Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017

Mưa phố núi

Mưa phố núi
Viên ngắm nhìn bức tranh được giải thưởng hạng nhất trong năm cuối của ngành hội họa. Nó kết tụ bằng những vệt sơn dầu tạo thành triền đồi thoai thoải phủ kín hoa quỳ. Trên nền hoa vàng rực rỡ dưới ánh nắng chiều, một con bé đang thơ thẩn trên đỉnh đồi. Người nó, như bị nhận chìm giữa rừng hoa mênh mông. Đôi cánh tay giơ cao níu chùm hoa trên tầm với như cố khoe tay áo cánh tiên màu hạt dẻ. Nước da sữa đục nổi bật đôi mắt đen lay láy. Bức tranh chẳng có gì đặc biệt nhưng lại được sự tán thưởng nhiệt liệt của các giáo sư và những người ưa chuộng hội họa. Sự khen thưởng không như một khích lệ cho những tài năng mới mà là một ngỡ ngàng, một khám phá kỳ bí vừa tìm thấy ở Viên. Bây giờ chẳng còn ai thắc mắc nếu không muốn nói là ganh tị vì trời đã phú cho Viên một trí nhớ phi thường kèm theo một nét nhìn mỹ thuật mà Viên đã mặc nhiên khai phá bằng mọi sắc cạnh qua nét vẽ, qua những nét chấm phá tài tình. Những ngày tháng đầu, Viên đưa cả lớp từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Trong khi chúng bạn kéo nhau vào sở thú, vào công viên có lá vàng để lấy những phong cảnh đẹp, thì Viên ung dung với giá vẽ trong sân trường. Dưới tàng cây rậm vắng bóng người để thả hồn về kỷ niệm trong từng nét vẽ. Về những ngày tháng xa xưa, với vùng cao nguyên đất đỏ, núi non trùng điệp.
Pleiku – Quê hương của Viên đó, một tỉnh lỵ nhỏ được bao bọc bởi núi đồi quanh năm phủ sương mù, bằng hơi lạnh của khí đá, bằng những vùng xám lạt của khói lam chiều và được đan kết bằng yêu thương của tình người, bằng những chất phác thật thà. Nơi đó, có Biển Hồ sâu vô tận, có cầu Hội Phú, có chợ Trà Bá, chợ Mới, chợ Nhỏ... và có con đường Trịnh Minh Thế dẫn đến trường Pleime. Viên rùng mình, cứ mỗi lần ngồi bên giá vẽ là mỗi lần hình ảnh thơ ấu hiện về. Như một khúc phim được ráp nối trong ký ức của Viên tuần tự không bao giờ dứt...
Viên cuộn người trong chiếc chăn nhỏ như con tằm rúc mình trong chiếc kén. Ánh lửa bập bùng từ cái lò đúc bằng đất sét tỏa ấm khắp phòng. Nó ngồi im chăm chú nhìn mẹ lọc những cặn đục trong thau sữa bò tươi nguyên chất mà chú Cổn vẫn mang tới bán vào mỗi buổi sáng. Khi mảnh bọt đầu tiên vừa lăn tăn sôi, mẹ đã tắt bếp và lấy muỗng lớn gạt lớp màng mỏng bên trên. Thế là Viên đã có một ly sữa đầy thơm phức. Ly sữa đầu tiên vào buổi sáng còn rất sớm, nó trắng đục, béo ngậy và ngọt lờ lợ giống như trái lý vừa chín. Viên đưa lên miệng vừa thổi vừa uống từng ngụm nhỏ để chờ giọng rao bánh mì của người đàn bà góa quen thuộc. Còn gì bằng những buổi sáng ngập sương mù, trời lạnh quay lạnh quắt được nghe giọng mời đầy nghệ thuật của bà ta. Nó liên tục và cao vút như một điệu nhạc vui tai, pha lẫn âm thanh reo rắt làm người nghe thấy đói cồn cào trong bụng. Viên liên tưởng tới những ổ bánh mì nóng hổi vùi sâu dưới hai lớp bao bố, rồi lạnh hình dung hũ mật ong đặc sánh cất trong tủ mà nuốt nước bọt ừng ực. Điểm tâm chỉ có thế nhưng Viên vẫn thấy thèm mỗi sáng, rồi mỗi sáng ăn mãi không bao giờ biết chán. Viên vừa ăn vừa nhìn mẹ soạn lại những quần áo cũ trong khi người Thượng (Ra-đê) lần lượt kéo đến. Trời lạnh thế mà họ mình trần chỉ đóng mỗi cái khố bày trọn vẹn những bắp thịt rắn chắc và làn da đen bóng nhẫy. Họ đi thành hàng, kẻ đeo gùi, người đội củi đứng ngay ngắn một góc nhà... Mắt họ hau háu nhìn vào đống quần áo cũ để trên bàn trong khi đám con nít được dịp chạy lăng quăng gần lò sưởi nhìn lò than hồng nổ lách tách. Vào mùa lạnh, quần áo chăn mền là thứ cần thiết nhất đối với dân miền núi, nhất là người thiểu số bản thượng. Họ sống như dân du mục, kéo từng bầy từng đàn đi đến đâu cũng lấy trời làm nhà, đất làm chiếu, những bữa cơm được dọn gọn gàng chính giữa sàn nhà, lò bếp và ba cục đá xanh. Nồi, chảo là những ống tre nứa được giữ kín hơi bằng hai đầu mặt nắp đậy, được cắt cẩn thận để giữ lại một phần dính toòng teng bằng lớp vỏ tre mỏng bên ngoài. Trong chiếc nồi đó, đa số là cơm trắng phau, vài con mắm khô hoặc một dúm mắm buộc trong những lá khoai. Có bữa sang hơn, họ bắt được con cá sông hay gà nuôi trong ống tre (Loại gà này ăn rất ngon và lạ miệng. Họ nuôi từ nhỏ trong ống tre, chỉ chừa cái đầu gà thò ra ngoài, con gà lớn theo chiều dài của ống tre, đến ngày lễ hoặc có khách quý họ mới đem ra ăn. Chỉ một chút muối và một ít nước mưa, đốt lửa đến khi nào ống tre cháy đen và chắc chắn món đồ ăn trong đó đã chín, thì bóc từng mảnh tre ra, lông và da gà cũng theo dó mà tróc ra, chỉ còn lại thịt gà thơm phức. Món này thì không thể nào chê được, thật tuyệt vời.) Đó cũng là một món ăn khoái khẩu mà người dân miền cao ai cũng thèm. Đời sống của người dân thiểu số ở cao nguyên gắn liền với núi đồi, chỉ cần một con dao, một cái rựa, một cái nỏ, một cái cuốc, thế là đủ bảo đảm cho cuộc sống của họ. Rau rợ là những đọt măng le, nấm rơm và nước giải khát là những trái cây rừng ngọt lịm và những khe nước suối, nước mạch chảy hoài không bao giờ ngưng. Thịt rừng, cá sông, họ không thiếu một thứ gì kể cả tình người. Đi đến đâu cũng được thương mến vì họ thật thà, đôn hậu. Nhưng cũng có nhiều người đã lợi dụng sự chất phác ấy, để vụ lợi, cướp công không mà họ đã phải tốn hơi sức lặn lội trong rừng sâu bẻ măng kiếm củi. Một số người biết được sự lợi dụng ấy nên đa số đã tìm đến mẹ để mua bán đổi chác, vì mẹ cũng là người thật thà như họ. Mẹ vẫn thường nói với Viên:
- Phải công bằng con ạ! Đừng thấy họ khờ khạo mà toan tính lợi dụng... Tình người là trên tất cả, tiền bạc dễ kiếm nhưng không thể mua được tình cảm con người.
Mẹ còn kể những người hà hiếp dân bản thượng đã bị họ thư, yếm đồ vật trong bụng như hột gà, miểng chai... Đặc tính của người Thượng là họ rất trung thành, nhưng khi họ đã ghét ai thì khó mà gây cảm tình lại với họ được.
Thường trong những vụ mua bán đổi chác, họ chỉ trao đổi đồ vật chớ không lấy tiền. Sau này những bản Thượng ở gần phố họ văn minh hơn, nên có khi họ lấy tiền để mua muối, thuốc là những thứ rất cần thiết trong đời sống của họ. Đàn ông hay đàn bà đều hút thuốc rất nhiều, kể cả con nít bảy tuổi. Những khi họ không có lá thuốc, họ dùng lá chuối phơi khô để hút. Có thể giữa thời tiết giá lạnh, hơi thuốc giúp cho họ ấm áp phần nào.  
Viên vẫn phụ mẹ vào mỗi buổi sáng, sắp gọn những thứ mẹ đã chọn lựa vào một góc và tiếp đãi lũ khách nhỏ bằng những chiếc bánh sữa, những cục kẹo mạch nha cuốn tròn trên đầu đũa. Bù lại, họ cho Viên vô số những trái cây thật lạ kiếm được trong rừng. Nhưng thích nhất vẫn là loại trâm rừng được bọc sẵn trong lá chuối. Nó to tròn như đốt ngón tay cái, mầu tím đen và căng bóng, vị chua chua ngọt ngọt làm mỗi lần chỉ trông thấy lớp lá chuối bên ngoài là Viên đã muốn chảy nước miếng. Có lần, Viên đã bốc đầy hai tay dồn vào miệng làm mẹ sợ hãi:
- Từ từ mà ăn con, làm gì như chết đói thế kia.
Viên muốn nói mình không phải là con gái mà phải bỏ từng trái vô miệng, hơn nữa, trên bàn còn tới bốn năm bọc thì chừng nào mới xong. Nhưng mùi vị ngon ngọt của trái trâm làm Viên không thể ngừng miệng nhai. Vài phút sau, lưỡi và răng đã nhuộm đầy màu tím xanh. Giờ là lúc Viên được dịp lè lưỡi giả ma để nhát chúng bạn, chả đứa nào sợ vì đâu còn lạ gì, chỉ mỗi Thao là khác biệt. Viên không hiểu nó làm bộ cho ra vẻ hay nó yếu tim thật sự, mà mỗi lần Viên vừa vô đến cửa chưa kịp đưa cái lưỡi dài thoàng loàng ra là Thao đã mặt cắt không còn tí máu. Vừa sợ lại vừa giận, nó hơ hãi ôm mặt dấu ở góc tủ đứng thút thít khóc. Bắt tội thằng bé tám tuổi phải năn nỉ khô cả nước miếng và những trái trâm to dấu trong túi quần rộng cũng phải lôi ra dần đần đền vì tội. Thao hiền lại học rất giỏi trong khi Viên đã lười còn nghịch ngợm phá phách như giặc, vậy mà hai đứa thân nhau cũng lạ. Viên nhớ buổi học đầu tiên theo mẹ cắp sách đến trường, mặc lời dỗ dành hứa hẹn, Viên vẫn níu chặt áo mẹ phụng phịu.
-  Mẹ ngồi học chung với con cơ.
Mẹ vỗ về:
-  Con trai lớn rồi phải học một mình chứ!
Để tụi nó cười chết.
Hai mẹ con trì níu ở trước cửa lớp với bao nhiêu cặp mắt chế diễu của đám bạn cùng tuổi, để rồi mẹ con lại dắt dìu nhau về trước lời bướng bỉnh của Viên:
-  Mẹ học thì con mới học.
Hôm sau, mẹ dẫn Viên sang nhà Thao dặn:
-  Con học chung với Thao này, anh em đi về có nhau vui lắm không ai dám bắt nạt đâu.
Mặc dù biết Thao từ hồi nó còn mũi rãi lòng thòng, nhưng khi đi học, dáng bộ trông cũng hách dịch lắm. Viên ghét con gái hách xì xằng nên nói oang oang:
-  Nó mít ướt thấy mồ, mai con đi một mình cho mẹ xem.
Và từ mai Viên đi học một mình thật. Mỗi buổi sáng được mẹ mặc cho chiếc quần yếm xanh đậm, cái áo chemise đỏ đồng phục, đầu đội mũ nỉ với chiếc áo len cùng màu xẫm và khi nào Viên ăn xong miếng bánh mì cuối cùng, mẹ cũng bỏ vào chiếc cặp nhẹ tênh một gói xôi lạp xưởng. Ra đường trông Viên khệ nệ như một chú gấu con ấm áp. Vai đeo chiếc cặp căng phồng vì một đồng mẹ vừa cho để uống nước Viên đã đổ vào những thúng trâm bán bên vệ đường. Từ nhà đến trường gần cả cây số, đủ để Viên tiêu thụ mớ trái cây trong cặp. Nhưng chú bé tham ăn và phá phách nào để những trái mận, trái ổi non hai bên đường yên thân. Hôm nào cũng phải hái lén cho bằng được để nếm vị vừa chua vừa chát của thứ trái cây còn non ấy.
Viên hăng hái đi học chỉ vì thế. Vừa được mặc quần áo đẹp, vừa được tự do ăn uống, lại vừa được những cặp mắt của đám con gái nhìn Viên thán phục. Nhưng thích nhất vẫn là được dung dăng dung dẻ với Thao. Con bé khôn đáo để, bắt Viên vai đeo túi nặng mà ăn uống phải chia hai. Nếu không, nó chẳng thèm chơi trò vợ chồng với Viên nữa. Hôm nào được mẹ dồn những món ăn đặc biệt, nó rủ thêm vài con bạn bằng cỡ. Lẽ dĩ nhiên, nó chỉ mất vài tiếng cậu cậu, mợ mợ, và bọn kia chỉ tốn vài tiếng dạ bẩm của lũ con cháu thế là mọi thứ đồ ăn của Viên được thản nhiên chui vào bụng chúng một cách công khai. Sau này, trò chơi đâm ra ngượng ngịu vì Viên hay cáu sườn với đám con gái ăn bám này nên cả bọn tan rã, chỉ còn mình Thao lẽo đẽo đi bên Viên mỗi trưa tan học. Hai đứa đã biết thưởng thức hương vị đặc biệt của trái cà phê vừa mới chín. Mùi thơm ngầy ngậy của lớp cùi rất mỏng bên ngoài lôi cuốn Viên chui qua lỗ băng rào đến rách cả quần áo, nhưng quyến rũ nhất vẫn là vườn nhãn của cụ Bách. Vườn rộng có đến hai mươi mẫu, cụ lại là người hiền lành nhân đức lại yêu trẻ nên ngay cổng lớn vào vườn, cụ cho xây một công viên với đủ trò chơi cho đám trẻ trong tỉnh lỵ. Không ngày nào hai đứa không có mặt nhưng thay vì chơi xích đu, hoặc đi ngựa gỗ, Viên dẫn Thao vào sâu trong vườn, nơi có những cành nhãn xum xuê trái nằm khiêu khích trên cao xa tầm tay với của đám trẻ. Mười tuổi, Viên đã tập làm anh hùng trước mặt Thao. Nó ném chiếc cặp xuống đất rồi dõng dạc ra lệnh:
- Thao đứng dưới này xòe cái váy cho rộng, hễ Viên thảy xuống là phải hứng lấy. Để nó rớt xuống đất dính đầy cát là ăn đòn đừng có khóc.
Thao lấy tay che bớt ánh nắng đang chiếu xiên qua, mắt nhìn những trái nhãn căng mọng nuốt nước miếng.
- Leo thấp thôi, cao quá không hứng được đâu.
Trời nắng nhưng gió hây hây, những cành lá chạm vào nhau kêu xào xạc. Viên khoái chí leo tuốt lên cao vì biết rằng càng cao sức ném càng mạnh. Sau lần đó, Viên bị một trận đòn nên thân vì hông quần móc vào nhánh cây xé toạc, lại còn bị Thao giận không đi chung mất mấy ngày vì chơi trò quái ác.
Cũng có những buổi chiều mưa tầm tã, bầu trời ảm đạm, và thời tiết thì buốt lạnh, hai đứa để đầu trần dầm mưa từ trường về nhà. Những rảnh nước từ triền cao đổ xuống hai bên vệ đường hơi trũng chảy cuồn cuộn như thác. Nước đục pha màu đất đỏ trộn lẫn với rác rưởi, xác lá khô cuồn cuộn chảy ra sông, ra những triền trũng. Đám ếch nhái con từ dưới lạch được dịp thi thố tài năng trong bầu trời đang vần vũ, nhảy lóp chóp đầy đường như một trận mưa ếch. Lũ ốc bươu cũng không chịu thua, bò ra khỏi ruộng rẫy từng đàn như đạo binh chiến đấu. Lưng đeo cặp cho mình, còn tay cầm cặp cho Thao, Viên từ từ bước vào chỗ thấp nhất của lề đường và đi dọc theo giòng nước. Nước ngập qua đầu gối và lạnh như cắt, Viên thích thú đưa tay vẫy gọi, nhưng Thao lắc đầu, hai tay xách hai đôi dép đóng đầy bùn đỏ, lẽo đẽo trên lề cao trông từng bước nhún nhẩy của Viên. Được một đoạn có lẽ chán trò chơi không người hưởng ứng này, tới ngã tư chợ, Viên dẫn Thao vào ngôi chùa gần đó. Sân chùa rộng trồng toàn keo, gặp mưa và gió lớn, những trái chín ửng đỏ rớt ngập sân. Nó dài và có từng múi như đậu ván già, khi chín hai bên hông tách ra để hở những mảng cùi trắng bóc. Hai đứa dầm mình dưới mưa hốt cho đầy một cặp, khi con mắt đã no và không còn chỗ chứa, kể cả túi quần, túi áo, hai đứa dắt díu nhau vừa đi vừa nhồm nhoàm nhai trái keo chua chua dốt dốt, thêm vào hơi lạnh của gió mưa làm Thao rùng mình vội vã bước mau. Về đến con dốc, Viên ưỡn người ra phía trước dùng những ngón chân bấu mạnh xuống đất dẻo trơn trợt. Hai đứa bám vào nhau lần mò từng bước chậm chạp. Đôi ba lần trượt chân muốn vồ ếch, nhưng lại thoát được trước đôi mắt thán phục của mẹ, mà không tài nào được vì Viên biết chắc chắn rằng từ lớn tới bé không ai thoát được cảnh té lăn quay trên con dốc mỗi khi trời mưa.
Mưa làm ruộng đồng xanh ngát, làm đám con nít hồn nhiên vui đùa, nhưng lại gia tăng thêm công việc cho các bà mẹ. Lớp giặt quần áo, lớp chuyền nước mưa hứng từ máng xối mang vào trong thùng phi để dành uống, lớp lo ngại cơm nước chẳng có gì ăn. Có khi trời mưa dầm dề cả tháng, quần áo lúc nào cũng ẩm ướt, không có một tí nắng, nhưng bù lại những lúc trời mưa như thế, lại là những lúc rảnh rổi nhất, chỉ việc nằm dài người, nhìn mưa rơi, thả hồn bên những bản nhạc trữ tình, miệng đẩy nhanh những trái bắp nóng hổi, hoặc vài củ khoai lang bí vùi tro ngọt lịm. Và mưa cũng là dịp cho các bà bán hột vịt lộn đắt hàng, bà bán bánh mì ngọt lại được dịp gào đánh át tiếng mưa rơi:
            “Bi don don, bi dòn dòn, bi dỏn dỏn đây ... ớ...ơ...ờ...ờ...ờ...ơ. Bánh mì nóng dòn, vừa thổi vừa ăn đây”. Trời mưa tầm tã, con đường nhỏ trong ngõ ngách dẻo kẹo như rút cả đôi chân xuống nền đất đỏ, gió rét căm căm mà bánh nào còn nóng cho được, thế nhưng tiếng rao chỉ đáo qua một lần rồi mất hút vì ai nấy đều lười biếng cơm nước, mua bánh mì ăn cho tiện.
            Mưa mang đến cho những người nhà giàu cảnh nhàn hạ bên tách trà tầu, bên dĩa kẹo gương, kẹo đậu phộng. Vừa ăn, vừa tán gẫu chuyện đời, nhưng thỉnh thoảng có những trận mưa dài lê thê, nối tiếp từ ngày này qua ngày khác, bầu trời lúc nào cũng ảm đạm, có khi cả tháng không thấy chút mặt trời, quần áo đều ẩm ướt, mốc meo, mọi sinh hoạt như chậm lại. Họ nhìn trời rồi lại nhìn ra giòng sông trước mặt. Con sông nhỏ đổ nước ra sông cái chỉ cách nhau một chiếc cầu, mực nước mỗi giờ một dâng cao. Để rồi cuối cùng tràn ngập cả cánh đồng dẫn vào làng mạc, nhưng bao giờ nước cũng chỉ dọa dẫm đến nền nhà thì dừng lại và rút lui nhanh chóng.
            Viên cũng chẳng thể quên được những lần trốn học dẫn Thao vào rạp hát Diệp Kính. Hai đứa vừa coi tụi cao bồi bắn súng vừa chuyền tay những trái xay mầu nâu xậm óng ánh những lông mượt và êm như nhung. Nó chua xen lẫn vị ngọt như me ngào. Thao thích trái xay nhứt, vì nó bảo ăn được cả vỏ lẫn hột. Viên trố mắt ngạc nhiên trong khi Thao bóp cái vỏ mỏng và dòn như chiếc lá khô cho vào miệng. Còn cái hột nữa, nó dẹp và tròn bóng trông ghê rợn như con ve chó, thế mà nó cũng nhai lấy nhai để, vừa nhai vừa cười khoe hàm răng trắng đều như hộp bắp.
            Ra khỏi rạp hát hai đứa dán mắt ở xe bánh bò trước cửa. Nó chỉ là chiếc xe đạp ba bánh. Phía sau chở một tủ kiếng khá lớn ba tầng xếp những xấp bánh bò đủ màu sắc. Mùi bột gạo quyện lẫn mùi vanilla thơm phức.Viên đưa hai đồng mua hai miếng trong khi mắt không rời con dao mỏng cắt đi cắt lại nhiều lần. Cuối cùng, ông lấy mảnh giấy trắng kẹp miếng bánh nhỏ bằng ba ngón tay, Viên chỉ miếng bự nhất:
-  Cháu muốn ăn miếng kia.
Lão đưa đôi mắt hấp ha hấp háy nhìn Viên. Nhìn thằng bé con từ khi nó mới chập chững biết đi cho đến bây giờ – Đã hơn mười năm. Lão âu yếm xoa đầu thằng bé với giọng lơ lớ khó nghe:
- Thằng nhỏ à! Nị hỏng có lủ tiền mua ló đâu, mắc nắm à! Lể dành cho mỗi người cắn một chút chớ.
Tuy nói thế, nhưng bao giờ ông cũng đổi cho Viên miếng bự hơn. Rời hàng bánh hai đứa ngồi ngay xuống hàng bún riêu gần đó.
- Riêu cua Viên ơi!
Con Thao reo lên khi thấy những gạch cua óng ánh lẫn cà chua nổi lềnh bềnh trong nồi nước dùng, thơm ngào ngạt.
- Mỗi đứa ăn một tô nhé!
Viên quay sang hỏi trong khi con bé vừa cười vừa chế nhạo:
- Không một còn muốn mấy nữa? Con trai gì ăn hàng hơn con vẹt.
Viên chẳng biết con vẹt có ăn suốt ngày không nhưng mặt nó cũng đỏ rần rần vì bị chế nhạo... Nó lùa những gắp bún đầy vào miệng rồi tự bào chữa:
- Ở nhà mẹ nấu đâu có ngon bằng.
Những ngày cuối tuần hai đứa dắt nhau xuống chợ Trà Bá. Chợ chiều nên ít người đi lại. Gian hàng bán thịt ế ẩm, nằm chỏng gọng vài khúc xương ống, vài ba miếng mỡ đã khô canh; bà hàng đậu phụ một tay phe phẩy chiếc quạt nan, một tay thỉnh thoảng che miệng ngáp vặt. Và góc kia, xúm năm tụ ba vài người bán hàng rong ghé chợ làm chỗ nghỉ chân. Dọc hai bên phố là những tiệm tạp hóa bán đủ thứ, rất nhiều tiệm bán những chiêng đồng, nỏ, cung, tên, những căn nhà Thượng đan bằng tre, nứa, lá, và nhiều vật lưu niệm rất mỹ thuật mà hầu hết du khách khi ghé đến Pleiku đều muốn mua về làm qùa cho bạn bè, người yêu. Viên thích nhất là gian hàng bán mỹ phẩm, vì nó có cái quầy dài bằng kiếng chưng bầy đủ thứ gương, lược, son, bóp cho đàn bà, Viên say mê nhìn những cây son màu đỏ xẫm trông ngon ngọt như trái táo chín, rồi đến lọ sơn móng tay với cái cọ tí hon nằm trong màu nước hồng bạc mà liên tưởng đến Thao. Con bé mà được những thứ này thì khoái bằng thích. Viên quay lại tìm Thao, nó đang dán chặt mắt vào con búp bê nhỏ tí vài cọng tóc vàng lưa thưa, chắc chắn của ngoại quốc rồi, vì nó biết nhắm mắt mở mắt kia mà. Nhìn vẻ thèm thuồng của Thao, Viên tự nghĩ một ngày nào đó đi làm có tiền chắc chắn sẽ mua tặng nó. Nghĩ như thế, nhưng tay Viên tự động rờ vào túi nắn tiền. Chẳng còn xu nào vì cái miệng bem bem của hai đứa. Viên đành rủ Thao đi nhặt những trái điệp rơi dọc hai bên đường. Hột điệp tròn và dài như viên thuốc con nhộng, nhưng lại đen nâu như màu hạt dẻ. Khoảng tháng mười, những trái già tự động nứt ra làm hột rơi xuống đầy đường, chỉ cần ngâm trong ly nước một đêm, tới sáng là hai đứa có món nhai cho đỡ buồn miệng. Thao khôn hơn, nó tìm nụ phượng bị gió lay làm những cành nhỏ đánh vào nhau cho hoa rơi rải rác. Nụ phượng có năm cánh úp màu xanh như lá cây. Bóc cái màng dính vào nhau, bên trong là những búp hoa non ăn chua chua chát chát. Cái nhụy lại dùng để chơi móc đầu vui biết mấy. Viên chẳng phân bì với bạn, mỗi đứa có một thứ vui riêng. Bây giờ Thao vô tư cười đùa như bất cần nó, nhưng mai sáng khi keo điệp của Viên nở to, chắc chắn nó sẽ được nghe cái giọng con Thao cất lên xin xỏ, ngọt lịm và mát cả cõi lòng.
Tình bạn cứ theo năm tháng trôi nhanh. Viên đã bỏ tính chọc ghẹo Thao để làm người lớn. Có lần nó đã đứng hàng giờ nhìn cơn giông sắp tới để chờ Thao nhặt những quả bàng. Cái vỏ xanh bên ngoài ăn chua chua ngọt ngọt mà mỗi lần vô tình cắn trúng hột là ê cả răng. Thao lượm đầy hai túi áo, nó thẩy cho Viên những trái xấu xí nhất ra điều như thương hại:
- Đằng ấy ăn thử xem ngon lắm. Nhưng phải chừa cái hột lại cho tớ.
Viên cầm trái bàng còn bé nhỏ lại nắng ăn rám cả bên mặt đưa lên miệng. Con khỉ, trái bàng ngon có mỗi cái hột thì cũng giành lấy, làm như mình đây ngu ngốc chẳng biết gì. Tuy nhiên, chiều về, Viên vẫn chịu khó ngồi đập. Được hột nào nó cho ngay vào miệng hột đó. Nhìn cái miệng nhai rau ráu đến ngon lành, Viên nổi đóa:
- Ăn gì mà khiếp thế? Hơn cả heo.
- Vậy mà có đứa muốn giành ăn đồ của heo.
Viên ngớ người, chẳng hiểu con Thao muốn nói gì, người ta bảo trai gái bằng tuổi nhau bao giờ gái cũng khôn hơn trai. Vậy mà nó đã khôn hơn mình. Viên ném cái búa, giận dỗi đứng lên.
- Ăn một mình thì đập lấy mà ăn.
Hột bàng được cắn đôi. Thao đưa một nửa cho Viên còn cười khúc khích:
- Thôi chia hai. Đập đi chớ.
Thế là thằng bé được nửa cái hột béo ngậy, lại ngồi lui cui đập. Những giận hờn vu vơ không làm tình bạn sứt mẻ. Nhưng ngày, rồi ngày qua, thời gian đã biến đổi để rồi Thao bắt đầu tránh né những lần đi chung với Viên. Viên cũng lờ mờ nhận thấy sự đổi thay ấy nhưng đôi khi buồn quá, Viên lại sang nhà rủ rê:
- Đi lên đồi Trà Bá hái cò ke bắn nhau không?
Thao lắc đầu:
- Thèm vào thứ ấy. Ai đời rủ con gái chơi bắn cò ke.
Viên ấm ức trong lòng nhưng không thể nói:
- Vậy hồi xưa thì sao?
Im lặng hồi lâu, nó bắt đầu nài nỉ:
-  Thì vô rừng hái trái cứt chuột ăn.
Thao nhún vai đỏm dáng:
- Nắng thấy mồ.
Viên vẫn kiên nhẫn:
- Vậy mình hái trái mỡ gà nhé! Lâu quá không vào, chắc mấy bụi mỡ gà
chín rộ rồi. Trời ơi, cái thịt nó vàng ngậy và béo dòn ăn đã lắm.
Thao đưa ngón tay út lên miệng cắn giữa hai hàm răng làm điệu hồi lâu ra chiều suy nghĩ, rồi lại lắc đầu viện cớ bài vở chưa xong. Cuối cùng thì Viên đành thất thểu ra về. Viên không thích chơi với em, thằng nhóc thua nó đến ba tuổi, động chút là nhè lại hay thèo lẻo chuyện gì cũng méc mẹ nên không có Thao nó chỉ biết vơ vẩn một mình. Không phải Viên không có bạn, đám con gái đeo theo nó thiếu gì, đeo theo để được nó dẫn đi bẻ trộm xoài hoặc xuống đầm hái những hoa cần nước dại màu trắng thơm đến nhức óc. Nó cũng không thích chơi với đám con trai vì đứa nào cũng khoái Thao. Mà trong tỉnh này, Viên chắc chắn sẽ không thể tìm được đứa thứ hai có thân hình cây sậy cuốn theo chiều gió như Thao. Và trong trường cũng chẳng có đứa nào dám mặc áo đầm xoè với sợi nơ cột phía sau to tướng. Viên buồn lắm, nó quanh quẩn ở nhà đến cả tuần. Cuối cùng, Thao mới thố lộ:
- Thao không thích chơi trò con trai nữa.
Viên cười:
-  Vậy mình chơi trò nấu cơm bày bán đồ hàng cũng vui vậy.
Thao trề môi:
- Trò con nít.
A! Thì ra Thao muốn làm người lớn. Viên muốn ôm bụng cười một trận cho thỏa thích, nhưng cố bịt lại trong khi con Thao cong cớn:
- Muốn nhập bọn thì xin mẹ cái giỏ mây.
Viên không hiểu Thao muốn giở trò gì. Nhưng hôm sau, hai đứa tung tăng dưới chân đồi, nó chợt ngẩn người.
Từng giải hoa vàng xao động trước gió. Mùi hoa quỳ vàng thoang thoảng pha lẫn mùi cây cỏ núi rừng tạo thành những ngất ngây rung động. Thao vén áo đầm ngồi xuống.
- Bứt hoa bỏ vào đầy giỏ. Khi nào gặp lốc đến thì tung lên. Cơn lốc sẽ cuốn hàng trăm cánh hoa xoáy tròn và hút lên cao tỏa rộng như chiếc phễu khổng lồ.
Giọng Thao trầm bổng theo câu nói làm cho Viên tò mò. Từ nhỏ đã nhiều lần Viên đứng nhìn những cơn lốc cuốn đầy đất đỏ, những vệt tròn xoay nhanh và mạnh tung những bệt đất khô thành màng bụi đỏ hồng. Rồi đến cơn lốc lá bàng. Giờ mới nghe Thao nói là lần đầu. Nó nghi ngờ:
- Thao thấy rồi hả?
Giọng Thao quả quyết:
- Chứ còn gì nữa.
Và từ đó, mỗi chiều hai đứa đều xách giỏ lên đồi, nhưng con lốc vô tình chưa lần nào đi ngang đồi hoa quỳ, chúng đợi mãi trong cái trò chơi dễ thương đó. Một lần nhìn Thao tung tăng xách cái giỏ đầy những hoa nó buột miệng:
- Mai mốt tớ phải học vẽ. Nhất định làm họa sĩ. Đằng í chịu làm người mẫu nhé!
Thao đỏ mặt ấp úng:
- Thao làm người mẫu được hả? Đâu có đẹp như những người trong hình đâu.
Tuy nói vậy, nhưng mặt con bé hân hoan thấy rõ. Và cái mộng làm họa sĩ càng ngày càng làm Viên háo hức hơn. Khi thấy cảnh thiên nhiên mỗi lúc mỗi hiện ra rõ rệt. Quê hương của Viên đẹp vô cùng, nét hùng vĩ của núi đồi, cảnh dễ thương của ngàn hoa rừng dại và mộc mạc bởi lòng người. Để rồi Viên quyết định chọn theo sở thích mình khi lần cuối cùng bắt gặp Thao xinh xắn trong chiếc áo đầm vàng. Nó bay tung tăng đuổi bắt những hoa bông goòng bay ngập con đường. Hoa goòng trắng nõn xòe ra như trăm ngàn chiếc dù to nhỏ, bay là đà đến gần đám trẻ rồi lại bay vụt lên cao trêu ghẹo. Rõ ràng là loài hoa khô không có linh hồn, nó chỉ là những xác khô chết trong trái goòng già đã nứt thế mà có sức lôi cuốn đám trẻ và làm chao động lòng người. Hoa phủ ngập như những cụm sương đặc, như những cánh tuyết đang từ từ rơi. Con đường có nhiều cây goòng lại là con đường thơ mộng nhất của tỉnh lỵ này, hai hàng cây cao đan kín vào nhau che mát cả lối đi, hàng trăm tà áo dài trắng được khoác thêm những chiếc áo len đủ màu sắc, duyên dáng rảo bước đến trường học đôi má lúc nào cũng ửng hồng, và mái tóc xanh đen lấp lánh những hạt sương đọng.
Thường thì mỗi sáng thời tiết rất lạnh lẽo, nên mấy cô nữ sinh phải đi sát vào nhau, co ro ôm chặt cái cặp để đỡ lạnh. Những lúc như thế thì khổ cho mấy cậu học sinh đạp xe đạp tà tà theo sau mà không tỏ được đôi lời, bọn con gái kéo bầy với nhau thì phải biết, mở lời ong bướm thì mấy cô trêu cho mà tức chết. Dù biết thế, nhưng mấy anh cũng mạnh dạn theo bé đến trường. Khổ nỗi là con đường này chỉ dẫn đến trường nữ trung học Pleime nên những cây si nào lảng vảng ở đường này gặp phải người tình mình thì khó mà biện minh. Sau này, sở học chánh như thông cảm được nỗi lòng của đám học sinh, nên mở thêm một trường bán công cho nam lẫn nữ. Thế là đám học như có dịp để sánh bước, con đường đã thơ mộng càng thêm tình tứ.
Đến mùa sâu rụng thì tội nghiệp cho mấy cô nữ sinh nhất, cả con đường tràn ngập xác sâu, sâu rớt từ trên cây, sâu bò đầy đường. Nhiều anh chàng còn tinh nghịch hơn, thừa dịp “trả thù” nên đã thủ sẵn một vài con sâu để ném vào mấy cô nữ sinh. Có nhiều cô sợ quá khóc sướt mướt. Thành ra những cô nào đã có “phần”, cần phải có người hộ tống đi bên cạnh.
Từng cặp bẽn lẽn, từng bầy nữ sinh, xinh đẹp dịu dàng sánh bước dưới tàng cây xanh tươi, che kín cả bầu trời ẩn hiện giữa màn sương dầy đặc, con đường nổi hẳn một màu trắng của những tà áo dài, những hoa bông goòng bay lơ lửng như một bức tranh sống diễm tuyệt mà khó có một nét vẽ nào tạo thành được sự tuyệt vời của nó, con đường Trinh Minh Thế hay còn gọi là con đường của tình nhân, của học trò, của đôi lứa mà hầu hết mọi người ở tỉnh lỵ này đã có rất nhiều kỷ niệm gắn bó.
Và những khi sương mù dày đặc nhắc nhở họ nghĩ đến tách cà phê Dinh Điền nóng hổi, cái quán nhỏ nằm ẩn trong khu công chức nhưng lúc nào cũng đông nghẹt khách. Có những buổi sáng, buổi tối quán không còn một chỗ trống, làm người ta phải đứng chen chúc cạnh những thùng phuy nước hay ngồi cả lên xe đạp, xe Honda. Cà phê Dinh Điền ngon có tiếng, mùi vị đậm đà, giới ghiền cà phê đã nếm một lần chắc phải lui tới mỗi ngày, những khách thập phương đã từng uống cà phê ở nhiều quán nổi tiếng khắp nơi đều cho rằng quán cà phê Dinh Điền, không những chỉ ngon nhứt Pleiku mà nó còn có thể là quán cà phê pha chế ngon nhứt Việt Nam. Cái mùi vị nó ngây ngất làm sao, uống chỉ một hớp đầu là thấy ấm tận buồng phổi và như một chất ma túy nghiện ngập. Khách hàng quen thuộc của quán này, có người đã thưởng thức những giọt cà phê đầu tiên do bà chủ quán pha chế từ hơn hai mươi năm qua, cái thuở mà quán cà phê Dinh Điền chỉ là một cái chòi tranh, nằm chơ vơ giữa rừng núi, đêm hôm còn sợ một ông Hổ nào chạy lạc vào nên người ta đã cẩn thận đốt lửa, vừa để ngăn thú rừng vừa để sưởi ấm. Giữa trời đất bao la, trong cái thời tiết giá lạnh và tràn ngập sương mù mà thưởng thức một ly cà phê tuyệt hảo thì còn gì bằng. Một đặc điểm nữa là màu sắc cà phê Dinh Điền không giống bất cứ một quán cà phê nào khác, chỉ nhìn thấy ly cà phê đã thèm ngay, nó lạ lùng và hấp dẫn làm sao, mặc dù nó cũng được kết tụ bởi chất sữa và cà phê, nhưng không hiểu kỹ thuật pha chế gia truyền và đầy bí quyết của bà chủ quán ra sao mà không một ai có thể pha chế tương tự được. Cũng có thể một phần vì cà phê ngon, một phần vì núi đồi lạnh lẽo làm người ta khao khát hương vị nồng ấm mà thăng hoa nó lên.
THƠ CHIỀU PLEIKU
Vì suốt chiều nay mưa nhòe thành phố
Nặng bước em về ngõ cũ mồ côi
Bóng núi chênh vênh thông ngã ven đồi
Mây vẫn đua nhau trôi về miền viễn xứ
Tình cũ nghìn xưa sao mà tư lự
Trong mắt em buồn phố lạnh đèn soi
Mình biết thương ai mưa mãi mưa hoài
Đường đi về đêm thơ sầu tăm tối
Đường đi về đêm ngõ bùn lầy lội
Em có nghe chiều lất phất mưa bay
Có nghe đau thương nhỏ xuống tim này
Thế kỷ vòng quay kinh cầu nửa kiếp
Trần thế làm sao u hoài oan nghiệt
Để ý thơ buồn thương nhớ chiều nay
Mắt biếc em đâu mưa núi dăng đầy
Bóng lẻ nhà ai đèn lu mới thắp
Mình vẫn tìm nhau sao mà không gặp
Mưa mãi xóa nhoà thành phố mồ côi
Thành phố mồ côi ngày cũ đâu rồi
Đường đi về đêm thơ sầu tăm tối
Đường đi về đêm ngõ bùn lầy lội
Em có nghe chiều lất phất mưa bay. 
Kim Tuấn
Thắm thoát đã tám năm kể từ ngày rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để theo anh chị về Sài Gòn ăn học, Viên hầu như đã quên Thao, có chăng chỉ đôi lúc thoáng về kỷ niệm khi ngồi bên giá vẽ. Cái hình con bé giữa đám hoa vàng chỉ gợi cho Viên một thoáng mơ hồ chứ không có một xúc cảm mãnh liệt. Nếu không ,Viên đã chẳng để cho đến bây giờ nhân chuyến ăn đám cưới của con ông chú mới quyết định trở lại quê xưa; nơi đã nuôi lớn Viên với những chuỗi ngày êm đẹp. Viên xếp gọn xách tay cho cuộc hành trình. Một cuộc hành trình không định trước, nhưng không hiểu sao nó rất hồi hộp lẫn háo hức, cả đêm chàng không tài nào chợp mắt được, mọi ý nghĩ miên man về kỷ niệm, dù biết rằng Pleiku vẫn đẹp như xưa. Cảnh vật còn đó, màu sắc y nguyên và nhất là lòng người không bao giờ thay đổi.
Người phu xe lanh lẹ trèo lên mui tháo gỡ những kiện hàng, những giỏ trái cây, những cái valy nặng chình chịch của bạn hàng. Viên uể oải chui ra và tần ngần nhìn chiếc xe đò bám đầy đất đỏ – nhìn theo những chiếc xe nhà binh cho đến khi nó mất hút trong đám bụi hồng với tiếng nổ xa dần. Tỉnh lỵ im vắng như ngày nào. Không một tiếng động cơ, không một khói xe. Viên hít mạnh không khí trong lành đầy buồng phổi và thở ra nhè nhẹ, sảng khoái đến tận tim gan, rồi mới lững thững cầm túi hành lý gọn gàng đi dọc theo con lộ nhìn cảnh vật của tám năm về trước. Khung cảnh vẫn như xưa, cây đa già vẫn nghiêng bóng rợp cả vệ đường. Cầu Hội Phú vẫn dốc và hẹp. Chắc chắn chưa có người sữa chữa vì nền cầu vẫn nghiêng. Xe hay lật là phải, vậy mà dân làng cứ đồn nhau tại có huông và những oan hồn uổng tử hiện ra phá phách làm vài tuần lại có một chiếc xe bị lật. Viên nhớ rõ thỉnh thoảng giữa đêm khuya, nổi lên tiếng động lớn như bom nổ. Rồi tiếng bõm của một vật khủng khiếp rơi xuống nước. Vì ngay giữa sông nên mực nước khá sâu, nhờ thế, sức cản mạnh hơn đã đỡ gọn đám người trong xe, người nào không biết bơi nên mới phải đi thăm hà bá, còn chỉ thiệt hại về vật chất.
Viên vẫn ung dung xách túi hành trang đi tản bộ, từ chối khéo những lời mời của mấy anh chạy xe ôm. Nó muốn ngắm nhìn thật rõ từng cảnh vật, để thả hồn theo những mộng mị và hồi tưởng lại cả quảng đời thơ ấu của nó đang quay ngược thời gian trở lại đến với nó bằng muôn ngàn ý tưởng đẹp. Đã định trước, nên Viên rẽ vào con đường nhỏ cong quẹo dẫn đến đồi hoa quỳ. Chàng cần chút nghỉ chân sau cuộc hành trình quá dài, từ Saigon ra đây phải mất đến hai ngày. Viên cần nhìn lại đồi hoa để xem có sống động hơn hình vẽ và điều cần nhất vẫn là cơn lốc hoa quỳ vàng mà chưa lần nào Viên được tận mắt nhìn thấy. Sương mù xuống hơi thấp, nhưng không dầy lắm vì Viên vẫn còn nhìn thấy xa xa rừng hoa chi chít. Màu vàng pha lẫn màu sương trắng giăng giăng làm Viên lặng người. Còn cảnh nào hơn nữa? Nó thần tiên và tuyệt diệu hơn cả bức tranh chàng tưởng tượng. Con bé mặc áo đầm nhảy nhót vô tư sao bằng thiếu nữ trong chiếc áo cánh lụa ngồi đăm chiêu bên giỏ hoa đầy ắp. Hai tay bó gối nhưng nàng vô cùng bối rối trước đôi mắt ngây ngất của khách lạ. Viên nghe rõ tiếng gió rừng vi vu, cảm nhận hơi lạnh của sương ướt len lỏi vào da thịt và nghe rõ nhịp tim của mình đập rộn ràng. Chàng rời tia mắt sang hướng khác dấu nỗi cảm súc bất ngờ khi nàng buột miệng:
- Ông chưa thấy cảnh như vầy lần nào sao?
Viên chưa kịp trả lời, bối rối mồi điếu thuốc trên môi khẽ rùng mình. Thiếu nữ như sợ viễn khách hiểu lầm phân trần:
- Sương rơi xuống nên tôi không thấy lạnh, vả lại ở đây rất yên hơn nữa cảnh núi đồi thần tiên thế này mà rúc ở xó nhà thì đúng là dại.
Viên vạch đám hoa tìm khoảng đất trống.
- Ông cứ ngồi ... không chết hoa đâu mà sợ.
Thiếu nữ có vẻ chú ý từng động tác của Viên. Nàng nhìn chiếc áo trắng lấm tấm bụi đột ngột hỏi:
- Ông từ xa về thăm ai nơi này?
- Một người chú.
- Còn nhớ nhà chứ?
- Dĩ nhiên. Tám năm rồi mà tôi thấy mới như hôm qua.
- Cảnh vật có thể không thay đổi nhưng lòng con người lại chẳng được như thế.
- Tự dưng tôi có cảm tưởng như cô đang trách móc một người.
- Chắc chắn người đó không phải là ông.
Viên giật mình quay lại, mái tóc dài phủ hẳn bờ vai nhưng vẫn không dấu được dáng dấp gầy yếu. Đôi mắt tròn hiền lành nhưng lời lẽ lại như đối nghịch.
- Đừng giận cá chém thớt nha cô bé.
- Thì ra có người đang muốn làm cái thớt.
- Người ta bảo gái cao nguyên hiền và dễ thương. Ai ngờ...
- Ai ngờ chanh chua? Nhưng tôi đâu hẳn sống ở tỉnh lỵ này. Tuy sinh trưởng ở đây nhưng khi mười ba tuổi, trái tim tôi phải xuống Sài Gòn học nên tính tình lai căng là thế.
Viên ngơ ngác:
- Trái tim Sài Gòn? Nghĩa là sao?
- Nghĩa là gởi cho thằng cá vừa mới nói.
Viên thở hắt như giận dỗi:
- Chỉ có thế mà nói lằng nhằng khó hiểu.
- Ai bắt ông nghe?
Tự dưng Viên cảm thấy có cái gì đè nặng nơi ngực làm chàng khó thở, buồn bã và mất mát.
- Cô định chờ hắn trở lại?
- Ai?
- Chàng cá phụ tình.
- Có hứa hẹn đâu mà phụ tình.
- Tại sao cô lại khùng điên đi chung tình với người không hứa hẹn?
Thiếu nữ nhìn Viên giọng diễu cợt:
- Anh biết yêu chưa?
Viên nhún vai:
- Giờ thì chưa, nhưng sẽ.
- Vợ anh mấy con?
Viên bật cười:
- Chưa yêu sao đã vội lấy vợ? Tôi đâu đến nỗi ngốc như thế.
- Tại thấy anh hơi có vẻ ... nên hỏi cho vui.
Viên hỏi lại:
- Có vẻ gì?
Thiếu nữ quay đi cười nhẹ:
- Có vẻ Khờ me.
- Khờ me là mẹ thằng khờ đó hả?
- Đừng kéo tôi vào chứ!
- Kể ra cô tuổi trẻ mà tài cao. Mười ba đã biết yêu, gió đây khoẻ nên thổi gái phình quá sớm.
- Yêu bằng trái tim chứ đâu phải thân xác nên phình hay không cũng vậy thôi.
- Theo cô, tình yêu là thế nào?
- Yêu là cho, là dâng hiến chứ không đòi hỏi phải được đáp trả lại.
Viên bứt những cánh hoa vàng mỏng manh vò nát trong lòng bàn tay.
- Không ngờ chàng cá lại có phước.
- Cũng có thể vì ở hiền gặp lành.
- Cô muốn nói hắn cù lần?
- Còn khuya, chàng cá không cù lần nhưng không bao giờ ác độc đang tâm vò nát những cánh hoa đẹp trước mặt một người con gái.
Viên ngẩn người rồi bỗng đâm bướng:
- Tôi đã có người trong tim thì tôi đâu cần phải lấy điểm.
- Nhưng ít ra cũng phải giữ phép lịch sự tối thiểu chứ? Hoa để ngắm chứ đâu phải để đám đàn ông dày vò.
Có thể Viên sắp chịu thua vì đôi mắt buồn trũng đã rũ đôi mi. Hắn ấp úng:
- Xin lỗi, tôi không cố ý. Hơn nữa, nếu đã ngồi lên được thì vò một cánh có sao đâu.
- Hoa là một loài thực vật nhưng không có linh hồn. Anh xem, buổi trưa nó cười vui rộn ràng nhưng chiều xuống khi sương mù bao phủ trông nó như muốn khóc. 
Viên nhìn vào đôi mắt cô gái:
- Và mỗi chiều cô ra đây để khóc với hoa?
Thiếu nữ kéo giỏ hoa ôm sát vào ngực như dợm đứng lên:
- Ông hỏi tò mò đấy nhé! Tôi phải về vì trời đã sắp xuống.
Viên thở dài tiếc rẻ:
- Mai mình gặp lại ở đây.
Nàng thờ ơ:
- Để làm gì?
Viên nhìn chằm chằm vào giỏ hoa rồi bỗng nhiên buột miệng:
- Để nhìn lốc hoa vàng.
Thiếu nữ nhìn sửng Viên, mặt nàng đang hồng bỗng biến tái xanh. Không gian như ngừng lại cho đến khi nàng ôm ngực chặng câu hỏi tắt nghẹn:
- Sao ông biết lốc hoa vàng?
- Của một cô bé có chiếc áo đầm cánh tiên bày cho tôi.
Đôi mắt nàng mở tròn trông như rất quen thuộc, khiến Viên bắt buộc phải tận dụng trí nhớ. Kỷ niệm xưa lại trở về... Bên dốc cầu Hội Phú giọng Thao sũng ướt:
- Nhớ viết thư nha!
Viên hùng hồn:
- Là cái chắc, đi học vẽ mà buồn gì. Vài năm sau trở về vui phải biết, sẽ có vô số quà cho Thao.
Chàng đã bỏ lối xưng hô “đằng, tớ” từ khi biết mắc cỡ, Viên bẹo má Thao:
- Mình sẽ là đôi bạn thân đến muôn đời.
Rồi Viên theo anh chị về Sài Gòn. Cậu bé mười ba tuổi dễ quên cảnh ướt át, quên những lời hứa hẹn. Thư từ bặt tăm, sau một vài lần chợt nhớ Viên lại bào chữa:
- Chắc địa chỉ đã thay đổi rồi.
Và rồi Viên đã quên hết chỉ còn đôi mắt trong bức tranh. Đôi mắt tròn to ngơ ngác. Viên bật thốt:
- Thao phải không?
Giọt nước mắt vỡ ùa, rồi như rất tự nhiên. Tự nhiên trong ảo giác cả hai chạy đến trong vòng ôm xiết chặt, bằng tận cùng cảm xúc. Niềm mất mát như vừa tìm thấy . Bây giờ, Viên mới thấy rõ tiếng réo gọi trở về, không hẳn chỉ riêng rừng núi mà từ đôi mắt của con bé trên đồi vàng. Giờ đây, vòng tay như một níu kéo nương tựa. Viên thì thầm:
- Em còn nhớ những lời hứa ngày xưa không?
Thao buông Viên ra khẽ gật đầu. Viên tiếp lời:
- Như đôi bạn thân nhất đến muôn đời.
Thao im lặng nhưng đôi mắt đã trả lời tất cả. Đôi mắt ẩn chứa cả bầu trời thương nhớ, qua màn mỏng sương mù nó đang nhảy múa reo vui hòa cùng đám quỳ vàng bứng lên một sức sống.
- Em vẫn hái hoa để tìm lốc hoa vàng?
- Tìm về kỷ niệm thì đúng hơn, mỗi ngày em hay ngồi đây.
Viên vuốt ve bàn tay gầy guộc của người yêu, rồi áp lên ngực mình:
- Anh thật đáng trách vì đã bỏ quên một mối tình.
- Bù lại chàng cá đã trở về.
Viên kéo Thao cùng ngã dài trên đồi.
- Nó về và ở bên em mãi mãi. Vì em là nước.
Giọng thao rộn ràng trong cảm pha trò:
- Em là nước mắm sẽ kho chết con cá.
-  Chết từ lâu rồi.
- Sạo không à!
- Thật, chết từ lúc gặp hũ nước mắm ngồi trên đồi với chiếc áo lụa mỏng.
Thao nói lớn:
- Thôi đi, tình yêu cá mắm nghe ghê quá.
- Vậy mình nói chuyện khác nhé!
-  Ừ.
- Cho anh hôn em.
Thao nằm nghiêng qua một bên úp mặt giấu trong hai cánh tay.
- Muốn chết phải không?
- Ừ.
Viên chồm qua kéo Thao ép vào lòng mình trong khi nàng co rút như con tôm luộc mặt không còn sắc máu. Viên lay mạnh, giọng hốt hoảng:
- Em sao vậy?
- Đừng, để em nghỉ.
Viên kéo Thao nằm gối đầu trên đùi mình với mộng thoáng lo ngại.
- Em ốm yếu mà cứ hóng sương hóng gió thế nào cũng bệnh là phải. Để anh đưa em về tiện thể thăm hai bác luôn.
Thao lắc đầu, nàng dụi đầu vào trong ngực Viên và vòng tay qua cổ xiết chặt. Viên rùng mình, mùi hoa và mùi da thịt trinh nữ tỏa ra ngất ngây. Chàng muốn nhắm mắt lại để thu gọn hình ảnh trước mặt, hình ảnh người con gái với một mối tình, hình ảnh của núi đồi cao nguyên. Không ngờ ngày về lại là một ngày tuyệt vời nối tiếp cho hết cuộc đời còn lại.
Một thoáng bên nhau qua nhanh như cơn gió thoảng, Viên luyến tiếc những ngày vui bên Thao, bên con suối mọc đầy hoa cần nước. Rồi những lần ngồi xì xụp tô bún bò nhà xác, nó cay xé lưỡi nhưng đượm vẻ ân tình. Nhìn Thao lặt từng lá húng, bỏ từng gắp chuối non, nhìn dáng vẻ nhu mì hiền lành như một người vợ. Viên thấy không còn chần chờ gì, phải xin cưới Thao ngay lập tức. Viên tỏ ý định mình cho gia đình và được chấp thuận dễ dàng. Với gia đình Thao, chàng được coi như con rể, được ăn những bữa cơm do chính nàng nấu nướng. Bữa cơm thanh đạm với những miếng đậu hũ chiên vàng dằm mỡ hành, vài con cá trê nướng chấm mắm gừng, hoặc dĩa rau sống xanh tươi. Chẳng hiểu khí trời mát mẻ, đồ ăn lạ miệng, tại lòng Viên vui, hay tại tình yêu cuốn hút mà Viên ăn không biết no. Thao bảo chàng ăn như ma đói. Những lúc chỉ có hai người bên mâm cơm, Viên đánh liều ghé sát vào tai nàng:
- Em nói sai rồi. Hôn như ma đói.
Thao thẹn làm mặt nàng đỏ bừng như uống rượu.
- Ngồi im không thôi té bây giờ.
Nàng ngơ ngác:
- Sao vậy?
- Tại anh bị say... tình.
Thao buông đũa, chạy đến dụi mặt vào lưng Viên.
-  Định trả thù hay sao mà chùi miệng dơ vào áo anh vậy?
Có lẽ nàng nghĩ bàn tay gầy guộc kia sẽ là sợi dây thừng buộc cứng không cho Viên cựa quậy nên bắt đầu bông đùa:
- Chùi cho sạch để hôn anh.
Viên chỉ nhích khẽ người, sợi dây đã tuột ra, tay chàng vòng ra sau:
-         Lần này bé con đòi hôn đó nhe!
Những bộc lộ khao khát của hai kẻ yêu nhau như đã bị nổ tung từ ánh mắt, nụ cười, và những lần hò hẹn. Mỗi lần gặp gỡ là mỗi kỷ niệm vun đắp cho hạnh phúc. Nhưng rồi Viên phải tạm chia tay để về thu xếp chuyện đám cưới. Hôm về Saigon, Thao bịn rịn tiễn chàng với một giỏ cây rừng.
- Toàn những thứ ngày xưa mình ăn chung với nhau.
-  Có hột bàng nữa chứ.
- Ừ, nhưng phải ăn hộ em nữa hột còn lại.
- Còn trái xay?
- Phải ăn cả vỏ và hột như em vẫn ăn.
- Eo ơi khiếp quá, lớn rồi mà vẫn còn thích ăn ve chó.
Viên đưa giỏ trái cây lên hít hà:
- Thiếu một thứ.
-  Có cả bánh bò và trái trâm cho anh.
-  Thiếu tô bún riêu ở rạp hát Diệp Kính nữa.
Thao cười sung sướng:
-  Không ngờ anh nhớ dai quá.
Viên cũng cười trong ánh mắt người yêu:
-  Càng nhớ thì càng khó xa người ta.
- Em sẽ viết thư cho anh mỗi ngày một lá.
- Đừng một tuần một lá. Thời giờ còn lại để nghỉ ngơi và ngủ. Anh không thích vợ anh ốm tong teo như con mắm.
Thao cười khúc khích:
- Ốm để bồng cho nhẹ.
- Nhưng ôm không đã.
Thao tặc lưỡi trong cổ họng và mặt đỏ rần. Họ dừng lại trên đồi hoa vàng. Buổi sớm sương chưa tan đều, màu áo tím xẫm nổi bật làn da tái xanh, tuy đôi mắt vẫn tròn lay láy. Viên lo ngại:
- Chịu khó uống thuốc bổ đừng để anh phải lo lắng mỗi ngày.
Trong vòng tay Thao tựa đầu vào vai người yêu:
- Đừng nhìn thì đâu biết em như thế nào.
-  Anh không nhìn bằng mắt.
- Nhìn bằng óc?
- Bằng con tim, mình đã có cùng một nhịp đập, một hơi thở, hơn nữa chúng ta đã hòa nhịp nên anh đọc được tất cả những ý tưởng trong đầu em.
Thao ngước mắt nhìn sát vào mặt Viên?
-  Vậy chứ đố anh em đang nghĩ gì?
Viên không thể trả lời, ghì chặt nàng trong yêu thương chất ngất, giữa khung cảnh tuyệt vời. Viên thấy lòng mình chùng lại, mọi ý tưởng ra đi như muốn rũ bỏ. Người con gái của núi rừng như có một sức hút mãnh liệt, như một khối nam châm cực mạnh mà chàng chỉ là những mảnh sắt vụn li ti. Lòng chàng đã mềm yếu, giờ thể xác lại rũ tan nếu không có giọng buồn bên tai thoảng tới:
- Em muốn được khóc.
Viên đẩy Thao ra để xua đuổi xúc động vương nơi mắt.
- Em về đi kẻo lạnh.
- Cho em đưa anh ra bến xe.
- Ở đó buồn lắm.
Thao kèo nài:
- Cho em theo một quãng.
Viên cứng rắn:
- Không!
Giọng nàng sũng ướt:
-  Anh...
Viên chùn chân.
-  Anh không đi nữa, đám cưới mình ngay em chịu không?
Thao quay đi, dấu đôi mắt long lanh:
- Em chỉ gọi thôi mà.
Viên choàng vai nàng vỗ về như ru ngủ:
- Chóng ngoan về đi em.
- Em chỉ muốn nói...
-  Anh yêu em.
- Biết rồi, nhưng...
- Bé con, muốn anh hôn phải không?
Từng giọt lệ vội lăn theo đôi mắt nhắm nghiền chờ đợi. Ngắm nhìn vẻ ngây dại của nàng trên đôi môi chín mọng, mang vẻ đẹp huyền hoặc của núi rừng Tây Nguyên, trên bộ quần áo còn ẩm ướt, da thịt của nàng như còn đọng hơi sương, còn đọng lại những hạt nước như những hạt trân châu tiễn biệt.Tôi bối rối ... giã từ vùng đất ấy...
Ngày ... tháng ... năm...
Anh thương yêu.
Lần đầu tiên viết thư tình, ngượng quá. Hơn nữa, ý tưởng cứ dồn dập trong khi bàn tay em chậm chạp như rùa, rủi nó bò ngang, bò dọc, bò ngược, bò xuôi anh cũng đừng cười nha. Em đâu phải là họa sĩ đại tài như anh mà mỗi nét bút là một sinh vật sống. Cũng chẳng phải là thi sĩ để mỗi câu anh phải dừng lại để suy nghĩ. Con người em đơn giản, ý tưởng lại chân thật nếu không muốn nói là quê mùa. Nhiều khi em tự hỏi tại sao anh lại yêu em quá say đắm trong khi bao tháng ngày đã quên lãng. Em tin rằng khung cảnh thơ mộng nơi tỉnh lỵ bé nhỏ này đã không toa rập để làm anh ngẩn ngơ lầm lẫn cứ nghĩ như mình đã yêu em. Em không có kinh nghiệm tình trường, không có vốn liếng học thức tương xứng, cũng không có những ăn diện lộng lẫy, xinh đẹp như mấy cô gái ở Sài Gòn. Nhưng em có một tấm lòng hiến dâng và một tình yêu bất diệt. Bằng đó đủ để mình tạo hạnh phúc gia đình? Anh cười vì cho là em đơn giản quá? Nhưng anh hiểu từ nhỏ cho đến khi khôn lớn, em đã hấp thụ những chất phác mộc mạc của những người sống quanh em. Họ như anh em ruột thịt đùm tụ lại chung sống dưới một đại gia đình ở vùng cao nguyên đất đỏ nghèo nàn này thì anh sẽ hiểu tại sao em lại có một lòng chung thủy và một yêu thương tha thiết. Và cũng có thể em đã nhìn qua hình ảnh của thầy mẹ để tưởng tượng ai cũng như ai. Có lẽ cuộc sống êm đềm hạnh phúc của gia đình cho em một tin tưởng tuyệt đối. Em nghĩ một người vợ hiền săn sóc thương yêu chồng, chăm lo cho con cái là họ đang được hạnh phúc. Chẳng khi nào em nghe thầy mẹ to tiếng. Có lẽ tại mẹ hiền. Em lại giống mẹ, vậy mà thỉnh thoảng những người bạn thân đến nhà chơi cứ lén nhìn em ra điều ái ngại. Họ nói nhỏ với mẹ, số em sau này cũng lận đận hay chết yểu. Lúc trước em nghĩ nếu anh không trở lại em sẽ ở một mình làm gái già cơm nước cho thầy mẹ, thì làm sao lận đận được. Và khi gặp lại anh, em thấy tình mình êm đềm trong sáng như một giải lụa mềm trải trên thảm cỏ xanh mướt. Em tin rằng giải lụa đó sẽ dẫn đưa chúng mình đến một chân trời mới. Nơi đó chỉ có ánh sáng, tiếng cười và những rộn ràng yêu thương ...
Anh yêu,
Em vừa uống thuốc bổ xong, ngày hai viên. Giờ đã gần năm giờ chiều. Tháng mười hai sương xuống nhiều che kín cả núi đồi, đâu đâu cũng giăng mắc màu trắng đục. Từ cụm trắng xóa, làm em có cảm tưởng như những cánh dù bằng hoa bông goòng khổng lồ mà chấm đen của nụ là hai đứa tụi mình. Thật tuyệt vời anh ạ! Trên không trung lơ lững em bám chặt vào người anh gọn gàng như con chão chàng gầy gò mà anh vẫn trêu chọc. Người anh là khối than hồng và hơi thở là những ngọn lửa đốt cháy thân xác em đang hừng hực nóng, gió không đủ làm em lạnh nhưng mây dập dềnh để em thấy lòng lâng lâng bay bổng. Em không thể ngờ được ôm anh em lại sung sướng đến thế. Thiên hạ có cảm thấy như em khi họ đang yêu. Hay em đã thần thánh hóa mối tình? Cũng có thể chỉ vì anh thánh thiện; ngày xưa mỗi lần nghe kể về những chàng trai ở Sài Gòn, tụi bạn đều lắc đầu. Bay bướm một cây, đi đến đâu, để con rơi, con rớt theo đấy. Không ngờ anh chỉ là một cục bột – cục bột được cắt hai. Phân nữa linh hồn bị trói ghì ở nơi quê hương yêu dấu, nơi đã đúc kết cả chuỗi ngày thơ dại đã nặn hình hài thể xác, còn phân nữa của tuổi trưởng thành, của những hoạt bát và giao tế.
Anh yêu, mẹ bảo em như người sống trên cung trăng, ngơ ngơ ngáo ngáo, miệng lúc nào cũng chỉ chực cười. Em hỏi lại: vậy hồi xưa mẹ có như con không? Thầy giành ngay lấy câu trả lời: Còn hơn thế nữa. Thì ra em đã có đồng minh, tuy không cùng chung lứa tuổi nhưng chung một giòng máu, một huyết thống và một tư tưởng. Anh ráng giống thầy nha anh. Thầy hiền lành và chìu mẹ hết lòng. Em muốn được anh thương hơn, và khi đã thương muốn gì mà chả được phải không anh? Anh lại cười ngạo nửa rồi. Thôi không viết nữa kẻo lại bảo dặn dò gì kỹ thế, như con gái sắp về nhà chồng, mà không phải thế sao. Tín chỉ còn có hơn bốn tuần nữa để thu xếp. Anh nghe em đừng mua sắm những thứ quá mắc tiền. Tuy đời người chỉ một lần, nhưng nó chỉ là hình thức, là cái vỏ bên ngoài mà có ai sống được mãi với cái hào nhoáng ấy. Cũng đừng để mẹ sắm hột xoàn cho em. Gái quê mà đeo thứ ấy thiên hạ cười chết. Hơn nữa dù không có vòng vàng rổn rảng thì đám cưới mình cũng nổi bật nhất ở đây vì anh xem cả tỉnh lỵ này có chú rể nào được hơn anh.
            Anh yêu. Mình để dành tiền đó làm vốn nho nhỏ. Tự dưng em lại thích có một đồn điền cà phê. Anh nhớ đồn điền của cụ Trương không? Sầm uất và phát tài ghê nơi. Cả chục mẫu dài thẳng thắp nhìn muốn mát mắt. Em muốn ăn lớp màng mỏng bên ngoài của trái cà phê khi nó ửng đỏ nhưng như thế sẽ mất nguồn lợi, em cũng thích ngửi cái mùi khét khét thơm thơm khi rang, trộn thêm với bơ nhưng lại e ngại lỡ anh ghiền nó hơn em thì khổ. Hay mình trồng thuốc lá anh nhé! Mà thôi, thuốc lá rất hại cho sức khoẻ, thiên hạ chưa sao mà anh đã bị nám phổi trước. Vậy thì mình mở nông trại chỉ nuôi toàn ngựa đua. Chiều chiều em và anh phóng lên lưng hai con khoẻ nhất chạy lên rừng mà đua thì tuyệt. Nói thế chứ chỉ sợ anh mở trường đua lại sinh ra cờ bạc, cá ngựa thì quá tội. Thôi thì anh làm chồng em làm vợ cho xong, chẳng phải tính toán chi cho cực khổ. Đi làm về, anh có người lo cơm nước, quần áo. Bù lại, làm vợ cũng có nhiều cái thú. Được giữ hết tiền bạc, lại được anh yêu thương nuông chiều ai mà không khoái.
Ngày ... tháng... năm...
Anh thương yêu.
Nghe lời anh khuyên một tuần mới viết một lá. Chẳng phải lười nhưng anh có tin rằng chỉ nhớ đến anh người em đã như rũ liệt, chân tay như bị ai chặt đứt, xương cốt cũng nát tan. Nhớ một cách kỳ lạ mà theo em bệnh nhớ, chắc chắn do một siêu vi trùng hình nhọn góc nằm sẵn trong mạch máu của mỗi con người. Khi trí óc lười làm việc, vi trùng nhớ ngang nhiên hoành hành, nó ùa ra xông xáo, gặp đâu phang đó. Toàn thân em đang nhói đau, từ mười đầu ngón tay, mười đầu ngón chân, chạy vào ngay đám ruột cho chúng đảo lộn hết một lượt mới dừng lại ở tim. Tim là trung điểm để chúng tụ họp vào thao lược binh tướng. Em chỉ có nước nằm lăn ra giường ôm gối mà... khóc. Con người ta khổ quá cũng khóc, sung sướng quá cũng khóc. Chả trách gì khi xưa anh cứ ngạo em là con bé mít ướt. Nhưng nhờ thế em mới bắt nạt được anh một cách công khai không cần xin phép và cũng nhờ thế em mới được những buổi đi coi hát chùa, được ăn hàng chùa và được anh thí dỗ chùa nữa chứ. Tuổi trẻ dễ yêu ghê anh nhỉ? Không ngờ con bé mít ướt mười ba tuổi đã biết yêu. Yêu say đắm, yêu cuồng nhiệt để giờ này cứ nhìn trời, nhìn mây mà thẫn thờ. Còn ba tuần nữa thôi mình lại có nhau. Tim em chỉ chực đứng lại không chịu đập nữa khi nghĩ đến ngày ấy. Chắc chắn phải là tuyệt vời. Anh ạ! Tự dưng em lại có ý nghĩ sau đêm tân hôn hai đứa nằm ôm nhau chết cứng. Cuộc sống đời sau mới là vĩnh viễn. Mình mang tình yêu như lửa nung về bên kia thế giới sẽ không có ai giành giật hoặc chiếm đoạt anh của em. Em ích kỷ và tham lam quá, chưa được cái này đã chụp bắt cái kia, nhưng nếu anh hiểu em yêu anh thế nào thì cũng đừng trách em anh nhé!
            Anh yêu. Núi đồi cao nguyên hiền hòa, thân tình, lúc nào cũng được kết chặt, những cơn mưa phùn bay lất phất và cơn lốc xoáy chỉ mang đến những hình ảnh thơ mộng nhưng tình yêu con người là một ngọn sóng trào dâng. Tình em cho anh không bao giờ dứt. Em yêu anh và yêu vô cùng tận kiếp.
            Đọc thư anh, nhắc đến bánh bèo khu tu bổ làm em thấy thèm chảy nước miếng. Nhớ hôm nào hai đứa chở nhau trên chiếc xe đạp cũ kỹ. Dọc đường phải đứng lại sửa dây sên đến ba, bốn lần. Em đứng nhìn anh sửa mà vai áo em, má môi dính đầy mỡ bò đen thui làm thiên hạ cứ nhìn em tủm tỉm cười. Anh chọc quê em đến thế thì thôi. Nghe lời anh em không đi ăn một mình, để có ốm như con mắm thì anh ráng mà ôm, đau tay ráng chịu.
            Anh yêu. Chiều nay lén anh, em ra đồi quỳ, từng cơn lốc thật thấp và thật lâu, nhưng em không có hoa để tung lên. Em không tiếc vì dù là điều mơ ước thuở còn nhỏ của hai đứa mình, nhưng giữa hoa và tình yêu em đã chọn một để giữ trọn linh hồn và yêu thương theo cơn lốc mang đến anh. Anh nghe thấy không, tiếng gió đang gọi tên anh, tiếng thác nước róc rách làm em liên tưởng tới hôm nào mình tắm ở Biển Hồ. Em như tiểu thơ bám vào thân chuối trơn trợt từ đâu trôi lại, Anh cười toáng lên ngạo, nhưng em nhất định không bỏ vì chọc tức anh “thà ôm nó còn hơn anh”. Nó đâu có chân, có tay có mắt, có mũi thì em đâu có nhột. Viên ơi em dừng đây. Tim em như muốn đứng lại thật.
Ngày... tháng... năm...
            Anh thương,
            Còn hai tuần nữa, biết được ngày anh và gia đình xuống, thầy mẹ đã sửa soạn sẵn sàng. Lũ bạn em cũng lục đục đi mua quà mừng. Chúng hỏi em thích gì, em bảo tao là người vợ thích đủ thứ, muốn cho gì tuỳ ý. Cái nào không xài được tao để dành cho đám con tao. Chúng hỏi em thích mấy đứa. Em hiên ngang “hai mươi” tụi nó ré lên cười. Còn anh? Sợ không? Em nói thật đó. Chắc chắn em sẽ nặn ra mười đứa con gái giống em và mười thằng con trai giống anh như đúc. Để cả không gian này, vũ trụ này và trong căn nhà ấm cúng tràn ngập hình ảnh anh. Anh đừng chê em ốm như con mắm nữa nha! Bé người ta còn tham cỡ đó. Mập chút nữa em đòi bốn mươi nhóc tì chỉ ốm nghén thay em anh cũng đủ hết thở.
            Anh yêu, mình xa nhau đã ba tuần, ba tuần chịu được thì mười bốn ngày nữa có ăn thua gì. Đừng nghĩ ngợi sanh bệnh mà đình đám cưới lại thì khổ. Ráng nghe anh, đám cưới mình xong đi hưởng tuần trăng mật. Anh muốn nơi nào? Đà Lạt? Vũng Tàu? Huế? Riêng em, Pleiku sẽ là chuỗi ngày dài trăng mật cho đến mãn đời. Anh cười vì ngôn ngữ của em? Không lẩn thẩn đâu. Anh xem, còn nơi nào bằng quê hương của mình. Hơn nữa, nơi đây đã có với chúng mình hàng triệu kỷ niệm, đã làm cho em có và yêu anh thì cũng nơi đây sẽ chôn thân xác em khi mình mất nhau. Đừng lo lắng quá mà gieo vào đầu những ý tưởng khủng khiếp. Từ khi yêu anh, em hay lầm lẫn giữa thực tại và mộng, mộng là thực nhưng chuyện anh kể chắc chắn không thể xẩy ra.
            Anh yêu. Viết đến đây em thấy nóng hừng hực nơi mặt, ngực khó thở quá. Em bị mệt tim từ xưa, chắc anh không còn nhớ. Nhưng thôi, em cần phải lên đồi quỳ ngay bây giờ. Hẹn anh thư sau.
Ngày ... tháng ... năm...
            Anh thương yêu,
            Chiến sự đã thật sự bùng nổ, cả một không khí kinh hãi bao trùm lấy tỉnh lỵ, mọi người đều đã chuẩn bị gồng gánh để di tản khỏi Pleiku, nghe nói Pleiku trước sau gì cũng mất như Buôn Mê Thuột. Đồng bào ở Kontum và ở các nơi dồn về đây mỗi lúc mỗi đông, tất cả đều như chờ lệnh để rời xa nơi yêu dấu.
            Em lo quá, ngày hôm qua, khu chợ mới lại bị đốt cháy, kế tiếp là những khu quân sự. Tiếng bom nổ inh tai, cháy rực cả một vùng trời, hình như họ muốn phá hủy tất cả để sẵn sàng cho một cuộc rút quân. Trước nhà mình, một đoàn xe nối dài, không thiếu một loại xe gì, từ một chiếc xe ba gác, xích lô, xe đẩy hàng đến những chiếc xe vận tải chất đầy hàng, đồ gì đem theo được họ đều mang theo, mọi người đứng ngồi la liệt trên lộ trình, chưa bao giờ em thấy Pleiku đông người như mấy ngày hôm nay.
            Thầy mẹ lúc đầu không muốn đi, cứ do dự mãi, ai cũng luyến tiếc tỉnh lỵ này, nhưng sau thấy em như người sắp chết và hai bác đã hết lòng khuyên giải, nên thầy mẹ em đành phải cam lòng đi, mọi chuẩn bị đã sẵn sàng. Hai gia đình sẽ đi chung với nhau, nghe mẹ anh bảo, nếu vào được Sài Gòn, thì gia đình em sẽ ở tạm chỗ anh, vì như anh biết, gia đình em đâu có thân thuộc ở Sài Gòn trừ anh. Gia đình em ngại lắm, nhưng đâu còn cách gì hơn. Nghĩ cho cùng, trước sau gì cũng là chỗ xuôi gia với nhau. Riêng em thì vui lắm, nghĩ đến ngày gặp anh, nhưng giờ thì em đang lo sợ cho cuộc di tản này, con đường độc đạo để có thể rời khỏi Pleiku không phải là đường quốc lộ 19, mà là tỉnh lộ 7 như anh đã rõ, tỉnh lộ này không được khai thông từ thời Pháp thuộc, giờ phải phá rừng, gỡ mìn, tránh bom đạn và đường đi đầy gian nan hiểm trở, chưa kể những bất trắc lúc nào cũng có thể xẩy ra.
            Em không dám nghĩ đến điều may rủi, bởi vì em tin rằng Trời Phật không nhẫn tâm chia rẽ tình ta và hủy hoại những người dân lương thiện của vùng cao.
            Anh cũng đừng quá lo, không bao lâu nữa, mình sẽ gặp nhau, đám cưới mình tổ chức ở Saigon cũng được, đơn giản thôi, có đông đủ hai gia đình là vui rồi. Và nhớ nghe lời em dặn, đừng dại dột mà ra đây thì nguy hiểm lắm.
            Hôn anh triệu triệu cái, thương anh, thương thương vô vàn.
Viên nhận được lá thư, cũng là ngày mà Pleiku đã rơi vào tay cộng sản, không một do dự, chàng xoay sở mọi cách để mua vé máy bay ra Tuy Hòa đón gia đình và Thao. Lòng chàng như lửa cháy, vừa đến phi trường, là Viên đón xe ngay đến trạm tỵ nạn đầu tiên. Ở đó, đã có một số người quen ở Pleiku mà Viên nhận ra, khuôn mặt người nào cũng tiều tụy, hốc hác, mọi người như đang trải qua một cuộc di tản kinh hoàng. Một vài gia đình kêu khóc thảm thiết, thương tích đầy người, vợ xa chồng, chồng xa vợ, con mất cha, người mất mẹ, kẻ thất lạc, từng chiếc khăn tang quấn tạm còn đầy bụi đỏ, ướt đẫm máu bầm.
Viên như chết lịm người, chưa bao giờ chàng chứng kiến được cảnh này. Dù cố bình tĩnh và trấn an lấy mình, nhưng Viên đã không cầm giữ được những giòng lệ nghẹn ngào đang tuôn trào. Viên cảm thấy lo sợ thật sự, khuôn mặt chàng đầy hớt hãi, chàng cố gắng lần tìm và thăm hỏi từng người về người thân của mình. Trong thời gian này, Viên đã hết lòng chăm sóc và chia xẻ những người tỵ nạn khốn cùng.
Một ngày trôi qua trong tâm trạng tuyệt vọng, Viên đứng ngồi không yên, chàng tìm mọi cách để có thể đến được tận nơi mà đoàn người di tản đang muốn vượt qua. Nhưng không một ai, không một phương tiện nào có thể đáp ứng được nguyện vọng của chàng. Người ta đang cố gắng để cứu thoát đoàn di tản ra khỏi chỗ tử thần, thì chàng lại muốn lao đầu vào chỗ chết. Viên chỉ biết đợi, đợi và nguyện cầu.
Ngày thứ ba cũng là ngày đoàn người di tản đến Tuy Hòa nhiều nhất. Từ sáng sớm Viên đã đứng đợi ở trạm đến. Viên hét to mừng rỡ, ba mẹ, các em của Viên và gia đình Thao đã đến đông đủ, Viên òa khóc ôm chặt từng người, nỗi vui mừng chưa được bao lâu thì Viên khám phá ra còn thiếu Thao.
Mẹ Thao ôm Viên khóc nức nở, Viên thấy choáng váng mặt mày, cả bầu trời như muốn sụp đổ, cảnh tượng thê lương hiện đến với chàng. Viên không thể tin được là Thao đã chết, hay mất tích trong rừng thẳm... Viên không thể nào – không bao giờ Thao lại xấu số như thế, Viên kêu lên trong đau đớn tận cùng: Thao, anh không thể mất em, ngày đám cưới của chúng ta đã kề cận, em phải là người vợ mẫu mực của anh, suốt đời này anh mãi mãi chỉ có em duy nhất mà thôi. Anh phải làm sao đây? Thao, em nghe anh không? Anh yêu em vô cùng, mãi mãi và muôn đời em biết không?
Rồi Viên im lặng, lặng lẽ cùng gia đình bước đi như một đoàn người đưa đám tang. Nán lại Tuy Hòa thêm vài ngày nữa để có tin tức gì của Thao, rồi cuối cùng mọi người cũng đành phải tìm phương tiện về Sài Gòn. Thật ra, thì Thao đã chết bởi một lằn đạn oan nghiệt trong lúc hai bên đang giao tranh, mọi người chỉ kịp lấp vội một cái hố bom để chôn nàng, vì không muốn Viên tuyệt vọng, nên nói là mất tích. Mọi chuyện như một an bài, một định mệnh khốc liệt của dân tộc. Chiếc xe đò đưa hai gia đình về Saigon, mỗi tỉnh lỵ, mỗi thành phố đi qua là mỗi nỗi niềm bỏ lại, đâu đâu người ta cũng chuẩn bị để di tản. Viên gục đầu buồn bã, chàng biết rằng kể từ giây phút này, chàng mất tất cả tình yêu – quê hương đã rời xa theo vòng quay của bánh xe, lòng chàng tan nát...
Nghe lời khuyên của mẹ, Viên không thể về lại Pleiku dù chàng rất muốn tìm mảnh đất đã vùi thây thân xác củaThao. Ở trong tuổi nghĩa vụ quân sự, không có một hộ khẩu thường trú, Viên sống lẩn trốn như một tên tội phạm. Bất cứ giá nào chàng cũng phải vượt biên, phải vạch định một tương lai ở bất kỳ một đất trời xa lạ, bởi vì đất nước này đã không cho chàng một chỗ dung thân, một nơi trú ngụ. Mọi người đã trở thành phế nhân, và Viên cũng đã mù lòa, câm điếc cùng họ.
Sau mười ba lần vượt biển, bị giam cầm ở nhiều nơi. Cuối cùng thì Viên đã đến được bờ tự do cùng với hai em nhỏ. Thời gian đầu như bao nhiêu người khác, Viên không nề hà bất cứ một công việc gì để độ nhựt. Chàng hiểu được cái giá phải trả cho sự ra đi, cái ý nghĩa đích thực mà gia đình kỳ vọng ở nơi chàng. Trước những thử thách, những thay đổi ở cuộc sống mới, đã không làm cho Viên lung lạc được ý nghĩ, Viên giữ vững được niềm tin son sắt và quyết tâm đeo đuổi mục đích. Đó cũng là cái lý tưởng sống để chàng gạt bỏ được những mối ưu tư đè nặng từ bao nhiêu năm.
Tuổi trẻ Viên đầy những dung dự, đầy những toan tính cho một ước vọng. Chàng đã gần như quên hết những cần thiết cho nhu cầu tuổi trẻ, với chàng chỉ có một điều duy nhất là làm việc, làm việc mà thôi. Viên muốn đem hết khả năng của mình để làm những công việc hữu ích hầu xoa dịu phần nào những mất mát, những đau đớn vô ngần mà số kiếp lưu vong phải nhận chịu. Cái thành quả mà chàng có được ngày hôm nay không phải là điều may mắn bất ngờ đem đến. Viên đã đổ mồ hôi, đã quật ngã những khó khăn, đã chấp nhận mọi nghịch cảnh để đứng dậy, để trải rộng bước đi trên những đại lộ rực lối. Cái bản năng tự tạo là kim chỉ nam cho chàng, mặc dù đời sống của Viên có rất nhiều góc nhọn đau thương, góc cạnh của một người có tâm hồn đầy nhiệt huyết đã trói buộc chàng nhiều thứ, nhưng dù thế nào đi nữa, thì Viên đã đạt được phần nào niềm mơ ước.
Bao nhiêu năm sống ở Mỹ, chàng ước nguyện ngày đoàn tụ gia đình và được về lại quê hương để chính tay mình xây lại ngôi mộ cho Thao. Đã 10 năm trôi qua, quê hương vẫn im lìm, gia đình chàng vẫn còn kẹt lại quê nhà, và cái ngày mà chàng tự tay viết lên bia bộ Thao những giòng chữ như một tạc dạ khắc ghi đến người quá cố vẫn còn xa vời.
Từ mấy tháng qua, Viên trăn trở với giấc ngủ, nhiều đêm rồi chàng nằm mộng thấy mình về lại quê hương, được quỳ dưới chân mẹ để bày tỏ nỗi lòng nhớ thương sau bao nhiêu năm trời cách biệt. Đôi mắt mẹ rực sáng, chan hòa yêu thương âu yếm, nhìn đứa con trai yêu dấu của mình. Có đêm Viên thấy di ảnh của Thao rạn nứt như những đường gạch bằng máu vạch trên khuôn mặt của nàng, hình ảnh Thao chết thê thảm trong rừng sâu, xác thân nàng vỡ từng mảnh vụn, máu bắn tung tóe làm Viên chết lịm theo giấc mộng.
Viên không thể chần chờ được nữa, chàng phải về Việt Nam, chàng phải gạt bỏ những mặc cảm với mọi người chung quanh. Tự bào chữa mình bằng một hoàn cảnh chỉ về thăm nhà, tiện thể lo thủ tục xin đoàn tụ gia đình, chớ mình có làm điều gì sai quấy đâu, rất nhiều người đã về từ mấy năm nay kia mà. Nghĩ như thế, nhưng Viên cứ đắn đo mãi, vì chàng không muốn mọi người mất lòng tin nơi chàng, Viên phải đè nén tình cảm, hành động nông nổi của mình, có thể là một lưỡi dao vô tình cắm sâu vào những đồng bào khốn khổ nơi các trại đảo. Nhưng sao Viên thấy lòng rạo rực quá, mọi công việc Viên như muốn vứt bỏ, người bạn mới đi Việt Nam về cho biết cha Viên đang gặp nạn, càng làm cho ý định của Viên cương quyết hơn. Thôi thì đành vậy, ai nghĩ sao cũng được, Viên phải về, tại sao không? Từ lâu, Viên đã thề nếu phải chặt một cánh tay để được gặp gia đình, để tìm lại thân xác của Thao, thì Viên cũng chấp nhận mà, nhất là trong lúc này, người cha già đang bị giam cầm.
Rồi ngày đi cũng đã định, Viên thu xếp tất cả quần áo cũ mà chàng đã để dành từ mười năm qua, mỗi lần định vứt bỏ là mỗi lần Viên thấy tiếc nuối, mỗi bộ quần áo là những kỷ niệm của thời gian đánh dấu công việc thăng tiến của chàng, nên Viên muốn cất giữ mãi. Ba vali chưa đủ. Viên tham lam nhồi thêm một vali nữa. Cái gì ở Việt Nam cũng quý hết, chịu khó một chút đâu có sao. Tự nhiên Viên cười với cái ý nghĩ khôi hài vừa hiện đến, ngày nào đây mình còn là một tên Việt gian, được nhà nước chiếu cố tận tình đến nỗi họ không cho các em mình vào trường đại học, mà ngày nay khi về thì được gọi bằng hai chữ Việt Kiều, cũng là Việt cả mà, Việt gian hay Việt Kiều yêu nước đổi lại mấy hồi.
Chỉ mất gần hai giờ bay từ Bangkok đến Saigon, nhưng Viên thấy thời gian như ngừng lại, chiếc phản lực cơ 747 như muốn đậu lại trên không trung, hành khách hầu hết là người Việt Nam, ai cũng bồn chồn, mặc dù đèn hiệu buộc dây an toàn đã báo, nhưng mọi người như muốn đứng hẳn để nhìn xuống lòng đất mà trong chốc nữa đây họ sẽ đặt chân đến sau bao nhiêu năm cách biệt. Giọng người tiếp viên hàng không đã bắt đầu, chỉ còn mười phút nữa, mười phút nữa thôi, Viên sẽ như thế nào, mọi người sẽ như thế nào? Đã có những giọt nước mắt thấm ướt, khó ai mà cầm giữ được sự xúc động khi nhìn lại quê hương. Cảnh tượng xum họp đang hiện đến nơi mỗi người, họ đang bắt đầu sống lại với kỷ niệm và niềm nhung nhớ như một giòng thác lũ sắp được vỡ trào. Viên tự trách mình đã không thông báo cho gia đình ra đón, nói đúng hơn, chàng muốn dành một sự ngạc nhiên cho mọi người. Nhưng lúc này, chàng nghĩ phải thông báo cho gia đình thì đúng hơn.
Từ lúc máy bay cất cánh đến giờ, Viên không ngừng dõi mắt qua màn kiếng chắn để nhìn cảnh vật, lòng đất thân yêu đã từ từ hiện ra, con sông Đồng Nai đục ngầu chạy dài theo đường hạ cánh, từng mái nhà tôn lụp xụp, mọi thứ đều cũ kỹ, không có một kiến trúc gì tân kỳ của một thành phố mà đã có một thời được gọi là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Sự thụt lùi thấy rõ, từ trên không phận Viên có thể tưởng tượng những con đường, những con hẻm cụt, những nơi chốn đã nắm giữ phần đời trôi dạt của chàng.
Máy bay đang bắt đầu giảm tốc độ để hạ cánh, phi đạo lởm chởm những ổ gà, hình như không có một sự tu sửa nào cả, vẫn như thế, mọi vật đã lùi dần để thời gian trôi qua trong hoang tàn đổ nát. Trước mặt mọi người hiện ra một đất nước nghèo khổ, nơi mà họ đã đành lòng ngoảnh mặt, cả ký ức nghẹn ngào hiện đến trong nỗi vui mừng lẫn lo sợ.
Khi tất cả những động cơ của chiếc máy bay đã ngừng hẳn, mọi người nhốn nháo xách sẵn hành lý để xuống vội phi trường. Ai cũng nôn nóng giành xuống trước. Bỗng dưng hành khách ngồi ngay ngắn trong ghế một cách rất im lặng, im lặng đến đáng sợ, khi có sự xuất hiện của hai người công an với khuôn mặt đen đúa còm cõi. Họ cố cười tươi với hành khách, nhưng cũng không xóa được cái ấn tượng đang có sẵn trong đầu mọi người, biết đâu chừng trong số hành khách ở đây, đã có một vài tên Việt Kiều là tội phạm trước đây không chừng. Ở trong một đất nước đầy dẫy những công an, thì mọi người dân ai cũng sẽ là tội phạm cả. Nhìn bộ sắc phục của họ là mọi người phát rét lên, tự nhiên Viên rùng mình, chàng như lo lo một điều gì, Viên cảm thấy mình hơi liều lĩnh.
Quang cảnh ở phi trường Tân Sơn Nhất vô cùng phức tạp, nó điêu tàn làm sao ấy, cái phòng vãng lai chật chội và nóng hừng hực như một kho hàng. Bao nhiêu cặp mắt cú vọ của công an và hải quan như bám sát từng người. Chúng như đoán được trong xách tay, trong quần áo của mỗi người có bao nhiêu tiền bạc mang về. Viên đã nhìn thấy được bên ngoài cả một rừng người chen chúc chờ đón thân nhân. Viên nghĩ thầm, không biết bao giờ người dân Việt mới hết lầm than, Viên thấy người Việt Nam đáng yêu quá, cả mấy người công an cũng thật tội nghiệp. Cuộc sống cả, hoàn cảnh đã đưa đẩy con người đến chỗ quên mất cái nhân phẩm của mình, sức mạnh của đồng tiền là thế, họ sẵn sàng ngửa tay xin từng đô la giống như những em bé ăn xin ngoài đường, kêu gào từng đồng xu lẻ.
Viên biết chắc là không có ai ra đón mình, cả những người bạn đi chung cũng vậy. Cả bọn đều đồng ý với nhau là tạo cho gia đình một sự bất ngờ. Nhìn ra ngoài thấy cảnh xum họp của mọi người, Viên đè nén những xúc động, nhưng hình như chàng cũng đã khóc, khóc cho ngày hội ngộ, khóc cho quê hương nghèo khổ. Nước mắt Viên ràn rụa, chàng hiểu ra được cái lý do mà người ta muốn về Việt Nam. Có những em bé chưa bao giờ biết mặt cha mình, có những người vợ đêm ngày thao thức chờ gặp mặt chồng. Tình ruột thịt, tình quê hương như sống lại trong họ. Viên hiểu rõ thêm, ai cũng có một tâm trạng như nhau, và chàng sẽ không cảm thấy hổ thẹn, phải gục đầu trước mọi người xung quanh vì chàng đã về Việt Nam.
Hành khách trên chuyến máy bay, cả mấy người bạn đi cùng Viên điều lần lượt được gọi ra làm giấy nhập cảnh. Riêng Viên, không hiểu sao đã hơn hai giờ đồng hồ rồi mà họ vẫn chưa gọi tên, có một cái gì đó không ổn, Viên nhắn gọn mấy lời cho người bạn đi cùng, nghẹn ngào trong câu nói, Viên khuyên anh nên làm giấy nhập cảnh, nếu có điều gì trắc trở, Viên không muốn mọi người hệ lụy.
Người khách cuối cùng vừa rời khỏi phòng đợi, đồng hồ đã điểm 11 giờ khuya, cũng là lúc Viên được mời vào một căn phòng kín. Nơi đây, Viên đoán được mọi chuyện xảy ra, có thể chàng sẽ bị giam giữ hoặc bị trục xuất, điều gì thì cũng sẽ xảy ra. Trước hết, đừng lộ vẻ khiếp nhược. Viên tự trấn tĩnh mình khi giọng ông Thượng úy công an đanh thép:
-  Anh vượt biển năm nào?
- Hiện anh đang ở đâu?
- Chắc anh biết lý do chúng tôi giữ anh?
- Tại sao anh chống đối chúng tôi?
Thật ra thì những câu hỏi của ông Thượng úy công an quá thừa, Viên gần như không muốn trả lời, vì khi xin Visa nhập cảnh, chàng đã khai đầy đủ không thiếu một chi tiết gì, chỉ có điều mà Viên không ngờ được là khi đã được cấp Visa thì chàng yên tâm họ đã chấp thuận cho về. Viên định hỏi tại sao? Nhưng chàng không buồn mở miệng. Hỏi làm chi! Luật pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà, tốt hơn hết là nên im lặng để được yên thân.
Viên lặng lẽ như một tên tội phạm theo chân người công an ra xe, mồ hôi chàng ướt đẫm cả áo chemise. Trời Sài Gòn đã vào Xuân nhưng vẫn còn oi ả, chàng cảm nhận ra cái không khí của quê hương trong u uất đè nặng, dáng vẻ mệt mỏi và rã rời, Viên bước lên xe, lòng chàng buồn vô hạn, chiếc xe Volkswagen cũ rích từ thời nào, chậm chạp rời khỏi phi trường, chỉ có lối ra là còn được thắp sáng bởi ánh đèn đường, còn xung quanh đều tối đen, cứ cách vài trăm thước là có một tủ kiếng chứa dăm gói thuốc lá nội hóa đang được bày bán bên vệ đường, cô hàng thuốc lá lơ đãng nhìn lên bầu trời không trăng sao, nhìn những gói thuốc vẫn còn nguyên vẹn như có vẻ thầm lo một ngày đã qua không đem lại một lợi nhuận. Cứ theo ánh lửa của ngọn đèn dầu quen thuộc, Viên biết chắc đó là sạp thuốc lá, gọi là sạp chứ thực ra nó chỉ là một tủ kiếng nhỏ khoảng ba bốn tấc vuông được đặt lên một cái bàn con. Nghề này rất thông dụng, vì ít vốn và có thể độ nhật được.
Trong tâm trạng rối bời, nhưng Viên cũng cố gắng nhìn ngắm mọi vật, chàng không bỏ sót một mắt nhìn nào, mọi thứ đối với chàng bây giờ như một khúc phim chiếu lại, tuần tự diễn ra trong ký ức ngậm ngùi, đau xót... Viên nhớ lại những ngày cuối cùng rời khỏiViệt Nam, cũng trong đêm vắng như đêm nay, chàng đến gõ cửa nhà một người thầy giáo để giã biệt, đôi mắt nhân từ của ông như một ân cần tiễn biệt cậu sinh viên ưu tú của mình.
Sài Gòn đêm 29 Tết chưa có dấu hiệu gì đón Xuân cả, ngôi biệt thự sang trọng ngày nào, giờ trông hoang phế, những tầng nhà san sát vào nhau, dù trong đêm vắng, Viên vẫn nhận ra được vẻ cũ kỹ của nó, hình như mọi người đều bỏ mặc, có chỗ trú ngụ là được rồi, cần gì phải sơn phết, sửa sang, đón Xuân năm nay cũng như mọi năm thôi, tiền đâu mà chỉnh trang, hình thức chừng nào thì càng làm cho bọn phường, khóm chú ý, buồn tình chúng tịch thu thì khổ. Viên không biết bây giờ gia đình chàng ra sao? Có ai biết được là Viên đang có mặt ở nơi này? Cứ mỗi dịp Tết là gia đình Viên nhộn hẳn lên, đêm giao thừa chờ cho tiếng pháo liên thanh hai mươi thước nổ dòn vừa dứt là mẹ năn nỉ các em đừng khóc, để mẹ làm ăn khá hơn năm cũ. Nhưng những phong bì đỏ vừa được mở ra thì đã có tiếng khóc inh ỏi, đứa chê ít, đứa phân bì. Mẹ dù có công bằng đến đâu thì cũng bị bọn nhóc đàn áp, chúng thích chơi trò tỉ tê con nít để vòi vĩnh, nên năm nào mẹ cũng phải lì xì hai lần thì mới vừa lòng bọn chúng. Đã gần hai mươi năm rồi, Viên không được ăn Tết với gia đình kể từ khi chàng về Sài Gòn ăn học và sau đó thì chàng vượt biên. Lần này, Viên tưởng có thể được về lại phố núi để hội ngộ gia đình ba ngày xuân.
Tiếng còi xe của người tài xế đưa Viên về thực tại, trước đầu xe, ba chiếc xích lô đang chơi trò biểu diễn chạy bằng hai bánh, chắc giờ này đã hết khách nên họ thử tài với nhau. Hình ảnh người phu đạp xích lô làm Viên nhớ lại khoảng thời gian Viên ăn ngủ không yên khi ngồi trên chiếc xích lô của một người bạn chở. Lúc nhỏ, Viên rất ngại đi xích lô, chàng thấy tội nghiệp họ thì đúng hơn, nó có vẻ giai cấp làm sao, nhưng sau này, nhờ vào lời khuyên của một người chú, Viên cảm thấy dễ chịu hơn. Bởi lẽ, nếu cứ nghĩ họ đạp xe tội nghiệp mà không đi thì càng khổ cho họ hơn. Ai cũng nghĩ như Viên thì chắc chắn mấy anh đạp xích lô chết đói hết, nhưng mỗi lần phải ngồi lên đoạn đường dốc hay qua một cái cầu là Viên tự động nhảy xuống đẩy phụ họ. Viên có một cái tật là khi đón xe xích lô, chàng hay hỏi giá cả vì thật ra phu xích lô cũng tùy người, có nhiều ông cũng hay bắt nạt khách hàng, nếu anh nào nói đúng giá, Viên sẽ thưởng thêm, còn mà thách giá thì Viên kỳ kèo cho bằng được. Một hôm nọ trời mưa lớn, Viên đón vội một chiếc xe xích lô, người phu xe ra giá Viên ưng thuận ngay, đoạn đường từ Nguyễn Thiện Thuật ra chợ Sài Gòn mưa xối xả, gió lại thổi ngược chiều, Viên chắc rằng người phu xe sẽ vất vả lắm. Trong tiếng mưa rơi, Viên nghe được tiếng hát nghêu ngao của người phu xe một bản nhạc Trịnh Công Sơn quen thuộc, chàng nghĩ,  người phu xe này cũng có một tâm hồn đầy nghệ sĩ, chắc là thân thế cũng không đến nỗi nào.
Xuống xe, Viên vội trả tiền và không quên gởi thêm số tiền “thưởng”, rồi chàng chạy nhanh vào chỗ hẹn... tình cờ một ngày kia khi đi ngang qua nhà một người bạn, Viên thấy có chiếc xích lô đậu trước cửa. Linh cảm cho Viên biết được người phu xe hôm nọ chính là anh ruột của người bạn thân, Viên ray rứt nhiều ngày, chàng sợ anh ta hiểu lầm là Viên đã quay lưng với tình thân sâu đậm mà hai gia đình đã gắn bó từ nhiều chục năm.
Một điều nữa là người phu xe trước đây là con của một vị Tướng quyền uy chức trọng, không có một buổi dạ tiệc sang trọng nào mà Viên không được mời. Gia đình anh ta rất thương yêu Viên như con trong nhà, Viên mong anh ta không nhận ra mình, nhưng không thể, tướng mạo mình đâu có gì thay đổi đâu? Viên hiểu được tâm lý con người, khi họ xuống dốc thì lòng họ đầy mặc cảm, có thể giờ này anh ta đang thầm trách Viên. Phải mạnh dạn đến nhà anh ta để nói rõ sự vô tình của mình, còn hơn là kéo dài sự ray rứt. Có thế thôi mà Viên đã buồn gần tuần lễ, tính của chàng là thế khi đã thân thiết với ai thì khó mà có sự đổi thay, càng không thể với người tình của mình. Đó cũng là cái bản chất của chàng, nên từ bao năm qua, vấn đề hôn nhân vẫn còn làm Viên lưỡng lự, hình ảnh Thao, Viên như chưa quên được; đời sống ở Mỹ dễ dàng tách rời quá, bao nhiêu gia đình ly dị, Viên không muốn trong đời chàng có một lần đỗ vỡ. Vợ chồng, theo Viên hiểu phải là một cái gì thiêng liêng lắm, nó quý giá vô ngần, và sẽ không bao giờ có cái gì thay thế được. Hạnh phúc là do chính mình tạo ra, hạnh phúc nó có thể đến trong một giờ, trong một ngày hay cả một đời, nhưng hạnh phúc đích thực là điều mình cảm nhận. Đó cũng là triết lý sống bất biến của Viên, khi cảm nhận đó là sự tuyệt vời.
Nghĩ đến ngày mai bị trục xuất, Viên cố xua đuổi những căn thẳng, những lo âu, chàng phải gượng ép vì biết đâu Viên đang cảm nhận được thú hạnh phúc ê chề của một đêm được sống lại trên quê hương, cho dù chiếc xe khi dừng lại chàng sẽ được người ta cẩn thận nhốt giam trong một khám đường nào đó.
Trí nhớ chàng trên con đường cũ, con đường dù đã được đổi tên xa lạ, nhưng chỉ thoáng ngờ ngợ một chút là Viên nhận ra ngay, đó là con đường Nguyễn Văn Thoại. Chiếc xe đang bắt đầu tiến qua khu bệnh viện “Vì Dân”, đèn ở đây rực sáng hơn, nạn thiếu dầu đã làm cho thành phố về đêm càng lùi dần trong bóng tối, cái gì cũng phải tiết kiệm, cả con đường chỉ có vài nơi được thắp sáng, Viên không lạ gì với cảnh này, nhiều khi đang ăn cơm tối, đèn điện bỗng vụt tắt, mọi người lần mò tìm bật lửa để thắp vội ngọn đèn dầu, nhà nào cũng phải dự trữ dầu lửa hay dầu cặn; giá dầu tăng nhanh khủng khiếp và khan hiếm vô cùng. Khổ nỗi là những khi mua nhầm loại dầu pha với nước lạnh, ngọn lửa không được cháy đều và liên tục, nó như bỡn cợt, cứ cháy một lúc thì lại tắt. Thành phố đã ngủ yên, xe cộ đã vắng hẳn, môt vài người ăn xin đang nằm vất vưởng trên lề đường, chỉ còn mỗi tiếng động của chiếc xe chở chàng, Viên không biết họ sẽ đưa chàng về đâu, đã hơn 1 giờ sáng rồi, chàng không muốn nghĩ ngợi gì thêm. Về đâu cũng được, chàng phải chấp nhận tất cả.
Chiếc xe đã đỗ lại một tòa nhà hai tầng trong một con hẻm cụt, tấm biển chắn ngay cổng vào với hàng chữ: “Nhà khách Bộ Nội Vụ”, Viên mừng thầm, cũng chưa đến nỗi nào, từ nãy giờ chàng cứ đinh ninh chúng sẽ đưa chàng về một khám đường nào đó. Sau khi đã bàn giao những thủ tục cho người quản lý nhà khách, hắn vội vàng ra xe để đi và hẹn sẽ gặp Viên sáng ngày mai. Chưa kịp hoàn hồn, thì người quản lý trạc tuổi như Viên, khuôn mặt có vẻ thân thiện, đã ân cần hỏi han về tình trạng của chàng, Viên trả lời nhát gừng.
- Chính tôi cũng không hiểu rõ.
Người quản lý như muốn trấn an Viên:
- Tôi nghĩ trường hợp anh không sao đâu, chắc hiểu lầm thôi mà. Anh cứ yên tâm nghỉ ngơi, sáng ngày mai họ sẽ đến giải quyết, thế nào anh cũng được ở lại để ăn Tết.
Nói như thế, nhưng Viên không tin mọi sự dễ dàng. Lúc này, Viên chỉ mong được sớm rời khỏi đây, nếu như họ chấp thuận cho chàng ở lại, Viên cũng không muốn lưu lại, chỉ cần được gặp gia đình là Viên đi ngay. Lúc này, Viên thấy thèm điếu thuốc 555 vô cùng, cây thuốc mà chàng mang theo giao cho người bạn cầm hộ đã “làm quà” cho mấy anh hải quan. Viên nhờ người quản lý kiếm hộ một gói thuốc 555, anh ta vui vẻ lấy ngay gói thuốc đưa cho Viên. Viên lấy tờ giấy bạc 20 đô la trao cho anh ta, người quản lý mừng rỡ cám ơn rối rít.
Ngồi nán lại thêm một chút nữa tại phòng tiếp tân, trò chuyện dăm ba câu nhạt nhẽo gọi là với anh quản lý, rồi Viên được đưa lên nhà nghỉ. Căn phòng trông cũng tạm được, 2 chiếc giường nhỏ kê sát nhau, một cái chăn loại rẻ tiền được trải trên mặt nệm mỏng, vừa dùng để đắp, vừa dùng để thay thế tấm drap mà Viên đã nhìn thấy bị vứt bỏ nơi góc phòng mà chàng đoán chắc người bồi phòng biếng nhác chưa muốn mang ra giặt giũ.
Đã 3 giờ sáng rồi mà Viên không tài nào ngủ được, từng tiếng động nhỏ cũng làm cho chàng giựt mình, Viên miên man suy nghĩ, một tiếng gõ cửa cũng đủ quyết định số phận của chàng, Viên thấy hồi hộp và điều gì sẽ xảy ra cho chàng ngày mai. Viên hút thuốc liên tục, khói trong phòng mờ mịt như một áng mây chặn những chú muỗi đói đang thi nhau tấn công Viên, người ta nói đùa mà đúng thật, muỗi ở Việt Nam rất thích da thịt của Việt Kiều, vì nó thơm và béo ngậy. Những nốt mẫn đỏ đã nổi khắp người chàng, cơn ngứa ngáy đang hoành hành. Nhiều lần định bước ra ngoài phòng vệ sinh chung để tắm, nhưng Viên ngần ngại và lo sợ, biết đâu chừng một kẻ gian nào đó lợi dụng thừa cơ mà cướp đoạt hết số tiền của chàng thì uổng công Viên dành dụm bao năm nay. Với số tiền không nhỏ này gia đình chàng sẽ có một cuộc sống sung túc hơn. Trong đầu Viên, đang dự định thực hiện một kế hoạch nhỏ để có thể gửi lại số tiền cho gia đình dùng, nếu không được khi sang tới Thái Lan chàng sẽ nhờ người ta mang về dùm. Chỉ còn có vài giờ nữa thôi, Viên sẽ biết được số phận của mình, bây giờ phải cố gắng hết sức để khỏi bị lôi cuốn vào giấc ngủ, đầu óc chàng nặng chình chịch, mỗi giây phút chậm chạp trôi qua là mỗi phút giây chàng nhớ quay quắt về gia đình.
Đúng 7 giờ sáng, không cần mời gọi, Viên tự động xuống phòng quản lý để chờ đợi, chừng mười lăm phút sau, người ta cho biết chàng bị trục xuất và phải ra gấp phi trường cho kịp chuyến bay rời Việt Nam sáng hôm nay. Tốn thêm mười phút nữa cho việc thanh toán tiền phòng đêm qua, tiền tài xế đưa ra phi trường, tổng cộng là 40 đô la. (Điều này Viên hơi ngạc nhiên, bị bắt giữ mà cũng phải trả những chi phí đó cũng lạ thật). Không luyến tiếc, không từ giã, không bịn rịn Viên theo người tài xế ra xe.
Khí hậu buổi sáng ở Sài Gòn dễ chịu hơn, khung cảnh có vẻ tấp nập người qua lại, trên lòng đường đã đầy kín xe đạp, xe xích lô, xe ba gác, xe buýt, xe gắn máy, thỉnh thoảng cũng có một vài chiếc xe hơi mới tinh của ngoại quốc. Mọi người như túa ra cho một ngày làm việc, bên vệ đường bày bán đủ thứ, nhưng quán cà phê “cốc” thì nhiều nhất. Nhạc vàng, nhạc xanh, nhạc đỏ, nhạc hải ngoại, nhạc thời trang, nhạc giựt gân... đủ cách loại nhạc ồn ào rền vang cả một góc trời; Có một bản nhạc rất “phản động” mà khi xe dừng lại ở một ngã tư đường, Viên nghe từ một quán cà phê đang đông kín người, đó là bản “Kỷ vật cho em”, với giọng ca của Tuấn Vũ “Anh trở về, anh trở về có thể bằng chiến thắng Pleime hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giả... Anh trở về về có thể bằng viên đạn đồng đen...
Sài Gòn hình như đang bất cần mọi thứ, họ điên loạn với chính mình, họ điên loạn với xã hội, họ chỉ biết sống tạm bợ, qua ngày, bởi vì ngày mai đối với họ cũng buồn thảm, cũng mù mịt về một tương lai khó đổi dời.
Quang cảnh phi trường Tân Sơn Nhất thật ảm đạm, chuyến bay sáng hôm nay có vẻ thưa thớt hành khách, nhìn mãi Viên mới thấy một người Việt Nam, còn hầu hết hành khách là người ngoại quốc. Mọi người đã ở lại để ăn Tết với gia đình. Đêm nay, họ sẽ cúng giao thừa, họ sẽ đốt pháo rực cả góc trời, họ sẽ kể cho nhau nghe bao chuyện, chuyện quê hương nghèo khổ, chuyện hải ngoại đầy những bận rộn; nghĩ đến ngày mai, nghĩ đến sự trùng phùng Viên như muốn khóc, đôi mắt chàng buồn bã. Quê hương đã khước từ chàng, chỉ với một tấm lòng, chàng không thể nói thêm được một điều gì nữa, đất nước này đối với chàng đã thực sự cách biệt, tâm hồn chàng dù có trải rộng đến đâu, dù có thủy chung đến trọn đời thì chàng cũng phải rời đây, không một ai muốn đón nhận những đứa con rời xa quê hương. Trái đất này đã dung nạp bao nhiêu triệu đớn đau, bao nhiêu triệu trái tim, muốn quay về nguồn cội, muốn chung một nhịp đập cũng chỉ để xoa dịu phần nào nỗi bất hạnh của dân tộc khốn cùng. Giữa những uy quyền cao ngất lòng nghi kỵ, tự tôn đã đẩy đưa họ đến vực thẳm. Không còn một cứu cánh nào, không có một phép nhiệm màu, không có một liều thuốc kỳ diệu nào có thể chữa trị được cơn bệnh nan y di truyền từ bao nhiêu đời. Phải ngoảnh mặt, phải bỏ lại, phải xa lạ. Ở đâu thì chàng cũng chỉ là một viễn khách, nơi đến, nơi đi, nơi ở lại đều không có phương hướng nhất định.
Từ trên thượng tầng của trái đất, nhìn thêm một lần nữa xuống lòng đất yêu dấu, Viên uất nghẹn tận cùng, chàng thấy mình mất mát nhiều thứ quá, niềm mơ ước của chàng từ đây đã vĩnh viễn không thành, nguyện vọng tha thiết của chàng là tìm lại nơi vùi thân xác của Thao với tất cả lòng thành kính mà chàng muốn tạc dạ ghi lòng, để đắp lên ngôi mộ của Thao những luống đất yêu thương vô cùng cho mối tình thiên thu. Hồn Thao ở một cõi nào đó có chứng giám được cho nỗi lòng ẩn ức của Viên không?
Như thường lệ mười năm qua, đến ngày tưởng niệm Thao, Viên điều bày bàn hương án để thắp nén hương gởi đến người vợ chưa cưới xấu số đã sớm vội lìa trần.
Năm nay, Viên muốn được viết một lá thơ để gửi đến nàng...
Thao muôn đời của anh.
            Lá thư này anh gởi cho em, đến một địa chỉ không bao giờ có trên mặt đất này, sáng mai anh sẽ đốt nó, ở một cõi xa nào đó, hồn em thiêng liêng hãy nhận lấy mà cất giữ.
            Anh đã bất lực khi không có lấy một quyền năng để đưa em về cùng anh. Họ đã sẵn sàng chà đạp lên tâm hồn anh, lòng tưởng nhớ đến người quá cố không thể lay chuyển được mọi nghi ngờ trong họ. Anh muốn gào thét những con sóng phẫn nộ của biển cả. Đại dương đã thổi trôi con thuyền nhỏ rời bến, đã đưa đẩy anh đến đất trời xa lạ và em đã phù hộ anh bình an. Ngày trở về anh muốn tìm kiếm xác thân của em, để đặt trong linh cửu ướp đầy hoa quỳ vàng, anh sẽ trịnh trọng đưa em về giữa thung lũng của phố núi, nơi triền dốc mà chúng ta vẫn chờ đợi cơn lốc hoa vàng, mỗi ngày và mỗi ngày anh sẽ đặt lên ngôi mộ của em những kỷ niệm, những gì mà chúng ta chia xẻ với nhau thời thơ ấu. Bức họa năm nào anh vẫn còn giữ kỹ, đó là gia tài quý giá mà anh có được, mỗi lần nhìn thấy nó là lòng anh vời vợi thương nhớ đến em, con bé trong bức tranh tuy không giống em hoàn toàn, nhưng nó được kết tụ bằng tất cả cảm nghĩ yêu dấu để hình thành. Có lúc anh thấy con bé như đang cười, đang đùa giỡn, đang tung tăng nhảy múa giữa muôn hoa hương sắc. Con bé như một nàng tiên, và hình ảnh của em diễm tuyệt chừng nào ẩn hiện qua hình vẽ.
Ngày xưa chúng ta đã chờ đợi cơn lốc hoa vàng, đến bây giờ anh vẫn chưa có dịp chứng kiến. Ước mong một lần nào đó thân xác của em hóa thành tro bụi quyện theo cơn lốc thổi đến vùng đất anh đang tạm dung, để anh có thể đón lấy hình hài của em. Tình ta sẽ mãi mãi, ở một cõi xa hay trong một cõi tạm nào, thì anh vẫn yêu em, vẫn yêu em muôn đời.
Đỗ Văn Trọn
Theo http://www.vienthao.com/

1 nhận xét:

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI – Những tìm tòi và thử nghiệm

Thơ trẻ 20 năm đầu thế kỷ XXI Những tìm tòi và thử nghiệm Đặt vấn đề thơ trẻ trong 20 năm đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn nhắc đến đội ngũ n...