Thứ Tư, 26 tháng 4, 2017

Mấy nét về tập thơ "Ngọc đường xuân khiếu" của Ngô Thì Nhậm

Mấy nét về tập thơ "Ngọc đường xuân khiếu" 
của Ngô Thì Nhậm
Ngô Thì Nhậm là một tác gia lớn trong tùng thư Ngô gia văn phái và cũng là một trong những tác gia tiêu biểu của triều đại Tây Sơn. Ông đỗ Tiến sĩ và làm quan dưới triều Lê - Trịnh, đồng thời sau đó cũng ra làm quan với nhà Tây Sơn. Những sáng tác của ông hiện còn lại khá lớn, khoảng 20 tác phẩm. Trong đó có 5 tác phẩm viết dưới thời Lê - Trịnh như: Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Kim mã hành dư, Hào mân ai lục, Xuân thu quản kiến; 5 tác phẩm viết dưới triều Tây Sơn: Hoàng hoa đồ phả, Cúc hoa thi thận, Thu cận dương ngôn, Hàn các anh hoa và Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh. Ngoài ra, còn có tập thơ Ngọc đường xuân khiếu được sáng tác giữa giao điểm của thời Lê Chiêu Thống với Tây Sơn. Tác phẩm này vì thế có giá trị nhất định phản ánh diễn biến tư tưởng của ông khi đến với triều Tây Sơn. Chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về văn bản và giá trị nội dung tập thơ này.
I. Vấn đề văn bản:
Ngọc đường xuân khiếu hiện còn 3 dị bản đều chép trong tùng thư Ngô gia văn phái lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm:
1. Bản VHv.16/3 (B.1), gồm 82 tờ, tờ 16 dòng, dòng 23 chữ, khổ 27x15cm, để lề rộng, không đánh số trang, viết bút lông, chân phương, có chấm câu bằng son, chép 4 tập thơ của Ngô Thì Nhậm, gồm:
- Bút hải tùng đàm, 78 bài thơ.
- Thủy vân nhàn vịnh, 56 bài thơ.
- Ngọc đường xuân khiếu, 74 bài thơ.
- Cẩm đường nhàn thoại, 63 bài thơ.
Bản này được chép một cách hệ thống, đầy đủ rõ ràng, ít sai sót hơn so với những bản khác.
2. Bản VHv.1743/22 (B.2) gồm 84 tờ, tờ 16 dòng, dòng 23 chữ, khổ 27x16cm, chữ viết chân phương, có đôi chỗ viết theo lối đá thảo, hơi khó đọc. Toàn bộ tập sách chép 4 tập thơ của Ngô Thì Nhậm, có:
- Bút hải tùng đàm, 78 bài thơ.
- Thủy vân nhàn vịnh, 56 bài thơ.
- Ngọc đường xuân khiếu, 74 bài thơ.
- Cẩm đường nhàn thoại, 69 bài thơ.
Trước mỗi tập thơ đều ghi: Ngô gia văn phái. Tiến sĩ Thượng thư Hi Doãn công di thảo. 74 bài thơ chép trong tập Ngọc đường xuân khiếunày, thứ tự sắp xếp giống như bản VHv.16/3 đã nêu trên.
3. Bản A.177c/1 (B.3) kí hiệu ghi tại bản chụp: A.117/31 gồm 258 tờ, tờ 16 dòng, dòng 23 chữ, khổ 27x16cm, viết thảo và đá thảo, khó đọc. Toàn bộ tập sách chép thơ văn Ngô Thì Nhậm; bao gồm:
- Bút hải tùng đàm, gồm 94 bài thơ.
- Ngọc đường xuân khiếu, gồm 66 bài thơ.
- Hoa Trình gia ấn, gồm 21 bài thơ.
- Kim mã hành dư (văn).
- Hào mân ai lục (văn).
66 bài thơ của tập Ngọc đường xuân khiếu này, thứ tự sao chép giống như hai bản đã nêu trên, nhưng chép thiếu 6 bài và chép dôi ra 1 bài so với hai bản trên (6 bài thiếu: Thu tứ tứ tuyệt - 4 bài; Ký kiến; Văn giá cô thanh; Trai cung thị lậu; Xuân mộ; Khấp đệ Học Tốn thị. 1 bài dôi ra là: Thần phó học tức sự). Nếu như vậy thì tập Ngọc đường xuân khiếu sẽ có 75 bài thơ. Ngoài việc khác nhau về số bài thơ (chép thiếu 6 bài và dôi ra 1 bài) như đã nêu trên, bản A.117c/1 thường chép một số đầu đề bài thơ khác đi, như:
B1 và B2
B3
- Thu vãn tham thiền
- Hạ phó đô Ngự sử Nguyễn Bút Phong
- Hạ hữu.
- Khốc đệ Quảng Nghiệp quân
- v.v...
- Vãn Thu tham thiền
- Thư hạ Ngự sử Nguyễn Bút Phong, tịnh ngữ
- Tiễn hạ thi.
- Khốc vong đệ Quảng Nghiệp quân
Tuy nhiên nội dung các bài thơ trong từng dị bản hầu như không có sự khác biệt gì lớn.
Niên đại ra đời của tập thơ không được ghi chép đầy đủ. Tập thơ được soạn giả tùng thư Ngô gia văn phái tập hợp, đặt tên, và chỉ ghi là “Tiến sĩ Thượng thư Hi Doãn công di thảo”. Nội dung của 75 bài thơ đề cập đến mấy cụm vấn đề sau đây:
- Cụm bài viết sau khi lánh nạn từ vùng biển Thái Bình trở về.
- Cụm bài viết khi ông làm Giám khảo khoa thi Chế khoa do Lê Chiêu Thống mở năm 1787.
- Cụm bài viết gửi em ruột là Học Tốn (Ngô Thì Chí), ông chú ruột và bạn bè.
- Cụm bài tả cảnh trên đường từ Thăng Long vào Phú Xuân.
- Cụm bài viết khi đi sứ nhà Thanh v.v.
Như vậy, xét về nội dung và kể cả dụng ý sắp xếp của soạn giả tùng thư Ngô gia văn phái, đặt sau tập Thủy vân nhàn vịnh (sáng tác năm 1782 - 1786) thì có thể đoán định tập thơ này do Ngô Thì Nhậm sáng tác vào sau thời gian lánh nạn trở về: cuối năm 1786 đến 1793.
Thực tế, năm 1786, Tây Sơn ra Bắc diệt họ Trịnh trả lại toàn bộ quyền bính cho vua Lê. Do đề nghị của người em Ngô Thì Nhậm là Học Tốn (Ngô Thì Chí), triều đình cử người xuống Thái Bình đón Ngô Thì Nhậm về Kinh. Khi ông về đến Kinh thì vua Lê Hiển Tông đã qua đời (10-8-1786). Ngay sau khi Lê Chiêu Thống lên nối ngôi, Ngô Thì Nhậm được trao chức Đô cấp sự trung bộ Hộ, rồi thăng Hiệu thư kiêm Toản tu Quốc sử. Khi Lê Chiêu Thống bỏ kinh sư chạy lên phía Bắc (1788), Ngô Thì Nhậm đi ở ẩn tại huyện Thạch Thất (Hà Tây). Tháng 4 năm đó, Nguyễn Huệ ra Bắc, Ngô Thì Nhậm được Trần Văn Kỷ giới thiệu, nên được Nguyễn Huệ phong cho chức Thị lang bộ Công. Sau chiến thắng Đống Đa, Ngô Thì Nhậm cùng Phan Huy ích đảm trách việc bang giao. Nhiều bài trong tập thơ Ngọc đường xuân khiếu được sáng tác trong giai đoạn này.
Mở đầu tập thơ là loạt bài viết sau khi lánh nạn từ vùng biển Thái Bình trở về: Vãn Thu tham thiền, Đăng Hỗ sơn hữu cảm, Nhuệ giang tịch phiếm, Thiền am tự cựu, Giang tự tình du ... Đây là những bài viết khi ông về thăm quê sau gần 5 năm xa cách.
Bài Vãn Thu tham thiền (Thăm thiền vào buổi cuối Thu), có câu: Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên (Bấm đốt ngón tay đã năm năm phiêu bạt); hay bài Đăng Hỗ sơn hữu cảm (Cảm tưởng khi lên núi Hỗ) có đoạn: Thiên nhai dạ dạ mộng y quan, Du tử kim phiên bái Hỗ san (Nơi chân trời đêm đêm thường mơ thấy áo mũ, Đứa con đi xa lần này được lên bái lạy núi Hỗ đây). Như vậy là ông đã có 5 năm trời phiêu bạt rồi mới trở về bái lạy núi Hỗ để thăm viếng mẹ cha...
Mùa xuân năm Đinh Mùi (1787) Lê Chiêu Thống mở khoa thi Chế khoa, Ngô Thì Nhậm có loạt bài: Ngũ Vân lâu công hà ký, Y toái ngọc thể dụng song nhạn xuất quần cách, Ngũ Vân lâu vãn diếu, Hạ Ngự sử Nguyễn Bút Phong ... Khoa ấy ông cùng với Vũ Duy Đoán và Tả Khê Nguyễn Chất Trai được cử làm giám khảo. Ông viết: “Bọn ta là người cùng làng, cùng tuổi, nay gặp dịp được tiến cử, cùng được dự chức trách ở khảo ty. Kính vâng lời vua, lớn lao thay lời vua. Lại là người nghe ngóng giải quyết công việc nơi công sở thì nên một lòng ngay thẳng, công bằng khi cầm bút, phải phẳng như nước, phải sáng tựa gương, phải nghiêm túc như 10 ngón tay. Khi chọn người thì không chọn tràn lan, khi bỏ thì không quá hà khắc, ngăn ngừa kẻ hãnh tiến, chọn được người trung hậu. Cốt làm sao chọn được nhân tài ở chốn quê mùa...” (Ngũ Vân lâu công hà ký). Trong lời dẫn của bài: Nghĩ đại Văn Giang môn sinh hạ sư tử cập đệ (Viết thay môn sinh ở Văn Giang mừng con thầy đỗ đại khoa), Ngô Thì Nhậm cho biết: năm Đinh Mùi (1787) là năm đầu Thánh Thiên tử lên ngôi, ban chiếu kén bậc hiền lương. Năm đó Trần Bá Lãm người làng Vân Canh (ngoại thành Hà Nội) và Nguyễn Gia Cát người làng Vân Cầu huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên) trúng tuyển. Bài thơ và lời dẫn còn cho biết, Ngô Thì Nhậm là học trò của thân phụ Nguyễn Gia Cát.
Hai bài Tại Kim Lan ký đệ Học Tốn thị (ở Kim Lan gửi cho em là Học Tốn) và Ký đệ Học Tốn thị (Gửi em Học Tốn) do Ngô Thì Nhậm viết khi Học Tốn còn sống, khoảng năm 1787 đầu năm 1788. Lại bài: Khốc đệ Học Tốn thị (Khóc em Học Tốn) ông viết khi nghe tin Học Tốn ốm chết năm 1788.
Bài Họa thân thúc công (Họa bài thơ ông chú ruột) và Ký Bảo Triện Trần Hoàng giáp (Gửi ông Hoàng giáp họ Trần ở làng Bảo Triện) đều là những bài sáng tác khoảng năm 1791 hoặc 1792. Bởi lẽ chú ruột Ngô Thì Nhậm là Ngô Tưởng Đạo mất năm 1792, còn Hoàng giáp họ Trần tức Trần Danh án, khi vua Lê Chiêu Thống chạy sang phía Bắc, bị ốm không theo được, nên phải quay về quê, giữ tấm lòng cô trung với nhà Lê, và mất năm 1794.
Trong lời đề dẫn bài Họa quyến đệ Đồng Lạc thị (Họa bài thơ gửi em họ là Đồng Lạc), Ngô Thì Nhậm ghi rõ là: “Khi gặp hoạn nạn, Đồng Lạc đã tận tâm nâng đỡ, nay trước khi đi sứ phương Bắc lại đem con gửi cậu...) Có nghĩa là bài thơ viết trước lúc Ngô Thì Nhậm giữ chức Chánh sứ sang nhà Thanh cầu phong cho Quang Toản năm 1793.
Phần giữa tập thơ chép một loạt bài vịnh cảnh trên đường từ Thăng Long vào Phú Xuân như: Thần Phù sơn vọng hải (Đứng trên núi Thần Phù ngắm biển), Đăng Bàn A sơn cảm hứng (Cảm hứng khi lên núi Bàn A), Nghệ An đạo trung (Trên đường Nghệ An), Ngụ Dinh Cầu muộn thuật (Thuật lại nỗi buồn khi nghỉ lại Dinh Cầu), Hoành Sơn đạo trung (Trên đường Hoành Sơn), Bố Chính đạo trung (Trên đường Bố Chính) v.v... Những bài này có thể do Ngô Thì Nhậm sáng tác khi vào Phú Xuân yết kiến Quang Toản sau khi đi sứ cầu phong trở về năm 1793.
Có một số bài viết khi đi sứ như: Quế Lâm, Yên Đài, Ô giang phong nguyệt, Thu dạ lữ hành... không thấy có trong tập Hoàng hoa đồ phảcủa Ngô Thì Nhậm sáng tác khi đi sứ năm Quý Sửu 1793. Đọc kỹ từng bài mới rõ đây là những bài ông làm khi đi sứ trên đường về.
Tập Hoàng hoa đồ phả là tập thơ vừa vẽ đường đi sứ từ Lạng Sơn đến Yên Kinh, vừa có thơ vịnh dưới mỗi cung đường hay thành quách, trạm dịch, cùng bản đồ đường đi. Như vậy, loạt bài làm khi đi sứ trở về không thể ghi chung vào đây, vì Ngô Thì Nhậm không vẽ đường về. Chắc hẳn những bài sáng tác trên đường về đã được chép trong tập riêng. Sở dĩ cho rằng những bài này do Ngô Thì Nhậm sáng tác trên đường đi sứ năm 1793, bởi có câu nói tới cảnh sắp về đến nước nhà như bài Dịch lộ hiểu hành (Buổi sáng đi trên đường trạm):
Đẩu nam cung khuyết hồi đầu cận;
Hán bắc quan san dẫn lộ trường.
(Cung khuyết phía nam Bắc Đẩu, ngoái đầu thấy đã gần;
Núi non phía bắc Ngân Hán, đường đi đã thấy xa thẳm).

Các bài thơ này còn đề cập đến mùa thu, cảnh thu như trong lời đề tựa đầu tập Hoàng hoa đồ phả ghi rằng: “Mùa xuân Quý Sửu (1793), là năm đầu Hoàng thượng lên ngôi, tôi phụng mệnh đi sứ cầu phong. Ngày 20 tháng 2 lên đường, ngày 27 qua cửa ải, ngày 8 tháng 5 đến Yên Kinh, ngày 20 tháng ấy về nước, tháng 9 mùa thu về đến Kinh đô...” Có nghĩa là những bài nói về mùa thu làm lúc Ngô Thì Nhậm đã sắp về tới nhà:
Mai dịch thê lương đậu khách trình,
Bích ngô chi thượng báo thu thanh.
(Thu dạ lữ đình)
(Dặm đường đất khách, dừng chân nơi trạm mai lạnh lẽo,
Tiếng thu đã báo trên cành ngô đồng biếc xanh).
Hay:
Tân thu dĩ kết mã đề sương...
Chinh bào ám đệ kim phong sảng.
(Thu hành)
(Mới đầu thu, sương đã kết trên móng ngựa...
Gió thu dìu dịu, ngầm thổi tới áo người đi xa;)
Tóm lại, tập Ngọc đường xuân khiếu chủ yếu chép những bài thơ Ngô Thì Nhậm sáng tác vào khoảng năm 1787 đến năm 1793. Loạt bài đầu tập thơ viết dưới thời Lê Chiêu Thống, tiếp theo là những bài viết dưới triều Tây Sơn (trên đường đi sứ trở về từ yên Kinh đến Phú Xuân).
II. Nội dung tập thơ:
Nội dung của tập thơ chủ yếu tả cảnh, tả tình, thể hiện tâm trạng thoải mái sau khi ông thoát nạn trở về, hân hoan tin tưởng khi giữ trọng trách cho nhà Tây Sơn. Chẳng hạn, khi trở về thăm quê sau nhiều năm xa cách, bơi thuyền chơi trên sông Nhuệ, ông viết:
Tĩnh thủy nhất điều trương tố luyện;
Sơ tinh kỷ điểm ánh cô chu.
(Nhuệ Giang tịch phiếm)
(Một dòng nước lặng như căng dải lụa trắng;
Mấy vì sao thưa dọi bóng vào chiếc thuyền côi).
Đứng trước bàn thờ cha mẹ, ông hân hoan tỏ chí mình vẫn thiết tha với triều đình nhà Lê:
Thiên nhai dạ dạ mộng y quan,
Du tử kim phiên bái Hỗ san.
(Đăng Hỗ sơn hữu cảm)
(Nơi chân trời đêm đêm thường mơ tới chuyện áo mũ,
Đứa con xa quê lần này lại bái lạy núi Hỗ đây).
Tình cảm này của ông đối với triều đình nhà Lê thể hiện rõ nhất ở loạt bài viết khi làm giám khảo trường thi ở lầu Ngũ Vân bên bờ sông Nhĩ Hà:
Hồi thủ Trường An tây thượng vọng,
Nùng sơn thụy khí chính nhân uân.
(Ngũ Vân lâu vãn điếu)
(Ngoái đầu nhìn phía tây Trường An,
>Khí lành ở núi Nùng đang xông lên nghi ngút).
Trong những loạt bài trên không thấy chi tiết nào tỏ rõ ông có cảm tình với nhà Tây Sơn. Chỉ đến khi Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ 2, Ngô Thì Nhậm được Trần Văn Kỷ giới thiệu và được Nguyễn Huệ trọng dụng, thì ông mới có tình cảm thực sự với triều đại mới. Tình cảm ấy thể hiện ở loạt bài viết gửi cho người em là Học Tốn, ông chú ruột hay ông họ Trần ở Vân Canh cùng hàng loạt bài viết khi đi sứ trở về từ Yên Kinh đến Phú Xuân, với lòng tin tưởng vào triều đại mới mặc dù lúc ấy vua Quang Trung đã qua đời:
Tiên hoàng uy đức phương chiêu dụ
Vạn quốc hanh cù hảo tịnh biều.
(Ký kiến)
(Uy đức của Tiên hoàng ta còn đang rạng rỡ,
Đang cùng với muôn nước, dóng ngựa trên con đường lớn thênh thang).
Với cảnh thanh bình khi đi qua đèo Ngang:
Thủy tẩm bút phong giao ẩn đảo,
Lâm thùy hải diện điểu khuy lan.
Trường kiều xa mã đồ nghinh tống,
Dũng đạo tiều ngư thị khứ hoàn.
(Hoành san đạo trung)
(Nước dầm ngọn bút, giao long núp quanh đảo,
Rừng rủ ra mặt biển, chim nhòm sóng nước.
Ngựa xe đưa đón trên đường, qua những chiếc cầu dài,
Dân chài, tiều phu đi chợ về qua đường cái quan).
Điểm qua đôi nét trên đây để phần nào thấy tập thơ Ngọc đường xuân khiếu là tiếng reo vui của Ngô Thì Nhậm sau thoát nạn trở về và càng hân hoan tin tưởng hơn khi gánh trọng trách cho triều đình Tây Sơn.
LÊ VIỆT NGA
Theo http://hannom.org.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm nhận ngàn đêm

Cảm nhận ngàn đêm MỘT Dân gian nói, hoàng hôn là lúc người dương và người âm có thể gặp nhau. Trong bộ phim nổi tiếng “Bao giờ cho đến Thá...