“Đây thôn Vỹ dạ” Thơ Hàn Mặc Tử
Phạm Ngọc
Thái
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hàn
Mặc Tử
(Rút trong tập "Đau thương" - Thơ điên của HMT)
Bài thơ được mở đầu với lời trách móc của người con gái. Lời trách ấy có
lẽ do một hoàn cảnh gặp gỡ nào trước đó được thi nhân nhớ lại:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Sao anh không về chơi thôn Vỹ?
Câu mở đầu như thế giúp cho ý tưởng kiến thiết bài thơ thôn
Vỹ gắn với nỗi nhớ người xưa được gợi lên trong kỷ niệm:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Nghĩa là từ hàng cau đến cái nắng mới vào buổi sáng ấy, màu xanh của vườn cây
đều là cảnh hiện trong hồi tưởng. Thôn Vỹ nói riêng cũng như mỗi làng quê Việt
Nam nói chung: hàng cau thường đọng lại những ấn tượng sâu sắc, nhất là
với những người khi đã phải xa quê. Ta cũng thấy ở trong thơ Nguyễn Bính từng
viết:
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Hàng cau dưới cái nắng mới buổi sớm thì trong
mát, thanh thiên lắm! Cảnh quê cô đọng được hoà quyện vào mối tình đầu trong
sáng, mơ mộng của thi nhân, dù mối tình với nàng Hoàng Cúc ấy chỉ đơn phương về
phía Hàn Mặc Tử. Nhưng sự sâu lắng đã trở thành hoài niệm mãi trong
cõi nhớ của ông, bởi thế màu xanh của lá cây trong vườn cũng lung linh mà
"xanh như ngọc"...
Như vậy "cảnh nhớ" ở ba câu đầu tuy chỉ là hồi tưởng
nhưng lại xuất phát từ "cảnh có thực"! Sở dĩ tôi nhấn mạnh về chữ
"thực" ở đây? vì chỉ đến câu thứ tư hình ảnh thơ đã có ý nghĩa tượng
trưng:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
"lá trúc" và "chữ điền" thuộc
những ngôn từ mỹ học! Hình tượng cây trúc làm tượng trưng trong thơ HMT, ta còn
thấy ở trong bài thơ Mùa Xuân Chín:
Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
"trúc" là hình ảnh biểu tượng cho làng quê, còn
"mặt chữ điền": theo cách nói cổ nho là ví cho gương mặt nam
nhi! Trong bài thơ này gương mặt chữ điền ấy để biểu tượng cho chính bản thân
thi nhân. Hai chữ "che ngang" kia, nghĩa là thôn Vỹ với nhà thơ
giờ đây chỉ còn ở trong kỷ niệm, nỗi nhớ... mãi mãi phải cách xa nên đã bị...
"cắt ngang"!
Ngay trong bốn câu của khổ thơ đầu ta đã nhận
thấy cấu trúc, tư duy thơ HMT theo cảm xúc đã được thiết lập trình tự của
sự suy lý về nỗi cảnh mà lập thành tứ, để phát triển sâu hơn ở khổ
thơ thứ hai khi nói đến tình duyên dang dở giữa hai người:
Gió theo lối gió, mây đường mây... . Ý là:
Em theo đường em, anh đường anh
Duyên phận đôi ta có thế thôi!
Em theo đường em, anh đường anh
Duyên phận đôi ta có thế thôi!
Tả cảnh nhưng chính để nói
nỗi đời:
Dòng nước buồn thiu (tĩnh), hoa bắp lay (động)...
Cái (tĩnh) và (động) ấy chỉ để
bộc lộ một cõi lòng, một tâm trạng cô đơn và buồn! Thi nhân ngồi nhớ người xưa,
lòng ông lặng lờ buồn bã như dòng nước hắt hiu, nhưng trái tim vẫn bổi hổi, xốn
xang như làn "hoa bắp lay"...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Có chở trăng về kịp tối nay?
Đây là hai câu thơ thần cảm - Hình ảnh thuyền
và sông trăng theo cảm xúc ùa vào trong thơ mà bật ra... làm cho tình thơ thêm
rộng rãi, rung rinh, nỗi thơ càng mênh mang, da diết.
Xin nói thêm, cảnh thuyền và sông trăng ở đây theo như
một số nhà bình luận: Người thì cho đó là cảnh trong một bức ảnh về Huế mà nàng
Hoàng Cúc đã gửi tặng thi nhân khi đang lâm bệnh phải điều trị ở Gành Ráng, Qui
Nhơn. Nhưng cũng có người lại nói rằng nàng Hoàng Cúc đã gửi tặng thi
nhân tấm ảnh mặc áo dài trắng?... chứ không phải là phiến cảnh
"thuyền" và "sông trăng" đó. Nếu vậy thì cảnh trong thơ chỉ
là cảnh mà thi nhân nhớ lại nơi thôn Vỹ chăng? - Cũng chưa thật ngã ngũ về
hướng nào.
Nhưng tóm lại cảnh của hai khổ thơ đầu ấy
là cảnh thuộc về trí tưởng, dù là vào buổi sớm dưới hàng cau hay trong một
đêm trăng trên sông nước. Trong bài bình của nhà bình thơ Vũ Quần Phương, đến
đây có nhận xét rằng:
"Bốn câu đoạn hai không có liên hệ gì về chi tiết với
đoạn một... thoáng nhìn bài thơ có vẻ đầu Ngô mình Sở...", (hay
là) "Những ý thơ rất xa nhau về ý nghĩa hoá ra lại vẫn có chỗ liền
nhau..." và nhà bình thơ cho rằng "chỗ liền
nhau ấy trong thơ HMT chỉ là nhờ vào tâm trạng xúc cảm"..
Theo tôi: HMT là một thi nhân viết thơ bằng nội tâm
theo tư duy thế giới trong, xúc cảm chỉ làm đà cho mạch thơ, hơi thơ
tuôn chảy... còn ý tứ thường được diễn tả rất mạch lạc, rõ ràng. Mượn cảnh làm
biểu tượng để diễn đạt nỗi tình thơ - Đoạn thơ thứ hai ấy cần
phải hiểu sâu sắc bằng thế giới bên trong như đã bình trên, mới thấy cảm xúc về
ý tứ của bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ hoàn toàn liên kết chặt chẽ với nhau, từ đoạn
thơ đầu tiên cho đến đoạn cuối cùng. Đấy chính là cốt lõi để tạo ra thi
phẩm của ông. Đây thôn Vỹ Dạ là một tuyệt tác thi ca! Nếu cho rằng đoạn thơ thứ
hai chỉ là để tả cảnh buồn mênh mang... thì sẽ không thấy hết được cái hay và
sâu sắc của bài thơ!
Tôi
xin bình sang khổ thơ thứ ba:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Như đã nói mối tình giữa HMT với
nàng Hoàng Cúc chỉ là một mối tình đơn phương về phía thi nhân, có thể
nàng không hay biết về tình yêu của chàng? Hơn nữa trong lễ giáo phong
kiến thời ấy, giữa gia đình thi nhân với gia đình nàng còn có một khoảng cách
về đẳng cấp xã hội. Hoàng Cúc thuộc gia đình một quan lại, còn HMT là gia đình
lớp bình dân. Ông vốn tính lại rụt rè, hay bẽn lẽn, yêu tha thiết mà chỉ
dám đứng từ xa chiêm ngưỡng người đẹp như trong mộng... rồi thương thầm,
nhớ trộm. Thi nhân đã dồn hết tình yêu của mình vào thơ ca... sáng tác cả một
tập, gọi là tập "gái quê" để tặng nàng!
Giờ đây
thì cả cái mối tình đơn phương ấy cũng đang trôi vào dĩ vãng. Thi nhân lâm
bệnh nặng phải sống cách ly, sự ngăn trở giữa hai người càng xa hơn. Nên trong
bài thơ nói về người yêu mà thi nhân lại dùng chữ "khách" là vì thế!
Ông mơ về nàng dẫu tình thì sâu nặng... mà vẫn như mơ về một người khách lạ...
Hình ảnh: Áo em trắng quá.../ - Hẳn là màu áo
trắng của nàng Hoàng Cúc thường mặc phải gây ấn tượng trong
trí nhớ của HMT hơn các màu áo khác! Nhưng màu áo trắng ở đây còn là ảnh
ảo, khi thi nhân mơ tưởng người đẹp ở trong trăng... Màu trăng ấy thường
hay thấy trong thơ HMT:
Hoàng Cúc trong thơ HMT
|
Người trăng ăn vận toàn trăng cả...
Còn tại sao "áo em trắng quá" mà lại
"nhìn không ra"? Ý là: Mối tình ấy đã cách biệt, giờ đây khoảng cách
giữa hai người xa vời như người khách lạ qua đường. Còn cảnh tượng:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Đó là cảnh thực của nơi Ông đang sống và chữa bệnh... hiu quạnh, khói sương heo
hút ở Gành Ráng, Qui Nhơn. Nhưng đồng thời cũng để nói lên trong cảnh ngộ của
Người về thân phận "mịt mờ nhân ảnh". Tâm trạng Ông đang rơi vào
trong vực thẳm trước sự quên lãng của người đời. Lòng Ông càng da diết mà
hỏi:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Tiếng "ai" bộc lộ một tâm trạng vẫn
rất tha thiết của Ông: Liệu nàng còn nhớ đến ta chăng? Cái tâm trạng
xa xót ai oán ấy, Ông cũng đã từng bộc lộ nhiều lần khác:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm!
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm!
"Đây thôn Vỹ Dạ" là một bài thơ được
dệt thành một bức tranh trong mộng, không gian đa sắc đa chiều, đan xen
giữa hiện tại và kí ức. Ý, tình khúc triết, sâu xa. Dù rằng tình
thơ được rút trong tập "thơ điên", nhưng nó không những không
phải là thơ điên mà còn là một tình thơ đằm thắm chứa chan, trái tim của nhà
thơ đã thấm đầy huyết lệ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét