Những gương mặt 1
Chân dung văn học
MỘT LỚP NGƯỜI
Những điều ấy khác nhau như mưa với nắng, hoàn cảnh người cầm
bút hôm nay với người cầm bút chúng tôi ở lứa tuổi thanh niên. Chúng tôi, những
cánh bèo vật vờ. Có thể phơi phới ra biển khơi mênh mông. Có thể dạt lên khô
héo trên bờ cát.
Ngày nay, lớp lớp các bạn lớn lên, phát triển giữa cuộc sống
không phải chỉ bằng vào mong ước, mà ở ngay trong tổ chức, trong đội ngũ.
Ví dụ đơn giản, một nét lớn, nét chung về cuộc đời một cây
bút ở lớp người cầm bút trẻ. Bạn ấy tốt nghiệp nhà trường phổ thông, trường
trung cấp hay trường đại học. Rồi vào thực tế đời sống: đi bộ đội. Vừa qua chiến
đấu chiến trường B, chiến trường C, bây giờ trên biên giới hải đảo, hoặc đi làm
nhiệm vụ quốc tế bên Lào, bên Căm-pu-chia. Hoặc bạn ấy làm công nhân ở nhà máy,
ở xưởng, ở cơ quan, ở công tác nào mà xã hội đòi hỏi và bạn có chuyên môn.
Trong khi ấy, bạn thích viết văn, làm thơ, tự rèn luyện rồi viết thử, rồi ham
mê dần và viết ngày một khá hơn. Đã lác đác có bài in trên báo, đã có tác phẩm
xuất bản. Rồi thì vẫn cảm thấy chưa đủ tri thức cho người viết, bạn đi học lớp
báo chí, lớp chính trị, lớp viết văn, những việc cần để bổ túc cho nghề mà bạn
say mê.
Nét chung ấy đang thấy ở những người cầm bút có triển vọng
hôm nay. Chế độ tạo ra điều kiện, không phải chỉ cho một ai, mà cho cả một lớp
người, một thế hệ. Thật khác chúng tôi ở tuổi ấy trước kia. Không biết có phải
người có tuổi thường hay vui buồn nặng về kỷ niệm hay không, nhưng nhìn lại đời
văn của một lớp người không bao giờ tôi quên được những hiu hắt, những chua
xót, những nỗi niềm, những mong chờ dường như vu vơ.
Tôi có biết ít nhiều về nhà văn Nam Cao, từ quãng 1940 cho tới
1951: ngay trước ngày anh hy sinh năm 33 tuổi trên đồng bằng sông Hồng, thì khi
ở Nghĩa Đô làng tôi, khi ở Đại Hoàng quê anh, khi Hà Nội hay trên Việt Bắc, chúng
tôi thường ở cùng nhau.
Chúng tôi cũng mang khá đủ tính nết và tâm tư thường thấy
trong lớp người túng bấn mà có chút chữ nghĩa ở xã hội ấy. Dân nghèo ở chợ
không coi chúng tôi là những người khố rách áo ôm như họ. Mà cũng không muốn bị
khinh rẻ thế, chúng tôi cũng không có tính nết của những người khốn cùng ấy. Những
nghĩ ngợi trong đầu óc chúng tôi khó đọng lại một cái gì là khẳng định. Tầng lớp
trên nhìn chúng tôi là những kẻ mà họ xỉa tiền ra, có thể gọi dạ bảo vâng được.
Mặc dầu, có khi âm thầm vắt tay lên trán mà nghĩ nước đời đến nông nỗi ấy chúng
xấu hổ, tủi nhục. Đối với xã hội cứ vừa nhìn ra cái bất công lại vừa loạng quạng
mơ hồ. Lẫn lộn thấy và không thấy. Rồi thì tâm trạng vẩn vơ, quẩn quanh và cúi
mặt. Rồi thì vừa bực bội, vừa buồn thương. Ở những người nào đó có được đôi
chút niềm tin và mong ước, có thể anh ta đã biết bực bội và chán chường không
phải chỉ đối với thời thế, mà cả với chính mình.
Nam Cao lớn lên trong một gia đình khá giả bị sa sút. Nhà anh
gốc quê, nhưng ra làm ăn ngoài tỉnh khấm khá nên dọn cả ra tỉnh. Bố anh buôn gỗ
và có cửa hàng đồ gỗ tiện ở thành phố Nam Định. Nhưng rồi ông rượu chè, cờ bạc.
Tiền kiếm được không lại với ăn tiêu, cơ nghiệp cứ xuống dần. Rồi qua một vài
chuyến buôn bán thua lỗ, bị mối lái lừa đảo, đâm khánh kiệt.
Bố anh phải bán cả cửa hiệu, trở về làng, nghèo khó hơn trước
và tất nhiên trong nhà lục đục hơn trước. Cứ trông cuộc đời mấy anh em nhà Nam
Cao cũng có thể vẽ ra quang cảnh nhà anh và xã hội đổi thay thế nào. Nam Cao,
anh lớn nhất, được học đến tốt nghiệp tiểu học lên bậc thành chung, mười một
năm. Các em trai anh thì không biết cửa trường học ở đâu. Người thì gồng thuê
gánh mướn, sống đời cố nông. Người đến tuổi, đi sở mộ vào Nam kỳ làm phu cao
su. Riêng có người em trai út, năm 1945 mới là thiếu nhi, đến 1954, khi hòa
bình lập lại, được đi học thành kỹ sư.
Nam Cao kể với tôi khi anh đã lớn, biết rõ việc nhà, anh rất
ghét bố anh. Tất nhiên ghét theo cách lặng lẽ của Nam Cao. Bây giờ ông cụ mất
đã lâu.
Nhưng tôi tưởng ngay cả lúc sinh thời, cũng không bao giờ cụ
biết được có lúc người con cả của cụ lại nghĩ về mình như thế. Ghét bố, bởi chỉ
vì bố mà gia đình phải tay không về làng. Vì bố mà các em anh không đứa nào biết
mặt chữ. Vì bố mà... bao nhiêu tội lỗi ở cái nhà này đều vì ông ấy cả. Có lúc
anh đương cười to, chợt nhận thấy hình như mình có cái dáng vừa cười vừa giơ
tay, bố anh cũng hay cười và giơ tay thế. Nam Cao cố chữa cho không cười và giơ
tay giống vậy. Nam Cao cực ghét người đánh bạc và không biết cờ bạc là gì. Nam
Cao kiểm lại những cử chỉ, cách sinh sống, cái gì có thể giống bố, nhất định
làm khác. Nhưng ngẫm nghĩ, rồi lại thương. Ông ấy phá, ông ấy làm ra, rồi ông ấy
phá, công của ông ấy chứ nhà này ai đẻ được đồng tiền nào mà căm ghét gì ông ấy.
Thế là lại thương, thương bố, thương mẹ, thương bà nội, cụ ngoại sống lâu quá,
thương vợ, thương thân, thương những người đã cùng túng lại cứ cằn nhằn cấu xé
làm khổ nhau trong cái bể khổ đầy vơi khắp thế gian này.
Cứ giận dỗi lại xót xa, lại hối hận như thế.
Nam Cao lấy vợ được chưa đầy một năm thì anh đi Sài Gòn. Cũng
chẳng có mục đích gì mà đi. Duyên do vì ông Lễ, một người cậu họ có cửa hàng
may đồ Tây ở trong ấy. Ông cậu muốn có một người nhà vừa sổ sách, vừa tay hòm
chìa khóa, thế là ông về mang cháu đi.
Cũng không phải chàng thanh niên này thất tình, thất chí gì
đâu. Vợ chồng lấy nhau do cha mẹ gả bán từ khi còn ít tuổi, theo phong tục
thông thường thời ấy. Cũng khó khăn đôi chút, vì chị ấy người bên lương, nhà
anh đi đạo, nhưng họ đạo xôi đỗ mà anh thì tự nhiên đã nhạt đạo nên rồi cũng nên
vợ chồng. Năm ấy, anh ốm, không thi hết bậc học thành chung ngoài Nam Định được,
đến năm ở Sài Gòn về, anh thi mới đỗ. Vợ anh thì chỉ như đứa con gái được mua
bán đem về nhà để cha mẹ anh sai bảo. Với anh, mọi ràng buộc riêng tư chẳng
thành vấn đề cản bước anh đi. Làm đời trai thử bay nhảy xem sao. Thế là đi.
Hơn hai năm trời ở Sài Gòn anh làm việc chí thú như mong muốn
của người cậu: sổ sách, xuống tầu Tây cảng Nhà Rồng đo quần áo cho khách hàng
và trông nhà. Nhưng cũng không phải anh chỉ bằng lòng và yên ổn sống như thế,
anh cũng chút ít tìm ra ngoài xã hội.
Anh vào tráng đoàn hướng đạo. Một hôm, đoàn anh đi cắm trại ở
Lái Thiêu. Mỗi tốp chia nhau ra chơi trò thỏ rùa, bịt mắt bắt dê... Sau đó về,
từ đấy, anh không đến với đoàn nữa. Bao nhiêu năm rồi kể lại mà anh vẫn không
nín được cười: thằng con trai to đầu đến độ có vợ rồi mà lại còn đi chơi trò trẻ
trâu ấy làm gì! Anh cũng đến báo Kịch Bóng, xin được cái thẻ làm phóng viên. Rồi
có lần phóng viên Kịch Bóng chưa viết được bài nào, cũng đi Nha Trang bằng tiền
túi của mình dành dụm được.
Những hoạt động của phong trào Bình dân hồi 1935, 1937 sôi nổi
khắp thành phố và ngay cả quanh anh ở hiệu may đồ Tây trong ngõ hẻm Chợ Cũ. Đêm
đêm và buổi trưa anh nằm ngủ trên mảnh ván ghép kê dưới gầm chiếc bàn cắt to đặt
giữa nhà. Quanh bàn và cả trên mặt bàn, những câu chuyện hào hứng về đình công,
về biểu tình, về hội ái hữu, về nghiệp đoàn Đông Dương miên man đêm ngày không
lúc nào ngớt. Ông Ngôn, cậu ruột anh khác ông Lễ cũng là tay hoạt động hăng hái
trong ái hữu thợ may.
Nam Cao ngủ dưới gầm bàn, anh không để ý và cũng không ai để
ý anh. Có thể có bạn nào nghiên cứu về Nam Cao sẽ nghĩ ra đại loại những câu hỏi:
thế thì vì động cơ gì mà Nam Cao lại không tham gia phong trào chính trị lúc ấy
rầm rộ đến thế. Tôi thì tôi chịu không cắt nghĩa được. Bởi tôi không thể nào
tìm được vì cái gì cả. Nhưng, nếu thế, tôi xin hỏi ngược lại: vậy sao anh lại dửng
dưng trước tài hùng biện của tờ-rốt-kít Tạ Thu Thâu, hầu như chủ nhật nào cũng
diễn thuyết ở “bùng binh” chợ Bến Thành náo nức Sài Gòn?
Vâng, chỉ có điều dễ hiểu là lúc ấy anh chưa để ý, vậy thôi.
Thời cơ chưa đến với tâm tư con người ta.
Mấy năm sau, khi cậu Ngôn bị mật thám Pháp truy lùng và ông ấy
bị trục xuất về nguyên quán vì những hoạt động dính líu đến Nam Kỳ khởi nghĩa.
Tôi được làm quen với ông Ngôn ở Đại Hoàng. Hồi ấy, những câu chuyện ông kể cho
chúng tôi nghe về Tây đốt làng, Tây xâu dây thép vào tay người ném xuống biển,
Tây bắt ông ấy... Hình ảnh ông Ngôn tham gia “cuộc phiến loạn ở Nam Kỳ” rồi
bị xích tay giải về làng, lại đi làm thuê làm mướn như những ngày nghèo khó năm
xưa, hình ảnh ấy đã xúc động Nam Cao nhiều. Nam Cao rất phục ông Ngôn. Trong cuộc
đời và trong sáng tác của Nam Cao, tôi nhận thấy qua trò chuyện và ao ước của
anh, cậu Ngôn là một hình ảnh sâu sắc mà chưa khi nào anh viết tới, tôi tin có
những ảnh hưởng quyết định tới công việc tham gia hoạt động sau này của Nam
Cao. Nhưng Nam Cao đã mất sớm, không biết kháng chiến ở vùng giải phóng khu du
kích Đại Hoàng ông Ngôn bị bắt trong chỉnh đốn tổ chức và bị chết oan.
Hoàn cảnh và tâm sự con người ta thường éo le, khúc khuỷu, nổi
chìm như thế.
Rồi cái hào hứng đi cho biết đó biết đây của Nam Cao bỗng biến
thành một ân hận suốt đời. Ở Sài Gòn, anh ốm đến phù nề chân tay và phải trở về
Bắc.
Một hôm, ngồi ăn cơm ở nhà, anh chợt để ý thấy bàn tay vợ rám
nắng. Tôi nghĩ có khi bàn tay người làm đồng nắng mưa vất vả, dù ở tuổi con gái
cũng bị rám nắng như thế từ đời thuở nào rồi, nhưng mà cái bệnh lo nghĩ của
anh, anh rất cả lo, lan man lo, đã khiến lúc ấy anh thương vợ và anh giận anh đến
thế.
Anh ân hận làm sao anh lại ngu dại đến bỏ đi Sài Gòn để đến nỗi
bây giờ hai bàn tay người vợ yêu thương của anh đã nhăn nheo cả rồi anh mới về
- tuổi thanh xuân và tình yêu đã qua đi, đã mất rồi, không bao giờ trở lại,
không bao giờ vợ anh lại có được bàn tay của người đương xuân.
Bàn tay đẹp không bao giờ anh được thấy đã từ ám ảnh trở
thành ước mơ. Cái đầu đề truyện ngắn Bàn tay đẹp ấy của Nam Cao in báo Quân du
kích ở Việt Bắc viết về một cô du kích ở hậu địch đồng bằng sông Hồng có hai
bàn tay đẹp cầm súng, không có gì khác là ở nơi xa xôi nói được một câu về nỗi
ao ước ngày trước của mình.
Trong sáng tác, Nam Cao thường viết rất thật - sự thật thông
qua sức mạnh sáng tạo của anh. Đọc sáng tác nào của anh, tôi cũng có thể tìm ra
và đoán được chuyện này anh thấy ở đâu, anh nghe ai kể, nhân vật ấy là ai. Khi
viết xong tiểu thuyết Chết mòn 1 Nam Cao hay nói đùa: “Bao giờ những
người trong tiểu thuyết này chết đi, mình mới đem in được sách. In bây giờ thì
không dám nhìn mặt ai nữa!”. Nói huếch thế chứ tiểu thuyết Chết mòn dài mấy
trăm trang, vào thời buổi khó khăn 1943, 1944, cũng chẳng nhà xuất bản ma nào hỏi
đến.
Chỉ có mỗi nhân vật hay trở đi trở lại trong các tác phẩm của
anh thì hoàn toàn anh tưởng tượng. Mà tưởng tượng cũng đơn giản thôi: chỉ việc
làm ngược lại. Đó là vai “vợ” của các nhân vật thường xưng “tôi” trong
truyện ngắn của Nam Cao. Khi nào người vợ ấy cũng nanh ác, lắm điều, luôn miệng
rin rít chửi con, dọa đánh chồng, còn chồng thì sợ vợ một phép. Trong cuộc đời
vợ chồng, chị ấy đối với anh, hiền như bóng.
Nhưng sáng tác, anh tưởng tượng nghịch ngợm khác đi, “vợ” tác
giả thành dữ, thành ác. Có phải có vợ quá hiền cũng buồn, cũng muốn vợ lắm điều
đôi chút, cuộc sống hằng ngày đỡ tẻ hơn chăng? Nhưng nghĩ cho cùng thì lúc nào
con người và tình cảm anh cũng đượm buồn thương và một tấm lòng chân thành, thực
như đếm được. Chúng tôi thường túng chuyện viết. Tháng nào cũng phải có truyện
ngắn, truyện dài nộp cho báo và nhà xuất bản thì mới được người ta chi tiền.
Khan cái để viết đến nỗi chúng tôi phải đi bói thày bói Kế đương có tiếng ở Nam
Định, rồi về Nam Cao viết lại thành truyện ngắn tả quang cảnh và lời thày bói
đã nói tốt thế nào cho anh và người xem bói, anh chỉ sáng tạo ra có cái đuôi
khi viết thành truyện ngắn: thày bói vừa nói tốt số xong, ra khỏi vỉa hè, người
xem bói bị ô tô chẹt chết. Túng đến nỗi có lần anh phải lấy chuyện Kinh Thánh
ra viết phỏng theo thành truyện cho trẻ em đọc. Như truyện Bảy bông lúa
lép 2 . Tôi cũng đã tìm báo Nam Phong xem bài của
người ta nghiên cứu về đình chùa rồi đem viết lại thành truyện cho thiếu nhi.
Cả đến trong những cuộc chơi, anh cũng chỉ biết thương người.
Hồi ấy, cuối năm lại cuối tháng rồi mà chẳng có gì để viết, một đêm chúng tôi cố
tình đi chơi bơ vơ một chuyến hóng cái viết. Nghe còi tầu hỏa trong đêm, tưởng
như đã gợi hứng rồi. Nửa đêm, từ Hà Nội xuống Nam Định. Không phải về quê, nhà
Nam Cao chỉ cách thành phố khoảng chục cây số. Chúng tôi đương giang hồ vặt mà.
Tìm chỗ ngủ, sục vào nhà trọ, nhà nào cũng chật khách. Chúng tôi đến nhà
săm 3 Đông Phương gần Bến Củi. Nhà này cũng chẳng
còn phòng trống. Đã trở ra cửa, nghe có tiếng người gọi lại: “Các anh ở tạm
phòng em vậy. Em đi ngủ nhờ nhà bạn cũng được”. Trông mặt cô em và câu mời với
cung cách bả lả nói cười trong đêm hôm khuya khoắt như thế, ả này ắt gái làm tiền
loại thuê tháng nhà trọ rồi đi kiếm khách hoặc có người bao.
Chúng tôi bằng lòng ngay. Rồi thì cô ấy cũng chẳng đi ngủ nhờ
nhà ai cả. Cô ấy cứ mở chăn leo vào nằm giữa hai chúng tôi. Đến nửa đêm tôi
nghe tiếng khóc ri rỉ bên cạnh đầu rồi tiếng Nam Cao rì rầm khuyên, can gì đó,
tôi cũng không thủng được câu chuyện đầu đuôi ra sao. Sáng ra, Nam Cao kể lại.
Giọng anh rất xúc động, anh hỏi chuyện tình cờ mà được biết
hóa ra trước kia cô ấy là em một người bạn anh ở Sài Gòn. Chẳng may yêu đương lỡ
dở rồi cuộc đời chồng con mấy phen đau đớn, rồi giận đời đen bạc, cô cắt tóc đi
tu, rồi sa chân lỡ bước đến đây...
Tôi thì tôi không tin. Bởi vì trong đêm tối có một lúc cô điếm
ấy đã quay sang cắn tai tôi. Nhưng trông nét mặt cảm động vẻ sùng đạo của anh,
tôi không đám nói. Trở về nhà tôi ở Nghĩa Đô, anh hì hục ngồi viết. Hồi ấy,
chúng tôi viết khá khỏe. Thường một truyện ngắn chỉ lia một mạch từ đầu chí cuối.
Một truyện dài trên trăm trang cũng dăm bữa nửa tháng thì xong.
Nam Cao viết được một truyện vừa lấy tên là Một đời người,
theo câu chuyện cô gái điếm đã kể đêm ấy ở nhà săm Đông Phương. Chỉ có một việc
bịa: anh đặt cho nhân vật chính một cái tên “đầm”, là cô Suy-gian.
Rồi đem truyện Một đời người bán cho Nhà xuất bản Cộng Lực,
được chủ xuất bản ứng trước cho tám mươi đồng. Cuốn truyện này rồi nhà xuất bản
đưa kiểm duyệt, bị bỏ. Lão kiểm duyệt Nguyễn Văn Chỉnh vốn là giáo học, nhắn
tôi - như tôi đã có dịp viết trong Tự truyện 4 : “Ông, bảo hộ tôi là cái ông Nam Cao
thâm lắm, ông chửi Tây bằng cách đặt tên Tây cho nhân vật rồi bắt nó đi làm đĩ.
Không được đâu!”.
Tám mươi đồng bạc hồi ấy không phải nhỏ đối với những người
giật gấu vá vai quanh năm như bọn tôi. Huống chi, Nam Cao còn vợ con nheo nhóc ở
quê, tháng tháng đợi chồng gửi tiền về đỡ đần.
Chiều hôm ấy, Nam Cao rủ tôi đáp tầu xuống Nam Định. Nhưng
cũng không phải anh về nhà. Tám mươi đồng bạc tiền bản quyền anh đếm ra năm
mươi đồng.
Anh đem năm mươi đồng về biếu cô gái điếm, cái cô mà anh cho
là em người bạn cũ của anh ở Sài Gòn - mà tôi nghi ngờ chỉ là câu chuyện làm
quà của cô điếm với khách làng chơi, mà anh thì thương xót, và anh nói nếu anh
sẵn tiền, anh sẽ đưa cả tám chục cho cô ấy.
Nhưng không gặp lại cô gái điếm. Tìm mấy nhà săm nữa cũng
không thấy. Nam Cao ân hận mãi về lần không gặp lại này.
Còn biết bao nhiêu chuyện tương tự như thế.
Những con người chúng tôi trôi dạt lúc ấy. Chúng tôi cũng
mang đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã hội, những ích kỷ,
ganh ghét nhỏ nhen, mọi thứ. Hỏi chúng tôi thích giàu có không? Thèm đấy, mà
không biết làm thế nào giàu được. Cũng bon chen, bon chen chứ, có khi chỉ vì
không ngóc lên được thì đâm ra chán chường, nhưng chúng tôi cũng thấy được xã hội
bất công. Những mơ hồ cứ dần dần bị bao nhiêu khủng khiếp của tình hình đất nước
và thế giới thời kỳ Chiến tranh Thế giới lần thứ hai và những hoạt động quyết
liệt của cả nước sửa soạn đứng lên - những sự kiện lớn lao ấy đã xóa đi cho
chúng tôi biết bao mịt mù. Chúng tôi đến được với cách mạng bởi phần tốt đẹp
còn có trong con người.
Những năm trước tháng Tám 1945, cách mạng chưa trở thành
không khí bao trùm đất nước một cách tất nhiên, như làn khí quyển bao quanh
trái đất, như ngày nay. Những người viết văn ở Hà Nội có thể chia thành từng loại:
1) Những người không biết thế nào là cách mạng, hoặc nếu biết
cũng ngoảnh mặt đi. Các bạn ấy muốn sống cho đã, chơi cho đã. Các bạn ấy muốn
yên thân, bởi làm cách mạng chẳng biết thế nào, dễ bị tội.
2) Những người cũng muốn thay đổi, nhưng theo đuổi những con
đường khác, anh tờ-rốt-kít, anh Đại Việt, anh Phật tử, anh Tin lành...
3) Có người được bè bạn thuyết phục, đọc sách báo bí mật giác
ngộ đường lối của Đảng cộng sản và gia nhập các đoàn thể Việt Minh.
Nam Cao là một trong những bạn vào loại thứ ba ấy của tôi.
Nhưng đó mới chỉ là bắt đầu. Chúng tôi mới chỉ bước tới, mà
trong mình vẫn mang theo vô khối thứ hành lý cũ lôi thôi. Từ đây về sau, trong
tinh thần, cuộc đời tư tưởng và ngòi bút của chúng tôi mới bắt đầu và mãi mãi đẩy
lên cuộc chiến tranh đưa công cuộc sáng tạo kịp với thời đại, đòi hỏi cao hơn,
mạnh hơn trong đời người cầm bút, khác trước kia.
Con đường đi tới của mỗi người không mảy may dễ dàng. Tôi
không biết nhiều về Trần Đăng như tôi đã biết Nam Cao trước kia. Tôi chỉ biết
Trần Đăng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, anh quê ở Đăm (xã Tây Tựu, huyện
Từ Liêm) là sinh viên. Những ngày khởi nghĩa lớp sinh viên các ngành này đã hồn
nhiên hăng hái đến với cách mạng và văn học cách mạng.
Các bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ (Tri Chơn), Nguyễn Sĩ Quốc (Minh Đạo),
Từ Giấy. Hồi ấy hành động biểu lộ tinh thần mạnh mẽ nhất là gia nhập Vệ quốc
đoàn. Rồi các anh dần dần đi sâu vào các ngành chuyên môn khác. Riêng có Trần
Đăng làm nghề cầm bút. Năm 1950, Trần Đăng hy sinh ở Bản Trại trên biên giới
phía Bắc. Đơn vị có phóng viên mặt trận Trần Đăng đi theo đã mắc mưu quân Quốc
dân đảng Tưởng Giới Thạch, trên đường bộ đội ta tiến lên đón Hồng quân Trung
Hoa xuống phía nam. Một số đồng chí trong ban chỉ huy tiểu đoàn và Trần Đăng đã
hy sinh.
Tôi còn giữ được một tập sổ tay của Trần Đăng gửi. Cuốn sổ bằng
bàn tay, sổ tay trong ba-lô chúng tôi đeo lưng thời kháng chiến không thể nào
to hơn thế.
Trần Đăng đã ghi đủ thứ trên đường đi, vào quãng từ tháng Tám
1948 tới tháng Giêng 1949 - mới chỉ năm tháng, mà rất rõ nét, những đấu tranh
trong tư tưởng và phong cách làm việc trong con người Trần Đăng. Cuộc đấu tranh
bằng hành động, ý thức rõ ràng dứt khoát của nhà văn chiến sĩ.
Có thể tóm tắt nhật ký ghi chép tài liệu của Trần Đăng thành
bốn phần như sau:
1. Trần Đăng luôn đi với các đơn vị chiến đấu - Mùa xuân
1948, theo bộ đội vào hậu địch Đông Bắc - vùng Ba Chẽ - Tiên Yên, anh bị phỉ bắn
bị thương một ngón chân. Nhưng khi trở về căn cứ, gặp một đơn vị lên biên giới
phía bắc, lại đi luôn.
Trần Đăng có thói quen vừa đi vừa viết trên đường. Trong chiến
dịch Biên giới Thu-Đông 1950, anh viết bài về chiến dịch Sông Thao 1949 (bút ký
Trận Phố Ràng), trong những ngày sắp đi hậu địch Đông Bắc, Trần Đăng viết bút
ký Một cuộc chuẩn bị (cũng về chiến dịch Sông Thao).
Trong quãng năm tháng, Trần Đăng đã đi các mặt trận, tháng
Tám đến Phủ Thông và Đào Lâm, mặt trận Bắc Cạn. Tháng Mười từ Việt Bắc về vùng
địch Sơn Tây, qua miền tạm chiếm ở Bến Rau rồi xuống đồng bằng khu Ba - vùng hậu
địch Ba Thá rồi vào Gián - Khuất.
Sống cuộc sống chiến đấu mãnh liệt, dũng cảm của người chiến
sĩ cầm bút.
2. Trần Đăng đọc rất nhiều - Đọc và ghi chép cẩn thận. Mỗi lần
Trần Đăng ghé về cơ quan, trước khi đi một chuyến mới, hoặc có lần bị sốt rét
phải nghỉ lại, Trần Đăng vẫn mê mải đọc.
Trong có năm tháng, Trần Đăng ở cơ quan báo Vệ quốc quân hơn
một tháng, đã đọc và ghi vào sổ tay: Sách báo ở chiến khu: báo Độc Lập, báo Văn
Nghệ. Phóng sự Chặt gọng kìm đường số 4. Chép bài thơ Viếng mộ của Hoàng Lộc.
Ghi những ca dao về Đồng Tháp Mười của Bảo Định Giang. Ghi các phong tục và bài
hát của dân tộc Tầy trong tập truyện ngắn Núi Cứu quốc của Tô Hoài.
Sách báo Pháp: báo Ngã tư tháng 12-1947, bài của Barjavel viết
về các nhân vật của E. Mauriac. Báo Khoa học và Văn nghệ Xô-viết bài của
Benjamin Goriely viết về chủ nghĩa nhân văn mới. Báo Nước Pháp trước đã, nhật
ký của A. Gide. Đọc các tiểu thuyết của W. Walenska (Ba Lan), Jozep Pot (Đức),
Ernest Renan, John Steinbeck (Mỹ), Curzio Malaparte (Ý), Jean Louis Curtis,
Gabrielle Roy, Piene Damino. Ngoài ra, không biết lấy ở sách báo nào, còn thấy
ghi nhiều câu của Jean Paul Sartre nói về chủ nghĩa hiện sinh. Một đoạn tin về
giá vàng, tính theo đồng franc, giá ở Paris, Hồng Kông, Sài Gòn.
3. Trần Đăng thường xuyên chép bích báo các đơn vị - Trần
Đăng chịu khó chép bích báo. Sổ tay có trên một trăm trang, thì 72 trang ghi
các bài bích báo đơn vị có thể lấy ra in hẳn một bài về các bích báo này, phản
ánh sinh động được thời kỳ đầu chiến đấu và sinh hoạt của quân đội. Trần Đăng
chép tỉ mỉ, kỹ lưỡng, đơn vị nào, ở đâu. Ngoài ra, còn những đoạn tóm tắt tổng
kết trận đánh các chiến dịch ở Trị Thiên, ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ năm 1948.
4. Trần Đăng luôn luôn chuẩn bị sáng tác - Trong tập sổ tay
nhỏ bé thế mà cũng đủ những ghi chép cho chuẩn bị sáng tác và suy nghĩ của nhà
văn. Trần Đăng ghi những chi tiết có đặc điểm quan sát được ở mặt trận, ở chiến
sĩ, ở những nơi đã đi qua, anh chép những từ lạ, từ mới đã nghe được hoặc đọc
thấy, anh ghi ý những bài dự định viết, có chỗ viết hẳn dàn bài một truyện ngắn.
Đôi chỗ, Trần Đăng ghi suy nghĩ và việc mình làm. Có chỗ rất
ngắn, nhưng thật nhiều ý nghĩa và tâm sự.
Ngày 15 tháng 10, Trần Đăng ghi một kế hoạch:
“Phát động thi đua 300 trang, à commencer (bắt đầu) tháng Hai
1949”.
Ngày 11 tháng 11, viết chữ to nửa trang, hai dòng giống
nhau: “Hôm may 11 tháng 11, 27 tuổi chẵn”.
Có một đoạn không đề ngày tháng, Trần Đăng viết:
“Đêm nay đọc một cuốn phóng sự dự thi Việt Bắc kháng chiến. Một
đêm nổi gió. Vẫn là tiếng gọi đi. Đi, trông, thấy. Đã bỏ qua những điều rất tầm
thường, nhưng rất sống. Không thể được. Không có tình cảm, không có xúc động,
không có tư tưởng chủ quan.
Trong rừng Yên Thế, Lúa mới 5 là những cái xác chết chủ quan. Chỉ có sống,
sống cái khách quan và kể lại.
Hãy khoan một tấm sơn mài. Hãy làm nhiều croquis cho thật
đúng hệt. Giản dị, thành thực và thật”.
(Một câu viết bằng tiếng Pháp): “Những tưởng tượng hoang
đường, những ám ảnh ma quái, những mơ tưởng nhân đạo hư không, những xúc cảm cá
nhân kiêu ngạo và đạo đức giả, những tro tàn ấy hãy tan biến hết đi”.
Tình cờ, lần ấy tôi đã gặp Trần Đăng ở Đông Bắc về, trước khi
anh lên biên giới và hy sinh ở Bản Trại trên đường Thất Khê ra. Kế hoạch sáng
tác của Trần Đăng mà anh đã phác vào sổ tay thành một công trình của cả một
giai đoạn như sau:
- Tập truyện ngắn tên là Bạn mới.
- Tập tiểu luận tên là Thư cho Tố Hữu (kinh nghiệm cách mạng
tư tưởng và sinh hoạt quần chúng).
Tập bút ký lấy tên chung là Tiền tuyến gồm ba phần:
Phần một: Xuân chiến thắng, có 3 bài: 1- Tất cả cho tiền tuyến.
2- Nhật ký của Phan Phú. 3- Một trận vui lớn trên đường số 4.
Phần hai: Sông Thao hè 1949, có 6 bài: 1- Đường đi Tây Bắc.
2- Dóm 6 I. 3- Một cuộc chuẩn bị. 4- Phố Ràng. 5-
Khe Pịa. 6- Tàn cuộc, Dóm II.
Phần ba: Đông Bắc với chiến dịch, có 5 bài: 1- Vào sâu Đông Bắc.
2- Vân Ca, 3- An Châu, 4- Đình Lập chờ chiến dịch. 5- Đoàn quân tiếp tế.
Trong chương trình trên có những sáng tác Trần Đăng đã viết
(Một cuộc chuẩn bị, Phố Ràng). Đọc nhật ký Trần Đăng, biết chương trình sáng
tác của Trần Đăng, hiểu được công phu lao động sáng tạo của nhà văn từ gốc tới
thành hình một sáng tác đã công phu đến như thế nào. Ở đấy, nổi lên tinh thần
và tư tưởng của một người cầm bút luôn luôn khắc phục nhược điểm con người của
mình bằng cách lao mạnh mẽ vào những nhiệm vụ đang đặt ra cho người cầm bút. Chẳng
những chỉ là một phương hướng, một kế hoạch, mà là những hành động cụ thể, chi
tiết, chịu thương, chịu khó, từ bài bích báo đơn vị được ghi lại đến một chi tiết
hay quan sát được, đến những suy nghĩ thúc giục mình đi sâu nữa, làm việc nhiều
nữa, lúc nào cũng cảnh giác và quyết tâm thay đổi nữa, bỏ đi, dìm đi những tàn
dư tiểu tư sản thường còn lảng vảng ve vuốt mình.
Cũng như với Trần Đăng, đọc tác phẩm Nam Cao viết trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp - kết quả sau cùng của một lao động sáng tác, thấy được
rất rõ bước đường phát triển của con người và văn chương Nam Cao - từ truyện ngắn
Đôi mắt cho đến nhật ký Ở rừng.
Trong các nhà văn nước ngoài mà Nam Cao đã từng đọc, Nam Cao
mê nhất Sê-khốp. Tôi nhớ anh cũng chỉ phục có một mình tài năng Sê-khốp, với một
số phận cùng cực và mong manh của những con người, những nhân vật cỏn con của
ông: người công chức già, cô gái ế, cậu bé mồ côi, những luẩn quẩn vụn vặt đến
nhức đầu trong gia đình nghèo và những cái rởm đời của những người có máu mặt.
Ấy thế nhưng những lúc cao hứng lên, anh cũng chẳng coi ai ra
gì. Nhưng chỉ từng lúc hứng chí mênh mông thế thôi. Rồi bần thần nghĩ lại, anh
không cải chính và hối hận mình đã lỡ lời, đã bốc tếu, nhưng những việc anh cặm
cụi hàng ngày làm đã trả lời rành rõ hộ anh, anh sửa mo-rát, anh viết tin, từng
tin vặt trên báo Cứu Quốc - tờ báo hàng ngày mà chúng tôi làm phóng viên. Chủ
nhiệm Xuân Thủy bảo anh viết cuốn sách giải thích về nhiệm vụ người Công giáo
kháng chiến (cuốn sách này chưa được xuất bản), anh cộng tác với Văn Tân soạn
in những tập Địa lý thế giới cho học sinh phổ thông, anh viết bích báo cho cơ
quan, mỗi tuần một tờ dán ở vách bếp ăn, anh viết ca dao, ký tên Suối Trong,
khi chúng tôi làm tờ báo hàng ngày Cứu Quốc Việt Bắc. Nghĩa là việc gì thấy có
ích, anh đều làm, không nề hà việc to việc nhỏ. Trong khi ấy anh mơ tưởng và thực
sự anh đã bắt tay vào cuốn tiểu thuyết dài về làng Đại Hoàng kháng chiến. Cuối
năm 1950, mấy chương đầu anh đã viết lại mấy lần, Nguyễn Huy Tưởng và tôi đã đọc
những chương đó, rồi anh bỏ, anh chưa vừa lòng...
Nam Cao vốn không phải là người xông xáo, mạnh dạn. Tính anh
trầm lặng, hay nhường nhịn và dường như nhút nhát. Nhưng tất cả những trường hợp
không cần phải thế, đều tỏ rõ khí phách ở anh. Chiến dịch thu đông 1950, chúng
tôi ghé lại Bắc Sơn rồi về ở Vũ Lăng. Máy bay địch bắn phá Vũ Lăng. Ba-lô quần
áo chúng tôi cháy hết. Sổ tay của anh bị đạn đâm nát.
Nhưng mặc đấy, anh đi cứu thương. Máy bay quay lại ném bom,
anh vẫn cùng dân quân dọn dẹp các đám cháy cho tới tối mịt. Khi chiến dịch giải
phóng biên giới sắp mở, chúng tôi vượt đường số 4 quãng Lạng Sơn sang với cánh
quân của ta đóng bên kia huyện Thoát Lãng. Đường số 4 bị địch chiếm đóng, canh
gác và tuần tra suốt ngày đêm. Chúng tôi đến trạm liên lạc, chờ giao thông vào báo
lúc nào vượt đường được.
Người đợi ở các trạm giao thông không phải người của một tổ
chức, một đơn vị, nên rất tạp. Không ai biết ai và hiểu ai như thế nào. Cách thức
vượt qua đường: theo giao thông và đi hàng một, ai cũng trù trừ, không ai muốn
là người thứ nhất đi sau người giao thông vượt qua đường. Bỗng dưng, Nam Cao
lưng đeo ba-lô, bước xuống đứng xếp hàng vào chỗ người đầu tiên sau người giao
thông. Tính anh là vậy.
Tôi được nghe kể lại chuyện anh hy sinh 7 ở vùng đồng chiêm Hoàng Đan dưới khu ba,
khi vào vùng địch chiếm, cũng tương tự như chuyện vượt đường số 4 mà tôi đã được
chứng kiến. Có bảy chiếc thuyền nan lúc chập tối bơi vào vùng địch. Bảy chiếc
đi cách quãng thành một hàng dài. Nam Cao ngồi ngay trong thuyền đầu. Hai thuyền
đi đầu đã bị địch vây bắt. Nam Cao như thế đấy. Nó biểu hiện mạnh mẽ con người
và cuộc sống của anh. Trước sau như thế, khi cần thì tất cả vì nhiệm vụ.
Tôi vẫn trở lại cắt nghĩa con người chúng tôi từng bước biến
đổi. Cuối cùng - sự chân thành trở thành niềm tin, đã đưa bước ta đi.
Chúng ta khẳng định sự hình thành những nhà văn thời đại, có
nhiều người xưa kia đã góp sức lực thành lớp nhà văn kiểu mới trong lực lượng
văn học to lớn hiện giờ. Những người ấy đã dự phần tạo nên thành quả của văn học
Việt Nam ba mươi lăm năm qua. Đó là một nét trong đặc điểm văn học ta.
Những chuyện mà tôi vừa kể có thể xa lạ với bạn cầm bút ở các
lứa tuổi đang lớn lên hôm nay.
--------------------------------
Tiểu thuyết Sống mòn, đầu tiên, Nam Cao đặt tên là Chết
mòn. |
|
Bảy bông lúa lép, truyện của Nam Cao, Nhà xuất bản Cộng Lực
1941. |
|
Nhà săm (do chữ Pháp chambre): nhà chứa trọ, phòng cho
thuê, thường có gái điếm. |
|
Tự truyện, hồi ký của Tô Hoài, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội,
1976 (tái bản 1984, 1997). |
|
Những đoạn văn ngắn của Trần Đăng, in trên tạp chí Độc Lập. |
|
Một đồn của Pháp trên một quả đồi tên là Dóm ở bờ sông Thao
địa phận tỉnh Yên Bái. |
|
Nam Cao hy sinh ngày 1-10-1951. |
NGUYỄN HUY TƯỞNG
Năm 1942, tôi quen Nguyễn Huy Tưởng trong một hội nghị ban dạy
học hội Truyền bá Quốc ngữ.
Tôi làm giáo viên dạy buổi tối các lớp Truyền bá Quốc ngữ
vùng Bưởi. Nguyễn Huy Tưởng có chân trong ban trị sự của Trung ương Hội.
Ở Hà Nội, phong trào chống nạn mù chữ đã nhen nhóm từ 1938,
khi hội Truyền bá Quốc ngữ được thành lập, nhưng dần dần phải cho đến những năm
1940 mới phát triển ra khắp thành phố và ngoại thành, cùng nhiều tỉnh. Những
người không biết chữ - phần đông là thợ thủ công, người đi ăn đi ở các nhà giàu
và thanh niên trong các làng nghề chịu khó đi học.
Nhưng cả người dạy học và người đi học đều không trong một
tình hình bình thường. Hội Truyền bá Quốc ngữ phải công phu hô hào quyên góp thế
nào cho có được sách bút mực phát không và kêu gọi đến thế nào cho có được người
có tâm huyết sẵn sàng đêm đêm đi dạy học.
Trong những năm ấy, phong trào cách mạng đương lan rộng, tổ
chức Việt Minh đã phát triển vào lực lượng giáo viên, học viên ở nội ngoại
thành. Bởi vậy, những người có tinh thần tối nào cũng đi dạy học, đã nghiễm
nhiên coi đấy là một công tác có ý nghĩa to lớn. Điều đó đã được chứng thực ở
Hà Nội ngay những ngày đầu cách mạng, tổ chức chống nạn mù chữ trở thành nha
Bình dân Học vụ, và hầu hết những anh chị em hội Truyền bá Quốc ngữ đều là cán
bộ Bình dân Học vụ và các ngành văn hóa khác.
Với những người đi học, lại ở một cảnh khó khăn khác. Trong
chiến tranh, bao nhiêu khắt khe trói buộc của thực dân Pháp, lại thêm Pháp-Nhật
ủng oẳng, người ta phải hứng lấy đủ mọi tai bay vạ gió. Khủng khiếp nhất, nạn
đói ập đến, như một cơn lốc, trời đất mịt mù. Thế mà những người cùng khổ ấy vẫn
cắp sách đi học. O tròn như quả trứng gà, Ô là đội mũ, Ơ là thêm râu... Người
ta linh cảm những chữ i, chữ t, những lớp học toàn người nghèo, những thày giáo
tận tụy chỉ bảo, có điều gì khác thường. Không phải chỉ cố cho biết chữ, mà rồi
còn có thể biết được một cái gì lớn lao đưa con người ta thoát ra ngoài những
ngột ngạt khốn cùng của cuộc sống. Ở vùng tôi, cứ tối tối, các lớp học dưới
Nghĩa Đô, trên Yên Thái quanh chợ Bưởi, trong ánh đèn le lói, đông nghịt người.
Tình cờ, Nguyễn Huy Tưởng ngồi cạnh tôi ở hội nghị, chúng tôi
quen với nhau, anh bắt tay rồi cầm tay rất lâu, anh hơn tuổi tôi, người tầm thước,
đĩnh đạc, đôn hậu. Bộ râu được cạo kỹ, chân râu xanh lên lận má. Tôi kính trọng,
khép nép trước vẻ đạo mạo của anh. Nhưng Nguyễn Huy Tưởng lại cười cười và
nói: “Nhà văn, nhà văn trẻ quá, tôi rất phục, rất phục”. Đôi mắt một mí của
anh nhìn người ta một cách trìu mến từ lúc thoạt gặp. Đôi mắt ấy cũng bộc lộ
nét riêng đức tính vốn quý người của anh. Và sự say mê cái đẹp cao cả thiêng
liêng mà về sau, tôi càng hiểu rõ hơn. Đến với anh, người ta thường dễ có cảm
tình ngay. Cũng như tính tình anh, con mắt đầu tiên nhìn người không lạnh nhạt,
ơ hờ, mà độ lượng và sẵn sàng thân thiết.
Anh thường thấy ở người ta những cái đáng mến trước mắt.
Hồi ấy, tôi mới in được vài truyện ngắn đầu tay trên báo,
cùng với truyện Con dế mèn, Dế mèn phiêu lưu ký. Nguyễn Huy Tưởng cũng có truyện
dài lịch sử Đêm hội Long Trì đăng từng kỳ trên tuần báo Tri Tân.
Báo này chuyên về lịch sử hoặc khảo cổ, ít người đọc.
Rồi, tôi còn biết không phải đấy là những sáng tác đầu tiên của
anh. Yêu cái đẹp, đôi khi anh lại thiên về sùng bái. Nguyễn Huy Tưởng đã từng
thích thú, thần tượng “triết lý sức mạnh” kiểu Phạm Ngọc Khuê. Để biểu
hiện cái tư tưởng “siêu nhân” ấy, anh đã viết lý luận và sáng tác bằng
tiếng Pháp. Tất nhiên, rồi cũng vứt đi hết những trang chữ viển vông, và cũng
là câu chuyện tự cười mình, mỗi khi kể lại những ngông cuồng chốc lát của tuổi
trẻ. Nghĩa là, Nguyễn Huy Tưởng đã có ước muốn cầm hút hẳn hoi mà chưa tới được
đâu. Cho nên, Nguyễn Huy Tưởng mới bảo tôi: Đằng ấy mới là nhà văn. Còn tớ,
cũng múa may đấy, nhưng chỉ là thằng “sớm vác ô đi, tối vác về”.
Ấy là anh nói theo một cách tính giản dị, vừa đúng mà cũng vừa
nực cười chua chát, anh đã ước muốn cuộc đời của tôi, một người thất nghiệp dở,
sống còm cõi bằng vài đồng nhuận bút. Nhà văn Vũ Ngọc Phan có lòng tốt, đã trả
nhuận bút, mỗi khi tuần báo Hà Nội tân văn của anh ấy đăng cho tôi một cái truyện
ngắn.
Có lẽ cả Hà Nội chỉ có Vũ Ngọc Phan làm cái việc phúc đức ấy.
Báo khác, kể cả những tờ tuần báo Ngày nay, báo Chủ Nhật của văn đoàn Tự Lực nổi
tiếng đã in truyện ngắn Mê gái (Con gà mái ri) của tôi lên trang nhất, nhà văn
Khái Hưng ra tiếp tôi, bắt tay thật chặt mà cũng không trả tôi xu nào và không
cho tác giả được một tờ báo biếu! Bởi vì, không có thể lệ thế. Lý do: Tự dưng
ông gửi bài cho tôi chứ không phải tôi mời ông viết. Tôi chỉ trả tiền người tôi
mời viết. Thế là ông cần tôi, thì không lẽ gì tôi lại phải trả tiền ông. Dẫu
cho cả năm ông gửi bài đến và tôi in, cũng vẫn là ông phải cảm ơn tôi. Luật rừng
của nghề báo thời ấy.
Những hoạt động chống nạn mù chữ cứ đi vào giữa những trớ
trêu, những khủng khiếp của tình thế. Nhưng mà phong trào vẫn lan rộng. Chúng
tôi xuống Nam Định. Cùng đi với đội kịch ban tuyên truyền của Hội.
Tôi nhớ đại khái ban kịch có một vở vui nhộn, cổ động đi học.
Câu chuyện vợ chồng Vua Bếp và các thần đất, thần thổ tả hăng hái học quốc ngữ.
Bấy giờ diễn kịch còn là một việc rất mới. Nhưng vở kịch này đến đâu cũng được người
ta cười ngặt nghẽo. Chúng tôi góp nhặt anh em lại, đã đi các tỉnh, lần này xuống
Nam Định.
Những đêm kịch cổ động Truyền bá Quốc ngữ ở thành phố Nam Định
thế nào, không còn nhớ. Chỉ nhớ trong số người đi với đoàn kịch có Nguyễn Hữu
Đang, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Kim Xuyến 1 -
một công chức trẻ hăng hái. Tôi nhớ nhất những hôm ở Nam Định, có anh Sắc bạn của
Nguyễn Hữu Đang. Ông bầu Sắc của chi nhánh hội Truyền bá Quốc ngữdưới ấy, chúng
tôi đã ăn no kềnh bụng và sao mà ăn khỏe, ăn ngon miệng đến thế. Khốn khổ, ở Hà
Nội, nếu không cả lũ, thì ít nhất có Nam Cao và tôi đương đói vêu, ngày có một
bữa. Bây giờ được chén cơm thỏa thuê, đến đỗi chỉ ở Nam Định vài hôm mà có cảm
tưởng trong người phổng phao hẳn lên.
Trên chuyến tầu thủy trở về, chúng tôi nằm dồn vào một góc
boong tầu áp cái guồng quay rào rào đinh tai. Chao ôi, những cái tầu thủy sông
Hồng đường Nam Định, Thái Bình hồi ấy. Tầu Long Môn, tầu Bắc Kinh, và còn bao
nhiêu con tầu, chủ tầu. Đã có lần tôi định viết về những chuyến tầu thảm hại
này mà vẫn như chưa viết.
Con sông sống, con sông chết. Người vùng đói không thấy có
cái tầu cứu mình bỏ xứ đi nơi nào đấy, họa may bới đất lật cỏ ở đâu mới ra cái
ăn. Mỗi khi nghĩ lại, vẫn thấy lù lù những con tầu năm đói hiện ra những ghê rợn
này. Cái tầu cô độc xình xịch giữa sông. Đêm cũng như ngày, trên bờ, đoàn người
rách rưới nháo nhác nhìn theo chạy theo, tầu màn xế, người xô ra, ai ngã xuống
sông cũng mặc, ai chưa lên được lại đuổi theo. Cái tầu nghiêng đi hất người xuống
nước vì người ta trèo lên đông quá. Cái tầu lại đắm vì bị máy bay Đồng Minh đuổi
đánh, máy bay Mỹ ném bom tất cả những cái di chuyển trên sông.
Cái tầu đem chúng tôi trở về Hà Nội cũng là cái tầu chở người
đói như thế. Màn xế vào bến nào, người lao xuống, tầu chòng chành chênh cả chân
vịt, cả guồng lên. Tầu không dám vào bến nào nữa. Cứ thế, chạy về Phà Đen.
Trời tờ mờ sáng, trong cảnh bối rối người tranh nhau lên.
Không hiểu thế nào, hối hả đi tìm cái ăn, không lên nhanh thì chết hay sao. Một
tấm ván bắc chênh vênh. Mỗi lán lườn tầu nghiêng đi, tấm ván bập bềnh rúm lại,
người ngã lộp bộp xuống nước, tiếng rú thất thanh cũng rơi theo. Người cứ chen
ra, cứ rơi...
Chúng tôi đứng chụm vào trong boong, rã rời cả người. Đêm qua
oi quá. Cái guồng máy lại quay ào ào suốt đêm dưới gáy, ai nấy cởi trần nằm xếp
quần áo gối đầu. Thế nào mà sáng ra Trần Kim Xuyến rờ thấy mất cái quần. Cũng
chẳng có gì khó hiểu. Chắc là sức trai đương tuổi ăn tuổi ngủ, người nào đi qua
đã rút mất.
Ngoài cầu, chốc lại tiếng rú, tiếng khóc. Nguyễn Huy Tưởng thở
dài.
- Có khi cái quần của thằng Xuyến cũng ngã xuống nước rồi.
Câu nói đến lạnh rợn. Chúng tôi không ai nghĩ đến chuyện thế
nào là ăn trộm, ăn cắp. Nạn đói ghê gớm đương trùm lên tất cả. Rồi Nguyễn Huy
Tưởng bàn:
- Nhà mày ở trên dốc Hàng Than gần đây, hay là mày mặc cái quần
của tao về rồi lại đem ra cho tao.
Mọi người đương đăm chiêu mà cũng phải cười gượng. Trần Kim
Xuyến nói to:
- Có gì mà phải phiền nhiễu. Tớ chỉ lột cái sơ mi ra là chẳng
khác gì cu-li xe cởi trần quần đùi đi làm đêm về. Rét bỏ mẹ mà kìa trên đê khối
người ở trần.
Trần Kim Xuyến cởi phăng áo cầm tay, và chúng tôi lên bờ.
Chúng tôi bước im lặng.
Nguyễn Huy Tưởng nói một câu, như đương nghĩ dở:
- Đến thế này thì dạy người ta biết chữ để làm gì!
- Phải làm thế nào?
- Những người chúng ta dạy chữ đương chết đói.
Tôi nói:
- Rồi đến chết cả chúng ta.
Nguyễn Huy Tưởng đăm đăm nhìn tôi.
- Chỉ có đoàn thể...
Tôi nhìn lại Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Huy Tưởng đã có hoạt động
bí mật. Hai chữ “đoàn thể” rất thiêng liêng đối với chúng tôi.
Ít lâu sau, một cuộc họp của một tổ Văn hóa Cứu quốc địa điểm
được hẹn ở phố Giắc-canh (Jacquin), một phố khuất sau Chợ Hôm. Đến nơi, mới biết
đấy là nhà Nguyễn Huy Tưởng. Chúng tôi, như vồ lấy nhau. Điều bất ngờ, điều bất
ngờ mà chúng tôi cảm thấy và mường tượng ra, đã lâu.
Từ đấy, Nguyễn Huy Tưởng là người liên lạc giữa mấy tổ, bí mật
khác nhau...
Một điều, đặc biệt là mật thám Pháp đến cả những ngày cuối
cùng đời thực dân ở Đông Dương, vẫn ráo riết khủng bố cộng sản. Một số anh em
chúng tôi bị bắt năm 1944. Thế mà sau đảo chính Nhật 9 tháng Ba 1945, đoàn thể
cứu quốc các giới ở Hà Nội gần như công khai hoạt động. Tín phiếu của Việt Minh
được rộng rãi mua ủng hộ, có người không làm Việt Minh cũng muốn có tờ tín phiếu.
Nhiều tay sai mật thám Pháp còn lại, đã bị những đội trừ gian của Việt Minh tiễu
trừ. Tên Sinh, mụ Thiên Nga và bọn Cai Long, Ba Lự ở Bưởi đã phải đền nợ máu.
Nhật càng điên cuồng, khát máu, chúng bắt và bắn tức khắc. Trên đường từ Phùng
lên Sơn Tây vốn nhiều cướp đường, Nhật vào làng lôi người ra, chém đầu, treo
lên cây. Phát-xít Nhật cùng quẫn, hỗn loạn.
Trước thời cơ ấy, các đoàn thể cứu quốc trong thành phố đã rộ
hẳn lên và ra mặt thị uy. Treo cờ nóc tầu điện. Rải truyền đơn giữa phố Pôn Be.
Rạp Tố Như, Hàng Bạc đương buổi diễn, đèn phụt tắt, cán bộ Việt Minh lên nói
chuyện hô hào tổng khởi nghĩa và tung truyền đơn. Kho thóc của Pháp, của Nhật ở
làng Mọc ngoại ô bị phá chia cho người đói. Cả đến các kho ở phố Bắc Ninh và dưới
Phà Đen cũng bị tan tành. Chợ Canh, chợ Diễn, phiên nào Việt Minh cũng mít-tinh
tuyên truyền võ trang. Người ta thì thào súng ống đã được đưa từ chiến khu về,
suốt đêm tải sang sông.
Những cán bộ nữ Việt Minh, chít khăn vuông, đeo kính đen, tay
cầm súng lục, vừa đứng trên bàn diễn thuyết giữa cầu chợ, lại biến ngay đấy. Tiếng
đồn càng dậy lên.
Chúng tôi gặp nhau luôn. Không phải còn giữ bí mật nghiêm ngặt
như mọi khi chỉ tổ ba người biết với nhau. Chị Tưởng đem các con đi tránh bom Mỹ
về quê đã lâu. Một mình Nguyễn Huy Tưởng ở lại. Chẳng biết cái sở Đoan anh làm
có còn ở Hà Nội hay đã đi trốn bom, chỉ thấy anh mặc quần soóc, với cái xe đạp
trần trụi không phanh không chuông đi khắp nơi. Chẳng mấy ngày không lên Nghĩa
Đô gặp Nam Cao và tôi.
Khi thúc bài cho báo Cứu Quốc, khi đem lên báo Cờ Giải phóng,
tạp chí Cộng sản. Căn gác nhà Nguyễn Huy Tưởng có cửa khóa chữ, anh để số 1789,
năm cách mạng Pháp, chúng tôi đều biết, ai đến cứ việc mở vào, lúc ngủ nhờ, lúc
hội họp. Nguyên Hồng không còn ở dưới bãi Phúc Xá, anh đã đưa gia đình tránh
bom về Thuận Thành bên Bắc Ninh. Thỉnh thoảng, hai vợ chồng đi một chuyến buôn
nón và áo tơi. Cả cái xe bò nón lá của Nguyên Hồng cũng được đẩy đến để trước cửa,
có khi tá túc mấy hôm rồi lại chồng cầm càng vợ ẩn xe qua cầu Long Biên về bên
Bắc Ninh.
Những cuộc họp nghiên cứu tài liệu Việt Minh đọc các báo bí mật,
có khi chúng tôi ở cùng nhau liền mấy ngày. Hồi này, Lê Quang Đạo, bí thư ban
cán sự Đảng ở Hà Nội, sau lần bị mật thám bắt hụt ở nhà Vũ Quốc Uy, phố Phó Đức
Chính bây giờ, đã lên chiến khu Việt Bắc. Nhưng các tổ Văn hóa Cứu quốc vừa được
sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương chặt chẽ và liên tục mà sau này tôi mới được
biết cơ quan của thường vụ đóng ở Xuân Đỉnh, Phú Gia, Phú Thượng và các làng
ven hai bờ sông Hồng. Trần Độ, Trần Quốc Hương và Văn to đầu (Khuất Duy Tiến),
các cán bộ phái viên của Trung ương thường đến với chúng tôi. Lúc thì ở nhà
Nguyễn Huy Tưởng, khi vào làng Vạn Phúc trong Hà Đông, nhiều hôm ở nhà tôi trên
Nghĩa Đô, có lần ở cái nhà nghỉ hè của nhà Như Phong xóm Cung bên Tây Hồ.
Trong những cuộc họp mở rộng ở nhà Nguyễn Huy Tưởng, ngoài
các anh em, như Trần Huyền Trân, Nguyên Hồng, Nam Cao, thêm Hồng (Thép Mới) là
sinh viên. Lưu Văn Lợi cùng làm sở Đoan với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Cộng Mỹ,
nhà giáo dạy dưới Hải Phòng cũng lên bắt liên lạc.
Chúng tôi đương sửa soạn in bí mật số 1 báo Tiên Phong, cơ
quan của hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam.
Tình hình chuyển biến hết sức khẩn trương. Trong một cuộc họp
ở Vạn Phúc trong Hà Đông, Văn hóa Cứu quốc được cử đại biểu trong đoàn trí thức
Hà Nội đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Huy Tưởng.
Bút ký Lên chiến khu của Nguyễn Huy Tưởng in nhiều kỳ trên tạp
chí Tiên Phong sau Tổng khởi nghĩa đã kể lại chuyến đi với những kỷ niệm không
bao giờ quên của anh về những ngày lên vùng trung tâm cuộc Tổng khởi nghĩa.
Trong những tưởng tượng hào hứng của chúng tôi ngày ấy, cả nước
đã thành chiến khu, và thiêng liêng, bí ẩn vô cùng là các chiến khu biên giới
phía bắc. Hình ảnh gương chiến sĩ dũng cảm, hy sinh đọc được trên báo bí mật Cờ
Giải phóng,Kèn gọi lính, Cứu Quốc đã tường thuật những trận quân giải phóng phục
kích Nhật ở châu Tự Do (Sơn Dương), ở Bắc Cạn: rồi trận tiêu diệt đồn Nhật trên
núi Tranh Đấu (Tam Đảo) giải phóng một trại tù binh Pháp ở Hà Nội, chỉ đứng
trên đê sông Hồng đã trông thấy núi Tam Đảo xanh biếc.
Tin tức các nơi rầm rộ. Khắp nước đã thành chiến khu, các chiến
khu Hoàng Hoa Thám, Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Phan Đình Phùng, Trưng
Trắc, Nguyễn Tri Phương, Hà Nội cũng được bí danh là thành Hoàng Diệu. Như đã
trông thấy trên núi rừng phía bắc, các dân tộc Kinh, Thái, Nùng, Mán đoàn kết
đương sôi sục chuẩn bị khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa sắp bùng nổ, tràn như nước
cuốn về đây rồi.
Chiến khu! Chiến khu bí mật, hấp dẫn, mong ước, chờ đợi, tất
cả ở hình ảnh chiến khu.
Nguyễn Huy Tưởng và tôi đương đi tầu điện Bưởi xuống Bờ Hồ.
Những cái hầm xây gạch nổi để nấp máy bay, lỗ chỗ, vằn vèo lượn
xung quanh Hồ Hoàn Kiếm đã bị người đói các nơi về chiếm ở chi chít như tổ mối
đùn.
Ngày nào cũng có báo động: Máy bay Mỹ đã ném bom xuống nhiều
chỗ đông người trong thành phố, chợ Hàng Da, ngõ hàng Đũa sau ga Hàng Cỏ, các
phố khu Đấu Xảo và vùng Bưởi, Quần Ngựa... Tôi làm chân “phòng thủ thụ động” đi
khiêng người chết không biết bao nhiêu mà kể, từ dưới Bờ Hồ lên dốc vào hàng
Đào xe bò chất những bao gạo đóng tải trắng nối đuôi nhau, người đẩy xe cúi rạp
mải miết. Đấy là kho gạo dỡ ra hay đấy là gạo Sài Gòn mà những chuyến tầu hỏa,
tầu thủy của nhà binh Nhật mới thoát bom đêm trước, lọt vào ga Hàng Cỏ hay bến
Phà Đen. Không biết tải đi đâu.
Nhưng chắc không phải gạo phát chẩn. Lính Nhật đeo súng cưỡi
xe đạp canh hai bên hàng xe.
Tiếng còi trên nóc Nhà Hát lớn bỗng rú từng hồi.
Báo động! Những chiếc xe bò chở gạo thình lình chững lại giữa
dốc. Người cầm càng quỵ xuống. Không biết tại đói quá, nặng quá hay hốt hoảng
quá, không ủn lên nổi nữa. Đoàn xe ùn lại. Người tứ phía nhao nhao ra: Bọn Nhật
đã nằm ghếch súng nấp sau những chiếc xe đạp quăng chỏng gọng giữa đường. Mặc,
người cứ xô đến cướp gạo, như sóng đen nghịt...
Máy bay ầm ầm tới, những chiếc phóng pháo hai thân hiện ra
phía sông Hồng, rồi một đoàn trắng xóa ba cái một, lừ lừ đến tiếng rú rền ngay
trên đầu. Đạn cao xạ nổ ùng ục vào nền trời xanh nhễ nhại: người ta đã phân biệt
được súng phòng không Nhật khói trắng, khác súng Pháp khói đen sì ở pháo đài
Láng và Xuân Tảo. Tiếng bom rơi nổ từng chặp, dậy đất, nghe như... lại nhà xe lửa
Gia Lâm... lại ở Sét, ở Giáp Bát...
Máy bay vẫn rền trên đỉnh đầu, bom xuống đây rồi, bom đến nơi
rồi...
Bọn Nhật bỏ cả xe đạp, chạy chết. Những chiếc xe bò gạo đã được
đám người đến xúm xít đẩy biến về phía phố Bắc Ninh. Trong chốc lát, giữa dốc
chỉ còn lại xác người cầm càng ngã lúc nẫy, đã bị lính Nhật đâm chết, máu loang
khắp mặt đường. Chiếc xe bò trống không, cái trục gẫy rời ra, hai bánh nằm úp
như hai cái nong, mấy chỗ gạo lẫn máu - cái gạo máy Sài Gòn hạt tấm hạt gầy trắng
nhởn như vôi bột bắt đầu khô đen lại.
Đấy là những cảnh Hà Nội đau thương cuối cùng, khi chúng tôi
chia tay.
Nguyễn Huy Tưởng thì thào:
- Cậu có biết trên chiến khu bây giờ, có một lão đồng chí quốc
tế về lãnh đạo cách mạng? Có nghe đồn Nguyễn Ái Quốc đã về chiến khu không? Tổng
khởi nghĩa đến nơi rồi.
Rồi Nguyễn Huy Tưởng ghé sát tai tôi:
- Thôi, mình đi nhé.
Tôi cầm tay bạn sắp đi. Tôi không biết đi đâu, nhưng chắc đi
xa. Cảm động, bùi ngùi, đau xót. Cái quang cảnh người chết, người cướp gạo vừa
rồi đã lấy đi hết cả những câu nói của chúng tôi. Mỗi người không biết ngày mai
thế nào. Chúng tôi chỉ nhìn nhau.
Rồi Cách mạng tháng Tám thành công. Trong cuộc họp đầu tiên gặp
lại Nguyễn Huy Tưởng, ở nhà Trần Kim Xuyến trên Hàng Than, Tổng bí thư Trường
Chinh đã phân công chúng tôi vào mọi công tác báo chí, tuyên truyền, thông tấn,
phát thanh, bình dân học vụ...
Bề bộn những công việc mới. Nguyễn Huy Tưởng ở trong ban phụ
trách hội Văn hóa Cứu quốc, lại biên tập báo Cờ Giải phóng, cơ quan Đảng Cộng sản
Đông dương.
Một hôm, Nguyễn Huy Tưởng đến báo Cứu Quốc tìm tôi. Chúng tôi
đạp xe lên ô Yên Phụ rồi ra Phú Gia.
Tôi cũng không hỏi đi đâu. Vẫn còn thói quen giữ bí mật công
tác như dạo trước. Thì ra, Nguyễn Huy Tưởng rủ tôi đến một nhà cơ sở ở dưới bãi
làng Gạ.
Trước khi lên chiến khu, Nguyễn Huy Tưởng đã được giao thông
đưa đến đợi liên lạc ở đấy. Rồi, anh để lại áo sơ mi, quần tây thường mặc. Ở trạm
anh em đưa cho Nguyễn Huy Tưởng bộ quần áo nâu cũ và cái nón mê.
Anh sang sông, lên châu Sơn Dương. Đò sang ngang chỗ bến Hối.
Chúng tôi lên mặt đê, trông sang Hối. Chỉ thấy một làn dâu
xanh mờ. Nước sông Hồng đương cữ lớn, mênh mang đỏ rực. Nguyễn Huy Tưởng nhìn
xa xôi, nghẹn ngào:
- Những ngày lên chiến khu, mình nhớ...
Nguyễn Huy Tưởng vốn người trầm mặc, dẫu gặp việc vồ vập, bồn
chồn, anh vẫn thường giữ điềm nhiên.
Nay anh lại sa nước mắt. Cái vui của con người, dẫu cho bề
ngoài âm thầm, không phải bao giờ cũng lặng.
Nguyễn Huy Tưởng người làng Dục Tú. Dục Tú cạnh Lộc Hà, quê
nhà văn Ngô Tất Tố. Những làng ven nội xinh đẹp, cổ kính ở bờ sông Hồng.
Tôi bỗng nhớ một chuyện thật sự thiết tha và tự nhiên của một
ngòi bút với đất quê. Nguyễn Huy Tưởng, con người và tình cảm cùng trang giấy
trắng trước quê hương.
Những lần về Dục Tú với Nguyễn Huy Tưởng.
Thường những ngày giáp Tết hoặc tháng Hai, tháng Ba, vào buổi
xuân sang hội hè, Tết nhất ở các làng ngoài thành. Nguyễn Huy Tưởng hay rủ bạn
về Dục Tú.
Mưa bụi vân vân trên cánh đồng màu. Có những đoàn người trảy
hội đi qua cửa đình. Không phải chỉ toàn những tiếng cười giòn của đám con trai
quần phăng áo trấn thủ ô trám và những cô gái sơ mi hoa đào. Mà còn thiết tha nền
nã các bà áo bông ngắn mặc ngoài tấm áo the nâu, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Trong
làn mưa nhẹ như sương, xa kia, sừng sững mờ mờ không nhìn rõ là chân tường
thành cổ hay những dãy nhà máy đương lên móng phía Đông Anh. Những gợi cảm thật
lạ lùng. Trong cái vui xuân trên miền đất phát tích của dân tộc không phải chỉ
có một bề hoài cổ, mà còn những nỗi niềm, những khát khao của mỗi người cầm bút
hôm nay.
Về Dục Tú, lần nào cũng sang Cổ Loa. Tất nhiên, Nguyễn Huy Tưởng
là người thuộc Cổ Loa nhất trong bọn, anh chỉ cho biết nên để ý, nên xem Cổ Loa
những gì, như thế nào. Một điều dị thường mà lại bình thường, mỗi khi ta thăm
những nơi có di tích từ truyền thuyết đến hôm nay. Làm sao mà được cảm thông từ
hồng hoang đến một lúc bây giờ. Vậy mà Nguyễn Huy Tưởng đã có những say sưa ấy.
Đi trên những gò cỏ, những bờ thành đất, dưới cây đa cổ thụ, bước thẩn thơ
trong đường quanh bờ tre những bãi mía xanh tốt và những làng xóm lá mít sum
suê mà trông ra nghìn xưa.
Nguyễn Huy Tưởng hăng hái làm cho mọi người thấy được bên
trong làng xóm, đồng ruộng ấy, xưa kia đã nguy nga những thành quách có một
không hai ở phương Nam từ thuở ban sơ của đất nước với bạt ngàn chiến trận của
vua Hùng, vua Thục, của Ngô Quyền. Cuộc trường kỳ kháng chiến trên toàn quốc vừa
bắt đầu, Nguyễn Huy Tưởng viết Những người ở lại. Kịch dài Những người ở lại
miêu tả thái độ và cuộc đấu tranh của các tầng lớp trí thức đối với kháng chiến
trong Hà Nội bị chiếm.
Tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, “đài Cửu Trùng của Vũ
Như Tô”, Nguyễn Huy Tưởng đã được nghiền ngẫm ngay từ những ngày đầu tiên Trung
đoàn Thủ đô chiến đấu trong vòng vây của địch.
Sự tích một sáng tác không biết đâu bờ đâu mốc mà tính được
thời gian và công phu sức lực bỏ ra.
Ngày tháng ghi kỷ niệm ở trang cuối chỉ là ước lệ.
Trung đoàn Thủ đô đã ra đời trong những ngày đêm ác liệt giữa
Hà Nội. Rồi suốt chín năm kháng chiến, Trung đoàn Thủ đô đã tham gia tất cả các
chiến dịch lớn, sau cùng, từ chiến thắng Điện Biên Phủ về Hà Nội giải phóng. Tấm
lòng vẫn nguyên như đêm ra đi: Các chiến sĩ Hà Nội đã cất lời thề hẹn ngày về,
khi ngoảnh lại nhìn thành phố rừng rực trong lửa cháy.
Một ngày đầu năm 1947, chúng tôi đi đón Trung đoàn Thủ đô, vừa
từ giữa lòng thành phố ra. Các chiến sĩ đã bí mật hành quân luồn dưới cầu Long
Biên, qua sông Hồng, vào chân núi Tam Đảo. Rồi bất thần, nửa đêm lại trở sang
bên này sông. Liền mấy ngày, máy bay địch lùng khắp từng làng, từng cánh đồng
phía bắc thành phố. Trong khi đó, Trung đoàn đã lại sang sông về đóng quân ở
vùng Gối.
Lễ đón mừng các chiến sĩ Thủ đô ở Thượng Hội.
Hồi này, địch trong thành phố đã nống ra tới cầu Diễn, trên
đường Sơn Tây. Ở cánh đồng làng Thượng Hội trông ra Diễn, đốt lửa to còn thấy vầng
sáng, moóc-chê địch thường bắn qua trên đầu. Nhưng địch chẳng thể ngờ lại có cuộc
hội quân lớn như thế này ở trận tuyến trước mặt chúng.
Những ngày ấy, tôi làm phóng viên báo Cứu Quốc trên mặt trận
Hà Nội. Tôi thường cùng ở với Thôi Hữu tại chùa làng Án Thọ ở Sống - nơi cơ
quan báo Thủ đô do Thôi Hữu phụ trách. Nguyễn Huy Tưởng đến rủ và ba chúng tôi
đã ra Canh, rồi sang Thượng Hội đón các chiến sĩ Thủ đô.
Cả vùng các làng Kẻ Gối náo nức. Hai tháng trời ác liệt trong
vòng vây địch đã in dấu xám ngắt trong tưởng tượng của mọi người đến dự lễ mừng?
Nhưng không, các chiến sĩ thật nhanh nhẹn, rất Hà Nội. Trong hàng quân, có nữ
chiến sĩ, ở cả cấp chỉ huy, nữ chính trị viên tiểu đoàn Tuyết Minh. Những cô
gái Hà Nội, trong mọi tình huống thật đã tài đảm, thao lược. Các chiến sĩ, hôm
qua còn là sinh viên, nữ sinh, là công chức, là thợ đóng giầy, đóng thùng, nghề
bồi bếp, thợ nguội, thợ điện. Giờ đây như nhau, chiếc mũ ca-lô dạ tím, đôi giầy
có cổ, chiếc thắt lưng trễ tràng một điệu kiểu cách cố ý với bên hông khẩu súng
lục, con dao găm, - kể cả những khẩu trung liên, đại liên đặt cảnh giới trên
các gò cao ở đầu đồng, hầu hết đều là quân dụng, quân trang, vũ khí nhãn hiệu Mỹ
mà các chiến sĩ đã đoạt được.
Không thể nghĩ những con người thơ thới đáng yêu ấy vừa trải
những trận đánh sống còn liền hai tháng qua. Cảm tưởng cứ chập chờn, lung linh
hư hư thực thực. Khác nào, đứng đây, vừa nãy hoàng hôn xuống còn trông thấy
trong bóng chiều vàng mờ lạnh buốt cuối đông ánh lửa của người chiến sĩ rút sau
cùng đã đốt lên cháy cả kinh thành, báo cho hàng quân đi đầu biết thế là tất cả
đã ra khỏi các phố. Câu chuyện thần kỳ ngoài tưởng tượng.
Trên cánh đồng đầu làng, những đống sưởi được nhóm lên. Các
chiếp sĩ vào cuộc lửa trại. Nguyễn Huy Tưởng ngồi im. Suốt đêm, anh lặng lẽ
chăm chú nhìn mọi người, nhìn lửa, nét mặt hân hoan.
- Vĩ đại quá! Vĩ đại quá! Cái gì cho xứng được.
Câu nói và diện mạo ấy cũng là tư tưởng triết lý, chủ đề và đề
tài về Hà Nội của Nguyễn Huy Tưởng quán triệt cho tới các tác phẩm sau cùng. Đức
tính đó ở Nguyễn Huy Tưởng đã có ngay ở bước đầu tiên của công việc sáng tác.
Phân tích vấn đề, sự việc con người, thường Nguyễn Huy Tưởng phát hiện từ khía
cạnh tích cực. Cả mỗi chữ, mỗi câu, Nguyễn Huy Tưởng cũng đậm đà ở phương pháp
trước tác và tình cảm ấy. Văn phong Nguyễn Huy Tưởng ấm áp, đôn hậu, hùng
tráng.
Trong kháng chiến chống Pháp, Trung đoàn Thủ đô mà đặc biệt
là tiểu đoàn 54, tiểu đoàn chủ công của trung đoàn, đã kết nghĩa làm em nuôi hội
Văn nghệ.
Có được niềm vui đó không phải tình cờ, mà sự gắn bó quân dân
đẹp đẽ này có trách nhiệm và công lao Nguyễn Huy Tưởng. Nhiều người trong chúng
tôi đi tham dự cùng đơn vị em nuôi hầu hết các chiến dịch lớn trên chiến trường
miền Bắc, từ các mặt trận quanh Hà Nội lúc khởi chiến đến chiến dịch Sông Thao
1949, chiến dịch Trung du và chiến dịch Biên giới 1950, cùng với các chiến dịch
Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng Lào rồi Điện Biên Phủ.
Thực tế lớn lao của người chiến sĩ Hà Nội, cũng như của chúng
tôi, cuộc sống thành phố đã trải rộng khắp đất nước, qua vô vàn thử thách gian
lao. Không những là người chứng kiến, mà chúng tôi đã là những con người góp phần
làm nên giai đoạn lịch sử ấy.
Khi Trung đoàn Thủ đô tiến vào Hà Nội, Nguyễn Huy Tưởng đã ở
trong đoàn cán bộ tiếp quản thành phố. Cả thành phố xua tan cơn chìm đắm chín
năm và suốt thế kỷ. Bao nhiêu sự kiện lớn lao của đất nước, của đời người. Phải
viết, phải viết cái gì cho xứng đáng tầm vóc thành phố. Như vậy đấy, những trải
biết của Nguyễn Huy Tưởng tiến lên một bước sáng tạo, đã dần dần rõ nét. Sự ra
đời của mỗi chân móng tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng đã nối
tiếp thời gian, không gian từ thật xa như thế.
Nguyễn Huy Tưởng thường kể về những chắt chiu, góp nhặt, những
dự định cho cuốn tiểu thuyết ước mơ này. Mỗi khi bàn luận về nền văn xuôi Việt
Nam đương phát triển anh thích thú hình dung ra hình ảnh cuộc kháng chiến của
nhân dân ta. “Tôi thì tôi không thể viết nổi” - anh nói. Nhưng Nguyễn
Huy Tưởng ao ước đến một phút đầy cảm thông thiêng liêng đến thế nào đó, ở thế
kỷ nào đó, xuất hiện những tác giả dựng lên được cuộc trường kỳ kháng chiến từ
Nam chí Bắc thành những bộ, những pho sử thi biên niên hết sức hấp dẫn, trong
đó, mỗi vùng đất nước, mỗi dân tộc anh em, mỗi chiến dịch, mỗi trận đánh, mỗi
chiến sĩ, mỗi vị tướng cầm quân, tất cả trở thành một tập thể nhân vật anh
hùng, tính cách mỗi con người khác nhau mà lại giống nhau, tiêu biểu cho con
người Việt Nam trước thế giới. Và, thế nào và bao giờ Nguyễn Huy Tưởng cũng kết
luận: Tất nhiên, trong những trường sử thi hào hùng ấy của dân tộc Việt Nam có
người Hà Nội. Đời nay chưa có nhà văn giỏi đến thế, thì đời sau, đời sau nữa phải
có tài năng làm được, phải làm được.
Nguyễn Huy Tưởng đã công phu, cẩn trọng cho tiểu thuyết Sống
mãi với Thủ đô. Mấy năm đầu trở về, Nguyễn Huy Tưởng đã viết xong tập 1. Những
trang bản thảo chữ đẹp rõ nét, đều đặn, được chép ra, đánh máy cẩn thận. Nguyễn
Huy Tưởng vẫn để đấy. Hình như ở anh, vẫn còn băn khoăn, lưỡng lự những điều
chưa thỏa đáng, chưa nghĩ ra được hết xung quanh công trình lớn. Hãy để đấy, rồi
Nguyễn Huy Tưởng đi Tây Bắc. Mấy tháng ở nông trường Điện Biên về, Nguyễn Huy
Tưởng cho xuất bản tiểu thuyết Bốn năm sau, bốn năm Điện Biên Phủ sau chiến thắng.
Nhưng bản thảo Sống mãi với Thủ đô thì vẫn chưa đụng chạm đến. Một mùa luyện
quân, Nguyễn Huy Tưởng lại đến với các chiến sĩ Hà Nội thân thiết của chúng
tôi. Trung đoàn Thủ đô đã qua ngót mười năm chiến đấu không còn như những ngày
mới tập hợp trong Chiến khu 1 ra.
Hàng loạt gương mặt chiến sĩ mới trong đội ngũ, qua mỗi thu
đông chiến dịch, mỗi mùa luyện quân. Những ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn đã vắng
nhiều người ở đêm liên hoan Thượng Hội. Nhưng truyền thống chiến thắng nhanh vẫn
là nền nếp ngày một phát huy phong cách đánh nhanh của chiến sĩ Hà Nội, từ trận
kỳ tập vị trí Bồng Lai ngay bên sông Cái trước mặt Hà Nội, đến các trận thần tốc
ở chiến dịch sông Thao, ở Nghĩa Lộ đồi, ở Bản Hoa châu Mộc trên Tây Bắc và các
trận diệt viện gọn như cắt ở Thượng Lào, ở Điện Biên.
Nguyễn Huy Tưởng ra Lai Xá, lại có dịp đến ở lâu với các chiến
sĩ của đơn vị đầu tiên đã chiến đấu trong Liên khu 1. Những người còn sống vẫn
tinh anh phong độ ngày ấy, và ai cũng đã dày dạn trận mạc. Cái nhìn lại những
ngày non trẻ và hào hùng của các chiến sĩ đã cho Nguyễn Huy Tưởng những hiểu biết,
những khám phá mới, khác lạ, vẽ lên những nét sâu sắc riêng, anh hùng có, trứng
nước có, hoang dã có. Nguyễn Huy Tưởng được cơ hội hiểu nguồn gốc tính chất người
chiến sĩ của các tầng lớp nhân dân Hà Nội trong một giai đoạn lịch sử đất nước.
Nguyễn Huy Tưởng cảm kích đến sửng sốt, bàng hoàng. Nguyễn Huy Tưởng rất hào hứng
và thấy ra những cái anh đã mô tả về chiến sĩ Hà Nội chưa thể như ý.
Phải viết cho thật xứng với cuộc chiến đấu cực kỳ anh dũng mọi
mặt vừa khốc liệt vừa quyết liệt đúng với hiện thực thời ấy. Mười năm trước, ở
cánh đồng Gối, khi đón Trung đoàn Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng vẫn lo lắng với câu
nói: Vĩ đại quá! Cái gì cho xứng!
Nguyễn Huy Tưởng quyết định viết lại. Tiểu thuyết Sống mãi với
Thủ đô mà chúng ta được đọc, chỉ là cái bản thảo cần phải viết lại ấy của Nguyễn
Huy Tưởng.
Thói quen làm việc của Nguyễn Huy Tưởng cũng khá khác thường.
Sự cần mẫn, chịu khó bao giờ cũng sẵn sàng ở anh. Và thường để suy nghĩ, để chuẩn
bị, đôi khi là việc đổi tay viết một cái khác, Nguyễn Huy Tưởng đã dùng khoảng
cách nghỉ ngơi có ích như thế, trong khi sửa soạn viết lại Sống mãi với Thủ đô,
anh viết cho thiếu nhi chuyện Trần Quốc Toản ra quân: Lá cờ thêu sáu chữ vàng.
Rồi lại sáng tác kịch bản phim Lũy Hoa (chữ của Nguyễn Tuân đặt), dựa trên sườn
tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô.
Như tay đô vật vào gióng còn đương múa vờn.
Những năm đầu, Nhà xuất bản Kim Đồng ở phố Triệu Việt Vương.
Xưa kia đây là nơi bờ bụi lầy lội lau sậy làng Đức Viên, làng
Thể Giao, làng Vân Hồ. Phố xá, những nếp nhà một hai tầng so le, không có cửa
hàng buôn bán, chỉ mới mọc lên quanh chợ Hôm khoảng trong ngoài năm sáu mươi
năm trước. Vỉa hè còn nền đất và vắng vẻ đến độ người đi dưới lòng đường hay
trên vỉa hè cũng như nhau. Phố của các công chức ngày ngày đi làm. Nhà khá giả
máu mặt đôi chút có cái cửa nách, lấy lối ra vào cho người cu li và chiếc xe
tay nhà.
Trong kháng chiến chống Pháp, ở Việt Bắc, công việc xuất bản
sách cho thiếu nhi tập trung vào Tủ sách Kim Đồng, Nhà xuất bản Văn Nghệ. Về
hoà bình, Tủ sách Kim Đồng là một bộ phận của Nhà xuất bản Thanh Niên. Nguyễn
Huy Tưởng cùng một số anh em chúng tôi đề nghị với Trung ương Đoàn đứng ra xin
phép thành lập một nhà xuất bản riêng cho thiếu nhi.
Và giám đốc đầu tiên của nhà xuất bản là Nguyễn Huy Tưởng.
Hồi này, Nguyễn Huy Tưởng chuyên lo công việc cho nhà xuất bản
mới khai trương. Cái ham mê bé nhỏ cũng thật sự hồn nhiên trong sự bận rộn, từ
biên tập đến trị sự, lại đọc bản thảo gửi đến, lại sáng tác. Chúng tôi thường
nói vui về Lê-ôn Tôn-xtôi khi về già mới sáng tác cho thiếu nhi và ông lấy làm
tự hào đã viết cho tuổi thơ những câu trong sáng nhất đời văn. Ông Tôn-xtôi Việt
Nam của chúng tôi vốn phục luôn Tôn-xtôi, lấy chuyện đó làm một sự thú vị.
Những tình cờ của thời gian, không gian trở đi trở về, hay là
của đời người! Ở vùng chợ Hôm, hầu như mỗi góc đường, anh lại gặp lại những năm
tháng đã qua. Căn gác, phố Ngô Thời Nhiệm bấy giờ là tổ ấm ngày ấy của đôi vợ
chồng trẻ, của những sáng tác sôi nổi, chỉ hai ngày hai đêm viết xong vở kịch
dài Bắc Sơn. Và chúng tôi vẫn thuộc số 1789 ở cái khóa chữ một thời say mê, say
sưa với những “thế giới đại đồng” trong những ước mơ cao xa.
Nguyễn Huy Tưởng nói:
- Mới đấy, mà như từ bao giờ. Mà cũng hay. Chúng mình làm việc
cho văn học thiếu nhi. Những kỷ niệm trong sáng, những nhớ lại đẹp như tuổi
thơ, biết đâu chẳng gợi ra những sáng kiến lớn.
Câu nói của một người lo toan công tác, nhưng cũng là những ý
nghĩ, những chờ đợi bất chợt lạ lùng day dứt về những suy nghĩ chưa xong. Tiểu
thuyết Sống mãi với Thủ đô lúc nào cũng dày vò anh.
Nguyễn Huy Tưởng không coi đấy chỉ là việc sửa, chữa bản thảo.
Một người viết luôn luôn có trạng thái tin, lại chưa tin sức mạnh sáng tạo của mình
là biểu lộ một sức bật, một đổi mới. Nguyễn Huy Tưởng đang có những khát vọng lớn,
anh muốn thay đổi hết. Mỗi nhân vật, từng tình huống soi trong bóng lồng lộng cửu
trùng dài của sáng tạo, cuộc sống chiến sĩ từ hoang sơ Liên khu 1 đến tinh thần
một binh đoàn thiện chiến hiện đại, xưa kia và mai sau hội tụ trong một phút
giây, tất cả đương là những thực tế uy nghiêm, bắt người viết phải kiểm tra, phải
lục soát lại từ quan niệm đến phương pháp, đến việc đưa từng chữ xuống trang giấy.
Mỗi quãng đường, mỗi lúc gặp những năm tháng đã qua, lại thôi
thúc.
Buổi sáng ấy trên bờ hè gốc cây nhồi cạnh cửa Viện Mắt, có những
toán bộ đội cặm cụi đào hố. Rồi nhặt lên từng chiếc xương sườn, xương ống, một
sọ người. Trong suốt phố, nhiều đám người đương nhặt xương trong hố lên như thế.
Các nhà hai bên đã đem ra thau nước trầm bốc khói ngào ngạt. Từng đốt xương được
rửa nước trầm cẩn thận rồi bỏ vào tiểu, trên phủ quốc kỳ sao vàng. Thành đội
đương tổ chức đào tìm hài cốt các chiến sĩ đã chiến đấu ở thủ đô những ngày đầu.
Mỗi hôm, hoa viếng của những người trong phố đưa đến, khói hương bay tỏa trên
màu cờ đỏ suốt bờ hè. Đằng kia, vẫn còn những đám người đi nhận dấu tích gốc
cây, hòn gạch, hướng nhà và các chiến sĩ lại đào. Nguyễn Huy Tưởng châm những
nén hương chúng tôi vừa mua ở chợ Hôm về, cắm lên trước chiếc tiểu bên gốc cây
nhồi cổ thụ.
- Vĩ đại quá, làm thế nào cho xứng được!
Ngày trước, đón các chiến sĩ ở Thượng Hội, Nguyễn Huy Tưởng
đã nói thế. Năm nọ, ở Trung đoàn Thủ đô về, bây giờ anh lại đương nghĩ về cuốn
tiểu thuyết phải viết lại.
--------------------------------
Sau tháng Tám 1945, Trần Kim Xuyến công tác tại đài Tiếng
nói Việt Nam. Đầu 1947, đã hy sinh trong trận Pháp tấn công vào nơi phát
thanh của đài trong núi Tử Trầm gần thị xã Hà Đông. |
NGƯỜI BẠN ĐỌC ẤY
Ngày 6 tháng ba năm nay 1 ,
Nguyễn Công Hoan sáu mươi tuổi.
Cũng tới năm nay, tập truyện ngắn đầu tiên của anh, quyển Kiếp
hồng nhan đã ra đời được bốn mươi năm.
Những con số ngày tháng đơn sơ mà xiết bao cảm động. Tuổi của
văn xuôi hiện đại chưa mấy. Tuổi văn Nguyễn Công Hoan, mới tính đến giờ, đã có
thể đọ được với tuổi đúng của nền văn xuôi hiện đại.
Nếu ta nhẩm từ cái hồi mà lời văn bổng trầm khóc đứng khóc ngồi,
đến thời kỳ văn chương sạch sẽ kiểu “Tự Lực”, thì, lực lưỡng như một tay
đô vật không có địch thủ, từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện ngắn truyện dài
Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo Ba Vì hùng vĩ vượt qua cả
hai thời kỳ, tiến vào ngày nay.
Tôi ghi lại những ý trên khi nhớ tới hai ngày sinh của người
bạn kính mến thân yêu của tôi.
Tôi đương có công tác về thôn Vân ở Đan Phượng.
Từ cầu Phùng vào Vân, còn hơn mười cây số, mà bóng chiều đã
ngả: Ông mặt trời mùa xuân hiếm hoi lừ đừ màu đỏ ngọt ngào đã xế trên chỏm núi
Ba Vì. Đê sông Đáy kẻ sợi chỉ mờ thẳng tắp nhấp nhô những lũy tre xanh nhạt,
đôi chỗ chấm tròn một lùm cây vải đen thẫm. Tất cả quen quen như đã gặp nhiều ở
đâu.
Cách đây hai mươi năm trước, bước chân trôi dạt của một người
làm công nhà buôn đã đưa tôi đến Móng Cái. Tôi đi tính sổ bán hàng cho đại lý
hiệu giầy Ba-ta ngoài ấy. Trên bãi bể Trà Cổ, anh bạn nọ trỏ cho tôi một người
và bảo:
- Ông Nguyễn Công Hoan đấy!
Lần đầu tiên tôi trông thấy anh. Không phải như những kẻ
phong lưu đi nghỉ mát Trà Cổ mà là anh đương làm công chức “gõ đầu trẻ” ở
ngay làng Trà Cổ.
Một người đàn ông đứng tuổi dắt tay một cô bé gày gò lững thững
đi đôi guốc lê trên cát còn hầm hập nóng. Bãi Trà Cổ đã vắng lại càng vắng.
(Ngày ấy không phải ai cũng háo hức nghỉ mát Trà Cổ như bây giờ). Trà Cổ chỉ có
mấy cái nhà Tây của các quan binh Móng Cái. Đằng kia, nhà thờ Trà Lộ nhòm xuống
bãi biển càng hiu hắt lạ lùng.
Tôi vẫn còn nhớ mãi cái đêm sáng trăng, trên tầu Tây Điếc từ
Mũi Ngọc về Hải Phòng, anh đứng trên boong nhìn vào Hà Cối. Tôi vừa đọc truyện
ngắn Nghĩ người ăn gió nằm mưa của anh ở báo Tiểu thuyết thứ bảy. Tôi không cố
ý giữ một hình ảnh tượng trưng.
Nhưng làm sao mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn lạc về bãi bể Trà Cổ
xa vắng và đêm trăng một mình qua Bái Tử Long ấy. Sự sáng tạo chân chính ở thời
kỳ đen tối này, sao mà lớn lao, cũng sao mà cô đơn.
Hai cha con cứ lùi lũi đi về cuối bãi. Vài chiếc vỏ sò, vỏ
ngao, vỏ ngán, vỏ hà và bọt biển dạt từ Bắc Hải bên kia tới. Những vật nhỏ bé
phương xa đó làm tò mò cô gái. Nhưng đôi mắt người cha đăm đăm theo những đàn
chim gì không biết, đương lặng lẽ bay xa, thật xa.
Có lẽ không thể tới Vân được. Trời muốn tối đến nơi. Những tiếng
ban ngày ồn ã trên cánh đồng giờ nghe mơ hồ vời vợi. Và người đi đường cảm thấy
quạnh quẽ hơn, âm thầm hơn.
Nhưng, đằng sau lưng bỗng trỗi lên một tiếng xoang xoảng nhộn
nhịp. Như trâu bồn, như tiếng quăng lưới gõ cá trên mặt hồ chưa tan sương. Tôi
quay lại. Từ trong làn sương đục phủ mặt đê cao, một chiếc xe ngựa rong ruổi hiện
ra, nghe rõ tiếng cười nói xôn xao của những người ngồi trên xe. Xe càng gần tới.
Trước nhất, thấy hai vành bánh cao su đặc to thô lố. Ở giữa
chất lù lù toàn những mạ, lấp cả hai hàng người ngồi dưới. Đằng trước đánh xe,
là một cô gái. Cô lừ lừ nét mặt. Vành khăn nâu non ló sau mũi khăn vuông cao
chót vót, lối chít khăn của con gái Sơn Tây bờ sông Đáy.
Chiếc xe vừa lướt tới, tôi thấy cô đánh xe cười. Thì ra, có
cái dáng mặt nghiêm lừ lừ kia là vì con ngựa. Cô đương giơ ngọn roi tre lên dứ
cho ngựa chạy nhanh hơn.
Cô ngoái ra, nhanh nhảu hỏi:
- Về đâu tối thế?
Câu hỏi cộc lốc, nhưng giọng hồn nhiên và táo tợn.
Xung quanh tôi chỉ còn có cánh đồng và một mình, càng cảm thấy
đường xa.
- Về Vân đây.
Mấy cái đầu lấp ló nhìn ra.
- Về Vân à?
Tôi gạn:
- Cho đi nhờ với.
Cô đánh xe nói:
- Được thôi.
- Chứ đi bộ thì sang năm mới đến Vân!
- Ngồi nhích một tí nào, các vị ơi!
Anh Nguyễn Công Hoan à, anh có thể tưởng tượng như thế này
không, khi tôi ngồi trên cái xe ngựa lắc lư chạy, trong tôi cứ bập bỗng rồi lại
thiết tha theo đuổi những ý nghĩ lúc nãy về anh. Điều đó không phải tự nhiên và
không có lý. Những tưởng tượng về anh ngày sinh của tuổi đời và tuổi tác phẩm của
nhà văn... Những bóng xa xa, mờ mờ về Trà Cổ với đêm Bái Tử Long qua Hà Cối. Ý
nghĩ tôi khấp khểnh theo vòng bánh trong khi tôi trầm ngâm nhìn cô gái đánh xe.
Cái dáng quen, ừ rất quen. Cách đây nhiều năm rồi, gặp năm nước
lớn, hương lý làng Nghĩa Đô đốc thúc người đi đê. Trai tráng làng tôi suốt lượt
phải hộ đê từ Tứ Tổng lên tận vùng này. Chúng tôi cơm nắm cơm đùm kéo bộ cả đêm
đến sáng mới tới điếm canh đê hàng tổng. Nhớ làm sao buổi sáng hãi hùng ấy, cái
cảnh tôi trông thấy đoàn người chạy nước từ dưới bãi lên lấm vùi như đàn chuột
trong hang đang bị ộc nước. (Về sau, một trong những truyện ngắn đầu tiên tôi
viết, là truyện ngắn Nước lên in trên báo Hà Nội tân văn của anh Vũ Ngọc Phan,
trong đó đã chép lại nhiều hình ảnh đau thương hôm ấy).
Bao nhiêu năm, bây giờ tôi trở về đây. Trở về những làng Vân
đất bãi điêu tàn năm nào. Phải, tôi cố nhớ ra cái dáng. Vẫn dáng người con gái
xốc vác của những cô thợ đấu tỉnh Sơn, vai chắc lẳn, cổ cứng, đội đất rất khỏe.
Chỉ khác, không phải người lam lũ từ nước lụt chạy lên. Đây là cô gái làng Vân,
bảnh chọe dong chiếc xe ngựa.
Cái xe lắc lắc đều đều qua cánh đồng. Tay cô ấy dứ roi, mắt
nghiêm, rất sắc, rất tươi. Tôi nghĩ đến lớp thanh niên trong làng bây giờ, chủ
lực của lực lượng sản xuất. Họ bao hết những việc làm thủy lợi và cải tiến nông
cụ, khó khăn nhất. Cô này ở lớp tiên tiến ấy, hẳn là nhóm trưởng nhóm cấy? Là tổ
phó tổ kỹ thuật? Hay đội phó, đội trưởng phụ trách sản xuất, tổ cô ấy vượt diện
tích, hết mạ dự trữ, phải đi mua mạ chợ xa?
Trong xe đang râm ran chuyện. Những chuyện chống hạn, đào giếng
và linh tinh... Người kẻ Cốc ăn khỏe, con gái Hạ trêu anh cán bộ đến phải bỏ xe
đạp mà chạy, trên huyện vừa mở thêm hiệu bào chế đông y, lớp ngô sớm phải hạn
khéo đến hỏng ăn.
Nhưng chuyện ồn ào nhất là việc cấy phải xong giữa tháng...
- Xong thế cóc nào. Nước đâu kịp!
- Cũng chẳng cần. Năm nay nhuận tháng Tư thì tháng Hai cũng
như tháng Giêng, cấy sớm cho nó cóng cây à?
- Ấy, còn tính thời tiết trông giời thì không phải “nông
dân cải tiến 63” đâu nhé!
Người ngồi cuối hàng nghếch mặt lên khỏi đống mạ, gọi ra:
- Cô Ninh Bình ơi...
Cô đánh xe quay lại:
- Gì thế?
- Đội cô nhất định cấy xong giữa tháng này a?
Cô đánh xe trả lời bằng miệng cười nhoẻn rồi lại dứ chiếc roi
lên cho ngựa chạy.
Sương lam đã vần vụ cả quanh xe rồi. Tôi chợt có cảm giác hồi
hộp như trẻ con. Một cái gì xa xôi mà thắm thiết. Không phải vì câu chuyện
phong phú và miên man trong xe. Cũng không phải vì làng Vân trước mặt kia đương
phảng phất những kỷ niệm thời thanh niên, khi tôi mới cầm bút tập viết văn.
Không, chính vì cái tiếng ai ngồi đằng kia vừa gọi “Cô Ninh Bình ơi! Cô
Ninh Bình...”. Cô Ninh Bình, cái tên hiền hòa nghe mà như trông thấy hoa nở và
yên lành, vừa lạ vừa quen làm sao. Trong tiếng bánh xe, tiếng vó ngựa lọc cọc
là lạ trên nền đất mỡ gà ấm đỏ, giữa làn sương buông mỗi lúc một dầy, tôi vẳng
nghe chen nhau những tiếng gọi, tiếng đùa cợt, tiếng cười: “Cô Ninh Bình!
Cô Ninh Bình ơi!”, tôi nghĩ đến anh.
Từ ngày anh kể cho tôi nghe chuyện ấy, mỗi khi qua Ninh Bình,
hoặc chợt nghe ai nói đến hai tiếng Ninh Bình, tôi không thể nào không chạnh nhớ.
Bấy giờ là mùa hè 1938, anh nhỉ? Hơn hai mươi năm trước, ở
Nam Định. Những truyện ngắn anh viết lúc ấy đăng trên các báo Hà Nội quả thực
là những con dao bầu mổ phanh cái bụng giới quan trường và bọn nhà giàu. Cái
giàu sang kệch cỡm và bất nhân của chúng, dưới ngòi bút vạch toạc sự thật giễu
cợt đắng cay của anh, thành những bỉ ổi thối tha mỉa mai trước mắt bạn đọc.
Thế nhưng cuộc đời kẻ cầm bút bấy giờ chỉ là những mưa gió.
Chẳng những bởi cái nghề dạy học ăn gửi nằm nhờ lăn lóc từ Hải Dương, Nam Sách,
Kinh Môn, Nam Định, lên Lào Cai, ra Trà Cổ, đã cho anh trải anh thấy. Chẳng những
chỉ vì khi tấm bé anh đã ở cái cửa phủ, cửa huyện ở Thanh Oai, ở Phù Ninh, ở
Thái Bình, cậu bé Nguyễn Công Hoan đã chứng kiến và băn khoăn vì không thể cắt
nghĩa được biết bao nhiêu khốn khổ xám trời, xám đất cứ từ các làng, các xóm
ngày đêm lũ lượt kéo lên “công môn”.
Và thời ấy, ngay ở thị xã Nam Định này, những hồi còi tầm hút
người vào nhả người ra chẳng kể gì đầu hôm gà gáy qua những bức tường cổng tòa
nhà máy sợi đen kịt một góc thành phố. Những người nông dân ngày đêm đội rơm, đội
gạo, đội con cái vượt cánh đồng chiêm trắng nước từ bốn phía cổng tỉnh vào ngồi
chồng đống ở chợ Rồng ngay dưới mắt anh, trong suy nghĩ của anh. Không thể một
cái gì, một chỗ nào phơi ra nhiều vẻ hơn, trái ngược hơn ở cái chợ thời trước,
xã hội thế nào nó bày thế ấy ở chợ. Thôi thì bát nháo kẻ cười người khóc, người
đói, người chết, nơi kia hằng hà của cải, nơi này núi rác núi ruồi. Cái gác nhà
ông giáo Hoan thuê ở trông xuống những khổ ải nhất đời ấy. Cửa nhà anh ngó xuống
nóc cái địa ngục người và nắng. Hằng ngày, hằng năm anh đi qua, anh lặn lội giữa
cái chợ chìm nổi quằn quại những người là người. Lẽ nào anh không viết. Anh
không viết không được. Anh phải viết. Anh đã viết. Có lần anh nói “để trả
ơn những cộng sản” đã bồi đắp cho suy nghĩ của anh hồi Mặt trận dân chủ
Đông Dương, anh viết tiểu thuyết Bước đường cùng. Tôi muốn nói rằng tiểu thuyết
Bước đường cùng của anh đã bắt đầu từ những khổ ải đời người và đời mình mà ra.
Vâng, thân phận anh, một nhà giáo khổ, khổ mọi cảnh. Người đứng
bét cùng ở cái hàng người có tên là tiểu tư sản trí thức ấy chưa bao giờ ngớt
đi vay nợ. (Tôi không hiểu sao, cho tới giờ, anh chưa viết về cái thảm cảnh âm
thầm mà khốc liệt, là nạn vay nợ lãi). Anh nợ suốt đời. Anh lo suốt đời. Trong
nhà, các em các con lần lượt ra đi hoạt động cách mạng. Không mấy khi Tết đến,
đủ người về. Nhà lúc nào cũng có người tù ở Hỏa Lò, ở Côn Đảo, có người đi bí mật
- kể cả cô gái út mảnh khảnh năm nào anh dắt đi trên bãi Trà Cổ. Và anh, anh
theo nghề nay đây mai đó, sống đời lưu lạc bất đắc dĩ.
Lúc này, chính quyền thực dân lại sắp đổi anh ra Trà Cổ dù
anh đã ở tỉnh đường ngược Lào Cai về. (Theo luật lệ của Tây lúc ấy, công chức
đã làm việc ba năm ở miền núi, được về xuôi hẳn). Cái hiu hắt kéo lê bóng cha
con trên bãi Trà Cổ hoang vắng kia, tôi đã thấy rồi.
Thế nhưng, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã cất tiếng. Tiếng nói
nhà văn thống thiết nêu lên những khổ ải quanh mình. Không hiu hắt, không tuyệt
vọng.
Bạn đọc đã thấm thía với tiểu thuyết Bước đường cùng.
Trong cánh cửa nhìn xuống những mái lợp tôn chợ Rồng, ngòi
bút viết ra những nỗi đau đớn đời người.
Buổi trưa nắng hầm hập hơi nước đồng chiêm ngột ngạt tràn qua
cái thành phố ủ ê, lử lả. Cầu chợ Rồng dưới kia, những cái chảo hầm người.
Bỗng có tiếng đập cửa.
Khi mở cửa anh đã nghĩ sẵn điều để ngừa trước.
Bọn mật thám thường đến nhà người ta thình lình.
Nhưng không phải.
Người gõ cửa là một người “nhà quê” - anh không
quen biết. Người ấy trạc bốn mươi tuổi. Khuôn mặt to hơn hẳn so với khổ người
thấp bé lại gồ ghề, khắc khổ, vừa rám nắng, vừa vàng nghệ, thành màu đất thô
xám, không thể đoán được người ốm hay người khỏe.
Người ấy chít khăn lượt, mặc áo the lửng, tay cầm cái ô vải
trắng lơ, đi đất.
Khách nói:
- Thưa ông, tôi ở huyện Yên Mô trong Ninh Bình ra.
Anh chưa hiểu thế nào.
- Tôi muốn thưa với ông một việc.
Anh càng lúng túng nhìn người lạ.
- Ông ơi, đời tôi rất khổ.
Chỉ một câu ấy, nét mặt tần ngần đăm chiêu ấy, anh đã hiểu. Một
câu nói, một câu nói vào một cảnh một tình, có thể mở ra cho nhà văn nhìn thấu
suốt trước sau. Thế rồi người ấy đều đều kể ra nỗi khổ chồng chất nghìn đời.
Người ấy nức lên. Khuôn mặt to lớn sầm lại, nhòa nước mắt. Rõ
ràng là một người không hề khóc bao giờ. Nhưng người ấy đã khóc, rồi nói:
- Tôi đã thắt cổ mà không chết được. Tôi mới biết thì ra số
kiếp tôi còn phải chịu khổ lâu, muốn “đi” cũng không “đi” được.
Đã thế, bọn lý dịch còn cho là thắt cổ vờ. Nó lại kiện tôi thắt cổ để dọa quan
trên.
Người ấy thở dài:
- Tôi biết làm thế nào...
Rồi im một lúc lâu. Nắng trưa càng nặng nề.
- Bây giờ tôi trông cậy vào ông.
Anh nhìn người ấy. Không ngạc nhiên, con mắt và trái tim nhà
văn hiểu ngay sự tin cậy ấy. Nhưng chẳng hay người ấy tin cậy gì ở anh? Anh là
thế nào? Những câu tự hỏi và có thể tự trả lời ngay được, tuy nhiên, trong hoàn
cảnh xã hội ba đào như thế, anh đã viết một loạt truyện “xã hội ba đào ký” mà
- cũng lắm khi con người không biết mình là ai nữa. Số phận khủng khiếp của người
nông dân kia và của người cầm bút viết văn âu cũng đương là một. Hai con người
cùng khổ ở đời.
Anh vẫn im lặng nhìn người bạn mới.
Người ấy nói:
- Không, tôi không đến nhờ ông làm hộ cái đơn để kêu oan cho
tôi. Tôi chỉ thấy khổ như cảnh tôi là khổ đến tuyệt trần đời rồi, cho nên tôi
phải kể cho ông viết, ông phải viết thành sách, nếu không thì chẳng ai biết được
dân đen chúng tôi cực nhục đến như thế nào, bọn hào lý quan trên độc ác đến như
thế nào.
Người ấy tin cậy anh thế đấy. Bỗng nhiên, trong cơn nung nấu
đến ngạt thở trên cái chợ người giữa trưa, nhà văn cảm thấy được sức mạnh ngòi
bút mình không sóng gió nào vùi dập được, không thế lực nào địch được. Trước mắt,
chỉ có anh và người nông dân khốn khổ.
Tiểu thuyết Bước đường cùng anh viết mùa hè 1938, khi anh còn
ở rốn lại Nam Định. Song, từ ngày ấy tôi cũng chưa hỏi xem anh đã gặp người
nông dân ở Ninh Bình kia khi nào, có phải lúc anh viết Bước đường cùng không.
Nhưng tôi có một yên trí đặc biệt, tôi tin rằng Bước đường cùng có anh ta. Bước
đường cùng là người ấy.
Rồi khách không nói gì nữa. Khách đứng dậy. Đến lúc ấy, anh mới
bàng hoàng, như chợt tỉnh, anh hốt hoảng hỏi:
- Ông đi à?
- Vâng, xin chào ông.
- Ông về Yên Mô bây giờ?
- Không.
- Thế ông đi đâu?
Người ấy cười nhạt:
- Tôi đi cùng trời cuối đất này, cái số tôi không chết được
mà.
Rồi người ấy quay đi.
Anh không hề biết tên người ấy. Anh kể chuyện cho tôi nghe đến
đấy, chúng tôi im lặng một lúc thật lâu.
Vâng, đấy là người bạn đọc thân thiết, bạn đọc chân chính,
nhà phê bình đúng nhất, nguồn sáng tạo và sức mạnh cổ vũ to lớn, mạnh mẽ cho
nhà văn.
Tôi chỉ nghe anh kể lại mà cũng không thể quên được. Cả mỗi
khi qua Ninh Bình, mỗi khi nghe ai nói hai tiếng Ninh Bình, tôi lại sực nhớ người
bạn đọc thiết yếu ấy của anh. Đời người viết văn trong lúc đen tối nhường này,
đã gặp người bạn đọc vĩ đại, người bạn đọc và sức mạnh cảm hứng chân chính, quả
là một điều mà trước nay trong văn chương không mấy ai đã gặp được niềm ao ước ấy.
Chiếc xe ngựa về Vân vẫn lóc cóc đi. Con đường đất đỏ trên đê cao mờ dần dưới
làn sương.
Tôi ngồi đầu hàng ghế trong khoang xe. Những bó mạ lắc lư dần
dần nghiêng xuống, muốn đè lên người.
Vì thế, mở một khoảng cách, nhìn sang cô Ninh Bình, một cảm
tưởng man mác, tôi trông cô đội trưởng đánh xe ngựa, và nhận ra người con gái ấy
mỗi lúc một đẹp hơn. Mặt cô đỏ lừ vì chiều muộn đã tắt nắng, mà chân trời Sơn
Tây trong sương sa trước xe còn phơn phớt ánh hồng lại. Cô Ninh Bình ơi!
Câu chuyện trong xe cứ càng hoàng hôn càng rôm rả. Mọi người
đương chế giễu cô đánh xe.
Một thanh niên nhìn ra cánh đồng rồi kêu lên:
- Không về kịp thôi. Tối mất rồi.
Câu nói bâng quơ, nhưng hình như cô đánh xe chạnh lòng, đối
đáp ngay. Cô quay lại, cười cười, bướng bỉnh.
- Tối thì ngủ lại!
Người ta lao xao:
- Hoan hô cô Ninh Bình! Hoan hô!
Một người khác nói to:
- Tối ở đâu mà chú rể không mò đi đón được, đừng có là ba chục
ki-lô-mét cũng băng.
Mọi người lại cười rầm. Tôi cứ nghe, đoán, rồi cũng thủng câu
chuyện. Câu chuyện bình thường, chuyện trai lấy vợ gái lấy chồng. Đối với lớp
tuổi ấy thì như cơm ăn áo mặc tự nhiên, nhưng câu chuyện này đã xôn xao tuổi trẻ
làng Vân đấy.
Nguyên là tối thứ bảy tới thì “tiệc trà” cưới cô
Ninh Bình, đội phó sản xuất làng Vân. Cô đội phó lấy chồng. Nếu câu chuyện yêu
nhau rồi lấy nhau của lứa đôi ngày một tốt đẹp, cuộc sống tình cảm hai người cứ
đằm thắm lên, thì vụ đông xuân này lại đương qua bước thử thách nặng nề. Hơn
hai tháng nay trời không mưa. Những bãi ngô sớm úa rồi vàng quăn hết lá, châm
cái lửa đốt cháy được. Đâu đâu cũng khổ công chống hạn, đổ một lúc hàng nghìn
người ra đồng.
Trên huyện cho ba máy bơm xuống. Thế là, nước về trắng đồng.
Các đội đua nhau cày trâu theo nước về, lên quá mức khoán. Tổ kỹ thuật cất công
đi các làng, các chợ lùng mua thêm mạ. Cô đội phó Ninh Bình phụ trách kỹ thuật
phải tất bật vào công việc ấy.
Nhưng cái khó không phải việc đi lùng mạ, mà điều “rắc rối” là “tiệc
trà” đã định ngày trước rồi, mà ngày nào cũng phải đi thế này.
Chúng ta đã thấy cô Ninh Bình rong ruổi chiếc xe mạ đó.
Tới làng Vân thì trời vừa tối. Chiếc xe vào tận cái sân phơi
rộng đầu làng. Mạ được xếp cả xuống đấy.
Cô Ninh Bình bảo tôi:
- Bây giờ sang xóm chủ tịch thì tối quá rồi, anh ạ. Mời anh về
nhà tôi nghỉ, mai sớm hãy sang.
May quá! Không phải vì chỉ cớ tôi đang tò mò cuộc gặp gỡ có
thể, mà thật ra, đêm hôm đèn đóm không có, lại còn lục đục tìm nhà. Vả chăng,
việc tôi không gấp.
Nhà cô Ninh Bình ở bên một bờ ao dài. Những cây chuối xõa lá
tỏa bóng mặt nước trăng suông im lặng. Lui vào trong, một căn nhà nhỏ giữa nền
sân đất phẳng. Ở đây, có cái tĩnh mịch vẻ chùa chiền, tưởng bao đời nay vẫn thế.
Ông cụ - vâng, bố cô Ninh Bình, anh ạ. Ông cụ đã cơm chiều, uống
rượu xong, vừa đi ngủ. Cụ đắp chiếu tùm hụp nằm gian bên, ngáy khò khò - dễ chẳng
biết có người lạ đến nhà - ít thấy cụ già ngủ khỏe thế. Một lát sau mới trỗi dậy.
Ông cụ có ba người con, anh lớn đi bộ đội, người thứ hai làm
du kích đã hy sinh trong trận giặc càn làng. Cô Ninh Bình là út. Cụ còn khỏe.
Những buổi đội cần cày gấp cho kịp thời vụ, cụ vẫn đi cày. Hàng ngày, cụ trông
một chuồng trâu cho đội.
Cuối xuân trời ấm, gió nồm giật mạnh. Nằm nghe tưởng như từng
cơn gió dào dạt rải trên cánh đồng nước chống hạn nhởn vào tận chân tre đầu xóm
quanh đây. Gần sáng, tôi sực thức. Trông sang gian bên, le lói ánh đèn. Nghe viếng
nõ điếu nổ tanh tách. Bóng ông cụ gật gù lung lay in trên lườn nhà. Tôi trở dậy.
Ông cụ vồn vã:
- Anh dậy à? Có nước sớm, anh sang đây.
Nồi nước chè xanh vò đặc bốc khói thơm ngạt mũi đã đặt sẵn đấy.
Vả lại, cứ trông cung cách đóm điếu thong thả lúc gà gáy như thế, tôi hiểu: Ông
lão dậy sớm đã thành lệ. Tôi đương ngồi trước mặt một cụ già quắc thước. Người
vạm vỡ, mặt to, chân tay xương đầu gối chắc chắn, thô lố, như những chuôi vồ,
những lưỡi cày 58, những cuốc bàn còn tốt. Chịu không đoán được tuổi. Bảo sáu,
bảy mươi hay bảy, tám mươi cũng thế - thường khó đoán được tuổi các cụ già khỏe
mạnh.
Ông cụ nói:
- Tôi thì quanh năm, gà gáy tan canh, làm xong tuần nước là
đi lo trâu được no sớm, ngày mùa không kịp cho trâu ăn trước buổi cày sáng. Tôi
không ngủ được hết đêm, anh ạ. Tôi không ngủ nổi hết cái đêm, có lẽ thành tật từ
lúc còn trẻ kia.
Tôi có cảm tưởng thật khác lạ, nhưng tôi lúng túng chưa biết
hỏi thế nào.
- Cụ ở quê ta...
Ông cụ đáp ngay:
- Tôi gốc người trong Ninh Bình. Đấy, tên các em nó tôi cứ đặt
lung tung, gọi là nhớ quê cha đất tổ, con Ninh Bình, thằng Yên Mô...
Tôi thong thả thở một hơi dài. Như vừa suy nghĩ được một điều
hệ trọng. Ông cụ lại nói với theo câu vừa rồi:
- Từ ngày còn trẻ, tôi chẳng tài nào chợp mắt được đẫy đêm.
Cái đời người ngắn lắm, phải thức mà lo liệu chứ. Đời tôi xưa kia cùng cực quá,
ông ạ. Thắt cổ mà cũng không chết được...
Rồi ông cụ cười, trống hốc cả hai hàm móm.
Tôi nén xúc động, cúi uống bát nước chè vò đặc sánh. Ngoài trời
còn đầm sương. Tiếng bánh xe lẫn tiếng vó ngựa lọc cọc qua. Xe ống bơm chống hạn,
xe mạ ra đồng cấy. Những tiếng ban ngày lại bắt đầu.
Anh Nguyễn Công Hoan, anh đoán cũng có thể biết sung sướng đến
thế nào, tôi được gặp người bạn đọc của anh. Người bạn đọc trong những bạn đọc
cực kỳ đông đảo, nguồn sáng tác suốt đời của chúng ta.
--------------------------------
Tháng Giêng 1963. |
NGUYỄN CÔNG HOAN
Năm 1963, trong dịp anh Nguyễn Công Hoan lên lão sáu mươi,
tôi có viết một bài mừng thọ. Bài bút ký Người bạn đọc ấy, anh Hoan nói vui:
- Tôi đọc bài anh mà rơm rớm nước mắt, khỉ thế!
Anh bảo tôi như vậy. Cách nói rất Nguyễn Công Hoan!
Tôi xiết bao bâng khuâng với nguồn cảm thông của anh trước
tâm sự tôi đã giãi bầy trong bài ký đó.
Anh đã cho in cả bài Người bạn đọc ấy vào tập hồi ký của anh:
Đời viết văn của tôi 1 .
Và cảm động, tự hào khó tả bao nhiêu cho tôi, bài Người bạn đọc ấy của tôi còn
khơi gợi để anh viết thành tiểu thuyết Con trai người bạn đọc ấy.
Bao nhiêu năm nay, những gì anh viết, tôi đều đọc, có thể
nói, không sót một chữ. Tưởng như từ tập truyện Kiếp hồng nhan đến giờ, anh viết
bài nào ở báo nào, sách nào, người học trò chăm chỉ của anh đều tìm đọc.
Tôi đã nghe anh kể anh cũng chú ý đọc tôi từ những truyện ngắn
đầu tay của tôi đăng báo Hà Nội tân văn. Đến bây giờ anh vẫn đọc và thường cho
tôi nhiều ý kiến về mọi cái tôi viết ra.
Có lẽ từ hơn nửa thế kỷ làm nghề văn, tới nay, lúc nào anh
cũng viết. Những truyện ngắn trong Kiếp hồng nhan anh viết cái năm tôi mới được
sinh ra, năm 1920, thế mà tới nay, anh vẫn là người viết hăng hái, siêng năng
như vẫn siêng năng, cần mẫn từ bao lâu nay, anh bảy mươi lăm tuổi rồi mà bạn bè
không ai hề nghĩ tuổi anh đã cao. Người ta chỉ thấy anh cũng đương viết như
chúng tôi, và như chúng tôi. Một nhà văn lúc nào cũng đương viết thì không bao
giờ biết già và không bao giờ ai cho là già. Những người lớp tuổi sau kính trọng
tuổi anh, ao ước được thân thiết với lao động sáng tác của anh.
Tháng trước, anh phải nằm bệnh viện. Cũng tháng trước, báo
Văn nghệ ngày 21 tháng năm 1977, in bài bàn vấn đề về chữ “nhà” của
anh. Bài anh đề viết tháng 5, viết cả khi ốm nặng. Tôi đọc bài ấy, ghi mấy chữ
vào sổ tay để nhớ và tôi nghĩ thêm được những chữ: nhà bàn, nhà tầu... Vẫn định,
rồi lúc nào gặp nói đùa “biếu anh thêm mấy chữ này”.
Trong bài Người bạn đọc ấy tôi có kể lần đầu tôi gặp anh Nguyễn
Công Hoan ở bãi biển Trà Cổ, quãng một năm trước năm 1940.
Hồi ấy, anh dạy học ở làng Trà Cổ. Còn tôi đương làm phụ kế
toán cho nhà giầy Ba-ta ở Hà Nội. Tôi ra Móng Cái tính sổ hàng của đại lý. Thấy
anh ở Trà Cổ rồi tình cờ cùng đáp chuyến tầu thủy chở khách của hãng Tây Điếc từ
Mũi Ngọc về Phòng. Tôi làm quen với anh. Tất nhiên, anh chẳng biết tôi là ai.
Tôi chưa viết văn. Cũng chưa có cái tên như tên tôi bây giờ.
Nhớ hôm ấy anh mặc quần soóc trắng, đội mũ cát đít vịt, hút tẩu
thuốc lá, đứng tựa lan can tầu trông ra biển. Tôi mon men đến. Tầu qua Hà Cối,
anh trỏ hòn đảo mà tầu vừa rời xa, nói Tây gọi đảo ấy là Chapeau Chinois. Tôi
trông hình đảo nổi trên mặt biển cũng giống núm cái mũ cói rộng vành của người
lao động Trung Quốc thường đội. Trên tầu có Trần Trọng Kim hồi ấy là đốc học Hà
Nội ra nghỉ mát Trà Cổ. Về đến Quảng Yên thì ông Trần xuống, anh bảo tôi là ông
ta xuống chơi với tuần phủ Quảng Yên. Trên tầu có đoàn chị em ái hữu tiểu
thương chợ Đồng Xuân đi chơi Móng Cái, sang cả Đông Hưng bên Trung Quốc. Tôi
cũng có sang Đông Hưng. Sau chuyến ấy, tôi viết một bài phóng sự về quang cảnh
thị trấn Đông Hưng chuẩn bị chống Nhật. Tôi gửi bài vào báo Mới, một cơ quan
công khai của phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương ở Sài Gòn. Chỉ thấy ở mục
hộp thư báo đăng tin có nhận được bài mà thôi.
Ngót bốn mươi năm rồi, mà vẫn nhớ nguyên chuyến tầu. Cái tầu
thủy cũ kỹ chạy ven biển - hai ngày, hai đêm mới từ Mũi Ngọc về tới bến Bính,
guồng tầu quay ầm ầm, sủi bọt trắng xóa ngày đêm đằng đuôi tầu. Nhưng phải nói
là biết anh Nguyễn Công Hoan, tôi biết từ khi học lớp cấp ba tiểu học, khi bắt
đầu biết đọc sách và đọc truyện ngắn trong tuần báoTiểu thuyết thứ bảy, số 1,
in năm 1933...
Đến hồi đương tuổi thanh niên tôi lại “biết” anh
vào dịp anh em ái hữu thợ dệt quê tôi diễn vở kịch Tấm lòng vàng của anh. Kịch
kể chuyện một nhà giáo, từ tâm giúp một học trò nghèo. Sau anh học trò ấy làm
nên, kín đáo đền ơn tạ thày. Tôi đóng vai người học trò nghèo trong kịch Tấm
lòng vàng. Thày Thịnh, thày giáo dạy tôi lớp 1 ngày trước, lại đóng vai thày
giáo. Con gái thày giáo là cô Mỹ Ảnh, một cô đào tuồng rạp Quảng Lạc. Chúng tôi
đã xuống Hà Nội thuê cô ấy về đóng, ngày ấy chơi kịch nghiệp dư, khó kiếm được
vai nữ thật.
Hồi này, anh đã được đổi về dạy ở Nam Định.
Tôi viết thư xin phép tác giả. Thật ra, tôi ao ước được thấy
mặt chữ một nhà văn nổi tiếng hơn là việc xin phép. Tôi đã được như ý. Chữ ký
trong thư anh không chân phương như bây giờ, mà loằng ngoằng búi tròn lại thành
một đám như con nhện rồi buông một nét sa xuống dài thõng, anh Nguyễn Công Hoan
vốn tinh nghịch, hay làm ngược. Có phải vì ngày ấy các nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận,
Đoàn Phú Tứ ký tên thường phất những nét cao ngất đài mây lên trời mà nhiều người
đã bắt chước, thì anh ký thành một cục chữ rồi cho chọc một nét xuống đất.
Tôi giữ cẩn thận cái thư ấy, tới sau tháng Tám 1945, đã đưa
anh xem.
Thật thì cũng chẳng mấy khi tôi có dịp gần hoặc làm việc lâu
với anh, nhưng tôi nhận thấy ở anh lúc nào cũng lạc quan hay nói đùa. Cái vui của
một người có nhiều nỗi buồn, không biết có phải thế không.
Trước những khó khăn, những đau khổ, trong mọi hoàn cảnh, anh
vẫn tìm ra cách nghĩ, và làm việc tạo niềm tin.
Xin kể đôi ba kỷ niệm nhỏ.
Năm ấy, cuộc kháng chiến chống Pháp mới bắt đầu. Tôi làm
phóng viên báo Cứu Quốc mặt trận Hà Nội, anh Nguyễn Công Hoan đã vào bộ đội, ở
ban biên tập báo Vệ quốc quân, anh Lê Tất Đắc phụ trách. Báo đóng trong một xóm
trên đồi Đồng Lư vùng So Sở giữa chùa Thầy và chùa Trầm. Cùng làm tuần báo Vệ
quốc quân lúc ấy có Thôi Hữu và Thâm Tâm. Thấy tôi đến chơi, anh Nguyễn Công
Hoan giữ lại bảo “ở lại đây làm báo với chúng tớ cho vui”. Thế là thủ trưởng
Lê Tất Đắc ký giấy xuất kho cho tôi bộ quần áo bộ đội xanh lá cây, cái mũ cứng,
thêm chiếc mũ ca-lô. Tôi ở lại có đến mấy tháng, cho đến hôm cơ quan Vệ quốc
quân chạy Tây rời lên Lâm Thao.
Có một chuyện buồn cười, buồn cười khi anh nói lại chứ thật
ra, đây là chuyện gay go, suýt chết. Hôm ấy anh Nguyễn Công Hoan cùng Thôi Hữu
lên Sơn Tây. Không nhớ đi việc gì, tôi mang máng như cũng là các anh đi chơi
thôi, anh Nguyễn Công Hoan mặc quân phục, mũ ca-lô sĩ quan dạ tím có sao vành
tròn.
Lưng anh giắt gồ gồ bao súng lục anh Lê Tất Đắc cho mượn - mà
tôi chắc anh cũng không biết bắn. Người anh cao lớn, mặc bộ đội, trông oai lắm.
Chẳng may, đúng hôm ấy, Tây ở Hà Nội tấn công nống lên tận
huyện Phúc Thọ. Một đằng thì Tây đã lố nhố lên mặt đê, bắn loạn xạ vào trong
làng. Một đằng thì người ta chạy giặc đương gồng gánh xô xuống bãi.
Anh chạy với mọi người.
Anh bị dân quân hỏi, rồi giữ giấy. Người ta nghi anh là Việt
gian, trói anh lại. Ở ngay mặt trận, địch đang đuổi sau lưng mà bị dân quân bắt,
nghi là Việt gian thì chết đến nơi rồi.
Nửa đêm, anh mới mò được về đến Đông Lư. Bùn lấm lên tận mặt,
mất cả mũ ca-lô, cả súng lục. Vết thừng còn lằn đỏ hai cổ tay.
Chúng tôi theo lệnh chuyển lên Lâm Thao, anh đi theo luôn. Dọc
đường, lúc ngồi nghỉ, anh Nguyễn Công Hoan thong thả vui vẻ kể lại chuyện “nguy
hiểm chết người” ấy. Rồi anh cười:
- Từ giờ thì kệch không dám đeo súng!
Một chuyện mới đây. Cục địch vận của Quân đội tổ chức cuộc gặp
mặt văn nghệ sĩ bàn việc sáng tác cho địch vận. Các vùng bị chiếm ở miền Nam dường
ngập ngụa sách vở, ta cần tìm cách thổi luồng gió mới vào.
Các anh ấy đề nghị chúng tôi viết những truyện - viết theo lối
sách chưởng, tình báo, lãng mạn đương thịnh hành nhưng nội dung lành mạnh, khơi
gợi tình yêu nước. Và ký tên khác. Để in công khai trong thành hoặc in ngoài
chiến khu, đem lồng bìa giả, bí mật đưa vào các đô thị.
Chưa ai làm được gì thì anh Nguyễn Công Hoan đã xong một tiểu
thuyết trên một trăm trang bản thảo. Hồi kháng chiến chống Pháp, anh đã viết một
truyện như thế, do quân đội in, quyển Sổng cũi, ký tên là Nguyễn Văn Lung (Anh
cắt nghĩa: là lung tung thiên ấy mà).
Tôi đọc, rồi nói với anh:
- Những đoạn tả tình yêu chưa được.
- Sao?
- Anh cho trai gái Sài Gòn bây giờ viết thư tình như thư tình
trong truyện của anh từ hồi “min-nớp-săng-cà-cộ”. Có cả sợi tơ lòng, đài
gương, dấu bèo, nhạn én thoi đưa, tháng ngày thấm thoắt...
Anh im. Rồi vỗ đùi, cười to:
- Ờ nhỉ, lâu nay cái việc ấy mình không có thực tế. Toàn viết
theo xú-vơ-lia 2 .
Hỏng!
Anh bằng lòng với nhận xét ấy của tôi và tự giải thích theo
cách hài hước riêng. Rồi anh bỏ cả cuốn tiểu thuyết Một kiếp người. Chịu nghe,
Nguyễn Công Hoan vẫn trẻ trung như thường.
Năm trước, anh khoe:
- Mình mới nghĩ ra một truyện dài, cái truyện dài này thì dài
vô tận.
- Truyện gì ạ?
- Truyện “Nhớ gì ghi nấy”.
Tôi vẫn chưa hiểu, anh cắt nghĩa: ở tuổi anh ấy bây giờ, những
từng trải buổi giao thời, những mắt thấy tai nghe qua mấy chế độ, biết bao chuyện,
phải ghi lại cho lớp người sau biết.
Thế là anh đóng từng tập giấy khoảng trăm trang. Mỗi khi nhớ
một việc, anh suy nghĩ thấy nên ghi lại, anh ghi. Hết tập giấy ấy, anh đóng tập
khác.
Anh cười, giơ tay, vẻ đắc chí:
- Ơ hay, chẳng phải là chuyện dài vô cùng tận thì là cái gì.
Từ nay đến ngày mình chết, chết thì thôi chứ những điều đáng nhớ đáng ghi thì
cái bộ đại trường thiên tiểu thuyết này của Nguyễn Công Hoan cũng chưa xong cơ
mà!
Những ghi chép ấy của Nguyễn Công Hoan đã có dịp ra mắt bạn đọc
một vài đoạn trên tạp chí Tác Phẩm Mới. Có ý kiến cho là anh ghi nhiều điều
quý. Có ý kiến cho là có cái không hay, không nên ghi, không nên cứ nhớ gì ghi
nấy.
Anh chỉ cười:
- Tất nhiên, phải nghĩ rồi mới ghi chứ, tay mình viết chứ có
phải là cái máy viết đâu, nhưng mà đợi người ta bàn xong xem mình ghi hay hay dở
thì không còn thì giờ, cứ phải làm việc thôi. Từ khi tôi nghĩ ra cái nhớ gì ghi
nấy này, thấy lúc nào cũng bận.
Luôn luôn anh tìm ra nguồn vui, cả trong lúc sáng tác khó nhọc,
anh hay pha trò, nhưng công việc anh làm thì không đùa. Lúc nào anh cũng tập
trung trí tuệ và nghị lực. Chúng tôi thường nghe anh kể và đã biết về cách anh
làm việc, nơi anh làm việc, trước kia cũng như bây giờ. Thật giản dị: một cái
bàn, cái ghế, lọ mực tím, lọ mực đỏ, cái kéo, lọ hồ, tập giấy. Mỗi tối thường
anh viết xong một chương truyện trên mười trang bản thảo giấy khổ nhỏ. Hôm sau,
chữa lại chương ấy bằng mực đỏ. Chỗ nào hỏng, hoặc xê xích câu văn trên dưới
thì cắt dán. Đến bữa, đứng dậy đi ăn cơm, ăn thật no.
Anh bảo: Mình ăn khỏe, quà bánh chẳng thấm vào đâu. Phở cứ
hai bát mới lửng.
Có lần đi Hải Phòng, tôi thấy anh ăn một lúc hai bát phở.
Không bao giờ ăn quà vặt, thỉnh thoảng, dăm bữa nửa tháng, cao hứng mới uống
chén rượu chơi. Viết liền sáu hôm được sáu chương, chủ nhật nghỉ, viết hai tuần
lễ mười hai chương, cứ thế làm tiếp cả tháng, cho đến khi xong.
Sức mạnh tập trung và thói quen làm việc dữ đến thế là cùng,
anh đã kể trong hồi ký Đời viết văn của tôi, anh viết liên tiếp xong tiểu thuyết
Bước đường cùng thì bị đau bại một bên vai phải, anh làm liền một loạt truyện
ngắn, in báo rồi in thành lậpĐào kép mới.
Viết xong, đứt kẽ mắt, bị sưng húp lên.
Đến khi có tuổi, cách thức làm việc của anh vẫn khỏe tương tự,
mặc dầu bệnh nghề nghiệp của một người thực sự lao động nghề văn đã khiến những
năm sau này, anh đau bả vai bên phải như tê thấp, không ngồi cầm bút được lâu
hơn một tiếng và bên chân trái anh đi thường bị run.
Đời anh từ nhỏ, biết bao ngậm ngùi. Người đọc đã thấy trong Đời
viết văn của tôi những chuyện cười cợt về thày ký rượu phố phủ, về anh Nho khúm
núm cửa huyện hoặc về tác giả tự giễu mình là cậu bé nghịch tinh, nhưng người đọc
đã thấy đằng sau những truyện cười đến giàn giụa nước mắt ấy là nỗi buồn của cậu
bé sớm phải xa cha mẹ, là cái lo nhà mình cứ nghèo mãi, bố mẹ lại đông anh em,
mà đi thi mấy lần đều hỏng. Lớn lên, đau nỗi đau mất nước, anh không thờ ơ với
thời cuộc, anh đã giác ngộ và đầu tiên anh hoạt động cách mạng với nhà yêu nước
Nguyễn Thái Học, bạn học của anh ở trường Sư phạm Hà Nội.
Đời anh, đận nào cũng đầy những âu lo. Từ nhiều năm trước, đến
những ngày Tổng khởi nghĩa 1945, trong gia đình, các em anh rồi đến các con anh
lần lượt thoát ly đi hoạt động, có người phải mang án chém, án tù đày chung
thân. Sáng tác của anh có quyển bị cấm lưu hành như tiểu thuyết Bước đường
cùng, thời kỳ Mặt trận Bình dân. Đến khi phát-xít Nhật sắp làm đảo chính, anh bị
mật thám Tây cấm viết, anh phải viết ký tên khác, nhà xuất bản mới in. Những
truyện viết cho thiếu nhi hồi này anh viết ký tên Ngọc Oanh (chữ Nguyễn Công
Hoan viết tắt và xếp ngược), anh đi dạy học, nhưng thực dân Pháp không cho anh
được ở đâu lâu. Ngót hai mươi năm làm nghề gõ đầu trẻ - anh đã viết thành tập tự
truyện trào lộng có cái tên ngộ nghĩnh: Godautre, - chữ “gõ đầu trẻ”, viết
liền và đọc theo kiểu chữ Tây.
Cách mạng tháng Tám thành công. Gia đình anh được niềm vui
chung của đất nước. Rồi, bước vào hai cuộc kháng chiến ngót ba mươi năm, trải
bao nhiêu gian khổ, nhà anh cũng trong những hy sinh gian khổ ấy. Mẹ anh và nhiều
người trong gia đình đã bị bom giết hại. Em anh, con cả anh đã hy sinh trên đường
công tác. Con trai anh vào chiến trường miền Nam.
Nhưng đầy nghị lực và tinh thần trách nhiệm trước cuộc sống,
bao giờ anh cũng vượt lên. Những đức tính ấy ảnh hưởng quan trọng đến toàn bộ sự
nghiệp văn học của anh về tư tưởng, về vốn sống và tài năng sáng tạo.
Tiểu thuyết Đống rác cũ tập I có nhiều chương miêu tả gia
đình một nhà Nho, một gia đình phong kiến điển hình với những thói tục hủ lậu,
đã giam hãm và hành hạ người phụ nữ đến tàn đời trong ngưỡng cửa gia đình.
Thành công của anh trong biểu hiện và mổ xẻ tâm trạng với khung cảnh những nhân
vật phong kiến ấy, tôi hiểu được, do bao nhiêu từng trải và cảm xúc, suy nghĩ của
anh. Tôi có được nghe anh kể về người phụ nữ đau khổ có thật ở Hải Dương đã trở
thành hình ảnh nhân vật phụ nữ xấu số trong truyện. Tâm sự và cuộc đời người
trong truyện cũng là những rối bời trong tâm sự và cuộc đời người viết và xã hội.
Đời viết văn của tôi có nói một chút về cái chết thê thảm của
người thiếu phụ đáng thương mà anh dựng thành nhân vật. Đối với nỗi lòng anh,
tôi hiểu được sâu hơn những thầm lặng, những xót xa, những nguyên nhân nào khiến
anh yêu văn Vũ Lang. Văn Vũ Lang viết như thơ - một nhà văn lãng mạn mất rất trẻ
hồi ấy.
Bạn đọc anh thường chú ý tính xã hội của nhân vật và tính
trào lộng đặc biệt của anh. Tôi thấy ở anh, không phải chỉ có hài hước mà còn
có thơ. Chất thơ ấy làm cho cái cười của anh buồn thăm thẳm hay bay bổng lên.
Những truyện ngắn như Nghĩ người ăn gió nằm mưa, Dám xa xôi mặt mà thưa thớt
lòng, và những tiểu thuyết Tấm lòng vàng, Tắt lửa lòng, Lá ngọc cành vàng, Tơ hồng,
Cô giáo Minh, Bước đường cùng và những bài thơ mà đôi khi anh làm, có đăng báo
Tiểu thuyết thứ bảy và cả cuộc đời lúc nào cũng nén đau thương - những điều tưởng
không dính líu tới sáng tác, nhưng thật đã ảnh hưởng lớn tới tâm hồn sáng tác của
anh. Những cái đẹp, những nét thơ và u uẩn đó ánh lên như hương thơm của chùm
hoa mộc tinh khiết đưa thoang thoảng rất xa trong đêm hè.
Không phải chỉ do tôi suy luận từ sáng tác tới cuộc đời anh,
mà có những điều tôi trực tiếp hiểu được như thế. Chỉ một bàiNgười bạn đọc ấy của
tôi đã gây ra giông bão trong sức mạnh sáng tạo của anh và anh đã tạo nên tiểu
thuyết Con trai người bạn đọc ấy. Phải có cảm xúc thơ, tâm hồn bao la mới chắp
cánh được cho ngòi bút mạnh mẽ được vậy.
Không bao giờ anh trả lời cho tôi về những suy nghĩ của tôi,
như thế, anh có cho là tôi nói đúng không, anh chỉ im lặng. Có khi gõ tẩu thuốc.
Có khi nhả khói thuốc. Đấy là vẻ im lặng và thoáng buồn không bình thường ở một
người vốn hồn nhiên như anh. Anh Nguyễn Công Hoan đã kể lại trong hồi ký Đời viết
văn của tôi: Ngày trước anh đọc tuần báo Hà Nội tân văn, anh chú ý những truyện
ngắn đầu tay của tôi.
Khi Nhà xuất bản Tân Dân ra loại sách Truyền Bá cho thiếu
nhi, anh mách ông Vũ Đình Long nên mời tôi cộng tác. Thế là tôi bắt đầu viết
cho loại sách Truyền Bá. Những truyện đầu tiên cho thiếu nhi: Con dế mèn, Dế
mèn phiêu lưu ký, Mực tầu giấy bản, Chuyện cái đầu tôi. Anh nói anh không thích
Con dế mèn như nhiều người trầm trồ, mà anh khen truyện Mực tầu giấy bản, trong
đó có nhiều đoạn dí dỏm, ngộ nghĩnh.
Tiểu thuyết Tranh tối tranh sáng, anh viết từ những ngày
tháng Tám 1945 ở Hà Nội, cùng loạt với tiểu thuyết Đồng chí Tơcủa anh in trên
báo Sao Vàng, cơ quan của Vệ quốc đoàn. Nhà xuất bản Sự Thật đương in tiểu thuyết
Tranh tối tranh sáng thì bùng nổ toàn quốc kháng chiến.
Anh Nguyễn Công Hoan không giữ được bản thảo viết tay, anh
thường nhẹ nhàng, không chằm bặp mấy với những cái đã viết ra. Vứt đi cái này,
viết cái khác, có gì đâu, anh bảo thế. Ở Việt Bắc, một lần tôi lên nhà in Tiến
Bộ sửa bài ở bến Chanh sông Lô trong vùng rừng Chiêm Hóa trên Tuyên Quang, thấy
trong đám giấy lộn của nhà in từ Hà Nội mang đi có một tập ngót trăm trang tiểu
thuyết Tranh tối tranh sáng đã dập bản in thử. Tôi đem về cho anh. Nhờ vậy, khi
hòa bình lập lại, anh có cơ sở viết tiếp tiểu thuyết này.
Kể lại mấy việc trên, chỉ vì tôi nhớ có lần anh bảo:
- Tôi với anh có nhiều duyên nợ và hợp nhau.
Rồi anh lại nói:
- Tôi phải truyền nghề viết cho anh mới được.
Anh thường bảo nghề văn có những cách, những mẹo riêng mà ít
người biết. Anh hay nói là tôi xem ra bây giờ chỉ có anh, anh Quang Dũng và cô
Vũ Thị Thường là có thể học được nghề, anh nói lý do là khi nói chuyện với
chúng tôi - Quang Dũng và tôi, bao giờ anh cũng thấy dí dỏm lý thú, nghĩ thêm
ra được nhiều cái bất ngờ, thế thì anh giống tôi, anh có thể học tôi được.
Không phải anh chỉ nói vui, mà nói nghiêm chỉnh.
Anh viết truyện cười, nhưng anh sống mực thước, chu đáo, kể cả
trong câu nói, lời hứa và mọi sinh hoạt thường ngày.
Và anh Nguyễn Công Hoan đã làm việc truyền nghề cho tôi, anh
không giảng như anh thường đi giảng các lớp bồi dưỡng sáng tác. Mà anh dặn: Nghề
viết phải học lỏm, học mót, học thế nhớ lâu, người ta nói một, mình hiểu mười,
phải tinh mới được. Này tôi bảo anh... phải láu mới được.
Lúc anh nói thế, hai bàn tay xòe thẳng, giơ ngang, khi mở rộng,
khi thu hẹp, anh đương giảng giải làm ví dụ, hệt như thày đứng trước bảng đen.
Nghề dạy học lâu năm đã làm anh có thói quen và cử chỉ nghề nghiệp ấy. Năm trước,
anh có sáng kiến khiêm tốn và chịu khó đi phỏng vấn nhiều nhà văn, nhà thơ. Ở mỗi
người anh hỏi một khía cạnh sở đắc nhất của cây bút ấy. Tôi cũng được anh hỏi
riêng về ngôn ngữ và kinh nghiệm kiến trúc câu văn.
Anh mở máy ghi âm và chúng tôi cứ việc rôm rả chuyện lung tung
quanh những câu văn và chữ nghĩa.
Ít hôm sau, anh đưa tôi xem bài anh viết theo máy ghi. Có nhiều
đoạn anh đề là tôi nói, mà lại thật là của anh viết. Nhiều chỗ ví dụ cho rõ
nghĩa hơn, cả những đoạn tôi tự nhận xét chất thơ trong câu văn của tôi như thế
nào, cũng anh viết cả.
Anh nhìn tôi đọc bài anh. Vẻ ung dung, bằng lòng.
Anh đương đoán ý của tôi. Rồi anh nói như đinh đóng: “Tôi
chắc anh phải đồng ý! Anh sẽ bằng lòng, anh sẽ thích, vì những điều tôi viết đều
như ý anh”. Thày giáo tôi sao dễ tính và chủ quan thế nhưng cũng đúng thế thật.
Khi đăng bài ấy trên tạp chí Tác Phẩm Mới và rồi nhà xuất bản sửa soạn in thành
sách 3 ,
anh có đưa tôi đọc lần nữa. Tôi nghĩ lại, cũng không có ý gì thêm và khác anh.
Các bài báo, bài bút ký hay truyện ngắn, truyện dài tôi viết,
anh đều đọc, khi bản thảo, khi sách in, anh đọc kỹ và bao giờ cũng khen chê rõ
ràng như thày giáo chấm bài. Phần nhiều anh chê, “yêu cho vọt mà”... Anh bắt
bẻ rồi cắt nghĩa, vẽ ra cách chữa. Nếu không định bảo ban tôi, “truyền nghề” cho
tôi, chắc chẳng bao giờ anh bỏ công thế.
Những nhận xét của anh về hai cuốn sách tôi mới xuất bản, tiểu
thuyết Đảo hoang và truyện ký Lăng Bác Hồ, tất cả đều là những câu anh chê. Xin
trích vài đoạn ý kiến anh về tiểu thuyết Đảo hoang... Giấy anh viết chi chít
trên mặt trái trang bản in hàng ngày dính với nhau bằng hồ.
1. Dưa đỏ mọc ở đâu mà chim đưa hạt ra đảo? Cho rằng nó mọc ở
một đảo hoang nào đó. Bố con An Tiêm biết lấy hạt để trồng rồi thả cho quả trôi
vào đất liền. Vậy sao từng ấy năm ăn dưa mà nhân dân không lấy được hạt để trồng?
Lĩnh Nam Chích Quái có chỗ sơ hở, nhưng “Đảo hoang” phải lấp chỗ hở ấy.
5. Giống chim trắng ở biển, các nhà thơ gọi là hải âu thì dân
vùng biển gọi là con chim mố. Chim mố chỉ ăn cướp cá của các thuyền đi khơi
đánh cá. Nó rất bạo người. Nó đậu ngay ở mạn thuyền để rình cướp cá.
Người chỉ đuổi nó, chứ không giết để ăn thịt, vì thịt nó dai
hơn thịt trâu. Nó không phải là loài chim ăn rau quả. Anh xem lại xem hải âu có
biết ăn dưa đỏ không?
7. Ma-Li là người nước ngoài được cứu sống cho đến hôm nó nói
được thì cứ im lặng không nói câu nào cả.
9. Chương 2, chương 3, gấu được học như người có vẻ xiếc quá,
không hợp.
Anh lại tìm ra những cái thiếu, cái sai từng câu từng dòng.
Trang 13 dòng 6 (dưới lên) “Tứ chiếng”, tác giả nói tiếng
này thì được, An Tiêm nói không được. Vì tiếng này mới có từ thời Lý. Bởi chữ “tứ
trấn” nói kiêng. Tứ trấn là Thăng Long tứ trấn. Có bốn đền thờ bốn ông thần
trấn thủ bốn phương thành Thăng Long; đông: đền Bạch Mã (Hàng Buồm), tây: đền
Voi Phục, bắc: đền Trấn Võ; nam: đền Cao Sơn ở Kim Liên. Tứ chiếng là dân các
nơi đến ở quanh kinh đô, ý nghĩa như khinh bỉ.
Trang 27 dòng 1 (dưới lên) - ở hội vật có cái cử chỉ mà tác
giả gọi là “múa lên đình” thì theo tôi đã biết là hai đô vật “lễ” thần
trước khi vào keo.
Trang 42 dòng 2 (dưới lên) và những trang khác, con cá
nghiêng người... người con gấu... người con trăn phải viết “người” là “mình” mới
chính xác.
Có lúc, anh bảo tôi:
- Một năm trở lại đây, tôi tự nhiên thấy khác hẳn trước. Lên
gác thư viện, mới được một tầng, đã phải vịn tường. Đi xe đạp thấy tay lái chập
choạng, không dám đi nữa. Thường ngày tôi ghét nằm, bây giờ chỉ muốn nằm.
Anh đã cao tuổi, nhưng anh vốn có sức, anh em chúng tôi chỉ
nghĩ như chúng tôi mong muốn: Mong sao anh được mạnh khỏe, mong sao sức anh chỉ
kém đi bình thường theo tuổi già mà thôi.
Có khi, dường như anh ngập ngừng:
- Này tôi bảo anh (anh hay gọi tôi thân mật, bắt đầu bằng:
Này, tôi bảo anh...) tôi còn tồn kho một ít. Anh chữa cho tôi, thế nào cũng được.
Anh đương nghĩ xa. Rồi anh cười nhẹ nhàng:
- Bấy giờ thì tôi còn cãi thế đếch nào được anh.
Nhưng mà thôi...
Anh vốn không ưa nói điều gì buồn.
--------------------------------
Nhà xuất bản Văn học 1971. |
|
Xú-vơ-nia (tiếng Pháp) có nghĩa là kỷ niệm. Nguyễn Công
Hoan nhại đùa: Xú-vơ-lia. |
|
Hỏi chuyện các nhà văn, Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, 1977. |
NGUYÊN HỒNG
Tôi muốn giới thiệu với bạn đọc về nhà văn Nguyên Hồng, mà
không biết nên bắt đầu từ đâu.
Ở sách giáo khoa, từ trung học đến đại học, học sinh các lứa
tuổi đã học những đoạn trích giảng của Nguyên Hồng. Có những ai lơ đễnh, ít chú
ý đến văn học, nhất định cũng đã học văn và biết lý lịch Nguyên Hồng.
Tôi bạn với Nguyên Hồng, mấy chục năm đã qua.
Nhiều khi, đối với người thân, lại không hay chú ý nhau như
thế nào. Cũng như lắm khi hay đến nhà, đến luôn, lại nhãng không để ý số nhà.
Có điều, có thể nói ngay là, nếu như những năm trước, nhiều lớp
bạn đọc khác nhau của Nguyên Hồng, ai đã tình cờ gặp nhà văn - dẫu cho bạn có
thói quen nhận xét tinh tế đến thế nào, cũng không thể ngờ ngợ một chút - một
chút thôi, người vừa gặp ấy lại là một nhà văn. Không thể có một nét, một nét để
ta bám lấy làm cớ cho nhận xét của ta, dù chỉ một nhận xét thoáng qua. Bởi ít
ra, trong tưởng tượng mơ màng và sáng trong của bạn đọc, nhà văn ấy nhiều từng
trải, khi còn ít tuổi đã viết hồi ký Những ngày thơ ấu hay cực, nhà văn ấy đã lặn
lội xông pha khắp nơi, ở mặt trận và trong hầm lò. Và bất kể người như thế nào,
trước trang bản thảo, theo cách nghĩ của bạn đọc, hình ảnh nhà văn phải liên
quan đến bóng dáng bút mực, trang giấy, tập sách, với nét mặt hằn những ưu tư,
vừa đăm chiêu lại vừa thơ mộng, vân vân...
Đừng ai đợi như thế ở Nguyên Hồng.
Tưởng tượng như thế, không bao giờ trông thấy Nguyên Hồng.
Lần ấy, trong kháng chiến chống Pháp, ở một hàng cơm dọc đường,
quãng Ba Giăng gần tới Đại Từ, đường đi thị xã Thái Nguyễn trên Việt Bắc. Sáng
ra, theo thói quen của phố kháng chiến, vách nứa, mái nứa ghép dựa nhau, lèo
tèo, vừa bảnh mắt, nhà nào cũng đã dọn đồ đạc giấu vào bụi cây, bờ rào và khách
trọ thì sắm nắm đi sớm. Để tránh máy bay.
Thế mà trong góc cái giường giát nứa lạch cạch ở gian trong vẫn
còn có một khách trọ nằm co quắp, run rẩy, rên rỉ. Khốn khổ, người đi đường ấy
đương lên cơn bệnh sốt rét.
Một người khách khác cũng nghỉ đêm ở nhà hàng đang soạn
ba-lô, sắp bước ra cửa. Bỗng ngừng lại nhìn sang giường có tiếng rên trong bóng
tối âm xâm.
- Anh làm sao thế? Sốt ngã nước à?
- Hừ... hừ...
- Tiêm nhé. Ki-lô-phoóc 1 mạnh
đấy. Nhưng mà dậy đi được ngay.
Người khách sốt sắng nọ hối nhà hàng lấy nồi đun nước luộc
kim. Rồi trèo vào chỗ người ốm nằm, tiêm luôn.
Cái người tốt bụng ấy là nhà văn Nguyên Hồng.
Chúng tôi đã thuộc tính Nguyên Hồng, cạnh chiếc ba-lô con cóc
trên lưng, trong cặp đúp 2 da
bò nâu xỉn giữ gìn từ ngày trước cách mạng vẫn được tha đi bất cứ đâu, Nguyên Hồng
xếp chồng bản thảo, lại còn lỉnh kỉnh những hộp tiêm, kim tiêm, nhiều thứ thuốc
tiêm, thuốc uống, thứ cho không, thứ bán, phân minh, ai nhờ tiêm, Nguyên Hồng
tiêm ngay. Lại còn hỏi bệnh, đoán bệnh và bảo người ta phải để mình tiêm. Như một
thày thuốc, một y tá thực thụ.
Như thế, nhà văn đi đường lẫn vào đám đông. Cái quần nâu, tấm
áo cánh mồ hôi muối ăn đã bạc cả hai vai, chiếc mũ lá cọ, đôi dép lốp chẳng
khác chút nào với màu sắc, dáng nét những người đi chợ, người nghỉ quán hàng,
người trên đường.
Nguyên Hồng chen vai giữa mọi người, như mọi người. Nét mặt
lúc nào cũng đăm đăm - không phải khó đăm đăm, mà đăm đăm chăm chú, dường như
ít khi rỗi rãi, cả lúc đương đi. Người nhanh nhảu trò chuyện hay có ý kiến với
xung quanh. Cái bà này mắt để đâu, sao mà quang gánh nghênh ngang, sắp đâm vào
người ta kia kìa. Nguyên Hồng giơ tay gạt gạt: đi cho ra hàng ra lối chứ. Một
người xách bu vịt vào chợ. Vịt của nhà à? Đúng rồi, vịt của nhà mới béo nần nẫn
ra như thế chứ. Đám gì mà quần lại như ở sân chọi gà như kia? Sao? Trẻ con đánh
nhau. Này các con ơi (các cháu ơi), quá tay mà rách áo rách quần thì rầy rà đấy.
Thôi mỗi đứa nhịn nhau một tí.
Chúng tôi ngồi cửa sổ trên gác nhìn xuống đường Hàng Bài. Bỗng
chốc, nhà thơ Thế Lữ đội mũ phớt, lững thững qua dưới bờ hè. Nguyên Hồng gọi
to: “Thế Lữ! Thế Lữ”. Rồi chạy sầm sầm ngay xuống, tay bắt mặt mừng chào
anh Thế Lữ, vồ vập như lâu lắm mới gặp:
- Tôi nhớ suốt đời Tiếng sáo Thiên Thai, từ ngày xưa ở Hải
Phòng kia.
Rồi cứ nắm tay ông Thế Lữ, Nguyên Hồng cất tiếng sang sảng đọc
to một mạch bài thơ Tiếng sáo Thiên Thai, trong khi người đi trên hè phố và cả
lũ trẻ con dần dần xúm lại quanh hai người.
Đã nhiều lần chúng tôi lên nhà anh ở Nhã Nam.
Một quả đồi cạnh chân rừng vùng Yên Thế. Đấy là nơi tản cư
khi kháng chiến, ở cùng chỗ với gia đình các nhà văn Ngô Tất Tố, Kim Lân, họa
sĩ Trần Văn Cẩn và Tạ Thúc Bình... Đến khi hòa bình, mọi nhà về xuôi, Nguyên Hồng
cũng dọn về Hà Nội ít lâu rồi bầu đoàn thê tử lại lên, thế là một mình nhà
Nguyên Hồng ở đấy, thành quê.
Tôi xin nói về nơi làm việc và cung cách làm việc của nhà
văn. Đấy là gian nhà ngang vách đất cạnh bếp trống hốc. Đứng ngoài giọt gianh
trông xuống chân đồi, thấy mặt ruộng liền vào đến viền rừng xanh sẫm.
Nguyên Hồng thường ngồi yên hàng giờ, lơ đãng nhìn thăm thẳm.
Bàn làm việc là chiếc chõng tre, chập tối lại bê ra đầu hè, nhà văn và các con
nhỏ nằm chơi xem sao, tìm con vịt bơi trên sông Ngân Hà.
Mảnh chiếu trải xuống mặt đất thay ghế ngồi. Lúc nào mỏi, ngả
lưng luôn xuống chiếu. Nguyên Hồng ngồi xếp bằng tròn trên chiếu. Mảnh ván gỗ
che mặt chõng lổn nhổn những trang giấy học trò có kẻ xanh.
Và lọ mực tím, cái bút quản gỗ. Thứ giấy ấy, mực ấy có lẽ
Nguyên Hồng đã dùng quen từ thời xa xưa Những ngày thơ ấuđến bây giờ. Cứ thế,
ngoẹo người, trễ kính, hí hoáy viết một thôi một hồi. Đôi lúc, đứng dậy, ra cái
sân trước mặt, khua khoắng chân tay mấy động tác thể dục. Có khi lấy chiếc
thùng, xăm xăm xuống cái giếng chân đồi, xách lên mấy thùng nước giúp chị ấy chốc
nữa thổi cơm.
Không phải Nguyên Hồng chỉ mới quen giản dị ở cái khi ai cũng
ba-lô trên lưng, thời kháng chiến. Từ trước năm 1945, hồi vợ chồng Nguyên Hồng
thuê nhà dưới bãi Phúc Xá, đã thế. Ở Hà Nội mà chui rúc ngoài bãi trong mảnh
mành cửa, kê vừa một cái giường, còn hòm xiểng, nồi niêu và mấy cái hỏa lò, mấy
bó củi nhét cả dưới gầm. Đến bữa, chị ấy lôi các thứ ra nhóm bếp, Nguyên Hồng
ngồi trên giường - ngồi xếp bằng từ ngày ấy, hai đầu gối vểnh lên, và viết. Đọc
Nguyên Hồng, bạn đọc hẳn đã được biết chiếc phản mọt cạnh vại nước trong gian
nhà ọp ẹp với một thanh niên mê mải cắm cúi ngồi viết, từ thuở ông kể mình đã
viết Những ngày thơ ấu như thế nào.
Khi người viết say mê đưa xuống ngòi bút những điều mình ấp ủ,
không hề biết đến xung quanh nữa, miễn sao có mực, có bút và chỗ kê được trang
giấy lên.
Nghề nghiệp nhà văn bề bộn giữa mọi người, mọi nghề trong xã
hội. Nỗi lo suốt đời của Nguyên Hồng là những tập bản thảo.
Hầu như những thú vui, cả những khó nhọc, khi có tiền cũng
như xưa kia đói khó, miếng cơm manh áo, tâm hồn và tất cả, chỉ tận tụy gắn bó với
những công việc sáng tác.
Những năm gần đây. Nguyên Hồng đã có tuổi, thỉnh thoảng lại
khoanh tay đấm lưng thùm thụp.
Nguyên Hồng chữa đau lưng bằng rượu ngâm vỏ quít và cách đấm
lưng như thế. Một người hay tiêm hộ cho người ta, tiêm cả lúc đi trên xe hỏa,
mà không lấy y bạ, chẳng hề biết đến cửa bệnh viện. Thế nhưng, vẫn cọc cạch cái
xe đạp thiếu nhi Liên Xô không phanh, màu xanh rợ thủng thỉnh Hà Nội - Nhã Nam.
Ấy là nói chuyện gần đây đấy.
Nguyên Hồng thường kể cách thức mình đi xe đạp từ Hà Nội lên.
Không phải than thở, cũng không hẳn thích thú, nói vui bình thường thôi. Ngày
trước đi một mạch không biết cả đêm tối, lúc nào về đến nhà cũng thế. Bây giờ
không “hái hăng” thế được - tiếng nói rỡn của Nguyên Hồng. Phải chia
ra từng trạm. Nhà trọ ngả lưng, trạm số một ở dốc Vân. Cơm nước nhà hàng này
khá. Vả lại đi lâu năm, hàng cơm đã quen khách. Đến Bắc Giang, có nhà thằng con
công tác ở đấy. Từ thị xã lên, còn trạm nữa, trạm nữa, cung đường dài, cung đường
ngắn, tùy sức chân đạp và mình phải tính. Đấy, đấy... Cái xe đạp con con, lúc ở
Nhã Nam xuống, thồ nào lạc, nào rượu ngâm vỏ quít, khi lên cũng trăm thứ bà rằn.
Ghé vào cửa hàng quốc tế phố Hàng Trống mua đôi chiếu. Xách ra, buộc dọc vào
khung xe, lại lạch xạch thồ lên Nhã Nam. Lúc đạp, lúc dắt, vẫn vậy.
Đối với Nguyên Hồng, quần lành áo tốt hay áo quần lôi thôi, đều
chỉ như vậy. Năm ấy, tình cờ gặp nhau, có cả Nguyễn Tuân, ở khách sạn Bắc Kinh
trung tâm Mát-xơ-va. Chúng tôi chén một bữa linh đình, mời cả bạn nhà văn Liên
Xô. Mừng thọ nhà văn Nguyên Hồng sáu mươi tuổi. Nguyên Hồng, đôi giầy mới chững
chạc, thắt cà-vạt cẩn thận. Nhưng, làm sao mà vẫn thấy trong cái bề ngoài tươm
tất ấy, con người tất bật, luộm thuộm như mọi khi, ở chợ Bắc Qua, ở dọc đường
lên Nhã Nam.
Nhà văn Pháp Pier Abraham (1892-1974) chủ nhiệm tạp chí Châu
Âu đến Hà Nội, tiếp Nguyên Hồng ở khách sạn Thống Nhất. P. Abraham đã viết
trong ký sự thăm Việt Nam về buổi gặp gỡ đó trên tạp chí Châu Âu “Như từ bờ
bãi sông Hồng đỏ rực gió cuốn đến đây, nhà văn lớn này là người của đất, thật
là người của đất”.
Lại kể chuyện đùa về Nguyên Hồng. Như thế, mới hợp với anh ấy.
Tính riêng tôi vốn ưa thầm lặng, vùi mình vào một xó. Lắm khi, đột ngột, Nguyên
Hồng can thiệp ồn ào vui vẻ với xung quanh, mà mình cứ ngượng sững người. Cả những
khi thong thả đi chơi cũng vậy. Chúng tôi hay uống bia ở một quán bia hơi gần
phố Huế. Những năm ấy, các hàng bia chưa có cốc vại, người Hà Nội mới quen với
cốc bia pha nước ngọt si-rô. Khách biết uống, chúng tôi đã thân ngay với nhà
hàng. Mỗi lần xe bia về, người xích-lô đẩy những thùng bia xuống đường. Cứ tự
nhiên, Nguyên Hồng ra ghé vai vác thùng bia vào. Bà hàng bia béo phục phịch,
cũng cứ tự nhiên đứng nhìn, không cười, không cảm ơn ông khách tốt bụng. Nguyên
Hồng hì hục vác cả bốn thùng, lại còn cẩn thận kê một thùng lên bậc cửa, đặt
vào chỗ cho bà ấy mở chốt rót cốc bia đầu tiên. Chẳng bao lâu, mọi lần xe bia đến,
thấy chúng tôi, người xích-lô đã quen mặt, lại gọi to:
- Ông khách ra đỡ một tay nào!
Thế là Nguyên Hồng lại ra tận xe khiêng thùng bia, người
xích-lô đạp thùng lăn xuống hè. Sau đó, người xích-lô và chúng tôi uống những cốc
bia mới nhất vừa rót trong thùng ra. Sảng khoái.
Bà hàng bia người đẫy đà ở cái phố khuất nẻo nọ không bao giờ
biết bạn tôi là ông nhà văn. Cũng như năm trước, người đi đường được tiêm phát
thuốc sốt rét và cũng nhiều người khác nữa, đâu biết cái ông dễ tính ấy là ai.
Bà hàng nghĩ đấy cũng là bác xích-lô, bác xã viên hợp tác xã nghề mộc, nghề đan
lát ở quanh đấy ra uống bia và cũng có ý bờm xơm bà và bà đã lợi dụng sự phải
lòng đôi chút quá mùa ấy. Có lẽ Nguyên Hồng cũng nghĩ về mình chẳng khác bà
hàng bia.
Nghề văn - một nghề lương thiện như mọi nghề trong xã hội, có
gì mà phải khoe với ai.
Nhất nghệ tinh... Đã gọi là nghề cơ mà. Sự quý trọng: Công
phu trau dồi, rèn luyện của Nguyên Hồng đối với nghề, những cái đó mới là điều
đáng quan tâm cả đời. Nguyên Hồng giữ gìn từng trang bản thảo. Cẩn thận đến độ
đi đâu cũng ôm đồm vác theo. Không yên tâm để chỗ nào. Sợ lạc, sợ mất. Nhà văn
quá lo lắng về bản thảo còn hay tưởng tượng ra những việc oái oăm bi đát nhất,
không dễ gì xảy ra: để ở đấy, ngộ nhà nó cháy thì sao. Thôi, chịu khó đem theo.
Cẩn tắc vô áy náy...
Nghề văn cũng là trăm nghề lao lực, lao tâm như mọi nghề. Những
bản thảo, sự sáng tạo, cái dáng ngồi nghiêng nghiêng vất vả, thật quan trọng,
thật nghiêm.
Cống hiến của tác phẩm Nguyên Hồng vào kho tàng văn học Việt
Nam thế nào, nhà phê bình cực kỳ vô tư là thời gian đã lên tiếng và sẽ đánh
giá. Nhưng tôi nghĩ thái độ, cách sống hàng ngày về nghề nghiệp, cho nghề nghiệp
của Nguyên Hồng thật tỏ rõ trách nhiệm với ngòi bút.
Làm sao mà quên được chợ Bắc Qua những năm ấy.
Chúng tôi đi chợ Bắc Qua đã bao nhiêu lần, nhưng khi nào nhớ
lại cũng nhớ những đêm chợ vào mùa đông thời chống Mỹ. Người ta đi suốt đêm, chợ
và phố xá suốt đêm, có lẽ đấy chỉ là tưởng tượng và còn lẫn lộn theo kỷ niệm. Mỗi
khi Nguyên Hồng về Hà Nội, thế nào chúng tôi cũng đi Bắc Qua.
Bấy giờ lại đương độ máy bay Mỹ đánh phá vào Hà Nội. Suốt
ngày, trời thành phố rả rích còi báo động. Loa, đài báo “Máy bay địch cách
hai mươi, ba mươi ki-lô-mét... mười ki-lô-mét! Rồi máy bay địch đã bay xa...”.
Hồi ấy, tôi cũng đương làm công tác khu phố. Đêm thường cùng ban bảo vệ đi tuần.
Nguyên Hồng thích đi với tôi, đòi đeo băng đỏ cẩn thận. Chúng tôi la cà ra cửa
ga - ga Hàng Cỏ thức suốt sáng. Làm cốc bia hơi mậu dịch rồi kéo bộ thẳng lên
chợ Bắc Qua vào nửa đêm.
Chợ Bắc Qua đêm đông hơn cả ngày, nhất là từ quãng một hai giờ
sáng đổ ra. Người các miền giáp ranh Bắc Ninh - Bắc Giang về chợ kìn kìn gồng
gánh suốt đêm sang sông.
Nói theo tiếng chợ búa, chợ Bắc Qua, cái chợ đổi vai: Mọi
vùng bên sông phía bắc thành phố, từ thật xa trên Cao Thượng, ở Quế võ bên kia
bến Hồ, người buôn, người trồng tỉa đưa xuống thành phố mọi thứ rau quả, mùa
nào thức ấy. Xe ba gác cải tiến và người gánh nào cà rốt, su hào, nào cải bắp,
cải bẹ, cải Lạng Sơn, hoa lơ. Những bó hành hoa, củ trắng nõn xếp chật cả hai
bên thùng sau xe đạp.
Những xe đạp thồ gà, chim câu, chim sẻ. Áp tháng Chạp dương lịch,
tiếng gà tây kéc kéc kéc kéc loạn gầm cầu Long Biên. Vùng bến Hồ có nhiều hợp
tác và nhiều nhà mới biết nuôi gà tây. Gà tây bên Bắc được thồ về, nhà Hỏa Lò
ra mua làm cỗ lễ Nô-en cho tù binh giặc lái Mỹ - phong tục nước Mỹ, Tết năm mới
nửa đêm nhà nào cũng chén thịt gà tây. Thế là chợ Bắc Qua mỗi cuối năm lại nảy
nòi ra mặt hàng mới. Và hầu khắp các chợ nội với các hàng bán rong phố từ trong
Cầu Giấy lên Bưởi xuống Ô Cầu Dền đều ra chợ Bắc Qua đợi mua rau cỏ bên Bắc
sang. Đổi vai đòn gánh bán cất bán mớ ở chợ ấy người ta quẩy vào các chợ trong,
chợ đông vui suốt đêm, khắp các ngả. Đèn đường loáng thoáng và mỗi xó một đốm
đèn con le lói, như hội làng ngày trước. Lúc còi báo động, chẳng còn một ánh lửa.
Trong bóng tối, tiếng rào rào râm ran. Chúng tôi len vào, kẻ mua người bán xúm
xít quanh các hàng cơm bát, gánh cháo lòng tiết canh, thịt chó, thúng bánh cuốn
và miến dong riềng. Hàng nào cũng sắp sẵn đôi quang, có báo động một cái, gọn
ghẽ ngay.
Những lúc ấy mắt Nguyên Hồng ánh lên, gò má bóng nhẵn, chòm
râu hất ra như người ốp đồng lắp bắp sắp nói. Những đêm vui, đầm ấm, thú vị của
Nguyên Hồng ở chợ. Quang cảnh ăn uống, lẫn lộn quanh gánh với người nằm ngủ úp
nón lên mặt, người đương bơm xe sắp sang cầu, một cái bu sắt nhốt chó với cả những
thồ hành hoa vừa tới. Tiếng à ầm không ngớt líu tíu bối rối mà lại như rõ ràng,
đâu ra đấy, vẻ lộn xộn lẫn với nền nếp của cái chợ đêm lắm thức mua bán.
Nguyên Hồng ngồi ngất ngưởng, bắt chuyện với mọi người. Chốn
hàng quán giữa chợ, ai cũng vui tính cả. Ồ, những người bán quán chợ Bắc Qua,
chẳng ai buồn lưu tâm, chắc lại như cái bà bán bia dưới phố Huế, ước đoán già
ra cũng chỉ ngỡ đấy là ông lão kỹ tính, theo con cháu xuống chợ. Đứa cháu mới
đi thồ lần đầu, ông phải chịu khó đi theo bảo ban chúng nó.
Ông lão ấy vào hàng ăn uống, vừa gắt với lũ cháu bướng bỉnh rồi
lại cười xòa. Những ông lão trong làng ra chợ búa thành phố, nửa lấm cẩm, nửa cẩn
thận, hay hỏi dớ dẩn như thế, ở chợ đêm Bắc Qua này chẳng thiếu.
Hồi ấy, Nguyên Hồng đã để râu. Bộ râu ria lưa thưa mà chúng
tôi thường đùa: bộ râu già nua của ông không hợp với hai con mắt lúng liếng
nhanh như chớp còn tống tình được của ông. Nguyên Hồng rung đùi, cười khơ khớ,
nói: “Quái quỷ! Quái quỷ!”. Chẳng hiểu tự cười mình hay thú vị vì câu nói
đúng.
Vậy mà cả đến bộ râu hiếm hoi ấy cũng chẳng phải Nguyên Hồng
cố ý điểm trang cho vẻ già của mình đâu. Nguyên Hồng để râu khoảng ngoài năm
mươi. Nhưng nói Nguyên Hồng để râu, chữ nghĩa cùng sự việc chưa thật chính xác.
Nguyên do là lắm khi Nguyên Hồng ở cả mấy tháng trên Nhã Nam, ngày đêm viết miệt
mài. Mấy năm, xong cả bộ tiểu thuyết Cửa biển, vở kịch Thái hậu Dương Vân Nga,
đôi khi cao hứng, làm bài thơ, hay viết cho thiếu nhi.
Ở nơi khuất nẻo, hết dao cạo râu. Hồi này, lưỡi dao cạo không
dễ kiếm. Thế là mặc kệ, rồi đâm quen. Chỉ vậy thôi, thành “để râu”.
Những đêm chợ Bắc Qua, những đêm chợ Bắc Qua. Chẳng mấy chốc,
ông nhà văn đã như hàng xay hàng xáo với mọi người từ bao giờ. Giá hành, cà
chua ra sao. Đem được mấy chục gà tây xuống, ở nhà còn lứa nào không. Đợt tuyển
quân trên ấy đã xong chưa, à ra thế.
Lại nói lỡm, lại đùa nhả, cấu véo, đẩy vai nhau.
Chuyện cứ nổ ngô rang. Ông bên cạnh vừa nói choang choác đã đắp
mảnh ni-lông, gối đầu lên chiếc đòn gánh đặt ngang vành bánh sau xe đạp. Tiếng
ngáy khò khò hòa tiếng rào rào không dứt của buổi chợ đêm đương đông.
Bỗng còi báo động trên đầu cầu Long Biên rú lên.
Đèn điện và các đốm đèn dầu lập lòe, vụt tắt. Bóng Nguyên Hồng
khom khom đứng lên.
Nguyên Hồng hét:
- Đâu ngồi đấy nhé, đâu cứ ngồi đấy nhé!
Hai tay Nguyên Hồng dang ra. Nhưng chẳng đợi có người quát
lên như ra lệnh thế, cái chợ mới khỏi nhốn nháo. Chợ không vỡ đâu. Chợ đêm thời
bom Mỹ có qui luật và nền nếp chợ thời chiến. Tiếng ồn vẫn tiếp tục đều đều mọi
chỗ, nghe rõ cả tiếng cắt nem, tiếng kéo tanh tách của anh hàng đu đủ thịt bò
khô và những lời lẽ ngã giá thúng cà chua. Đằng kia, bọn gà tây bị nhốt trong gầm
cầu vẫn khục hục, khẹc khẹc rộn rã. Và, ngẩng đầu, trên mênh mông trời nhung thẫm,
rét ngọt, long lanh những vì sao. Cái chợ không biết bóng tối và dường như
không nghe tiếng còi báo động, nhưng đã ra một vẻ thích ứng tối mò mò.
Nguyên Hồng rất mê chợ. Chúng tôi cũng nghĩ giống nhau. Cái
chợ giúp ta biết nhanh mà chính xác về sự thật tình hình trong vùng. Không phải
chỉ những thứ đem ra chợ, mà chính trị, kinh tế, văn hóa, phong tục, đủ vẻ, đều
có thể trông cái chợ mà luận ra.
Nguyên Hồng nói:
- Học đấy chứ đâu. Người ta nói bao nhiêu chữ cho mà học,
mình biết cái mách gì. Cái bà hàng gọi lão nằm ngủ lúc còi báo động: trỗi, trỗi,
đúng là người chợ Thắng. Trên ấy người ta nói: trỗi trỗi. Chứ không nói đầy đủ:
trỗi dậy, trỗi dậy đâu nhé. Chữ nghĩa hình thức trong sách lại đâm ra thừa.
Từ những nhỏ nhặt bình thường trong ý ăn nhẽ ở hàng ngày, mọi
lúc, đã hòa liền như dòng máu cùng trên cơ thể, với tư tưởng và nghệ thuật của
ngòi bút.
Thực tế sâu sắc tự nhiên như đời sống con người đã góp phần tạo
ra tâm hồn và phong cách sáng tác, một khi quan niệm được cốt cách một tác phẩm
nhất thiết phải bắt nguồn từ mọi mặt của xã hội, từ tâm tư tình cảm cuộc sống
con người, trong đó có người cầm bút.
Toàn bộ tác phẩm Nguyên Hồng, từ hồi ký Những ngày thơ ấu đến
bộ tiểu thuyết lịch sử Núi rừng Yên Thế viết chưa xong, mỗi tình huống được
sáng tạo, ở nhân vật nào, vấn đề nào, tinh thần nhân đạo của tư tưởng chủ thể
thật đằm thắm, thật thiết tha từ bắt đầu như thế.
Một đời chuyên cần, yêu thương, mải mê...
Lại thấy ra bao nhiêu điều muốn nói nữa về Nguyên Hồng. Ngỡ
như chưa biết đặt bút từ đâu, từ kỷ niệm nào.
Thường thường đêm Nô-en chúng tôi hay đi chơi quanh hồ Hoàn
Kiếm rồi vòng vào nhà thờ Hàng Trống. Cả đêm Nô-en 1972, trận Điện Biên Phủ
đương ác liệt trên trời Hà Nội. Và đêm Nô-en năm trước, ở hiệu cao lâu ông Khải
202 phố Huế ra.
Chúng tôi dừng lại trên hồ, chỗ ánh điện ngõ Bảo Khánh trông
xuống.
Tôi kể với Nguyên Hồng:
- Nhà chị Vân Đài ngày trước ở đầu phố này trên Hàng Trống.
Chị bảo khi còn nhỏ, bờ hồ còn ăn sâu vào tận đây. Nhiều cầu ao nhà trong phố bắc
ra hồ, tắm giặt, vo gạo, rửa rau.
Nghe thế, Nguyên Hồng bỗng sa nước mắt.
Nguyên Hồng vốn mau nước mắt. Chắc câu nói vừa rồi của tôi gợi
điều gì Nguyên Hồng đương nghĩ.
Chú thích:
1 |
Một thứ thuốc chữa sốt rét. |
2 |
Cặp hai ngăn. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét