Nguyễn
Hiến Lê: Dạy và tự học (*)
Theo từ
điển Wikipedia, Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) là một nhà văn, dịch giả, nhà ngôn
ngữ học, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác,
biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học,
ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế. Nguyễn
Hiến Lê (NHL) quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây nay thuộc
huyện Ba Vì, Hà Nội. Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội,
trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi. Năm 1934, ông tốt nghiệp trường
Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt
đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, chủ yếu là Sài Gòn và Long Xuyên.
Nguyễn Hiến Lê là một học giả nổi tiếng, tên tuổi của ông gắn liền
với nhiều tác phẩm, trong đó có quyển sách dịch “Đắc nhân tâm” (vẫn thuộc loại
bán chạy nhất hiện nay trên Internet). Người ta biết NHL viết sách, chứ không
nhiều người biết ông đã từng là nhà giáo. Tháng 11 năm 1950 NHL nhận lời mời
dạy học ở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên, đến năm 1952 ông xin
nghỉ, lên Sài Gòn mở nhà xuất bản, biên dịch sách, sáng tác và viết báo. Trong
thời gian ở Long Xuyên, ông dạy môn Pháp văn, Việt văn, Đức dục, về sau
thêm cả Hán văn (từ lớp 7 đến lớp 9 ngày nay). Quan điểm dạy học của ông tuy
cách đây đã 60 năm, song vẫn còn hữu ích đối với thế hệ giáo viên trẻ ngày nay.
Ông cho biết: “Tôi soạn bài kỹ, giảng cho rõ ràng, bắt học sinh làm nhiều bài
tập,.. dù con bạn thân mà làm biếng tôi cũng rầy, dù con các người tai mắt
trong tỉnh, nếu lười tôi cũng mắng nặng lời”. “Tôi cho rằng trong nghề dạy học,
tư cách ông thầy quan trọng nhất: phải đứng đắn, nhất là công bằng; rồi lời
giảng phải sáng sủa, có mạch lạc, muốn vậy ăn nói phải lưu loát, và soạn bài
phải kỹ”.
“Trong trường học, giáo sư nên khuyến khích những học sinh
chịu đọc thêm sách, chứ đừng khen những trẻ giỏi học thuộc lòng.
Trong các kỳ phát phần thưởng, đừng mua sách giáo khoa để phát, mà
nên lựa những sách giúp học sinh mở mang thêm kiến thức”.
Về giáo dục NHL nêu vài vấn đề mà ngày nay chúng ta cũng cần
phải suy nghĩ. Trong quyển Thế hệ ngày mai, NHL
cho rằng nền giáo dục trong thời đại của ông “ quá
thiên về trí tuệ, xao nhãng thể dục và đức dục”. Từ bậc
tiểu học đến đại học, người dạy đã nhồi nhét quá nhiều những môn “để luyện
trí”. “Phương pháp dạy ở trường có
tính cách quá nhồi sọ”. “Môn
gì cũng cần nhớ, nhớ cho thật nhiều, tới môn toán pháp mà cũng
không dạy trẻ phân tích, bắt học thuộc cách chứng minh các định lý”.
Từ đầu thế kỷ 20, Nhiều giáo sư, học giả Pháp đã phê phán lối học “không
tập cho suy nghĩ ấy”. Nhiều nhà doanh nghiệp phàn nằn rằng phần lớn “ những
học sinh ở Trung học hay Đại học ra không hiểu chút gì về công việc,
không biết kiến thiết, sáng tạo, chỉ huy”.
Một điểm đáng chú ý khác: Vì sao học sinh không thích học?
Ông cho rằng học sinh có thể không thích học môn nào đó vì cảm thấy không hợp.
Có người thích văn nhưng buộc phải học Toán; có người thích vẽ nhưng buộc phải
học Sử. Ngoài ra, “Ta cũng có thể ghét sự học ở trường vì nhiều
giáo sư giảng bài như ru ngủ chúng ta, hoặc tới lớp thì bắt ta chép
lia lịa từ đầu giờ tới cuối giờ mà không hề giảng cho một chữ,
chép tới tay mỏi rời ra, không đưa nổi cây viết, nguệch ngoặc không
thành chữ, rồi về nhà phải cố đọc, đoán cho ra để chép lại một
lần nữa cho sạch sẽ. Ta cũng có thể ghét sự học ở nhà trường vì
có những ông giáo, suốt năm mặt lạnh như băng, vẻ quạu quọ, hờm hờm,
coi học sinh như kẻ tù tội, phải hành hạ cho đến mực, làm cho học
sinh gần tới giờ thì lo lắng, mặt xám xanh, như sắp bị đưa lên đoạn
đầu đài. Ta cũng có thể ghét sự học ở nhà trường vì kỷ luật, hình
phạt của nó, vì những kỳ thi liên miên bất tận..”.
Điều quan trọng nhất trong cách dạy của NHL không chỉ nằm ở chuyên
môn, mà còn ở cách hướng dẫn học sinh tự học. Vì phần lớn học sinh thời ấy
“không biết cách ghi chép lời giảng của thầy, không biết cách học bài, làm bài,
không biết cách học ôn, cách tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà.
Họ không hiểu rằng cách học một bài ám đọc (récitation), khác cách học một bài
toán; một bài sử, địa khác một bài sinh ngữ… Họ không có cả một sổ tay ghi
những điều cần nhớ để thường coi lại”.
Vâng, tự học là điều cần thiết không chỉ khi ngồi trên ghế nhà
trường, mà còn là phương tiện giúp ta đi tới thành công trên đường đời. Đừng
nghĩ rằng khi có bằng cấp cao là đã thành công và không cần phải tự học nữa.
NHL viết: “Bạn có bằng cấp tiến sĩ, thạc sĩ mà không học thêm thì
suốt đời cũng chỉ là một tiến sĩ, một thạc sĩ. Paul Doumer 14 tuổi
đã phải thôi học, tự học lấy rồi sau thành Tổng thống nước Pháp.
Louis Bertrand xuất thân làm thợ mà lên ngôi Tổng trưởng”. Ở nước ta
cũng không thiếu người nhờ tự học mà có danh vọng”. Thí dụ như Phạm
Quỳnh, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Bạch Thái Bưởi và Trương Văn Bền…đã
thành công lớn trong nghề nghiệp của mình.
Cách tự học
NHL viết: “trên con đường tự học, tôi chẳng có chút hiểu biết,
kinh nghiệm nào cả, phương tiện thật thiếu thốn, tốn công nhiều mà kết quả rất
ít. Vì nghĩ vậy mà sau này tôi viết cuốn Tự học để thành công (sau đổi tựa là Tự
học, một nhu cầu của thời đại) để hướng dẫn thanh niên tránh những
lỗi lầm của tôi”. Ông cho rằng “Tự học cũng là một cuộc du lịch, du
lịch bằng trí óc, một cuộc du lịch say mê gắp trăm du lịch bằng
chân”. “Tự học còn là một thú vui rất thanh nhã nó nâng cao tâm hồn
ta lên”. Vậy, muốn tự học, trước hết phải thấy nó là một chuyến “du lịch”, là
“thú vui” mới có thể kiên trì theo đuổi.
Theo NHL, người mới biết đọc, biết viết; người già cũng có thể tự
học được. Quan trọng là có sức khỏe, thời gian và tin vào việc học của mình (có
lợi cho bản thân, giúp ích cho người khác). “Nếu học 5-7 lần không thuộc,
cũng đừng chán rồi bỏ cuộc. Học nhiều hơn nữa, có ngày sẽ thành công”.
Ông nghĩ rằng cái lợi của tự học là “tự do lựa môn học, lựa
thầy học”. “Nếu chưa hiểu rõ một chương, ta có thể bỏ ra hàng tuần
hàng tháng để học thêm...Nhờ vậy ta có nhiều thì giờ để suy nghĩ so
sánh, tập xét đoán, giữ tư tưởng được tự do. Không ai nhồi sọ ta
được, bắt ta phải lặp lại những điều mà ta không tin”. Tuy nhiên, ông
cũng thấy cái hại của việc tự học là do “không ai dẫn dắt ta, nên ta không
biết học cái gì”. Có người quyết học hết một bộ Bách khoa từ
điển nhưng mới học khoảng một tuần thì bỏ ngang vì chán nản, không hiểu
nhiều đoạn trong tự điển. “Có kẻ gặp cái gì đọc cái ấy… không tự
lượng sức mình, chưa biết những sách đại cương về một môn nào đã
đọc ngay những sách quá cao viết cho các nhà chuyên môn”. Đọc qua loa
những điều mình thích nên không hiểu tường tận để áp dụng. “Học như vậy phí
công vô ích”, do “không có một mục đích nhất định để nhắm, một chương
trình hợp lý để theo”.
Ông cho rằng tự học “có mục đích gần và mục đích xa”. Học
để có một chỗ làm, có cuộc sống tiện nghi là học với mục đích gần. Học để đủ tư
cách làm chủ gia đình, một công dân và phần tử của nhân loại. Học để phát
triển đức trí, giúp ít người khác mỗi ngày một nhiều hơn mới là mục
đích xa. Nếu là giáo viên toán ta cũng nên đọc về kinh tế, chính trị; nếu
là thợ thuyền cũng nên học về triết lý, luật khoa… “Nhà văn phải
biết khoa học, vì khoa học giúp ta nhận xét, lý luận, hiểu vũ trụ
hơn. Nhà khoa học cũng phải hiểu văn chương vì những áng văn thơ bất
hủ nâng cao tâm hồn con người”… “Kẻ nào quá chuyên nghiệp, chỉ đọc
những sách về ngành hoạt động của mình thì không khác chi đeo vào
hai bên thái dương hai lá che mắt, không khác chi tự giam mình vào một
phòng chỉ có mỗi một cửa sổ để thông ra ngoài.”
Những cách tự học
Theo NHL, có hai cách tự học: học có người dạy và tự mình tìm
tòi, học hỏi để hiểu biết thêm (theo ông, cách thứ hai “quan trọng hơn
nhiều”).
Tự học (có người chỉ dẫn) là theo một lớp giảng công hay tư, một lớp
hàm thụ hoặc nghe diễn thuyết.
+ Lớp giảng: Theo ông, “ở
Âu, Mỹ, có rất nhiều trường công hay tư dạy những người lớn muốn học thêm” (từ
tiểu học đến đại học). “Lại có những trường dạy một ngành chuyên môn như môn Tổ
chức công việc, môn viết văn, làm báo, khoa nói trước công chúng, khoa nội
trợ...”.
+ Lớp hàm thụ: học từ xa
bằng những phương tiện thông tin đại chúng, “
học những trường này phải trả tiền vì đều là trường tư, hoặc bán công tư”.
học những trường này phải trả tiền vì đều là trường tư, hoặc bán công tư”.
+ Nghe diễn thuyết: nghe
những diễn giả nói về đề tài mà mình muốn biết thêm.
Tự học không có người chỉ dẫn là tập nhận xét và đọc sách…
+ Nhận xét: NHL viết:
“Người tự học nào cũng phải tập nhận xét. Phần đông chúng ta không nhìn bằng
mắt mà bằng óc, bằng tim”. Một giáo sư đại học bảo sinh viên tập trung nhìn
những ông làm rồi bắt chước làm theo. Ông nhúng một ngón tay vào một ly nước
rồi đưa lên miệng nếm. Mỗi sinh viên đều làm như vậy, nhưng lại nhăn mặt vì
nhận thấy nước rất hôi thối. Sau khi họ nếm xong, vị giáo sư mỉm cười,
bảo: “ Các cậu không nhận thấy ngón tay tôi đưa lên miệng không phải là ngón
tay đã nhúng vào nước à”. Vị giáo sư nhúng ngón tay này vào nước nhưng lại nếm
ngón tay kia nên không có cảm giác hôi thối, còn sinh viên thì….
Điều này cho thấy “họ đã không nhìn bằng mắt mà bằng óc. Óc họ tưởng tượng ra sao thì họ thấy vậy”. Tóm lại, muốn học hỏi thì ta phải tập nhìn bằng mắt, chứ đừng bằng óc hoặc tim. Trước khi nhận xét, phải có một chương trình: xét những điểm nào? điểm nào trước? điểm nào sau? Thí dụ, muốn nhận xét một cây, bạn phải: quan sát từng bộ phận của nó (từ gốc rễ đến cành lá); cây này mọc ở miền nào, hợp với loại đất nào; mùa nào trổ bông, có trái; cách trồng ra sao; ích lợi thế nào…
Điều này cho thấy “họ đã không nhìn bằng mắt mà bằng óc. Óc họ tưởng tượng ra sao thì họ thấy vậy”. Tóm lại, muốn học hỏi thì ta phải tập nhìn bằng mắt, chứ đừng bằng óc hoặc tim. Trước khi nhận xét, phải có một chương trình: xét những điểm nào? điểm nào trước? điểm nào sau? Thí dụ, muốn nhận xét một cây, bạn phải: quan sát từng bộ phận của nó (từ gốc rễ đến cành lá); cây này mọc ở miền nào, hợp với loại đất nào; mùa nào trổ bông, có trái; cách trồng ra sao; ích lợi thế nào…
Lập sẵn chương trình như vậy thì không sợ quên những chi tiết
nhiều khi quan trọng. Trong khi nhận xét phải so sánh (như cây sao với cây dầu
giống nhau chỗ nào, khác nhau chỗ nào?), phân tích (như xét một bông phải xét:
đài, cành, nhụy, sắc hương). “Chịu nhận xét, tập chú ý vào những điều trông
thấy thì tài nhận xét sẽ tăng lên. Mỗi ngày ta nên tập nhận xét vài lần… không
tốn thì giờ mà chỉ trong vài ba tháng đã thấy nhiều kết quả”.
+ Đọc sách: theo một lớp
giảng hoặc một lớp hàm thụ chỉ là biện pháp nhất thời. Muốn tự học suốt đời,
thì phải đọc sách, vì thế “có thể nói tự học là đọc sách”. “Khi đọc tôi luôn
luôn có một cây viết chì để đánh dấu những chỗ đáng nhớ, hoặc có thể dùng tới
sau này; cuốn nào thường phải đọc lại thì tôi ghi những ý quan trọng cùng số
trang lên mấy trang trắng”…“sách nào thường dùng tôi để riêng, sắp theo từng
loại”.
Học từ dễ đến khó
Muốn học môn gì đó, cần phải tìm đúng sách rồi học từ dễ đến nâng
cao dần. Không thể ngay từ đầu học những điều quá khó, vì như thế sẽ không
hiểu, một thời gian sẽ chán nản rồi bỏ cuộc. Nhìn chung, những người như thế
“không thành công vì không biết cách học”. Ho chưa biết những điều thường
thức đã vội đọc ngay những sách cao đẳng. Họ “chưa có một khái niệm gì
rõ ràng đích xác về đạo Phật mà đọc ngay kinh Tam Tạng! Tự học mà
thiếu phương pháp như vậy thì 100 người có tới 95 người thất bại”.
Cách học ngoại ngữ
Ngoài tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức, bắt buộc phải học vào
thời ấy, NHL còn học thêm tiếng Hán và tiếng Anh. Hồi nhỏ ông học chữ Hán cốt
để “đọc được gia phả”, “chỉ nhớ mặt chữ, hiểu nghĩa là được rồi”. Sau khi học
xong ngành Công chánh, trong thời gian chờ phân công nhiệm sở, ông lại tự học
chữ Hán. “Mỗi ngày, buổi chiều tôi lại thư viện Trung Ương đường Trường Thi,
mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh…rồi bắt đầu từ chữ A,
tìm những từ và từ ngữ nào tôi đoán là thường dùng mà chưa biết thì tôi chép
lại trong một tập vở. Tôi ở thư viện từ 3 đến 5-6 giờ chiều. Tối hôm đó và sáng
hôm sau, tôi học hết những trang đã ghi đó; rồi chiều lại ra thư viện chép bài
học sau. Mỗi tuần nghỉ một ngày để ôn lại những bài trong tuần. Học ba tháng,
được độ ba ngàn từ”. Về sau NHL tự học thêm nữa để có thể viết sách về văn học
Trung Quốc.
Về tiếng Anh, ông học chủ yếu là hiểu nghĩa từ và văn phạm, học để
đọc tài liệu nước ngoài, để viết và dịch sách chứ không chủ trương học để nói
lưu loát.
Theo ông, “muốn hiểu một ngoại ngữ thì phải dịch ra tiếng Việt”.
“Khi dịch, bắt buộc ta phải tra tự điển; câu nào dịch rồi mà ý nghĩa không
xuôi, có điểm nào vô lí hoặc mâu thuẫn với một số câu ở trên thì bắt buộc ta
phải soát lại xem mình dịch sai ở chỗ nào”.
Viết sách để tự học
Từ 1949 đến 1953, NHL “làm việc rất nhiều, vừa dạy học, vừa học,
vừa viết sách, không có thì giờ để hưởng nhàn”. Ông dạy học, tự học môn Tổ
chức, tiếng Anh và văn học Trung Hoa. Ngoài ra ông còn ghi danh học một số lớp
hàm thụ. Chính nhờ bài học từ những lớp này NHL đã có tài liệu để viết sách
(quyển Nghề viết văn, Hương sắc trong vườn
văn và nhiều
sách Học làm người).
Theo ông, “viết sách là tự ra bài cho mình làm. Học mà không làm
bài thì chỉ là mới đọc qua chứ không phải học.” Và ông cho rằng “khi viết nên
nhớ mục đích của ta là để tìm hiểu chứ không phải cầu danh. Đừng cầu danh thì
danh sẽ tới”.
Sức làm việc của ông thật đáng nể, theo Wikipedia, “mỗi ngày ông
làm việc 13 tiếng đồng hồ (6 tiếng để đọc tài liệu và hơn 6 tiếng để viết).
Thời gian biểu này được áp dụng một cách nghiêm ngặt không ai được vi phạm kể
cả chính ông, nhờ vậy mà ông đã hoàn thành một khối lượng công việc, tác phẩm
nghiên cứu, dịch thuật đồ sộ”. NHL cho biết: “nhiều người, từ bạn bè đến độc
giả bảo tôi sống như một nhà tu khổ hạnh. Tôi không biết các nhà tu khổ hạnh có
thấy khổ hay không khi họ nhịn ăn, nhịn uống, nhịn ngủ, … chứ riêng tôi, chẳng
tu hành gì cả, không thấy lối sống của tôi với sách vở là khổ”.
Trong lời nói đầu của quyển “Đời
viết văn của tôi”, NHL viết: “Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ
HỌC và VIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi
VIẾT ĐỂ HỌC và HỌC ĐỂ VIẾT”. Có lẽ, nhờ quan niệm như thế nên NHL để lại cho
hậu thế nhiều tác phẩm đồ sộ, có giá trị cao về học thuật, đó là mảng sách về
triết học và lịch sử. Mảng sách về văn học của ông cũng khá phong phú, chủ yếu
là văn học Trung Quốc, bên cạnh đó là một số quyển tiểu thuyết dịch từ tiếng
Anh và Pháp. Tuy nhiên, mảng sách mà NHL được nhiều người biết đến, đem lại
dang tiếng cho ông chính là loại “sách học làm người”. Ông viết và dịch nhiều
sách về mảng này, trong đó có một quyển đã làm “thay đổi hẳn cuộc đời của một
thanh niên hiếu học nhưng nhà nghèo”, người mà sau này đã trở thành bác sĩ và
cũng khá nổi tiếng, đó là bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc.
Quyển sách ấy có tựa đề là Kim chỉ nam của học sinh, một quyển mà NHL muốn “giúp học
sinh biết cách học”. Ông khởi sự viết quyển này vào tháng 2 năm 1951, tức giai
đoạn ông còn dạy học ở trường Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên. Sau khi quyển sách ấy
được phát hành, nhiều phụ huynh và giáo sư đã hết lời khen ngợi sự hữu ích của
nó. Trong tờ Bách Khoa số 20-4-75, Đỗ Hồng Ngọc viết: “Kim chỉ nam đã mở cho tôi chân trời mới, đọc xong,
tôi thấy gần gũi với ông (NHL) kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng
làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy
kết quả. Ông đã hệ thống hoá, đặt ra những nguyên tắc giúp cho việc học đỡ mệt,
đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày
những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viễn vông, nhàm chán”.
Dẫu sống ở Sài Gòn nhiều năm, song Nguyễn Hiến Lê vẫn rất nhớ cái
nơi ông đã từng dạy học, nơi mà ông đã về sống những năm cuối đời. NHL tâm sự:
“ Long Xuyên đúng là quê hương thứ hai của tôi, mà bây giờ tôi quyến luyến với
nó hơn quê hương thứ nhất nhiều”.
(*): Để thực hiện bài này người viết chủ yếu tham khảo hai tác
phẩm của Nguyễn Hiến Lê: quyển Hồi ký Nguyễn Hiến Lê (NXB Văn Học, 1992) và quyển Tự
học - một nhu cầu của thời đại (NXB
Văn hóa Thông tin, 2007).
Bài này trích từ quyển Kỷ yếu Chào mừng Ngày Nhà giáo VN 2011 của
Hội cựu học sinh Trường trung học Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên, An Giang.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét