Kim Đồng 2
Rồi buổi chiều chờ đợi cũng đến. Mặt trời vừa lấp sau lưng thì bóng núi bên kia suối ngả đè xuống. ánh nắng như những dòng suối đỏ rực chạy ra, chan hòa mặt ruộng. Dền lội lõm bõm dồn vịt về.
Đứng trên sàn, mẹ hỏi:
- Sao cho vịt về sớm thế?
Dền nghiêm trang nói:
- Con có việc phải đi, mẹ ạ.
- Con đi đâu?
- Đi việc người lớn với anh Phục Quốc, mẹ ạ. Mẹ ngạc nhiên, hỏi lại :
- Anh Phục Quốc là ai?
Dền mới nhớ ra anh dặn cần bí mật. Nhưng mẹ cũng không hỏi thêm.
Bấy giờ còn trong tháng giêng. Người đi chơi giêng hai theo các đám then còn
lăn lóc, mê tơi suốt ngày sang đêm qua các xóm. Hát then vừa réo rắt vừa buồn,
đông người nghe nhất là đến đoạn "khảm hải", đúng nửa đêm. Lúc ấy,
hương và nến nhà then được thắp thêm, người nghe then im phắc. Trong bóng tối,
giọt nước mắt rơi theo lời hát, thương Sa Dạ, Sa Đồng vượt biển mãi chưa đến
nơi. Đời con người, ai cũng có lần nghe then đến đoạn "khảm hải",
khóc thương người trong chuyện lại ngẫm nghĩ đời mình cũng lênh đênh như vượt
biển mà chưa tới. Mẹ ngỡ anh em Dền đi xem then. Trẻ con chưa biết gì, nhưng trẻ
con mà đi nghe "khảm hải", trẻ con cũng sắp phải vào đường khổ như
người lớn, người già rồi.
Mẹ thương con, mẹ nghĩ vẩn vơ thế. Nhưng trên lưng tảng đá sau xóm Thoong Mạ
chiều hôm ấy, có một đám ngồi bên gốc cây nghiến xanh rì. Ai trông thấy, chắc
tưởng bọn trẻ trâu trên gò xuống chỗ kín đáo để chơi nghịch, - chỗ ấy có mấy tảng
đá phẳng. Đúng, bọn trẻ trên gò xuống. Cả người lớn cũng xuống nữa.
Trong bọn trẻ, có thằng Tinh. Tinh bị liệt chân từ thuở bé. Nhưng Tinh vẫn cỡi
trâu và đuổi trâu như mọi bạn khác. Vào gốc cây nghiến vướng đá, trâu không
trèo được, thế mà Tinh vào được. Bọn trẻ leo lên tảng đá sau núi. Rồi Dền cõng
Tinh. Thàn thì lúc giữ, lúc đẩy đằng sau, đun Tinh trèo lên.
Anh Bát Ngư nói:
- Có anh Đức Thanh về dự hội.
Mấy em cùng nhìn anh Đức Thanh. Anh ấy, nhà ở làng dưới, ai cũng đã rõ. Dường
như biết các em đương tò mò nhìn, anh Đức Thanh nói : - Đức Thanh là tên đoàn
thể cho anh. Bây giờ các em vào hội, các em cũng có tên cách mạng để giữ bí mật
cho cách mạng.
Tất cả đều nói :
- Chúng em muốn có tên cách mạng.
Đức Thanh cười :
- Bây giờ anh cắt nghĩa cho các em nghe.
Hội cứu quốc để đánh Tây đuổi Nhật là hai kẻ thù của dân tộc mình. Ai muốn đánh
Tây đuổi Nhật đều theo hội cứu quốc của Việt Minh. Các cụ già hội phụ lão cứu
quốc. Phụ nữ thì phụ nữ cứu quốc. Thanh niên thì thanh niên cứu quốc. Ai khỏe mạnh
vào đội tự vệ cứu quốc tập luyện chiến đấu. Các em đã giác ngộ cách mạng các em
được vào hội nhi đồng cứu quốc. Dền làm tổ trưởng, các em muốn không ?
Tất cả nói :
- Em bằng lòng.
Anh Đức Thanh lại nói:
- Dền nhanh nhẹn thế thì tên cách mạng của Dền là Kim Đồng!
Dền thích thú, hỏi lại:
- Em được tên là Kim Đồng a?
Anh Đức Thanh lại nói:
- Thàn thì là Cao Sơn. Cách mạng như núi cao. Cao Sơn, tên cách mạng của em
Thàn là thế.
- Cái này ở nhà tên là cái Xâu. Anh cho nó tên cách mạng là gì ?
- Em là Thanh Thủy, dòng suối trong. Cách mạng như dòng suối trong qua làng.
- Tên em là Nì, anh ạ.
- Tên cách mạng của em là cô Thủy Tiên, hoa thủy tiên quí lắm, hoa cách mạng
quí lắm.
- Tên em là Tinh. Có đứa ác, gọi em là Tinh thọt.
- Bây giờ em là Thanh Minh nhé.
Rồi anh Đức Thanh dõng dạc nói:
- Các em đã có hai tên. Một tên của cha mẹ cho. Một tên cách mạng đặt cho. Làm
con biết kính yêu cha mẹ. Làm người cách mạng thì trung thành với cách mạng. Những
công tác cách mạng thế này. Khi giặc Pháp và quan lính chó săn vào làng, các em
giữ bí mật của hội viên. Trước nhất, các em phải học văn hóa. Giặc Pháp không mở
trường, bắt dân ta chịu dốt, ta phải bảo nhau đi học lấy chữ. Có chữ mới biết đọc
sách báo, làm cách mạng giỏi được.
Bây giờ cùng nhau hát bài Trăng sáng cao. Kim Đồng hát trước một lần đi cho các
bạn nghe.
ở Nà Mạ đã có sẵn lớp văn hóa của đội tự vệ. Bây giờ thêm lớp bí mật của các
em. Không có giấy bút, học thế nào. Cả bọn bàn cách lên núi lấy cây dó về làm
giấy. Em nào cũng đã biết làm giấy. Làm ra tờ giấy dày và mịn hơn giấy cúng ma
bán ở chợ thì viết được. Rồi đi chợ Nà Giàng mua bút chì. Thế là có sách, có
bút. Chỉ còn công thu được chữ về, thế là biết chữ.
Tối tối các bạn rủ nhau đi học. Cả những đêm trăng sáng đỉnh núi, các em cũng đến
lớp - một cái lán trong khe đá. Những cục nến trám thắp lên. Các em mở giấy,
thì thầm đọc. Ngoài đầu rừng, trăng trải sáng như tờ giấy phẳng. Thèm chạy nhảy
ngoài trăng lắm, nhưng phải cố nhịn. Đến khi tan học, mới ra đùa một lúc bên bờ
suối. Tối nào cũng vậy, thật nhộn và mê mải.
Trong bọn có Thanh Minh chăm học và sáng dạ nhất. Thanh Minh biết mình không bằng
chúng bạn, Thanh Minh càng chăm. Chân bị bệnh liệt, suốt ngày phải ở nhà. Đương
quay sợi hay bóc dó, Thanh Minh cũng cặm cụi tìm cách học. Nghe các anh dạy chữ
nào, Thanh Minh thuộc như nuốt chữ ấy. Thanh Minh lấy than viết chữ ra khắp xó
cột, quanh bếp. Chẳng bao lâu đã nhớ hết mặt chữ cái, cả lối học quốc ngữ mới,
có chữ i chữ t ở bài một. Thanh Minh đã biết đánh vần sách Ngũ tự kinh 1 của
cách mạng.
Nước ta bị Tây cướp, Đã bảy tám mươi năm...
Kim Đồng thì nhanh trí và hay có sáng kiến. Kim Đồng nói với anh Đức Thanh : -
Anh cho em công tác giao thông. Em đi được.
Anh Đức Thanh im không nói. Rồi anh trỏ tay ra ngoài trời tối :
- Có khi công tác cần tối cũng phải đi, em ạ.
Kim Đồng nói :
- Em cũng có đi tối rồi. Em đã lên núi xem các anh tập quân sự, đi đêm đấy.
Anh Đức Thanh vỗ vai Kim Đồng, "à" một tiếng, rồi cười : - Được, hôm
nào anh cho em đi giao thông.
Anh Đức Thanh đi khỏi. Kim Đồng nghe tiếng chân anh bước ra ngoài lán học khe
núi. Đêm lặng lẽ đầy sao. Chân anh giẵm gãy một cành khô. Xa, tiếng chó sủa. Một
mình trong đêm, chắc giao thông cách mạng cũng đi như thế, chẳng có gì là sợ.
Rồi Kim Đồng được làm công tác mới cho cách mạng. Kim Đồng đi công tác giao
thông. Nhưng không phải đi đêm, như Kim Đồng vẫn nghĩ. Hôm ấy, một buổi sáng.
Anh Đức Thanh đưa Kim Đồng một cái thư. Chỉ là cuốn giấy nhỏ tý bằng tổ sâu.
Anh dặn:
- Tiếng nói của cách mạng đựng trong thư này. Cứ trông cái giấy phong bì ngoài
thư vẽ một ông sao, hai ông sao thì biết đấy là thư có tiếng nói cần, phải đưa
nhanh. Hôm nay em đưa thư này xuống Hòa Mục.
Anh dặn Kim Đồng xuống Hòa Mục tìm ai và những điều tỉ mỉ khác.
- Để thư trong mép áo, gấu quần, trong mũ... Kim Đồng hỏi :
- Trong cần câu được không ?
- Đốt trúc cần câu rỗng thì để được. Nhưng để chỗ nào cũng phải cẩn thận. Tây
hay lính khám không thể biết tìm được để thư ở đâu.
- Gặp Tây hay gặp quan thì làm thế nào?
- Cứ đi tự nhiên. Nhìn trộm nó dễ nghi ngờ. Đi như đi chơi, đi chợ. Thằng quan
hỏi đi đâu, bảo đến nhà mo 2.
Mẹ ốm, phải tìm người về cúng. Gặp Tây, bảo tôi đi chơi. Hay nói cái gì khác
cũng được, cốt nó không biết mình đi việc cách mạng.
- Vâng ạ.
- Ta nói để che mắt địch, làm cho nó đứng trước mặt mà không biết gì.
Từ Nà Mạ xuống Hòa Mục có một quãng đường. Kim Đồng đút thư vào đốt cần câu, rồi
lấy đất thó trít lại. Cái cần câu cầm nơi tay. Có khó khăn, ta vứt ở đâu đấy,
chốc lại lấy cũng được.
Kim Đồng vừa đi vừa lẩm nhẩm:... gặp Tây này... gặp lính này... gặp châu đoàn
này... Lính quát, ... Xã đoàn quát: mày đi đâu ? Tôi đi câu. Tôi đi chơi. Tôi
đi gọi mo. Cứ nói tự nhiên, nó không biết gì cả. (Không phải nói dối, đây là
cách mạng nói che mắt nó) - anh Đức Thanh bảo thế... Cái gì, ai đi kia ? Tây đồn
hả?
Không khéo thì lính đấy, một lũ kia mà. Cả đòn gánh, cả "dậu" ngô,
"dậu" thóc. Không, người trong làng đi chợ Nà Giàng mua muối về.
Suốt đường, Kim Đồng nhìn xa và lẩm nhẩm ôn các cách trả lời. Nhưng chẳng gặp
cái gì lạ. Có lúc mong cứ thử gặp thằng lính xem sao. Đường vẫn vắng tanh. Chỉ
có mỗi bọn đi mua muối về ấy thôi. Còn chỉ thấy hoa cỏ tranh bạc trắng vờn hai
bên. Những cây vối xù xì, lụ khụ bên bờ suối lại đương trổ lớp lá xanh mởn. Mùa
này nước trong, gió hiu hiu, lội xuống bắt cá vực sâu kia, chắc bữa chiều nhà
mình có cá rán đấy.
Nhưng thôi, hôm nay đương bận việc cách mạng.
Đến Hòa Mục, vào một nhà tận cuối xóm. Anh Đức Thanh dặn nhà ấy có bụi mai. Bụi
mai đây. Bụi mai mọc ngay chỗ máng nước rửa chân lên nhà. Đúng như anh dặn. Đây
rồi, Kim Đồng không phải hỏi thăm. Anh Đức Thanh đã bảo : bụi mai, bên máng nước
lần đầu nhà... cố nhớ đừng hỏi thăm.
Lên nhà, Kim Đồng thấy một bà có tuổi, đầu quấn khăn chàm tùm hụp, đang thổi bếp.
Bà này có phải là người của cách mạng không. Người cách mạng mà lại nhăn nhó thổi
bếp thế kia! Nhưng, anh Đức Thanh đã bảo thế. Ta cứ hỏi. Kim Đồng bạo dạn chào:
- Chào bá ạ.
Bà ấy vẫn thổi bếp, không nhìn, chỉ nói lên:
- ừ cháu đến chơi. Cháu chưa lên núi đuổi trâu về à ? Nó còn mải bắt cá ngoài vực
kia kìa, bảo mãi vẫn chưa đi. Hư quá. Cháu ra gọi hộ bá.
Kim Đồng bấm bụng không dám cười. Kim Đồng biết bà nhầm mình đến rủ con bà lên
núi dồn trâu về. Kim Đồng dõng dạc nói câu khẩu hiệu để người cách mạng nhận
nhau - câu anh Đức Thanh dặn:
- Phiên trước bá đi chợ Nà Giàng, hay bá đi chợ Nậm Nhũng ?
Bà ngẩng lên, giụi mắt, hỏi :
- Cháu là người của cán bộ Đức Thanh a?
- Vâng ạ.
Bà bối rối :
- Cháu... đồng chí... Ngoan quá, giỏi quá... cháu đồng chí... cháu ngồi đây...
Kim Đồng lấy thư ra đưa rồi xin bà cho về ngay. Việc bí mật, bà không dám hỏi
con nhà ai, ở đâu, nhà có xa không. Bà chỉ hấp tấp tìm được hai quả trứng vịt
luộc, để trên chạn bát, bắt Kim Đồng cầm đi ăn đường. Khi Kim Đồng xuống thang,
bà đứng trên sàn, nhìn theo. Trời đất đổi thay đến nơi rồi. Bà nghĩ thế.
Kim Đồng về chuyến ấy, anh Đức Thanh khen. Anh bảo Kim Đồng họp tổ, kể lại các
bạn biết cách đi đường và sự đề phòng của Kim Đồng thế nào. Ai cũng nghĩ rồi có
khi đến lượt mình đi giao thông như thế.
Thế là Nà Mạ có thiếu nhi biết làm cách mạng. Từ khi Nà Mạ có hội của thiếu nhi
thì bạn nào cũng thấy như xung quanh tấp nập. Cũng cái chơi như mọi khi, mà bây
giờ có ý nghĩa khác.
Chẳng bao lâu, cả hai xóm Pác ý và Pác Luông ở Nà Mạ đều vào hội cứu quốc. Người
cả xóm theo cách mạng rồi, bây giờ chỉ khi họp đông mới phải lên núi. Cán bộ và
giao thông qua lại đều ở dưới làng. Nhưng Nà Mạ đi từ đằng xa, đã thấy mái nhà.
Nà Mạ kề bên đường cái, đường suối. Các làng đi chợ qua, đầu súng của lính tuần
quệt cả vào giọt mái gianh.
Bởi vậy, khi có họp, có người lạ, phải đặt trạm gác ở chỗ cao ngoài Pò Đoi.
Ngoài ấy ới một tiếng, trong này đã biết.
Nhưng lại không phải lúc nào cái thác Pò Đoi cũng chảy hiền lành. Mùa mưa, nước
lũ đẩy thác đột nhiên réo lên.
Hôm ấy có họp. Đội thiếu nhi cắt gác. Kim Đồng đếm các bạn, thấy đến lượt mình.
Kim Đồng dắt đàn vịt ra bờ suối rồi đi chăn bò nhân thể. Đêm qua lại mới có lũ
về làm cái thác kêu điếc tai. Cái mõ theo nhịp cổ con bò lắc lư, kêu coọc coọc,
phải lắng tai mới nghe tiếng.
Một lúc, con bò ngoạm vào luống ngô. Kim Đồng phát vào lưng nó một cái. Bò chạy
lồng ra. Mõ cổ bò coọc coọc inh lên. Kim Đồng chợt nghĩ bây giờ nếu treo cái mõ
này vào nhà các anh đương họp rồi dòng dây ra đây thì hay quá. Mõ báo động treo
tận trong kia, cái thác Pò Đoi tha hồ gào đến hôm nào thì gào !
Nghĩ thế, Kim Đồng làm ngay. Kim Đồng buộc dây, ném qua bờ suối, chỗ ấy bãi
hoang không người đi, rồi chằng dây vào đầu xóm. Cái dây qua ruộng dưa, buộc hờ
cái mõ khác ở đấy - lính thấy thì bảo là mõ đuổi chim, rồi dây dòng nữa vào vườn
hành, ngay bên cạnh cột sàn, đến đấy mới buộc cái mõ thật. Ngoài Pò Đoi có báo
động, giựt dây, trên nhà nghe tiếng mõ ngay.
Không phải thế đã xong. Trị được mọi tiếng rống thác Pò Đoi rồi, bây giờ đến
cái ruộng mới khó. ở đầu xóm, người làng trồng ngô tháng năm xuống ven suối.
Ngô đã cao ngập đầu rồi. Ngồi ở Pò Đoi mà gác họp thì đến lúc thằng lính đi đâm
vào người mình mới biết.
Tình hình ấy phải canh hai người. Thanh Thủy đào giun cho vịt cạnh thác Pò Đoi,
có đầu mối giựt dây báo động vào xóm ở đấy. Đào giun hay làm gì thì làm, nhưng
phải ngồi nghe động tĩnh phía bờ suối bên ngoài ruộng.
Bờ suối, Kim Đồng ngồi câu. Lúc nãy, gặp người đi bắt cá nước lũ về, Kim Đồng
đã xin được một con cá nheo. Kim Đồng thả con nheo vào giỏ, để bên mép nước.
Cái cần câu cắm hờ ở gốc vối. Kim Đồng đứng trên cành vối nhìn ra.
Gió thổi đung đưa rập rờn lá ngô. Từ trên ngọn cây gạo gần đấy, đàn sáo đen liệng
xuống. Con đậu, con bay, tiếng hót vang. Tự nhiên, cả đàn lại bay ù lên cây.
Tinh ý, Kim Đồng biết có người đi vào, chim sợ bay lên cao. Trông ra, đã thấy
nhô nhốp bọn lính cơ đương rẽ tay đi trong ruộng ngô.
Kim Đồng kêu to :
- Được con cá rồi ! To quá ! To quá!
Hét xong, Kim Đồng nhảy xuống, lấy vội con cá trong giỏ ra. Nhưng con cá đã chết
cứng từ lúc nào. Bọn lính xô tới.
- Xem được cá bằng nào mà mày quát to thế. Nếu lính thấy cá chết thì lộ mất.
Nhanh thoắt, Kim Đồng càu nhàu ném đét con cá xuống bờ đá.
- Nhảy à ! ạng quật chết tươi cho mất nhảy!
Rồi Kim Đồng rút dao lưng, mổ cá luôn. Cả lão châu đoàn tới nữa. Lính hỏi:
- Cá to nhỉ ? Được mấy con ?
- Mỗi con này !
- Đập chết thế, ăn không ngon.
Kim Đồng cười :
- Nó mà tụt xuống suối, mất ăn thì mất cả ngon nữa !
Kim Đồng vẫn ngồi nguyên mổ cá. Bọn lính kéo vào xóm. Lính đi khỏi, Kim Đồng
trèo lên cây vối, nhìn theo. Những mái nhà im lặng. Chắc cuộc họp trong xóm đã
tan kịp rồi. Tiếng ve kêu buổi trưa râm ran. Lúc lâu, vẫn tiếng ve kêu thế.
Thanh Thủy đã giựt mõ báo động rồi. Nhất định thế.
Lát sau, châu đoàn và lính lục tục ra. Kim Đồng nằm úp mình trên cành vối, nhìn
mặt nước. Như mải câu. Thật thì chẳng thèm nhìn quan lính nào nữa. Và bọn lính
qua cũng không buồn hạch sách thằng bé một câu. Chúng lừ đừ đi.
Từ trong ruộng ngô, tiếng Thanh Thủy hỏi:
- Được cá thế nào mà kêu to thế? Thật à?
Kim Đồng trèo xuống, nhấc giỏ đựng con nheo vừa câu được. Cái giỏ đã biến mất.
Thì ra lính đi qua, đã kều cả giỏ và con cá đi rồi.
Vừa hay, trời lộp độp mưa. Hai đứa chạy ù nấp dưới mái cầu. Những chiếc cầu gỗ
lợp mái từng quãng qua trên suối cho người đi đường tránh mưa tránh nắng. Kim Đồng
nói:
- Tiếc công mổ cá ! Lại mất con cá nheo.
Phải bắt cái suối đền con cá khác mới được !
Thanh Thủy đi tìm mồi cho Kim Đồng câu. Hai đứa tha thẩn trên bờ suối, đến chiều
mới về. Kim Đồng câu được bốn con nheo, bảo Thanh thủy đem về. Nhà nó có em bé,
thích ăn cá. Nhưng Thanh Thủy không lấy. Sau chia, mỗi đứa xách hai con.
Một lần nữa, Kim Đồng về đến đầu làng. Trông ra, thấy nước suối
cuồn cuộn. Đương giữa tháng sáu, trận mưa sáng sớm chỉ đổ ào một lúc, đã trắng
ruộng. Trong đầu ngõ, đàn vịt các nhà kéo ra. Mưa mới, vịt xô nhau chạy tìm con
giun, con mối bị ngập nước, chui lên.
Một toán lính bỗng từ phía trên xuống. Kim Đồng vẫn đi tự nhiên. Lính cũng bằng
đàn vịt kéo đến thôi. Trong người Kim Đồng không mang tài liệu. Chẳng lo gì,
mình cũng giống một trẻ con nào đi chơi đấy.
Đám lính đã đi tuần suốt ngày, qua mấy làng. Có vẻ đói, mỏi lắm. Bây giờ chỗ
nào cũng thấy lính. Đồn Sóc Giang lính khố đỏ về xây lô cốt ra tận chợ. Lính
dõng của tri châu đóng lên Háng Thoóng và tận trên Nậm Nhũng. Từ Lũng Pèng xuống
Xí Pài thì tổng đoàn Cưu đem người đi mò suốt đêm.
Bây giờ gặp lính, Kim Đồng có ý nghĩ khác trước kia, khác ngày bị nó cướp cái lồng
vịt. Kim Đồng chăm chú để ý. Nó là kẻ thù của cách mạng. Xem nó muốn làm gì. Có
thể bọn này muốn bắt vịt. Vịt ra đồng nhiều thế kia, như làm mồi cho nó. Nó tóm
cổ con này rồi quơ đâu được chai rượu, vào làng đánh chén. Vịt của những nhà
ai, vịt của tổ nuôi làm quỹ cứu quốc thì thiệt quá. Không được. Hay là chạy vào
gọi người ra giữ vịt.
Tự dưng, con vịt lại như trêu ngươi. Chẳng biết sợ rắn nước, rắn mòng gì sắp
ngoằng vào chân, đương ăn giữa ruộng cày cứ lạch đạch chạy về phía bọn lính. Rõ
đem mồi đâm vào chân nó.
Nhỡ nó bắt mất. Con vịt trắng xệ đít, đi lúc lắc.
Một lính nhìn đàn vịt, cười nhăn mũi, hỏi trống không :
- Tao lấy một con nhé ?
- Rút thắt lưng đập thì chết ngay. Chỉ việc xách đi !
- Phải đấy.
Một lính hỏi to, như thách :
- Đứa nào xách con vịt này ?
Bọn đằng sau quát giựt giọng :
- Ông ơi ! Thôi, ông ơi !
Tất cả bỗng lùi lũi đi, im lặng. Kim Đồng cũng chưa kịp ra cản cách nào.
Kim Đồng ngạc nhiên. Kim Đồng không biết chúng nó sợ cái gì.
Đi một quãng, một đứa ngoảnh cổ lại, như tiếc rẻ, rồi chép miệng, nói :
- Thôi, trêu vào vịt Việt Minh thì có khi không đem cái xác về được với vợ con.
Những lính khác bàn tán hốt hoảng hơn: - Chạy nhanh lên không thì chết cả bây
giờ ! Không biết hôm nọ thằng Lểu chết ở đây đấy a ! Không biết vùng này đã Việt
Minh cả rồi a !
- Mình đi thế này, có khi Việt Minh đương nấp trên núi nhìn.
Cả đám lính lếch thếch chạy.
Năm trước, nó lấy lồng vịt của Kim Đồng ở giữa chợ. Hôm nọ, nó bắt trộm con cá
nheo. Bây giờ nó sợ vịt. Nó bắt làng nào cũng phải rào ba chặng rào tre nhưng
nó sợ không dám vào làng. Kim Đồng thấy vui lạ lùng. Kim Đồng tung cái cần câu.
Kim Đồng nhặt cần câu. Kim Đồng chạy vào trong xóm. Phải kể chuyện này ngay với
các bạn.
Kim Đồng đi qua gốc gạo. Tiếng con chim lạ kêu trong bụi. Kim Đồng quay lại.
Không phải chim kêu. Đấy là hiệu người gọi. Anh Phục Quốc đứng núp đấy.
- Anh làm gì đấy ?
Phục Quốc hỏi lại em :
- Còn lính ngoài ấy không ?
- Nó đi xa rồi.
Phục Quốc bước trong bụi ra, kêu "ồi" một tiếng, như thở dài cho nhẹ
mình, rồi kể :
- Tao đương cày đằng chân núi. Có đứa trong xóm rung dây mõ báo động. Trông ra
đã thấy lính về vàng cả mép đường kia. Tao đuổi bò vào rừng rồi ra đây rình xem
nó có vào làng không.
Kim Đồng nói :
- Bây giờ lính sợ cách mạng rồi.
Rồi kể chuyện lúc nãy lính thèm ăn thịt vịt mà phải chạy, không dám bắt vịt.
Phục quốc ngẫm nghĩ, rồi nói :
- Nó sợ, ta lại càng phải cẩn thận. Hồi này, Tây đồn vừa đi sục phá ta, vừa bắt
lính nhiều lắm. Bây giờ em đứng đây canh, anh vào cày cho nốt buổi.
Có động thì làm hiệu gọi bò, nghe không. Phục Quốc lại vào chân núi, lúi húi
cày đằng ấy. ừ, canh gác. Bắt được con dế cỏ, cầm cái cần câu "công
tác", Kim Đồng trèo vắt vẻo lên cành vối, thả câu xuống mặt suối.
Nước lóng lánh chảy. Bờ đá xanh mờ rêu. Nhòa nhòa mấy bóng người đi tới.
Kim Đồng ngẩng lên, trông qua khe lá vối. Anh Đức Thanh đi trước. Tay anh cầm lồng
chim họa mi, che miếng vải đỏ. Như vừa ở làng người Mèo trên núi Lục Khu xuống.
Trên ấy, nhà nào cũng nuôi họa mi, ngày chợ đem chim đi chọi ăn tiền thưởng.
Sau lưng anh, có một ông già. Anh Đức Thanh không chơi chim chọi.
Chắc lồng chim của ông, anh cầm hộ. Kim Đồng cũng chưa trông thấy ông này bao
giờ.
Ông gầy, cao, tay cầm cái gậy trúc. Nhưng không phải gậy chống. Cái gậy hơi
dài, cái sào của người Hà Quảng đi làm cỏ ruộng. Chân ông đi đất, ông mới đi
làm cỏ ruộng về. ạng có râu lưa thưa, mặc áo chàm Nùng bạc vai, một bên cửa ống
tay rộng đã vá miếng to. Mới nhìn, lại ngỡ ông mo đi cúng. Trông cái sào và hai
người, lại tưởng hai bố con mới đi chơi chọi chim trên núi về.
Nhưng chắc không phải. Kim Đồng đoán: chỉ có ông đi chơi hay ông đi cách mạng
thôi. Kim Đồng tò mò, đoán, để ý.
Anh Đức Thanh đã thấy Kim Đồng ngồi trên cành vối.
- Kim Đồng làm gì trên ấy ? Câu à ?
Kim Đồng nhảy xuống đất, chắp tay, lễ phép : "Cháu chào ông ạ", rồi mới
trả lời anh Đức Thanh :
- Em canh gác cho anh em đương cày đằng kia.
Ông cười, đến bắt tay Kim Đồng. Rồi Đức Thanh hỏi Kim Đồng :
- Có phải lính dõng tổng đoàn Tiếp lúc nãy?
- Phải ạ.
Đức Thanh hỏi dồn :
- Có biết đám cướp hôm qua giết lái trâu trên dốc ?
- Thấy bảo còn dõng canh xác người lái trâu trên ấy.
Đức Thanh quay lại, nói gì với ông. Rồi hai người rẽ vào trong xóm. Đoán là hai
người lên trạm nghỉ ở hang đá chỗ Nọc én đằng sau nhà. Kim Đồng nghĩ : chắc có
lính còn đóng ngoài đường, chưa đi được.
Xế trưa, anh Phục Quốc đi cày về rồi lại đi ngay. Lúc về, dặn Kim Đồng ra sau
xóm, chờ ở gốc cây dâu da. Đến nơi, đã thấy anh Đức Thanh đứng đấy. Kim Đồng
nói câu anh Phục Quốc vừa dặn nói lại với anh Đức Thanh: - Anh à, bọn dõng canh
xác người trên dốc núi đã rút rồi.
- Đi hết chưa ?
- Nó bắt dân ra chôn người lái trâu. Cả ngựa cai khố xanh cũng đi rồi.
Đức Thanh lại đi, chốc lát đã cùng đồng chí già xuống nhà anh Ngư Mạn. Đồng chí
già hỏi Đức Thanh :
- Kim Đồng đâu ?
Đức Thanh đáp :
- Em đợi ngoài kia rồi.
Đồng chí già bảo anh Đức Thanh gọi Kim Đồng vào. Kim Đồng trông thấy ông vẫn cầm
cái sào trúc và hai ống quần xắn. Đức Thanh nói với ông:
- Em Kim Đồng, hội viên nhi đồng, giao thông, liên lạc, canh gác, em đều làm được
cả.
Ông hỏi Kim Đồng :
- Cháu bao nhiêu tuổi ?
Kim Đồng đáp :
- Thưa ông, cháu được mười ba.
- Cháu học lớp mấy ?
- Đồng chí Đức Thanh dạy cháu đã biết đọc biết viết.
- Cháu cố gắng học cho giỏi hơn...
- Vâng ạ...
Ông lại hỏi :
- Cháu có hay đi gác cho các anh họp không?
- Thỉnh thoảng ạ.
- Nếu lính đến thì cháu làm thế nào?
- Cháu kêu : Bò ăn lúa ! Bò ăn lúa! Rồi chạy vào, thế là các anh biết có lính
tuần.
- Bây giờ ta sắp đi được chưa ?
- Thưa ông, đi được rồi.
- Bây giờ đi đường gặp địch thì cháu nói thế nào ?
- Cháu nói thật to: "Chào quan ạ", để đằng sau các đồng chí biết mà
tránh đi.
- Thế chúng nó hỏi cháu đi đâu ?
- Cháu nói: Đi đón thầy cúng. Mẹ cháu ốm đau chân. Nó có bắt đưa về nhà thì
cũng thấy mẹ cháu đau chân, ông ạ.
Ông đứng dậy, nói :
- Nào ông cháu mình đi !
Rồi ông và anh Đức Thanh lội đường suối về phía Pác Bó. Kim Đồng thoăn thoắt đi
trước. Trăng đã lên đằng góc núi. Sáng trăng đổ xuống thung lũng bên ấy, như
vàng chảy sang bên này.
*
* *
Mỗi con suối đều có cuộc sống, vẻ mặt, dáng dấp và cả ý nghĩ của suối nữa. Khi
suối âm thầm vào rừng sâu rồi ào ào xuống vực thác. Khi suối len lỏi cạnh cánh
rừng thưa quanh làng. Khi suối nhởn nhơ vui với người qua lại bên mình, qua các
bến đá, các nhịp cầu mái lợp có người ngồi chờ.
Dưới vách đá đứng, nguồn lên một dòng nước xanh trong. Chỗ ấy nước từ khe đá,
lòng đất tuôn ra, đấy là nơi bắt đầu Pác Bó.
Con suối Pác Bó ấy khác tính lắm. Nguồn nó không phải mạch nước nhỏ. Suối này
đã chảy thành dòng từ lâu trong đá, không biết đã qua mấy ruột núi, đến đấy, suối
nhả ra dòng nước Pác Bó xanh trong.
Bạn đọc yêu quí !
Bác Hồ của chúng ta đã từ nước ngoài về ở hang đá bên suối Pác Bó, trong vùng
núi ấy, Bác Hồ đã cùng Trung ương Đảng mở hội nghị thành lập Mặt trận Việt Minh
ngày 19 tháng 5 năm 1941, lãnh đạo cách mạng cả nước.
Có một đám trẻ trong xóm ra chơi trên dòng suối chân núi. Thật thì các em vừa
chơi vừa làm. Bọn lúi húi đắp đá ngăn nước tát cá. Người làng ở bờ suối, ai
cũng biết tay không bắt cá. Mấy cậu buộc dây, thả túm lá bồ quân kết lại, rồi
kéo ngược lên. Tưởng tượng thuyền đương xuôi xa lắm, tận Nước Hai, tận Cao Bằng.
Chiếc dây đứt, tiếng reo inh ỏi vang mặt nước.
Có một ông già râu dài đi qua. Thấy trẻ chơi vui, ông đứng lại. Lũ trẻ nhìn ông
mặc áo Nùng như mình, quần xắn, tay cầm cây trúc. Như ông mình đi làm cỏ ruộng
về. Như ông ở trong núi ra. Có lẽ ông làm cỏ ruộng. Năm nay mùa mất to. Trên thửa
ruộng ven rừng cấy lúa sớm, trơ những bông lép. Cái loóng 3 nằm
ngửa, đầy nước mưa, chẳng ai buồn tát ra bởi cái loóng đã để không từ tháng
năm, chẳng hạt thóc nào đập vào. Lúa mùa mà cỏ cao quá đầu lúa. Cả cụ già cũng
phải đi làm cỏ mà không xuể !
Ông già hỏi :
- Các cháu chơi gì đấy ?
Đám trẻ nhìn ông, tíu tít :
- Cháu bắt cá.
- Cháu thả thuyền.
- Ông vào đây chơi với cháu.
Ông cắm gậy trên bờ. Rồi xắn quần cao nữa, ông xuống suối với các cháu. Bọn trẻ
thích quá. Cái bờ đã be cao. Càng rối rít múc tay tát nước. Ông cũng chũm tay,
tát nước. Vừa tát nước vừa ngoảnh ra, chuyện với đám bé hơn, đương chơi thả
thuyền. Ông hỏi:
- Cháu có biết thuyền đứt dây thì trôi đi đâu?
- Trôi vào bờ, ông ạ.
- Nếu không trôi vào bờ, trôi mãi thì đi đâu, cháu biết không ?
Một em đáp :
- Xuống Nước Hai.
Một em đáp :
- Đi Cao Bằng.
Một em bé nói :
- Cháu không biết, ông bảo cho.
Ông trỏ tay ra xa :
- Thuyền này đi hết núi thì ra cánh đồng, đúng, xuống Nước Hai. Nhưng còn đi
mãi. Thuyền qua hai phủ tám châu đất Cao Bằng rồi suối đưa thuyền ra gặp con
sông, sông lại đưa thuyền qua các cánh đồng, các thành phố ra tận biển. Các
cháu sẽ được ngồi trên thuyền theo cái suối và con sông đi xem các nơi khắp đất
nước ta.
Tiếng trầm trồ :
- Thích lắm.
Ông lại nói :
- Bao giờ lớn, các cháu muốn đi như thuyền cũng được.
Bọn trẻ lao xao hỏi :
- Làm thế nào đi được, hả ông ?
Ông bảo :
- Các cháu phải biết chữ.
- Thưa ông, làm thế nào cho biết chữ?
Ông mách :
- Nhiều anh lớn trong làng đã có chữ, bảo các anh dạy cho. Biết chữ mới đọc được
sách, báo và đi đến các nơi có những cánh đồng, thành phố và cửa biển.
Bọn trẻ cùng kêu :
- Phải rồi ! Phải rồi !
Ông hỏi :
- Các cháu thấy ở trong xóm ông Dương có nhà không ?
- Ông không chơi với chúng cháu nữa à ?
Ông cười.
Một em chắp tay, nói :
- Ông Dương cháu có nhà. Cháu đưa ông về. ông lên bờ, cầm cái sào trúc.
- Các cháu cứ chơi. Ông biết nhà ông Dương rồi.
Ông còn quay lại, cười vẫy tay đùa. Bọn trẻ hỏi theo :
- Ông ơi, nhà ông ở đâu ?
Ông trỏ vào núi.
Ông vào xóm. Ông đi rồi. Nước suối Pác Bó phân vân chảy tràn trên những tảng đá
trắng. Đám trẻ trông ra, tưởng tượng như lời ông, đương thấy được cái suối đem
đi xa, to dần ra đến lúc gặp con sông. Qua hết những cây vối to kia đến chỗ hai
bên bờ có những cánh đồng...
... Rồi gặp con sông. Rồi qua những cánh đồng, những thành phố, những cửa biển
xa xôi của đất nước, chưa bao giờ được thấy.
Bạn đọc yêu quí !
Ngày ấy, công tác cách mạng phải bí mật. Không ai biết ông cầm cái sào trúc -
cái sào làm cỏ lúa của người Hà Quảng, đấy là Bác Hồ.
Các cháu đã được gặp Bác Hồ, mà các cháu còn được gặp Bác Hồ nhiều lần nữa. Những
năm ấy, các cháu gọi Bác là ông "ở núi", ông Thu Sơn.
Lát sau, anh Đức Thanh đi qua. Tay anh vẫn xách cái lồng chim họa mi. Lại kèm cả
dây củ mài vừa đào được. Anh vừa tạt vào rừng, kiếm bữa ăn chiều nay. Anh lội
ào ào qua suối.
Bọn trẻ mách :
- Anh Đức Thanh à, có ông ở núi vào nhà ông Dương.
Anh Đức Thanh nói : "Thế à ?" rồi đi vội vội theo.
° ° °
Anh Phục Quốc cày xong, đuổi bò về xóm rồi ra suối đợi em. Phục
Quốc nhìn ngược lên phía suối, có hai cây vối già tựa vai nhau trên mặt nước,
làm cầu cho xóm Pác ý sang xóm Pác Luông và đằng xa, bóng suối Pác Bó lấp lánh
lên. Kim Đồng vừa về đến đấy.
Thấy anh, Kim Đồng khoe :
- Hôm qua, em đưa ông già cách mạng đi với anh Đức Thanh.
Hai anh em thong thả về xóm. Cả hai cùng im lặng, mỗi người có một ý nghĩ. Phục
Quốc nói : - Người già cũng đi làm cách mạng thế đấy.
Kim Đồng nói :
- Bây giờ em mới thấy.
Phục Quốc nói :
- Ông già rồi mà ông vẫn xa nhà đi.
Phục Quốc đứng lại, nhìn Kim Đồng:
- Em ạ, thanh niên như anh đi cứu nước, còn đi nhiều lắm, đi xa lắm.
Kim Đồng nhìn anh và hỏi :
- Anh đi đâu ?
Phục Quốc lại nói :
- Anh nghe cán bộ bảo con đường đi hết nước ta từ đây về phía nam, một bên là
biển Đông, một bên là núi Trường Sơn, dài mấy nghìn cây số. Đường Nam tiến đi cứu
nước là đường ấy. Anh sẽ đi.
Kim Đồng lại hỏi :
- Bao giờ anh đi ?
- Anh cày sớm cho xong vụ.
Kim Đồng nói :
- Anh đừng lo. Có hội cứu quốc giúp nhà mình. Mà em cũng sẽ học cày.
Phục Quốc cười :
- Thế thì giỏi.
Rồi Tết rằm tháng bảy đến. Khi mong thì lâu, nhưng đã đến thì lại đi qua chóng
quá. Cả châu Hà Quảng lặng lẽ trong cái tết. Ngày nào lính đồn, lính châu cũng
tuần phòng trên đường cái. Người ta sợ, chỉ ở làng xa mới có những cô gái mặc
áo chàm mới, khăn thêu, lên ngồi hát trên đồi.
Chúng nó tất bật lo đối phó với cách mạng. Đồn bốt và lô cốt đã xây đá xong hết.
Đánh hơi thấy đâu đáng nghi, quan quân đi bắt ngay. Chợ Sóc Giang bây giờ vắng
hẳn. Phiên nào có tin đồn Tây chặt được đầu cán bộ, sắp đem bêu chợ, không ai
đi chợ phiên ấy.
Các làng âm thầm hẳn đi. Nhưng người ta càng ngày càng thì thào cách mạng đã về
khắp nơi. Không còn biết bên trong mỗi làng thế nào. Rằm năm nay, xã đoàn không
thu được của dân một cái bánh, một con vịt để đem lên Tết quan. Có thể vì mất
mùa. Có thể các làng đã theo cách mạng. Đằng nào thì quan đồn, quan châu cũng
phải làm ngơ như không biết.
Nhà Kim Đồng năm nay lại khác người, làm tết rằm thật to.
To thật đấy. Nấu hai mẻ rượu ngô, gạo làm bún đã đầy đủ, lá gai phơi từ nửa
tháng trước -mọi thứ sửa soạn cho tết. Anh Phục Quốc làm thịt một lúc những năm
con vịt. Lại gói mấy chục chiếc bánh nếp. Kim Đồng đoán: có khi Tết xong anh đi
xa, đem cả bánh đi ăn đường. Nhà mình ăn Tết to năm nay là phải.
Kim Đồng thèm kể chuyện "anh Phục Quốc đi Nam tiến" với các bạn, muốn
khoe "đường ấy dài mấy nghìn cây số, qua hết đất nước.
Hai bên đường có đồn Tây, đồn Nhật. Quân cách mạng có súng, dẹp tan hết các đồn
lấy đường đi". Nhưng Kim Đồng không dám nói. Anh Phục Quốc đã dặn : giữ bí
mật. Kim Đồng cố nhịn, nhưng cũng phải kể với một mình Cao Sơn.
Kim Đồng còn muốn kể cho mẹ nghe. Nhưng nghĩ mẹ thương anh đi, lại thôi. Tuy vậy,
Kim Đồng cảm thấy như mẹ đã biết. Lúc ăn, mẹ cứ bảo anh ăn nhiều vào. Mọi khi,
bữa có thịt, mẹ chỉ giục Kim Đồng gắp thêm. Một con vịt vừa làm canh bún, vừa cả
thịt luộc mà cả nhà ăn không hết, hôm nay nhiều thịt quá.
Đêm tháng bảy, trăng suông mát rợi. Không nghe tiếng trẻ đùa ngoài đầu xóm. Các
bạn trong làng đã vào hội cứu quốc, tối nào không đi học cũng đi tập hát, ít
chơi nhông như trước.
Ngoài cửa sổ, có con chim sột sạt gãi mỏ trong cây bo. Đằng xa, tiếng nước thác
Pò Đoi khe khẽ rơi xuống đá. Con ve kim kêu đêm trong rừng chợt rít lên rồi lắng
im. Tiếng chó nhủng nhẳng làm nũng với bóng tối, tiếng trâu bồn rền rền dài ra,
xa mãi. Đêm về làm cho mặt đất hình như rộng hơn ban ngày.
Mẹ và anh ngồi bên bếp. Đêm Tết, năm nào mọi người cũng ngồi thong thả như thế.
Nhà ai cũng lấp ló vách lửa. Anh nói chuyện rì rầm với mẹ, Kim Đồng nghe lõm
bõm... chuyện lấy vỏ dó... cái nương bông, cái khuôn tráng giấy chữa rồi... Nhà
mình đã xong vụ cày.... Một chốc, Kim Đồng nghe bên cạnh lưng mình. Cao Sơn đã
ngáy khò khò. Rồi Kim Đồng cũng ngủ nốt.
Không ngờ, anh đi ngay đêm ấy. Đáng lẽ Kim Đồng cũng không biết. Đã khuya, hay
gần sáng, lúc ấy Kim Đồng đương ngủ say. Mẹ khẽ gọi :
- Dền, dậy con ! Anh đi rồi !
Mẹ chỉ gọi thế, Kim Đồng tỉnh ngay và ngồi lên, Kim Đồng mở mắt. ánh lửa bếp đỏ
hỏn, xung quanh còn tối. Cao Sơn cũng nhỏm theo, ngơ ngác. Hai đứa thấy anh lúi
húi trước bếp. Anh vẫn mặc bộ quần áo chàm cũ khi đi cày, lại đội cái mũ nồi
vá. Kim Đồng không thể tưởng đi Nam tiến như thế. Sau nghĩ ra, nhớ khi nghe lỏm
các anh học quân sự nói chuyện "đánh du kích, cướp súng giặc, giết giặc".
Thế thì phải mặc quần áo cũ mới dễ vào đồn nó được. Có đến mấy gói to bọc lá
chuối nặng kệt để ngay cạnh anh. Mẹ phải lấy thêm cái "dậu" nữa mới đựng
đủ. Đấy là những gói thịt vịt và bánh nếp. Thì ra, mẹ bảo tết này làm nhiều vịt
để anh mang đi. Mẹ đã biết anh đi. Chẳng đợi mình phải mách.
Anh Phục Quốc đứng dậy, ra mái, rút cái đòn gánh. Anh xách túi và "dậu"
lên. Mẹ bước đến, giơ tay ấn thêm cái mũ trên đầu anh xuống cho ấm. Mẹ sợ ngoài
kia trời sương lạnh. Anh ôm cả hai vai Cao sơn. Kim Đồng đương ngồi dưới sàn
nhìn lên, cũng đứng lên cho anh ôm vai. Kim Đồng muốn khóc. Anh chưa đi mà đã
thấy nhớ quá. Bây giờ, Kim Đồng lại không muốn để anh đi nữa.
Anh Phục Quốc nói :
- Em ở nhà cho ngoan. Cách mạng thành công thì anh về.
Nghe anh nói thế, Kim Đồng lại thấy hăng hái lên. Anh bước xuống, từng bậc
thang kẽo kẹt. Bóng anh quảy đôi "dậu" mờ mờ. Tự dưng, Kim Đồng sờ
tay, thấy ướt trên má từ lúc nào. Nhưng Kim Đồng mắm môi lại. Không, Kim Đồng
không thích khóc. Kim Đồng nghe chân anh giẫm rào rạo trên những chiếc lá mít
khô. Tiếng lạch xạch, ấy thế là anh đã ra gốc cây bo, anh đã ra tới cây bưởi.
Có lẽ không phải. Chân ai đằng ấy bước lại.
Chợt nhớ Kim Đồng khẽ gọi :
- Anh Bát Ngư !
Có tiếng hú đáp khẽ. Hình như thế. Chắc anh Bát Ngư đứng đợi đấy. Hai anh lúc
nào cũng đi cùng nhau. Bây giờ hai anh cùng đi Nam tiến. Như Dền, với Thàn, với
Thanh Thủy, đi đâu cũng cùng đi. Hai người cùng đi...
...Con đường đi hết nước ta từ đây về phía nam, một bên là biển Đông, một bên
là núi Trường Sơn, còn dài mấy nghìn cây số Đường Nam tiến đi cứu nước là con
đường ấy Anh sẽ đi...
Trời vẫn sáng trăng suông. Các anh đi vào bóng trăng. Hai đứa đoán chắc có đông
người đương đợi các anh ngoài kia, cùng đi.
Kim Đồng và Cao Sơn ôm cột, áp tai vào cột, nghe những tiếng động kỳ lạ, đâu
đâu, tiếng thác Pò Đoi, cái cọn rền rĩ, cái cối nước giã vào trống không, tiếng
hổ vờn nhau trong rừng thẳm, tiếng sao đổi ngôi rơi, tiếng chân người đi, tất cả,
một lúc rập rờn đến, một lúc mênh mang xa, mặt đất ban đêm dài ra theo bước các
anh, đấy là tiếng chân các anh đi.
--------------------------------
Ngũ tự kinh: một tài liệu tuyên truyền của Việt Minh viết lối
thơ năm chữ, trước Cách mạng tháng Tám 1945 rất phổ biến ở Việt Bắc và đồng bằng
miền Bắc |
|
Mo: thày cúng |
|
Loóng: khúc gỗ rỗng ruột đặt ngoài ruộng để đập lúa ngày
mùa |
Chương 5
Vào những ngày cuối năm ấy, đồn bốt khắp châu nhụng nhặng hẳn
lên. Vùng Đạo Ngạn, Nà Giàng có lính của đội Tam, vùng Sóc Hạ thì tổng đoàn
Kim. Cả chúa đất Giúng Páo trên vùng Mèo ở Phia Viêng cũng theo Tây đi gác.
Chúng phao tin sẽ đem lính Mọi "ăn thịt người" vào Hà Quảng. Nhưng mới
chỉ thấy hai đại đội lính khố
đỏ và cả lính da đen đóng ở Sở Ngựa dưới Nước Hai và ngoài tỉnh lỵ Cao Bằng kéo
thêm vào, đóng rải qua Kéo Yên xuống Sóc Giang.
Trong khi ấy, đoàn thể mở ngày hội văn hóa toàn châu ở ngay bản Hồng. Ban Việt
Minh tỉnh và báo "Việt Nam độc lập" đem cờ tặng Đại hội. Lại có phụ nữ
hội viên các làng về làm bánh bán lấy tiền treo giải thưởng cho người học giỏi.
Có súng canh gác ở Keo Giá. Mấy trăm đại biểu các xã về dự. Thi làm toán, thi đọc
"Ngũ tự kinh" và "Lịch sử nước ta" 1,
thi bắn súng, thi hát, lấy dây rừng xếp chữ, rồi biểu diễn thể thao kéo co, chồng
người.
Đội của Kim Đồng được đi hội, học thêm được nhiều bài hát mới, về kể mãi chuyện
không hết.
Cán bộ xuôi ngược khắp nơi. Anh Phục Quốc, anh Bát Ngư đi Nam tiến. Trên đất nước,
chỗ nào cũng có người đi. Càng nhiều công tác, cán bộ càng qua lại nhiều. Đội của
Kim Đồng mê mải làm giao thông suốt đến áp Tết. Có khi đi xa tận Phù Ngọc.
Hôm ấy, Kim Đồng lên núi vác dó về sớm rồi xuống Hòa Mục đưa cán bộ lên. Bây giờ,
Kim Đồng đã là anh em với các bạn dưới ấy.
Đấy cũng có đội thiếu nhi. Nhiều lần, Kim Đồng đã tập hát cho các bạn. Cả đêm
mưa, nước lầy lội trắng cánh đồng.
Chắc đường mưa chẳng gặp ai. Tuy vậy, vẫn nhớ những điều cần khi đi công tác.
Trong túi đeo, Kim Đồng có bát gạo và cái áo cũ. Chiếc áo rách để trèo núi vác
dó, vừa cởi ra, bỏ luôn vào đấy. Đi tìm then, tìm mo về cúng cho người ốm phải
đem theo cái áo của người ốm và bát gạo để nhà thầy thắp hương bói quẻ. Lệ xưa
nay vậy.
Anh cán bộ đi cách xa Kim Đồng. Đã dặn nhau trước đến quãng nào có tiếng thác đổ
khó báo tin hoặc gặp đường quanh mới đi gần lên một chút. Đi đường phải cẩn thận
thế.
Vừa tạnh mưa, bắt đầu quang sương. Trên lưng núi, nương thuốc phiện của người
Mèo, người Nùng đã nở hoa, như những đàn bướm li ti bay trong bụi phấn. ở những
tràn ruộng xâm xấp nước trước mặt, đàn vịt nhà ai ra chạy lạch đạch quanh những
chân cầu lợp, cái cối nước tất cả quay suông, chẳng rúc tìm được hạt thóc nào.
Vừa một quãng, gặp châu đoàn, Thế mà ngỡ đường vắng ! Châu đoàn cưỡi ngựa, thu
mình trong cái áo dạ xám. Người lính dõng chạy sau, nghe không hiểu chân người
hay chân ngựa, bì bọp trong bùn. Xem cách đi, Kim Đồng đoán không phải đi tuần.
Châu đoàn đi đánh bạc về, hay có việc lên đồn đêm qua, ngủ lại châu, bây giờ về
sớm. Nhưng nghề nó như con chó ngứa răng, thấy người thì sủa, châu đoàn dừng ngựa
lại, hỏi :
- Mày đi đâu ?
Thế là Kim Đồng kêu tướng lên :
- Trời ơi ! Quan châu đoàn đừng đánh tôi... đừng đánh tôi...
- Tao đã đánh mày đâu. Mày vu vạ cho quan à ?
Kim Đồng quay lại, đã thấy biến mất anh cán bộ. Bấy giờ Kim Đồng mới nói bình
thường, khe khẽ :
- Không, không...
- Đi đâu ? Đi Việt Minh à ?
- Tôi đi hỏi ma cho mẹ ốm.
Châu đoàn bảo người dõng lôi cái túi trên vai thằng bé xuống xem có gì ở trong.
Trong túi có bát gạo và cái áo rách. Thật nó đi gọi then. Mà phải, ở Bản Vàng
có cô then 2 hay.
Thế là ngựa châu đoàn lại co cổ cất vó lội bùn đi.
Kim Đồng thong thả nhìn lại. Anh cán bộ nấp trong bụi lau bờ suối. Tiếng ngựa
châu đoàn đã xa hẳn. Kim Đồng huýt sáo như chim hót làm hiệu rồi lại vội vội đi
lên trước.
Về đến Nà Mạ, chưa quá buổi cơm trưa.
Bắc Lạng, ra bí mật trước Cách mạng tháng Tám, 1945 do Bác Hồ sáng lập và viết
bài.
Hôm sau, có gói tài liệu to. Cả tập báo Việt Nam độc lập 3 vừa
đến. Cần đi ngay. Không thể nhét tập báo vào đốt cần câu. Cũng không cầm tay được.
Bàn nhau xong, anh Ngư Mạn và Kim Đồng cùng đi.
Anh Ngư Mạn mặc cái áo rách nhem nhuốc, như người đi phu về. Gói tài liệu bọc
lá dong, hệt chiếc bánh tày Tết, Kim Đồng treo trên túi vai.
Thường thì buổi trưa dễ đi. Lúc ấy, lính tuần đã tạt vào đâu cơm rượu và ngả
lưng rồi. Đã trông thấy con suối đến chỗ ấy lượn nghiêng, ánh mặt nước, cái cầu
cong vênh một bên. Trong cầu, không thấy ai. Tuy vậy, Kim Đồng vẫn chăm chú
nhìn anh Ngư Mạn đi đằng trước.
Anh Ngư Mạn bỗng ngã chúi người. Như vấp hòn đá. Báo động rồi. Kim Đồng nhìn
sang bên kia cầu, thấy áo vàng, nón chóp nhảy đến, xúm lại, vừa quát vừa khám,
vừa chửi anh Ngư Mạn. Dáng hẳn bọn này đi quá buổi, chưa cướp được cái gì vào bụng,
càng cáu gắt hơn.
Anh Ngư Mạn phải cởi trần cả cái áo rách cho nó khám. Bên đường, Kim Đồng đến đứng
im lặng, chăm chú nhìn bọn lính đương khám anh. Kim Đồng đứng xem. Trên vai, vắt
cái túi không. Anh Ngư Mạn nghĩ khen thầm. Kim Đồng gan đến thế.
Một lính quay ra hỏi :
- Mày đi đâu ?
Kim Đồng cười lửng lơ, không đáp. Bọn kia rối rít :
- Mặc kệ nó ! Đói sắp chết đây ! Đi thôi.
Rồi chúng bồn như trâu chạy về phía trước. Anh Ngư Mạn vào trong cầu, vờ ngồi
nghỉ.
Anh lấy cái bật sừng trâu, kéo một cái, lấy lửa. Anh đốt sưởi. Kim Đồng lẳng lặng
đến bên anh. Kim Đồng khỏa xuống mặt nước rửa chân bùn lấm. Anh Ngư Mạn hỏi :
- Tài liệu đâu ?
Kim Đồng trỏ vào rệ cỏ. Kim Đồng ra nhặt gói báo to như cái mo, lại bỏ vào túi
đeo lên vai. Hai anh em, cách nhau một quãng, lại đi.
Cuối tháng giêng, cái Tết chỉ còn phảng phất. Chẳng còn bánh nếp, thịt lợn, chẳng
còn gì. Chỉ còn tiếng hát. Dù trong cảnh ngặt nghèo, vẫn có tiếng hát và niềm
mong ước. Trai gái các làng đi từng đám như hội. Trong những chiếc cầu lợp vắt
qua các làng hai bên suối Pác Bó, người ngồi đợi nhau đi hội rồi vừa đi vừa
hát. Cho đến đêm thì tụ về các nhà then. Và, bao giờ cũng vậy, then hát đến đoạn
kể Sa Dạ, Sa Đồng vượt biển xa xôi, nhiều người già cũng đến nghe. Tưởng như tiếng
hát đương kể vào kiếp làm con người khổ cực. Cái khổ được kể ra, nước mắt rơi
xuống. Năm nay, ở nhiều đám then, có người về hát bài then cách mạng... Trang
thiên hạ mì hả ăn châu... Trong thiên hạ có năm châu: Mỹ, úc, Œu, Phi và á ...
Người nô nức đến nghe thật đông. Lạ thật, đời người thay đổi đến nơi rồi.
Thanh Thủy sang rủ Kim Đồng :
- Đêm mai sang Đạo Ngạn xem then nhé.
Cả bọn cùng đi.
Kim Đồng ngồi trong cửa sổ nhìn xuống. Thanh Thủy mặc như cô gái lớn. Tuy cái
áo dài thì cũ, đã ngắn, nhưng chiếc thắt lưng mới, dấu chàm nhuộm còn xanh trên
hai bàn tay, đầu thắt lưng ngoắt như hai sừng bò vắt vẻo đằng sau. Chít khăn, đầu
ngôi mượt rẽ giữa, lại đội nón. Ngày Tết, ai cũng ra vẻ đấy. Kim Đồng thấy náo
nức đi với Thanh Thủy.
Nghe rõ rồi nhưng Kim Đồng còn hỏi đùa:
- Đi đâu ?
- Đi xem then bên Đạo Ngạn.
- Có hội văn hóa nữa thì thích nhỉ. Chỉ muốn đi hội văn hóa, học thêm bài hát mới.
Thanh Thủy nói :
- Nghe nói then bên ấy cũng có người về hát bài cách mạng.
Rồi lại hỏi :
- Mai có đi không ?
Kim Đồng lặng im rồi nói :
- Các bạn đi thôi.
Thanh Thủy cau mặt :
- Sao thế ?
Kim Đồng ra thang, xuống trước mặt Thanh Thủy, rồi nói khẽ :
- Anh mình đi công tác rồi, Tết này mình không muốn vắng nhà cách đêm. Mẹ ở nhà
mong.
Thanh Thủy nghe ra, nói :
- Chặp tối về thôi mà.
Kim Đồng lại nói :
- Anh Đức Thanh bảo mai tổ ta gác.
- Ai gác thì người ấy ở nhà. Họp tổ bảo thế rồi.
Kim Đồng bàn :
- Thôi các bạn cứ đi xem then.
Thanh Thủy băn khoăn :
- Thế thì Thanh Thủy cũng ở nhà.
- Sao không đi ?
- Không muốn đi nữa.
Hôm sau trong xóm có cuộc họp, anh Đức Thanh đã bảo.
Không biết họp gì, người các nơi về đợi từ đêm.
Có cả các chị. Ai cũng quần áo mới, như đi chơi Tết, như người vào xóm tìm đám
then.
Nhưng Kim Đồng trông mặt biết không phải người chơi. Các anh các chị cách mạng
đều có vẻ khác, hai con mắt nhìn chăm chú, tươi cười. Rồi Kim Đồng qua mấy nhà,
biết thêm:
nhiều người có súng, có dao dài. Biết thế nào ! Hay đội tự vệ sắp ra đánh đồn
Sóc Giang.
Có tiếng đồn ở Khuổi Ngược dưới châu Nguyên Bình có một bọn lính vào dỡ nhà làm
bốt giữa xóm. Được mấy hôm, người ta lấy củ nâu trắng giã nhỏ thả xuống máng nước,
bốt lính uống nước đều đau bụng kêu cha kêu mẹ, phải cút hết. Từ đấy, lính đi
tuần cả châu phải đeo lọ nước sau đít, không dám uống nước máng trong xóm. Các
anh còn kể chuyện ở nhiều nơi, Việt Minh đã chiếm được lô cốt. Có nơi lính đồn
giết Tây, đi theo cách mạng. Kim Đồng nghe, thèm hỏi, mà không dám hỏi. Giá anh
Phục Quốc có nhà thì hỏi rồi.
Từ sớm, Kim Đồng ra ven đường, tìm cái dây mõ báo động xem chỗ nào đứt sửa lại.
Từ mùa lũ năm ngoái, không giựt mõ. Mảnh dây bìm phơi khô rồi nối, bền quá,
không đứt. Kim Đồng lại kiếm cái đạc trâu đem buộc vào đầu cành nhãn, ngay dưới
mái nhà. Nghe thử, anh Đức Thanh bảo : mõ kêu to đấy. Rồi Kim Đồng xua dồn đàn
vịt ra khoảng ruộng ven đường bờ suối. Chẳng thiếu việc, lúc vịt mải đi rúc đằng
xa. Kim Đồng trèo lên cây vối, mở giấy ra học bài, học hát. Cành vối che kín
hai bên, như ở cái cửa tò vò nhìn ra. Người phía nào đi tới cũng trông thấy được
tận đằng xa.
Suốt ngày, dập dìu người đi qua ngoài đường. Mới trông cũng giật mình tưởng
lính tráng về làng. Nhưng rồi quen mắt, biết là người vào các xóm tìm xem nốt mấy
chuyến hát then cho tròn tháng giêng. Quần áo mới của ai cũng thẫm hơn màu chàm
núi. Có tiếng cười. Tiếng hát đằng xa, như nước mưa mới ở khe đá róc rách. Sốt
ruột đấy. Thế nào mai cũng rủ cả bọn đi Đạo Ngạn nghe bài then cách mạng một
hôm.
Anh Đức Thanh đến nhà lúc chặp tối, Kim Đồng hỏi ngay :
- Mai còn họp không, anh Đức Thanh à ?
Anh cười :
- Nóng ruột muốn đi hội rồi, phải không?
Bây giờ có việc cần lắm, Kim Đồng ạ.
- Việc gì thế ?
- Có thư về Pác Bó.
- Em đi cho.
- Mai em còn gác.
- Để Thanh Thủy gác cũng được.
- Bọn nó đi xem then rồi.
- Không, Thanh Thủy bảo nó ở nhà, hôm nào hết gác thì cùng đi.
- à...
Kim Đồng hỏi :
- Em đi Pác Bó, Thanh Thủy gác thay em được không ?
- Được.
Kim Đồng sang nhà Thanh Thủy. Trời tối. Kim Đồng đến dưới gầm sàn. Củi nổ lách
tách trên bếp. Đứng im một lát, nghe cũng biết ai trên nhà ngồi chỗ nào. Tiếng
Thanh Thủy cười đùa với các em bên ánh lửa, ngay trên đầu Kim Đồng. Chỉ việc
giơ tay gõ khẽ lên xà ngang thì Thanh Thủy biết hiệu.
Kim Đồng gõ ba tiếng. Rồi chép miệng như con mối bắt muỗi. Tiếng cười bặt im.
Chân người ra ngoài sàn đầu thang.
Thanh Thủy đã xuống.
- Mai gác hộ nhé.
- Đằng ấy đi đâu ?
- Có công tác.
- Tối về thì đến nhà Kình xem cúng kỳ yên 4,
nhớ đấy.
Rồi Kim Đồng chạy về. Đường tối, không đi chuyền cây vối sang suối được, Kim Đồng
lội ào xuống nước, hai chân buốt tê. Tối nay còn thức đạp nốt chỗ dó ngâm thành
bột, cho mai mẹ có cái làm giấy.
Sáng sớm, Kim Đồng đi Pác Bó. Mũ chàm mới, áo và đôi giày vải mới nữa. Vẫn thấp
thoáng những người trảy đi các làng nghe hát then. Như trong mái nhà nào cũng vẳng
ra tiếng hát, giục giã chân người.
Các đầu xóm đều có bốt gác. Tây đồn bắt làng xóm phải tuần ngày Tết thật
nghiêm. Nhưng chẳng ma nào canh ! Có khi người ngồi trong bốt, chỉ thấy ngồi
ngây ra. Có khi là người hội cứu quốc ta ra gác vờ hay đấy là dõng,
nhưng ngày Tết, ai cũng muốn ngồi im. Cho khỏi phiền một năm khó nhọc.
Đường lên Pác Bó hôm nay dài quá, càng mong chóng đến càng thấy dài. Con suối
ngoằn ngoèo đuổi theo chân đi. Sang mấy cái cầu rồi, đếm rồi lại quên.
Rồi những cây vối cổ thụ bóng lá xanh kín mặt nước, đến chỗ ấy hết, lại thấy
cây nữa, lại đếm. Càng mong càng lâu. Mong chóng tới, mong về. Sớm mai thì cả bọn
cùng nhau sang xem then bên Đạo Ngạn. Tối nay về sớm, chơi đám cúng kỳ yên các
bạn đều đến đấy cả rồi mai cùng đi. Đã hẹn mà.
Mong mãi cũng phải được. Đã thấy sườn núi Pác Bó chàm thẫm. Mưa phơn phớt chắn
chân lại, nhưng cứ đi vào thì bao giờ núi cũng lại mở ra. Rồi trông thấy xóm Bó
Bẩm mờ trong sương. Không có khói bếp. Mấy nhà lơ thơ như cái lá khô rơi trong
chân núi.
Mà ở các xóm nghèo hết Tết rồi. Chưa vào nhà đã biết. Quanh xóm, chẳng thấy con
vịt nào. Vịt đã bỏ vào nồi cả, ra giêng không còn gì. Trên lạch suối đầu xóm,
người đương lúi húi bắt cá. Vừa Tết xong, đã phải tát cá suối, trong nhà chẳng
còn cái ăn. Mà bắt cá suối mùa lạnh thì mấy khi được.
Đến gần, Kim Đồng nhận ra ông Dương và mấy cháu đương tát cá.
Kim Đồng đứng lại.
- Cháu chào ông Dương.
Ông Dương ngẩng lên, nhìn ra, rồi nói:
-Ô kìa, cháu đã vào.
Kim Đồng sốt sắng :
- Cháu xuống bắt một tay với.
Ông Dương đứng thẳng đấm lưng mấy cái, rồi nói :
- Không còn con nào nữa đâu. Tao cũng về đây. Cháu đi đâu ?
- Cháu vào nhà ông.
Ông Dương buông tay áo, bỏ ống quần xuống. ống tay ống chân ông bị lạnh cóng,
cũng tím như màu áo. Gió núi thổi ra buốt quá mà ông Dương chỉ mặc ngoài có tấm
vỏ sui.
Ông Dương cầm cái thư của Kim Đồng đưa. Ngoài thư, vẽ ba ngôi sao. Biết thư này
cần lắm. Ông ra cửa gọi cháu. Một lát, thằng bé về, mặt còn dính bùn. Nhưng biết
có việc, bé quàng cái túi lên vai. Bé đưa Kim Đồng đi ngay lúc ấy vào sau núi.
Đi nhanh quá, một lát Kim Đồng đã trở về.
Kim Đồng để thư bí mật ở hang Si Điếng rồi về ngay. Đã có hẹn trạm thư ở đấy.
Nhiều lần, Kim Đồng tưởng đến Si Điếng sẽ gặp lại ông già cách mạng hôm trước.
Mà không được gặp. Nhưng Kim Đồng đoán biết các cánh rừng quanh Si Điếng đều có
các đồng chí cách mạng ở và chắc cũng có ông ở đấy. Lần nào vào Si Điếng, Kim Đồng
cũng nghĩ và để ý như thế.
Bấy giờ đã xế trưa. Trời rét âm u suốt ngày. Trong chân núi, lúc nào cũng như sắp
sập tối. Kim Đồng ra suối ngắt một nắm cải xoong vào làm cơm. ạng Dương nướng
cá. †n xong, ông Dương bảo Kim Đồng ngủ lại, mai về sớm. "Cháu nhiều bài
hát cách mạng hay lắm. Ngủ lại đây, dạy mấy đứa nhà tao cùng hát với".
Nhưng Kim Đồng không muốn ở lại. Công tác, và cả những cuộc chơi đi xem then
ngày mai, ngày kia đương đợi ở nhà.
Kim Đồng nói :
- Cháu xin về, ông à.
Ông Dương nói :
- Về bây giờ thì tối giữa đường mất.
Kim Đồng trả lời :
- Cháu đi tối cũng quen rồi.
"Cháu đi công tác tối cũng quen rồi", như thế. Năm trước, Kim Đồng vẫn
còn sợ đêm. Tối rửa chân ngoài máng, bước lên sàn rồi, ngại xuống thang lắm. Đi
ngủ như gà lên chuồng, Thàn và Dền nằm ngay cạnh bếp. Hai đứa nép vào cột nhà,
quay lưng ra cửa sổ. Đêm tối có những gì đáng sợ thì có cả ở ngoài ấy. Nghĩ lại,
lại cười mình. Bây giờ Kim Đồng đã bước vào đêm, có khi trong đêm rất khuya,
nhiều
lần rồi, đầu chỉ nghĩ đến công tác. Không thấy cái gì ghê gớm ở bóng tối ra vồ
mình cả.
Kim Đồng về ngay từ xế trưa. Buổi chiều trên núi đi sang chặp tối rất nhanh. Bỗng
ngẩng lên, đã thấy đêm trong vắt, lấp lánh ngôi sao giá buốt.
Một tay Kim Đồng cầm chiếc gậy. Nhưng Kim Đồng biết mùa lạnh thì các loài rắn đều
ngại rét chúi trong hang, không bò đi ăn đêm.
ồ, cái sợ và cái vững, cái bạo cứ chập chờn từng lúc. Đường cái ban đêm thăm thẳm,
khác hẳn. Chỗ nào cũng lố nhố như ma đứng. Nhưng cứ đi qua. Thì thấy đấy cũng
là những bụi cây. Nhiều khi, nghe tiếng chim ríu ríu trong đó. Con chim nào ngủ
mê, hót cả trong đêm thế kia. Cái gì huỳnh huỵch ai đuổi đằng sau? Không quay lại.
Đấy cũng là mình nghĩ ra thế thôi. Có lúc Kim Đồng thử quay lại. Không có gì.
Nhưng quay lại như thế thì đâm ra trợn. Tự dưng chân hấp tấp nhanh hơn. Lại phải
lấy gân, cầm ngang gậy, bước bon bon. Không sợ gì. Không sợ gì cả. Những ngôi
sao giá buốt trên trời như cũng đương đuổi theo mình.
Ban đêm, xó nào cũng nghe tiếng rúc rích. Con cầy hương ra kiếm ăn sớm nhất. Nếu
có đèn săn chắc thấy hai cái mắt đỏ. Kim Đồng đập gậy một cái. Nó chỉ là con cầy
hương nhút nhát thôi. Nếu mang theo cái nỏ thì bắn được.
Khi nghe tiếng hươu kêu trong núi, Kim Đồng biết đã khuya. Tiếng hươu giác bảng
lảng xa rồi gần, hươu từ trong núi ra, kêu cộc lốc như nhát búa bổ. Hươu ra ăn
đã gần nửa đêm.
Hươu nai ra ăn rồi mới đến hổ ra. Người đi săn nói rằng con gấu háu đói, tìm ăn
cả ngày còn con hổ bao giờ cũng đi ăn khuya nhất rừng. Hổ ở trong khe sâu, đợi
khi yên tĩnh mới ra. Thế là con hổ cũng biết sợ đấy. Mắt Kim Đồng không thấy hổ
bao giờ. Nghĩ ghê ghê. Nhưng những lúc ấy, nghĩ về công việc lại nhãng được cái
lo. Trời nhiều sao thế này, sắp nắng, sắp ấm đây. Hôm nào nắng ấm, ta rủ chúng
nó đi lấy dó. ừ, hôm nào ấm thì đi lấy dó...
Về đến đây, đã nghe tiếng thác nước Bản Vàng. Mùa lạnh, nước xuống thác bay nhẹ
như gió thổi. Phải về đêm mới nghe thấy. Bản Vàng Bản Hồng, đến chỗ có nhiều
nhà rồi. Kim Đồng đã buồn ngủ. Kim Đồng chập chờn, vừa đi vừa ngủ vừa nghĩ
loăng quăng. Hai con mắt díp dần. Buồn ngủ ghê.
Đến chân thác, Kim Đồng tạt xuống men nước, vốc nước vỗ lên mặt. Nước lạnh tê
hai tay, làm cho hai mí mắt mở rộng. Tan cơn buồn ngủ.
Kim Đồng nhìn về phía trước mặt. Nhà mình phía ấy. Ban đêm, cái gì cũng thấy xa
hơn ban ngày. Có phải còn vẳng tiếng đàn
cúng kỳ yên. Cả ánh lửa. Nhưng, giụi mắt, nhìn kỹ lại, không thấy. Tiếng đàn và
tiếng hát cũng là tưởng tượng. Khuya lắm rồi, đám cúng kỳ yên đã tan. Bọn Thanh
Thủy chắc về nhà từ lâu. Thật thì nghe kỹ chỉ có tiếng thác Bản Vàng thì thào
sau lưng mà thôi.
Đi một quãng nữa, Kim Đồng lại lắng nghe. Bây giờ, tiếng thác Bản Vàng cũng đã
khuất vào lưng núi. Xung quanh lặng lẽ hẳn.
Tiếng chó sủa đằng xa. Chó sủa ran từ phía Bản Vàng mình vừa đi qua. Chó sủa lắc
rắc. Hình như người đi qua, chó sủa theo, kéo dài một vệt trong bóng tối. Ai đi
đâu khuya ? ở những đám then, những đám cúng kỳ yên, người xem quá nửa đêm hay
ngủ lại. Chỉ có người đi săn đi đêm. Nhưng người đi săn, như đứa ăn trộm, đi rà
rà, sương xuống đã ăn nhạt hết hơi người, con thú không đánh hơi thấy, con chó
không ngửi ra. Sao chó sủa nhiều thế. Chỉ có người tìm thầy cúng cho người ốm
giong đuốc đi, như đánh thức chó dậy, qua xóm nào cũng loạn tiếng chó sủa theo.
Nhưng Kim Đồng đoán thêm : bọn lính đi rình cách mạng cũng có thể làm chó sủa
nhiều thế. Đã lâu, lính và quan không đi tuần đêm. Cả ban ngày, chúng cũng đi từng
bọn đông. Từ khi đội tự vệ cứu quốc bắt thằng mật thám Lểu ở Nà Kéo thì không bọn
lính tuần nào dám vào làng tìm rượu, tìm vịt nữa. Đi qua, chúng đi nhanh, chân
bước thon thót. Khi bất ngờ, chúng cũng tuần đêm, nhưng phải đi thật đông.
Tiếng chó sủa lắc rắc trải ngược lên, lan xa ra, đằng kia, có lúc theo gió, lại
chập chờn trở về đằng này. Tưởng như trông thấy bọn lính đương ngậm hơi luồn
vào từng xóm đằng ấy.
Nhưng đường về nhà Kim Đồng không qua lối ấy. Kim Đồng đứng im, nghe một lát rồi
leo lên đồi, theo lối tắt, về nhà. Hai con mắt lại buồn ngủ, muốn sụp mí xuống,
đuổi chân bước thật nhanh.
Chẳng mấy chốc đã đến chân cầu thang lên nhà. Nghe tiếng mẹ hỏi vọng xuống :
- Dền à...
Kim Đồng đáp khẽ :
- Con đây.
Rồi lẳng lặng lên thang.
Không biết mẹ mới dậy sưởi hay mẹ vẫn ngồi bếp đợi con từ chặp tối. Bấy giờ mẹ
bắc nồi và bỏ thêm cành củi vào bếp. Tiếng củi bén lửa nổ tách tách.
Mẹ nói :
- Còn thịt vịt đấy, con ạ.
Mẹ nói thế, biết là mẹ bảo : ra đây thổi lửa lên mà ăn cơm. Nhưng Kim Đồng đã tụt
giày ra, hai ống quần ướt sương như người lội suối. Cứ thế, chui vào chăn.
Cái chăn vỏ cây sui, Cao Sơn đã nằm cuốn tròn giữa. Nó ngáy khò khò. Chỗ nó nằm
cũng ấm như lửa sưởi rồi. Kim Đồng kéo mạnh một cái mới giằng ra được một góc để
đắp. Nhưng lưng vẫn hở ngoài và cái chăn sui nhiều bụi, Kim Đồng sặc, ho mấy tiếng.
Rồi chốc lại ho khúc khắc.
Chập chờn nhớ lại chặng đường lúc nãy. Vừa đi rét thế, xa thế mà bây giờ đã về
đến nhà, nằm ấm.
Kim Đồng nhớ tiếng chó sủa. Tiếng chó sủa kéo dài... Dần dần, Kim Đồng tỉnh ngủ
hơn. Kim Đồng chưa ngủ được. Có lẽ nào... Có thể thế không... Nếu không phải là
chó sủa người đi gọi thầy cúng thì là lính đi tuần đêm rồi. Cũng có khi lính mò
đi đêm... ở Hòa Mục đấy... Nó bắt của ta một người. Con chó cũng ghét lính, đêm
hôm làm nó phải khó nhọc, mỏi cả mõm. ừ, tiếng chó sủa lính, có thể...
Lính tuần qua. Có thể đi xuống Nà Giàng, cũng có thể nó lên đây. Lính lên mà
lùng ra cán bộ hay người ở nơi khác đến, không xong rồi...
Nghĩ thế, Kim Đồng ngồi phắt dậy. Cơn ngủ đương làm cộm mắt, tan mất. Cũng
không thấy rét hai mang tai. Kim Đồng lay Cao Sơn. Cao Sơn ậm ừ. Kim Đồng lại
lay. Cao Sơn co lưng rồi lại ngáy. Kim Đồng ghé tai :
- Thàn... Thàn... Có công tác.
Tiếng "công tác" làm Cao Sơn tỉnh ngay, hỏi :
- Công tác à ?
Kim Đồng hỏi lại :
- Lúc nãy có anh Đức Thanh đến đám lễ kỳ yên không ?
- Có.
- Đi ngay bây giờ. Cùng đi nhé.
- ừ.
Cao Sơn ngồi dậy. Không phải chỉ tại hai đứa thì thào với nhau mà mẹ biết. Người
già vốn ít ngủ. Mẹ vẫn chưa chợp mắt từ chặp tối. Mẹ ngồi tựa cột bếp. Mẹ hỏi :
- Lại đi đâu thế ?
Kim Đồng nói với lại :
- Chúng con đi đằng này một tý.
Mẹ ra lấy mẩu củi to, bỏ vào bếp. Cho lửa đượm hơn, cho các con về sưởi. Không
biết lúc ấy còn khuya hay đã gần sáng. Mẹ nói:
- Chóng về nhé.
Mẹ nói như mọi khi. Khi đêm, khi ngày, anh em nó vẫn rủ nhau đi như thế, không
biết thế nào, mẹ không bao giờ nói.
Kim Đồng và Cao Sơn lặng lặng xuống thang.
Trong gầm sàn, con bò như biết lệ người xuống như mọi khi, thò mõm ra khe
thang. Kim Đồng hay nghịch giơ chân cho bò liếm. Con bò nghiện liếm chân Kim Đồng
từ lâu lắm, từ năm Kim Đồng chưa biết chăn vịt. Con bò này về nhà mình từ khi bố
còn sống. Bao năm nay, tối đến, bò vẫn ngủ trong gầm sàn. Những buổi tập bài
hát, đàn trâu bò tụ hội lại, trẻ con ngồi trên lưng chúng nó, cùng lên núi, hát
vui lắm.
Cái lưỡi bò liếm sồn sột vào chân, thấy ấm ran rát. Con bò thường liếm chân Kim
Đồng như thế, mỗi khi Kim Đồng đi đâu về, dù nửa đêm như đêm nay cũng thế. Cũng
như hai đứa bò và người chào hỏi nhau.
Kim Đồng đã xuống hết chân thang. Sau lưng, tiếng kíu kíu trong góc cột sàn. Những
con vịt rất nhát đêm. Động một cái đã mở mắt, nhúc nhích chân, kêu khẽ khẽ. Cả
đàn vịt nhốt phía ấy, không phải rắn cắn hay cáo bắt lần nào.
Kim Đồng nghe tiếng vịt gọi. Nhưng không để ý. Kim Đồng và Cao Sơn đã chạy ra đầu
ngõ.
Nhìn lên vách nhà Kình, thấp thoáng ánh lửa. Còn người thức thật.
Kim Đồng đến chân thang, có tiếng hỏi xuống :
- Ai?
- Dền đây.
Một bóng người ló ra. Người gác đầu sàn đã hỏi : "Đi đâu khuya thế, gần
sáng rồi mà..." Kim Đồng lên thẳng nhà. Các anh Đức Thanh, anh Ngư Mạn,
anh Nhất Sơn còn đương ngồi bếp.
Anh Đức Thanh quay ra, hỏi Kim Đồng:
- Đi Pác Bó mới về à?
Kim Đồng đáp:
- Về từ nãy. Đằng kia nghe tiếng chó cắn dài lắm. Khéo mà có lính đi tuần. Em
đã về rồi. Bây giờ nghĩ ra, phải vào tìm các anh.
Anh Đức Thanh có ý băn khoăn rồi nói :
- Phải có người ra gác ngoài suối.
Kim Đồng nói:
- Để chúng em ra cho.
Anh Đức Thanh nói:
- Em đi cả đêm rồi...
- Đằng nào cũng sắp sáng. Mà em ra đấy đến sáng rồi về đằng suối cũng được.
Anh Đức Thanh nói theo, lúc ấy Kim Đồng đã đương xuống thang:
- Ra suối rồi về thẳng nhà nhé. Sáng rồi, các anh cũng sắp đi đây.
Kim Đồng và Cao Sơn đã ra ngoài đường. ánh lửa trên bếp nhấp nháy trên khe
vách. Một lúc như rừng tối sẫm, ấy là sắp sáng. Rồi con chim bìm bịp bay ra
trên trời mờ mờ. Lát nữa, bìm bịp kêu lần thứ hai thì trời sáng rõ. Suối Pác Bó
mùa cạn, nước chảy nghe không biết, chỉ thấy xa xa thác Bản Vàng đôi lúc phảng
phất.
Kim Đồng bảo Cao Sơn :
- Đến đây mà im tiếng chó cắn, chắc nó xuống Nà Giàng. Ta ở bên này suối thôi.
Lúc bìm bịp ra kêu lần nữa thì ta về.
Hai đứa đứng trên bờ suối. Kim Đồng lại bảo Cao Sơn :
- Này, rửa mặt cho tỉnh ngủ cái đã.
Hai đứa cùng xuống suối. Kim Đồng đến bờ suối, cúi té nước lên mặt. Thình lình,
ngẩng lên, thấy những bóng loáng thoáng bờ bên kia. Không phải bụi cây như
trong đêm thấy. Một bóng, hai bóng, ba... lung lay. Lính tuần rồi.
Kim Đồng nghĩ rất nhanh : Thàn vào nấp dọc cây vối, ta chạy xuống. Về xóm báo.
Nó bắn. Mặc kệ. Trời còn tối thế này. Mà nghe tiếng nổ, cả xóm biết có lính
vào, các anh chạy kịp lên núi rồi.
Kim Đồng tụt giày quay lại, cúi mặt, nói khẽ trong cánh tay :
- Lính đấy, chạy đi !
Cao Sơn choàng lên bờ, lẩn vào gốc cây vối. Kim Đồng lao về bãi sỏi trắng dài
theo mép nước. ánh sương lẫn mặt nước, đương tan nhanh.
Bọn lính xuống bờ bên kia đương tụ đấy. Chúng lóng nhóng đợi ông cai bảo lội suối
sang hay quay lại. Có đứa trông sang bờ thấy thấp thoáng người.
Tiếng quát lao xao :
- Đứng lại ! Đứng lại !
Kim Đồng vẫn vút đi.
- Đoàng!
Trong sương mù.
1973
Chú thích:
1 |
Lịch sử nước ta: một tài liệu tóm tắt lịch sử nước ta theo
thể văn vần, do Bác Hồ viết, lưu hành ở Việt Bắc thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa |
2 |
Cô Then: người làm nghề mê tín, như cô đồng ở vùng xuôi |
3 |
Báo Việt Nam độc lập: báo của Việt Minh ba tỉnh Cao |
4 |
Cúng kỳ yên: lễ cúng đầu năm cầu bình yên |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét