Vó ngựa cao nguyên
Thơ mộng Ðà Lạt.
Ðồi núi chiêng chao, cây rừng nghiêng
ngả, mái tóc phiêu bồng... K’Truik đang cùng con tuấn mã Rambô tung vó, băng
băng về đích trong ánh mắt đắm đuối của sơn nữ buôn làng.
Có lẽ,
hiếm nơi nào có hội đua ngựa độc đáo, nguyên sơ và hồn nhiên như thế! “Kỵ mã”
đầu trần, chân trần, ngựa không yên, không bàn đạp... Họ bước vào cuộc đua
phóng khoáng, để thỏa chí và thể hiện bản lĩnh của những bước chân lữ hành
không bao giờ mỏi.
1.
Chiều xuống yên ả phía chân núi LangBiang (Lạc Dương, Lâm Ðồng). Tôi ngược núi
để chứng kiến các “kỵ mã chân trần”, những người con sinh ra giữa buôn làng,
lớn lên trên lưng ngựa... tự do bay bổng với cuộc chơi bên sườn núi.
Bên con
ngựa “vằn” LangBiang vừa thắng cuộc, K’Truik nói: “Ồ, ở xứ sở này, những đứa
trẻ lên năm, lên bảy đã biết cưỡi ngựa cỏ rong chơi, biết ngã cùng ngựa. Ngựa
cũng như người, “phải biết vuốt ve nó từ nhỏ thì nó mới thích mình, nghe mình”.
Ngày
trước, ở buôn người Lạch, Cil dưới chân núi này nhà nào cũng phải có vài con
ngựa. Ngựa thả hoang trong rừng, mỗi tuần mới “thăm” một lần để xác định vị
trí, lúc nào cần mới huýt sáo gọi về. Già Păng Ting Bụt năm nay đã đến độ cửu
tuần, nhưng vẫn giữ nét phong trần, lãng tử của chàng trai nhiều lần chinh phục
gái đẹp trong buôn trên lưng ngựa. Già nói, từ hơn nửa thế kỷ trước ở cao
nguyên này thường xuyên tổ chức đua ngựa không yên, và già đã nhiều lần mang về
sự kiêu hãnh cho người Lạch. “Dạy ngựa khó lắm, phải ngã bùn, ngã suối với nó
nhiều lần thì mới thuần được. Còn đua ngựa không yên thì hai cái đùi là quan
trọng, vì đó là bộ phận điều khiển ngựa, giữ thăng bằng” - Păng Ting Bụt cho
hay.
Mỗi lần
đi rẫy “thăm” trâu, đi rừng “thăm” ngựa là bọn trẻ tụ họp đua ngựa. Nói là cuộc
chơi, nhưng con ngựa nào về đích trước là nổi tiếng khắp buôn, và người điều
khiển cũng có giá “bắt chồng” cao ngất ngưởng. K’Truik vinh dự được buôn làng
nhiều lần gọi tên con tuấn mã của mình là Ơh sha pran kơ (con ngựa sức mạnh).
Ngoài những cuộc chơi, K’Truik cùng con Rambô đã bốn lần đoạt quán quân trong
các giải “đua ngựa không yên” do tỉnh, huyện tổ chức. Hãnh diện lắm! Bởi thế,
nên đã tốt nghiệp Trường đại học Văn hóa nghệ thuật Quân đội, nhưng K’Truik vẫn
trở về bên đàn ngựa của ông nội để lại, để cùng vui, cùng buồn trong những cuộc
chơi với đám bạn “kỵ mã” trong buôn, như K’Hiêm, K’Tiến, Cil Bris... với những
chú ngựa cưng Juli, Jiky, Biôli...
Ngựa là
người bạn không thể thiếu đối với người sống ở cao nguyên. Ngựa giúp con người
vượt đèo dốc hiểm trở, đi “thăm trâu, thăm bò”, đổi chác hàng hóa... “Người
Lạch còn đi tìm bạn gái bằng ngựa đó. Hồi xưa, vùng Păng Tiêng, Ðam Rông nghe
tiếng vó ngựa người Lạch là nể rồi” - già làng K’Plin thổ lộ. Bởi thế, văn hóa
người Lạch có câu: Con ngựa Păng Tiêng tôi đã cưỡi/ Bông hoa Păng Tiêng tôi đã
ngửi...
Ðua
ngựa không yên chinh phục đỉnh núi LangBiang là trò chơi dân gian, thể hiện sức
mạnh, sự phóng khoáng của những người con Tây Nguyên.
2. Chia
tay những “kỵ mã chân trần”, tôi trở về Ðà Lạt khi sương trắng phủ kín mặt hồ.
Mùa xuân tràn vào những ngõ nhà, mùa của rạo rực yêu đương và mùa thu hút những
bước chân du khách.
Ðêm
càng khuya, Ðà Lạt càng lạnh. Trên cao, vầng trăng bàng bạc hắt xuống phố. Chợt
tiếng vó ngựa gõ nhịp trên dốc vắng như bản tình ca chậm đều, buông lơi, “rơi”
về miền ký ức của một thành phố châu Âu thời cổ đại. Tôi lục lại ký ức, thuở Ðà
Lạt còn hoang vu, người Pháp đã dùng ngựa để đến đây. Và, một phần nhờ ngựa mà
bác sĩ Yéc-xanh đã chinh phục cao nguyên Lâm Viên, khai sinh Ðà Lạt. Ðến những
năm 30, cung đường La-mác-tin vòng quanh hồ Xuân Hương có một đường chính, hai
đường phụ dành cho người cưỡi ngựa và đi xe đạp. Vó ngựa đã gắn với Ðà Lạt từ
thuở đó...
Ðã qua
tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng lão xà ích Phạm Ðứng, Phó Chủ nhiệm Hợp tác xã Xe
ngựa Ðà Lạt một thời vẫn phảng phất nét phong trần. Lão kể: Trước thời Bảo Ðại,
vó ngựa Ðà Lạt đã gõ nhịp trên những con đường dốc hoang sơ chạy quanh thành
phố. Thời đó, người ta gọi là xe thổ mộ, có hai băng ghế dọc, bánh gỗ và bạc
đồng, giờ thì... đã thành đồ cổ.
Sau đó
một thời gian, hàng loạt xe ngựa xuất hiện trên thành phố mộng mơ. Ngựa chở
hàng từ nhà vườn tỏa đi các chợ, đưa học sinh đến trường, ngựa giúp du khách
qua những chốn phiêu bồng... “Chiếc xe ngựa đã gắn bó với người Ðà Lạt và trở
thành nét độc đáo không thể thiếu trong lòng du khách”. Lão xà ích Phạm Ðứng
bộc bạch.
Ðà Lạt
trong kỷ niệm của khách là mimosa òa mình bên thác đổ, mai anh đào hồng gối
trời xanh, là biệt thự cổ... Và không thể thiếu nhịp phách vó ngựa gập ghềnh.
Không giống các phương tiện khác, xe ngựa dung hòa con người trong một không
gian mở, không gian của chuyện nhân tình thế thái, không gian của cộng đồng.
Hơn 30
năm trong nghề, xà ích Trần Mạnh Dũng cho rằng: Lòng yêu nghề là sợi dây buộc
chặt với xe ngựa. Tiếng vó ngựa lốc cốc trên đường phố, Ðà Lạt nửa đêm lục lạc
ngựa về... là những thanh âm thăm thẳm trong lòng. Anh tâm sự: Ngày xưa xe ngựa
nhiều lắm, một xe nuôi cả nhà. Giờ chỉ còn khoảng 30 chiếc của những người
không chịu “buông” nghề, giữ lại làm du lịch, rước dâu, đóng phim... Cung đường
đi cũng đã ngắn dần, không còn rong ruổi cùng du khách như xưa nữa.
Nhưng
dù sao, trong muôn vàn âm thanh cuộc sống, trên xứ Ðà thành tĩnh lặng, xa xăm,
tiếng vó ngựa vẫn gõ giòn trên dốc vắng và cả tiếng lục lạc xao động miền ký
ức. Bởi đó là nét văn hóa, hình ảnh tâm thức đối với ai đã từng một lần đặt
chân lên thành phố cao nguyên.
3. Mấy
ai có được cái thú, khi mỗi buổi chiều ngồi vắt vẻo bên thành xe ngựa, nhìn
ngắm ruộng đồng xanh mướt và bình yên, tiếng vó ngựa gõ nhịp, tiếng lục lạc len
trong gió... Ðời xà ích ở xứ trồng rau nổi tiếng Ðơn Dương (Lâm Ðồng) là thế.
Sướng... mà lam lũ. Ông Nguyễn Quốc Xuân, người 40 năm gắn bó với nghề ngựa ở
xã Lạc Lâm nói: “Sinh ra, nếu được chọn nghề thì ít ai chọn nghề xe ngựa, nhưng
“kiếp” ngựa đã chọn mình...”.
Chiều
Ðơn Dương nắng lạnh ngọt. Mùa xuân đến, tôi cảm được mùi hương hoa cải thoảng
bay trong gió, những thiếu nữ Churu tuổi cập kê lúng liếng về đồng, chợt tiếng
vó ngựa gõ giòn trên những lối xưa. Ông Xuân bảo, từ khi có chương trình xây
dựng nông thôn mới, hầu hết đường làng, đường nhánh ra đồng đã được trải
bê-tông. Tiếng vó ngựa gõ giòn thêm là thế!
bê-tông. Tiếng vó ngựa gõ giòn thêm là thế!
Lục tìm
ký ức, ông Xuân kể, thời huy hoàng của nghề xe ngựa là vào thập niên 90 thế kỷ
trước, ở đây có trên dưới 500 xe. Ngựa “nuôi” cả gia đình. Một ngày làm xe ngựa
bằng sáu công làm hợp tác xã. Giờ... chỉ còn khoảng 50 xe.
Ðời
người, đời ngựa ở xứ này cứ đan xen, quấn quyện. “Người xưa có câu: “Làm thân
trâu ngựa”, nhưng với nghề này, mình đói chứ không để ngựa đói” - anh Nguyễn
Quốc Trưởng, người nối nghiệp xe ngựa của ông Xuân triết lý. Tôi hiểu, cũng
giống những xà ích ở Ðà Lạt, kinh tế của các gia đình này chủ yếu nhờ vào sức
ngựa.
Song,
có lẽ trong tương lai, những con Hồng, con Tía (tên ngựa)... trên vựa rau Ðơn
Dương rồi cũng chồn chân, để lại khoảng trống mênh mang cho những gã xà ích
trót yêu nghề ngựa. “Ðến đâu, hay đó. Ở huyện nông thôn mới này, ô-tô đã đến
từng vựa rau. Nói thế, chứ ai đã chọn nghề ngựa để mưu sinh, đã yêu nghề thì
không thể nào bỏ được” - anh Trưởng nói.
Theo sự
phát triển của xã hội, “chức năng” của ngựa đã bị thu hẹp và số lượng ngựa trên
cao nguyên Lâm Viên cũng giảm đi nhiều. Nhưng, vào một đêm trăng thanh lên xứ
mộng mơ Ðà Lạt, một chiều thung thăng đi về phía núi... tiếng vó ngựa vẫn gõ
giòn và tung bay trên nền trời xanh sâu thẳm.
Già
làng K’Plin kể, thuở còn hoang vu, vùng đất này đã có dấu chân ngựa hoang. Yàng
Ndu tổ chức cuộc thi để thu phục muôn loài. Trâu và ngựa là hai con vật cuối
cùng thua cuộc trước loài người. Từ đó, trâu trở thành linh vật hiến tế, còn vó
ngựa trên cao nguyên núi đỏ, rừng xanh nam Tây Nguyên thì mãi gõ nhịp cung
phụng con người...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét