ, cái truyện ngắn viết ra, các “thiên
tài” lại bốc nhau lên mây, mặc dầu những cuộc chơi nghiêng lệch cả đêm
ngày, bằng tiền của ai không biết, như lũ thiêu thân lao vào ánh đèn, chúng tôi
đi, cứ đi, không biết đi đến đâu, bởi chẳng biết đi đến đâu cả. Không phải tôi
nói bóng gió cao xa về sự nghiệp, về lý tưởng mà tuổi trẻ đi tìm. Tôi chỉ so
sánh mọi việc bình thường ở mỗi con người. Người ta tuổi đương độ, ai mà chẳng
ao ước được sống tử tế, trai có vợ, gái có chồng. Nhưng, với biết bao người, đấy
chỉ là cơn mộng. Không biết nhà thơ Nguyễn Bính tích được đến mấy chiếc hộp sắt
đựng thư và thơ tình của những ai ai đã tơ vương với anh, để anh cắp nách cả,
cái hộp kỷ niệm tha đi từ Bắc vào Nam, nhưng suốt một thời thanh xuân, tôi cũng
chưa thấy anh một lần nào lấy vợ. Dẫu cho những bức thư tình kia là những bằng
chứng sống về lời thề sông cạn đá mòn, có lúc dọa cắt tóc đi tu và uống thuốc
phiện dấm thanh cho chết, nhưng chẳng có người con gái nào yêu thơ rồi say mê
người làm thơ đến bỏ nhà đi theo không. Còn anh chàng thì không làm sao lo nổi
tiền cưới, ở cái thời mà những thói tục phiền nhiễu và đồng tiền to hơn nghìn vạn
lần tình cảm và tóc thề, trăng thề của con người.
Tôi nghĩ mãi cũng không ra được câu trả lời nào khác hơn là
đem cái kết luận dung tục, phũ phàng kia mà phủ lên những mối tình xếp vào hộp
gối đầu của kẻ si tình. Nhưng mà tuổi trẻ vẫn nhởn nhơ những gặp ai tìm ai.
Chán nằm trong cái ngõ Sơn Nam tiểu thuyết Sau ánh sáng nhà Trần Huyền Trân chỗ
Cống Trắng Khâm Thiên, lại xuống ăn báo một người bạn chài lưới yêu thơ ở đầm
Linh Đường, rồi đến nhà Chu Ngọc “mà ai cũng tá túc được” ở phố Hàng
Đồng, rồi có khi kéo lên Nghĩa Đô. Những lúc ấy túng bấn nhất. Chơi bời có bao
nhiêu, nhưng ở đâu cũng không vùng vẫy khỏi cái cảnh tương tự ngày ngày ra bờ
sông Tô Lịch mua xu rau muống, có hôm xin được mớ rau của cô bơi thúng hái rau
sinh hảo tâm bởi đã thuộc lòng cả bài Lỡ bước sang ngang.
Mà mải mê đến thế. Tối đến, hình như mọi việc mới bắt đầu.
Chúng tôi với Cương và Lập, mấy anh em trai làng lại nhởn khắp vùng đến rạc cẳng.
Các làng Bưởi làm nghề giấy, từng dãy tầu seo đêm seo đèn, từ dọc bờ sông vào
suốt dãy làng Đông sang Cầu Sau, ra hồ Tây. Ánh đèn quang treo giữa lều tầu, những
cái đèn chai xách lúc hết seo, như đom đóm bay. Những chàng trai, những Cương,
Lập và cả Nam Cao ló mặt ra trong ánh đèn thấp thoáng, tiếng cái khuôn liếm
khua vào thành tầu đã kiệt nước đổ rả rích lẫn liếng cười canh khuya, như xé
cơn buồn ngủ của những cô thợ seo. Chỉ có thế mà cứ săn đón nhau suốt, đêm nào
cũng như đêm nào.
Lại nhớ những hôm rét mướt vào áp Tết, chúng tôi chen chúc ngồi
đánh tam cúc trong ổ rơm. Đánh chơi ăn đẹt mũi, búng tai mà thôi. Những cô Tý,
cô Mơ, cô Hứa - gái làng canh cửi, thuộc Kiều lại cũng thuộc cả quyển Lỡ bước
sang ngang. Khi cười thì cười ngặt nghẽo tít con mắt lá răm. Tưởng như dứt cơn
cười, những cô gái đa tình ấy vứt cả lồng tơ khung cửi mà đi theo cái anh làm
thơ tài đến thế. Nhưng cũng chỉ vậy thôi.
Những ngày lang thang, những thất vọng và vô vọng bất đắc dĩ.
Ở đâu cũng thế. Lại cái lần đi Sài Gòn với Vũ Trọng Can tìm Nguyễn Bính - lại “chữ
một đi không bao giờ về”. Chẳng phải qua sông Dịch đâm chém ai đâu. Ấy mượn câu
thơ xưa để nói bóng cho đẹp và buồn cái nỗi chỉ xoay được tiền vé tầu hỏa đủ suất
vào đến Sài Gòn mà thôi.
Có lẽ đây là một việc làm ngỗ ngược và ngây ngô nhớ đời, mà ý
nghĩa của nó thật bao thảm thương.
Ở trên tầu bước chân xuống ga xe lửa giữa thành phố. Chẳng có
người quen đến mức phải ra ga đón và trong túi không đứa nào còn một xu. Chợ Bến
Thành với cái bãi Bùng Binh trước mặt, người ăn uống rào rào như tằm ăn rỗi.
Làm thế nào được bây giờ? Rồi tìm được Nguyễn Bính. Nhưng cũng đương ăn nhờ ở đậu.
Vũ Trọng Can nghĩ ra một kế hay hay. Mắt anh trố ra, ngơ ngác
một cách hồn nhiên.
- Ờ mà phải như thế. Sẽ làm ra tiền, có tiền hẳn hoi. Chúng
ta sẽ diễn thuyết thu tiền nhé. Đúng, diễn thuyết thu tiền. Cả ba thằng lần lượt
sẽ diễn thuyết. Tổ chức diễn thuyết thu tiền người đến nghe. Được lắm chứ.
Nguyễn Bính hay cợt nhả, như thói quen của anh:
- Ừ, cũng được, như đi hát xẩm. Không phải xẩm mù, mà xẩm chợ,
xẩm sáng. Còn thiếu cái nón, cái nón ngửa ra, hay là làm cái nong cho người ta
ném tiền thưởng vào.
Vũ Trọng Can không chấp câu mỉa mai, lại hăng hái hơn:
- In vé, in vé. Ta sẽ bán vé. Có người bán vé cẩn thận. Một
công việc lương thiện.
Vũ Trọng Can còn cắt nghĩa nhiều lần, trong khi chúng tôi
không tỏ ra vồ vập, cũng không phải là ngãng ra. Viết sách, viết báo, bán chữ lấy
tiền, thì người ta có thể bán nói. Thế rồi làm thật. Vũ Trọng Can đã tìm được một
người bạn làng, anh Nguyễn Văn Tập. May mắn sao anh Tập đã sốt sắng tận tình lo
liệu cho cuộc diễn thuyết kiếm ăn này. Một tập vé từng tờ con con như cái vé chợ,
vé xe điện. Trong đó là những hàng chữ in: “Sáng ấy... từ giờ... tại rạp
Thành Xương, văn sĩ Vũ Trọng Can, tác giả truyện ngắn Màu hoàng yến đã đăng
trên báo Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn, mới ở Hà Nội vào nói chuyện về... Kính mời...
Giá vé...”.
Nơi diễn thuyết tại rạp Thành Xương mới ghê! Tuy vậy, những rạp
hát vào buổi sáng thường bỏ không. Giá thuê rạp chẳng bao nhiêu. Nhưng bởi vì
chẳng có cách nào - nghĩa là không đào đâu thêm tiền, cho nên không thể thuê
đăng báo hay in cáo bạch. Chỉ viết được hai tờ quảng cáo rồi thuê chỗ mà dán
vào tấm bảng gỗ cổng rạp và ở Bùng Binh cửa chợ. Trước giờ sớm hôm ấy, mỗi người
chúng tôi cầm một nắm vé, đi các phố xung quanh, từ đường Ga-li-ê-ni sang ga xe
lửa, chợ Bến Thành, đường Ét-banh, hễ thấy người nào ăn vận vẻ chững chạc dân
thày, bèn chìa xếp vé ra: “Mời thày đi nghe diễn thuyết... Văn sĩ... Giá
vé một cắc, có một cắc thôi mà... Xin mời...”
Tôi không thể hình dung lại được cái quang cảnh cuộc diễn
thuyết lấy tiền có một không hai này ra thế nào. Cả đến hôm ấy Vũ Trọng Can nói
những gì, cũng không nhớ. Nhưng tôi lại nhớ như nguyên vẻ lộn xộn từ hăng hái đến
rầu rĩ của luôn mấy hôm. Chúng tôi chia ra, người đứng cửa bán vé, người soát
vé, người mời khách vào. Diễn giả ra đứng ngay trước cửa, tóc chải bi-ăng-tin uốn
lượn, thắt chiếc cà-vạt màu hoàng yến. Từ ngày Vũ Trọng Can có cái truyện Màu
hoàng yếnđăng báo, anh hay đeo cà-vạt màu hoàng yến, mỗi lần lại phải đi mượn,
mà cũng cứ cầu kỳ khó nhọc thế.
Diễn thuyết bán vé, kể cũng thật lạ và hình như chẳng mấy người,
bước vào. Ở nách rạp Thành Xương có cái trường nữ học, Nhật đã đóng, có lính ngụy
Ấn gác cổng mà người ta gọi là lính oẳn Bô 1 . Hai người lêu đều mặt bồ hóng, đầu quấn
khăn thừng, tay cầm chiếc côn gỗ, thơ thẩn nhìn người qua lại. Người đi chợ,
người đi đường tò mò xúm xem mấy “anh chín” quấn thừng có phần đông
hơn người vào rạp. Chốc chốc, hai cái đầu xe lửa kéo lũ toa ngược xuôi chạy rầm
rầm ngoài kia.
Tôi chỉ nhớ bằng cái cảm tưởng nhộn nhạo buồn bã như thế.
Không nhớ được hôm ấy đông hay vắng, vé còn ế một xấp hay mấy xấp. Nhưng không
bao giờ có buổi diễn thuyết thứ hai, thứ ba mà chúng tôi cũng chẳng phải đăng
đàn như Vũ Trọng Can đã dọa. Chỉ một buổi ấy thôi, một buổi ấy thôi. Đấy cũng
là một điều quả nhiên không vui vẻ như ý rồi.
Chỉ đi ăn vài bữa cơm thố, bấy giờ cơm thố còn là loại cơm mạt
hạng rẻ nhất như cơm đĩa bây giờ, lại đã hết tiền. Ngày ấy, cạn túi lắm mới phải
đi quán cơm thố của mấy chú chiệc Chợ Cũ. Cơm thố chưa cầu kỳ lắm món. Có một
xu cơm ca la thầu với nửa xu canh cải cúc - như hàng cơm đầu ghế ở các cổng chợ
ngoài Hà Nội.
Thế rồi chúng tôi lại chia tay. May mà cũng êm ả, không có xô
xát, cũng không cãi cọ to tiếng cấu xé nhau, đánh nhau như thường cái cảnh bè bạn
mỗi người mỗi ngả khi đương cơn túng bấn.
Vũ Trọng Can và tôi lại trở ra Hà Nội.
Nguyễn Bính trôi nổi trong ấy cho tới 1945 rồi đi kháng chiến.
Năm 1976, tôi trở lại Sài Gòn. Năm ấy anh Nguyễn Văn Tập còn
sống, anh vẫn nghèo, làm ăn nhì nhằng như ngày trước. Tình cờ, tôi đi nhậu với
Nguyễn Quang Sáng và Đoàn Minh Tuấn. Gặp anh trong cái quán thịt chó gần chợ
Đũi mỗi tuần chỉ bán có ba buổi ở hẻm đường xe lửa của một bà già người Bắc xưa
kia làm ả đào, anh Tập ngồi ăn một mình, cái ô đen dựng cạnh bàn, anh móm hết
răng, chỉ còn nhai bằng lợi được món ăn dưa mận quá lửa. Tôi hỏi vui về cái
ngày anh in vé giúp cho Vũ Trọng Can diễn thuyết tang thương ấy. Cũng là bên
chén rượu, hoài cổ chơi thôi.
Anh lắc đầu, anh nói anh chẳng nhớ. Có lẽ anh vẫn nhớ - trí
nhớ người ta khi trẻ thường nhớ dai, nhưng dường như anh không muốn nhớ, chẳng
còn hào hứng nói lại nữa. Cũng như những chuyện bông lông chìm nổi như trên về
Nguyễn Bính có thể kể hết đêm, trời sáng rồi trời lại tối, câu chuyện lại bắt đầu,
những thương đau của đời người trong xã hội ấy bao giờ cạn được.
Chỉ biết cái thời ấy nó thế. Muốn có miếng cơm tử tế mà không
được, muốn yên thân cũng không thể yên. Chứ đâu phải bệnh giang hồ - đấy là những
lời đẹp tự trang trí hoa mỹ mà thôi. Chúng tôi chưa ai nghĩ có khi nào có thể
có một cái xe đạp. Ôi chao!
Image002
Tất cả những điều ấy sống trong mộng mị và đã thành thơ. Từ
cuộc đời phũ phàng đến thế, từ những ước ao thực như thế, đã thành thơ. Đấy
cũng là tâm sự, là mộng của vô vàn người trong xã hội lúc ấy. Điều đó nói được
tại sao thơ Nguyễn Bính nhiều người đọc, nhiều người thuộc. Bạn đọc và người
thơ đã gặp nhau, hai người cùng sống trong thơ, cái làng Thiện Vịnh trong thơ
Nguyễn Bính cũng chỉ là một bóng mơ. Làng Thiện Vịnh thật có giữa vùng chiêm
khê, mùa thối đất Nam Định, đâu đâu cũng xơ xác, nước trắng đồng, gió lùa sóng
đồng cồn lên, quằn lại, lật thuyền mảng, cả đến người ra cứu lúa cũng chết đuối.
Mỗi năm, mỗi mùa, biết bao người đã bỏ làng đi tha phương. Nhà thơ bó gối nhìn
vào trong đêm. Chỉ nghĩ lại cũng đã se lòng. Nhà thơ tưởng tượng, trên những khổ
cực ấy, phấp phới những lứa tuổi đương tơ, hoa cải vàng tháng Chạp, mưa dây mưa
dợ, trăng rằm sáng như ban ngày và những đêm chèo hát...
Thơ là niềm khát khao, là ước nguyện của con người. Khi chưa
quen Nguyễn Bính, tôi cũng không thật hiểu được những bài thơ viết về đồng quê
của Nguyễn Bính và cũng chưa phân biệt được đâu là chút lòng mộc mạc thiết tha
của người làm thơ, đâu là cái hoa hòe hoa sói của chàng trai quê ra tỉnh. Rồi mỗi
khi gặp chính trong cuộc sống khốn khó hàng ngày như chẳng liên quan gì đến những
bài thơ quê đẹp nõn như lụa của Nguyễn Bính, tôi lại rõ ra ý nghĩa sâu thẳm của
mỗi câu thơ với quê hương. Chỉ có quê hương mới tạo nên được từng chữ, từng câu
Nguyễn Bính. Trên chặng đường ngót nửa thế kỷ đời thơ, mỗi khi những gắn bó mồ
hôi nước mắt kia đằm lên, ngây ngất, day dứt không thể yên, khi ấy xuất hiện những
bài thơ tình tuyệt vời của Nguyễn Bính.
Những lịch lãm, những trải biết con người tất bật giữa cuộc sống
bon chen cùng với những lặn lội từ tấm bé đã làm cho Nguyễn Bính thành con người
như mọi con người, con người của làng xóm cả đời trong lũy tre, nằm mơ có quyển
sách ước gối đầu mà những điều to tát nhất cũng chỉ là ba gian nứa lá, giàn đỗ
ván, cái chuôm, tháng Chạp chuôm cạn nước thì cấy cần. Mộng đẹp nho nhỏ ấy cũng
chưa bao giờ có được cho riêng mình.
Thì trong thơ có cả.
Nguyễn Bính chẳng khác một người tài kể chuyện, cứ nhẩn nha
nói về mọi cái quen thuộc quanh mình mà khiến ta phải chú ý. Ở mỗi làng quê,
thường thấy những bác thợ cày, thợ cối, thợ rèn, thợ ngõa, bà hàng nước nụ vối,
nước chè tươi, hầu như vùng nào cũng có những người giỏi đặt vè, nói tiếu lâm,
pha trò kể chuyện khéo đến đỗi “con kiến trong lỗ cũng phải bò ra”, ai
cũng thích nghe, ví như cuốn truyện hay, đọc chẳng bao giờ muốn thấy trang cuối,
Nguyễn Bính là một người tương tự. Cái thần của sáng tạo chính là cũng ở một
người ấy, việc ấy, cảnh ấy, ngòi bút đã tìm ra những dáng vẻ riêng biệt, trong
khi ta trễ nải nhác qua, chẳng thấy khơi gợi được điều gì mới mẻ khác lạ.
Con người Nguyễn Bính trông lôm lam lắm. Tay chân thô nhám,
quềnh quàng, lúc nào cũng lừ đừ thủng thỉnh, như “ông từ vào đền”, như người
thong thả đi giữa làng. Lại lam lũ như vừa lướt mướt từ đồng sâu mà lên, dẫu
cho anh đương mũ áo chững chạc trên đường phố. Khi nào anh cũng là người của xứ
đồng, của cái diều bay, của dây hoa lý, của mưa thưa, mưa bụi giữa mọi công ăn
việc làm vất vả sương nắng. Bởi đấy là cốt lõi cuộc đời và tâm hồn thơ Nguyễn
Bính.
Quê hương là tất cả, mà cũng là nơi in đậm dấu vết đời mình. Ở
Nguyễn Bính, tình quê là hình bóng đất nước, những nơi anh đã đặt chân với vô
vàn kỷ niệm và quê anh cũng là vùng chiêm trũng mênh mông Phú Xuyên, Bình Lục,
Ý Yên, Vụ Bản - cái rốn nước đồng bằng sông Hồng, ở đấy, nhà thơ thân thương của
chúng ta đã lênh đênh thân con cò, con diệc đồng sâu.
Sức mạnh sáng tạo của Nguyễn Bính cũng từ nơi đồng đất trắng
trời, trắng nước này. Làng Thiện Vịnh, làng quê chôn rau cắt rốn của anh, cái
làng đồng trũng mà chắc đến mùa nước thì con đường, con đê lên huyện kia chỉ
còn là một sợi chỉ mỏng manh bên làn nước giữa gò đất, bờ bụi, tre pheo. Sao mà
cái lần tôi về Thiện Vịnh hôm ấy lắm gió thế, gió trên đồng đêm ngày giật lên,
gào lên từng cơn. Làng nước xám ngắt, quang cảnh tiêu điều lam lũ, ảm đạm, nheo
nhóc.
Thế mà:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.
Tầm vóc thật, tầm vóc mỗi câu thơ Nguyễn Bính.
Trong cuộc sống triền miên đồng trắng nước trong cả đời người
ta vẫn đợi chờ mong ngóng những rộn ràng óng ả của một Hội chèo làng Đặng đi
qua ngõ. Tinh thần và triết lý ấy, nhìn suốt đáy thơ Nguyễn Bính - thấy được từ
mỗi ước vọng hàng ngày của người ta. Tài năng và sức mạnh sáng tạo của nhà thơ
là một với cội nguồn thơ. Từ những dằn vặt, những mơ tưởng nhỏ nhoi đọng lại.
Mùa này mất trắng lại mong cho đến mùa sau được thấy mặt hạt thóc. Cái củi rều
trôi qua ngoài sông, không vớt được, cũng tiếc. Vợ chồng cãi nhau, người vợ ôm
mặt, than thở: “Giá như ngày ấy tôi theo cái người dưới Đông thì chẳng đến
nỗi nào, khổ cái thân tôi...”. Hoa xoan và mưa bay giữa hội chèo làng Đặng đã
sinh ra từ những chuyện như thế. Người ta than thân trách phận, nhớ tiếc, ước
ao, ở giữa làng mà tưởng như quê mình tận đâu đâu kia.
Được như thế mới là Nguyễn Bính. Thơ và cuộc đời, những con
người và cuộc đời. Nguyễn Bính biết làm thơ từ bé. Vừa thuộc mặt chữ đã đọc ra
thơ, tài năng thơ bẩm sinh. Cho đến khi thành những bài thơ đầu tiên, những bài
thơ hay nhất của Nguyễn Bính.
Thật rõ ở Nguyễn Bính, năng khiếu trong thơ được khơi từ cuộc
sống chân thực, lý trí và bản năng nhà thơ hòa một tấm lòng, khi ấy thơ Nguyễn
Bính tuyệt trần.
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Nguyễn Bính kể những câu thơ anh viết ở Thái Nguyên. Cũng chẳng
ai chờ đợi, chẳng có đò có bến, chỉ là tưởng tượng ra sự chờ đợi cho được có nỗi
nhớ nào viết chuyến này rồi bồng bềnh đi đâu. Tình cảnh tang thương của một lớp
người. Chuyến lang bạt kỳ hồ ấy cũng không khác mọi cuộc đi kiếm ăn. Nguyễn
Bính có người anh em lên vỡ đất làm ruộng trên Thái Nguyên. Thuở ấy, lên đến
vùng chè Đồng Hỷ, Tân Cương đã là vào đất đồng rừng xa xôi và người đồng chiêm
tìm lên đường ngược vào ở đồi như thế, làng nước xót xa cho con người phải bỏ
làng đi quê người.
Thế mà lại còn phải đi theo những người tha phương, xem may
ra kiếm được việc, có tìm được chỗ ngồi bảo học kiếm cái ăn. Nhưng mà cũng lỡ,
lại đi.
Bỏ đất quê, lại nhớ đất quê, đi đâu cũng lẽo đẽo, thui thủi một
nỗi buồn. Những cái gì không tới được thì nhớ. Những ước vọng thiết tha và xót
xa ấy gắn bó trong tâm hồn người làm thơ.
Nguyễn Bính làm thơ thật nhiều. Và sinh sống bằng thơ. Dẫu gặp
mọi khốn khó, phải long đong chạy vạy, nhưng Nguyễn Bính vẫn lần hồi có cái ăn
do tiền bán thơ, chứ không chỉ nhờ bạn bè hoặc phải lấy tay khác nuôi thơ,
trong khi nghề viết thời ấy chưa hề được coi như một công việc ngay ngắn, mực
thước.
Tinh hoa của tài năng con người nảy nở vào một khi sức lực nhất
- có thể chỉ nổi lên ở một bài thơ, thậm chí ở một câu thơ. Một văn tài lỗi lạc
đến mấy cũng không thể cả đời lúc nào quanh mình cũng lung linh hào quang những
sáng tạo tầm cỡ. Sức mạnh sáng tác cũng ví như sức khỏe con người, không phải
và không thể lúc nào cũng sung sức nhất được.
Nguyễn Bính chỉ thật riêng một góc trời ở những bài thơ với
những mảnh đất quê. Trong đời thơ của anh, đáng lẽ đến hết thời kỳ hồn nhiên
năng khiếu phải được nâng cao hơn nữa - như bây giờ ta nhận xét hoặc nói cách
khác, sự rèn luyện tâm hồn và ngòi bút phải được cái tài trời phú lên hơn, mới
bồi đắp được độ bền và sức sống của sáng tạo. Nguyễn Bính không tới được cơ hội
ấy. Dù trong kháng chiến và cho đến bài thơ cuối cùng, Nguyễn Bính vẫn thường
viết về quê hương, nhưng tinh hoa chỉ có một thời, và thời ấy đã qua rồi.
Nhưng thôi, chẳng nên nhận xét thơ và công việc làm thơ của
Nguyễn Bính với con mắt sắp đặt trong sự việc hôm nay. Tìm ra cái tinh hoa của
Nguyễn Bính, hãy trở lại cuộc sống và thơ từ ngày ấy.
Khi tâm hồn và sự chân thực đi cùng thơ, Nguyễn Bính đạt tới
sự toàn bích. Rồi Nguyễn Bính bôn ba đây đó, Hà Nội và Sài Gòn, rồi cuộc sống tự
nhiên thế nào, mà Nguyễn Bính trải biết đều phản ánh trong thơ anh.
Nguyễn Bính không cắt nghĩa được số phận đời người và đời
mình ở những nơi đó. Nguyễn Bính cũng không bao giờ biết như thế, không bao giờ
biết mình đã phí hoài những chân chất tình quê, thơ anh lạc vào những “bụi
kinh thành”, “vua nước Bướm” “hồn trinh”, “mây Tần”, “đốt
đường sạn đạo”. Anh ngỡ đấy là thiết tha, nhưng thật ra, lại là hời hợt. Ở Nguyễn
Bính, mỗi khi thơ sa vào câu chữ sẵn lại chính ở những bài thơ tình yêu “một
nghìn cửa sổ”, “mười hai bến nước”, những bài thơ “bụi bậm kinh
thành”. Tôi nhớ lại. Ở quãng phố gần vườn hoa Cửa Nam, lần đầu tiên gặp anh với
chiếc hộp bích quy đựng thơ và những bức thư tình. Bao nhiêu cuộc tình tưởng
não nùng tê tái kia chẳng qua chỉ là hờ hững và nó đã đẩy thơ anh ngoi ngóp vào
những đau thương hình thức mà thôi.
Thơ và cuộc đời ràng buộc nhà thơ. Trước sau và mãi mãi, Nguyễn
Bính vốn là nhà thơ tình quê, chân quê, hồn quê.
Image002
Thơ Nguyễn Bính, một trường thơ. Một khoanh tre trong lũy tre
làng thơ. Có thể dễ dàng nhận thấy hiện tượng ấy ở thơ của anh và bè bạn anh
trước cách mạng và thơ Nguyễn Bính trên sách báo những ngày đầu kháng chiến tại
các chiến khu Nam Bộ.
Đấy cũng là thực tế phong trào Thơ Mới phát triển đa dạng trước
và sau những năm 1940. Thơ Việt Nam ở thời kỳ này hoàn toàn đổi mới. Các nhà
thơ mới đã nhanh chóng chiếm được trận địa thơ với sự chấp nhận, cổ vũ và tin
yêu của mọi người đọc thơ. Không phải bằng chiến công những cuộc tranh cãi, mà
bằng sự ra đời những bài thơ dân tộc. Nghiễm nhiên, tức khắc “Thơ Mới” bay
vào quỹ đạo thơ, thơ Việt Nam.
Thơ Nguyễn Bính là một nhành hoa trong trào lưu cách tân thơ.
Và cùng với Nguyễn Bính, xuất hiện một trường thơ, một phái thơ.
Còn nhớ, vào mùa sen, có khi cả phiên chợ Mơ, chúng tôi về ở
trong cái lều canh sen trên hồ Linh Đường, phía nam thành phố. Chúng tôi đọc
thơ rồi cãi nhau về thơ. Chúng tôi chế giễu cuộc thi thơ bát cú có đầu đề và họa
vần “Nghìn năm văn vật đất Thăng Long” mà rải rác còn có báo đăng,
như những bài thơ chết đuối. Chúng tôi công kích những bài thơ son phấn màu mè
cầu kỳ một câu cộc lốc và những bài bắt chước “mười hai chân” Tây của
Nguyễn Vỹ.
Bài thơ Chân quê của Nguyễn Bính không phải chỉ là đôi lời
than thở của anh ả gặp chị ả nào đó. Chân quê đã tuyên bố quan điểm của phái
thơ này trong trào lưu thơ đương rầm rộ:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh,
Thầy u mình với chúng mình chân quê.
Hôm qua em đi tỉnh về,
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.
Tôi đã được thấy như thế ở thơ và hành động trong đời làm thơ
của Thâm Tâm, của Trần Huyền Trân, các bạn thơ Nguyễn Bính. “Đưa người ta
không đưa qua sông”... và “Nhớ nhau vảy bút làm mưa gió”... Những áng thơ
phảng phất “thét roi cầu Vị” kỳ thực mang trong lòng hình ảnh tâm sự
của người cầm bút thời đại, giữa khi cả đất nước và dân tộc đương chuyển biến.
Ở trường thơ ấy, mỗi người thể hiện một phong cách. Thâm Tâm
và Huyền Trân sừng sững và cũng cô đơn như gốc đa, con đò một mình. Nhưng Nguyễn
Bính in đậm ảnh hưởng vào thơ của các bạn bè, vang vọng dư âm trong lòng một lớp
độc giả rộng rãi.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính đi vào kháng chiến ở Nam
Bộ. Bởi đấy là triển vọng của những điều mơ ước về quê hương.
--------------------------------
Sanda Bô, bù nhìn Ấn Độ theo phát-xít Nhật. |
TRẦN HUYỀN TRÂN
Có lần, trên hồ Tây, Nguyễn Huy Tưởng đã hỏi Trần Huyền Trân:
- Tại sao cậu lại dùng cái bút danh khăn yếm như thế, dẫu cho
đó là tên một tuyệt tác giai nhân?
Câu hỏi cũng là một nhận xét. Nhà tiểu thuyết lịch sử ấy đã
thấy gợn gợn khi xem ra cái tên kiều diễm không hợp chút nào với dáng dấp con
người nhà thơ Trần Huyền Trân, nước da bánh mật, ánh mắt thăm thẳm và cặp mày xếch,
từ thuở nào tới giờ vẫn dường như khắc khổ, nhưng lại trang nhã và phảng phất vẻ
gì giăng gió.
Trần Huyền Trân chỉ lặng lẽ mỉm cười.
- Ồ, cái nàng công chúa Huyền Trân nhất thực đa tình nọ nào có
bận đất đến nhà thơ của chúng ta.
Người con gái tài sắc phải bán mình sang Chiêm để cho vua cha
được người ta dâng đất châu Ô, châu Ri. “Nước non ngàn dặm ra đi... Mượn
màu son phấn, đến nợ Ô Ly... Thế rồi cái anh chàng tướng trẻ tài hoa Trần Khắc
Chung kia phụng mệnh sang Chiêm cứu nàng khỏi bị nạn thiêu sống bởi phải chịu
tang chồng, đã dùng mưu đưa được người đẹp từ giàn lửa ra bờ bể làm lễ chiêu hồn
ở ven trời”. Rồi lại cướp được Huyền Trân thoát xuống thuyền. Con thuyền trở về
lênh đênh mãi ngoài khơi qua những cửa Thần Phù, Tuần Vương bao nhiêu tháng,
bao nhiêu lần mà cố tình vẫn chưa nhìn ra đường nước vào bến. Đôi trai gái đã để
lại thế gian một trang tình sử cực não nùng.
Ai đếm được, làm sao kể xiết biết bao nông nổi đẹp và buồn
trong đời tình của mỗi tuổi trẻ. Thuở ấy có người mê thơ Trần Huyền Trân, nhiều
năm ròng, bàn tay yêu kiều ở một thị trấn trung du ủ bóng đồi cọ đã thêu những
bài thơ Trần Huyền Trân trên lụa, chữ lụa. Năm tháng qua đi, “Mặt nhau
chưa từng biết. Tiếng nhau chưa từng nghe” (Trần Huyền Trân) chẳng khi nào
ai biết ai. Nhưng biết rằng thế là đã gặp những chiêm bao không gì sánh nổi,
không bao giờ có được.
Ai còn nhớ những câu thơ “trở lại vườn Thanh có một
mình” quãng 1937 ở cái khi mà những người yêu của chúng tôi chắc chắn các
cô còn vắt vẻo tóc bỏ đuôi gà và chưa biết tỉa lông mày.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài những lúc thấy tôi vui
Bảo rằng hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng thế thôi!
Có lần tôi gặng hỏi Thâm Tâm, nhưng con người bé nhỏ âm thầm
mà gai gạnh ấy chỉ nói: “Vườn Thanh là Thanh Giám, chứ không phải xứ Thanh
đâu.” Lại càng khó hiểu hơn.
Trên gác báo Bút Hà, - Trần Huyền Trân thuê lại báo của ông
Bùi Đức Dậu, làm được mấy số - phố Cao Đắc Minh trông sang Thanh Giám Văn Miếu.
Bãi cỏ bậc thềm bậc đá, tường gạch vỡ, mái ngói rêu phong, những gốc đề, gốc muỗm
cổ thụ và sự vắng lặng. Câu chuyện tình u ẩn mà nhiều báo nhiều thời bàn tán
nào Hai sắc hoa ti-gôn, nào T.T.Kh, nào Thâm Tâm và Khánh, là hai người ấy hay
là ai. Những éo le mơ hồ, các anh Thanh Châu, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn
Bính - những đồng tác giả câu chuyện tình huyền thoại ấy hôm nay cũng còn có bạn
có thể kể lại rành rõ được (hay là người ta cứ muốn để mờ ảo mãi như thế), tôi
không quan tâm, mà chỉ muốn mách các bạn: Không phải chỉ Nguyễn Bính làm thơ về
T.T.Kh, mà riêng nhà thơ Trần Huyền Trân có đến bốn bài thơ viết ở “vườn
Thanh”. Những bài Thưa bà - 1938 (Gửi một bà yêu thơ), Tiếng đàn đôi ta - 1938,
Có những mùa đông - 1939 và Trưa ấy qua rồi - 1939, đều viết ở Thanh Giám.
Và bài thơ sau cùng Trưa ấy qua rồi miêu tả tâm sự “trở
lại vườn Thanh” của Trần Huyền Trân có những câu:
Bây giờ năm tháng vô duyên quá
Em đã theo những bến cát xa
Đò đã sang sông, chèo lái mới
Sao còn khua sóng mãi thơ ta.
Ai vẽ giùm tôi một buổi trưa
Bốn trời mây gió đến đem cho
Một hy vọng hão từ đâu lại
Giấu ở trong lòng mấy tiếng thơ.
Thanh Giám 1939
Bạn yêu thơ chắc còn nhớ những “sang sông, sang ngang”, “bốn
trời”, và “bến cát xa” không phải của riêng Trần Huyền Trân. Hình ảnh
những chữ mênh mang man mác ấy cũng thường thấy ở thời kỳ ấy trong thơ và tên
bài thơ, tên truyện ngắn của Thâm Tâm, của Nguyễn Bính.
Đó là những câu chuyện thơ mộng có và không có của một thời,
của một lứa tuổi, một lớp người.
Cái bút danh Trần Huyền Trân cũng thế, đấy là sự tích một
thiên trong những pho tình sử não lòng người thơ. Huyền Trân không bận, không
dính dáng chút nào đến cô công chúa nhà Trần dan díu với Trần Khắc Chung mà
Nguyễn Huy Tưởng đã hỏi. Huyền Trân này là cái tên của những ngày khốc liệt,
oan nghiệt.
Ơi hỡi! Đứa con không có tên
Nằm trong xác bụng mẹ vô duyên
Con lên mẩm sống trong lòng chết...
(Cái thai hoang, 1942)
Ngày trước, Trần Huyền Trân có viết một tiểu thuyết tên là
Sau ánh sáng. Những cảnh và người quanh phố Khâm Thiên trong tiểu thuyết được miêu
tả như một tự truyện, những lều cá, những bè rau muống trên các ao chuôm, cống
rãnh khúc khuỷu cạnh ngõ Sơn Nam, ngõ Liên Hoa qua Cống Trắng, sau ánh sáng của
nơi ăn chơi nghiêng trời.
Thời ấy, những người cơ cực các nơi lên thành phố kiếm cái sống
đều tìm chỗ trú ngụ ở vùng bãi sông Hồng và bám vào các rìa phố phường như thế.
Sau lưng, phố Khâm Thiên đủ loại trác táng và bài bạc, những lầu xanh chỗ chơi
của người phong lưu, nhà thổ đèn đỏ cho người kiết xác, các tiệm nhảy Pa-gốt,
Ta-na-ka, thời Pháp - Nhật. Nhưng ngay ở nơi mà hai chữ Khâm Thiên dễ làm cho
người ta ngày nay tưởng ở đấy chỉ rặt những cảnh đêm ngày ném tiền qua cửa sổ,
không phải, còn vô số những con người lênh đênh dạt đến các nhà hát làm đào rượu,
một loại gái điếm chuyên đứng quạt, hầu rượu, ăn ghẹ rồi mắc màn ngủ vòi tiền
khách làng chơi, những gái nhảy bị đổ bệnh tim la, mọi số phận cùng đường.
Cô Hiền, cô Trần Nguyệt Hiền không phải gái giang hồ nhưng
cũng ở trong cảnh lẽ mọn tương tự đám người có những cái tên hoa lá cành được
khách làng chơi đặt cho, nào Mộng Điệp, Mộng Hồ, nào Tuyết Hấp, Tuyết Lành,
Nguyệt Lìm, đại khái vậy.
Trần Huyền Trân gặp Hiền ở một nhà hát. Cũng không phải gốc
gác “rằng xưa vốn là người Kẻ Chợ” mà Hiền đã trôi từ đồng quê ra, có
lẽ đã có lần đứng ở phố Mới buôn người đợi kẻ có tiền đến dắt đi làm con sen,
con nụ cho những nhà giàu bạc ác. Rồi người ta thản nhiên tống khứ con ở ra khỏi
cửa, Hiền ra khỏi kiếp tôi đòi ở một nhà quyền quý kia với cái thai trong bụng.
Xót xa, những con người lận đận, cơ nhỡ gặp nhau. Hiền trở dạ. Chỉ có anh chứng
kiến, một mình anh lo cho Hiền được mẹ tròn con vuông với đủ mọi việc: niêu nước
mắm chưng, tiền đút nhà thương làm phúc, cái áo cũ xé làm tã và làm tờ khai
sinh cho cháu bé. Chút thương đau chết đuối trong cảnh ngộ ấy của hai con người
họ Trần giữa trầm luân đời người, đã khiến cho họ nghĩ ra cái dấu nối đẫm nước
mắt. Trần nối với Trân bằng dấu huyền ở giữa là Trần Huyền Trân - cô bé con
thiên hạ được khai sinh là con anh và tên là Trần Huyền Trân, đấy là đứa trẻ tội
nghiệp và là bút danh, tên thơ yêu dấu của anh.
Tên đứa trẻ và tên thơ tuyệt nhiên không ngẫu nhiên. Tính
nhân đạo cao đẹp, Trần Huyền Trân tiếp thu được do anh đã giác ngộ cách mạng.
Cuộc đời luân lạc và ý chí, lý tưởng trong thời kỳ đất nước trải qua những hoàn
cảnh hết sức lớn lao, mỗi người đứng trước cái sống cái chết trong giai đoạn khẩn
trương cả nước, nhà thơ bất giác tự nhận ra mình và dặn đứa con không bao giờ gặp
lại.
Rồi lớn lên con mở mắt nhìn
Khóc cùng bách tính sống như đêm
Nhưng không! Đừng khóc! Thán gân cốt
Ta bậc thang đời, con giẫm lên…
(Cái thai hoang)
Tên thơ, ba chữ Trần Huyền Trân ra đời xiết bao tình nghĩa
như thế.
Bây giờ cô bé Trần Huyền Trân năm xưa ở đâu nếu trời còn để
cho chứng sống đến hôm nay, chắc đã nên bà.
Sau ánh sáng và Bóng người trên gác kinh là tên những tiểu
thuyết của Trần Huyền Trân. Những “sau” những “bóng”, những chau
mày hồi hộp và tiếng thở dài não ruột, những ảo tưởng, ước muốn.
Bạn tôi được sinh ra giữa thành phố, thật giữa kinh thành -
hai chữ “kinh thành” du dương một cách vu vơ của mấy người cầm bút
đói khát và lãng mạn, bởi nếu tôi có kể lể một chút về cuộc đời của bạn tôi giữa
Hà Nội thì người đọc cũng chỉ thấy như câu chuyện ngổn ngang vướng vất heo hút
đồng sâu nào chứ chẳng hề liên quan tới bóng dáng những kinh thành hoa lệ tưởng
tượng kia.
Mẹ ở cữ anh ở khu nhà thương thí trong bệnh viện Phủ Doãn. Kể
ra, cái năm 1913 ấy, người khốn khó mà được đến đẻ ở cái nhà thương làm phúc,
không phải nằm ở trong xó buồng có bà già hàng xóm sang cầm chiếc que nứa soi
đèn lên cắt rốn cho đứa trẻ, kể cả như tôi, thì cũng là may. Được may, cũng bởi
mẹ anh làm “cu ly san” nhà thương Phủ Doãn. Trần Huyền Trân được mười
tuổi thì bố chết, mẹ anh một nách nhếch nhách bốn con mọn, trai có gái có,
nhưng tất cả các em đã chết dần chết mòn hết. Làm thế nào lần hồi qua bước cơ
hàn, người đàn bà “cu ly san” ngày ngày đi làm, tối tối đội cái thúng
đi rao bán bánh khoai lang rán, mà khách ít tiền ăn quà gọi sang trọng là bánh
dừa rán. Tiếng ời ời vào các ngõ phố quanh co đêm đông giá buốt sang đêm hè,
quanh năm thế.
Nửa đêm kia, bà bị cảm giữa đường, tình cờ, một người đi làm
khuya về nhìn thấy, vực bà lên, giúp tỉnh lại. Rồi bà lấy người đàn ông đã cứu
bà. Nhưng oái oăm, cuộc đời vẫn chỉ như bước từ ngoài sân vào cái nhà dột, ông ấy
vốn là cu ly khuân vác trên ga Hàng Cỏ, đã có vợ con. Cảnh đò nát đụng nhau,
làm không đủ ăn, lại eo sèo vợ lẽ con thêm, ông ấy đến dựng lều kéo vó kiếm
thêm con tép com tôm ở Cống Trắng sau lưng Khâm Thiên. Bà ở lều thả bè muống
quanh cọc kiếm ăn bòn mót những chợ Hôm, chợ Đuổi, đầu ô, anh sống lay lắt trên
mặt nước với mẹ, cái lều kéo vó trong đầm nước cạnh Cống Trắng đối với Trần Huyền
Trân chẳng phải chỉ là kỷ niệm buồn tủi một thời thơ dại, mà túp lều còn thực sự
là nơi đi về sinh sống hẳn hoi cả về sau này, khi anh đã biết đi kiếm ăn, đã
làm thơ.
Đi đâu thì đi, rồi lại chui lủi rúc ráy về đấy. Cái lều kéo
vó, hình ảnh hiện thực cuộc sống rách nát đã vào Trần Huyền Trân suốt cả đời
thơ.
Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa.
(Thu, 1939)
Bạn bè đến với Trần Huyền Trân cũng tụ hội lênh đênh mặt nước,
trong cái lều trước mặt có bốn chiếc gọng vó chỏng lên trời. Mỗi lúc đi về lều
bám ngón chân vào vấu cọc tre, khỏa chân rửa rồi chui vào cái sàn nứa, những
ngày gió bấc gió nồm chúng tôi nghe óc ách nước khua bốn phía phên liếp.
Mưa lũ ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Lều tôi kiến đã rời lên mái
Bà lão chài lo chửa có thuyền
Vó nghèo được nước đã lê thê
Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi
Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi
Cũng như cất cánh gọi không về
Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
Chạnh lòng cá nhẩy với chim bay
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.
(Mưa đêm lều vó, 1940)
Gió ngớt khua lau dưới gậm cầu
Người về gió lạnh bước thôi mau
Ngõ hoang đã nở dăm màu bướm
Đây lúc đôi mùa tiễn đưa nhau
Ấy lúc hồn hoa trở gót về
Thả đàn chim mộng xuống thâm khuê
Tôi nghe xa lắm làn mây trắng
Rời bóng kinh thành lững thững đi.
(Đôi mùa, 1940)
Hồi sau, anh thuê được một gác xép ở ngõ cạnh đấy, cùng một lối
trổ xuống bến. Các bạn gọi một cách khoa trương là gác Sơn Nam, không phải Sơn
Nam hoài cổ, mà các nhà trong ngõ cho thuê là của ông chủ Bạch Sơn Nam, nhiều
truyện ngắn và thơ được đề một cách hoa mỹ “Viết ở gác Sơn Nam”, “ở đầm
Liên Hoa” cũng chỉ là ở đấy. Những cái tên đẹp đẽ chỉ là chiêm bao gửi mộng
vậy, lẫn lộn, thực và mộng, cuộc sống gay gắt và hoạt động đổi đời, đương đến với
một lớp người.
Trong những năm Hà Nội dũng cảm và quyết liệt sửa soạn Tổng
khởi nghĩa, chính ở cái gác “Giường ken chiếu nối xoay ngang dọc. Xương gối
vào xương chẳng đủ nằm” (Trần Huyền Trân, 1940) có những chuyến liên lạc của
đoàn thể Việt Minh, mối giao thông đã đến gửi cán bộ trú tạm ở đấy. Ở mái lều
vó ngoài hồ, Trần Huyền Trân đã gài báo và tài liệu bí mật mới nhận đợi chuyển
đi. Đã có những lần anh Bé (một bí danh của Lê Quang Đạo, bí thư ban cán sự Đảng
ở Hà Nội những năm ấy) đến với Trần Huyền Trân ở lều, ở gác Nam Sơn những ngày
thành phố đen tối quằn quại.
Thơ Trần Huyền Trân càng về sau càng gồ ghề sắc thái thời thế.
Thuở ấy ra quân lớp lớp dài
Mẹ già phẩy áo hẹn tương lai
Lòng con nắng giục mầm hoa lửa
Gió bốn phương lùa lộng chí trai.
(Lòng chiến sĩ, 1939)
Trông lên đèn cũng nở hoa,
Tưởng đâu trong ruột bấc già đượm hương.
Đèn soi giấy mực yêu thương,
Đón sang trang mới mở đường xuân đi.
(Đêm trừ tịch, 1943)
Máu bốc lên! Hỡi anh em!
Chân trời đã rạng một nền tự do.
(Những người chưa chết, 1944)
Hiện tượng đó không phải bất chợt, mà đấy là tâm hồn, sức sống
và hành động đã quyện làm một trong thơ Trần Huyền Trân, ở các bài trên báo chí
công khai và báo chí bí mật. Trong giai đoạn Tổng bộ Việt Minh kêu gọi toàn
dân “đánh Pháp, đuổi Nhật tiến tới Tổng khởi nghĩa”, Trần Huyền Trân đã
sáng tác nhiều thơ và ca dao ký bút danh Đỗ Quyên, hoặc không ký tên. Như Phong
và Nguyễn Huy Tưởng đến liên lạc lấy các bài ca dao của Trần Huyền Trân đem in
trên các báoCờ Giải phóng của Đảng Cộng sản Đông Dương và báo Cứu Quốc của Mặt
trận Việt Minh, phát hành bí mật.
Một vẻ nhọc nhằn vất vả mãnh liệt từ đất dấy lên, nhưng lúc
nào cũng vẫn như dang dở. Ở con người cũng như trong sáng tạo. Đấy là cảm tưởng
mỗi lần tôi nghĩ về bạn, không phải chỉ bây giờ, mà từ những ngày tôi thường
lui tới với anh và Thâm Tâm ở ngõ Sơn Nam.
Cuộc đời điêu đứng từ trong trứng của con người lăn lóc “từ
buổi chân làm ngựa” (Trần Huyền Trân) để kiếm miếng sống, từ nghề gõ đầu
trẻ tư gia và các trường tư còm cõi quanh quẩn Khâm Thiên, Ô Chợ Dừa, rồi làm
ét thợ chiếu bóng vác cái phim Người kẻ cắp thành Bát-đa đi hầu khắp các tỉnh,
tới Sài Gòn, sang Phnom Pênh. Thay đổi công ăn việc làm trên bước đường luân lạc
chẳng qua chỉ xoay xỏa đến thế, mà cũng không đủ miếng cơm manh áo. Những gian
truân ấy càng đưa anh đến với những khao khát đổi đời. Trong đời văn của một
người có nghị lực tự học, Trần Huyền Trân đã trải đủ bước và bước lên từ những
chập chững. Lúc đầu, anh viết loại truyện kiếm hiệp “tiểu thuyết ba xu”,
viết lời ca cho “bài hát ta theo điệu Tây” ký Trần Kim thì cũng vẫn
chẳng khác anh dạy trẻ học, làm thợ nguội, làm ét chiếu phim. Rồi dần dà anh viết
truyện ngắn, tiểu thuyết, làm báo, làm thơ, hoạt động báo chí trên nhiều mặt.
Từ sau cách mạng cho tới nay, Trần Huyền Trân say mê sân khấu,
viết vở và đạo diễn. Sau cùng chuyên về nghệ thuật chèo mà tôi đã có duyên với
anh trong vở chèo Giáng Kiều, Tô Hoài viết, Trần Huyền Trân chuyển thể.
Trong văn học, không thiếu những người có khả năng, đã thả sức
vào hầu hết các lĩnh vực sáng tác. Khi đương xuân, phơi phới đi trong những
thành quả, những nghênh đón, đôi khi chỉ một loạt vỗ tay cũng khiến được ta
ngây ngất. Thế rồi, một lúc nào đấy nhìn lại mới chợt nhận ra dẫu cho đâu cũng
có mặt, nhưng không ở đâu đọng lại được thành tựu thực sự. Mà sức lực đầu óc với
tinh hoa sáng tạo thì không phải lúc nào cũng như nhau và thì giờ lúc xế bóng
cũng chẳng còn bao năm.
Ở Trần Huyền Trân không có những biểu hiện đến đỗi giật mình,
như Cao Bá Quát xưa thở dài “một đời đã phụ cả năm xe sách”. Trong thơ và
sân khấu, Trần Huyền Trân có đường nét sắc thái riêng biệt và hấp dẫn.
Nhưng mà làm sao tôi vẫn thấy ở Trần Huyền Trân chỗ nào cũng
tưởng như đương còn dở dang, chưa hẳn đã tỏ rõ đầy đủ khí thế lẫm liệt có thật
của anh, nhất ở trong thơ. Nếu ai đã đọc thơ Trần Huyền Trân dễ thấy có lẽ những
bước nhảy vọt trên đường phát triển mà anh chưa sửa soạn, chưa có khai phá mới,
luôn luôn mới mà lại tưởng chừng như bị đứt quãng, trong khi thật sự tiềm lực
sáng tạo của anh hơn thế nhiều.
Đường thơ Trần Huyền Trân, nhật ký thơ Trần Huyền Trân có thể
gọi như thế, với một phong cách tung hoành của người thơ cùng với quá trình
phát triển và hình thành bước đường tư tưởng Trần Huyền Trân.
Từ mọi tâm tư giằng xé giữa đời vươn lên thái độ và trách nhiệm
của con người trước vận nước. Rồi trải hai cuộc kháng chiến. Rồi sự nghiệp xây
dựng đất nước. Rồi tình cảm với con người và đất nước bạn bè không biên giới, ở
Mát-xcơ-va, ở Xi-bê-ri, ở Beclin, từ những bài thơ đầu tiên 1938 đến bài mới viết
năm 1980 ở Nam Đồng, vẫn một thái độ, một tấm lòng.
Đọc lại bản thảo thơ Trần Huyền Trân cảm thấy thật lạ lùng
khi nhẩm lại tưởng như mắt trông rõ được thơ anh quấn quít với đời, từ đầu thế
kỷ tới hôm nay.
Hầu hết cả đời anh đã đi về sinh sống ở một góc thành phố, từ
khi lặn lội ao chuôm sau lưng Khâm Thiên sang Ô Chợ Dừa. Bao nhiêu năm rồi, bây
giờ anh lại về ở Nam Đồng cũng trong vùng ấy. Ngoài song cửa hôm nay lưa thưa
bóng trúc và xa kia nhấp nhô ánh nước ngát mùi hoa sen. Cụ bà sinh ra
anh, “bà lão chài” xưa, tuổi ngót một trăm còn mạnh khỏe, cụ ngồi chiếc
ghế đẩu ngoài hiên nhà.
Sự kiên nhẫn và thời gian không bao giờ phai mờ có thể là
hình ảnh ví được với mạch thơ, hơi thơ Trần Huyền Trân gồ ghề, uy nghiêm. Như lời
tựa thơ Trần Huyền Trân của Thâm Tâm:
Hôm nay
Thơ lên đường
Hồn chàng ra thiên hạ
Ta vừa nghe lã chã dòng sương
Ngâm thôi
Quăng bút cười ha hả
Đây một loài hoa khác hải đường.
Những câu thơ Thâm Tâm viết 1942 đề đầu tập thơ Trần Huyền
Trân chép tay, tới nay vẫn là bản thảo chép tay đã bốn mươi tư năm, lạ thay.
Nhưng nghe sảng khoái đến tận bây giờ.
Đây một loài hoa khác hải đường.
VŨ NGỌC PHAN
Anh Phan, chị Phan.
“Tôi viết thành cái truyện ngắn Nước lên hôm đi hộ đê ở Tứ Tổng
về.
“Truyện ngắn này tôi gửi báo tuần Hà Nội tân văn.
“Đấy là tôi tả quang cảnh bi thảm của một năm sông Hồng nước
lớn.
“Sau này, chị Hằng Phương kể cho biết truyện tôi viết vào giấy
lèm nhèm, chữ tôi lại gãy nét rất khó xem. Chị tình cờ lấy trong đám truyện đã
loại lên đọc và thấy đáng chú ý. Đấy là truyện ngắn đầu tiên của tôi in trên
báo mà được trả tiền nhuận bút. Hồi ấy không phải cứ có bài đăng báo thì tòa
báo đều trả tiền người viết như thể lệ bây giờ. Tòa báo chỉ trả tiền người nào
được tòa báo mời, còn như mình gửi bài “lai cảo” thì người ta đăng đến bao
nhiêu bài cũng thế thôi.
“Vì đấy là anh gửi cho người ta, chứ người ta có mời anh viết
đâu. Bởi vậy, đồng tiền báo Hà Nội tân văn mở hàng cho tôi vào nghề và những
quyển tiểu thuyết Đỏ và đen của Stăngđan, tiểu thuyết của Panai Istrati mà anh
Vũ Ngọc Phan khuyên tôi đọc, đó là cái duyên quyến tôi vào nghề văn” (Tự
truyện - Nhà xuất bản Văn học (1976)).
Bạn đọc hãy tưởng tượng lại quãng những năm 1940 - cách đây gần
năm mươi năm. Tôi đương khoảng hai mươi tuổi, anh Vũ Ngọc Phan trạc tuổi bốn
mươi - cái so le tuổi tác khá xa xa, nếu anh chị mau mắn, tôi chỉ xấp xỉ đứa
con đầu lòng của anh chị. Mà tôi thì chập chững cầm bút. Và anh Phan thì làm
nghề báo từ bao giờ, lâu lắm. Tôi chỉ biết, chỉ lạ lùng rằng cứ như thế mà tôi
được làm bạn vong niên với anh và đấy là những năm tháng buổi đầu đời người, đời
văn của tôi.
Tôi viết, tôi đọc, tôi lại viết đủ thứ thơ, truyện gửi đi, chẳng
báo nào đăng nhưng lại viết. Không biết khó nhọc, mặc dầu ngày ngày phải đi
làm, tối sẩm mới về đến nhà. Cũng không phải vì chăm chút, vì cay cú một cái
tên. Nông nỗi cầm bút của tôi gần như một thôi thúc tự nhiên. Bởi tôi không có
nổi một mấu cớ nào để có thể nuôi được mơ ước của mình - mà tôi cũng chẳng có
mơ ước xa xôi gì. Bấy giờ tôi đương làm công nhật bán hàng cho hiệu giầy Ba-ta
bên số lẻ giữa phố Hàng Đào rồi sau xuống cửa hàng Hàng Khay.
Mấy truyện ngắn của tôi được đăng trên tuần báo Hà Nội tân
văn: Nước lên, Một đêm sáng giăng suông, Bụi ô tô... Tranh minh họa của họa sĩ
Ngô Thúc Dung, bạn của họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, họa sĩ vẽ cái bàn tay to gần bằng
người. Tôi mê mải ngắm bức tranh, lại đọc lại truyện không biết bao nhiêu lần,
lần nào cũng ngỡ ngàng nhìn dòng chữ mình viết hóa ra chữ in, sờ tay mà vẫn thấy
khác thường. Những truyện ngắn của tôi được trình bày trân trọng giữa báo, in
cùng với những tiểu thuyết nhiều kỳ: Chuyến tàu định mệnh của Lưu Trọng Lư, Thiếu
quê hương của Nguyễn Tuân.
Một hôm, tôi đến gặp anh Vũ Ngọc Phan ở nơi làm việc của báo
tại một bộ phận nhà in Trung Bắc đầu phố Hàng Buồm. Không phải đến đưa bài,
cũng không phải tìm người “đàm đạo văn chương”. Tôi vốn đọc như ngốn sách.
Không mượn đâu được đủ sách cung đốn nổi cái đói sách của tôi. Trong thành phố
có một thư viện lớn ở Tràng Thi. Nhưng thư viện này chỉ cấp thẻ đọc cho người đỗ
bằng thành chung trở lên. Tôi muốn nhờ anh Phan giúp tôi được vào thư viện ấy,
một giấy giới thiệu, hoặc anh quen ai, chẳng hạn.
Anh Phan đã kể lại cảm tưởng lần ấy gặp tôi, anh rất ngạc
nhiên. Một đêm sáng giăng suông của tôi nói về một cô gái làng quê ra thành phố
bị dụ dỗ thành gái điếm... Bụi ô tô tả vợ chồng nhà nghèo kia quảy con đi chợ
bán... ít nhất anh tưởng tượng tôi cũng như một Tam Lang, một Nguyễn Công Hoan
con con đeo bàu quảy níp làng văn làng báo thế nào. Nhưng tôi chỉ là một cậu bé
ngoại ô mặc áo dài thâm, quần vải ta, đi đôi guốc mộc.
Tôi nói:
- Thưa ông, tôi muốn ông làm ơn giúp cho tôi được vào đọc
sách ở thư viện Tràng Thi.
Anh Phan người nhỏ nhắn, trắng trẻo, mặc bộ đồ tuýt-xo lụa
ngà hoa cau, đi đôi giầy tây màu gan gà, đúng như tôi vẫn tưởng tượng thế, “nhà
văn nhà báo phải gày gò, lịch sự, nho nhã”. Bàn làm việc của anh ngay giữa nhà,
đối mặt bàn chủ nhà in. Cái nhà in tối như hũ nút, chỉ có khoảng ngoài cùng áp
hè không phải thắp đèn điện. Gian sắp chữ, gian máy, ầm ầm rậm rịch như tầu
ngoài ga chuyển bánh. Luôn luôn, thợ chữ, người sửa bài đem bản in thử ra.
Anh Phan mời tôi ngồi xuống cái ghế đẩu mà người sửa bài vừa
đứng lên, anh ra nói nhỏ với bác loong toong ngoài cửa rồi lấy ví đưa tiền cho
người ấy.
Trở vào, anh Phan nói:
- Bánh ngọt bên cao lâu Nhật Tân khá lắm. Nhà văn Nguyễn Tuân
hay ăn trưa bên ấy.
Lát sau, bác loong toong cầm về một bọc giấy bóng mở ra, đặt
bốn chiếc bánh xốp lên cái khay khảm, bên chén và ấm chè. Cả ông Khánh chủ nhà
in cũng sang uống nước. Rồi anh hỏi tôi đủ mọi chuyện.
Thế là anh đã biết tôi là người đương bán hàng hiệu giầy phố
Hàng Đào gần đây. Nhà tôi trên Bưởi, đi làm tôi vẫn qua đầu phố này. Tôi thích
viết văn. Tôi thích đọc truyện tiếng Pháp, vừa đọc vừa học.
Tôi chỉ nhớ cảm tưởng anh đã biết thật rõ về tôi và có lẽ anh
thương tôi. Bởi khi tôi ra về, anh nói:
- Anh đừng phải vào thư viện, nhà tôi có một thư viện nhỏ, nhỏ
cũng đủ cho anh thừa sức đọc. Tôi sẽ bảo anh đọc cho có phương pháp. Chủ nhật
này xuống nhà tôi nhé!
Nhà anh Phan ở dưới ấp. Xuống xe điện cổng chùa Đồng Quang rồi
rẽ vào. Chỉ tạt vài bước ra đường Ngã Tư Sở ồn ào, vào đây đã ra quang cảnh
thôn trang êm đềm. Những bụi tre, hàng rào ô rô dọc bên bờ kênh dài, nước phẳng
lặng, cuối xa nhìn lúa cánh đồng Láng.
Ngôi nhà ngói cổ giữa khoảng vườn râm mát. Một tầng xép cửa sổ
trông xuống vườn. Ngôi nhà hương hỏa của cụ thân sinh anh để lại, anh kể trước
kia đây là nhà tiến sĩ Dương Khuê, người Vân Đình. Chỉ một câu ấy, tôi đã
mê... “Bác Dương thôi đã thôi rồi. Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta...”.
Những câu thơ mà lứa tuổi tôi cắp sách đến trường ai cũng thuộc lòng. Nơi đây,
xưa kia cũng như bây giờ, liên quan đến ý tình, tâm sự các danh nhân. Riêng tưởng
tượng như thế cũng đã cảm đượm một vẻ thơ mộng mơ màng thế nào rồi, mặc dầu
cũng chỉ là ngôi nhà cũ kỹ, vườn cây nho nhỏ, nhiều lần anh Phan, chị Phan chỉ
cho tôi những cây hoa quỳnh, đỗ quyên, đỗ quyên Nhật cánh tim tím và những cây
gì nữa, tôi không thể nhớ mà chỉ nhớ khoảng vườn và nếp nhà thanh bạch và ngay
bên kia bờ rào ruối lưa thưa là nơi xưởng xe đay, đập nứa, người ta lao lực cởi
trần đánh thừng đánh chão bán đứng bên này thấy rõ mồn một.
Anh Phan, chị Phan vốn hiếu khách. Chỉ để ý khách đến chơi
cũng có thể thấy ra được bóng thời thế qua số đông trong tầng lớp trí thức, nhà
báo, nhà văn vào thời kỳ căng thẳng trước và sau đảo chính Nhật.
Những bè bạn nhà anh Phan, đến bây giờ, kẻ khuất người còn,
nhưng hầu hết đã như anh chị, cùng nhau bước vào chặng đường sóng gió nhất của
sự nghiệp đất nước trong thế kỷ. Các anh Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Nguyễn
Tuân, Mạnh Phú Tư, Đoàn Phú Tứ, Xuân Diệu, Huy Cận, Đỗ Đức Thu, chị Vân Đài, chị
Lê Thị Xuyến... Một số tờ báo mà anh cộng tác đương lung lay, rồi đình bản như
tạp chí Pháp Việt của E. Babuýt, một người Pháp có xu hướng Đờ Gôn, anh Phan
đem về những quyển sách gáy dày cộp, nói của Babuýt gửi. Babuýt lo có thể bị Nhật
bắt. Một hôm, anh nói nho nhỏ: Babuýt bị Nhật bắt rồi. Tôi cũng đã biết mặt
Babuýt ở một cuộc mít-tinh trong nhà kỷ niệm Quốc khánh Pháp năm 1939. (Sắp Chiến
tranh Thế giới lần thứ hai. Chính quyền thành phố không cho phép tổ chức
mít-tinh lớn như ở khu Đấu Xảo năm trước).
Babuýt đại diện chi nhánh đảng Xã hội Pháp ở Hà Nội.
Văn Tiến Dũng phát biểu (bằng tiếng Pháp) thay mặt các hội ái
hữu thợ thuyền. Nhưng tôi im lặng nghe anh kể. Như chưa được trông thấy cái ông
Babuýt râu tóc lụ khụ ấy bao giờ.
Khách đến nhà anh Phan hầu hết là nhà văn và các bạn của anh
chị cũng lắm cung cách, lứa tuổi và kiểu sinh hoạt khác nhau. Nhưng với ai, anh
Phan, chị Phan cũng vui bạn đến nhà, anh Nguyễn Công Hoan dạy học ở Lào Cai, ở
Móng Cái, ở Thái Bình, thỉnh thoảng về ở chơi cả tuần, anh Mạnh Phú Tư gặp khó
khăn việc vợ con, anh chị giúp đỡ đến nơi đến chốn. Bạt tử như Lưu Trọng Lư vẫn
là bạn đến nhà được. Hà Nội tân văn của anh Vũ Ngọc Phan in tiểu thuyết từng kỳ
truyện Chuyến tàu định mệnh của anh Lư. Hồi ấy, các nhà văn đã có tiếng khi viết
truyện dài thường chỉ viết từng đoạn, đưa báo in dần, có lúc viết từng kỳ như
Thiếu quê hương của anh Nguyễn Tuân. Báo Hà Nội tân văn in Chuyến tàu định mệnh
được vài kỳ, tác giả viết nối đoạn kết rồi bán cho Nhà xuất bản Cộng Lực với
cái tên tiểu thuyết Em là gái bên song cửa. Nhà Cộng Lực kiện báo Hà Nội tân
văn in quyển sách mà tác giả đã bán bản quyền cho mình. Tôi đã theo anh Vũ Ngọc
Phan hôm phải ra tòa. Trạng sư Phan Anh cãi cho báo Hà Nội tân văn, rất hăng.
Anh Phan thua kiện phải nộp phạt một đồng bạc và thôi không
được đăng tiếp Chuyến tàu định mệnh nữa.
Anh Phan bảo: “Anh Lư nhắn tôi: Cái thằng Cộng Lực kiện
láo, sợ gì nó. Đoạn cuối Chuyến tàu định mệnh tôi viết cho báo của anh khác
sách bán cho nó cơ mà.”
“Nhưng thôi...” Giọng anh nhẹ nhàng, anh cũng chẳng để
tâm giận anh Lưu Trọng Lư.
Ai người thế nào, một khi đã vào qua cái vườn xinh xắn, lên
thềm ngôi nhà nền nếp, thì dẫu cho áo quần lôi thôi lếch thếch, người bã ra vì
rượu, thuốc phiện, vì bao nhiêu đêm thức trắng, thì những câu chuyện văn chương
thanh lịch ở đây cũng đưa anh vào công việc nghề nghiệp và những ước mơ sạch sẽ
trở lại.
Thế mà, anh Phan không phải là người hiền lành đâu nhé! Anh
nói anh chưa thành nhân vật trong tiểu thuyết Bốc đồngcủa Đỗ Đức Thu tả chân một
số văn nghệ sĩ chơi bời, vì tác giả nể anh, mà ngại đấy, anh bảo cho tôi biết
các nhân vật Tịnh là Nguyễn Tuân, Văn là Mạnh Phú Tư, và Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức
Thu... là nhân vật nào trong Bốc đồng. Tôi đến nhà in phố Hàng Buồm, anh bảo tôi: “Thiết
Can vừa ở đây ra, bị Nguyễn Doãn Vượng đón đánh. Tôi phải ra, nó mới thôi đuổi
đánh Thiết Can. A đừng có đụng đến tôi. Mác sen Hàng Bạc, Hy Chả Cá bạn tôi cả.
Tôi sẽ bảo chúng nó nện cho biết tay. Không hỗn được với tôi”.
Có lần anh kể:
- Anh ạ, một đêm tôi đi hát cô đầu với mấy tướng ấy. Khuya về,
thấy Hằng Phương vẫn đứng đợi cửa. Từ đấy, mình thôi.
Rồi anh cười, vẻ lịch lãm.
Thật ra, những câu chuyện làng văn, làng báo ở trên, phần nhiều
tôi cũng chỉ nghe anh Phan chị, Phan kể lại. Tôi chưa được quen các đấng ấy và
chưa được có cơ hội để khoác lác với bạn: Mình mới đứng nói chuyện với nhà văn
Giáp, mình vừa bắt tay nhà văn Ất, con người tôi lúc ấy tương tự năm xưa. Ở Sài
Gòn, Vũ Bằng viết hồi ký về nghề làm báo, khi chợt nhớ đến tôi anh đã chụp ảnh
cho tôi một dòng - “Cái anh chàng mặt non choẹt, uống nước lã cũng say”.
Tôi cũng không đủ gan học đòi các cha Đinh Hùng. “Giannin
Lệ Thủy” Trần Hồi, cả bọn thường ngày ngày cất công kẽo kẹt đạp xe hàng một
theo từ trường về nhà, thành cái đuôi dài dài sau xe của các nàng tiên Hằng em
chị Phan. Bọn này muốn vào làm quen với nhà anh Phan bằng chết, mà không dám.
Chúng nó đâm ra tức tôi, chửi tôi, gán cho tôi...
Nhưng tôi đến với anh chị, là người trong nhà.
Lắm khi có khách anh chị xuống tiếp mình tôi ngồi lại giữa
gian sách chất ngất. Tôi thường ăn cơm thêm đũa thêm bát, rau muống, đậu rán,
tương ngon. Có gì đâu mà vẫn nhớ. Tôi cũng xấp xỉ bằng trà bằng lứa với những
Bê những Tuân, những Hoàng và các em xinh xắn vừa hiền vừa hóm, nhiều em đã
cùng cha mẹ lên chơi nhà tôi trên Nghĩa Đô. Khi anh Phan, chị Phan làm Nhà xuất
bản Hà Nội, một trong những sách đầu tiên của nhà xuất bản in là tập hồi ký Cỏ
dại, tôi đã đề trang đầu “Tặng đàn thỏ bạch trang Vũ gia” ấy.
Bởi vì, tôi đến nhà anh để học. Đầu tiên, anh Phan đưa cho
tôi quyển Đỏ và đen của Stăngđan, anh bảo:
- Đỏ và đen là mẫu mực tiểu thuyết Pháp thế kỷ 18. Anh phải đọc
kỹ!
Tôi đọc chẳng hiểu mấy. Có lẽ vì nhiều chữ khó, phải tra từ
điển luôn tay, mất thú, anh đưa tiếp theo kịch Con chim xanhcủa Mateclinh in khổ
lớn trên tạp chí sân khấu Jnluýtxtraxiông. Tôi vừa đăng truyện ngắn Mê con gái
(Con gà mái ri) trên báo Chủ nhật của Tự Lực văn đoàn, anh bảo: “Có thể
cái kịch thần tiên này gợi ý nhiều cho anh về viết truyện loài vật”. Một hôm
khác, anh cho tôi xem tiểu thuyết của Panait Istrati - nhà văn gốc Rumani, xuất
thân làm cu li cảng, viết về những người cùng cực ở các cửa bể Địa Trung Hải, Hắc
Hải..., anh Phan dặn: “Truyện của tác giả này gần với truyện của anh. Phải
đọc thật kỹ”.
Năm này qua năm khác, tôi đến nhà đều đặn. Tôi trả sách, anh
đưa sách mới. Dặn cách đọc, cách chú ý.
Anh chị kể cho nghe chuyện làng văn, làng báo. Mọi việc đọc
và viết của tôi suốt thời gian ấy đều theo kiểu học trò cắp sách đi học như thế.
Và đôi khi tôi giúp anh ghi “phích” để anh soạn bộ Nhà văn hiện đại.
Anh Vũ Ngọc Phan in cho tôi liên tiếp nhiều truyện ngắn, truyện
cổ tích, phóng sự lên báo Hà Nội tân văn. Anh đưa nhuận bút cho tôi. Những tờ
giấy bạc quấn băng, chữ viết cẩn thận, nắn nót ghi số tiền và tên tôi được viết
có chữ “Ông” trên đầu. Truyện ngắn Nước lên được năm đồng. Năm đồng ấy
là cây gậy thần của ông Bụt Vũ Ngọc Phan cho tôi. Tôi hô thần chú, lập tức thấy
nó hiện lên bộ “phô tuýtxo” thứ vải rẻ tiền may quần áo tây, nhưng bền.
Lại đôi giầy vải trắng. Mới chỉ hết có hơn ba đồng, mà tôi đã trút được cái áo
dài chéo go thâm và đôi guốc mộc. Lại còn tiền mua cân kẹo sìu về chia cho cả
nhà. Lại còn mua cho em gái tôi cái vòng huyền. Mà cũng vẫn còn tiền. Trời ơi!
Thế thì tôi còn đi bán hàng cho hiệu giầy làm gì nữa? Ngày cuốc
bộ hai buổi từ trên Bưởi xuống, đến cửa hiệu, giờ giấc không chệch một phút, từ
lúc rỡ cánh cửa mở hàng. Tháng được lương sáu đồng, chia ra, một tuần lễ lĩnh
hơn một đồng bạc, trong khi vào lúc bấy giờ mỗi đêm tôi có thể khoắng xong một
cái truyện ngắn ngon ơ. Thế là tôi vào nghề văn.
Anh Vũ Ngọc Phan chủ bút Hà Nội tân văn cũng chỉ là người làm
công cho nhà tư sản Vũ Đình Dy, chủ báo Éppho tiếng Pháp và tuần báo Hà Nội tân
văn. Tới khi phát-xít Nhật càng dính sâu vào Đông Dương, thì nhà trí thức cơ hội
này đổi màu. Tờ Hà Nội tân văn anh Vũ Ngọc Phan cáng đáng không đáp ứng - có
nghĩa là không tán thành chủ trương và thái độ Vũ Đình Dy. Thế là chủ báo không
bỏ vốn ra nữa. Báo chết. Sau Vũ Đình Dy theo Nhật sang Chiêu Nam (Singapo) với
Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc.
Nhà anh Phan, chị Phan khó khăn nhất vào thời kỳ này. Nhưng
trình độ nghề nghiệp, phong thái nền nếp, cách làm việc chu đáo của anh khiến một
nhà xuất bản lớn, nhà Tân Dân, đã ký hợp đồng in trọn bộ năm quyển Nhà văn hiện
đại của anh. Cũng khi ấy, nhà Tân Dân chủ trương loại sách “Truyền bá” cho
thiếu nhi, anh Vũ Ngọc Phan giới thiệu tôi viết. Có lần anh Nguyễn Công Hoan
cũng kể anh mách nhà xuất bản mời tôi viết “Truyền bá”, vì “tôi đọc
thấy văn của cậu tinh nghịch, trẻ con chắc thích”. Sinh thời hai anh, chưa bao
giờ tôi hỏi lại việc đó. Bởi tôi tin là cả hai anh đã giới thiệu tôi, anh Phan
tìm việc cho một bạn trẻ bấy lâu anh chăn dắt, giúp đỡ, anh Hoan yêu văn tôi dí
dỏm - khi ấy tôi cũng chưa được quen anh Hoan.
Bây giờ thoạt nghe thấy nhuận bút một cái truyện ngắn hồi ấy
mà mua được nhiều thứ như thế, có vẻ dễ dàng, dễ chịu quá, thế nhưng viết văn
cho kiếm được miếng thời kỳ này chẳng dễ chút nào. Chợ búa buôn văn bán chữ
theo luật cung cầu thị trường. Quyển sách in ra, mà cả năm vốn chưa quay vòng lại
được, thì anh hãy lỉnh đi, chớ vác mặt lại nhà xuất bản ấy nữa. Bởi vì thế là
anh đương làm sạt nghiệp người ta. Ngòi bút phải múa may thế nào cho có được
người đọc bỏ tiền ra mua. Cả trăm nghìn người viết thời ấy, bây giờ còn lại mấy
ai. Phải khác thường ngay lập tức, Nguyễn Công Hoan với những truyện ngắn có một
không hai. Thanh Tịnh - Quê mẹ. Nguyên Hồng - Những ngày thơ ấu và Bỉ vỏ, Thạch
Lam với Cô hàng xén, Đỗ Đức Thu truyện vừa: Ba, Bùi Hiển: Nằm vạ... Và Nam Cao.
Mở đầu đã phải có giọng điệu không lẫn với ai. Phải thế mới mọc mũi lên được ạ.
Anh Vũ Ngọc Phan giúp tôi hiểu cái vất vả và công phu ấy, anh
làm cẩn thận mà hồn nhiên, tự nhiên. Tập truyện ngắn O Chuột in trong tủ sách
Những tác phẩm hay nhà Tân Dân, Vũ Ngọc Phan đề tựa, anh cầm bản thảo, và nói:
- Anh viết cả loạt truyện loài vật thế là được, phải viết
hàng loạt cho nổi hẳn. Tôi đề tựa, tôi “lăng xê” anh.
Anh nói, thích thú, sảng khoái như một công trình của anh vừa
xong. Khen chê của anh, cũng như sự kèm cặp, tình nghĩa và nghiêm, anh Phan bảo
tôi đến học công việc làm báo với nhà in. Tôi được cái sẵn tính chịu khó, tỉ mỉ,
anh chỉ tôi cách chữa bông bài, để ý những khâu nối tiếp của bản thảo với sắp
chữ, với sửa bài. (Ngày trước, bài đưa thẳng nhà in, ít đánh máy, thợ chữ cầm
trang bản thảo mặt sau tờ giấy bị bẩn mực cho nên có thể lệ bản thảo viết một mặt).
Cả chữ ký của tôi bây giờ cũng là tôi ký theo kiểu của anh. Thoạt đầu dấu chấm
chữ i sau cùng, tôi đưa loăng quăng lên trời bắt chước “đài mây” của
Xuân Diệu. Rồi tôi thấy anh ký rõ ba chữ Vũ Ngọc Phan nghiêng nghiêng với cái gạch
dài ở dưới. Tôi cũng ký chân phương hệt thế cho đến ngày nay. Chỉ khác, tôi viết
ngang dòng.
Mùa thu 1944, tôi bị bắt vì hoạt động Văn hóa Cứu quốc. Được
thả ở Nam Định về, tôi xuống nhà anh chị Phan. Trông thấy cái đầu trọc lốc của
tôi, chị Hằng Phương rơm rớm nước mắt. Anh Phan thì lặng im. Tôi lại được ăn
cơm trưa trên gác làm việc của anh chị như mọi khi. Cho đến lúc về, chị Hằng
Phương hỏi nhỏ:
- Thế có nguy hiểm không?
Dễ thường anh chị muốn bảo tôi nên tránh ở đây ít lâu chăng.
Tôi cười và thưa:
- Tôi đã về nhà rồi, chẳng có gì lo anh chị ạ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét