Một lần uống rượu cùng
Văn Cao
Một mùa xuân mới về. Giai điệu sâu lắng, mượt mà, đầy cảm xúc … của ca khúc Mùa xuân đầu tiên ( Văn Cao ) lại vang lên khắp nơi nơi. Tôi lại nhớ về Văn Cao với lần gặp gỡ đầu xuân năm ấy…
Khi đặt bút viết dòng tiêu đề trên, tôi
đã có không ít băn khoăn. Về tuổi tác, Văn Cao chỉ kém ông nội tôi khoảng chục
tuổi, đương nhiên là bậc tiền bối rồi. Về xã hội, Văn Cao là một nhạc sĩ
nổi tiếng, một họa sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị; một danh nhân văn hóa
có tầm vóc vượt cả ra ngoài Việt Nam, được đặt tên đường tại nhiều thành phố
trong cả nước. Nói “uống rượu” cùng ông nghe có vẻ ngang hàng, bất kính quá.
Nhưng nếu dùng từ “đối ẩm”, “hầu rượu”…càng không ổn, vì cái bối cảnh và cách
uống rượu, nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất giữa tôi và ông hôm đó rất là
phóng khoáng, thoãi mái đến mức bình dân, chẳng có gì gọi là quan cách cả. Tôi
tin ông sẽ vui vẻ với cái tựa đề của tôi, vì tính cách của ông vốn là như vậy.
Văn Cao 30 năm về trước
|
Ấy
là dịp đầu năm 1993, khi tôi trở ra công tác dài hạn tại Hà nội sau kỳ nghỉ tết
Âm lịch. Cùng đi với tôi có Nguyễn Tấn Hạnh, bạn và đồng nghiệp chung công ty
XNK Gialai. Hạnh có ông anh ruột sống tại Hà nội là họa sỹ Nguyễn Tấn Cứ-
nguyên Trưởng phòng bảo tồn của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Chính vì mối quan
hệ như vậy nên khi đến Hà nội, việc đầu tiên của hai chúng tôi là đem mấy chai
tinh sâm khu 5- hồi đó sâm khu 5 còn rẻ và không hiếm như bây giờ; đến nhà Anh
Cứ thăm và chúc tết. Đó chỉ là một căn hộ tập thể nhỏ, thấp lè tè nhưng có
khoảnh sân khá rộng nằm ngay trong khuôn viên xưởng phục chế của Bảo tàng. Nghe
tiếng xe máy, anh Cứ hối hả ra mở cổng. Sau một loạt câu hỏi chen nhau vì lâu
ngày gặp lại trong không khí tết muộn, anh nắm tay hai chúng tôi như lôi đi:
-Vào
đây, vào đây. Anh đang chuẩn bị tiếp hai ông bạn già. Trà tam, rượu tứ; thêm
hai anh em nữa là quá hay rồi.
Chúng
tôi vào nhà. Căn phòng khách chật hẹp ngày thường vốn bề bộn khung vẽ, tranh,
màu… nay được dẹp gọn qua một bên, hai ông bạn già của anh đang ngồi trên chiếu
với mâm rượu chờ sẵn. Hai con người thoạt nhìn gây hai ấn tượng trái ngược
nhau. Một người khoảng tuổi 60, dáng tầm thước, gương mặt đầy đặn, đôi tai to,
mái tóc nghệ sỹ và bộ râu rậm rạp được chăm chút cẩn thận-chính là Thái Bá Vân,
nhà nghiên cứu và phê bình mỹ thuật nổi tiếng. Người kia già hơn, gầy gò trong
chiếc áo bông, tóc bạc rối ngang vai và chòm râu lơ thơ trên gương mặt hom hem,
phong trần- tất cả như một cái nền làm nổi bật trên đó đôi mắt tinh
nhanh, nét miệng lúc nào cũng như cười cười khinh bạc, giễu cợt gì đó. Anh Cứ
giới thiệu Thái Bá Vân xong, quay sang ông cụ:
Thái Bá Vân
|
-Đây
là tác giả bài “Tiến quân ca”…
Tôi
há hốc miệng kinh ngạc:
-Hóa
ra đây là…bác Văn Cao?
-Còn
ai vào đây nữa? Vậy chứ chú em nghĩ Văn Cao là như thế nào?
Tôi
lúng túng thật sự:
-Dạ
không, cháu chỉ bất ngờ thôi, chứ chưa bao giờ hình dung bác như thế nào cả…
Văn
Cao cười khà khà, cái miệng cười đậm nét khôi hài:
-Đúng
là lớp trẻ bây giờ, chỉ biết Văn Cao là tác giả Tiến quân ca; còn Văn Cao… thế
nào thì chịu. Mà hai chú là em chú Cứ thì cứ xưng em là được rồi…Ngồi xuống đi.
Ông
nâng lấy ấm rượu –loại ấm nhỏ thường hay dùng uống trà, rồi rót từ từ vào
mấy chén hạt mít. Tôi để ý thấy nắp ấm rượu được đúc liền một khối với thân ấm,
hơi là lạ nhưng không tiện hỏi. Nâng chén rượu đầu xuân chúc nhau, thăm hỏi
theo lệ thường xong, tôi nói:
-Thú
thật với bác Vân là em mới biết tên tuổi bác gần đây thôi, nhưng riêng bác Văn
Cao thì từ lâu lắm rồi. Chín, mười tuổi em đã nghe không biết bao lần mấy
đĩa nhựa Thái Thanh hát Buồn tàn thu, Suối mơ, Thiên thai… của bác
mà. Em còn nhớ trên bản in Buồn tàn thu do nhà xuất bản Sóng
nhạc ấn hành có ghi lời đề tặng của bác: “Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn”…
Văn
Cao nhìn tôi, cái nhìn đầy hoài nghi. Nói qua nói lại một hồi, tôi mới hình
dung được lý do vì sao ông lại không tin như vậy. Hơn ba mươi năm từ sau vụ
“Nhân văn- Giai phẩm”, nhà nước cấm phổ biến mọi sáng tác của ông, cấm ông sinh
hoạt ở các hội văn học nghệ thuật. Tranh không có vật liệu để vẽ, mà có vẽ chưa
chắc được trưng bày. Ông phải làm bìa sách, minh họa, làm đủ thứ linh tinh để
kiếm sống trong nổi câm lặng, trầm uất của người nghệ sỹ không được phép sáng
tạo nghệ thuật. Ông uống rượu rất nhiều và gần như không thể thiếu rượu hàng
ngày. Tên tuổi ông đã nhiều năm gần như đi vào lãng quên, lớp người trẻ chỉ biết
Văn Cao là tác giả bài Tiến quân ca được chọn làm quốc ca; vậy thôi. Cho dù ông
được phục hồi danh dự và được phép phổ biến lại các tác phẩm từ năm 1988, nhưng
thời đó thông tin báo chí quá nghèo nàn, internet chưa có, thậm chí muốn điện
thoại đường dài phải ra Bưu điện bờ hồ Hoàn Kiếm đăng ký, rồi chờ bưu điện quay
số khi được khi không- nên tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn như một
tảng băng chìm hầu như chỉ biết qua truyền miệng là chính. Ông không thể tin
một tên nhãi ranh như tôi lại có thể biết khá nhiều về ông như vậy.
Tôi phải kể tường
tận với ông rằng tôi được sinh ra và lớn lên ở miền Nam trước năm 1975.
Ba tôi vốn là người mê nhạc Văn Cao, nên tôi cũng được tiếp xúc với nhạc của
ông từ khi còn ẳm ngửa. Giai đoạn 1971-1972 gia đình tôi sinh sống bằng nghề
bán sách báo. Tính tôi lại ham mê đọc sách từ rất sớm, sách gì tôi cũng đọc
được. Vì vậy nên dù chỉ nhớ về ông với những nét chấm phá qua những mốc thời
gian không chính xác, tôi vẫn nói chuyện với ông khá thoãi mái. Thật sự thì
trước 1975 ở miền Nam người ta vẫn nhớ đến Văn Cao với những ca khúc bất hủ,
tên tuổi ông cùng nhóm Trương Tửu, Trần Dần, Phùng Quán, Phan Khôi …và vụ “Nhân
văn- Giai phẩm” vẫn được nhắc đến thường xuyên trong các sinh hoạt, nghiên cứu
văn học nghệ thuật. Người ta tiếc cho ông, cho một tài năng sớm bộc lộ trên
nhiều lĩnh vực nhưng không thể phát huy hết khả năng sáng tạo của mình. Về văn
học, năm 1942 thơ văn của ông đã được đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy- tập san
văn học nổi tiếng thời bấy giờ. Về hội họa, năm 1943 tại triển lãm tranh lần
đầu ở Salon Unique, tác phẩm Les Suicidés (Những kẻ tự sát) của
Văn Cao gây tiếng vang lớn. Đặc biệt về âm nhạc, năm 1939 lúc 16 tuổi, ông đã
có Buồn tàn thu , và sau đó là những ca khúc lãng mạn trữ tình
: Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Bến Xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi…,
ca khúc hùng ca: Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc,
Trường ca Sông Lô… tác phẩm khí nhạc dành cho piano: Sông
Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa… đều xứng đáng là những tác phẩm bất hủ. Không
thể không nhắc tới Tiến quân ca sáng tác năm 1944, năm 1946
được chọn làm quốc ca nước VNDCCH. Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, năm
1981, một cuộc “vận động sáng tác quốc ca mới” được tổ chức quy mô, có thi
tuyển, kéo dài trong 2 năm, nhưng cuối cùng vẫn không chọn được bài nào thay
thế. Tầm vóc tài năng của Văn Cao trong nhiều năm sau này nữa có lẽ khó
có ai sánh nổi. Có điều số lượng sáng tác của ông thật quá ít ỏi, chỉ hơn 30
bài - so với hai nhạc sỹ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy ( tác phẩm đầu tay Cô
hái mơ sáng tác năm 1943) có khoảng 1000 ca khúc và Trịnh Công Sơn
(tác phẩm đầu tay Ướt mi sáng tác năm 1955) với 600 ca khúc-
càng khiến người ta tiếc nuối cho tài năng của ông. (*)
Ấm
rượu rót vài vòng thì cạn hết. Anh Cứ mang ra một chai rượu lớn, bảo tôi châm
vào ấm. Tôi ngớ người ra, chẳng biết phải làm thế nào. Nắp và thân ấm đúc liền
khối, vòi ấm thì nhỏ, chẳng lẽ lại dùng “xiranh” hay ống “tizô” bơm vào?. Văn
Cao vuốt râu cười rũ ra: “Để coi chú em làm cách nào”. Tôi lắc đầu chịu thua.
Ông bảo: “Thì lật ngữa nó ra”. Tôi càng ngơ ngác hơn. Ông liền cầm lấy chiếc ấm
lật ngữa thật. Té ra đít ấm được đúc theo kiểu một cái phễu thu nhỏ dần vào
trong, cứ cho rượu vào lưng nửa ấm rồi lật nhẹ lại, rượu không đổ ra ngoài tý
nào. Ông cười hỏi tôi:
-Chú
em thấy cái ấm này như thế nào?
Tôi
ngắm đi ngắm lại bộ ấm chén rồi dè dặt đáp:
-Em
có biết gì về đồ cổ đâu. Nhưng giới văn nghệ sỹ mấy bác dùng nó uống rượu thì
quá hợp “gu” rồi còn gì.
-Ý
chú em là…
Thấy
Văn Cao tỏ vẻ chăm chú, tôi liền mạnh dạn tiếp lời:
-Bộ
ấm chén này bề ngoài trông xù xì, thô ráp; cái cách dùng nó lại ngược đời không
giống ai…Vậy nhưng bên trong lại chất chứa rượu nồng, men say lòng người- Chả
phải giống như tính cách của mấy bác văn nghệ sỹ là gì?
-Ấy
ấy _ Văn Cao xua xua tay : chú em quá lời rồi. Chẳng qua do thời thế thôi mà.
Cái ấm này là cả một vấn đề triết học nhân sinh đấy, còn sâu xa hơn cả chuyện
tích cái lọ “đầy thì đổ” của Khổng Tử đấy.
Chuyện
này thì tôi có dịp đọc qua rồi. Đại khái sách Tuân Tử chép, có lần Khổng Tử vào
miếu Hoàn Công nước Lỗ, thấy một cái lọ dựng nghiêng bèn hỏi người coi miếu,
mới biết đó là vật quý của nhà vua thường để bên chỗ ngồi để làm gương. Tương
truyền cái lọ đó để không thì đứng nghiêng, đổ nước vừa vặn thì đứng thẳng mà
đổ đầy quá thì đổ. Khổng Tử bèn sai học trò đổ nước vào, quả nhiên nước đổ vừa
thì lọ đứng ngay; nước đổ đầy thì lọ đổ. Ngài chép miệng than rằng: Ở đời chẳng cái gì đầy mà không đổ. Học trò của Ngài là Tăng Tử hỏi liệu có cách
gì giữ cho đầy mà không đổ? Khổng Tử đáp rằng: Thông minh thánh trí
thì nên giữ bằng cách ngu độn; công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung;
sức khỏe hơn đời nên giữ bằng tính nhút nhát;
giàu có bốn bể nên giữ bằng nhún nhường; đó là cách đổ bớt đi để giữ cho khỏi quá đầy. Sự
nghiệp ở đỉnh cao, tiền tài danh vọng đã đầy đủ thì cần phải tĩnh trí nhận ra
đâu là đỉnh núi để có cách trụ vững khôn ngoan, hoặc lui xuống lặng lẽ, còn nếu
bước tiếp sang đỉnh khác cao hơn nữa, sẽ rơi xuống vực. Nhưng vấn đề là liệu
người ta có ai muốn đổ bớt đi không, với bản chất tham lam cố hữu đã có một lại
muốn được thêm mười của mình? (*)
Hôm
đó cao hứng Văn Cao, rồi cả Thái Bá Vân và Anh Cứ cùng nhau giảng giải, bình
luận về các vấn đề “triết học nhân sinh” ngóc ngách của bộ ấm chén không giống
ai cho tôi nghe, nhưng đáng tiếc là tôi không hiểu được nhiều. Chỉ nhớ riêng về
mãng văn học nghệ thuật, Văn Cao có ví von, đại khái sự sáng tạo của người nghệ
sỹ như những giọt rượu được chắt lọc từ thực tế cuộc sống; quá trình thai
nghén, hoàn chỉnh nên tác phẩm thoạt nhìn có khi ngược đời, không dễ được chấp
nhận và khuất lấp dưới đáy xã hội, nhưng cuối cùng hương thơm vẫn ấm nồng tỏa
quyện cùng tâm hồn con người. Sự sáng tạo trong văn học nghệ thuật dường như
không có giới hạn, nó chính là dòng chảy không ngừng của cuộc sống. Như những
giọt rượu rót vào chiếc ấm kia vậy, rót vừa đủ đầy ta lại uống cho vơi, càng
vơi ta lại càng say, cảm hứng càng dâng trào… Không như chiếc lọ “đầy thì đổ”, chỉ đổ ra đổ vào để răn đời mà thôi
Tôi
chỉ nhớ đến vậy. Tiệc rượu tan, ngủ nghỉ một tí thì chiều cũng vừa tàn, hình
như Thái Bá Vân đèo Văn Cao ra về bằng xe đạp thì phải. Từ đó tôi không có dịp
nào gặp lại ông nữa. Thời gian thoáng chốc đã gần 20 năm trôi qua; lần lượt Văn
Cao, Thái Bá Vân, rồi anh Cứ nối nhau về cõi vĩnh hằng; bộ ấm chén uống rượu
năm xưa cũng không biết có còn giữ được hay không. Nhưng dù sao đi nữa, trong
tâm tưởng tôi, cái duyên hạnh ngộ một lần uống rượu cùng Văn Cao không bao giờ có thể quên được…
(*) chi tiết theo các tư liệu sưu tập
(NPV- bút ký nhân
mùa xuân 2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét