Lê Trọng Nguyễn và “Nắng Chiều”
Nhạc sĩ Lê Trọng
Nguyễn sinh ngày 1 tháng 5 năm 1926 tại Điện Bàn, Quảng Nam. Cha mất sớm, mẹ
ông nuôi hai con đến tuổi trưởng thành. Em gái lập gia đình và sớm qua đời, Lê
Trọng Nguyễn và mẹ nuôi ba đứa cháu nhỏ.
Ông từng học ở Hà Nội
trong khoảng 1942 đến 1945, thời gian đó ông có làm bạn với nhạc sĩ Nguyễn Xuân
Khoát. Trước 1954, Lê Trọng Nguyễn từng phụ trách âm nhạc cho toàn thể Liên khu
Năm (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên), nhưng sau đó ông rời bỏ và về
cư trú tại Hội An.
Lê Trọng Nguyễn có dạy
âm nhạc tại trường trung học Nguyễn Duy Hiệu. Sau khi theo học hàm thụ trường
École Universelle của Pháp, ông tốt nghiệp và trở thành hội viên của SACEM –
Hội Nhạc sĩ Pháp (La Société des auteurs, compositeurs et éditeurs de musique)
với một số tác phẩm, trong đó được biết đến nhiều hơn cả là bản Sóng Đà giang
(Đà giang trong bài hát là dòng sông Thu Bồn ở Quảng Nam).
Tuy là nhạc sĩ, nhưng
Lê Trọng Nguyễn không sống bằng âm nhạc. Năm 1965, ông làm Giám đốc công ty
Centra Co., một công ty thương mại của Pháp. Từ năm 1968, ông là Giám đốc điều
hành của công ty Sealand tại Đà Nẵng. Năm 1970 sau khi lập gia đình với bà
Nguyễn Thị Nga, ông từ bỏ chức vụ Giám đốc công ty SeaLand về sống tại Sài Gòn.
Năm 1973, ông làm Giám đốc nhà máy Dầu hỏa Cửu Long. Sau 1975, ông mở lớp dạy
nhạc tại nhà và tự chế tạo các loại đàn do chính tay ông làm để sinh sống.
Lê Trọng Nguyễn đến
Hoa Kỳ vào tháng 3 năm 1983, định cư tại Rosemead cùng vợ và bốn người con. Ông
mất ngày 9 tháng 1 năm 2004 tại bệnh viện City of Hope, Rosemead vì bệnh ung
thư phổi.
Lê Trọng Nguyễn là một
nhạc sĩ thuộc thời kỳ đầu của nền tân nhạc Việt Nam. Lê Trọng Nguyễn viết
ca khúc đầu tay Ngày mai trời lại sáng năm 1946. Ông sáng tác
không nhiều, nhưng các nhạc phẩm của ông đều giá trị nghệ thuật cao, với giai
điệu và lời ca trau truốt, nhiều hình ảnh đẹp. Trong khoảng 50 ca khúc mà ông
sáng tác, có gần 30 bài phổ biến. Riêng bài Nắng Chiều là phổ
biến nhất, được chuyển lời sang tiếng Hoa, Nhật, Anh, Thái Lan và Khmer với các
tên gọi như Nam Hải tình ca, Việt Nam tình ca, Tịch dương…
Trước 1975 ở miền Nam
như Tinh hoa (Huế), Tinh hoa miền Nam (Sài Gòn), An Phú (Sài Gòn)… đã tái bản
nhạc Lê Trọng Nguyễn rất nhiều lần, mỗi lần in 3.000 bản. Riêng ca khúc Nắng
Chiều thì được in vài chục lần, tổng số bản in thực tế (chưa nói bản chép tay,
vốn phổ biến thời này) lên đến cả trăm ngàn bản. Ca khúc này cũng liên tục được
yêu cầu phát trên một số đài phát thanh tại Huế, Sài Gòn từ 1953 trở về sau.
Cơ duyên đầu tiên cho
“Nắng chiều” được ra đời là trong thời kỳ Nhật đảo chính Pháp (1945), có một
gia đình công chức Nam triều từ Quy Nhơn chạy ra tá túc ở Hội An, gần nhà của
Lê Trọng Nguyễn. Gia đình này chỉ có duy nhất cô con gái đang tuổi xuân thì.
Tình yêu giữa đôi bạn trẻ chớm nở, đẹp và mong manh như cánh hoa trong thời ly
loạn. Chỉ ít lâu sau, gia đình nàng lại rời bỏ Hội An.
Một thời gian sau, Lê
Trọng Nguyễn cũng bỏ Hội An ra Huế. Ở đây anh có người bạn thân Vũ Đức Duy, anh
này là cháu họ bà Từ Cung (thân mẫu vua Bảo Đại). Anh bạn này thường rủ Lê
Trọng Nguyễn đến thăm bà Từ Cung ở cung An Định (cung này không nằm trong thành
Nội mà ở sát bờ sông An Cựu) vừa ngắm cảnh. Chính từ những chuyến đi chơi này
mà Lê Trọng Nguyễn gặp được “chất liệu” thứ hai: nàng thiếu nữ họ Hoàng, hoa
khôi của đất thần kinh. Một chiều ngồi bên hồ sen, bất chợt cô gái ấy đi qua.
Bóng dáng thướt tha ấy “ngược sáng” trong ánh tà dương. Nhìn “cô này”, bất giác
Nguyễn… nhớ “cô kia” quá đỗi! Thế là bật lên tứ nhạc: “Qua bến nước xưa lá hoa
về chiều. Lạnh lùng mềm đưa trong nắng lưa thưa. Khi đến cuối thôn chân bước
không hồn. Nhớ sao là nhớ, bóng người ngày xưa…”. Chỉ trong vòng nửa tiếng đồng
hồ, Lê Trọng Nguyễn đã viết xong Nắng Chiều (1952). Ở Huế, Lê Trọng Nguyễn còn
chơi thân với nhóm bạn văn nghệ (Minh Trang, Dương Thiệu Tước, Nguyễn Hiền, Kim
Tước…) nên khi bản Nắng Chiều được xuất bản, chính Minh Trang là người hát và
thu âm đầu tiên. Bản thu âm được phát thường xuyên trên hai đài phát thanh Huế
và Sài Gòn từ năm 1953 trở về sau khiến Nắng Chiều lan tỏa khắp Trung – Nam.
Theo vài tư liệu, năm
1957 ban nhạc Toho Geino (Nhật Bản) sang Việt Nam lưu diễn, và họ đã nhờ phía
Việt Nam chọn 12 ca khúc đang nổi tiếng trong nước để tập và sẽ hát “giao lưu”
với khán giả. Duyên trời đã đưa đẩy nữ Ca sĩ Midori Satsuki chọn hát Nắng Chiều
và cô đã được khán giả ở Hội chợ Thị Nghè hoan hô nhiệt liệt. Thích quá, Midori
Satsuki quyết định chuyển soạn cho Nắng Chiều có cả lời Nhật lẫn lời Anh (với
tựa Evening sunshine hoặc Afternoon sun), và cô đã thể hiện rất thành công trên
đài phát thanh Sài Gòn và Tokyo trong suốt nhiều năm với bản nhạc “tủ” này. Vậy
là Nắng Chiều không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang vọng khắp xứ Phù Tang…
Sau dịp gặp nhau lần đó, hai người thư qua tin lại khá nhiều, tỏ ra tâm đầu ý
hợp, cho đến khi Satsuki Midori qua đời do một tai nạn trong lúc ghi hình một
hai năm sau đó.
Năm 1960, nữ ca sĩ Kỷ
Lộ Hà từ Đài Loan sang trình diễn tại Đà Nẵng, Việt Nam, đã làm cho giới thưởng
thức bất ngờ khi hát Nắng Chiều, do Thận Chi đặt lời Hoa. Khi gặp Lê Trọng
Nguyễn để xin bản quyền phổ biến lời mới của ca khúc này, Kỷ Lộ Hà cũng bị “hớp
hồn” bởi tài năng, vẻ hào hoa của nhạc sĩ, nên hết sức quyến luyến. Không chỉ
viết thư để đơn phương tỏ tình, Kỷ Lộ Hà còn ra đĩa nhựa 33 vòng cho Nắng
chiều, được khán giả Đài Loan, Hong Kong, Thượng Hải… yêu thích trong nhiều
thập niên; được phong tặng “bản tình ca đẹp nhất” thập niên 1970 tại Đài Loan.
Gần đây, ca sĩ Đào Tô Dung hát lại ca khúc này, cũng được rất nhiều thính giả
yêu thích.
Tuy không chính thức
lên tiếng về hai mối tình ngắn ngủi mà đằm thắm này, nhưng trong các cuộc trò
chuyện về sau, Lê Trọng Nguyễn cũng vài lần nhắc lại với lời lẽ rất trân trọng,
trìu mến.
Về Nắng Chiều, Lê
Trọng Nguyễn từng tâm sự: “Ca khúc này chỉ là một trong số những bài của tôi
được phổ biến rộng rãi, nhưng tôi cũng không thích nó lắm, dù tình cảm tôi gửi
vào đó rất mặn nồng. Tôi cũng không biết vì sao mình không thích bài này cho
lắm, dù lúc mới viết xong mình rất khoái, vì nó rất chững chạc, chững vô cùng,
nó cân phương đủ mặt. Ðây cũng là một loại tâm trạng. Người ta hát nhiều quá,
mình đâm ra ghét”.
Cũng xin nói thêm, nhà
biên kịch, nhà soạn nhạc Thận Chi (1928-1988) là một tên tuổi rất lớn của các
kênh Truyền hình gắn với ca nhạc của Đài Loan, tên tuổi của ông được nhắc đến
tại nhiều nước, vì đã đặt lời thành công cho nhiều ca khúc nổi tiếng như Spirit
of Love (1963), Lemon Last Night (1984), Halfmoon Bend (1986), La Vie en Rose
(1987)… “Việt Nam tình ca” mà ông “chuyển soạn” từ Nắng Chiều cũng thuộc nhóm
những ca khúc đặt lời nổi tiếng của ông.
Chính sức ảnh hưởng
của Thận Chi đã làm cho Nắng Chiều có mặt tại Thái Lan, với lời Thái, tạm phiên
âm là “Pleng Ruk Talay Taii”, không biết do ai đặt lời. Cộng đồng người Khmer
cũng không xa lạ với ca khúc này. Nắng Chiều cũng có tên tiếng Anh là
Evening-Sunshine, vốn do Satsuki Midori hát đầu thập niên 1960.
Hiện nay, ra các tiệm
đĩa tại Đài Loan, Hong Kong, Thượng Hải… hoặc Chợ Lớn (Sài Gòn) vẫn có thể mua
được “Việt Nam tình ca” do Giọng ca vàng Phí Ngọc Thanh (sinh 1955) trình bày,
đây là nam ca sĩ có ảnh hưởng nhất tại Đài Loan năm 2009. Một tên tuổi khác là
danh ca Hoàng Thanh Nguyên, ông rất có ảnh hưởng đến lịch sử nhạc pop tiếng
Hoa, cũng đã nhiều lần trình bày ca khúc này.

.gif)



.gif)











Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét