Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

Thả một bè lau 1

Thả một bè lau 1
Thay lời tựa
Chúng ta thường nghĩ truyện Kiều là truyện của một người khác và chúng ta chỉ là khán giả, không có liên can gì. Nhưng khi viết truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã sống trong da thịt của nhân vật Kiều, đã trở thành với Kiều, cụ đã nói được tâm sự của chính mình. Cô Kiều trong truyện đã phải bắt buộc làm gái giang hồ. Là một nhà Nho, một mẫu mực đạo đức thời xưa ở Việt Nam, vậy mà có khi cụ Nguyễn Du cũng có cảm tưởng mình là một cô gái giang hồ. Cụ làm quan với triều Lê. Sau khi nhà Lê mất, cụ bị nhà Nguyễn gọi ra làm quan. Không từ chối được, cụ phải ra làm quan cho triều Nguyễn. Theo quan niệm của Nho giáo ngày xưa, một người thần tử trung thành không bao giờ thờ hai vua ('trung thần bất sự nhị quân.'). Trong khi viết truyện Thúy Kiều, cụ Nguyễn Du viết truyện của chính mình. Cụ muốn gửi tấc lòng mình vào thiên cổ chứ không phải vì ngồi không, cao hứng nhất thời mà viết ra một tác phẩm chữ Nôm.
Nếu có chánh niệm, đem những khổ đau, luân lạc và gian truân của mình ra đọc truyện Kiều chúng ta có cơ hội thấy được bản thân. Và như vậy đọc truyện Kiều cũng là tu. Tu tức là nhìn tất cả những gì đã và đang xảy ra trong đời mình bằng con mắt quán chiếu.
Trong quá khứ, có nhà Nho đã liệt truyện Kiều vào loại dâm thư vì trong truyện có tả đời sống của một cô gái giang hồ. Họ có thể đứng về phương diện đạo đức của Nho giáo mà nói như vậy. Nhưng dùng con mắt quán chiếu mà nhìn vào đời Thúy Kiều, ta có thể học được bài học của khổ đau và kinh nghiệm. Nếu biết cách đọc, chúng ta có thể học được rất nhiều từ truyện Kiều như học từ một cuốn kinh. Và truyện Kiều sẽ không phải là dâm thư mà là kinh điển.
Truyện Kiều là truyện về cuộc đời, có những hoàn cảnh khổ đau, hạnh phúc và u mê của cuộc đời. Lấy con mắt của người quán chiếu nhìn vào truyện Kiều, chúng ta có thể thấy được bản chất của cuộc đời. Những điều xảy ra trong mười lăm năm của cô Kiều có thể xảy ra cho bất cứ một người nào. (Vì vậy ở Việt Nam có truyền thống bói Kiều.). Kiều dã trải qua rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, đi qua tất cả những chuyện lên voi xuống chó của một con người. Thúy Kiều có khi là học trò, làm vợ của một người có quyền thế gần như vua (Từ Hải), làm đầy tớ, làm người yêu, làm vợ lẽ và làm một người con gái phong sương... Kiều cũng từng làm sư cô. Mỗi chúng ta ít nhất đã có một giai đoạn giống như giai đoạn Thúy Kiều. Nhìn vào đời Thúy Kiều, ta phải nhìn như một toàn thể mà đừng nhìn từng khoảng ngắn.
Chúng ta phải có con mắt trạch pháp, tức là con mắt có khả năng nhận xét và phân biệt. Khi đọc Kinh, ta cần phải có nhận thức độc lập, huống nữa là đọc truyện Kiều. Ta phải nhìn cụ Nguyễn Du bằng con mắt trạch pháp. Cụ tin vào thuyết tài mệnh tương đố (tài năng và số mệnh chống trái nhau). Chúng ta sẽ từ từ xét coi tại sao cụ tin vào thuyết này và thuyết này có đúng hay không. Nếu đúng thì đúng bao nhiều phần trăm. Không phải vì cụ nói 'chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau' hay 'chữ tài liền với chữ tai một vần' mà chúng ta tin ngay vào sự tương phản, chống trái của tài mệnh. Có những người có tài nhưng không bị tai nạn, vì họ có tu, có chánh niệm và sự khiêm nhượng. Tai nạn sẽ không xảy tới với họ, hay ít nhất, không xảy tới cho họ nhiều như cho những người quá cậy vào tài năng của mình mà xem thường người khác.
Dựa theo truyện Phong Tình Lục của Trung Hoa để viết truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã biến tập tiểu thuyết tầm thường này thành một tác phẩm văn chương phong phú và sâu sắc. Một lần nữa, chúng ta thấy cốt tủy của một tác phẩm có giá trị không phải là cốt truyện mà là văn chương và tư tưởng.
Ngày xưa tôi cũng đã từng dạy văn chương Việt Nam và đã dạy truyện Kiều. Nhưng tâm của tôi lúc đó không được như bây giờ. Tôi đã dạy với tư cách một giáo sư văn chương mà chưa bao giờ dạy với tư cách một thiền sư. Nhìn với tư cách một thiền sư là nhìn sâu, nhìn kỷ, nhìn bằng sự khám phá của thiền quán mọi sự kiện qua nhận thức, đau khổ, hạnh phúc, thành công, thất bại và qua sự tu học của mình. Nhìn như vậy trong khi đọc lại truyện Kiều ta có thể thấy được những điều rất mới.
Khi đọc truyện Kiều, ta không nên ngại về từ ngữ và điển tích. Các bản truyện Kiều đều có chú giải. Có tài liệu là ta có thể hiểu được hết các điển tích và từ cổ. Điều quan trọng là chúng ta đọc với tâm trạng quán chiếu, tìm thấy tâm lý của tác giả và tìm thấy lòng mình.
Làng Mai mùa Xuân 1992
CHƯƠNG 1: HÀNH TRANG
CHỮ TÀI. CHỮ MỆNH, CHỮ TÂM.
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Bắt đầu truyện Kiều, tác giả nêu lên tư tưởng tài mệnh tương đố, tài năng và số mệnh đố kỵ nhau. Cố nhiên, qua truyện Kiều, ta có thể thấy tác giả là một thi sĩ đại tài. Nguyễn Du nói tới kinh nghiệm trực tiếp của mình chứ không phải nói tới một sự thực ở ngoài.
Những người có tài và có sắc được thi sĩ cho đứng về phía màu hồng. Màu hồng kỵ với màu xanh, đại diện cho ông trời, tạo hóa. Ông trời sẽ đi theo 'đánh ghen', đày đọa những người có tài, có sắc bằng cách phó cho họ một số phận trớ trêu. 'Má hồng' không phải chỉ là đàn bà. Ðàn ông có tài sắc thì cũng là một thứ 'má hồng', bị số phận làm cho điêu đứng. Ðó là quan niệm của Nguyễn Du.
Kết thúc truyện Kiều, câu 3247, cụ Nguyễn Du trở lại ý niệm về tài và mệnh. Cụ trình bày quan niệm luân lý của mình như sau:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Cụ khuyên chúng ta không nên cậy vào tài mình. Bởi vì khi có tài mà không có đức, không tu, không biết giấu tài của mình đi mà cứ khoe khoang, hợm hỉnh, cho mình là giỏi, thì tai nạn sẽ đến với mình và mình sẽ đau khổ rất nhiều. 'chữ tài liền với chữ tai một vần' là một câu chơi chữ rất khéo. Và mầm mống của những tai nạn, khổ đau kia đến từ đầu? Cụ Nguyễn Du nói đừng đổ lỗi cho ai hết. 'Ðã mang lấy nghiệp vào thân': khi mình đã có những tham, giận, kiêu căng trong người rồi, thì: 'Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa': đừng đổ lỗi cho ai hế, đừng trách trời. Tại sao mình đau khổ? Mình nói: tại trời, tại xã hội, tại người này, người kia... Kỳ thực mình chịu trách nhiệm lớn về những đau khổ của mình. Vì vậy mình phải quay về tu sửa tâm mình, vun bồi gốc rẽ của cái thiện trong tâm mình. Ðó là vấn đề tu tâm (citta bhavana). Thiện căn (kusalamula) là một danh từ Phật học, có nghĩa là gốc rễ của cái thiện. Cụ Nguyễn Du thấy tu tâm là điều quá trình phải làm. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài: một người có tâm lành, biết tu học thì sẽ có hạnh phúc và mang lại hạnh phúc cho người khác nhiều hơn (bằng ba) những người có tài mà không có tâm lành.
Gửi gắm rất nhiều kinh nghiệm hạnh phúc và khổ đau của mình cho chúng ta rồi, thi sĩ kết thúc truyện Kiều bằng hai câu khiêm nhượng như cụ từng khuyên chúng ta:
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.

Và cũng thật đẹp khi một tác phẩm lớn như truyện Kiều lại được kết thúc bằng hai câu giản dị và khiêm nhượng như vậy.
Sau khi viết xong truyện Kiều, cụ Nguyễn Du có cơ hội được học Phật thêm rất nhiều. Kiến thức về đạo Phật của Nguyễn Du sau truyện Kiều sâu sắc hơn. Có vài danh từ Phật học trong truyện Kiều chưa được hoàn toàn chính xác (Ví dụ như chữ nghiệp và tâm trong đoạn vừa trích dẫn). Chúng ta sẽ thấy ở phần sau.
HOA GHEN THUA THẮM
Họ Vương là một gia đình giàu có loại thường (trung lưu).
Có nhà viên ngoại họ Vương
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng
Vương Quan là chữ nối dòng Nho gia.
Ðầu lòng hai ả tố nga1
Thúy kiều là chị em là Thúy Vân.
Khi giới thiệu gia đình họ Vương. Nguyễn Du giơi thiệu con trai trước rồi mới đến hai cô con chị. Trong truyền thống xưa vị trí người con trai rất quan trọng vì chính con trai tiếp nối được gia phong. Con gái, tuy cũng là con nhưng không phải thực sự là con vì nó sẽ đi lấy chồng, không còn ở nhà để giữ gìn gia nghiệp ông cha. Ðó là quan niệm ngày xưa của chế độ phụ hệ.
Ðầu lòng hai ả tố nga
Thúy kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười
Hai chị em đẹp thanh nhã, tinh thần băng tuyết, trong sáng; hai người đều đẹp, nhưng đẹp khác nhau.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyêt nhường màu da.
Thúy Vân trang trọng đài các, cười nói đoan trang. Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Ðẹp như vậy là đẹp lắm rồi chứ còn gì nữa! Chúng ta tưởng thi sĩ đã dùng hết tất cả chữ nghĩa để tả một cô gái rồi, ai dè ông còn trong túi rất nhiều chữ khác, hay hơn nữa, để tả cô chị.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn[2]
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Vì muốn bảo Thúy Kiều đẹp hơn nên Nguyễn Du đã không bắt đầu bằng cách giới thiệu cô chị mà lại giới thiệu cô em trước. Nhìn qua hình tướng hai chị em, ta có thể thấy được cuộc đời hai cô. Thúy Vân đẹp, mà đẹp rất hiền (Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.). Thúy Kiều đẹp, mà đẹp làm cho người ta phải ganh tức (Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.). Và cái khổ đã nằm sẳn ở sắc đẹp của Kiều rồi. Sinh con gái đẹp vì vậy nguy hiểm lắm!
Một hai nghiêng nước nghiêng thành[3]
Sắc đành đôi một, tài đành họa hai.[4]
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Thúy Kiều rất thông minh. Giỏi thi, họa, ca ngâm và chơi đàn tỳ bà (hồ cầm) rất giỏi. Kiều sáng tác một bản nhạc tên là Bạc mệnh. Bản nhạc rất hay, nhưng đàn lên thì nghe buồn thấm thía ruột gan.
Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Bạc mệnh là số kiếp rất mỏng. Không biết tại sao hồi bé thơ cô nàng đã sáng tác những khúc nhạc như vậy rồi! Nguyễn Du nói rất rõ rằng những khổ đau và truân chuyên của Kiều đã biểu lộ rõ rệt ngay từ khi cô còn là một thiếu nữ. Về phương diện nhan sắc cũng như tài năng của cô, đã óc đầy đủ những lý do khiến cô phải ba chìm bảy nổi và đau khổ suốt đời.
Những người nào có tài thì phải cẩn thận.
Những người nào có sắc cũng phải như thế.
DÂY ÐÀN BÉN NHẠY

Chúng ta đã nghe cụ Nguyễn Du tả ba chị em của Thúy Kiều. Khi cụ tả cô chị, chúng ta thấy rõ ràng trong con người này đã có những hạt giống của tiêu cực. Chính những hạt giống này đã mang lại cho Thúy Kiều nhiều đau khổ. Trong khi đó, Thúy Vân không đau khổ nhiều bằng Thúy Kiều. Thúy Vân chỉ đau khổ vì những cộng nghiệp với Thúy Kiều mà thôi. Biệt nghiệp của Thúy Kiều rất nặng. Cái đẹp của Thúy Kiều có thể làm nảy sinh sự ghen tuông xung quanh mình. sự ghen tuông không chỉ của con người mà của vạn vật. 'Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh'. Chính vì chỗ đó mà Kiều phải chết. Một dấu hiệu khác của tai họa là tài năng của Thúy Kiều. Cô là nhạc sĩ, sáng tác nhạc rất hay, đánh lên thì mọi người đều buồn thấm thía. Trong tâm hồn của Thúy Kiều có hạt giống của sự đau buồn. Kiều là một người đa cảm, cảm nhận được những cái mà người khác không cảm nhận được. Có những cái khi mà hai em thấy thì dửng dưng, cho là thường, trong khi Thúy Kiều lại cho là quan trọng.

Ðoạn tới nói về cuộc đi chơi mùa xuân cả ba chị em. Trong cuộc đi chơi này, ba chị em gặp hai nhân vật: một hồn ma và một người con trai. Hai nhân vật của chiều mùa xuân năm đó sẽ ám ảnh, đi theo Kiều suốt cuộc đời.
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.[5]
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,[6]
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.[7]
Gần xa nô nức yến anh,[8]
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò nấm kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.
Trong văn hóa Á Ðông, đi tảo mộ cũng là đi chơi, là một dịp để người sống bày tỏ sự cảm thông, thân thiết với người chết. Người ta mang theo vàng và nhang... đi thăm mộ, ngồi bên mộ người thân, thắp nhang và đốt tiền vàng bạc xuống cho người cõi âm dùng. Vàng vó là những lượng và những chỉ vàng làm bằng giấy, hoặc những áo quần giấy. Bây giờ ở Mỹ, người Hoa làm ra những tờ một trăm, một ngàn đô la, đốt xuống cho người âm xài thả cửa, gọi là Hell Bank Notes.
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,[9]
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ suối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nắm đất bên đường,
Dàu dàu ngộn của nửa vàng nửa xanh.
Ba chị em đi chơi về, thấy một ngôi mộ bên đường, tiêu điều, không ai thăm viếng và thắp hương, cỏ trên mộ cũng vàng úa, không xanh như những ngôi mộ khác. Thúy Kiều hỏi:
Rằng: 'Sao trong tiết thanh minh,
'Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?'
Vương quan cắt nghĩa:
Vương Quan mới dẫn gần xa:
'Ðạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
'Nổi danh tài sắc một thì,
'Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh.
'Kiếp hồng nhan có mong manh,
'Nửa chừng xuân thoát gãy cành thiên hương.
Ðây là mộ Ðam Tiên, một ca sĩ nổi tiếng ngày xưa, chết khi đang còn trẻ đẹp. Ca nhi không phải là một cô gái ăn sương. Ca nhi chỉ có nghĩa là ca sĩ. Người ta có thể tổ chức mời cô đến hát riêng cho nhà mình. Hát xong, cô lấy tiền rồi về. Người ta cũng có thể cùng các bạn đến nghe hát ở nhà cô, cố nhiên là phải trả tiền đàng hoàng. Có những ca nhi từ chối không hát cho những người thô tục. Họ có quyền như vậy. Thường, thi sĩ làm được thơ hay thì muốn những người có giọng tốt ngâm lên nghe cho đã. Như Trịnh Công Sơn làm được những bài như Diễm Xưa, thấy mình hát cũng chẳng hay gì mấy nên đã đi tìm một người như Khánh Ly để hát giùm, nghe sảng khoái hơn. Ca nhi là những người làm việc đó giúp thi sĩ hay nhạc sĩ. Ở Việt Nam ngày xưa, hễ khi nào các ông làm được một bài ca trù, là họ thường rủ nhau tới nhà trò, yêu cầu cô đào hát cho mình nghe. Còn chuyện cô đào bán mình để có thêm tiền là chuyện không chính thức. Theo nguyên tắc chuyện này không xảy ra nhưng trên thực tế nó đã xảy ra rất nhiều. Nếu hát không được hay lắm thì phải đem cái khác ra để bù trừ, chuyện này xảy ra trong bất cứ xã hội nào. Ở Nhật có những cô geysa, phố Khâm Thiên (Hà Nội) cũng đã từng có nhiều cô ca nhi như vậy, gọi là cô đầu. Thi sĩ Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu xuất thân là con quan (Ấm Hiếu), một hôm đi chơi với các bạn thì gặp em gái mình ở trong giới ca nhi. Ông đau khổ vô cùng. Chúng ta nên hiểu chữ ca nhi theo nghĩa chính của nó là ca sĩ.
Chúng ta nghe Vương Quan kể tiếp:
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ!
Buồng không lạnh ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên ấy là mình với ta!
Ðã không duyên trước chăng mà,
Thì đây chút ước gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử xe châu,[10]
Vùi nông một nấm mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặn ác tà,
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!
Nghe như vậy thì Kiều òa lên khóc:
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
Trong khi đó, Thúy Vân vẫn tỉnh bơ tiếp tục nhai kẹo chewing gum (nếu có chewing gum lúc đó). Anh chàng Vương kể chuyện vẫn tỉnh bơ. Thúy Kiều, trái lại, nghe đến đó thì òa lên khóc, vì cô là một sợi dây đàn rất bén nhạy.
Ðau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mênh cũng là lời chung.
Phũ phàng chi bấy hóa công!
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Sống làm vợ khắp người ta.
Hại thay thác xuống làm ma không chồng!
Rất rõ cô ca nhi này không chỉ đơn thuần là một ca sĩ.
Nào người phượng chạ loan chung,[11]
Nào người tích lục tham hồng là ai[12]
Ðã không kể đoái người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Họa là người dưới suối vàng biết cho.
Mấy chị em ngồi lại thắp hương trên mộ Ðạm Tiên. Kiều cảm cảnh làm một bài thơ tứ tuyệt, viết lên vỏ cây.
Lầm rầm khấn khứa nhỏ to
Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.
Một vùng cỏ ấy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Rút trâm sẵn giắt mái đầu
Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.[13]
Có một sức mạnh gì kéo Kiều ở lại:
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn dứt nối châu sa vắn dài.
Số phận Ðạm Tiên như được nối với số phận Kiều. Kiều thấy đây là người tri kỷ của mình. Và đây là lời phê bình của Thúy Vân:
Vân rằng: Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!
Ðúng là Thúy Vân! Kiều đáp:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
Trông người lại ngẫm đến ta. Nhìn vào số phận Ðạm Tiên, mình không biết thân thế mình sẽ như thế nào mai sau. Vương Quan lúc đó mới chen vào, phản đối:
Quan rằng: Chị nói hay sao,
'Một lời là một vận vào khó nghe!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngã dặm về còn xa.'
- Chị này thật là kỳ cục! Nói câu nào cũng đem số mạng người ta buộc vào số mạng mình! Trời chiều rồi, mình về đi thôi!
Kiều rằng: 'Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách còn là tinh anh.
Dễ hay tình lại gặp tình,
Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ!'
Kiều có những tri giác mà người thường không thể có được. Cô có thể cảm, thấy, nghe, sờ mó được những cái mà người khác không cảm, thấy, nghe, sờ mó được. Theo Kiều thì Ðạm Tiên còn ở đó, không phải bằng thân xác tầm thường mà bằng tinh anh của nàng. Cô nghĩ rằng Ðạm Tiên sẽ đáp lại cái mà tình của mình và khuyên các em ở lại chứng kiến.
Một lời nói chửa kịp thưa,
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Ðè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
Nói vừa xong thì một trận gió mạnh thổi tới làm rụng những lộc non của tháng ba. Trong luồng gió phảng phất nùi hương của người ta (không biết đây là nước hoa Poison Scorpion hay Samsara?), trên rêu xuất hiện những dấu giày mới. Ma Ðạm Tiên đã về!
Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: 'Này thật tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta gặp lại ta,
Chớ nề u hiển mới là chị em.'
Cái cô ghê thật! làm quen liền: 'Chị về đó hả? Như vậy là giữa chúng ta có những mối giây tình cảm thân thiết. Ðừng phân biệt người chết với kẻ sống thì mới là tình chị em. Người ta nói Thúy Kiều thuộc về một thứ nòi gọi là nòi tình. Nguyễn Du cũng thuộc về nòi tình. Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Hữu tình ta mới gặp ta thì Chớ nề u hiển mới là chị em.
Ðã lòng hiển hiện cho xem,
Ta lòng nàng lại nối thêm vài lời.
Lòng thơ lai láng bồi hồi.
Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
Ða sầu, đa cảm, đa tình. Làm một bài thơ tứ tuyệt, rồi lại làm thêm một bài thơ cổ phong nữa. Vẫn chưa chịu về.
LƯNG TÚI GIÓ TRĂNG.
Và bây giờ, nhân vật thứ hai, người con trai của đời Kiều xuất hiện:
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng.
Ðề huề lưng túi gió trăng,[14]
Sau chân theo một vài thằng cỏn con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,[15]
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Không phải chỉ khi tả hai người con gái cụ Nguyễn Du mới tả kỹ lưỡng. Người còn trai này cũng được cụ Nguyễn Du tả rất đẹp rất kỹ. Anh chàng cưỡi một con ngựa bạch, mặc áo màu da trời, đi trong màu lục của cây cỏ. Trong túi của anh chàng có gió và có trăng. Ðây là một người hào hoa phong nhã, thanh nhàn, biết thưởng thức cái đẹp của đất trời. Một người biết sống. An trú trong hiện tại thì người nào cũng có một cái túi đựng gió trăng cả. Không biết cái túi của mình có chút gió trăng nào ở trong không hay chỉ đựng những cát bụi đau buồn? Túi của mình cần phải có nhiều gió trăng, tức là phải có thơ, có nhạc, có sự thanh nhàn và hạnh phúc.
Nẻo xa vừa tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
\
Sự có mặt của người con trai, hài hòa với phong cảnh thiên nhiên, đẹp như cây ngọc dao trong rừng ngọc quỳnh. Thi sĩ tả con gái đẹp mà tả con trai cũng rất đẹp.
NỘI KẾT ÊM ÁI
Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai kiều[16] e lệ nép vào dưới hoa.
Không một chữ nào có thể khoanh tròn để lấy ra được cả. Một câu lục bát mà nói được cả hành động lẫn thái độ của hai bên. Người con trai thì ra chào: "A! Anh Kim đó hả! Lâu quá không gặp!" còn hai cô nàng thì khép nép, núp dưới hoa. Không cần dùng nhiều chữ.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh[17]
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tuyệt vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.
Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân[18]
Cụ Nguyễn Du khen anh chàng đủ điều. Anh chàng cũng đã từng nghe tiếng hai chị em nhà họ Vương:
Trộm nghe thơm nức hương lân,
Một nền Ðồng-Tước khóa xuân hai Kiều[19]
Nước non cách mấy buồng thêu,
Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng.
Và đây là cơ hội đầu để Kim Trọng gặp hai cô nàng:
May thay giải cấu tương phùng[20]
Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa[21].
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
Người quốc sắc kẻ thiên tài
Tình trong như đã mặt ngoài còn e.
Kim Trọng đã chú ý tới Kiều và Kiều cũng chú ý tới Kim Trọng. Tiếng sét đã nổ. Chỉ có tám chữ thôi: Tình trong như đã mặt ngoài còn e. Bên ngoài thì có ai nói gì với ai đâu. Bên trong thì đã có nội kết êm ái rồi.
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉnh khôn.
Ở thêm để nói chuyện thì kỳ quá mà về thì không dứt nổi. Nhưng cuối cùng cũng phải về:
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa người còn ghé theo.
Dưới cầu nước chẩy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Chấm dứt buổi hội ngộ. Văn chương gì mà hay vậy!
TƯỚI TẨM HẠT GIỐNG
Tất cả những gì xảy ra trong chuyến đi chơi đều được biểu hiện trở lại ngay trong giấc mộng tối hôm đó của Thúy Kiều. Hạt giống gieo và đều hiện hành ra ngay. Thật dễ sợ. Ðây là chỗ tài tình của Nguyễn Du.
Kiều từ trở gót trướng hoa,
Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.[22]
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cảnh xuân la đà.
Một mình lặng ngắm bóng nga,
Rộn đường gần với nỗi xa bồi hồi:
Kiều ngồi ở cửa sổ, một mình ngắm trăng. Cô suy nghĩ lại chuyện xảy ra trong ngày:
Người mà đến thế thì thôi,
Ðời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm có biết duyên gì hay không?
'Người' trong câu đầu là Ðạm Tiên. 'Người' trong câu kế tiếp là Kim Trọng. Thúy Kiều có nội kết với Kim Trọng rất rõ ràng.
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Nêu câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
Hết nghĩ tới con ma lại nghĩ tới anh chàng. Nghĩ tới anh chàng rồi lại nghĩ tới con ma... Rồi làm thơ về những điều mình nghĩ. Ðây là hành động tự mình tưới tẩm những hạt giống trong tâm mình.
Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu.
Không chịu đi ngủ đàng hoàng. Ngồi ngủ gục, và Kiều mơ thấy Ðạm Tiên:
Thoát đâu thấy một tiểu kiều,
Có chiều phong vận có chiều thanh tân.
Sương in mặt tuyết pha thân,
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Một cô rất đẹp, đến từ trong đêm. Bước chân rất nhẹ, thấp thoáng khi thì ở gần khi thì ở xa. Ðúng là một bóng ma! Vì vậy người ta nói cụ Nguyễn Du là thi thánh chứ không phải là một thi sĩ thường.
Rước mừng đón hỏi dò la:
'Ðào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?'
Thưa rằng: 'Thanh khí xưa nay,
'Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên?
'Hàn gia ở mái tây thiên,
'Dưới lòng nước chảy bên trên có cầu.
- 'Chị em mình là người đồng thanh đồng khí. Mình vừa mới gặp nhau chiều nay, chị quên rồi sao? Nhà em ở hướng tây, dưới dòng nước chảy, bên trên có cầu.' Hàn gia có thể có nghĩa là khiêm nhượng là nhà nghèo, không sang trọng. Nhưng 'hàn' cũng có nghĩa là lạnh. Nhà lạnh tức là nhà mồ.
'Mấy lòng hạ cố đến nhau
'Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng[23]
'Vâng trình hội chủ xem tường,
'Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
'Âu đành quả kiếp nhân duyên,
'Cũng người một hội một thuyền đâu xa!
'Này mười bài mới mới ra,
'Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.'
Ðạm Tiên đã đem thơ của Kiều trình cho bà hội chủ hội Ðoạn Trường. Bà này mở sổ của những người đàn bà có số phận mỏng ra tra và thấy tên Kiều. Ðạm Tiên đưa thêm mười bài mới, yêu cầu Thúy Kiều vịnh để bỏ vào tuyển tập (collection) của hội Ðoạn Trường. Họ là những người suốt đời đau khổ. Trong nguyên tác, mười đề bài đó là: Tích đa tài, Liên bạc mệnh, Bi kỳ nộ, Ức cố nhân, Niệm nô kiều, Ai thanh xuân, Ta kiến ngộ, Khổ linh lạc, Mộng cố viên và Khốc tương tư. Toàn là những đề tài đứt ruột. Thúy Kiều chỉ cần mấy phút đồng hồ là làm xong cả mười bài thơ.
Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
Xem thơ nức nở khen thầm:
'Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường!
'Ví đem vào tập đoạn trường,
'Theo treo giải nhất chi nhường cho ai!'
- 'Thơ của chị hay quá! Bỏ vào tập Ðoạn Trường là hay nhất, không ai bằng.' Nói xong Ðạm Tiên cầm mấy bài thơ và từ biệt. Kiều còn muốn giữ lại:
Thềm hoa khách đã trở hài,
Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
Gió đâu sịch bức mành mành.
Tỉnh ra mới biết là mình chiêm bao.
Trông theo nào thấy đâu nào,
Hương thừa phảng phất ra vào đâu đây.
Kiều tỉnh dậy còn nghe của mùi nước hoa của con ma mới ghé thăm đó.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!
Thấy khúc đời còn lại của mình mà ngán quá. Không dám sống.
Hoa trôi bèo dạt đã đành,
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đời còn lại sụt sùi đôi cơn.
Tâm Kiều như có những đợt sóng lên xuống. Càng suy nghĩ chừng nào thì Kiều càng khóc lớn chừng đó. Bà Vương đang ngủ gần đó bị quấy rầy:
Giọng Kiều rền rĩ trướng loan,
Nhà huyên [24] chợt tỉnh hỏi con cớ gì:
'Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa?'
Thưa rằng: 'Chút phận ngây thơ.
'Dưỡng sinh đôi nọ tóc tơ chưa đền.
'Buổi ngày chơi mả Ðạm Tiên,
'Nhắp đi thoát thấy ứng liền chiêm bao.
'Ðoạn trường là số thế nào,
Bài ra thế ấy vịnh vào thế kia.
'Cứ trong mộng triệu mà suy,
'Phận con thôi có ra gì mai sau!'
Bà mẹ nói: 'Ôi những cái chuyện nằm mơ! Do tâm mình tưởng ra như vậy, tin vào đó thì chết. Tại sao tự mua chuốc chuyện sầu não làm gì hả con? Con đừng tin vào những giấc mộng. (Bà nói như vậy thôi nhưng trong lòng bà cũng lo sợ lắm!)
Dạy rằng: 'Mộng huyễn cứ đâu,
'Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao!
Vâng lời khuyên giải thấp cao,
Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.[25]
Vừa được mẹ khuyên can về chuyện con ma xong, thấy lòng có nhẹ bớt một chút thì Kiều lại nghĩ đến chuyện Kim Trọng.
Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
Nách tường bông liễu bay sang láng giềng.
Hiên tà bóng gác nghiêng nghiêng,
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình.
Hai đứa em dại quá, không thể hiểu được tâm sự của chị Thúy Vân thì đang ngủ khì. Vương Quan là con trai, mình đâu có tâm sự được với nó. Nói với mẹ lại càng không được: Con gái gì mới gặp con trai đã thương, đã đặt vấn đề có liên hệ gì với anh chàng sau này không! Thúy Kiều rất cô đơn trong tâm trạng này. Chúng ta sẽ đọc tâm trạng của anh chàng.
Có một điều cần nói ở đây. Bản nhạc Kiều sáng tác là một bản nhạc rất buồn. Mỗi lẫn đàn lên, Kiều lại có cơ hội tưới tẩm những hạt giống của sự đau buồn đó. Rất nguy hiểm. Vì vậy tôi nghĩ rằng khi tiêu thụ các sản phẩm văn nghệ chúng ta phải chọn những bài lành mạnh, có sự cởi mở, nhẹ nhàng, giải thoát. Phải cẩn thận như khi chúng ta ăn. Nếu chúng ta biết chọn những thức ăn không có độc tố thì chúng ta cũng phải biết chọn những sản phẩm văn hóa lành mạnh tiêu thụ. Tôi không muốn chúng ta hát ngâm những bài rền rĩ đau thương quá. Ngâm, hát những câu thơ và những bài hát đó chúng ta đang thực tập tưới tẩm những hạt giống đau thương trong mình. Có một thầy trẻ ngâm thơ hay. Mỗi khi ngâm những bài thơ buồn thì thầy khóc nức nở, không còn tác phong của người tu hành nữa. Thầy không biết chính trong lúc đó thầy đang tưới tẩm những hạt giống đau thương. Trong thiền có rất nhiều thi ca và âm nhạc nhưng thi ca và âm nhạc Thiền phải nhắm tới mục đích giải phóng và chuyển hóa. Ngồi đó mà đọc và nghe những bài thơ và bài nhạc đau thương, hưởng cái thú gọi là 'thú đau thương' là thực tập ngược lại thiền. Gãi, cào, cấu những nỗi đau của mình như vậy cũng có sự thú vị, nhưng càng thú chừng nào thì hạt giống buồn đau càng lớn chừng đó. Rất nguy hiểm. Hình ảnh những chàng trai, những cô gái còn trẻ ôm một cái băng của Thanh thúy nằm nghe rồi rên xiết là một hình ảnh rất tiều tụy.
Ngày xưa, khi chị Cầm của tôi đọc truyện Kiều cho mẹ tôi nghe, ngang câu 'Phấn sao phấn bạc như vôi, Ðã đành nước chảy hoa trôi lở làng' mẹ tôi nói: 'Ðâu có! Trong sách để 'phận' rõ ràng mà, tại sao lại dọc 'phấn?' mẹ tôi nói: 'Ðúng rồi. Viết là 'phận' nhưng nếu mình đọc: 'Phận sao phận bạc như vôi' thì mình cũng đang làm khổ Kiều vậy. Mình sẽ vận nó vào trong người. Rất nguy hiểm. Thành ra phải đọc là 'phấn' (để chứng tỏ là mình khác). Lúc đó mấy chị em mới hiểu là trong văn hóa của mình có truyền thống tự bảo hộ như vậy. Không phải chỉ trong đạo Phật người ta mới cẩn thận trong việc tưới tẩm hạt giống, chính trong văn hóa Việt Nam cũng có truyền thống kiêng cữ. Người còn gái nào chơi đàn Ðộc huyền cầm (đàn bầu) nhiều thì người ta tin rằng cô sẽ suốt đời đau khổ. Tiếng Ðộc huyền rất 'trệ', làm người nghe lụy xuống. Ngồi đó mà chơi "Ðêm tàn bến Ngự"... tưới tẩm hoài những hạt giống đau thương thì thế nào cũng có một ngày mình sẽ lãnh đủ. Ðây là chuyện thực tập. Người tu mà không biết chuyện này là có thiếu sót.
Có một thi sĩ làm thơ hô hào những nhà sáng tác, những ca sĩ từ bỏ lối sáng tác và ca hát đau thương đứt ruột. Ông ta viết những câu này, tôi còn nhớ:
Ðừng kể nữa những mảnh tình tan tác,
Hãy đứng lên, nhạc sĩ, với tôi đi!
Tôi ghét anh ưa giọng hát sầu bi,
Và tung mãi tâm hồn thường trụy lạc.
Hãy đứng dậy! Vứt chiếc cầm áo não!
Tôi cần nghe những khúc nhạc rất hùng.
Thét ngựa lòng phi mãi chẳng chồn chân,
Sáng như gươm tuốt, mạnh như luồng bão.
Ôi nhạc sĩ! Thật anh người thậm tệ!
Quan hoài chi những khúc hát mê ly,
Những câu ca không đẹp lại không thi
Của kỹ nữ vọc cuộc đời ê trệ?
Hay cung kính nhượng những người tuổi tác,
Những bản đàn nhịp hát thiếu tinh thần.
Hãy ra xem sóng vỗ với mây vần,
Và sáng chế cho tôi vài điệu khác.
Nếu chúng ta cứ hát những bài khóc gió than mây và cứ nghe những bài độc huyền thì có thể 'vận cái rủi' vào số mạng của mình, tưới tẩm những hạt giống đau buồn, điều đó không tốt.
GIỐNG HỮU TÌNH
Ðây là tình cảm của Kim Trọng sau cuộc gặp gỡ đầu tiên với Kiều:
Cho hay là giống hữu tình,
Ðố ai gỡ mối tơ mành cho xong!
Cụ Nguyễn Du nói tới chàng sinh viên này như nói về chính cụ. Cụ là một người có rất nhiều tình. Có nhiều tình thì có thể có nhiều đau khổ. Người ta nói đến một 'giống' người (race) gọi là 'nòi tình'. Thúy Kiều, Kim Trọng và cụ Nguyễn Du đều thuộc 'chủng tộc' này. Cho nên cụ rất thông cảm. 'Cho hay là giống hữu tình' có nghĩa là: 'Tôi biết mà! Anh thuộc về cái giống hữu tình thì thế nào anh cũng bị kẹt'. Hồi trẻ chắc chàng Nguyễn Du cũng đa tình lắm! Chắc chàng cũng đã nhiều lần bị kẹt.
'Ðố ai gỡ mối tơ mành cho xong': đã vướng vào vòng tình ái rồi thì gỡ ra rất khó. Ðây là cụ nói ra từ kinh nghiệm của mình, Chữ tình ở đây là thứ tình yêu có đam mê. Nhưng chữ tình có thể chỉ nhiều loại tình cảm khác. Ví dụ Từ, Bi, Hỷ, Xả cũng là tinh, nhưng tình này không có tính đam mê. Tôi nhớ ở chùa Trúc Lâm, Huế các thầy dùng chữ rất táo bạo. Trong thiền thất, các thầy để lại hai câu đối như thế này:
Bất tục tức Tiên cốt
Ða tình thị Phật tâm.
Cốt cách của người tiên thì thanh, trong trần tục. Trái tim của Bụt là một trái tim có nhiều tình thương. Bụt thương, không phải chỉ một người mà rất nhiều người. Từ loài người cho đến 'con sóc, con nai, con muỗi, con giun, con chim, con cá...'[26] Như vậy là 'đa tình' chứ gì nữa! Tôi dịch là; Cốt tiên là không tục, Tâm Bụt vốn nhiều tình. Tình như tình của Bụt thì càng nhiều càng tốt, không sao hết. Tình đam mê, bi lụy, chiếm hữu, dính mắc... thì mới ngán. Về thăm chùa Trúc Lâm quý vị sẽ thấy hai câu đối đó.
Vướng vào cái vòng tình ái gỡ ra rất khó. Chàng thư sinh nọ gặp người đẹp rồi, về đọc Tứ thư, Ngũ kinh, Ðại học, Trung dung, Luận ngữ... không vô nữa. Văn sách, Kinh nghĩa không làm gì được cả. Sách vỡ, chữ nghĩa chạy đi đâu hết, chỉ có hình ảnh nàng Kiều trấn ngự trong lòng thôi.
Chàng Kim từ lại thư song,
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Một ngày thương nhớ dài như ba năm. Thi sĩ dùng hình ảnh một hũ sầu để nói về sự nhung nhớ. Người ta thường lắc hủ để dồn những vật bên trong lắng xuống đáy, làm hũ vơi đi. Cái hũ sầu ở đây càng lắc càng thêm đầy. Ðúng là thơ!.

NHỚ ÍT TƯỞNG NHIỀU
Mây Tần khóa kín song the,
Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao.[27]
Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao,
Mặt tơ tưởng mặt lòng khao khát lòng.
Ðọc những câu thơ này chúng ta đừng cười Kim Trọng. Có cười nên cười thi sĩ Nguyễn Du, một nhà Nho đang làm quan ở triều đình mà viết những câu thơ về tình tương tư như vậy.
Phòng văn hơi giá như đồng,
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan.
Mành Tương phân phất gió đàn,[28]
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Ví chăng duyên nợ ba sinh,
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
Tội nghiệp! Lâm vào tình cảnh này thật là nguy hiểm lắm. Không làm ăn gì được cả. Không sinh hoạt gì được trong phòng học cả (phòng văn lạnh ngắt như đồng): bút (lông thỏ) lâu ngày không viết ngọn khô quặn lại, đàn không gảy dây chùng lại, trà không pha, hương không đốt. Hoàn toàn tê liệt vì sự nhớ tưởng đến bóng hình kia. Nhớ quá, chịu không nổi, không biết làm gì hơn là tìm trở lại nơi chốn đã gặp nàng thăm để cho đỡ nhớ:
Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi.
Một vùng cỏ mọc xanh rì,
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.
Bên dòng suối ngày xưa làm gì còn bóng dáng người kia nữa! Nước đâu lưu lại bất cứ hình bóng nào. Cỏ bây giờ đã gần thành cỏ tháng tư, xanh hơn màu cỏ tháng ba nhiều lắm. Thà rằng không tới, tới càng buồn thêm:
Gió chiều như giục cơn sầu,
Vi lô hiu hắt như màu khói trêu.
Những cây lau lắc lư trước gió như trêu chọc kẻ si tình: "A cái anh chàng! Còn gì nữa đâu mà tìm kiếm ở đây!" Nhớ nhung quá, anh chàng tìm luôn tới nhà cô nàng:
Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.
'Nghề riêng' là tập khí nhà văn của anh chàng. Kim Trọng viết văn hay, dùng trí tưởng tượng nhiều hơn ký ức về những chuyện có thật. Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều nghĩa là những cái nhớ được thì rất ít nhưng những cái tưởng tượng ra thì rất nhiều. Thường thường là như vậy. Khi yêu, giận hay buồn người ta tưởng tượng ra nhiều cái rất ngộ, không có trong sự thật. Vẽ vời bao nhiêu là cái... Ðâu cần phải là nhà văn! Kẻ nào đang bị lôi cuốn theo tình cảm yêu, giận, buồn, ganh... của mình đều tạo tác ra rất nhiều "tưởng" để bị bao vây trong thế giới của tưởng. Anh chàng tưởng tượng tới nhà Kiều sẽ gặp được người đẹp, rồi gì gì nữa. Nhưng tới nơi thì chàng thấy gì?:
Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh.[29]
Xung quanh bốn bức tường cao, nhìn vào cũng không thấy được gì. Không có phương tiện để liên lạc, nhắn tin. Ði quanh một vòng rồi về chứ làm gì nữa!
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
Những cây liễu buông rũ xuống như bức mành. Trên cây có con chim oanh tập hót, chọc ghẹo anh chàng: 'Anh chàng si tình ơi! Ðứng đó làm gì? Ði về cho rồi!' Tâm trạng anh chàng như vậy nên thấy cái gì cũng như đang trêu chọc mình hết. Cụ Nguyễn Du không nói: "anh chàng nhớ cô nàng quá, thất vọng quá"... mà dùng toàn hình ảnh để diễn đạt ý đó. Dùng hình ảnh để nói, đó là thơ.

Mấy lần cửa đóng then cài,
Ðầy thềm hoa rụng biết người ở đâu?
Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
Dạo quanh chợt thấy mé sau có nhà.
Là nhà Ngô Việt thương gia,
Phòng không để đó người xa chưa về,
Lấy điều du học hỏi thuê,
Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
Dọn đến làm hàng xóm. Ở một, hai bữa không gặp nhưng ba, bốn bữa chắc thế nào cũng có dịp gặp. Người ta cũng phải mở cửa đi ra chứ không lẽ ở hoài trong nhà sao! Ðó là hy vọng của chàng Kim.
Có cây có đá sẵn sàng.
Có hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai.
Nhà có cảnh đẹp và lại có một cái hiên ngắm hoa đề ba chức "Lãm Thúy Hiên". Lãm là ngắm, Thúy là màu xanh đẹp của cây cảnh, trùng với chữ trong tên của Thúy Kiều. Vì vậy Kim Trọng mừng:
Mừng thầm chốn ấy chữ bài,
Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
Ðúng là khi đam mê người ta hay tưởng tượng và suy diễn theo cái muốn của mình. Ba sinh là nói đến chuyện hôn nhân. Ngày xưa khi gặp người còn trai hay người con gái mà thương thì người ta nghĩ ngay đến chuyện cưới nhau làm vợ chồng. Không có chuyện chỉ liên hệ trong chốc lát hay chỉ đi chơi như đời bây giờ. Bây giờ người ta gặp cô nầy xong thì gặp cô khác, đang chơi với cô nầy, thấy cô khác xinh xinh cũng chạy theo luôn. Có hai ba người một lần. Chính ngay trong số thiền sinh tới đây cũng có người đồng thời chơi với hai ba cô. Nhất là ở Ðức. Có người tới thưa: 'Bạch Thầy, con thương ba người một lần. Bây giờ làm sao?' Quý vị ra hành đạo bây giờ khó lắm! Ngày xưa dạy cho anh chàng Kim Trọng này thì còn dễ.
Sông hồ nửa khép cánh mây,
Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
Tấc gang động khóa nguồn phong,[30]
Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
Rình hoài. Cửa sổ không bao giờ đóng hết. Cách nhau trong gang tấc mà hoàn toàn không sao gặp mặt được. Ngóng đợi như vậy, hai tháng trôi qua.
Cách tường phải buổi êm trời,
Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
Buông cầm xốc áo vội ra,
Hương thơm còn nức người đà vắng tanh.
Một hôm thấy nhàbên kia có thấp thoáng bóng người, anh chàng buông đàn, xốc áo và chạy ra liền. Rình hoài mà. Ra tới thì cô nàng đã đi mất rồi, chỉ còn mùi nước hoa thoang thoảng.
Lần theo tường gấm dạo quanh,
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa.
Không biết Kiều đã làm rớt cành thoa thật hay nàng đã cố tình để nó lại trên cành đào? Ðây là một nghi án phải điều tra. Cô nàng có thể cũng biết có anh chàng ở bên cạnh nhưng không dám ra. Cái cách ngày xưa là như vậy. Vô tình hay hữu ý xin để tùy người đọc phán đoán.
Giơ tay với lấy về nhà:
'Này trong khuê các đâu mà đến đây?
'Gẫm âu người ấy báu này,
'Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!'
Ngộ nghĩnh không! Chiếc trâm ở bên nhà người ta mà mình lại nhón qua lấy. Cố tình 'với lấy' rồi đoán vào là duyên mình.
Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
Ngắm nghía không ngủ suốt đêm. Có cảm tưởng hương trầm của người đẹp còn thoang thoảng nơi cây trâm.
ÐÀI GƯƠNG SOI ÐẾN DẤU BÈO CHO CHĂNG?
Tan sương đã thấy bóng người,
Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ,
Sinh đà có ý đợi chờ,
Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
'Thoa này bắt được hư không,
Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về[31]
Cây thoa của Kiều vướng trên cành đào. Nhánh đào phải nằm bên "không phận" nhà bên kia chứ đâu qua nhà bên này được. Vói lấy của người ta rồi nói: 'bắt được hư không!'
Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
'Ơn lòng quân tử sá gì của rơi.
'Chiếc thoa là của mấy mươi,
'Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!'
Nghĩa khí là lòng ngay thẳng, thành thật, trong trắng của con người. Cô ta khen anh chàng: 'Chiếc thoa là của mấy mươi, Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!' Cô cũng lịch sự và khéo léo lắm!
Sinh rằng: Lân lý ra vào,[32]
'Gần đây nào phải người nào xa xôi.
'Ðược rày nhờ chút thơm rơi,
'Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
'Bấy lâu mới được một ngày,
'Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.'
Vội về thêm lấy của nhà,
Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.
Thang mây rón bước ngọn tường,
Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe?
Anh chàng mừng quá, tấn công liền. Chạy về lấy quả, vác thang bắc vào tường leo lên, chàng nhìn qua nhà hàng xóm.
Sượng sùng giữ ý rụt rè,
Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu.
Chúng ta thấy được thái độ của hai người. Anh con trai thì cảm thấy may mắn quá, cố nhìn cho rõ mặt cô nàng. Hôm trước dại quá, phải làm bộ nói chuyện với Vương Quan thành ra chỉ liếc sơ sơ. Bây giờ nhất định phải nhìn cho rõ. Người con gái thì sượng sùng, giữ ý, rụt rè và e lệ cúi đầu, không dám nhìn thẳng lên. Con gái nhà nề nếp mà! Nhưng chỉ nề nếp tới một mức nào đó thôi. Anh chàng nói:
Rằng: 'Từ ngẫu nhĩ gặp nhau,
'Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn.
'Xương mai tính đã rũ mòn,
'Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
'Tháng tròn như gửi cung mây,
'Trần trần một phận ấp cây đã liều!'[33]
Anh chàng chờ lâu quá. Tháng này qua tháng khác, chờ đợi đến nỗi ốm đi, chỉ còn da bọc xương. Bây giờ là cơ hội cho nên anh chàng tấn công thẳng:
'Tiện đây xin một hai điều:
Ðài gương soi đến dấu bèo cho chăng?'
Ðặt yêu cầu rất rõ: 'Cô có đáp ứng được niềm thương yêu của tôi không?' chàng nói rất khéo: 'Ðài gương soi đến dấu bèo cho chăng?' Rất tội nghiệp. Ví cô nàng như gương sen, ở trên soi xuống; thân phận chàng con trai thì chỉ như thân bèo nhỏ bé ở sát mặt nước nhìn lên gương sen. Lúc chưa có được người đẹp thì phải nói như vậy mới có hy vọng chiếm được. Cưới được rồi thì có thể nói ngược lại. Có thể nói những điều rất kỳ: Em không được tích sự gì hết! Nấu nối cơm cũng không chín. Nghe nói ở Paris có một anh chàng Tây muốn cưới một cô Việt Nam. Ðến nhà cô nàng, anh chàng khen: Trời ơi, nhà em đốt nhang sao mà thơm quá! Ðến khi cưới rồi, thì: Ðốt nhang làm gì mà đốt mãi thế? Ngộp quá! Làm dơ trần nhà hết trơn! Anh chàng của chúng ta đang ở giai đoạn chưa chiếm hữu được thành ra rất dễ thương: 'Tiện đây xin một hai điều, Ðài gương soi đến dấu bèo cho chăng?'
Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
'Thói nhà băng tuyết chất hằng phỉ phong.[34]
'Dù khi lá thắm chỉ hồng,[35]
'Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
'Nặng lòng xót liễu vì hoa,
'Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!'
Ðó là cách trả lời của con gái ngày xưa. Dầu bằng lòng rồi đi nữa cũng phải nói: 'Em không biết. Cái đó anh hỏi ba má em.' 'Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong' là gia đình sống một nếp sống truyền thống, giản dị, khỏe mạnh và đạo đức.
Sinh rằng: Rày gió mai mưa,
'Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
Vô thường lắm cô ơi! Có mấy cơ hội may mắn như ngày hôm nay:
'Dù chăng xét tấm tình si
'Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
Chút chi gắn bó một hai,
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh.
Nếu em không xét lại mà một mực dù từ chối thì chắc anh sẽ chết mất! Thiệt thòi cho anh mà chẳng có ích lợi gì cho em đâu! Em bằng lòng đi cho anh an tâm rồi anh sẽ đi tìm người tới làm mối mai hỏi em. Anh chàng này chắc đi học trường luật để ra làm trạng sư được!
'Khuôn thiêng dù phụ tấc thành.
'Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
Nếu trời không cho anh cưới được em thì anh sẽ chết. Anh thề sẽ không cưới ai nữa hết. Tuổi trẻ của anh coi như là bỏ đi. Sinh mạng anh tùy thuộc vào em. Em nói "Yes" thì anh sống, mà nói "No' thì anh chết. Ghê không? Những chàng sinh viên thời này chưa chắc nói được như vậy!
Lượng xuân dù quyết hẹp hòi.
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
'Em không tội nghiệp anh sao? Mấy tháng nay anh không ăn, không ngủ, không học, không đàn, không pha trà, không viết lách. Ốm tong teo. Mở cửa sổ suốt ngày đêm để nhìn qua như vậy thôi...' Ðó là tất cả những điều mà người con trai có thể nói. Nói như vậy thì làm sao Kiều có thể từ chối được? Nhất là Kiều đã có nội kết sẵn rồi.
Lặng nghe lời nói như ru,
Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.[36]
Rằng; 'Trong buổi mới lạ lùng,
'Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
Có một giây phút gọi là giây phút thua trận. Kháng chiến đã thất bại. Mặt trận đã vỡ. Thành trì đã bị quân địch phá đổ rồi!
'Ðã lòng quân tử đa mang,
'Một lời vàng tạc đá vàng thủy chung.'
Như vậy là trận đánh đã kết thúc. Ngày xưa ông Vương có nói với bà Vương như vậy không? Chắc cũng na ná như vậy chứ gì!
Ðược lời như cởi tấm lòng,
Giở kim hoàn với khăn hồng trao tay.
Rằng: 'Trăm năm cũng là đây,
'Của tin gọi một chút này làm ghi.'
Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ,
Với cành thoa ấy tức thì đổi trao.
Trao đổi tặng phẩm để cụ thể hóa mối tình, làm tin sự đính ước.
Một lời vừa gắn tất giao,
Mái sau dường có xôn xao tiếng người.
Có tiếng người đi tới.
Vội vàng lá rụng hoa rơi,
Chẳng về viện sách nàng dời lầu trang.
Không có cách gì để có thể viết hay hơn nữa. Hai người đang gặp nhau, nghe tiếng động vội vàng xa nhau. Một bên là hoa, một bên là lá. Hình ảnh 'lá rụng hoa rơi' hay ở chỗ rất nhẹ nhàng không ai biết.
TỪ PHEN ÐÁ BIẾT TUỔI VÀNG
Từ phen đá biết tuổi vàng,
Tình càng thắm thía dạ càng ngẩn ngơ.
Hay câu rất hay. Rất đúng chân lý. Trước kia thầm yêu, trộm nhớ, khổ và thiếu nhau thiệt. Tưởng gặp được nhau, nói được những lời thương yêu, hứa hẹn với nhau thì đỡ khổ. Ai dè sau đó thì càng nhớ, càng khổ, càng thiếu nhau thêm. Ở xa, mình tính bỏ ra ba trăm quan nói chuyện điện thoại với người kia, nghĩ rằng nói xong thì thương nhớ nhẹ bớt. Ai dè, nói xong lại càng thấy xôn xao và nóng nảy, bồn chồn hơn. Cái mà mình tưởng sẽ làm cho mình thỏa mãn, hết khổ lại làm cho mình khát khao, khổ sở nhiều lần. Ðây là một sự thực, được nói ra không phải từ Kinh điển mà từ kinh nghiệm của người đời. Nói kinh nghiệm chứ không phải là thuyết pháp. Giá trị của sự thực này không thua gì giá trị của một câu Kinh.
Sông Tương một dải nông sờ,
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.
Ðây là hai câu lấy ý đoạn thơ trong Tình Sử:
Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Ðồng ẩm Tương giang thủy.
(Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương, nhớ nhau mà không thấy mặt nhau, {dù} cùng uống nước sông Tương). Làm sao mà gặp được nhau hoài hoài, mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút? Một lần là đã quá may mắn rồi!
NGẪM CƠ HỘI NGỘ ÐÃ ÐÀNH HÔM NAY
Lần lần ngày gió đêm trăng,
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Màu hồng ít đi, màu lục nhiều hơn. Mùa Xuân đã nhường chỗ cho mùa Hè.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia,
Trên hai đường dưới nữa là chị em.
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.
Gia đình Thúy Kiều về bên ngoại ăn sinh nhật. Kiều ở nhà, cố nhiên là cô lấy cớ: 'Con nhức đầu. Con xin ở nhà.' Ðây là cơ hội để đi gặp anh chàng.
Nhà lan thanh vắng một mình,
Ngẫm cơ hội ngộ đã đành hôm nay.
Thời trân thức thức sẵn bày,
Gót sen thoan thoát dạo ngay mái tường.
Kiều nấu vài món thật ngon, chạy ra chỗ hai người đã gặp và thề thốt. Thời trân là những món ăn trong mùa. Mùa nào có thức ăn mùa đó. Ví dụ mùa Xuân có rau tía tô, kinh giới (thì làm xuân quyện), màu hè có rau xà lách, bông bí...; Những món ăn trong mùa thì tươi và ngon (thời trân). Không nhằm mùa mà mua ăn (hay ăn đồ hộp) thì không ngon nữa. Một thi sĩ Việt Nam trong nhóm Xuân Thu Nhã Tập có câu; Ðáy đĩa mùa đi nhịp hải hà. Bốn mùa đi ngang qua đáy đĩa theo nhịp của sông và biển. Mùa nào ăn món ngon của mùa đó, chỉ có ý ấy mà nói một cách rất 'điệu',
Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,
Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông.
Cô nàng vừa đằng hắng một cái thì đã thấy anh chàng đứng sẵn ở bên kia rồi. Làm sao anh ta biết nhà bên kia hôm nay đi ăn sinh nhật bên ngoại mà đứng chờ? Thiệt là tài tình! Thật ra cả ngày anh có làm ăn được gì đâu, suốt ngày chỉ nhìn qua bên này, chờ đợi thôi mà. Và bây giờ anh chàng trách:
Trách lòng hờ hững với lòng,
'Lửa hương chốc để lạnh lùng bây lâu.
'Những là đắp nhớ đổi sầu,
'Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm.'
Anh chàng cường điệu hóa! Mới có hai mươi mấy tuổi đầu làm sao mà tóc bạc được.
Nàng rằng: 'Gió bắt mưa cầm,
'Ðã cam tệ với tri âm bấy chầy.
'Vắng nhà được buổi hôm nay,
'Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng!
Hai chữ lòng được sử dụng rất khéo. Ðáp lại tấm lòng bằng một tấm lòng. Khi viết truyện Am Mây Ngủ tôi cũng bắt chước cách nói của cụ Nguyễn Du: 'Tác giả đã lấy lòng của một thiền sư để hiểu lòng của một thiền sư (Trúc Lâm Ðại Sĩ).'
Bây giờ Kiều đi vòng theo hòn non bộ, thấy cuối tường có một cái lỗ có thể đi chui vừa được rào lại.
Lần theo núi giả đi vòng,
Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Xắn tay mở khóa động đào,
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai.
Xé rào, chui lỗ tường qua gặp nhau mà nói rất văn hoa.
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi,
Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên.[37]
Sánh vai về chốn thư hiên,
Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông.[38]
KHÔNG GIAN TRONG BỨC HỌA
Trên yên bút giá thì đồng,
Ðạm thanh một bức tranh tùng treo trên.[39]
Thi đồng là cái hộp đựng những bài thơ mới làm. Bút giá là giá gác bút. Ngày xưa tôi nghèo quá, không có cái thi đồng. Nhiều khi làm thơ để rơi rụng, bay đi đâu mất cả. Nhất là khi có ý thơ muốn viết ra lại lấy mấy cái bì thư cũ, viết vào năm bảy câu, sau tưởng là rác đem liệng mất. Rất uổng. Phải mà có cái hộp, làm bài nào cũng bỏ vào đấy, đóng nắp lại thì đỡ quá.
Thấy bức tranh tùng Kim Trọng vẽ, Thúy Kiều khen:
Phong sương được vẻ thiên nhiên.
Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Cây tùng mang vẻ hùng vĩ của một bậc trượng phu, chịu đựng được sương tuyết và gió mây. Thúy Kiều khen, không phải khen sơ sơ mà khen hết lòng (mặn khen).
Sinh rằng: 'Phác họa vừa rồi,
'Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa.'
Kim Trọng xin Kiều đề vài câu thơ để bức họa có thêm giá trị. Ý nói: "Nét vẽ của anh đâu có đẹp gì, nhưng nếu em cho vào vài câu thơ thì bức họa có thể bán tới hai ba ngàn đô la. 'Một bên khen vẽ đẹp, một bên khen thơ hay.'
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
Khoảng trên là lạc khoản. Theo lối họa cổ điển, người ta không bao giờ vẽ choán hết khung vải hay khung tranh mà luôn luôn để không gian trong bức họa. Vì vậy bức họa có thiền vị. Ðôi khi người ta vẽ một dòng sông, vài ba cây lau sậy, một con thuyền cắm sào, còn lại phía trên bao nhiêu là trời, bao nhiêu là không gian. Nhìn vào mình thấy trong người rất khỏe. Thầy tu khi vẽ cũng nên vẽ như vậy. Phải có rất nhiều không gian. Khi viết thư cũng nên như vậy. Càng ngắn càng tốt, càng thiền. Liệng bớt được chữ nào tốt chữ đó. Viết một cái thư mà đặc nghịt từ trên xuống dưới, người ta nhìn vào sẽ thấy mệt, chưa muốn đọc liền. Viết theo kiểu đánh điện tín; thêm một chữ là phải trả thêm tiền. Khoảng trống trong bức họa (lạc khoản) là chỗ khi gặp người tri kỷ hay giỏi thơ người ta sẽ nhờ đề vào vài chữ. Nếu không có ai thì tác giả tự đề.
NHẢ NGỌC PHUN CHÂU.
Kiều rất giỏi. Ngoáy vài cái đã xong ba bốn câu thơ trên lạc khoản. Anh chàng khen liền:
Khen: 'Tài nhả ngọc phun châu,
'Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này![40]
'Kiếp tu xưa ví chưa dày,
'Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!'
- 'Em làm thơ như nhả ngọc phun châu! Chắc kiếp trước anh có tu nên kiếp này mới có phước mà được em.' Không biết kiếp trước chàng Kim đã và tu pháp môn nào?
PHẬN DÀY PHẬN MỎNG
Thúy Kiều đáp lại lời khen của Kim Trọng:
Nàng rằng: 'Trộm liếc dung quang,
'Chẳng sân ngọc bội cũng phường kim môn.[41]
'Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
'Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
Kiều lo: 'Anh có phước đức nhiều trong quá khứ, em thì không. Không biết ông trời có giúp cho cuộc hôn nhân của chúng ta không?' Vì:
Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
Có người tướng sĩ đoán ngay một lời:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Ông thầy tướng nói: 'Tất cả những cái tinh anh của con người Thúy Kiều đều lộ ra ngoài hết. Sợ rằng suốt đời cô sẽ khổ.' Khi có những cái quý, cái hay, người ta phảibiết giấu bớt vào bên trong. Anh hoa là cái tinh ba, cái đẹp nhất của con người. Nếu phát tiết ra ngoài hết thì bên trong sẽ không còn gì nữa. Và như vậy sẽ chiêu cảm vào những tai nạn. Những người có hạnh phúc là những người chất chứa được nội dung và nội lực bên trong. Họ không để hết tất cả phát hiện ra ngoài. Những nhà có củi chất nhiều trong kho thì sẽ được ấm suốt mùa đông. Nếu có bao nhiêu củi đều đem ra, đốt hết thì sẽ có lúc lạnh.
'Trong người lại ngẫm đến ta,
Một dày một mỏng biết là có nên?'
Thấy một bên (Kim Trọng) phúc dày, một bên (Kiều) phúc mỏng. Kiều phân vân không biết mối nhân duyên của hai người có thể thành tựu được không.
Sinh rằng: 'Giải cấu là duyên,[42]
'Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.'
Con người đã nhiều lần thắng được số mạng nhờ có ý chí. Ðó là lời an ủi của Kim Trọng - Sự tu học và cách sống của mình có thể đổi được số mạng và hoàn cảnh. 'Tướng bất cập số, số bất cập đức': nếu có đức thì mình có thể thắng được số phận. Ðây là một lời khuyên rất hay. Nếu mình có cảm giác là mình không có nhiều phước nhiều, số phận mình sẽ đau khổ thì nên nghe lời khuyên này. Số phận không phải là chuyện quan trọng nhất, bởi vì mình có khả năng chuyển hóa. 'Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều'. Trong văn hóa Pháp, có khi người ta nói con người sắp đặt nhưng chính Trời quyết định (L'homme propose, Dieu dispose). Ở đây chúng ta thấy một quan điểm khác hơn: Nếu con người có ý chí, muốn chuyển hóa muốn thay đổi thì nhiều khi chuyển được số mạng, chuyển được nghiệp, chuyển được mạng trời.

'Ví dù giải kết đến điều,
thì đem vàng đá mà liều với thân!'
'Nếu gặp phải những chuyện khó khăn thì chúng ta hãy đem sức mạnh tình yêu của chúng ta mà tranh đấu. Cần chết thì chết. Sợ gì!'
Ðủ điều trung khúc ân cần,[43]
Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.
Cô Kiều lo lắm nhưng nếu có người an ủi thì cô trấn tĩnh lại được liền. Mới mấy tháng trước đây, nhờ có mẹ khuyên nhủ, cô yên. Bây giờ, nhờ anh chàng an ủi, cô cũng êm lại. Cô có khả năng vui chơi ngay sau đó. Hai người uống rượu. Họ đâu đã thọ Tam Quy và Ngũ Giới! Không biết Kiều đã uống rượu hay uống trà? Con gái thường không uống rượu. Anh chàng thì chắc chắn là uống rượu. Rượu cúc hay rượu đế, chứ chắc không phải là rượu thuốc đâu!
NGÀY VUI NGẮN CHẲNG ÐẦY GANG.
Giây phút bên nhau của hai người rất ngắn ngủ. Ngày sắp hết, họ sắp phải chia tay. Cụ Nguyễn Du nói một câu đáng cho chúng ta chú ý:
Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra ác đã ngậm gương non Ðoài.
Ngày vui là ngày Kim - Kiều được sống cạnh nhau, từ chín giờ sáng đến năm, sáu giờ chiều. Ngày vui nhất trong đời của hai người được diễn tả là 'ngắn chẳng đầy gang'. Lấy không gian mà đo thời gian thì chưa đầy một gang tay. Ðây là một câu rất hay trong truyện Kiều, có thể viết lên treo ngay trong thiền viện được. khi vui mà vui không có chánh niệm thì cái vui đi qua rất mau và cũng không thật là vui. Hai người ngồi, nói chuyện và thề bồi từ sáng đến chiều. Cái vui có bao nhiêu đâu! Chưa bằng một gang tay. Nhất là khi họ chưa biết thực tập chánh niệm và an trú trong hiện tại.
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
Giã chàng nàng mới kíp dời song sa.[44]
Thấy mình qua bên này đã lâu quá trong khi nhà không có ai cũng kỳ, và sợ gia đình về không thấy mình. Kiều đứng dậy từ giã.
BÂY GIỜ RÕ MẶT ÐÔI TA
Ðến nhà vừa thấy tin nhà,
Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vừa khuya một mình.

Về nhà, thấy gia đình chưa về, Kiều tiếc, lại chui tường sang nhà Kim Trọng.
Nhật thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.[45]
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Anh chàng đang ngồi ngủ gục. Không đi nằm đàng hoàng, chàng chỉ ngồi trước bàn học mà ngủ.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Câu thơ rất đẹp. Bước chân của Kiều làm xao động giấc ngủ của Kim Trọng. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, chàng Kim thấy một nàng tiên bước tới. Anh chàng nghĩ là mình đang nằm mộng:
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Nàng rằng: 'Khoảng vắng đêm trưòng,
'Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
'Bây giờ rõ mặt đôi ta,
'Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?'
'Bây giờ hai đưa gặp nhau, nhìn rõ mặt nhau. Nhưng có thể cảnh này chỉ là cảnh chiêm bao, không có thật'. Dễ sợ! Ðây là một trong những câu ghê gớm nhất của truyện Kiều. Nếu đem con mắt của thiền sư mà nhìn thì ta sẽ thấy câu này 'lợi hại' lắm. Có một lần tôi đưa anh Thiều đi vào rừng. Những đọt lá trong rừng có những đường gân xanh tuyệt vời. Tôi rất thích. Nhìn những tờ lá đó tôi rất hạnh phúc, thấy mình đang sống trong cảnh giới mầu nhiệm của pháp thân. Những người đi theo tôi có thể đã không tiếp xúc được. Họ đang lo chuyện ở nhà, công ăn việc làm, tương lai, quá khứ... cho nên khó tiếp xúc được với những mầu nhiệm ấy. Tôi dừng lại và hỏi: 'Ðây là sự thực hay giấc mộng? Cảnh giới này có thực hay mộng?' 'Người bây giờ nhìn những khóm lá này như nhìn trong một giấc mơ'. Hai người cùng đứng chỗ đó, cùng nhìn những tờ lá đó. Người sống trong mộng, người sống trong sự thật. Sự khác nhau nằm ở chỗ có an trú trong hiện tại, có chánh niệm khi tiếp xúc với cái đẹp của tờ lá hay không. Kiều là một thi sĩ, một người rất nhạy cảm. Cô thấy được cái đựp, sự quý giá của giờ phút hai người được gặp nhau. Cô cũng thấy đó là chuyện rất mong manh. Cũng vì thấy cái mong manh đó cho nên cô đã liều mạng:
Nàng rằng: 'Khoảng vắng đêm trường,
'Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa'

Cô này ghê lắm chứ không phải chơi đâu! Tuy nói là con nhà gia giáo, có nề nếp nhưng chui tường hai lần trong một đêm thì cũng quá thật. đây là nhân vật của cụ Nguyễn Du, một nhà Nho mô phạm của 'cửa Khổng sân Trình.'

Chúng ta có thể viết lên hai câu: 'Bây giờ rõ mặt đôi ta, biết đâu rồi nửa chẳng là chiêm bao?' làm thiền ngữ treo trên tường được. Làng Mai là một thực tại hay một giấc chiêm bao? Có thể bây giờ nó đã là một giấc chiêm bao rồi, nếu mình không biết an trú trong hiện tại, không sống sâu sắc, tận hưởng những giờ phút bên nhau.
Vội mừng làm lễ rước vào,
Ðài sen nối sáp song đào thêm hương.[46]
Kim Trọng thắp thêm nến mới và đốt thêm hương trầm. Ngày xưa, trươc khi ngâm thơ người ta thường tắm rửa sạch sẽ và đốt trầm lên. Nếu có tiếng đàn tỳ bà nữa thì mới đúng là khung cảnh ngâm thơ. Một anh chàng sinh viên điệu như Kim Trọng thì thế nào cũng có một cây đàn, một lư trầm và một đài sen để đốt nến. Ngày xưa, tôi cũng bị ảnh hưởng cái 'điệu' đó. Tết nào tôi cũng mua bạch lạp; thức đợi Giao thừa thắp lên ba bốn cây nến để đọc thơ. Toàn là cổ thi, in trên giấy thật trắng. Ðó là cái kiểu thanh tao, sang trọng về phương diện tâm linh của người trước.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Hai người viết lời thề xuống tờ giấy hoa tiên, cắt tóc trọn với nhau rồi chia đôi, mỗi người một nửa. Người trẻ đời bây giờ có người cũng còn làm như vậy.
Hai người viết lời thề xuống tờ giấy hoa tiên, cắt tóc trộn với nhau rồi chia đôi, mỗi người một nửa. Người trẻ đời bây giờ có người cũng còn làm như vậy.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Ðinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.
Hai người uống rượu, thề nguyền. Bóng trăng chiếu qua bức bình phong có những tấm gương, gió lay bức màn lụa phảng phát mùi hương trầm.
CƠN BÃO ÂM THANH
Sinh rằng: 'Gió mát trăng trong,
'Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
'Chày sương chưa nện cầu Lam,
'Sợ lần khân quá ra sàm sở chăng?
'Lâu nay anh ước ao một chuyện mà chưa được. Chúng mình chưa chính thức làm lễ cưới hỏi, nếu anh yêu cầu chuyện đó thì e hơi bất lịch sự.' Nghĩa chỉ là như vậy thôi mà thơ diễn tả một cách rất điệu.
Nàng rằng: 'Hồng diệp xích thằng,
'Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
'Ðừng điều nguyệt nọ hoa kia,
'Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.'
'Hai người đã đồng ý với nhau, hiểu nhau, liên hệ đã sâu sắc. Ðừng đi vào chuyện hoa nguyệt thôi. Ngoài chuyện đó ra em không từ chối chuyện gì với anh cả.' Rất rõ ràng. Anh chàng bèn yêu cầu:
Rằng: 'Nghe nổi tiếng cầm đài,
'Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ'[47]
Cầm trăng là đàn nguyệt (nguyệt cầm, gọi là đàn trăng cũng được). Hai trăm năm trước cụ Nguyễn Du đã cố gắng dùng chữ Nôm để thay thế những chữ Hán. Bây giờ mình dùng văn phạm Việt để niệm Bụt (Nam mô Bụt Thích Ca Mâu Ni) cũng không có gì là cách mạng lắm. Kim Trọng có cử chỉ rất đẹp, hai tay nâng đàn lên ngang mày để đưa cho Kiều. Trang trọng như dâng trà cho Bụt trong thiền trà.
Nàng rằng: 'Nghề mọn riêng tây,
'Làm chi cho bận lòng này lắm thân!'
So dần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Vũ là dây đàn to, văn là dây đàn nhỏ. Có chỗ chú thích ngày xưa đàn có năm dây, sau đó thêm vào hai dây gọi là dây vũ và dây văn. Khi vua Văn Vương bị bắt, con của Văn Vương thêm vào một dây gọi là dây văn. Khi Vũ Vương lên làm vua lại thêm một dây gọi là dây vũ. Trong Kiều thì nói đàn có bốn dây. Cung thương là hai trong năm âm chánh của âm nhạc thời xưa: Cung, thương, giốc, chủy, vũ.
Tiếp theo là những câu tả cái đẹp của khúc đàn Kiều trình diễn. Nguyễn Du tả Kiều đàn nhiều lần. Lần đầu đàn cho Kim Trọng, lần thứ hai cho Hoạn Thư và Thúc Sinh, lần thứ ba cho Hồ Tôn Hiến, và lần cuối là đàn cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm gặp lại. Mỗi lần như vậy, Nguyễn Du diễn tả một cách khác. Tùy theo tâm trạng của Kiều mà bản đàn biến thể. (Còn có bốn lần đàn khác, Nguyễn Du chỉ nói qua.) Ðây là lần đầu tiên, đàn cho Kim Trọng nghe. Cũng là khúc đàn này, Kim Trọng sau mười lăm năm nghe lại không khổ đau, vì trong thân tâm nội kết đã chuyển hóa. Ðây là bản đàn, đàn lần đầu tiên:
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu,[48]
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,[49]
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.[50]
Quá quan này khúc Chiêu Quân,[51]
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.

Ðó là tính chất của bản đàn. Chứa đựng những hình ảnh, tâm sự buồn ai oán. Và đây là tài nghệ của Thúy Kiều, cuốn hút người nghe vào biển âm thanh:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Ðục như nước suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Âm thanh được diễn tả bằng những hình ảnh rất tài tình. Và đây là hậu quả tai hại của bản đàn:
Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi tựa gồi khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
Tâm tư của Kiều có rất nhiều sầu thảm, đau khổ. Ðó là những hạt giống thừa hưởng từ ông bà đời trước. Tâm tư đó, bây giờ được diễn tả qua tiếng đàn. Và người nghe là Kim Trọng cũng bị cuốn hút vào thế giới của sầu khổ. Anh chàng ngồi không yên được để nghe. Tư thế ngồi của anh chứng tỏ anh hoàn toàn bị cơn lốc của tâm trạng Thúy Kiều kéo theo. Văn nghệ lành mạnh và văn nghệ không lành mạnh rất khác nhau. Ðàn hay hát lên một bài hát, mình có thể tạo ra những hậu quả rất lớn trong lòng mình và trong lòng người nghe. Chúng ta cần phải rất cẩn thận. 'Khi tựa gối khi cúi đầu, Khi vào chín khúc khi chau đôi mày.' Rất rõ ràng thái độ bất an của Kim Trọng dưới ảnh hưởng của một khúc nhạc có tính cách sầu thương. Văn nghệ rất nguy hiểm. Tôi thường nói với các sư chú, sư cô: hát thì hát, ngâm thơ thì ngâm thơ nhưng phải cẩn thận. Hát và ngâm thơ là một cách tưới tẩm những hạt giống trong lòng mình. Có những hạt giống cần tưới tẩm và có những hạt giống không nên tưới tẩm. Chúng ta có đầy đủ tất cả những hạt giống (nhất thiết chủng thức) cho nên phải cẩn thận. Nhất là khi mình còn yếu. Ðừng nên tưới tẩm bằng thi văn những hạt giống sầu đau của mình. Mỗi khi các sư chú, sư cô, các anh, các chị làm được một bài nhạc thanh thoát thì tôi mừng. Nếu trong nhạc có những nét đau buồn thì tôi không mừng lắm. Khi làm ra những nét nhạc đó, chính mình sẽ hát, bạn mình sẽ hát và sẽ tưới lại những hạt giống đau buồn. Và đó là đi ngược lại được lối tu học của chúng ta.
Rằng: 'Hay thì thật là hay,
'Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
'Lựa chi những khúc tiêu hao,
'Dột lòng mình cũng nao nao lòng người?'
Sau khi đi qua một trận bão của âm thanh rồi, anh chàng nói: 'Em dàn thì hay thật đó, nhưng sao cay đắng, đau khổ quá chừng! Sao em lại chọn những bản nhạc buồn như vậy? Khi đàn em buồn mà người nghe cũng đứt ruột theo.' Anh chàng cũng thẳng thắng lắm, chứ đâu phải chỉ biết khen mà thôi đâu. Ý anh chàng là: 'Em nên sáng tác lành mạnh hơn. Nghe thêm một lần nữa chắc anh sẽ chết quá!' Chúng ta thấy rõ, anh chàng có hạt giống của sự lành mạnh trong tâm. Khi trong lòng có sự lành mạnh mình sẽ không đau khổ nhiều như người có chủng tử khổ đau lớn. Vì có nhiều chủng tử của khổ đau, người kia sẽ đi qua mười lăm năm rất đau thương. Nếu mình đau khổ thì cũng là đau nỗi đau của người kia vì đời mình dính vào đời người kia. Truyện Kiều không pải là Kinh nhưng nhìn với con mắt quán chiếu thì bất cứ chuyện nào cũng thành Kinh hết.
Ðây là lời đáp của Kiều:
Rằng: 'Quen mất nết đi rồi,
'Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!'
Ðây là nói về tập khí mà Kiều không biết. Quen mất nết đi rồi có nghĩa là lâu nay nàng chỉ chơi nhạc đó, sáng tác theo đường lối đó. Nói theo danh từ Duy Thức là tập khí (habit energy). Tập khi có thể được hình thành từ hồi thơ ấu hoặc được trao truyền từ những thế hệ trước. Ở đây chủng tử được truyền cho Kiều chứ không phải cho Vân hay Quan. Và Kiều tưởng lầm: 'Trời sanh em ra như vậy thì em như vậy.' Trời sanh là một cách cắt nghĩa khi chúng ta không hiểu nguyên lý chủng tử trong Duy Thức. 'Tẻ vui âu cũng tính trời biết sao!' Nói như vậy là không đúng. Nếu học Duy Thức thì ta biết rằng tất cả những tập khí tẻ hay vui đều là vấn đề chủng tử cả. Chủng tử bản hữu và chủng tân huân. Hai câu: 'Rằng: 'Quen mất nết đi rồi, Tẻ vui âu cũng trời biết sao!' có thể được đem ra giảng theo Duy Thức Học thành một cuốn sách.
'Lời vàng vâng lĩnh ý cao,
'Họa dần dần bớt chút nào được không.

Cô không tin tưởng lắm là mình có thể thay đổi được tính khí của mình: ' Anh nói như vậy thì em xin nghe lời anh. Em sẽ cố gắng, hy vọng sẽ bớt buồn chút xíu.' Hứa như vậy thôi. Người có tu biết rất rõ cái gì cũng do chủng tử mà ra cả. Nếu biết cách tưới và không tưới các hạt giống thì có thể thay đổi được tập khí. Ở đây Kiều không biết điều đó vì chưa học sách Duy Thức Tam Thập Tụng.
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Ðầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Sau khi hai người đã đi qua một trận bão tố của âm thanh rồi thì họ yếu hơn trước. Ðây là một sự thật. Người chơi nhạc và người nghe nhạc bây giờ đều yếu hơn. Dáng điệu và cái nhìn của họ càng biểu lộ sự quấn quít say mê. Cơn bão tố vừa mới đi qua là cơn bão tố của âm thanh. Những ngọn gió đã khơi dậy những đợt sóng trong lòng người (sóng tình). Ðương sự không còn đủ sức đứng vững, như một con thuyền đang đi trong đại dương bỗng nổi lên một 'trận cuồng phong' hay một 'loài thủy quái'[52]
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Âu yếm là thương yêu gần gũi, vẫn còn có thể ở trong vòng lễ giáo. Lả lơi thì có sự không chính đính, tức là đã có yếu tố phi lễ ở bên trong. Cách ngồi, cử chỉ, con mắt đã biểu lộ một cái gì không hoàn toàn đi đúng theo lễ giáo nữa, kết quả của sóng tình đã lên quá cao. Ðó là những giây phút khó. Những giây phút đó, nếu là người tu thì mình biết phải làm gì: nắm lấy hơi thở. Thầy A Nan trong giây phút đó đã biết ngồi trở lại, tập thở. Anh chàng Kim Trọng đâu đã được học Kinh An Ban Thủ Ý!
THƯA RẰNG: 'ÐỪNG LẤY LÀM CHƠI'
Thúy Kiều là một cô gái rất thông minh. Cô cũng bị sóng tình làm cho xính vính, nhưng Kiều còn biết giữ mình. Lý trí của Kiều chưa bị chìm đắm. Kiều nói:
Thưa rằng: 'Ðừng lấy làm chơi,
'Dễ cho thưa hết một lời đã nao!'
- 'Tình thương của hai chúng ta không phải là một trò chơi. Chúng ta sẽ đi đến sự kết hợp vợ chồng. Một trăm năm sống với nhau không phải là chuyện nhất thời. Vậy anh hãy để em nói một lời này đã.'
'Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
Vườn hồng không có ý định ngăn không cho chim xanh bay vào. Nhưng:
'Ðã cho vào bậc bố kinh,[53]
'Ðạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
'Ra tuồng trên bộc trong dâu,[54]
'Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Ðây là luân lý cổ truyền của chúng ta. Làm con gái đi lấy chồng là một cái Ðạo. Người con gái phải giữ trinh tiết. Nếu không bản thân cô sẽ đánh mất sự tự trọng. Người bạn phối ngẫu của cô sẽ không tôn trọng cô nữa và hạnh phúc lứa đôi sẽ bị sứt mẻ. Phải cẩn thận giữ gìn. Cô Kiều đã được học điều này nên gượng lại được và đã nói với anh chàng như vậy. Giữ gìn là giữ gìn cho cả hai người. 'Giữ gìn cho tôi và giữ gìn cho anh' như lời bài hát Hộ Trì Sáu Căn, chứ không phải là tôi chỉ giữ gìn cho tôi thôi. Truyện Kiều không phải là Kinh nhưng nhìn tới đâu chúng ta cũng có thể thấy Kinh cả.
'Phải điều ăn xổi ở thì,
'Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
Ăn xổi ở thì là không đợi cho đến chín đã tiêu thụ trước. Chuối chưa chín mà chặt xuống đem dú, lúa chưa chín mà đã gặt vào. Chỉ biết hưởng thụ ngay trong hiện tại thôi, và trong khi hưởng thụ như vậy thì phá tan hạnh phúc của tương lai. Hạnh phúc trăm năm dài lâu, bền vững mà nỡ làm cho tan nát đi vì không cẩn thận trong một giây lát.
'Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
'Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương
'Mây mưa đánh đổ đá vàng,
'Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
Kiều đưa ra ví dụ của Thôi - Trương để Kim Trọng thấy cô đang bảo vệ hạnh phúc của hai người chứ không phải muốn từ chối Kim Trọng. Ngày xưa nàng Thôi Oanh Oanh và chàng Trương Cung là hai người đẹp và có tài, xứng đôi vừa lứa. Nhưng vì họ không giữ gìn nên tình yêu của họ tan vỡ. Mây mưa đánh đổ đá vàng: những điều thiếu lễ giáo phá tan hạnh phúc và tình nghĩa vợ chồng. Ðá vàng bị đánh đổ, cuộc tình duyên bất thành là vì trong giây phút sóng tình xiêu xiêu đã không ai biết dừng lại cả.
'Trong khi chắp cánh liền cành[55]
'Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
'Mái Tây để lạnh hương nguyền,[56]
'Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
Người đàn bà giữ là giữ cho hai người. Ðó là cách hành xử của người đàn bà Á Ðông. Nếu người con gái không giữ gìn trong những giây phút khó giữ thì sau này trong lòng người con trai sẽ có cảm tưởng rẻ rúng, không kính phục. Không nói ra nhưng trong lòng anh ta không phục hoàn toàn. Tình yêu ban đầu rất đằm thắm mà sau trở nên nhạt nhẻo, bẽ bàng. Tất cả là vì người con gái không biết giữ gìn trong giờ phút khó.
'Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
'Ðể sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
'Vội chi liễu ép hoa nài,
'Còn thân ắt lại đền bồi có khi!"
Kiều lấy thêm tích gieo thoi để khuyên Kim Trọng: Ngày xưa Tạ Côn mê một người con gái dệt vải. Anh ta đi quá đà, chinh phục cô gái một cách không đoan trang lắm và bị cô gái cầm thoi dệt liệng trúng miệng, gây mất hai cái răng cửa. Nhưng mà lạ, anh chàng vẫn trở lại cầu hôn. Anh đã học một bài học đích đáng và rất phục cô nàng. Sau này hai người cưới nhau. Hai cái răng là kỷ niệm rất đẹp. Cô nàng đã chứng tỏ có sự tự trọng và bảo vệ được giá trị của người con gái. Tuy mạnh nhưng là giải pháp hay. Anh chàng biết đây là cô gái rất mẫu mực và do đó không có nội kết. Ngày xưa nếu có nha sĩ thì chữa hai cái răng đó cũng dễ. Cưới anh chồng mất hai cái răng cửa thì cũng hơi rầu.
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
Nghe Kiều nói, Kim Trọng rất nể.
Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân,
Tin đâu đã thấy cửa ngăn rọi vào.
Nàng thì vội trở buồng thêu,
Sinh thì dạo gót sân đào bước ra.
Có người gọi cửa. Thúy Kiều đi chui về nhà; Kim Trọng ra ngoài xem ai tới. Như vậy là kết thúc cuộc gặp gỡ của hai người ở nhà Kim Trọng.
Cách hành xử của Kim, Kiều trong đoạn vừa đọc là cách hành xử của ngày xưa. Các thiếu niên bây giờ nghe sẽ phản ứng ra sao? Tuổi trẻ Tây phương sẽ cười. Tuổi trẻ Việt Nam bị ảnh hưởng Tây phương cũng sẽ cười. Các thiếu nữ thời đại này có người không nghĩ và không làm như vậy. Ðứng về phương diện tư tưởng, họ không nghĩ như Kiều đã đành; mà đứng về phương diện bản lãnh hành động, họ cũng không có bản lãnh để có thể làm được như vậy. Dầu có cho chuyện này là đúng họ cũng làm không được. Một trong những lý do họ nêu ra: 'Hai bên đã cam kết với nhau rồi, cần gì phải giữ gìn nữa? Quan niệm trinh tiết này xưa quá!" Họ sẽ nói như vậy. Và một lý luận khác của họ. 'Ðứng về phương diện tâm lý thì mình đã thương yêu nhau thật rồi. Nhưng đứng về phương diện sinh lý thì không biết hai đứa có phù hợp chăng? Hạnh phúc đã đành là sự đi đôi nhịp nhàng giữa tâm lý. Nhưng cũng phải có sự đi đôi nhịp nhàng giữa sinh lý nữa!' Vì vậy, về tâm hồn họ biết là họ hợp với nhau, và họ thử luôn về thân xác xem có hợp hay không rồi mới ký giao kèo. Ðó là kiểu bây giờ. Ở đây, chúng ta không tổ chức pháp đàm về chuyện này. Chúng ta chỉ nêu ra để biết rõ. Sau này, hướng dẫn tuổi trẻ, quý vị sẽ phải đương đầu với những câu hỏi như vậy.
Cố nhiên trong nền đạo đức cổ truyền có những châu ngọc. Làm thế nào để sử dụng được những châu ngọc đó thì mới hay. Còn nhân danh đạo đức cổ truyền để ngăn cấm thì chắc sẽ không thành công. Chúng ta cần trình bày như thế nào để tuổi trẻ thấy được trong nền đạo đức cổ truyền có những nguyên tắc hành xử bảo đảm được hạnh phúc trong tương lai. Chúng ta phải thấy được những gì đang xảy ra trong hiện tại. Chỉ cho các cháu thấy những đau khổ và thất bại xung quanh, ngay trong thời đại các cháu thì họa may tuổi trẻ mới thấy được giá trị của những châu báu trong nền văn hóa cổ truyền. Người trẻ có tiếp nhận được di sản văn hóa của họ hay không, đó là tùy thuộc hình thức và cách giải thích của chúng ta. Nếu cách của chúng ta xưa quá, không chuyên chở được sự hiểu biết về tâm lý và những vấn đề của thời đại thì dầu đạo lý cổ truyền có hay cách mấy cũng vô ích. Tuổi trẻ không theo thì chịu thôi!
THIÊN ÐƯỜNG HẠNH PHÚC
Thời gian hạnh phúc bên nhau của Kim-Kiều rất ngắn ngủi. Chỉ độ khoảng một ngày. Lần đầu tiên gặp nhau thật trớ trêu: Anh chàng đứng trên nấc thang cao nhìn xuống, cô nàng ở dưới thấp. Nói đi nói lại vài câu, chắc đó mười, mười lăm phút là nhiều. Mười lăm phút hạnh phúc, nhưng cả hai cũng run thấy trơì! Gặp gỡ bất hợp pháp cho nên mái sau vừa có tiếng người là 'vội vàng lá rụng hoa rơi' ngay. Mười lăm phút rất mong manh. Lần gặp thứ hai là ngày gia đình Thúy Kiều về ăn sinh nhật bên ngoại. Trước khi sang với Kim Trọng. Kiều đã nấu vài món ăn đem qua cho anh chàng. Không biết họ có ăn hay không hay là họ đã để cho nguội? Tôi nghĩ rằng chưa bao giờ Kim Trọng được ăn những món đó. Vì theo những diễn tiến của truyện thì anh chàng không có hội để ăn. Thúy Kiều đem thức ăn sang. Hai bên gặp gỡ, nói chuyện. Thúy Kiều làm thơ đề lên bức tranh tùng của Kim Trọng. Nói chuyện phận dày, phận mỏng. Thấy chiều, Thúy Kiều về; đến nhà thấy gia đình chưa về, Kiều tiếc, chui qua trở lại. Có tin báo chú của Kim Trọng mất và Kim phải về hộ tang. Sự chia cách xảy ra ngày trong tối hôm đó. Và hai người xa nhau mười lăm năm. Hạnh phúc rất mong manh, ngắn ngủi. Lần đầu gặp nhau mười lăm phút, lần thứ hai được gần một ngày. Gần một trăm câu thơ nói về chuyện tình của hai người, nhưng tất cả chỉ xảy ra mười hai giờ đồng hồ là nhiều. Và cả hai bên sẽ mang theo những nội kết được gieo và tưới trong mười hai giờ đồng hồ đó suốt mười lăm năm. Từ đây về sau là những nỗi lênh đênh sóng gió, đau khổ của nàng Kiều.
Người ta có thể đã không đem thời gian ra đo như chúng ta, nhưng chúng ta cũng cần đo để biết. Từ khi gặp ba chị em đi chơi mùa xuân, Kim Trọng nhớ về Thúy Kiều. Ði kiếm, buồn nhớ, ốm o, học hành không được... kéo dài hai tháng rưỡi, ba tháng. Thời gian đó đâu có hạnh phúc gì! Leo lên cái thang, gặp được Thúy Kiều và được Kiều nói 'OK' rồi, sau đó cũng đâu có vui sướng gì! lại phải chờ lâu lắm mới có dịp gia đình Kiều đi ăn sinh nhật bên ngoại, và cái dịp 'may' này xảy ra khoảng từ chín giờ sáng đến mười giờ tối. Mười hai tiếng đồng hồ là tối đa. Trong mười hai tiếng đồng hồ đó, hai người đã sống những giây phút rất mãnh liệt (intense), đầy cảm xúc. Và sau này là mười lăm năm lưu lạc, tràn đầy những đau khổ xót xa. Kim Trọng tuy không đến nỗi khổ như Kiều nhưng trong tâm luôn tưởng đến người con gái đó và đau khổ. Chúng ta thấy không có hạnh phúc thật trong mối tình đó. Tâm con người không an. Thiếu cái gì thì đi tìm cái đó. Chưa kiếm được thì chưa an tâm. Lúc có hạnh phúc thì không biết rằng mình đang có hạnh phúc. Hạnh phúc mất rồi mới biết là mình đã có nó. Thời gian hạnh phúc nhất của Thúy Kiều là từ nhỏ đến năm mười sáu tuổi, trước khi gặp chàng Kim. Thời gian đó là thiên đường, nhưng cô đâu biết đó là hạnh phúc. Bị mũi tên tình ái cắm vào tim rồi thì mất hạnh phúc. Từ đó về sau chỉ toàn là những vết thương đau khổ mà thôi. Thiên đường hạnh phúc có đó mà mình không tiếp xúc được. Mình đi tìm một cái khác. Cái khác đó, là thế giới đau khổ. Mình tưởng rằng chạm được vào cái đó là chạm được hạnh phúc. Nhưng sự thật không phải như vậy. Truyện Kiều là một câu truyện thôi, nhưng nó đại diện cho biết bao sự thật đã xảy ra trong cuộc đời.
CHƯA VUI SUM HỌP ÐÃ SẦU CHIA PHÔI
Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
Gia đồng vào gửi thư nhà mới sang
Ðem tin thúc phụ từ đường,
Bở vơ lữ thấu tha hương đề huề.
Liêu Dương cách trở sơn khê,
Xuân đường kịp gọi sinh về hộ tang.
Chú của Kim Trọng mất, đang được quàn tại Liêu Dương, rất xa nhà. Cha của Kim Trọng gọi chàng về gấp để lo việc tống táng.
Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
Kim Trọng đi báo tin cho Kiều biết. Và đây là những lời dặn dò của chàng Kim:
'Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
'Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ.
Hai người chưa được nói chuyện, chưa được bộc lộ cho hết tâm tình và chưa được mai mối đính hôn chính thức. Ðôi hồi là nói cho đã. Thật ra, nếu có nói thêm hai, ba tuần nữa chắc cũng không bao giờ đã. Phải vậy không?
'Trăng thề còn đó trơ trơ,
'Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
'Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,
'Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!
'Anh sẽ không quên lời thề. Nỗi buồn xa cách này, gỡ cho ra khỏi trái tim anh chắc cũng còn lâu lắm'. Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy. Ðây là sự thật!
'Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
'Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.'
'Muốn cho người đi xa được an tâm thì em phải săn sóc, giữ gìn thân em cho đàng hoàng.' Văn tuy cổ nhưng ý thì cũng giống hệt như ý người thời bây giờ.
Tai nghe ruột rối bời bời
Ngập ngừng nàng mới giải lời trước sau:
Tội nghiệp! Thúy Kiều chẳng qua là một cô bé mới lớn lên, đâu đã có nhiều kinh nghiệm về cuộc đời. Vừa mới học thương, mới thề bồi xong đó thì bây giờ đã bị rơi vào hố thẳm của sự xa cách.
'Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
'Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi.
'Cùng nhau trót nặng đã nặng lời,
'Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!
'Quản bao tháng đợi năm chờ,
'Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.
'Ðã nguyền hai chữ đồng tâm,
'Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.
'Còn non còn nước còn dài,
'Còn về còn nhớ đến người hôm nay!'
Người nào cũng lo cho người kia và thề nguyện phần mình. Hai bên nói được có mấy câu là phải chia tay. Phải đi liền lập tức.
Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
Ngại ngùng một bước một xa,
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
Buộc yên quảy gánh vội vàng,
Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai.
Lời trân trọng là lời chào khi chia tay. Trong thiền môn cũng có dùng: 'Xin sư huynh giữ gìn lấy thân tâm.'
Buồn trong phong cảnh quê người,
Ðầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.
Ðây là tâm trạng của người đi. Ðường thì ngàn dặm. Tới đầu kia thì đâu có gì hấp dẫn: chỉ có một xác chết thôi. Lại phải xa người mình thương rất lâu. Ði như vậy trong lòng nát như tương. 'Ðầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa' cho biết Kim Trọng ra đi vào độ cuối hè, sang thu.
Chúng ta sẽ độc và sẽ thấy được nỗi khổ của cô nàng. Ghê gớm gấp trăm ngàn lần anh chàng. Những tai nạn lớn xảy ra cho gia đình Thúy Kiều. Cuộc đời lưu lạc của Thúy Kiều bắt đầu từ đó.
CHỈ THIẾU MỘT CHÚT XÍU
Tai nạn lớn xảy ra cho gia đình Thúy Kiều ngay đêm hôm dó. Mười lăm năm luân lạc của Thúy Kiều có thể đã không xảy ra nếu Kim Trọng ở lại thêm vài giờ. Kim là sinh viên con nhà giàu; chàng có thể xoay sở giúp chuộc cha của Kiều ra khỏi hoàn cảnh oan ức. Nhưng chàng Kim đã từ giã ra đi. Và chỉ nội trong nửa giờ đồng hồ sau, tai họa ập tới trên đầu Kiều. Tất cả đều được quyết định bởi những nhân duyên dồn dập xảy tới. Chỉ thiếu một chút xíu nhân duyên thuận lợi thôi mà đã xảy ra bao nhiêu là đau khổ cho nàng Kiều. Chính Kim Trọng, gần cuối truyện, đã nhắc đến điều này:
Rằng: 'Tôi trót quá chân xa,
'Ðể cho đến nổi trôi hoa dạt bèo.
Chỉ vì chàng Kim vắng mặt trong giây phút quan trọng đó mà đã xảy ra mười năm luân lạc của nàng Kiều.
[1] Tố nga: người con gái đẹp
[2] Làn thu thủy: mắt trong như nước hồ thu. Nét xuân sơn: lông mày như dáng núi mùa xuân.
[3] Nghiêng nước nghiêng thành: đẹp đến nỗi làm người ta say mê, bỏ cả nhiệm vụ, để mất cả đất nước. Lý Diên Niên có bài ca: Bắc phương hữu giai nhân, tuyệt thế nhi độc lâp. Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc. Ninh bất tri khuynh thành dữ khuynh quốc, gian nhân nan tái đắc = Phương bắc có người con gái đẹp, đẹp vô song mà còn đứng một mình. (Người đó) ngoảnh lại nhìn một cái xiêu thành người, ngoảnh lại nhìn cái nửa nghiêng nước người. Thà không biết việc nghiêng thành và nghiêng nước, (vì) người đẹp khó được gặp lại.
[4] Ý cả câu: Về sắc thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra còn có người thứ hai sánh kịp.
[5] Thiều quang: ánh sáng đẹp, tức là ánh sáng ngày xuân. Ý ca câu: mùa xuân có chín mươi ngày thì đã hết sáu mươi ngày rồi, tức là tháng giêng và tháng hai đã đi qua, đang bước sang tháng ba.
[6] Thanh minh: tiết vào đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi tảo mộ, tức là đi viếng và quét tước, sửa sang lại phần mộ của người thân.
[7] Ðạp thanh: giẫm lên cỏ xanh. Tiết thanh minh, đi chơi xuân ở đồng nội, giẫm lên cỏ xanh nên gọi là đạp thanh.
[8] Yến anh: chim én, chim oanh về mùa xuân thường ríu rít bay từng đàn: đây ví cảnh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân.
[9] Tiểu khê: dòng suối nhỏ
[10] Nếp tử: áo quan gỗ (từ gỗ thị); xe châu: xe tang có kết rèm như hạt châu. Ðây là nói khách người viễn phương làm lễ tang cho Ðạm Tiên.
[11] Phượng: chim phượng trống, Loan: chim phượng mái. Loan phượng trong văn cổ dùng tượng trưng cho đôi lứa vợ chồng. Cả câu ý nói những người khách làng chơi đi lại với Ðạm Tiên ngày trước.
[12] Tích lục tham hồng: tiếc màu xanh, tham màu hồng, ý nói luyến tiếc tham mê nhan sắc người đẹp.
[13] Bốn câu ba vần: thơ tứ tuyệt. Theo luật thơ cổ, thơ tứ tuyệt có bốn câu, có lối hai vần (câu 2-4), có lối ba vần (câu 1,2,4)
[14] Lưng túi: cái túi lưng lưng, không đầy.
[15] Ngựa câu: ngựa non. Giòn: chắc, đẹp.
[16] Hai kiều: hai người con gái đẹp, chỉ hai chị em Thúy Kiều.
[17] Trâm: cái trâm cài vào mũ hay búi tóc, Anh; cái dải mũ; nhà trâm anh là nhà quyền quý.
[18] Ðồng thân: là cùng học một thầy, có khi gọi là đồng song: cùng ngồi bên cửa sổ để học.
[19] Ðồng tước: tên tòa lâu đài lớn do Tào Tháo dựng trên bờ sông Chương Hà tỉnh Hà Nam. Xây dựng xong, Tào Tháo định sẽ chiếm đất Giang Nam của Ðông Ngô và bắt hai chị em Ðại Kiều (vợ Tôn Sắch, vua Ðông Ngô) và Tiểu Kiều (vợ Chu Du, đô đốc của Ðông Ngô) về đó ở. Thơ Ðỗ Mục (Ðường): Ðông phong bất dữ Chu lang tiện. Ðồng-Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều = Ngọn gió Ðông nếu không giúp Chu Du (phóng hỏa phá trận Xích Bích) thì đài Ðồng-Tước đã khóa chặt tuổi xuân của hai chị em họ Kiều. Ý cả câu: nhà họ Vương có hai cô con gái đẹp cấm cung.
[20] Giải cấu tương phùng: tình cờ không hẹn mà gặp nhau.
[21] Ðố lá: trò chơi thi kiếm những lá lạ, phổ biến ở Việt Nam và Trung Quốc thời xưa. Ðây là dịp để nam nữ có thể gặp nhau.
[22] Thu không: hiệu đống cửa thành lúc gần tối.
[23] Hạ tứ: Viết tứ thơ xuống. Ném châu gieo vàng: lời hay ý đẹp, quý như vàng, như ngọc.
[24] Nhà huyên: do chữ huyên đường, chỉ người mẹ. Huyên là tên một thứ rau nấu canh rất ngọt (cây kim châm), tượng trưng cho người mẹ. Trong khi đó cây thông tượng trưng cho người cha (thung đường.)

[25] Mạch tương: do chữ tương lệ, nước mắt nhớ người yêu. Tích vua Thuấn đi tuần thú, chết ở đất Thương Ngô, ven bờ sống Tương; vợ là bà Nga Hoàng và Nữ Anh ra sông khóc, nước ấy vẩy vào các bụi trúc chung quanh làm cho trúc có sắc lốm đốm nên gọi là Tương phi trúc.
[26] Lời bài hát Bông hoa vàng trong cỏ của Nhất Hạnh.
[27] Thơ Từ An Trinh: Ngân thược trùng quan thích vi tịch, bất như miên khứ mộng trung khan = Khóa bạc mấy lần nghe chưa thấy mờ, chi bằng ngủ đi, may được thấy mặt trong giấc mơ.
[28] Mành Tương: Mành làm bằng giống trúc Tương Phi (Tích Nga Hoàng và Nữ Anh khóc vua Thuấn ở bờ sông Tương, nước mắt làm trúc bên bờ sông trở nên lốm đốm)
[29] Lá thắm: do chữ hồng diệp đề thi (đề thơ trên lá đỏ). Theo Thái bình quảng ký, đời Ðường, Vu Hựu một hôm tình cờ bắt được chiếc lá đỏ thắm trôi trên một ngòi nước từ cung vua chảy ra, trên lá có bài thơ: Lư thủy hà thái cấp! Thâm cung tận nhật nhàn; Ần cần tạ hồng diệp, hảo khứ đáo nhân gian = Nước chảy sao xiết vậy! Trong thâm cung suốt ngày nhàn hạ; Ân cần tạ lá đỏ, khéo trôi tới chốn nhân gian. Hựu bèn lấy sắc lá đỏ khác, đề hai câu thơ: Tằng văn diệp thượng đề hồng oán, điệp thượng đề thi ký dữ thùy? = Từng nghe nỗi hờn oán của khách má hồng đề trên lá, không biết trên lá đề thơ gửi cho ai? Rồi đem thả nơi đầu ngòi nước cho trôi vào cung vua. Cung nữ Hàn thị, người thả chiếc lá đó buổi trước, bắt được. Về sau nhân dịp vua thải ba nghìn cung nữ, Hàn thị được ra, tình cờ kết duyên với Vu Hựu. Hàn thị nhân làm bài thơ: Nhất liên giai cú tùy lưu thủy, thập tái ưu tư mãn tố hoài; kim nhật khước thành loan phượng hữu, phương tri hồng diệp thị lương môi. = Một đôi câu thơ đẹp trôi dòng nước chảy, mười năm ôm bụng nghĩ ngợi âm thầm; ngày nay thành được bạn loan phượng, mới biết lá đỏ là bà mối giỏi. Chim xanh; con chim sứ giả, chỉ người đưa tin. Theo Hán Vũ cố sự, ngày mồng bảy tháng bảy có con chim xanh bay đến trước cửa điện, vua hỏi, Ðông Phương Sóc tâu; Chắc Tây Vương Mẫu sắp đến. Một lát sau quả Tây Vương Mẫu đến, có ba con chim xanh bay đậu bên cạnh.
[30] Ðộng khóa nguồn phong: Khi Lưu Thần, Nguyễn Triệu trở lại hỏi thì cửa động tiên đã khóa chặt, nguồn Ðào phong kín, lấp mất lối cũ, không có cách gì gặp lại người tiên.
[31] Châu về Hợp phố: vật đã mất nay trở về chủ cũ. Theo Hậu Hán Thư, quận Hợp phố có nhiều ngọc trai, quận thú tham ông bắt dân mò ngọc cho họ rất nhiều. Ngọc quý bỏ đi gần hết. Dân không có gì đổi cái ăn, chết đói đầy đường. Khi Mạnh Thường đến làm thái thú bãi bỏ những tệ cũ, mưu lợi cho dân, chưa đầy một năm ngọc bỏ đi tìm về Hợp phố, dân trở về nghề cũ. Ý cả câu: không biết của ai mà tra.
[32] Lân lý: xóm làng, ý nói người lối xóm.
[33] Ấp cây: ôm chặt cây cột cầu. Vỹ Sinh người nước Lỗ thời Xuân Thu cùng hẹn với một người con gái gặp nhau dưới chân cầu. Người con gái không đến. Vỹ Sinh thủ tin ngồi đợi mãi, nước lên to cũng không chịu đi, cứ ôm trụ cầu mà chịu chết đuối. Tiếng Hán dùng để điển này để chỉ việc liều thân mà thủ tín. Ở đây, Kim Trọng chịu liều thân để được gặp Thúy Kiều.
[34] Phỉ phong: tên hai thứ rau nhà nghèo ăn, ý nói sống bằng phương tiện đạm bạc, đơn giản.
[35] Chỉ hồng: do điển xích thằng hệ túc, chỉ việc xe duyên vợ chồng. Theo Tục u quái tục, Vi Cố đi dạo một đêm trăng gặp một ông lão ngồi tựa lưng vào một cái túi lớn đựng dầy những sợi chỉ đỏ hướng về phía mặt trăng mà kiểm sách. Vi Cố hỏi, ông lão nói đó là văn thư kết hôn của thiên hạ, còn những sợi chỉ đỏ thì dùng để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành hôn thành vợ chồng. Nguyệt lão, ông tơ, chỉ hồng đều chỉ việc xe duyên vợ chồng, nhân duyên trời định.
[36] Chiều xuân: lòng mơ tưởng đến tình yêu, do các chữ hoài xuân hay xuân từ trong tiếng Hán. Nét thu: con mắt sáng trong như nước mùa thu gợn sóng (thu ba).
[37] Vạn phúc: lời chúc phúc lành, thường người đàn bà hay nói với người đàn ông khi gặp nhau. Hàn huyên: thăm hỏi, chuyện trò khi chủ khách mới gặp nhau.
[38] Lời phong nguyệt: những câu chuyện yêu thương, lãng mạng. Nguyền non sông: lời thề nguyền gắn bó.
[39] Ðạm thanh: màu xanh nhạt.
[40] Nàng Ban, ả Tạ: Ban Chiêu đời Ðông Hán và Tạ Ðào Uẩn đời Tấn là hai người đàn bà nổi tiếng thông minh, học rộng, có tài biện luận và giỏi thơ văn.
[41] Ngọc bội: đồ đeo bằng ngọc, chỉ người quân tử, người đã hiển đạt và có quan chức. Kim môn: Kim Mã Môn, tên một cửa cung Vương đời Hán, nơi các quan học sĩ đợi chiếu, chuẩn bị để vua hỏi chính sự. Ðây là chỉ những người có văn tài, được nhà vua trọng dụng.
[42] Giải cấu: tình cờ không hẹn mà gặp.
[43] Trung khúc: khúc lòng, những tâm sự thầm kín.
[44] Song sa: cửa sổ có treo màn sa (thứ hàng tơ dệt thưa mỏng)
[45] Trướng huỳnh: màn đom đóm, chỉ phòng học của học trò. Theo Tấn Thu, ông Xa Dận hồi nhỏ nhà nghèo, không có đèn thắp mà học nên bắt đom đóm bỏ vào một cái túi để thấy chữ mà học. Người ta dùng chữ trướng huỳnh để chỉ buồng học của người siêng học.
[46] Ðài sen: để cắm nến hình hoa sen. Song đào: lư đốt trầm, hình quả đào.
[47] Nước non: Bởi chữ cao sơn lưu thủy, chỉ tiếng đàn hay của người tri kỷ, tiếng đàn có bạn tri âm thưởng thức. Tích Bá Nha và Tử Kỳ. Bá Nha thời Xuân Thu, là người giỏi đàn, gặp và chơi thân với Chung Tử Kỳ là người sành nghe đàn. Một hôm Bá Nha đánh đàn, Chung Tử Kỳ ngồi nghe. Khi Bá Nha nghĩ đến chỗ non cao, Chung Tử Kỳ nói: Thiện tai hồ cố cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn = Ðánh đàn giỏi làm sao, vòi vọi cao thay như núi Thái! Một lát Bá Nha nghĩ đến chỗ nước chảy, Chung Tử Kỳ lại nói: 'Thiện tai hồ cố cầm, đãng đãng hồ nhược lưu Thủy' Ðánh đàn sành biết mấy, mênh mông thay như nước chảy. Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha đập đàn không gảy nữa vì cho người đời không còn ai hiểu tiếng đàn của mình. Chung Kỳ là Chung Tử Kỳ, người tri âm
[48] Tư mã Phượng cầu: khúc dàn Phượng cầu hoàng của Tư Mã Tương Như đời Hán, đàn tỏ tình với Trác Văn Quân. Phượng cầu hoàng là chim Phượng (chim trống) đi tìm chim Hoàng (chim mái). Kim Trọng không cầm đàn nhưng cũng đàn một bản đàn miệng ('không lấy được em chắc là anh chết'), cũng 'nghe ra như oán như sầu' làm cho Thúy Kiều nghe xính vính, phải chấp nhận.
[49] Kê Khang - khúc Quảng Lăng: theo Thông Chi, Kê Khang một hôm đến chơi đất Lạc Tây, trọ ở Hoa Dương Ðình, đêm ngồi gảy đàn, chợt có người khách đến tự nói mình là người thời cổ, rồi cùng Khang bàn luận âm luật, nghĩa lý rành rọt thấu đáo. Nhân đó, ông khách lấy đàn gảy, soạn nên khúc Quảng Lăng Tán, lời điệu cực hay, trao cho Khang và dặn không được truyền lại cho người khác. Về sau Kê Khang bị Tư Mã Chiêu sát hại. Khúc Quảng Lăng bị thất truyền.
[50] Lưu thủy, hành vân: nước chảy mây trôi, nói tính cách thanh thoát, tự nhiên của khúc đàn.
[51] Quá quan: qua cửa ải. Chiêu Quân: tên tự của Vương Tường cung nữ của Hán Nguyên Ðế, bị cống cho vua Hung Nô làm hoàng hậu để ngăn chiến tranh giữa hai nước. Khi qua cửa ải, Chiêu Quân gảy một khúc đàn tì bà tỏ lòng nhớ nước, nhớ nhà vô hạn.
[52] Lời bài hát 'Hộ trì sáu căn' lấy từ Kinh.
[53] Bố kinh: do chữ bố quần kinh thoa (quần vải, thoa gai) chỉ người vợ hiền. Ngày xưa nàng Mạnh Quang vợ Lương Hồng chỉ dùng quần vải thoa gai.
[54] Trên Bộc trong dâu: chỉ thói tà dâm của trai gái. Hán thư: nước Vệ có bãi dâu trên sông Bộc, trai gái hẹn hò đàn hát, làm chuyện không đúng lễ giáo.
[55] Cháp cánh liền cành: sự sống lứa đôi, hai người luôn có mặt bên nhau. Thơ Bạch Cư Dị: Tại thiên nguyện tác tị dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi = trên trời nguyện làm chim liền cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành.
[56] Mái Tây: do chữ Tây Sương, tức mái tây chùa Phổ Cứu, nơi Thôi - Trương gặp gỡ nhau.
CHƯƠNG 2: BÈO DẠT MÂY TRÔI
SAO CHO CỐT NHỤC VẸN TOÀN
Sau khi Kim Trọng đi rồi:
Nàng còn đứng tựa hiên tây,
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng ngói ngất song thưa,
Hoa trôi giạt thắm liễu xơ xác vàng.
Người đi cũng khổ mà người ở lại cũng khổ. 'Hoa trôi giạt thắm liễu xơ xác vàng' là cảnh vật xung quanh mà cũng chính là tâm trạng của Thúy Kiều.
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về.
Gia đình Thúy Kiều vừa đi sinh nhật bên ngoại về. Tai nạn ập tới:
Hàn huyên chưa kịp giã giề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao:57
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,58
Một dây vô loại buộc hai thâm tình.
Cha và em trai Kiều bị đóng gông và trói chung lại với nhau. Những người đàn bà được để tự do, vì trong xã hội ngày xưa, đàn ông chịu hết trách nhiệm về tất cả mọi chuyện xảy ra.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rơi khung dệt tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
Lấy cố tìm tang vật chứng cớ để cướp của. Cụ Nguyễn Du gọi loại sai nha này là ruồi xanh.
Điều đâu bay buộc ai làm,
Này ai đang giậm giật giàm bỗng dưng?59
Hỏi ra mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Thấy thằng bán tơ và bạn của nó có vẻ dễ thương nên ông hàng xóm nhà họ Vương cho ở lại giúp việc. Ông không biết bọn này đã từng làm ăn cướp. Chính viên ngoại, cha của Thúy Kiều, cũng đã từng ngồi uống rượu với thằng bán tơ, tưởng nó là người lương thiện. Cảnh sát tìm ra bọn cướp và họ khai cho gia đình Kiều. Bây giờ sai nha lấy cớ đi bắt người để vào ăn cướp nhà Vương viên ngoại. Cảnh này thường xảy ra ở miền quê, nếu không có thế lực thì không thể nào tránh khỏi. Tai nạn xảy ra cho gia đình Kiều chứng tỏ sự tham nhũng trong xã hội thời đó.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây.
Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất phũ tay tồi tàn.
Mặc cho ba người đàn bà lạy lên lạy xuống kêu oan, bọn sai nha vẫn làm ngơ, đánh đập Vương viên ngoại và Vương Quan tàn nhẫn. Tai lân tuất là tai xót thương, những người đến bắt bớ, vơ vét nhà Kiều cũng có lỗ tai này nhưng họ đóng chặt làm như điếc. Khác với sự thực tập: 'Con xin tập lắng nghe bằng lỗ tai xót thương; của chúng ta.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan lọ người!
Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời nhưng xa!
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Vì lòng tham mà họ hành hạ người ta như vậy. Kiều không thấy một giải pháp nào để cứu cha và em ngaòi giải pháp hối lộ. Bởi vì họ: 'làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.' Phải có tiền thì họ mới chịu tha. Thúy Kiều đi tới một quyết định lớn, thay đổi hoàn toàn cuộc đời mình và đồng thời phải phụ bạc người yêu.
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong khi ngộ biến tùng quyền biết sao?
Duyên hội ngộ đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?
Duyên hội ngộ là mối tình với Kim Trọng. Đức cù lao là ơn sinh dưỡng khó nhọc của cha mẹ. Trong lòng Kiều có một sự xâu xé lớn. Muốn giữ vẹn lời thề với người yêu thì phải để cho cha mẹ đau khổ; còn nếu bán mình chuộc cha thì phải phụ tình người yêu mà mình vừa mới thề thốt cách đây có mấy giờ đồng hồ.
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết tình nàng mới hạ tình:
'Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!'
Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Từ đây cuộc đời Thúy Kiều đi rẽ sang một hướng khác.
Họ Chung có kẻ lại già
Cũng trong nha dịc lại là từ tâm
Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
Vì nàng nghỉ60 cũng thương tình xót vay.
Tính bài lót đó luồn đây,
Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
Hãy về tạm phó giam ngoài,
Dặn nàng quy liệu trong đôi ba ngày.
Thương lòng con trẻ thơ ngây,
Gặp cơn vạ gió tay bay bất kỳ!
Đau lòng tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên?
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.61
HOA DÙ RÃ CÁNH LÁ CÒN XANH CÂY
Sự lòng ngỏ với băng nhân,
Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.
Tin Thúy Kiều bán mình chuộc cha được mối lái truyền đi.
Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Hỏi tên rằng: 'Mã Giám Sinh.'
Hỏi quê rằng: 'Huyện Lâm-thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra
Đó là Mã Giám Sinh.
Tả Kim Trọng thì cụ Nguyễn Du viết:
Hài vân lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
Tả Mã Giám Sinh thì cụ viết:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Có sự khinh nhờn ở trong ấy.
Anh chàng đến rất ồn ào: 'Trước Thầy sau tớ lao xao.' Không chăm sóc chánh niệm và uy nghi gì cả. vào trong nhà rồi thì: 'Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,' và 'Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.' Thái độ của kẻ có tiền, đi mua vợ.
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Ngại ngùng dín gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Đó là Thúy Kiều khi được trình bày ra như một vật để buôn bán. Người ta tới xem con heo, con bò như thế nào thì tới xem Thúy Kiều cũng vậy. Không có nhân phẩm của con người nữa.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như ma
Đắn đo cân sắc cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
Càng phô bày được tài sắc của mình chừng nào thì người ta càng trả nhiều tiền chừng đó. Kiều phải làm tất cả những điều bà mối bảo làm, như một cái máy.
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: 'Mua ngọc đến Lam-kiều,
'Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?'
Mối rằng: 'Đáng giá nghìn vàng,
'Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!'
Khi đọc tới đây ai cũng thấy tức trong lòng. Nhục nhã, ê chề, mất hết nhân phẩm của một cô gái! Thúy Kiều quý quá, thanh tao, tinh khiết bao nhiêu đối với Kim Trọng thì lại càng như một món hàng không có giá trị gì cả đối với Mã Giám Sinh. Đây là điều sĩ nhục đầu tiên của Thúy Kiều. 'Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sĩ nhục một lần mới thôi!' Nhưng Thúy Kiều không phải chỉ bị sỉ nhục một lần! Cô sẽ bi sỉ nhục hàng chục lần trong đời mình.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Một lời thuyền đã êm giầm,
Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.
Định ngày nạp thái vu quy,
Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!
Một lời cậy với Chung công,
Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
Sau khi đã ngã giá (trên bốn trăm lượng vàng), công việc bắt đầu xuôi. Hai bên đưa thiếp cho nhau, trên hình thức là so tuổi bên trai và bên gái nhưng kỳ thực đây là một loại giao kèo. Cố nhiên là phải chồng tiền. Kiều nhờ ông họ Chung dùng số tiền này để lo lót, lãnh Vương ông về. Đây là những lời than khóc của người cha:
Thương tình con trẻ cha già,
Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu:
'Nuôi con những ước về sau,
'Trao tơ phải lứa gieo cầu đáng nơi.
'Trời làm chi cực bấy trời!
'Này ai vu thác cho người hợp tan.
'Búa rìu bao quản thân tàn,
'Nỡ đày đọa trẻ càng oan khốc già.
'Một lần sau trước cũng là:
'Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!'
Theo lời càng chảy dòng châu,
Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
Người cha muốn gieo đầu vào tường tự tử để khỏi trông thấy cảnh con gái bị gả bán như vậy. Người nhà giữ ông lại khuyên giải:
Vội vàng kẻ giữ người coi,
'Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
'Vẻ chi một mảnh hồng nhan,
'Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
'Dâng thơ đã thẹn nàng Oanh62
'Lại thua ả Lý bán mình hay sao?63
'Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,
'Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
'Lượng trên liều một thân con,
'Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây.
'Phận sao đành vậy cũng vầy,
'Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh.
'Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
'Tan nhà là một thiệt mình là hai.!
- 'Con chỉ là một đứa con gái thôi. Chưa làm được chút gì để đền ơn sinh thành của cha mẹ. Cha ngày một lớn tuổi mà phải gánh vác cho cả gia đình. Có cha đó thì mọi người đều đứng vững. Nếu cha không chịu dứt khoát để con bán mình mà cứ liều thân thì cơn mưa gió này sẽ làm tan nát hết cả gia đình. Thà một mình con chịu, hoa có tàn nhưng trên cây lá vẫn còn xanh, mẹ và các em con vẫn được an toàn. Cứ nói như ngày xưa cha mẹ sinh ra nuôi không được, chết từ nhỏ, cho đỡ khổ. Nếu cha cứ nghĩ quanh quẩn thì nhà mình sẽ tan nát mà thân cha sẽ thiệt thòi.'
Phải lời ông cũng êm tai,
Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang.
Người cha nghe nói phải chấp nhận sự thật. Biết liều mình thì cả vợ lẫn con đều tan nát hết cho nên ông phải cố gắng.
Mái ngoài họ Mã vừa sang,
Tờ hoa đã ký cân vàng mới trao.
Trăng già độc địa làm sao?
Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên!
Họ Chung ra sức giúp vì,
Lễ tâm đã đặt tụng kỳ cũng xong.
Lễ tâm là tiền của đặt trên mâm khi tới quan. Lễ nhỏ thì vài bình trà, một chai rượu. Lễ này thì phải có ba trăm lượng vàng. Những câu này tố cáo sự tham nhũng của xã hội thời bấy giờ. Truyện Kiều không chỉ nói tới những sự thực tâm lý, tình cảm mà còn nói về sự thực của xã hội.
CẬY EM, EM CÓ CHỊU LỜI
Trong vài ngày, gia đình Kiều đã phải đi qua những cơn lốc lớn. Bây giờ đã đến lúc cụ Nguyễn Du tả tâm trạng Thúy Kiều. Khi quyết định bán mình chuộc cha, trình bày tài năng, sắc đẹp của mình cho người ta mua, rồi can ngăn cha già đừng tự tử, Kiều đã xử sự một cách rất xuất sắc với tư cách của người chị cả. Trong suốt thời gian đó, những đau khổ của Kiều không được nói tới. Khi công việc đã xong, mọi người đã đi ngủ thì Kiều còn thức và quay lại cuốn phim đau khổ trong lòng mình:
Việc nhà đã tạm thong dong,
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.64
Một mình nàng ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu:
'Phận dầu dầu vậy cũng dầu
'Xót lòng đeo đẳng bây lâu một lời!
'Công trình kể xiết mấy mươi,
'Vì ta khắn khít cho người dở dang.
Đây là nỗi đau khổ đầu của Thúy Kiều. 'Nếu mình chưa hứa hẹn gì hết thì đã đỡ cho chàng Kim biết mấy. Vì mình đã hứa hẹn đã thề bồi nên bây giờ chàng Kim phải dở dang.' Kiều không nghĩ tới sự đau khổ của mình mà chỉ nghĩ đến sự đau khổ của người yêu.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
'Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!
'Trời Liêu non nước bao xa
'Nghĩ đâu rẽ cửa tan nhà tự tôi!
- 'Ở Liêu Dương giờ đây anh có biết người chịu trách nhiệm làm chia rẽ, tan nát cuộc nhân duyên của hai ta là em không?' Đây là luân lý Á Đông, khi hai bên đã chấp nhận, thề thốt rồi thì coi như hai người thuộc về nhau. Coi như đã có gia đình rồi, đã có nhà có cửa rồi. Cái nhà cái cửa đó nằm trong lòng mình.
'Biết bao duyên nợ thề bồi,
'Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?
'Tái sinh chưa dứt hương thề,
'Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
- 'Chuyện thề bồi kiếp này coi như không thực hiện được. Dù đến kiếp sau em cũng sẽ không quên được lời thề nguyền ở kiếp này. Sẽ xin làm con trâu, con ngựa kéo cày, chở đồ cho chàng để đền bù cái nợ mắc chàng trong kiếp này.' Câu này có mang ảnh hưởng thuyết Luân Hồi của Phật giáo.
'Nợ tình chưa trả cho ai,
'Khối tình thác xuống tuyền đài chưa tan!'
Tình là một cái nợ. Chưa trả thì vẫn mắc. Khối nợ sẽ không tiêu mà phải đem theo xuống âm phủ. Như chuyện chàng Trương Chi. Đem chôn, da thịt nát hết rồi mà nội kết vẫn còn một khối.
Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
Cứ suy nghĩ quanh quẩn, băn khoan lo lắng (bàn hoàn). Lưu luyến quấn quít, không buông tư tưởng đó ra được. Chong đèn khóc cả đêm.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han.
Cô Thúy Vân này vô tâm lắm! Chị bán mình, sắp đi xa. Cô làm việc cả ngày nên mệt ngủ như chết. Chị khóc nức nở quá thành ra cô cũng phải thức dậy. Đây là bốn câu của cô em gái:
'Cơ trời dâu bể đa đoan,
'Một nhà để chị riêng oan một mình.
'Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh
'Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?'
Cô nàng đã đoán ra được có cái gì ẩn giấu bên trong. Thúy Kiều òa ra khóc, nói sự thật cho Thúy Vân:
Rằng: 'Lòng đương thổn thức đầy,
'Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
'Hở môi ra cũng thẹn thùng,
'Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!
Nói ra thì mắc cở. Chuyện này là chuyện rất thiêng liêng trong trái tim. Bị buộc phải nói cho người thứ hai nghe thì rất khó chịu. Mà không nói thì rhành ra phụ bạc.
'Cậy em em có chịu lời,
'Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
'Giữa đường đứt gánh tương tư,
'Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Keo loan (loan giao) là một thứ keo để nối dây cung lại. Người ta dùng diển tích này để nói tình xưa nghĩa cũ đã gián đoạn mà còn nối lại được. Mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng đã tan rồi, nhưng vẫn có cơ hội để gắn lại nếu Thúy Vân chấp nhận thay thế cho Kiều.
'Kể từ khi gặp chàng Kim,
'Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
'Sự đâu sóng gió bất kỳ,
'Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài.
'Xót tình máu mủ thay lời nước non.
'Chị dầu thịt nát xương mòn,
'Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Kiều nói hết sự thật cho em gái và nhờ em thay mình làm hạnh phúc cho chàng Kim. Được như vậy thì dù phải chết, Kiều cũng có hạnh phúc. Đó là yêu cầu của Thúy Kiều. Tôi có một câu hỏi đặt ra trong đầu là: Chàng Kim có chịu không? - Kiều đưa những kỷ vật của hai người cho Thúy Vân và tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng và Thúy Vân sum họp sau này:
'Chiếc thoa với bức tờ mây,
'Duyên này thì giữ vật này của chung.
' Dù em nên vợ nên chồng,
'Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
'Mất người còn chút của tin,
'Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
'Mai sau dù có bao giờ,
'Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
'Trông ra ngọn cỏ lá cây,
'Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Tâm hồn Kiều là một tâm hồn hết sức nhạy cảm. Lời nói của cô cũng vậy.
'Hồn còn mang nặng lời thề,
'Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.65
'Dạ đài66 cách mặt khuất lời,
'Rảy xin chén nước cho người thác oan.
- 'Khi đó chị đã chết rồi. Xin em rảy cho vài giọt nước để linh hồn chị được mát mẻ (giống như cam lồ tịnh thủy của đức Bồ Tát Quan Thế Âm.). Những câu thơ này cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo rất sâu đậm trong tư tưởng và văn chương Việt Nam. Sau khi đã nói hết những điều phải dặn dò, Thúy Kiều khóc. Trách nhiệm đã làm xong rồi. Bây giờ chỉ khóc cho số phận mình thôi:
'Bây giờ trâm gãy gương tan,
'Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
'Trăm nghìn gởi lạy tình quân,
'Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. (12 tiếng đồng hồ.)
'Phận sao phận bạc như vôi,
'Đã đành nước chảy hoa trôi lở làng.
'Ôi Kim Lang! Hởi Kim Lang!
'Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!'
Đó là chỗ đau khổ nhất trong lòng Thúy Kiều. Đau khổ nhất không phải là phải bán mình và đi lưu lạc; đau khổ nhất là phải phụ bạc người tình của mình.
Xét về phương diện tâm lý, đoạn thơ này rất hay. Kiều có một khả năng tưởng tượng rất lớn. Cô tưởng ra cảnh em gái thay mình thành duyên với Kim Trọng; hai người có hạnh phúc, nhớ tới mình, đốt hương, gảy lại phím đàn ngày xưa; nhìn ra ngoài thấy gió hiu hiu thổi lay động cỏ cây thì biết hồn mình đang về thăm hai người; và hai người sẽ rảy nước để làm mát mẻ linh hồn oan ức, khổ đau của mình. Tưởng tượng xong rồi hướng về Kim Trọng mà than thở, diễn bày tâm trạng mình . Và khi kêu lên: "Ôi Kim Lang! Hởi Kim Lang, Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!" thì đau khổ đã lên tới mức cao nhất. Kiều thét lên, ngã xuống bất tỉnh. Đó là diễn biến về tâm lý và sinh lý. Tâm lý và sinh lý liên hệ mật thiết với nhau. Niềm đau khổ lên đến mức tuyệt đỉnh tạo thành phản ứng trong cơ thể, biểu hiện bằng một tiếng hét. Hét lên một tiếng thì bao nhiêu tinh lực của khổ đau toát ra. Kiều không còn năng lượng nữa, ngã xuống và bất tỉnh.
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng.
Cô em sợ quá. Cha mẹ Kiều nghe tiếng hét, thức dậy:
Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng,
Một nhà tấp nập kẻ trong người ngoài.
Kẻ thang người thuốc bời bời,
Mới dàu cơn vựng chưa phai giọt hồng.
Người thì đi rót nước nóng, người thì đi lấy dầu cù là.
Hỏi: 'Sao ra sự lạ lùng?'
Kiều càng nức nở nói không ra lời.
Nói được với em gái là làm tới mức tối đa rồi. Làm sao lặp lại được những điều đó cho cả nhà nghe! Thúy Vân tiết lộ niềm đau của Kiều cho mọi người:
Nỗi nàng Vân mới rỉ tai:
'Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây!'
Người cha lúc đó mới tội nghiệp. Ông nói:
'Này cha làm lỗi duyên mày,
'Thôi thì nỗi ấy sau này đã em!
'Vì ai rụng cải rơi kim,
'Để con bèo nổi mây chìm vì ai?
'Lời con dặn lại một hai,
'Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng!'
Tôi vẫn còn ngạc nhiên. Với trái tim của con người thế kỷ 20, mình không hiểu được tại sao họ lại chắc vào việc thành tựu nhân duyên cho Thúy Vân và Kim Trọng. Tuy là hai chị em nhưng vẫn là hai người khác nhau. Người ta yêu cô chị chứ ai yêu cô em mà lại cứ tính đem cô em thay thế cô chị! Làm như vậy có được không? Với tâm lý người ngày xưa, thì việc này có thể làm được. người ngày xưa rất trọng tình. Khi cưới một người, họ cưới luôn cả gia đình cho người đó. Thương chị thì cũng thương em được. Lấy trái tim của thế kỷ 20 để hiểu trái tim của thế kỷ 19,18, 17 cũng hơi khó.
Lạy thôi nàng mới rén chiềng:67
'Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
'Sá chi thân phận tôi đòi,
'Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu!'
Những chuyện này đã xảy ra trong mấy ngày sau khi Kim Trọng đi. Anh chàng lúc đó đâu có biết gì, cứ đi, nhớ và tưởng tượng. Đâu có biết đời là vô thường. Phải đọc gần cuối truyện ta mới thấy đoạn Kim Trọng trở về.
BIẾT THÂN ĐẾN NƯỚC LẠC LOÀI
Trời đã sáng. Nhà trai tới rước dâu:
Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
Quản huyền68 đâu đã giục người sinh ly.
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.
Trời hôm mây kéo tối rầm,
Dàu dàu ngọn cỏ dầm dầm cành sương.
Trời dường như cũng đau thương chung với gia đình này.
Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.
Ngập ngừng thẹn lục e hồng,
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đôi phen:
'Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
'Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai!
'Biết thân đến nước lạc loài,
'Nhị đào thả bẻ cho người tình chung.
'Vì ai ngăn đón gió dông,
'Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi,
'Trùng trùng dù họa có khi,
'Thân này thôi có ra gì mà mong.
'Đã sinh ra số long đong,
'Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?'
Kiều là một người con gái rất thông minh. Khi thấy Mã Giám Sinh và cái bầu đoàn kia bước vào nhà, cô biết họ không phải là những người đoàng hoàng và thân mình đã rơi vào tay những người vũ phu, không ra gì. Kiều giữ gìn là giữ gìn cho chàng Kim, người Kiều đem hết lòng dạ để thương yêu; bây giờ thì Kiều đâu có chủ quyền nữa. Sau này dù được gặp lại Kim Trọng, Kiều biết thân mình cũng sẽ không còn giá trị gì. Kiều nghĩ: 'Biết trước tình trạng thế này thì chi bằng tối hôm đó mình hiến thân cho chàng Kim cho rồi.' Đây là những câu mà ta phải quán chiếu. Chúng ta biết Thúy Kiều đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng cho nên dã nghĩ như vậy. Đừng nghe cô nói mà tin liền. Trước đây cô nói: 'Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?' Bây giờ cô nói ngược lại: 'Biết như vậy thì tối hôm đó mình đã trao thân cho chàng cho rồi. Giữ gìn cho lắm bây giờ cũng lọt vào tay người vũ phu.' Chúng ta có thể quán sát để thấy: Nếu cô gái trao thân cho người yêu tối hôm đó thì cô có thể mất chàng mãi mãi. Cô không trao thân cho chàng thì hình bóng cô vẫn còn đẹp trong lòng chàng suốt đời. 'Biết thân đến nước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.' Câu nói này rất liều, không có trí tuệ. Đó là suy nghĩ của một người đang quá đau khổ. Nếu Kiều làm như vậy thì cũng rất hại cho Kim Trọng. Giữ được hình bóng đẹp đẽ của Thúy Kiều trong suốt cuộc đời mình là có lời cho anh chàng lắm! Còn hình bóng của một người con gái quá dễ dãi, đòi là được liền thì đâu thể nào ở lại lâu ngày vơi chàng Kim được. Ta đừng vì cảm tình với Kiều mà vừa nghe cô nói là đã vội đồng ý ngay. Lời nói trên chẳng qua là tư tưởng của một người bất đắc chí mà thôi, không phản ảnh được trí tuệ. Và ý tự tử đã chớm nơi Kiều:
Trên yên sẵn có con dao,
Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn.
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.
Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
XÓT NÀNG CHÚT PHẬN THUYỀN QUYÊN
Mã Giám Sinh đóng vai trò của một chàng rễ, kỳ thực Mã chỉ là một con bài. Lực lượng đứng phía sau họ Mã là một nhà chứa mà giám đốc là một người đàn bà rất ghê gớm: Tú Bà. Tú Bà mua Kiêu về làm một cô gái giang hồ, tiếp những khách giàu 'sộp' để lấy tiền. Đây là chân tướng của Mã Giám Sinh và Tú Bà:
Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi đen,
Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa,
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng hai bên một phường.69
Chung lưng mở một ngôi hàng,
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.
Dạo tìm khắp chợ thì quê,
Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi.
Rủi may âu cũng sự trời,
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên.
Túa Bà và Mã Giám Sinh đều xuất thân từ chỗ ăn chơi. Khi lớn tuổi họ lại tiếp tục sinh sống bằng cái nghiệp lầu xanh của mình. Tội nghiệp Thúy Kiều đã rơi vào ổ nhền nhện.
Xót nàng chút phận thuyền quyên,
Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,
Sính nghi rẻ giá nghinh hôn sẵn ngày.
Đây là tư tưởng của Mã Giám Sinh:
Mừng thầm: 'Cờ đã tới tay,
'Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng.
'Đã nên quốc sắc thiên hương,
'Một cười nay hẳn nghìn vàng chảng ngoa!
'Về đây nước trước bẻ hoa,
'Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
'Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
'Cũng là vừa vốn còn sau thì lời.
'Miếng ngon kề đến tận nơi,
'Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.
'Đào tiên đã bén tay phàm,
'Thì vin cành quýt cho cam sự đời!
'Dưới trời mấy mặt làng chơi,
'Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa.
'Nước vỏ lựu máu mào gà,
'Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.
'Mập mờ đánh lận con đen,
'Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?
'Mụ già hoặc có điều gì,
'Liều công mất một buổi quỳ mà thôi.
'Vả đây đường xá xa xôi,
'Mà ta bất động nữa người sinh nghi.'
Thế là Mã Giám Sinh ép Kiều đi ngủ chung.
Cụ Nguyễn Du than:
Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một giấc mơ màng.
Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ!
Người đàn ông đó rất vũ phu. Kiều như một đóa hoa rất mong manh. Anh chàng thì như 'mưa gió nặng nề', không hề có sự lễ phép, không có sự nương tay nhẹ nhàng. Xong chuyện anh chàng bỏ đi, không săn sóc, nói chuyệng gì với Kiều hết. Kiều cảm thấy bị hiếp, nhục nhã vô cùng:
Giọt riêng tầm tã tuông mưa,
Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình;
'Tuồng chi là giống hôi tanh,
'Thân nghìn vàng để ô danh má hồng!
'Thôi còn chi nữa mà mong,
'Đời người thôi thế là xong một đời!'
Trong cơn nhục nhã, Kiều rút dao, định tự tử nhưng nghĩ lại sợ liên lụy đến cha mẹ nên phải cất dao lại:
Giận duyên tủi phận bời bời,
Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh,
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
'Một mình thì chớ hai tình thì sao?
'Sau dầu sinh sự thế nào,
'Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân.
'Nỗi mình âu cũng giản dần,
'Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi!'
'Trước sau gì cũng chết. Đợi đi khuất khỏi vùng này rồi hãy hay.'
Những là đo đắn ngược xuôi,
Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường.
Lầu mai vừa rúc còi sương,
Mã sinh giục giã vội vàng ra đi.
Đoạn trường thay lúc phân kỳ!
Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh.
Câu 'Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh' có giá trị âm hưởng rất hay. Đọc lên đã thấy khó chịu, khỏi cần ngồi trên xe ngựa.
Bề ngoài mười dặm trường đình,
Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.
Đây là phong tục cổ. Ăn tiệc chia tay rồi lại gánh tiệc đi theo tiễn mười, mười lăm dặm nữa. Tới chỗ nghỉ, dở tiệc ra ăn chia tay thêm lần thứ hai.
Ngoài thì chu khách dập dìu, Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
Trong lúc mọi người ăn tiệc tiễn hành thì mẹ của Thúy Kiều vào phòng Kiều. Hai mẹ con nói chuyện. Kiều nói: 'Chết con rồi mẹ ơi!'
Nhìn càng lã chã giọt hồng,
Rỉ tai nàng mới giải lòng thấp cao:
'Hỗ sinh ra phận thơ đào,
'Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong!
Lỡ làng nước đục bụi trong,
'Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
'Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
'Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.
'Khi về bỏ vắng trong nhà,
'Khi vàng dúng dắng khi ra vội vàng,
'Khi ăn khi nói lỡ làng,
'Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.
'Khác màu kẻ quý người thanh,
'Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.
'Thôi con còn nói nữa chi con,
'Sống nhờ đất khách thác chôn quê người!'
Đó là nhận xét của Thúy Kiều. Mã Giám Sinh không phải là một người đàn ông bình thường mà giống như một tay lái buôn gian manh nào đó. Đời cô như vậy chắc sẽ không ra gì.
Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
Dùng hình ảnh. Trong tám chữ mà thi sĩ có thể lột tả thấm thía nỗi đau nhức, oan ức của người mẹ.
Vài tuần chưa cạn chén khuyên.
Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe.
Nghỉ (dấu hỏi) là hắn ta, anh ta, chỉ Mã Giám Sinh. Vương ông rất thương con gái, đến trước yên ngựa của Mã Giám Sinh năn nỉ:
Xót con lòng nặng chề chề,
Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:
'Chút thân liễu yếu thơ đào,
'Dớp nhà đến nỗi dấn vào tôi ngươi.
'Từ đây góc bể bên trời,
'Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
'Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,
'Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.'
Hai câu sau rất hay. Người đàn bà như dây leo (cát đằng), người đàn ông như cây tùng. Dây leo lên cao được là nhờ cây tùng đứng vững. Trong Quy Sơn Cảnh Sách (ngày xưa bằng chữ Nho, người xuất gia phải học thuộc lòng) có câu: 'Khả bất kiến ý tùng chi cát, thượng túng tiên tầm, phụ thác thắng nhân, phương năng hữu ích.' Có nghĩa là: 'Há quý vị không thấy cây dây leo nương vào cây tùng mà leo lên cao tới nghìn tầm. Nếu tu học mà không nương vào những người có đạo đức lớn thì không thể nào thành công được.' Trong câu này, Vương ông nói: 'Xin nhờ anh làm chỗ nương tựa cho cho đứa con gái thương của tôi! Trăm sự nhờ anh hết! Hạnh phúc của con gái tôi hoàn toàn trông cậy vào anh.' Nhưng năn nỉ sao được! Đây vốn là tay bợm già, năn nỉ đâu có ích lợi gì! Anh chàng nói:
Cạn lời khách mới thưa rằng:
'Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.
'Mai sau dù có thế nào,
'Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần!'
'Không sao đâu, ông đừng có lo! Có duyên mới thành vợ thành chồng được chớ! Sau này mà tôi ăn ở không đàng hoàng, không chăm sóc Thúy Kiều thì trời phạt tôi chết!' Họ Mã đã thề như vậy đó.
MỘT XE TRONG CÕI HỒNG TRẦN NHƯ BAY
Đùng đùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Hai câu tả đoàn rước dâu đi trong gió bụi. Đây cũng là thân phận của kiếp người bị cơn lốc của nghiệp báo cuốn theo. Con người không có năng lực để làm chủ lấy mình. Có những đau buồn, tham giận, kiêu căng mà lại thiếu trí tuệ, từ bi và sự trầm tĩnh. Đi trong cuộc đời như đi trong một cơn lốc, người ta không có khả năng làm chủ thân tâm. 'Đùng đùng gió giục mây vần. Một xe trong cõi hồng trần như bay' là số phận chung của tất cả mọi người. Hồng trần là bụi đỏ, chỉ cuộc đời đau khổ. Mỗi người đang cởi một chiếc xe và đang đi trong cơn lốc của những hạt bụi đỏ. Người tu thì sẽ có phương pháp để thắng xe lại, làm chủ tình thế. Người không tu thì ngồi trên xe và bị cuốn theo cơn lốc của bụi hồng. Hai câu thơ này rất hay, có thể viết để treo ở thiền đường.
Và đây là tâm trạng Thúy Kiều khi đang ở trên con đường nghìn dặm:
Trông vời gạt lệ chia tay,
Góc trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm.
Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá đen rần ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
Sương lạnh đọng trắng trên cầu, bầu trời ảm đạm mây đen. Đó là khung cảnh Kiều đang đi ngang qua nhưng cũng là tình trạng bên trong trái tim Kiều - cũng rất lạnh và rất đen. Nội tâm và ngoại vật giống hệt như nhau. Con người trong cảnh rất cô đơn cho nên cả trời thu đó dường như chỉ để cho một người chịu đựng mà thôi.
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông!
Rừng thu từng biếc chen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn!
Tâm trạng của Kiều luôn luôn có hai nỗi nhớ niềm thương. Một bên là nhớ người yêu, một bên là nhớ cha nhớ mẹ. Tấm lòng thần hôn là tấm lòng hiếu thảo muốn săn sóc sớm chiều cho cha mẹ.
SA VÀO Ổ NHỆN
Đi một tháng thì tới Lâm Truy. Và Thúy Kiều khám phá ra được sự thật là người ta đã mua cô về để làm gái làng chơi.
Những là lạ nước lạ non
Lâm-Truy vừa một tháng tròn tới nơi.
Xe châu dừng bánh cửa ngoài
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoát trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?
Đây là bà chủ chứa. Cụ Nguyễn Du tả bà đó cũng ghê!
Trước xe lơi lả han chào
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
Và Thúy Kiều thấy:
Bên thì mấy ả mày ngài,
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
Giữa thì hương lửa hẳn hoi,
Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen lối xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư.
Thần lông mày trắng (thần bạch mi) là ông thần mà các nhà chứa thờ để ông phù hộ cho được đông khách. Thúy Kiều không hiểu gì cả. tưởng là vô lạy bàn thờ tổ tiên, ai dè là bắt tới lạy cái ông thần lạ kỳ đó!
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
'Cừa hàng buôn bán cho may,
'Đêm đêm hàn thực ngày ngày nguyên tiêu.
'Muôn ngàn người thấy cũng yêu,
'Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai!
'Tin nhạn vấn, lá thơ bài,
'Đưa người cửa trước rước người cửa sau!'
Lạ tai nghe chửa biết đâu,
Xem tình ra cũng những màu dở dang.
Kiều không hiểu gì hết! Nàng là một cô gái nhà lành, làm sao hiểu được ngôn từ của nhà chứa! Nhưng cô càng lúc càng nghi.
Lễ xong hương hỏa gia đường
Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng: 'Con lạy mẹ đây,
'Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.'
Kiều ngạc nhiên:
Nàng rằng: 'Phải bước lưu ly
'Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.
'Điều đâu lấy yến làm anh,
'Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
'Đủ điều nạp thái vu quy,
'Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
'Giờ ra thay bậc đổi ngôi,
'Dám xin gởi lại một lời cho minh.'
Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:
'Này này sự đã quá nhiên,
'Thôi đà cướp sống của min đi rồi!
'Bảo rằng đi dạo lấy người,
'Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
'Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
'Buồn mình trước đã tần mần thử chơi
'Màu hồ đã mất đi rồi,
'Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma.
Giận Mã Giám Sinh quá nhưng bà ta đâu đánh họ Mã liền ngay lúc đó được. Tú Bà quay sang chửi và đánh Kiều:
'Con kia đã bán cho ta,
'Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây!
'Lão kia có giở bài bây,
'Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe!
Cớ sao chịu tốt một bề,
'Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
'Phải làm cho biết phép tao!'
Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay.
Nàng rằng: 'Trời thẳm đất dày,
Thân này đã bỏ những ngày ra đi!
'Thôi thì thôi có tiếc gì!'
Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.
Sợ gan nát ngọc liều hoa,
Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.
Thương ôi tài sắc bậc này.
Một dao oan nghiệt dứt dây phong trần!
Kiều lấy dao ra và đâm vào bụng tự tử. Nàng bị thương rất nặng.
Nỗi oan vở lở xa gần,
Trong nhà người chật một lần như nêm.
Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Vực nàng vào chốn hiên tây,
Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men.
Trong lúc mê man, Đạm Tiên lại hiện ra với Kiều:
Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
Rỉ rằng: 'Nhân quả dở dang.
'Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
'Số nàng nặng nghiệp má đào,
'Người dù muốn quyết trời nào hay cho!
'Hãy xin hết kiếp liễu bồ
'Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau.'
Thuốc thang suốt một này thâu,
Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.
Tú Bà chực sẵn bên nàn,
Lựa lời khuyên giải mơn man gở dần:
Bây giờ Tú Bà mới biết rằng Kiều rất gan dạ, không thể dùng oai lực mà nhiếp phục được. Bà phải vuốt ve:
'Một người dễ có mấy thân,
'Hoa xuân dương nhụy ngày xuân còn dài.
- "Con ơi, con còn trẻ lắm mà! Làm chi như vậy, dại dột lắm con ơi!'
'Cũng là lỡ một lầm hai,
'Đá vàng sao nở ép nài mưa mây.
'Lở chân trót đã vào đây,
'Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non.
'Người còn thì của hãy còn,
'Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà.
- 'Con là con nhà lành, bác sẽ không ép con làm nghề này dâu! Nhưng con đã lỡ bước vào đây rồi, bác sẽ nuôi con và gã chồng đàng hoàng cho con.' Khôn lắm! Ăn thua là để cho Kiều chịu uống thuốc, trị bệnh, sống trước dã rồi tính sau!
'Làm chi tội báo oan gia,
'Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?'
- 'Nếu con tự tử thì thiệt thân con mà bác đây cũng sẽ khổ đau lắm.'
Kề tai mấy nỗi nằn nì,
Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi.
Thúy Kiều nghe nói thấy cũng đúng và cũng hy vọng Tú Bà sẽ giữ lời. Trong giấc mộng, Đạm Tiên cho Kiều biết cô có những nghiệp duyên kiếp trước phải đền trả, không thể tránh khỏi bằng cách chấm dứt sự sống của mình.
Vả trong thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
Túc nhân là nghiệp nhân trong quá khứ. Túc là kiếp trước (Ví dụ: Túc mạng thông là hiểu thấu, nhớ được tất cả những kiếp trước.) Trong Kinh có bài kệ:
'Dục tri tiền thế nhân
Kim Sanh thọ giả thị
Dục tri lai thế quá
Kim sanh tác giả thị.'
Nghĩa là: Muốn biết nhân đời trước thì coi quả đời này; muốn biết quả đời sau thì coi nhân đời này.
Dùng chữ trời ở đây là cụ Nguyễn Du muốn cho tới luật nghiệp báo. Trong giai đoạn này, cụ còn trộn lẫn thuyết thiên mạng với thuyết nhân quả. Về sau này, khi Phật học của cụ đã sâu sắc, cụ viết rất khác về tư tưởng nhà Phật.
Kiếp này nợ trả chưa xong,
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!
Đây là niềm tin bình dị của xã hội Á Đông ngày xưa: 'Thôi, ráng sống mà trả cho hết nghiệp báo. Chết thì nghiệp báo vẫn còn hoài, kiếp sau thế nào cũng phải trả nợ chồng chất.'
Lặng nghe ngẫm nghĩ gót đầu,
Thưa rằng: 'Ai có muốn đâu thế này.
'Được lời như thế là may.
'Hẳn rằng mai có như rày cho chăng!
'Sợ khi ong bướm đãi đằng,
'Đến điều sống đục sao bằng thác trong!'
Kiều vẫn còn nghi: 'Đâu có ai muốn chết, nhưng sống đục sao bằng thác trong? Bác nói như vậy nhưng liệu bác có làm theo như vậy hay không? lỡ sau này người ta làm nhục con thì thà con chết bây giờ mà được trong sạch còn hơn là phải sống ô nhục."
Mụ rằng: 'con hãy thong dong,
'Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
'Mai sau ở chẳng như lời,
'Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.'
- 'Nếu bác mà không giữ lời thì trời đất sẽ không dung bác.' Mấy người này hay thề độc lắm!
Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,
Đành lòng nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.
Kiều chấp nhận.
AI CÓ THỂ GIÚP KIỀU?
Chúng ta phải tìm cách độ những người đang và đã sa vào hoàn cảnh như Thúy Kiều. Những người đang ăn chơi, tàn hoại thân thể và tâm hồn mình cũng cần người đến cảm hóa. Trong Kinh có câu: 'Dâm phòng, tửu tứ vô vi thanh tịnh đạo tràng.' Quán rượu và nhà chứa đều là những đạo tràng mình phải đi vào để cứu độ. Phải biến những chỗ đó làm những đạo tràng thanh tịnh để hành đạo chứ không nên nhắm mắt lại, nói rằng những chỗ đó không có. Nhắm mắt lại thì không chuyển hóa được. Không độ được. Không độ được một Mã Giám Sinh hay một Tú Bà thì có biết bao Thúy Kiều sẽ rơi vào những ổ nhện đó. Giải tán được một ổ nhện là cứu được không biết bao nhiêu những cô thiếu nữ. Ở Bangkok, Manila hay Sài Gòn bây giờ có rất nhiều những ổ nhện như vậy. Đây là chuyện xảy ra ở tất cả các thành phố lớn. Các cô gái mười ba, mười bốn ở miền quê lên thành phố bán bánh nuôi em có thể bị lọt vào những ổ đó rất dễ dàng. Ban đầu họ chỉ cho vài chục đồng hay một chỗ ở, sau đó họ dụ: 'Con làm cái nghề đó thì sẽ nhiều tiền gởi về nhà. Làm nghề này một ngày thì được họ cho mấy trăm, mấy ngàn đồng, thấy khỏe quá. Rồi mới lún từ từ vào sâu. Ở Sài Gòn cũng có những trẻ em bụi đời, những 'người Việt gốc me' (không có nhà, ngủ dưới gốc cây me.) Nếu sa vào ổ nhện rồi thì muốn ra rất khó. Ngày xưa dưới thời ông Thiệu ông Kỳ có ngã tư Quốc Tế, ngã tư Chú Lía... ghê gớm lắm. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, vấn đề này còn to lớn hơn. Phải có kế hoạch, phải biết rõ tình trạng thì mới có thể hành đạo ở những chỗ đó. Có khi nào các thầy, các sư cô nghĩ tới chuyện đi đến những chỗ ấy để hành đạo không? Nếu các thầy cứ ở chùa mà thuyết Pháp thì tiếng Pháp của các thầy làm sao tới được những người đau khổ như Thúy Kiều? Nếu quý vị muốn đem đạo Phật đi vào cuộc đời thì phải nghĩ đến đạo Bụt nhập thế, nghĩa là Phật giáo nhân gian. Ngày xưa sư Giác Duyên đã làm chuyện ấy.
Rất ngộ nghĩnh là Kiều đã tự tử, đã được bán cho một thương gia giàu có (Thúc Sinh), đã được một ông đại tướng (Từ Hải) cưới về, và đã đi tu nữa, vậy mà cũng không thoát ra được. Cô đã tìm mọi cách để thoát ra. Nhưng số phận vẫn đưa cô về lầu xanh, làm vật chơi cho người khác. Rốt cuộc là chính một ni sư đã cứu Kiều và đem Kiều về nếp sống bình thường, cho Kiều cơ hội gặp lại cha mẹ và người yêu cũ.
Vớt người trầm luân, đó là công việc của một sư cô. Điều này đã xảy ra trong quá khứ. Hiện nay, những thanh niên Việt Nam đã không có hạnh phúc đi theo băng đảng ở Mỹ rất nhiều. Tình trạng này lan sang cả Canada và Âu Châu. Các thầy, các cô có làm được gì để giúp những người ấy hay không? những bài thuyết pháp của quý vị có động tới được những thanh thiếu niên đó không? Trước khi là thanh niên du đãng thì họ cũng đã là những thanh niên bình thường. Các thầy đã giảng được cho các thanh niên bình thường ấy chưa?
BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI
Khi đọc Kiều, nghe những đau khổ và chán chường như thế, ta không thấy dễ chịu. Chúng ta đi tìm sự thật. chúng ta phải có câu trả lời cho tình trạng. Đây không phải chỉ là tình trạng ngày xưa, đây cũng là tình trạng bây giờ. Khi giảng Tâm Kinh Bát Nhã, tôi cũng đem Tâm kinh vào xã hội ngày. Tôi nói rằng một em bé ở Bangkok bị dụ làm gái ăn sương, chiều đi sáng về, trông thấy những cô nữ sinh áo trắng đi học, ngẫm lại thân mình thì tủi. Các cô gái nhà lành thật may mắn. Thân phận em là thân phận ô uế của một cô gái ăn sương. Em có mặc cảm mình là con gái bỏ đi, còn những cô nữ sinh kia là những cô gái đáng sống. không ai có thể cứu em bé này ra khỏi mặc cảm ô nhục, dơ bẩn, ngoại trừ Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát nói như thế này: "Con không dơ mà mấy cô kia cũng không sạch. Sở dĩ mà con như thế này là vì xã hội kia như thế kia (Thử hữu cố bỉ hữu thử vô cố bỉ vô.) Xã hội kia được như vậy là vì có những người như con. Con làm ra xã hội và xã hội làm ra con. Không phải chỉ có con mới chịu trách nhiệm về con mà cả xã hội kia cũng phải chịu trách nhiệm về con. Con đừng có mặc cảm con là người duy nhất chịu trách nhiệm. Tất cả những nhà giáo dục, kinh tế, chính trị trong xã hội đều chịu trách nhiệm về con cả.' Đó là ý 'Không dơ cũng không sạch, Không thêm cũng không bớt' trong Tâm Kinh Bát Nhã. Nghe Đức Quan Thế Âm nói như vậy thì ranh giới giữa dơ và sạch, bên này và bên kia mới được tháo sạch và mặc cảm của các cô gái ăn sương lúc đó mới có thể được tiêu trừ. Đó là giọt nước Cam Lộ mà chỉ có đạo Phật mới cung cấp được. Cái thấy bất nhị này chúng ta ít tìm thấy trong các truyền thống tôn giáo khác. Cái này như thế này là vì cái kia như thế kia. 'Thân phận con, cả xã hội đều chịu trách nhiệm. Con đừng có mặc cảm tội lỗi. Nếu người ta sống đàng hoàng, biết lo cho tất cả thì con đã không đến nỗi như thế này đâu.' Em bé sẽ khóc và ôm lấy chân Đức Quan Thế Âm: 'Xin Ngài dạy cho con cách để thoát ra khỏi'. Lúc ấy Đức Quan Thế Âm mới bắt đầu dạy cho em được. Chúng ta cũng phải làm như thế. Ngày xưa ở Sài Gòn có các sư cô làm chuyện đó. Ngày nay cũng vậy.
Có một em bé ở nhà quê lên bán bánh. Người cô không cho em ở vì em không có tên trong tờ khai gia đình. Em ngủ ngoài nghĩa địa. Sợ ma. Một bữa nọ Tú Bà lại nói: 'Nếu con chịu ngủ với người ta thì con sẽ có nhiều tiền. Con được một trăm thì cô chỉ giữ lại hai chục để trả tiền nhà, tiền nước.' Nhà chứa không chánh thức; công an, cán bộ biết, nhưng được lo lót thì cũng để cho yên. Một sư cô thấy em bé nhỏ xíu, mới mười sáu tuổi mà đứng ngoài được kiếm khách. Sư cô kêu em lại nói chuyện. 'Thôi, Tú Bà biết liều không sợ chứa chấp con thì cô cũng liều. Thay vì ở nhà Tú Bà thì con về ở chùa đi.' Cô cho em ở đậu và giúp em một xe bán bánh mì. Sư cô này hiện đang sống ở Sài Gòn, đã và đang làm những việc như vậy. Đừng nói rằng những chuyện đó là những chuyện quá khứ, những chuyện minh không làm được. Đó là một trong những chuyện đang xảy ra.
Nếu sư cô nọ có thể giúp em bé kai thì sư cô cũng đã có thể giúp những em bé khác. Ngoài sư cô cũng còn biết bao nhiêu những sư cô khác đang làm được chuyện này. Đây không phải là chuyện lý thuyết. Sự thật ở Sài Gòn bây giờ có những sư cô buổi sáng mở chùa cho trẻ con bụi đời vô học. Các cô nói: 'Nếu các con chịu khó học được bốn tiếng đồng hồ thì trưa nay sẽ được ăn cơm chay.' Giữ con nít ở trong chùa để các em khỏi ra được làm du đảng hay đào bới trong những đống rác. Ăn trưa xong các em có thể lăn ra ngủ. Ở lại học buổi chiều từ ba đến sáu giờ thì các em lại được ăn cơm chiều. Nhìn bề ngoài thấy giống như trẻ em mỗi ngày được cung cấp mấy giờ học và hai bữa cơm. Kỳ thực kết quả lớn lắm! Các cô đã giữ được cho các em khỏi sa vào những ổ nhện và khỏi trở thành những trẻ em du đảng. Cho một em ăn trưa chỉ tốn 25 cents thôi. Ở Tây phương, 25 cents thì mua gì được! Nhưng vào tay sư cô, 25 cents là một bữa ăn cho em bé. Bao nhiêu công việc như vậy. Rất đẹp, rất hay. Đạo Phật là như thế, không phải là đạo nói trên trời dưới biển. Thúy Kiều bây giờ nhiều lắm. Có khắp nơi. Chỉ thương hại cho cô Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du không thôi thì rất bất công. Cô này đã có người thương rồi, đã có một sư cô tên Giác Duyên lo cho rồi. Còn biết bao nhiêu Thúy Kiều nhỏ tuổi, dại dột hơn Thúy Kiều này đang ở khắp nơi trên quê hương mình. Đọc truyện Kiều với cái thấy này thì truyện Kiều trở thành ra Kinh. Ích lợi như đọc Kinh.
NỬA TỈNH NỬA CẢNH
Tú Bà đã hứa sẽ lo cho tương lai của Kiều và để Kiều dưỡng bệnh ở lầu Ngưng Bích. Đây là những câu thơ đẹp tả cảnh quanh lầu Ngưng Bích; đồng thời nói lên tâm trạng nhớ thương của Thúy Kiều:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Núi xa, trăng gần. Những cồn cát màu vàng, những con đường chạy về nơi xa tắp có màu hồng của Đất. Hình ảnh đẹp. Có tương phản (xa - gần, cát vàng - bụi hồng, cồn nọ - dặm kia) và có kếp hợp (ở chung). Có động (cát - bụi) và có tình (non - trăng). Hay một phần nữa là ở chỗ ngắt nhịp. Thay và ngắt ở chữ thứ tư như những câu tám thông thường trong lục bát (ví dụ: Cát vàng cồn nọ/ tấm trăng gần/ ở chung. Hơi thơ vì vậy khác thường, không đều đều một điệu.
Tâm tình thương nhớ và khổ đau sẵn có xúc chạm với cảnh đẹp làm tâm trạng Kiều càng thêm xao xuyến:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya.
Nửa tình nửa cảnh mà chia tấm lòng.
Tâm con người không ở đó. Không thật sự có mặt cho cảnh trí trước mặt và cũng không thực sự có mặt cho những tâm tư của mình.
Tưởng nhớ người yêu, băn khoăn vì lời thề chưa trọn:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,70
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Tưởng nhớ cha mẹ:
Xót người tựa cửa71 hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh73 những ai đó giờ?
Sân lai73 cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử74 đã vừa người ôm.
Người chị cả trong nhà nghĩ rằng mình đã không làm tròn được bổn phận của người con lớn. Trông vời cố hương, nghĩ về thân phận. Không biết mình sẽ đi về đâu trong tương lai:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu.
Buồn trông nội cỏ dàu dàu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi.
Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.
Ngồi ngắm cảnh mà trong lòng thì buồn. Chữ buồn trông lặp qua lập lại đến bốn lần khiến cái buồn thêm vị sắt se, thấm thía. Tâm người ngắm cảnh tràn vào cảnh, khoác lên cảnh vài sắc thái xa xa, man mác, dàu dàu, bàng bạc trong những câu thơ tài tình.
NHẮM MẮT ĐƯA CHÂN
Cảm niềm đau của một người xa quê hương (đau lòng lưu lạc) Kiều ghi xuống tâm sự mình dưới hình thức những câu thơ. Làm thơ xong, buông màn xuống ngâm lên thì nghe phía tường bên kia có tiếng một người con trai ngâm họa lại. Người con trai đó được tả như thế này:
Một chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dung chải chuốt ao khăn dịu dàng.
Nghĩ rằng cũng mạch thư hương
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
Rất hay! Anh chàng có dáng dấp học trò, không giống Mã Giám Sinh nhưng cũng rất khác với Kim Trọng. Hữu ư trung tức hình ư ngoại. Qua cách tả chúng ta cũng đã thấy được phần nào nội dung tâm lý của anh chàng rồi.
Bóng nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng chàng cũng ra tình đeo dai:
Thấy nàng Kiều anh chàng cũng có vẻ quyến luyến. Anh ta mở lời:
'Than ôi! Sắc nước hương trời,
'Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
'Giá đành trong nguyệt trên mây,
'Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa?
'Tức gan riêng giận trời già,
'Lòng này ai tỏ cho ta hởi lòng?
'Thuyền quyên ví biết anh hùng,
'Ra tay tháo cũi sổ lòng như chơi!'
Anh chàng muốn chứng tỏ mình là một trang hảo hán, có lòng anh hùng nghĩa hiệp, có thể cứu đời. Theo cách nói như vậy, chúng ta thấy rất rõ đây chỉ là nghĩa hiệp ở hình thức. Hình như Thúy Kiều cũng cảm thấy điều đó. Nhưng cô đang ở trong một hoàn cảnh quá ư khó khăn nên cố bíu lấy bất cứ cái sào nào được đưa ra.
Đánh liều nhắn một hai lời,
Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
Mảnh tiên kể hết xa gần,
Nỗi nhà báo đáp nỗi thân lạc loài.
Tan sương vừa rạng ngày mai,
Tiện hồng nàng mới nhắn lời gởi sang.
Thúy Kiều viết thư kể chuyện mình. Tảng sáng gửi sang (tiện hồng) nhà bên kia. Đến chiều đã thấy thư trả lời (phục thư) của 'chàng nghĩa hiệp'.
Trời tây lãng đãng bóng vàng,
Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.
Mở xem một bức tiên mai,
Rành rành Tích Việt có hai chữ đề.
Lấy trong ý tứ mà suy:
'Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng?'
Kiều rất thông minh. Mở thư thấy hai chữ 'Tích Việt' thì đoán được thông điệp bí mật. Chữ Tích () phân ra có ba phần: trấp () là hai mươi () nhất () là một, nhật () là ngày. Chữ Việt () có nghĩa là vượt, trong đó có chữ () tuất (). 'Ngày hai mươi mốt, giờ Tuất (19: 00 - 21:00 giờ) mình sẽ đi trốn.' Đó là thông điệp bí mật của chàng.
Chim hôm thoi thóp về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành.
Tường Đông lay động bóng cành,
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào.
Bây giờ hai người mới thật sự gặp nhau. Trước kia chỉ gặp bằng thơ văn.
Sượng sùng đánh dạn ra chào,
Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần:
Rằng: 'Tôi bèo bọt chút thân,
'Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.75
'Dám nhờ cốt nhục tử sinh,
'Còn nhiều kết cỏ ngậm vành76 về sau.
Sở Khanh:
Lặng nghe lấm nhấm gật đầu:
'Ta đây nào phải ai đâu mà rằng!
'Nàng đà biết đến ta chăng,
'Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi.'
Nàng rằng: 'Muôn sự ơn người,
'Thế nào xin quyết một bài cho xong.'
Rằng: 'Ta có ngựa truy phong,
'Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.
'Thừa cơ lẻn bước ra đi,
'Ba mươi sáu chước chước gì là hơn.77
'Dù khi gió kép mưa đơn,
'Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!'
Nghe lời nàng đã sinh nghi,
Song đà quá đổi quản gì được thân.
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.

Rất nhiều người thuộc lòng hai câu cuối và hay liều lĩnh làm theo. Khi bị đặt vào hoàn cảnh phải đi tới một quyết định, ta phải cẩn thận lắm mới được. nếu ta không tin tưởng ở giải pháp đó một trăm phần trăm thì đừng làm liều như Thúy Kiều. Bị bí, không có nước ra mà cứ chấp nhận càn một giải pháp mạo hiểm. 'Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con tạo xoay vần đến đâu' Thực ra là một lời cảnh cáo. Không bao giờ nên làm một cái gì mà mình chưa suy nghĩ kỹ càng. Phải đem hết tất cả trí tuệ của mình mà quán sát. Chỉ khi nào thấy rằng giải pháp đó là hay nhất, không có con đường nào hay bằng thì mình mới làm thôi. Trông vào may rủi (taking chance) là không nên.
QUẤT NGỰA TRUY PHONG
Cùng nhau lén bước xuống lầu,
Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn.
Đêm thu khắc lậu canh tàn,
Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương.
Canh là đơn vị thời gian dài, khắc là đơn vị thời gian ngắn (15 phút). Đồng hồ (hồ nước bằng đồng) ngày xưa làm bằng hai chậu nước thông nhau, thời gian được đo bằng mực nước nhỏ từ chậu trên xuống chậu dưới. Chữ lậu trong khắc lậu có nghĩa là rỉ ra, lọt xuống. Người tu hành mà còn sa xuống thì gọi là hữu lậu, không còn rơi xuống nữa thì gọi là vô lậu.
Lối mòn cỏ nhợt màu sương,
Lòng quê đi một bước đường một đau.
Tiếng gà xao xác gáy mau,
Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
Có tiếng đoàn người đuổi theo. Sở Khanh lộ ra chân tướng:
Nàng càng thổn thức gan vàng,
Sở khanh đã rẽ dây cương lối nào!
Một mình khôn biết làm sao,
Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng.
Hãy tưởng tượng cảnh người con gái đang đi một mình trong rừng, sau lưng có một đoàn người đuổi theo! Cụ Nguyễn Du xót cho Kiều:
Hóa nhi78 thật có nở lòng,
Làm chi giày tía vò hồng lắm nau!
GIÀY TÍA VÒ HỒNG
Một đoàn đổ đến trước sau,
Vuốt đâu xuống đất cánh đâu lên trời.
Tú Bà tốc thẳng đến nơi,
Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà,
Hung hăng chẳng nói chẳng tra,
Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.
Thịt da ai cũng là người,
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau.
Hết lời thú phục khẩn cầu,
Uốn lưng thịt đổ giập đầu máu sa.
Tú Bà đánh Kiều tơi bời. Chỉ một cái tội đi trốn thôi là đủ để đánh rồi. Kiều chịu không nổi:
Rằng: 'Tôi chút phận đàn bà,
'Nước non lìa cửa chia nhà đến đây.
'Bây giờ sống thác ở tay,
'Thân này đã đến thế này thì thôi!
Nhưng tôi có sá gì tôi,
'Phận tôi đành vậy vốn người ở đâu?
Kiều dùng phương pháp mặc cả, đánh vào cái lợi của người ta, để đừng bị đau đớn. Câu sau cùng là câu chua chát nhất:
'Thân lươn bao quản lấm đầu,
'Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.'
Đây là câu thơ cay đắng, chua xót và đau đớn nhất trong truyện Kiều. Chừa những thói hư tật xấu như tham lam, sân hận, kiêu căng thì gọi là chừa. Nhưng lòng trinh bạch mà phải chừa thì là một bản án rất lớn của số phận đè lên con người. Đó là bi kịch lớn của loài người. Tất cả những độc giả của Nguyễn Du khi đọc tới câu này đều phẫn uất. Phẩn uất cho con người, phẫn uất cho xã hội. Một xã hội mà trong đó cô thiếu nữ phải hứa là sẽ chừa đi cái trong sạch và trinh trắng của minh! Dễ sợ!
Được lời mụ mới tùy cơ,
Bắt người bảo lãnh làm tờ cung chiêu.
Bày vai có ả Mã Kiều,
Xót nàng ra mới đánh liều chịu đoan.
Mụ càng kể nhặt kể khoan,
Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha.
Tú Bà bắt Kiều phải thề thốt và cam kết sẽ ra tiếp khách mới chịu tha. Trong thanh lâu có cô Mã Kiều thương tình, đứng ra bảo lãnh cho Thúy Kiều.
Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
'Thôi đà mắc lận thì thôi!
'Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
'Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,
'Một tay chôn biết mấy cành phù dung.
'Đà đao79 lập sẳn chước dùng.
'Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!
'Có ba mươi lạng trao tay,
'Không dưng chi có chuyện này trò kia!
'Rồi ra trở mặt tức thì,
'Bớt lời liệu chớ sân si thiệt đời!'
- 'Ít nhất Tú bà đã trả cho Sở Khanh ba mươi lạng vàng để đưa cô vào tròng. Hắn trở mặt nhanh lắm! Thôi, cô đừng nói năng gì với hắn nữa hết kẻo mà thiệt thân'.
Nàng rằng: 'Thề thốt nặng lời,
'Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!'
Còn đương suy nghĩ trước sau,
Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào.
Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
Rằng: 'Nghe mới có con nào ở đây.
'Phao cho quyến gió rủ mây,
'Hãy xem cho biết mặt này là ai?'
- 'Nghe đồn có con nào ở đây mới phao vu cho tôi quyến rũ nó? Nó hãy ra đây coi thử cái mặt này có phải là mặt của thằng đó không?
Nàng rằng: Thôi thế thì thôi,
Rằng không thì cũng vâng lời rằng không!'
- 'Nếu ông nói không thì tôi cũng nói là không vậy!'
Sở Khanh quát mắng đùng đùng,
Bước vào vừa rắp thị hùng ra tay.
Kiều đưa ra hai chữ 'Tích Việt':
Nàng rằng: Trời nhé có hay!
'Quyến anh rủ yến sự này tại ai?
'Đem người đẩy xuống giếng khơi,
'Nói rồi lại ăn lời được ngay!
'Còn tiên tích việt ở tay,
'Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai!'
Lời ngay đông mặt trong ngoài,
Kẻ chê bất nghĩa người cười vô lương!
Phụ tình án đã rõ ràng,
Dơ tuồng nghỉ80 mới kiếm đường tháo lui.
PHONG TRẦN NHƯ AI
Buồng riêng riêng những sụt sùi,
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân:
'Tiếc thay trong giá trắng ngần,
'Đến phong trần cũng phong trần như ai!
'Tẻ vui cũng một kiếp người,
'Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!
'Kiếp xưa đã vụng đường tu,
'Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
'Dẫu sao bình đã vỡ rồi,
'Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!'
Bây giờ mình đau khổ như thế này là vì kiếp trước mình đã không biết tu tập đàng hoàng. Vậy thì đừng than thở nữa, hãy tu tập để chữa lại những lỗi lầm trong quá khứ. Ở đây Kiều nghĩ rằng mình phải chấp nhận tiếp khách để 'trả cái nợ' mình đã mắc trong tiền kiếp. Cương quyết 'trả nợ', chấp nhận tiếp khách. Nhưng tiếp khách đâu phải dễ. Tú Bà gọi Kiều vào và dạy: phương pháp tiếp khách. Là con gái nhà lành, Kiều phải đi qua một lớp 'huấn luyện' thì mới có thể làm ăn được.
Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,
Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò:
'Nghề chơi cũng lắm công phu,
'Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.'
Nàng rằng: 'Mưa gió dập dìu,
'Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!'
Mụ rằng: 'Ai cũng như ai,
'Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
'Ở trong còn lắm điều hay,
'Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung.
'Này con thuộc lấy làm lòng,
'Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.
'Chơi cho liễu chán hoa chê,
'Cho lăn cho lóc cho mê mẫn đời.
'Khi khóe hạnh khi nét ngài,
'Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa.
'Đều là nghề nghiệp trong nhà,
'Đủ ngần ấy nết mới là người soi.81
'Gót đầu vâng dạy mấy lời,
Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng.
Những nghe nói đã thẹn thùng,
Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!
Xót mình cửa các buồng khuê,
Vở lòng học lấy những nghề nghiệp hay!
Khéo là mặt dặn mày dày,
Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
Thương thay thân phận lạc loài,
Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?
Lầu xanh mới rủ trướng đào,
Càng treo giá ngọc càng cao phẩm người
Biết ao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim82
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh.83
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh.
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Trong khi tiếp khách bận rộn thì Kiều không có thì giờ để đau khổ. Nhưng những khi tỉnh rượu giữa đêm khuya là những lúc Kiều đau khổ cực kỳ. 'Một mình mình lại thương mình xót xa'. Câu thơ có tới ba chữ mình mà không chữ nào dư.
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Bốn chữ sao lặp đi lặp lại như tiếng than, như câu hỏi, là nỗi day dứt không đành trước nghịch lý trớ trêu của thân phận.
ĐÒI ĐOẠN XA GẦN
Mặc người mây Sở mưa Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cũng có những lúc rảnh rổi. Ngồi tựa cửa nghe gió, ngắm hoa, Kiều thấy tuyết rơi ngậm một nửa bức rèm trước cửa sổ hay trăng chiếu sáng bốn bề. Những lúc đó Kiều thấy gì?:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Cảnh đẹp. Nhưng khi tâm mình buồn thì không có cảnh nào là không chứa đựng trong lòng nó tính chất sầu đau của tâm lý. Thuần túy Duy Thức Học!
Đòi phen nét vẻ câu thơ.
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Cũng có những giờ phút giống như là an lạc: ngồi vẽ, đánh đàn dưới trăng, chơi cờ với khách. Đứng ngoài ngó vô thì giống như mình cũng là một người phong lưu, lịch sự. Nhưng mà:
Vui là vui gượng kẻo mà
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm mối dùi mài một thân.
Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
Chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau!
Nhớ ơn chín chữ cao sâu,
Một ngày một ngả bóng đâu tà tà.
Dặm nghìn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.
Sân hòe đôi chút thơ ngây,
Trân cam84 ai kẻ đỡ thay việc mình?
Kiều nghĩ đến cha mẹ già. Ở xa, hai đấng sinh thành đâu biết thân phận con mình đã ra đến thế này! Hai em còn nhỏ ở nhà không biết có săn sóc được cha mẹ như mình mong muốn không?
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có biết tình chăng ai?
Khi về hỏi liễu Chương Đài.85
Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay!
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
Tưởng tượng Kim Trọng về, nghe Kiều đi lấy chồng rồi thì buồn biết bao nhiêu mà kể! Không biết cuộc nhân duyên mà Thúy Kiều mong muốn tác hợp giữa người yêu và em gái có thành tựu được không?
Mối tình đòi đoạn vò tơ,
Giấc hương quan luống ngẩn ngơ canh dài.
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
Thơ rất hay! Thời gian đi qua, lặp lại. Những lúc chiều xuống là những lúc người ta nhớ nhà nhiều nhất.
Lần lần thỏ bạc ác vàng,
Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn.
SÁU CHỮ 'CHO'
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho cho hại cho tàn cho cân!
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi.
Bốn câu thơ thế đi rất mãnh liẹt. Có sáu chữ cho. Như đóng đinh vào gỗ, mỗi chữ cho chuyên chở sức mạnh của một lát búa, thể hiện sự phẫn uất của con người (và tác giả) trước số mệnh. Nếu tác giả không từng đau khổ thì không thể nào viết được bốn câu thơ này. Tác giả cũng đã từng bị sỉ nhục trong cuộc đời.
Cảm giác bị ô nhục không phải là cảm giác của riêng Thúy Kiều. Tất cả chúng ta trong đời thế nào cũng đã hoặc sẽ có lần cảm thấy bị sỉ nhục như là bị hãm hiếp (dầu con trai). Đây là một sự thật. Trong thơ có chữ hồng nhan, kỳ thực ai mà không phải là hồng nhan? Cuộc đời tàn nhẫn, bất nhân. Con gái, con trai gì một ngày nào đó cũng sẽ đi qua những lần cảm thấy mình bị sỉ nhục như sự sỉ nhục của nàng Kiều. Nếu quý vị là những người trẻ chưa từng bị sỉ nhục thì nên nhớ điều này. Xã hội sẽ đem tới kinh nghiệm đó cho quý vị. Hồi tôi đi làm công tác cứu người trên biển tôi cũng đã bị sỉ nhục. Xã hội làm cho mình nhục nhã trong khi mình đi làm những công việc có tính cách thanh cao. Tôi đã bị nhiều lần như thế chứ không phải chỉ một lần. Thân phận mình lúc đó giống như thân phận nàng Kiều. Xã hội đã được tổ chức thế nào mà tất cả chúng ta, sanh ra làm kiếp người ai cũng sẽ phải đi qua thân phận của nàng Kiều ít nhất là một lần. 'Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!'
Đã cho lấy chữ hồng nhan,
Làm cho cho hại cho tàn mới cân!
Đã đày vào kiếp phong trần,
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
Đọc xong sáu chữ cho, tự nhiên trong tâm mình thấy có thoải mái. Vì mình đã hét lên sáu tiếng hét. Ghê gớm không thua gì sáu tiếng hét của thiền sư Lâm Tế. Bao nhiêu đau khổ, uất ức tản ra và tâm tình mình nhẹ đi.
MỘT TỈNH MƯỜI MÊ
Khách du bỗng có một người,
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.
Vốn người huyện Tích châu Thường,
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gởi vào.
Trong thời gian tiếp khách, Kiều gặp một người đàn ông đem lòng say mê và cứu Kiều ra khỏi thanh lâu. Anh chàng tên là Thúc Kỳ Tâm, trước là học trò, bây giờ vừa học trò và là thương gia tập sự.
Trướng tô giáp mặt hoa đào,
Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa?
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng!
Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng!
Anh chàng là một người có nhiều tiền. Cô nàng là một người rất có nhan sắc. Vì vậy:
Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
Một dây một buộc ai giằng cho ra!
Sớm đào tối mận lân la,
Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.
Liên hệ giữa hai người ban đầu chỉ là liên hệ của những người chơi. Sau biết nhau, hiểu nhau thì đem lòng thương nhau. Trăng gió là vấn đề sinh lý. Đá vàng là có sự gắn bó, thương mến về tâm lý.
Dịp đâu may mắn lạ thường,
Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
Đáng lý cha đi vắng, Thúc Sinh ở lại phải lo chăm sóc cửa hàng. Nhưng anh chàng chỉ đi lầu xanh:
Sinh càng một tỉnh mười mê,
Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
Chất đam mê rất lớn. Khi học đạo tỉnh thức thì chúng ta đi về hướng 'mười tỉnh một mê'. Ở đây anh chàng lại đi về hướng 'mười mê - một tỉnh'!
Khi gió mát khi trăng sân,
Bầu tiên chuốc rượu câu thần nói thơ.
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vay diêm nước đường tơ họa đàn.
Miệt mài trong cuộc truy hoan,
Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.
Lạ cho cái sóng khuynh thành,
Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
Thúc Sinh quen nết bốc rời,86
Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
Mụ càng tô lục chuốc hồng,
Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê.
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.
Hai câu tả cảnh mùa hè tứ rất hay và rất mới.
Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan87 rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
Nhà Nho Nguyễn Du tả một thiếu phụ khỏa thân tắm. Nhà Nho này cũng ghê lắm chứ đâu phải chơi. Trong nguyên lục, tác giả chỉ tả cái đẹp của Kiều buổi tối ấy sau khi nàng vừa mới tắm ra, chứ không tả Kiều trong khi nàng tắm. Cụ Nguyễn Du lại tả Kiều trong khi nàng tắm. Bài thơ của Thúc Sinh làm ra để ca tụng sắc đẹp Kiều tuy có nói đến băng cơ tuyết thái (da băng vẻ tuyết) nhưng cũng chỉ ca tụng mỹ nhân đã mặc áo vào rồi, còn những câu thơ của cụ Nguyễn Du lại là để ta tụng mỹ nhân khi nàng khỏa thân. Truyện Kiều như vậy là erotic hơn nguyên lục! Đọc tới chỗ này tôi thấy tức cười vì cụ nhà Nho biết cô này thuộc về hàng buôn hương bán phấn mà lại tả 'rõ ràng trong ngọc trắng ngà'. Với một cô gái làm nghề mãi dâm thì thi sĩ không thể dùng những chữ này được. Hơn nữa tôi chắc chắn là cô ta có một cái sẹo ở bụng rất lớn mà cụ lại không nói tới. Cô đã tự tử gần chết thì cái sẹo đó phải rất lớn. Nếu cô đâm vào cổ tự tử thì cái sẹo nằm ở cổ, tại sao cụ quên mất cái vụ đó đi mà không tả? Tôi sẽ hỏi cụ như vậy. Có phải cụ giấu diếm một sự thật hay không? Vết thương trong tâm, cụ đã nói quá nhiều, mà cụ lại không nói đến những vết thương nơi thân. Vết thương do tự tử và những vết thương do những khách làng chơi đưa tới.
Sinh càng tỏ nét càng khen,
Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.
Thúc Sinh làm thơ ca ngợi sắc đẹp của Kiều. Kiều viện cớ nhớ nhà không họa lại.
Nàng rằng: 'Vâng biết lòng chàng,
'Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
'Hay hèn lẽ cũng nối điêu,
'Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang,
'Lòng còn gửi áng mây vàng,88
'Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.'
Thúc Sinh ngạc nhiên:
Rằng: 'Sao nói lạ lùng thay!
'Cành kia chẳng phải cội này mà ra?'
- 'Em không phải là con gái Tú Bà? Vậy tại sao lại gọi mẹ mẹ con con ngọt xớt như vậy?'
Nàng càng ủ dột thu ba,89
Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:
'Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.
'Chúa xuân rằng đã có nơi,
'Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi!'
- 'Anh đừng nói nhiều làm chi. Liên hệ của chúng ta là liên hệ phù phiếm của con bươm bướm và bông hoa tàn. Thời giờ của mình là ghời giờ để ăn chơi vì vậy đừng động tới những niềm đau sâu sắc trong lòng nhau.'
Sinh rằng: 'Từ thuở tương tri,
'Tấm riêng riêng những nặng vì nước non.
'Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
'Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.'
- 'Tôi muốn chuyện lâu dài chứ không phải chuyện liên hệ nhất thời.' Đây là những lời rất thành thật của Thúy Kiều:
Nàng rằng: 'Muôn đội ơn lòng,
'Chút e bên thú bên tòng dễ đâu.
'Bình khang nấn n á bấy lâu,
'Yêu hoa yêu được một mầu điểm trang.
'Rồi ra lạt phấn phai hương,
'Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
- 'Cảm ơn anh, nhưng mà anh không thực tế. Thứ nhất anh đã đến đây là vì hình thức hấp dẫn. Mai kia nhan sắc em tàn tạ thì biết anh có còn thương em nữa hay không?'
'Vá trong thềm quế cung trăng,
'Chú trương đành đã chị Hằng ở trong.
'Bấy lâu khắn khít dải đồng,
'Thêm người người cũng chia lòng riêng tây.
'Vẻ chi chút phận bèo mây,
'Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
- 'Hơn nữa anh đã có vợ ở nhà. Bây giờ có thêm một người nữa thì làm sao không có sự chia sẻ tình yêu. Đừng vì em, một cánh bèo, một đám mây trôi, mà làm thay đổi xáo trộn tình chồng vợ.'
'Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
'Thân sau ai chịu tội trời ấy cho.
'Như chàng có vững tay co,
'Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
'Thế trong dù lớn hơn ngoài,
'Trước hàm sư tử gửi người đằng la.
'Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
'Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
- 'Sau này nếu trong nhà cơm không lành canh không ngọt, hai bên giận, đánh nhau và từ nhau thì ai chịu tội đó nếu không phải là em? Nếu chàng có uy lực thì mười phần cũng chỉ che chở cho em được vài phần thôi. Ngược lại, nếu vợ cả là sư tử Hà Đông thì tình trạng của vợ lẽ (đằng la) rất nguy hiểm. Em đang chịu cái khổ của lửa nồng (lầu xanh) nhưng chui vào hoàn cảnh đó để gặp cái khổ của giấm chua (ghen) thì lại càng tệ hại hơn. Nằm trong đối tượng của sự ghen tuông người ta khổ vô cùng.' Rất tội nghiệp, Thúy Kiều đã lớn lên trong đau khổ và đã nói ra những sự thật.
'Ở trên còn có nhà thung,
'Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?
'Sá gì liễu ngõ hoa tường,
'Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh!
'Lại càng dơ dáng dại hình,
'Đành thân phận thiếp nghĩ danh giá chàng.
- 'Rồi còn ba anh nữa! Liệu ông có chấp nhận thân phận cây liễu mọc đầu ngõ, bông hoa nở bên tường của em không? Nếu ba anh đuổi em về lầu xanh thì đành thân phận em là vậy nhưng danh giá của anh cũng sẽ bị tan nát vì chuyện này.' Đọc ngang đây tôi phục Thúy Kiều lắm. Trải qua bao nhiêu tủi nhục ê chề nàng Kiều đã học được bài học của thực tế và đã nói hết ngọn ngành hơn thiệt cho Thúc Sinh nghe. Nhưng anh chàng không nghe. Kiều lập lại để kết luận:
'Thương sao cho vẹn thì thương,
'Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng.'
- 'Anh là con trai. Nếu đã thương thì anh phải tính cho trọn và đã quyết định thì anh phải chịu trách nhiệm.' Buộc bằng một câu nói rạch ròi như vậy. Rất thông minh.
Sinh rằng: 'Hay nói dè chừng,
'Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?
'Đường xa chớ ngại Ngô Lào,
'Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
'Đã gần chi có điều xa,
'Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều!'
Gan mà! Mê quá rồi! Lát nữa chúng ta sẽ biết có nên tin anh chàng hay không.
Cùng nhau căn vặn đến điều,
Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
- Lại thề nữa!
Nỉ non đêm ngắn tình dài,
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
HOÀN LƯƠNG
Mượn điều trúc viện thừa lương,
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
Chiến hòa sắp sẵn hai bài,
Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.
Bắn tin đến mặt Tú Bà,
Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao!
Rõ ràng của dẫn tay trao,
Hoàn lương một kiếp thân vào cửa công.
Thúc Sinh lập mưu đón Thúy Kiều đi nghỉ mát ở vườn trúc rồi bắn tin về Tú Bà dọa kiện Tú Bà đã lừa mua con nhà lương thiện bắt đi làm đĩ (chiến) nếu Tú Bà không cho chuộc Kiều (hòa). Tú Bà phải chịu nhận tiền và ký giấy hoàn lương cho Kiều.
Công tư hai lẽ đều xong,
Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.
Một nhà sum họp trúc mai,
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Hương càng đượm lửa càng nồng,
Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
ĐẤT BẰNG DẬY SÓNG
Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
Sân ngô90 cành biếc đã chen lá vàng.
Dậu thu vừa nảy gió sương91
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.92
Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
Thúc Ông về, thấy con trai đem một cô gái giang hồ về nhà ở thì nổi trận lôi đình. Thúc Ông không những ngại (nặng lòng e ấp) về danh giá nhà mình mà còn lo đối với nhà vợ cả của Thúc Sinh sẽ có chuyện lôi thôi. Ông bắt Kiều phải về lại lầu xanh.
Thấy lời nghiêm huấn rành rành,
Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu:
Rằng: 'Con biết tội đã nhiều,
'Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.
'Trót vì tay đã nhúng chàm,
'Dại rồi còn biết khôn làm sao đây!
Có người còn đố chơi: Thúc Sinh làm nghề gì? Trả lời: làm thợ nhuộm. Vì nếu không thì nhúng tay vào chàm làm gì? Truyện Kiều đã được yêu mến và đi vào đời sống người dân dưới những hình thức đố Kiều, bói Kiều, lẫy Kiều... vân vân.
'Cùng nhau vả tiếng một ngày,
'Ôm cầm ai nở đứt dây cho đành.
'Lượng trên quyết chẳng thương tình,
'Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!'
Thúc Sinh nhất định chết chứ không chịu đuổi Kiều về lầu xanh.
Thấy lời sắt đá tri tri,
Sốt gan ông mới cáo quỳ cửa công.
Đất bằng nổi sóng đùng đùng,
Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
Thấy con trai cứng đầu quá, Thúc ông đi thưa với chính quyền.
Cùng nhau theo gót sai nha,
Song song vào trước sân hoa lạy quỳ.
HIỂU NGHĨA CHỮ THƯƠNG
Trông lên mặt sắt đen sì,93
Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
'Gã kia dại nết tơi bời,
Quan phủ mắng Thúc Sinh trước, nhưng chỉ mắng một câu thôi. Quay sang Thúy Kiều, ông la rất nhiều:
'Mà con người thế là người đong đưa!
'Tuồng chi hoa thải hương thừa,
'Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.
Gọi người con trai là 'con đen' 'dại nết' và như vậy bao nhiêu lỗi ông mặt sắt đều đổ hết lên người con gái. Rõ ràng có sự thiên vị, không công bình. Mặt ông, thật ra, cũng không 'sắt' bao nhiêu.
'Suy trong tình trạng bên nguyên,
'Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
'Phép công chiếu án luận vào,
'Có hai đường ấy muốn sao mặc mình:
'Một là cứ phép gia hình,
'Hai là lại cứ lầu xanh phó về!'
Kiều phải chọn một trong hai giải pháp: bị đánh, bị gông hoặc là trở lại lầu xanh. Kiều nhất quyết không trở về đời sống lầu xanh nữa:
Nàng rằng: 'Đã quyết một bề,
'Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần!
'Đục trong thân cũng là thân,
'Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình.'
- 'Dầu đục dầu trong thì thân con người vẫn là thân con người, ai cũng biết đau như nhau. Con chọn hình phạt.'
Dạy rằng: 'Cứ phép gia hình!'
Ba cây94 chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.95
Một sân lầm cát96 đã đầy,
Gương lờ nước thúy mai gầy vóc sương.97
Với một người nhi nữ thì hình phạt kia quả thật là quá đáng! Nhưng cụ Nguyễn Du không nói thương Thúy Kiều mà lại nói thương Thúc Sinh:
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
Nẻo xa trông thấy lòng còn xót xa.
Trong khi mọi người nhìn vào đều thấy cái khổ bị trừng phạt của Thúy Kiều thì cụ lại nhìn thấy cái khổ của Thúc Sinh. Người thương của mình đang bị hình phạt thì mình rất đau khổ. Nhất là nỗi khổ đó lại do vì mình mà có! Đau còn hơn là chính mình bị gông cùm và đánh đập nữa!
Khóc rằng: 'Oan khốc vì ta,
'Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau.
'Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu,
'Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?'
Cạn lòng là suy nghĩ và tiếp xử với sự việc xảy ra trong một ngày một cách hời hợt, không biết quán chiếu sâu sắc. Vì vậy cho nên 'để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?' Lúc đau khổ xảy ra mới biết kiểm thảo, hối hận! Ngày xưa vì mê quá, cho nên anh chàng chỉ nói: 'Để anh lo hết ! Em đừng sợ.' Anh hùng mà sợ gì! Nhưng đến lúc này ta mới thấy anh chàng chẳng anh hùng gì cả.
Phủ đường nghe thoảng vào tai
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
Sụt sùi chàng lại thưa ngay,
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:
'Nàng đà tính hết xa gần,
'Từ xưa nàng đã biết thân có rày!
'Tại tôi hứng lấy một tay,
'Để nàng cho đến nỗi này vì tôi!'
Ở đây chúng ta cũng thấy được nghĩa của chữ thương. Thương mà chỉ biết nghe tiếng gọi của đam mê, không biết nghe tiếng gọi của trí tuệ thì mình sẽ làm khổ và gây thương tích cho người mình thương.
Nghe lời nói cũng thương lời,
Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi,96
Rằng: 'như hẳn có thế thì,
'Trăng hoa song cũng thị phi biết điều!'
Đây là lần đầu tiên ông phủ mở lời khen Thúy Kiều. Định kiến của ông về người con gái xuất thân từ giới trăng hoa bắt đầu thay đổi.
Sinh rằng: 'Chút phận bọt bèo,
'Theo đòi và cũng ít nhiều bút nghiên.'
Được quan bắt đầu hiểu thì bên này chàng Thúc nức lòng, liền khoe: 'Dạ bẩm quan lớn. Em con tuy không có phước đức nhiều nhưng ngày xưa cũng đã được đi học. Khá giỏi văn chương." (Kiều giỏi lắm đó! Không phải thường đâu, bẩm quan lớn!) Bây giờ quan phủ đã bắt đầu có cảm tình với Kiều:
Cười rằng: 'Đã thế thì nên,
'Mộc già hãy thử một thiên trình nghề'.
Quan lớn chịu chơi: 'Hay lắm! Vậy thì bảo nó thử làm một bài thơ vịnh cái gông (một già) để ta xem thử tài học của nó đã tới trình độ nào (trình nghề)' Nghề ở đây là nghề văn chương. Trình kệ kiến giải cũng là trình nghề; những chuyển hóa mình đã đạt được sẽ xuất hiện trong bài kệ kiến giải.
Nàng vâng cất bút tay đề,
Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
Nguyên bản Phong Tình Lục có bài thơ Kiều làm như sau:
Ngã dĩ mộc vi cừu
Hỷ khuyên sáo trung đắc xuất đầu
Phương viên già cái toàn thân xũ
Hà tằng mi vũ tu
Tọa tĩnh khả ưu
Khả linh lệ ngân lưu
Bất đáo sam hòa tụ.
Tạ Hiền Hầu, giao nhân cường hạng
Tái bất hứa phóng ca hầu.
Nghĩa là:
'Ta với cây gỗ là kẻ thù
Mừng vì nỗi trong vòng khuyên tròn được chui đầu ra
Xấu vì nỗi vuông tròn che khắp thân thế
Mày mặt chưa từng bị hổ thẹn
Như người ngồi dưới giếng đáng lo.
Thương thay vết dòng nước mắt
không chảy tới vạt áo và ống tay áo.
Kính tạ Hiền Hầu, bắt người phải cứng cổ
không cho lại mở họng hát ra.
Quan xem thơ rất cảm kích:
Khen rằng: 'Giá đáng thịnh Đường.99
''Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
'Thực là tài tử giai nhân,
'Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn!100
Hướng về cha của Thúc Sinh:
'Thôi đừng rước dữ cưu hờn,
'Làm chi lở nhịp cho đàn ngang cung,
'Đã đưa đến trước cửa công,
'Ngoài thì là lý song trong là tình,
'Dâu con trong đạo gia đình,
'Theo thì dẹp nỗi bất bình là xong!'
- 'Thôi ông hoan hỉ cho cả hai đứa!' Mặt sắt bây giờ không còn sắt đá nữa. Ông quan này là người có khả năng thưởng thức văn chương. Cái may của Thúy Kiều là chỗ đó. Biết làm thơ đôi khi cũng hay! Rồi ông quan chịu chơi hơn còn cho xe ngựa đưa cặp vợ chồng này về và giúp phương tiện tổ chức đám cưới, chính thức hóa cho họ nữa:
Kíp truyền sắm sửa lễ công,
Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.
Bày hàng cổ xúy101 xôn xao,
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.
Thương vì hạnh trọng vì tài,
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
Đó là thái độ mới của ông già chồng, chịu ảnh hưởng của thái độ quan huyện. Thấy được đức hạnh và tài năng của Thúy Kiều nên ông đã chấp nhận Kiều như con dâu của mình. Trước đó ông đâu thèm ngó tới! Ông có một ý niệm: 'đây là một cô gái từ thanh lâu tới'; và chỉ có ý niệm đó nên thôi. Kế đến là sợ thế lực của quan Lại Bộ bên nhà vợ cả Thúc Sinh. Hành động trên căn bản sợ và thành kiến vì vậy ông đã không có khả năng thấy được con người của Thúy Kiều. Nhờ quan phủ mà bây giờ Thúc Ông đã thấy được đức hạnh và tài ba của Thúy Kiều. Ông hết giận không còn những câu chửi rủa, mắc nhiếc và lên án nữa.
Huệ lan sực nức một nhà.
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.
Hạnh phúc bây giờ lớn hơn vì con người đã trải qua những đắng cay, đau khổ. Sau khi giận thì người ta lại thương nhiều hơn. Sau những khó khăn thì tình người trở nên đậm đà.
TRONG ẤM NGOÀI ÊM
Mảng vui rượu sớm cờ trưa
Đào đà phai thắm sen vừa nấy xanh.
Bị kiện tụng là hồi mùa thu. Qua mùa Đông, mùa Xuân và bây giờ bắt đầu mùa Hạ. Không biết trong thời gian Thúc Sinh có học hành hoặc buôn bán gì không? Chỉ nghe cờ với rượu. Kiều bây giờ đã giỏi, có kinh nghiệm trong cuộc đời rồi. Kiều biết lo xa chứ không phải chỉ ham chơi như anh chàng. Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm nhà và nói tất cả sự thật cho vợ cả nghe để được chấp nhận đàng hoàng, không phải sống chui sống nhủi một cách không chính thức.
Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
E tình mới bày tình riêng chung:
'Phận bồ đã vẹn chữ tòng,
'Đổi thay nhạn yến đã hòng đày niên.
'Tin nhà ngày một vắng tin,
'Mặn tình cát lũy lạt tình tao khang.102
'Nghĩ ra thật cũng nên dường,
'Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
'Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
'Ở vào khuôn phép nói ra mối giường,
'E thay những dạ phi thường
'Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
'Mà ta suốt một năm ròng,
'Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào.
Những lời này chứng tỏ Kiều đã chín, đã có kinh nghiệm.
'Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
'Hoặc là trong có làm sao chăng là?
'Xin chàng kíp liệu lại nhà,
'Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
Trong nguyên bản Phong Tình Lục có năm chữ: 'Vô nãi hữu trá hồ?' Hay là trong nhà (người ta đã biết và) có mưu mẹo gì rồi? 'Hoặc là trong có làm sao chăng là?'
Đêm ngày giữ mực giấu quanh,
'Rày lần mai lữa như hình chưa thông.'
Đi theo đường lối giấu, giấu và giấu. Đó là tình trạng bế tắc, không thông. Đối với các tâm hành trong ta cũng vậy, ta phải đưa tất cả ra dưới ánh sáng của chánh niệm thì mới mong tạo được tình trạng lưu thông, thông suốt và an toàn.
Nghe lời khuyên nhủ thong dong
Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang.
Lần này anh chàng nghe lời Kiều.
Rạng ra gởi đến xuân đường
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
Tiễn đưa một chén quan hà,103
Xuân đình thoắt đã đổi ra cao đình.104
Sông Tần một bãi xanh xanh,105
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương-quan.106
THƯƠNG NHAU XIN NHỚ LỜI NHAU
Cầm tay dài ngắn thở than,
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.
Nàng rằng: 'Non nước xa khơi,
'Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Kiều đã có trí tuệ. Làm sao để cho bên trong ấm thì bên ngoài mới êm được.
'Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
'Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng.
Khi vô ý thì cái yếm màu thắm đỏ cũng không thấy. Khi có ý thì tuy cái lỗ kim nhỏ ta vẫn thấy và xỏ chỉ qua được. Đừng khinh thường, nghĩ rằng người ta không biết. Những chuyện sờ sờ như vậy không biết làm sao được! Đừng bưng mắt bắt chim (yểm tự bồ tước), đừng tự dối mình!
'Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
'Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.
'Dù cho sóng gió bất bình,
'Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
- 'Dầu khó khăn, sóng gió thế nào đi nữa thì chị là lớn, em là nhỏ. Danh phận đâu ra đó.'
'Hơn điều giấu ngược giấu xuôi,
'Lại mang những việc tày trời đến sau.
Thúy Kiều như một nhà tiên tri, biết trước những gì sẽ xảy ra và nói rõ cho Thúc Sinh những điều cần phải làm. Nhưng Thúc Sinh vẫn không làm. Anh chàng không chuyển hóa gì cả.
'Thương nhau xin nhớ lời nhau,
'Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
'Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
'Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!'
Rất cảm động: 'Thương nhau xin nhớ lời nhau' Sáu chữ thôi mà rất hay. Nếu quả thực mình thương thì mình phải nhớ, phải hiểu được lời người kia nói. Bằng không thì mình sẽ trở thành một Thúc sinh, đem lại đau khổ cho chính mình và cho người kia. Thương nhau xin nhớ lời nhau. Nếu mình lạy Bụt, kính Bụt, thương Bụt thì cách hay nhất để biểu hiện tình thương của mình là nhớ, hiểu và làm theo lời Bụt. Liên hệ giữa bằng hữu và thầy trò cũng vậy. Phải nhớ lời nhau.
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Hình ảnh rất đẹp! Chia bào là buông vạt áo ra. 'Thôi thôi buông áo em ra, Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa.' Ở đây là: 'Thôi thôi buông áo anh ra, Để anh thăm vợ kẻo mà vợ la.'
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Thơ lục bát mà làm như vậy là tài tình!
Câu 'Vầng trăng ai xẻ làm đôi' có liên hệ đến hai câu thơ chữ Hán và một giai thoại thi ca. Hai câu thơ đó là:
Thùy bã kim bôi thân lưỡng đoạn,
Bán trầm thủy để bán phù không
(Ai đem cái chén vàng chẻ làm hai mảnh? Một mảnh chìm dưới đáy nước, một mảnh nổi lơ lửng trong hư không.)
Một hôm thi sĩ Trương Kế ngồi làm thơ trong thuyền trên sông gần thành Cô Tô. Làm được hai câu thì bí:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
(Trăng lặn, có tiếng quạ kêu, sương rơi đầy trời; Những cây phong ở bờ sông, đèn của người đánh cá ban đêm; Trước cảnh đó lòng phát sinh một mối hoài cảm, chạnh buồn (đối sầu miên).
Lúc đó trên chùa Hàn Sơn (Hàn Sơn và Thập Đắc là một cặp thi sĩ Phật tử rất nổi tiếng ngày xưa) ở thành phố Cô Tô, thầy trụ trì sau giờ thiền tọa, thấy trăng đẹp thầy cũng làm thơ. Làm được hai câu thơ thì thầy cũng bí:
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tợ ngân câu bán tợ cung
(Đầu canh ba canh tư trăng mơ hồ; Nửa giống cái liềm bằng bạc, nửa giống cái vòng cung.)
Làm không xong bài thơ, thầy đi bách bộ. Chú tiểu thông minh và tài ba đã làm giúp thầy hai câu sau cho tròn bài thơ.
Thùy bã kim bôi phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không?
Hai câu dịch là:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in dưới nước nửa cài trên không.
Thầy trụ trì nói: 'Hay quá! Hay hơn hai câu của thầy nữa!' Hai thầy trò quá vui: 'Để ăn mừng bài thơ của mình, thôi có lầu chuông mới xây xong mình hãy lên thỉnh đại hồng chung.' Thường người ta chỉ thỉnh chuông lúc 4 giờ rưỡi sáng (công phu khuya.) Đây là đúng nửa đêm mà lại đi thỉnh chuông! Cặp thầy trò này hình như cũng ham chơi lắm! Lúc ấy thi sĩ Trương Kế đang ngủ gục dưới thuyền nghe chuông giật mình thức dậy. Tiếng chuông làm thức dậy trong ông một ý tưởng và ông làm tiếp bài thơ:
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Thi sĩ Tản Đà dịch cả bài:
Trăng tà tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Hai thầy trò kia bây giờ không biết ở đâu? Nhìn cho kỹ có thể mình cũng còn thấy họ đâu đây.
LỬA TÂM CÀNG DẬP CÀNG NỒNG
Nói về tâm trạng người vợ cả ở nhà:
Kể chi những nỗi dọc đường,
Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà.
Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
Con quan Lại Bộ tên là Hoạn Thư.
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,107
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
Ở ăn thì nết cũng hay,
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
Đó là gia thế và tính nết của Hoạn Thư. Ăn ở thì cũng cũng được nết. Khi nói lời buộc tội thì lý luận rất giỏi.
Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
Giận, cố nén xuống. Nén chừng nào thì sức mạnh của cái giận càng lớn lên chừng đó.
'Ví bằng thú thật cùng ta,
'Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
'Dại chi chẳng giữ lấy nền,
'Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Rõ ràng Kiều đã tiên đoán đúng.
'Lại còn bưng bít dấu quanh,
'Làm chi những thói trẻ ranh nực cười:
'Tính rằng cách mặt khuất lời,
'Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
'Lo gì việc ấy mà lo.
'Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Nộ rồi phẫn. Phẫn rồi hận. Móng tâm trả thù. Những từ Hoạn Thư dùng (trong suy nghĩ) như 'trẻ ranh', 'ta', 'kiến trong miệng chén' cũng đang đóng góp phần tưới tẩm những tâm hành kiêu mạn, khinh lờn, dùng quyền thế ép người của cô. Ngôn ngữ hàng ngày ta sử dụng là khúc đàn ta tấu lên cho cuộc đời. Hãy chọn từ mà nói, cân nhắc từng chữ để tâm ta ngày càng đi gần với chánh pháp, có thêm chất liệu của trí tuệ và từ bi. Buông lung trong lời nói và suy tư của mình chúng ta sẽ có thể ngày một đi sâu vào con đường của khổ đau và cô độc.
'Làm cho nhìn chẳng được nhau,
'Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên!
'Làm cho trông thấy nhãn tiền,
'Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.'
Ghê quá! Lặp lại mấy lần mà chữ làm cho! Bản án của Kiều đã được tuyên bố bởi công tố viên Hoạn Thư.
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
Ngoài tai để mặt gió bay mái ngoài.
Thâm lắm!
Tuần sau bỗng thấy hai người,
Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
'Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
'Chồng tao chẳng phải như ai,
'Điều này hẳn miệng những người thị phi!'
Vội vàng xuống lệnh ra uy,
Đứa thì vả miệng đứa thì bẽ răng.
Trong ngoài kín mít như bưng,
Nào ai còn dám nói năng một lời!
Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
Ra vào một mực nói cười như không.
Đoạn văn này nói rất rõ về tính khí và con người của Hoạn Thư. Một con người ghen đến mức tột độ. Ra vào cười nói rất thong dong nhưng trong lòng đầy chất độc của ghen và giận.
CƯỜI NÓI TỈNH SAY
Đêm ngày lòng những dặn lòng,
Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên,
Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
Cô ta nhất định không nói. Anh ta cũng không nói. Chỉ nói những chuyện: 'Xa em lâu quá! Rất nhớ.' 'Anh đi lâu quá! Em ở nhà cũng nhớ lắm!' Hai bên đều giả dối với nhau. 'Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng' có tính cách rất hình thức.
Tẩy trần108 vui chén thong dong
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra
Chàng về xem ý tứ nhà,
Sự mình cũng rắp lân la giải bày.
Mấy phen cười nói tỉnh say,
Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
Hoàn toàn không đề cập đến chuyện kia. Làm như mình không biết gì cả. Anh chàng lầm:
Nghĩ đà bưng bít miệng bình,
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
- 'Tại sao người ta không hỏi mà mình lại nói?' Đó là ý kiến của anh chàng. Thương nhau không nhớ lời nhau!
Những là e ấp dùng dằng
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.
Quá nhút nhát! Không dám nói. Trong khi đó thì cô nàng:
Có khi vui chuyện mua cười,
Tiểu thư lại dở những lời đâu đâu.
Rằng: 'Trong ngọc đá vàng thau,
'Mười phần ta đã tin nhau những mười.
'Khen cho những miệng dông dài,
'Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
'Thiếp dù vụng chẳng hay suy,
'Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!'
- 'Tình nghĩa của mình là vàng đá. Chúng ta tin nhau một trăm phần trăm. Đôi khi người ta đặt ra những chuyện nói chàng thế này thế kia. Đó là những chuyện buồn cười. Em hoàn toàn không tin.'
Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Anh chàng: 'Đúng vậy đó!'
Những là cười phấn cợt son,
Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
Rất dễ sợ. Mỗi người có một tâm sự bên trong và cả hai đều đóng kịch.
Thú quê thuần vược bén mùi,109
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.110
Bắt đầu mùa thu trở lại. Thúc Sinh sống với vợ gần được một năm. Nhớ đến chuyện đi, kỳ thực là nhớ Kiều:
Chạnh miền nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái mấy mùa gió trăng.
Tình riêng chưa dám rỉ răng,
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
'Cách năm mây bạc xa xa,
'Lâm Truy cũng phải tính mà thần hôn.
Chưa dám nói: 'Anh nhớ ba quá! Muốn về thăm ba.' Thì tiểu thư đã nói: 'Thôi, Anh về thăm, hầu hạ cha đi!
Được lời như mở tấc son,
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người.
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
BỐN BỀ LỬA DONG
Thúc Sinh vừa đi, Hoạn Thư cũng về thăm mẹ, kể hết mọi chuyện:
Roi câu vừa gióng dặm trường,
Xe hương nàng cũng thuân đường quy ninh.
Thưa nhà huyên hết mọi tình,
Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
Đây là mưu kế Hoạn Thư:
Nghĩ rằng: 'Ngứa ghẻ hờn ghen,
'Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
'Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
'Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
'Lâm-truy đường bộ tháng chầy,
'Mà đường hải đạo sang đây thì gần.
'Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
'Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
'Làm cho cho mệt cho mê,
'Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
'Trước cho bõ ghét những người,
'Sau cho để một trò cười về sau.'
Lại cũng sáu chữ cho, lần này hợp với vần ê tạo ra âm thanh đay nghiến hả hê. Hai mẹ con thực hiện kế hoạch bắt cóc Thúy Kiều. Họ không biết những điều họ nói, nghĩ và làm đều sẽ mang lại những nghiệp quả mà họ sẽ gặt hái sau này:
Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy mặc dầu ra ray.
Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển Ưng lại chọn một bày côn quang.111
Dặn dò hết các mọi đường,
Thuận phong một lá vượt sang biển Tề.
Thúy Kiều bấy giờ đang ở Lâm Truy, kinh đô nước Tề cũ (nên gọi là biển Tề.) Đây là tình trạng của Kiều:
Nàng từ chiếc bóng song the,
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
Bóng đâu đã xế ngang đầu,
Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
Tóc thề đã chấm ngang vai,
Nào lời non nước nào lời sắt son.
Nghĩ tới cha mẹ giờ đây không biết ai săn sóc. Nghĩ đến việc đính ước ngày xưa, không biết em gái đã thay mình thực hiện cuộc hôn nhân với Kim Trọng hay chưa. Nghĩ đến thân phận lẽ mọn của mình bây giờ, không biết người vợ cả có chấp nhận không:
Sắn bìm chụt phận cỏn con,
Khuôn duyên biết có vuông tròn hay chăng?
Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao!
Đêm thu gió lọt song đào,
Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời.
Có người đọc câu này cho là tác giả nói về tâm sự, vì chữ tâm ( ) có một vành trăng và ba ngôi sao. Thao thức không ngủ, Kiều dậy, thắp hương khấn trước bàn thiên ngoài trời:
Nén hương đến trước Thiên đài,
Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
Bổng:
Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
Ầm ầm khốc quỷ kinh thần mọc ra.
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
Thuốc mê đâu đã tưới vào,
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
Vực ngay lên ngựa tức thì,
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
Sẵn thây vô chủ bên sông,
Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
Đốt nhà, bắt cóc Thúy Kiều, bỏ một tử thi chết đuối bên sông vào đám cháy để giả bày một vụ rủi ro hỏa hoạn. Ngọn lửa trong tâm Hoạn Thư bây giờ đã phát hiện ra thành đám cháy ở nhà Thúy Kiều. Một niệm ghen tức trong lòng có công năng phá hoại rất lớn mà ai trong cuộc sống cũng đều là nạn nhận.
Tôi đòi phách lạc hồn bay,
Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
Thúc ông nhà cũng gần quanh,
Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
Tớ thầy chạy thẳng tới nơi,
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
Gió cao ngọn lửa càng cao,
Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
Chạy vào chốn cũ phòng hương,
Trong tro thấy một đóng xương cháy tàn.
Ngay tình ai biết mưu gian,
Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
TIẾC HOA
Thúy Kiều được làm chay sống hai lần. Đây là lần đầu tiên:
Thúc ông sụt sùi ngắn dài,
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
Di hài nhặt sắp về nhà,
Nào là khâm liệm nào là tang trai.
Thúc Sinh về:
Lễ thường đã đủ một hai,
Lục trình112 chàng cũng đến nơi bấy giờ.
Bước vào chốn cũ lầu thơ,
Tro tàn một đống nắng mưa bốn tường.
Sang nhà cha tới trung đường,
Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Hởi ôi nói hết sự duyên,
Tơ tình dứt ruột lửa phiền cháy gan!
Gieo mình vật vã khóc than,
Con người thế ấy thác oan thế này.
'Chắc nàng mai trúc lại vầy,
'Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
'Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
'Dễ ai rấp thảm quạt sầu cho khuây.'
Càng thương thì càng suy nghĩ. Càng suy nghĩ thì càng tội nghiệp, càng thấy tội nghiệp thì lại càng đau thương thêm. Điều này rất đúng với tâm lý học Phật giáo (Duy Biểu Học) ở điểm nói về sự tưới tẩm hạt giống, chủng tử sinh hiện hành, hiện hành sinh chủng tư.
Gần miền nghe có một thầy,
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.113
Trên tam đảo dưới cửu tuyền,114
Tìm đâu thì cũng được tin rõ ràng.
Sắm sanh lễ vật rước sang,
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
Thúc sinh tìm một ông thầy đồng để hỏi Kiều chết rồi thì đi về phương nào. Nàng từ đâu tới và đi về đâu?
Đạo nhân phục trước tĩnh đàn,
Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương.
Trở về minh bạch nói tường:
'Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
'Người này nặng nghiệp oan gia,
'Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho!
'Mệnh cung đang mắc nạn to,
'Một năm nữa mới thăm dò được tin.
Kiều chưa chết đâu. Một năm nữa sẽ biết tin. Sau này nếu gặp lại nhau thì hai bên sẽ không dám nhận mặt nhau:
'Hai bên giáp mặt chiền chiền,
'Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!'
Nghe lời nói lạ dường này,
Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
Người đâu mà lại trên cõi trần?
- 'Ông này nói lạ quá! Rõ ràng đã chết rồi mà nói chưa chết, sẽ gặp lại. Ai mà tin được! Ông nói trật.'
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân.,
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
NƯỚC TRÔI HOA RỤNG
Nước trôi hoa rụng đã yên,
Kiều chưa chết nhưng với chàng Thúc thì Kiều đã chết rồi. Nước đã trôi, hoa đã rụng! Và mình chấp nhận sự thật đó. Con người vô minh chưa! Người ta chưa chết mà mình cứ nghĩ rằng người ta đã chết rồi và đành lòng chấp nhận sự chết. Nếu có quán chiếu chúng ta sẽ thấy câu rất thật. Người kia có thể là chưa chết nhưng cách sống của mình và cách đối xử của mình chứng tỏ là người đó đã chết rồi. Dầu người kia đã chết, đã làm giấy khai tử, chính mắt mình thấy người đó đã được hỏa thiêu, nhưng chưa chắc người đó đã không còn. Người đó có thể đang còn có mặt trong nhiều cách thức. Đang còn trong tự thân mình, và đang còn trong thế giới. Trong Kinh Bụt dạy sự vật vô thường nhưng sự vật không đoạn diệt. Chấp về thường là một thái cực. Chấp về đoạn là một thái cực khác. Chấp rằng con người sẽ như vậy cho đến vô biên, không thay đổi trong tương lai là chấp thường. Chấp rằng khi con người chết là không còn gì nữa là chấp đoạn. Con đường Bụt dạy là Trung Đạo. Thực tại không phải thường (permannence) mà cũng phải đoạn (annihilation). Trước khi chết cũng vậy. Sau khi chết cũng vậy. Chúng ta phải có trí huệ trong cách đối xử để có thể sống phù hợp với chân lý đó. Khi người kia đang sống, ta phải nhìn người kia với con mặt không thường không đoạn. Sau khi người kia chết rồi mình cũng phải nhìn người kia với con mắt không thường không đoạn. Tuệ giác đó sẽ đem lại cho chúng ta bình an, hạnh phúc, không tiếc nuối.
Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
Địa ngục Thúy Kiều đang đi qua không phải ở dưới cửu tuyền mà ở ngay bên cạnh Thúc Sinh. 'Địa ngục ở miền nhân gian' là một sự thật. Chiến tranh, nghèo khổ, áp bức, tham lam, giận dữ, si mê... là địa ngục ở miền nhân gian. Nếu không khéo thì nội trong nửa giờ đồng hồi nữa mình đã có thể đi vào địa ngục. Người ta nói một câu làm cho mình nổi sân nổi si lên. Đó là địa ngục chứ gì nữa! Đừng nghĩ rằng địa ngục là cái mình sẽ chứng nghiệm sau khi chết. Địa ngục là cái mình có thể chứng nghiệm ngay bây giờ. Địa ngục ở khắp nơi trên trái đấy và ngay trong lòng mình.
MỘT CƠN MƯA GIÓ
Khuyển Ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền115
Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
Giã đò lên trước sảnh đường,
Khuyển Ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
Kiều được mang đến nộp cho bà lớn, mẹ của Hoạn Thư.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,116
Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
Hoàng lương (giấc kê vàng) là giấc mộng trong đó thăng trầm, thay đổi của một đời người xảy ra trong thời gian nấu chưa chín một nồi chè kê. Kê là một loại ngũ cốc, nấu sôi đặc lại rồi lại loãng ra đến mấy lần mới chín. Ngày xưa có một chàng sinh viên họ Lư thi hỏng. Trên đường về, mệt nhọc và buồn bã chàng ghé vào một quán cơm. Một đạo sĩ trong quán nhường cái gối của mình cho Lư Sinh gối đầu nằm nghỉ trong khi chủ quán bắt đầu nấu một nồi kê cho khách. Sinh thiếp đi, thấy mình đi thi, đỗ tiến sĩ, được vua cử làm quan, cưới một người vợ đẹp và giàu; vinh hiển trong hai mươi năm, con và rể đều làm quan to. Giật mình tỉnh dậy, thấy nồi kê của ông chủ quán vẫn chưa chín. Thời gian trong giấc mộng là hai mươi mấy năm. Thời gian thật của sự sống là chưa chín một nồi kê. Sinh bàng hoàng tự hỏi: 'Việc đó là chuyện mộng ư?' Đạo sĩ cười: 'Việc đời thì cũng như mộng vậy thôi!'
Bàng hoàng dở tỉnh dở say,
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu
Ả hòan liền xuống giục mau,
Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
Thiên quan chủng tể có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.
Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
Sự tình nàng phải cứ mà gởi thưa.
Thúy Kiều trả lời những câu hỏi của bà lớn, mẹ của Hoạn Thư, một cách đàng hoàng, có nhân cách. Dầu sao bây giờ Kiều cũng là vợ của một thương gia có vai vế trong xã hội, nàng có thể nói rõ ràng nguồn gốc của mình mà không có mặc cảm gì. thấy Thúy Kiều không sợ hãi, khúm núm, bà lớn nổi giận:
Bất tình nổi trận mây mưa,
Mắng rằng: 'Những giống bơ thờ quen thân.
'Con này chẳng phải thiện nhân,
'Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
'Ra phường mèo mả gà đồng,
'Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
'Đã đem mình bán cửa tao,
'Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
'Nào là gia pháp nọ bay!
'Hãy cho ba chục biết tay một lần.'
Thật ra không phải vì Thúy Kiều không khúm núm với tư cách một nô lệ bị bán mà bà lớn nổi giận. Bà chỉ viện cớ để trả thù cho con gái. Con gái khóc: 'Con khổ lắm! Ảnh thế này, thế kia... Con đàn bà kia nó cướp chồng của con...' Trong lòng bà chỉ có nỗi khổ của con gái. Niềm đau khổ của Kiều bà không thấu được. Dầu Kiều có kể hết ngọn nguồn của mình bà cũng không nghe lọt lỗ tai. Khi người ta đã đầy những ý kiến và cảm xúc rồi thì mình không thể nói vô thêm được gì nữa cả. Không nên nói gì lúc đó, vì nói cũng không ích gì. Phải đợi cho người kia lưng lại nửa túi (lưng túi) thì mới nói gì được. Đó là một bài học.
Ả hoàn trên dưới dạ rân,
Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào!
Trúc côn ra sức đập vào
Thịt nào chẳng nát da nào chẳng kinh.
Xót thay đào lý một cành,
Một cơn mưa gió tan tành một phen!
Đây là một trong những nỗi khổ nhục của kiếp người. Không phải chỉ riêng Kiều gánh chịu. Khi người ta đồng nhất mình với một phe để biểu lộ tình cảm thương hay ghét của mình, khi người ta không muốn lắng nghe và tìm hiểu thì dù có một trăm cái miệng mình cũng không thể nào bày tỏ được nỗi oan. Mình có cảm tưởng uất ức, nhục nhã như bị hải tặc hãm hiếp. Đàn ông cũng như đàn bà, người trẻ cũng như người già, không ai tránh khỏi những cơn ô nhục như vậy. Đó là chuyện rất người! Khác nhau là ở chỗ có tu hay không tu. Nếu có tu thì mình sẽ đi qua giai đoạn đó một cách nhẹ nhàng, ít khó khăn. Còn nếu không tu thì mình sẽ đau khổ bằng trăm bằng ngàn lần.
Thái độ ả hoàn là thái độ của người nô lệ, không có chủ quyền. Bị khống chế bởi những cảm xúc, phẫn nộ, yêu và ghét của đám đông và của chính mình, con người có thể trở thành công cụ của bạo hành. trước những nhục nhã, bất công và bức bách mà xã hội đã dành phần sẵn cho mỗi chúng ta, chúng ta phải làm gì? Ta không thể cam lòng đánh mất mình. Thái độ của người tu là thái độ dũng mãnh của người biết nắm lấy thân tâm đi trong cơn lốc của những cảm xúc, ghét, thương, phẫn nộ và mặc cảm bên trong hay bên ngoài mình. thực tập chánh niệm và chánh kiến chúng ta sẽ có rất nhiều tự do để đi qua những thăng trầm kia một cách nhẹ nhàng. Nếu không tu chúng ta sẽ 'một phen mưa gió tan tành một phen'. Hai phen mưa gió tan tành hai phen, ba phen mưa gió tan tành ba phen... Phải cẩn thận lắm mới được!
PHẬN CON HẦU
Hoa Nô truyền dạy đổi tên
Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.
Ra vào theo lũ thanh y
Dãi dầu tóc rối da chì quán bao.
Thế đứng của Thúy Kiều bây giờ là con ở. Chịu đựng những khổ nhục và vất vả của giới thị tì. Chúng ta nên biết con ở của thời xưa không phải là người giúp việc ngày hôm nay nói nặng tới họ thì hoặc họ gọi cảnh sát, hoặc la mắng lại hay không chịu làm nữa. Họ có quyền bình đẳng. Nhưng thân phận người ở ngày xưa là thân phận người nô lệ. Họ phải chịu đánh đập và hành hạ mà không có quyền lên tiếng đòi nhân quyền.
Quản gia có một mụ nào,
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang,
Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
Bà quản gia nhà họ Hoạn thấy dáng điệu và nết na của Thúy Kiều thì đặc biệt đem lòng thương. Bà đã săn sóc, thuốc thang, an ủi và khuyên nhủ Kiều. Trong nguyên lục Kiều chỉ bị đánh hai chục roi, thay vì ba chục roi. Khiêng xuống, bà quản gia lấy rượu trắng hâm nóng, khuấy vào vài muỗng đường cho Kiều uống. Kiều nói: 'Con không uống được. Tim con đang tức, uống vô không nổi.' - 'Con uống đi nếu không sẽ chết đó! Uống cái này cho máu huyết lưu thông thì con sẽ sống được.' Kiều ráng uống được nửa bát rượu đó thì máu huyết chảy lại đàng hoàng, tim bớt tức. Kiều lại muốn chết. Bà quản gia khuyên: 'Con đừng chết ở đây. Con chết ở đây thì không có nghĩa lý gì cả, bất quá chỉ như con chó hay con gà chết thôi. Không ai để ý, không ai thương xót. Nhìn con thím biết con là con nhà đàng hoàng, sau này sẽ có tương lai. con nên giữ lấy thân con, đợi có cơ hội thoát ra khỏi cái cũi, cái lồng này.' 'Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.' Bà quản gia này có Phật tâm trong lòng. Phương tiện và hiếu sinh là hai từ nhà Phật. Dùng pháp môn phương tiện, lựa lời khuyên nhủ. Mở đường hiếu sinh là bảo vệ sự sống, là biết thương lấy con người và mọi loài.
Dạy rằng: 'May rủi đã đành,
'Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
'Cũng là oan nghiệt chi đây,
'Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
Phải có những oan nghiệp trong quá khứ nên ta mới phải trả cái quả ngày hôm nay. Không phải tự nhiên mà mình lại gánh chịu những oan khổ này. Nếu hôm nay mình bị khổ là vì trong quá khứ mình đã có gây những nghiệp không lành. Vì vậy mình phải biết chấp nhận cái khổ đó và tìm cách chuyển hóa. Trốn chạy không giải quyết được vấn đề. Chẳng dưng nghĩa là không phải tự nhiên mà xảy ra như vậy. Cái gì cũng có nguyên do. Nếu quý vị có đau đầu, nhức mỏi hay bị người la mắng... thì đều có nguyên do hết, không phải tự nhiên mà xảy ra như vậy.
'Ở đây tai vách mạch rừng,
'Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
'Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
'Con ong cái kiến kêu gì được oan!'
Hình như bà quản gia biết chuyện. Bà khuyên Kiều phải cẩn thận, có gặp người quen cũ (cố nhân) thì cũng đừng nhìn. Bà là một người có lòng thương đối với Thúy Kiều. Lâu lâu ở trên đời mình được gặp một người như vậy và mình biết mình có may mắn. Có những người đi suốt cuộc đời không bao giờ gặp một người biết thương mình như vậy. Bà quản gia là một vị Bồ-tát.
Nàng càng giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng luống những bàn hoàn117 niềm tây:
'Phong trần kiếp chịu đã đầy,
'Lầm than lại có thứ này bằng hai.
'Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
'Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
Bạc tức là mỏng. Người có hạnh phúc, may mắn thì gọi là có đức dày (đôn hậu) Ăn ở cho đôn hậu và cho có tình thì số phận mình sẽ không bạc (mỏng). Ngày xưa Kiều đã nói thân phận mình mỏng như cánh con chuồn chuồn (Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn.) Phận Kiều mỏng là vì Kiều không có đức. Đức có là do chuyện tu hành. Thương người nhiều thì tự nhiên có đức dày. Phận mình sẽ từ từ dày thêm lên.
'Đã đành túc trái tiền oan,
'Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi!'
Đó là giai đoạn Kiều làm đầy tớ trong dinh quan Lại Bộ.
Một hôm Hoạn Thư về thăm mẹ.
Những là nương náu qua thì,
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
Mẹ con trò chuyện lân la,
Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
'Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
'Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
Lĩnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu!
Kiều vâng lời theo Hoạn Thư về. Kiều vẫn chưa biết là mình đang đi về đâu. Mờ mờ, mịt mịt đi trong cõi mơ hồ. Trong Qui Sơn Cảnh Sách, Thầy Quy Sơn nói: 'Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng': đường trước mờ mờ, không biết về đâu. Đó đúng là tình trạng của Thúy Kiều. Mình không phải là mình. Minh hoàn toàn bị hoàn cảnh kéo đi. Không tự chủ được, mình không biết mình đang đi về đâu. Đó cũng là hoàn cảnh của nhân loại. Nhân loại bây giờ đang đi về đâu? Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng. Trong cửa thiền có câu truyện một anh chàng cưỡi ngựa. Con ngựa phóng rất mau. Một người quen đứng bên đường hỏi vói theo: 'Anh đi đâu đó?' Anh ta ngoái cổ lại: 'Tôi không biết, anh hỏi con ngựa.' Con ngựa đưa anh ta đi đâu thì anh đi đó. Con ngựa nắm chủ quyền. Anh không kiểm soát được con ngựa. ' Cũng liều đánh mắt đưa chân, Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.' Là những câu cho thấy mình không nắm được chủ quyền cuộc đời mình. Sóng gió cuộc đời đẩy mình đi đâu thì mình theo đó thôi. Đây là một tình trạng khổ đau của con người. Người tu phải nắm lấy vận của mình. Phải biết mình đang đi về đâu. Đừng để thời thế, hoàn cảnh kéo đi. Trong hoàn cảnh nào, thời thế nào, mình cũng phải nắm lấy vận mạng của mình. Bước từng bước do ý chí của mình chứ không phải làm theo sự sai khiến của họ. Đó là nắm lấy chủ quyền của mình. Thúy Kiều sở dĩ khổ là vì Thúy Kiều không nắm lấy được chủ quyền của mình.
Sớm khuya khăn mặt lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
Một hôm Hoạn Thư hỏi về nghề đàn của Kiều:
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây.
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người!
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Biết tài đàn của Kiều, Hoạn Thư cũng thương thương và bớt phần nghiêm khắc.
Cửa người đày đọa chút thân,
Sớm năn nỉ bóng đêm ân hận lòng.
Lâm Truy chút nghĩa đèo bòng,
Nước non để chữ tương phùng kiếp sau!
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?
Thui thủi. Gậm nhấm trong lòng với những nhớ thương, buồn tuổi. Đó là tình trạng Kiều với tư cách con ở.
CÙNG TRONG MỘT TIẾNG TƠ ĐỒNG
Bây giờ nói về tình trạng của Thúc Sinh:
Lần lần tháng trọn ngày qua,
Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
Lâm truy từ thở uyên bay,
Phòng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
Mây xanh trăng mới in ngần,
Phấn thưa hương cũ bội phần xót xa.
Nhìn thấy vầng trăng non thì chàng nhớ lông mày của Thúy Kiều. Nhìn những hộp phấn và những chai nước hoa của Kiều thì lại càng xót xa. Nhà đã cháy rồi, không biết tại sao lại còn phấn, còn hương? Chắc là thi sĩ tưởng tượng ra chứ làm gì có thiệt!
Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Cứ như vậy mà qua hết một năm. Bây giờ đến lúc Thúc Sinh nhớ vợ. Trở về Vô Tích:
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Tiêu thư đón cửa giã giề,
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Tiểu thư ra đón rất nồng nhiệt. Nói chuyện trên trời dưới biển, rồi cuối cùng gọi con đầy tớ mới chào chủ:
Nhà hương cao cuốn bức là,
Phòng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng,
Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
Mỗi bước đi ra là lại càng thấy rõ, Kiều nhận ra ông chủ của mình là Thúc Sinh. Không thể lầm được. Càng bước càng sợ, không dám bước thêm nhưng vẫn phải bước vì bà chủ đã gọi. 'Bước ra một bước một dừng. Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa.' Nhiều cặp chữ lặp lại một cách khéo léo trong câu này chứng tỏ sự ngần ngại, giật tới, giật lui trong bước chân cũng như trong tâm trạng Thúy Kiều.
'Phải chăng nắng quái đèn lòa,
'Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
'Bây giờ tình mới tỏ tình,
'Thôi thôi đã mắc vào vòng chẳng sai!
Bây giờ mới hiểu: Mình bị mắc mưu. Đây cũng là một sự giác ngộ.
'Chước đâu có chước lạ đời,
'Người đâu mà lại có người tinh ma!
'Rõ ràng thật lứa đôi ta,
'Làm cho con ở chúa nhà đôi nơi.
Một cặp vợ chồng vừa đôi phải lứa mà phải đóng vai một bên là con ở, một bên là chủ nhà. Con ở với chủ nhà là một trời một vực. Nên nhớ rằng chế độ của người giúp việc ngày hôm nay. Không có sự bình đẳng. Giống như ở Ấn Độ, giai cấp cùng đinh không thể nào nói chuyện, đối diện hay đụng vào giai cấp Bà-la-môn. Khi đã bị liệt vào hàng nô lệ rồi thì chuyện nhận người kia là chồng cũ là không thể được. Nếu không hiểu bản chất của giai cấp thì không hiểu thấu chuyện này. Âm mưu của Hoạn Thư là làm cho một người biến thành con ở để hai bên hoàn toàn bị xa cách, hoàn toàn viễn ly nhau.
'Bề ngoài thơn thớt nói cười,
'Bề trong nham hiêm giết người không dao.
'Bây giờ đất thấp trời cao,
'Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?'
Cứng miệng. Không thể nói được. Đó là người thương của mình mà mình không có quyền nhìn, quyền nói. Không làm gì được hết!
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
Ruột tằm đôi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn xiêu:
'Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
'Nhân làm sao đến thế này?
'Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!'
Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt nước sụt sùi nhỏ ra.
Tồi quá! Sợ quen có nghĩa là chuyện sợ vợ đã thành thói quen rồi. Không dám nói gì hết. Anh chàng chỉ biết khóc thôi.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
'Mới về có việc chi mà động dong?'
Sinh rằng: 'Hiếu phục vừa xong,
'Sinh lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên!'
Khen rằng: 'Hiếu tử đã nên,
'Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.'
- 'Tại sao mới về mà đã khóc?'
- 'Anh vừa mới mãn tang mẹ. Nhớ mẹ nên anh khóc.'
- 'Cha! Anh có hiếu dữ ha!'
Toàn là giả dối ác độc với nhau!
Tẩy trần là tiệc rượu để rửa sạch những bụi bặm đường xa. Họ tẩy trần bằng rượu. Không giống với dương chi tinh thủy của chúng ta. Chúng ta tẩy trần bằng sự thực tập chánh niệm.
Vợ chồng chén tạc chén thù,118
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.119
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay.
- Hoạn Thư bắt bẻ Kiều từng ly từng tý: 'Rót rượu cho chàng thì phải quỳ trước mặt chàng mà rót. Mời thì phải mời tận tay chứ không được để trên bàn.' Chủ ý là để làm nhục cô gái kia. Càng bắt bẻ hành hạ Kiều chừng nào thì anh chàng càng đau khổ chừng đó.
Sinh càng như dại như ngây,
Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: 'Con Hoa!
'Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.!
Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
Sợ người yêu bị đánh thành ra khi được mời chén nào anh chàng cũng phải ráng mà nuốt cho cạn chén ấy. Ngậm cái đắng nuốt vào. Thấy bi kịch xảy ra như vậy, Hoạn Thư vẫn tỉnh bơ, giả bộ như không biết hai người đang đau khổ cực kỳ.
Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
Rằng: 'Hoa Nô đủ mọi tài,
'Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!'
Nàng đà tán hoán tê mê
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn:
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Lòng của Thúy Kiều rất xót xa nên đã làm phát hiện trên bản đàn bao nhiêu là tức tối, khổ đau. Thúc sinh càng nghe càng thấy tan nát trong lòng.
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Cùng một bản đàn mà người thì rất khoái, người thì đau khổ tan nát. Người ngoài cuộc (Hoạn Thư) thì cười nụ. Người trong cuộc (Kiều và Thúc sinh) thì phải khóc thầm. Đó là duy tâm. Cùng một đám mây đó mà người trông thì thấy nhớ nhà, người thì mừng là trời sắp mưa, lúa sẽ mọc. Cùng một hoàn cảnh mà người thì khổ đau, người thì sung sướng.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
Không kiểm soát được nữa, anh chàng rơi lệ, phải cúi đầu xuống lau nước mắt.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
'Cuộc vui gảy khúc đoạn tràng ấy chi!
'Sao chẳng biết ý tứ gì?
'Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.'
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà cam tâm.
Lòng riêng tấp tểnh mừng thầm:
'Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!'
Họ uống tới nửa đêm. Hoạn Thư nhìn mặt Thúc sinh thấy đau khổ đã lên tới cùng tột rồi thì trong lòng rất đã. Lâu nay đau khổ cực kỳ, tối nay mình mới có dịp trả thù. Cái vui của mình được làm bằng niềm đau của người khác. Đây là niềm vui không có bản chất tu tập, không có bản chất trí tuệ. Chính cái vui này sẽ đem lại những tai nạn cho Hoạn Thư sau này. Ngay trong hiện tại, Hoạn Thư cũng đang đánh mất chồng mình và trở nên một người rất cô đơn. Cái vui vẻ, săn đón của hai vợ chồng này không thật, mang đầy sự chịu đựng và oán trách. Gần nhau nhưng thật sự họ đã mất nhau. Đánh mất nhau, họ đánh mất hạnh phúc của chính mình.
Sinh càng gan héo ruột đầy,
Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài.
Tối hôm đó Kiều thức suốt đêm.
Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy ai nhìn được ai!
Bây giờ một vực một trời,
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi!
Nhẹ như bấc nặng như chì,
Gở cho ra nợ còn gì là duyên?
Lở làng chút phận thuyền quyên,
Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
Một mình ầm ỷ đêm chầy,
Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
Đó là nỗi khổ của cái đêm bị Hoạn Thư trả thù. Bị cướp bắt, bị làm đầy tớ, tuy là khổ nhưng chưa khổ lắm. Cái đêm hầu rượu cho hai người là đêm khổ sở nhất. Vừa khổ nhục vừa lo sợ không biết thân phận mình sẽ ra sao.
XIN NHỜ CỬA KHÔNG
Đoạn sắp tới là đoạn Thúy Kiều đi tu. Khổ quá chỉ muốn thoát nợ. Đi tu nhưng không biết tu như thế nào. Không có thầy dạy thực tập chánh niệm, không biết an trú trong hiện tại thành ra tu không thành công.
Sớm khuya hầu hạ đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
- 'Tại sao cái mặt mày rầu rầu vậy?
Lựa lời nàng mới thưa qua:
'Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.'
Tiểu thư hỏi lại Thúc sinh:
'Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!'
Sinh đà nát ruột như bào,
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
Thúc sinh biết hết tất cả những nỗi đau của Kiều nhưng không nói ra được. Nếu nói: 'Anh biết cô này từ hồi xưa hồi xưa...' thì sợ lụy cho Kiều thành ra phải giả bộ tra hỏi.
Nhưng e lại lụy đến nàng,
Đánh liều mới sẽ lựa lời hỏi tra.
Kiều khai hết thân thế mình vào một tờ giấy và trình lên cho Hoạn Thư.
Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.
Diện tiền trình với tiểu thư,
Thoát xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc sinh,
Rằng: 'Tài nên trọng mà tình nên thương!
'Ví chăng có số giàu sang,
'Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
'Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!'
Tài văn chương kỳ này cũng giúp được Kiều. Kỳ trước làm bài thơ vịnh cái gông thì được ông quan phủ chấp nhận, tha bổng và được chính thức hóa cho quan hệ với Thúc sinh. Kỳ này viết tờ văn, Hoạn Thư đọc cũng thấy tội nghiệp và tiếc cho người tài. Có tài, có sắc mà không có duyên (thiếu những điều kiện tốt) cho nên phải khổ đau.
Sinh rằng: 'Thật có như lời,
- 'Em nói đúng quá đi!' (Vì trong lời nói này có chút từ bi.)
'Hồng nhan bạc mệnh một đời này vay.
'Nghìn xưa âu cũng thế này,
'Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.'
Tiểu thư rằng: 'Ý trong tờ,
'Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không.
'Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
'Cũng cho nghĩ nghị trong vòng bước ra.
'Sẵn Quan âm Các vườn ta,
'Có cây trăm thước có hoa bốn mùa,
'Có cổ thụ có sơn hồ,
'Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.'
Trong nguyên lục, Hoạn Thư nói: 'Thôi để em mở cho nó một phía của cái lưới. Cho nó đi tu.' (Ngày xưa, người ta bẫy thú trong lưới; thỉnh thoảng có người thương những loài vật sẽ bị chết trong lưới săn nên mở cho chúng một lối thoát.) Quan Âm Các là ngôi chùa trong vườn nhà Hoạn Thư. Thúy Kiều được ra ở đó với tư cách trụ trì và lo việc chép kinh. Theo nguyên lục, Hoạn Thư khen chữ Kiều đẹp và muốn Kiều chép giùm mình một bộ Kinh Hoa Nghiêm.
Tàng tàng trời mới bình minh,
Hương hoa ngũ cúng sắm sanh lễ thường,
Đưa nàng đến trước Phật đường.
Tam quy ngũ giới cho nàng xuất gia.
Áo xanh đổi lấy cà sa,
Pháp-danh lại đổi ra tên Trạc Tuyền.
Ở đây nói có lễ xuất gia mà không cho biết ai là thầy truyền giới. Và thay vì Thọ Tam Quy và Thập Giới thì Kiều lại thọ Tam Quy và Ngũ Giới. Pháp danh Trạc Tuyền do ai đặt? Theo nguyên lục thì chẳng có thầy nào tới truyền giới cả. Chính cái pháp danh Trạc Tuyền cũng do Thúc sinh đặt. Trong Quan Âm Các, có thờ một tượng Đại Sĩ Quan Âm và trong chánh điện có một biển treo đề hai chữ Trạc Tuyền. Thúc Sinh mới đề nghị lấy hai chữ Trạc Tuyền làm pháp danh cho Kiều. Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh và những bài thơ viết về đạo Bụt sau này chứng tỏ cụ Nguyễn Du có một kiến thức về đạo Bụt khá sâu sắc. Nghe nói khi lìa đời cụ cũng tịch một cách êm ái. Khi sáng tác truyện Kiều, kiến thức Phật pháp của cụ còn chưa được sâu sắc lắm. Điều đó biểu hiện ở một vài nơi. Triết lý của truyện Kiều phối hợp vừa triết lý đạo Bụt, vừa triết lý Thiên Mệnh, đạo Khổng, đạo Lão; không được mạch lạc rõ ràng. Cụ Nguyễn Du cũng không biết muốn xuất gia thì phải thọ mười giới chứ không phải năm giới. Thọ năm giới cũng phải có thầy truyền giới. Chúng ta có thể sửa lại là: 'Tam Quy Thập Giới cho nàng xuất gia.' Trạc Tuyền tuy vậy là một pháp danh rất hay. Tuyền là dòng Suối, Trạc là tắm gội. Trạc Tuyền là tắm gội trong dòng suối, có lẽ là suối Giải Oan. Trong bài tựa Kinh Thủy Sám (Từ Bi Tam Muội Thủy Sám Pháp) kể lại tích Quốc sư Ngộ Đạt và mụt ghẻ120 ; lúc thầy Ca Nặc Ca rửa mụt ghẻ cho Quốc sư Ngộ Đạt thầy nói: 'Tôi xin rửa tạm mụt ghẻ này cho huynh bằng nước ấm có muối. Ngày mai khi trời sáng, tôi sẽ đem huynh xuống dòng suối dưới chân núi. Suối tên là Giải Oan. Lấy nước đó rửa thì thế nào mụt ghẻ cũng lành.' Nham hạ: dưới núi; Hữu tuyền: có một dòng suối. Minh đán: sáng mai; trạc chi: rửa nó; tắc dũ: thì lành. 'Dưới núi có một dòng suối. Sáng mai rửa thì sẽ lành.' Đó là câu trong bài tựa Kinh Thủy Sám. Hai chữ Trạc Tuyền là từ câu đó mà ra. Những nỗi oan của nàng Kiều chỉ có thể rửa đi bằng nước của dòng suối từ bi. Từ Bi Thủy Sám là sám hối bằng nước từ bi.
Giả dụ Hoạn Thư đã có mời một sư bà ở đâu tới làm lễ xuất gia cho Thúy Kiều, cho nàng thọ mười giới và sau lễ Truyền Giới sư bà đi mất. Kiều ở lại làm trụ trì Quan Âm Các. Dù có vậy đi nữa thì Kiều tu hành cũng không thành công được! Thọ mười giới mà không có ai dạy hành trì giới luật và uy nghi, không có ai dạy tụng Kinh, ngồi thiền, thở, đi thiền hành... thì biết gì mà hành trì? Không có tăng thân cũng không có thầy. Tu như vậy thì thất bại là phải rồi! chúng ta sẽ thấy sự thất bại ấy sau này. Kiều đi tu, mục đích chưa hẳn vì muốn tu. Kiều chỉ muốn thoát khỏi hầm lửa, thoát khỏi thân phận đầy tớ mà thôi. Hoạn Thư cũng hơi tội nghiệp nên muốn cho Kiều thoát, nhưng thoát như thế nào mà vẫn nằm trong sự kiểm soát của mình. Hoạn Thư cung cấp đầy đủ gạo tương, dầu đèn và còn cho Kiều hai người thị giả:
Sớm khuya tính đủ dầu đèn,
Xuân Thu cắt sẵn hai tên hương trà.
DƯỜNG GẦN RỪNG TÍA DƯỜNG XA BỤI HỒNG
Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dưới gần rừng tía đường xa bụi hồng.
Rừng tía, do câu 'Tứ trúc lâm trung Quán Tự Tại' (Đức Quán Tự Tại ở trong khu rừng trúc tím), là nơi cư ngụ của Đức Quan Âm, cũng tức là nhà chùa, là mảnh đất của giải thoát. Từ khi được ra ở Quan Âm Các, Kiều như được gần thế giới của giải thoát. Dường gần rừng tía thôi chứ chưa hẳn là đã ở trong rừng tía. Lòng chưa ở hẳn thiền môn. Chưa quyết tâm tu. Dường xa bụi hồng là có vẻ như đã xa cuộc đời bụi bặm nhưng kỳ thực chưa xa, vẫn còn vương vấn lắm. Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Nếu không phải là một ông thánh thơ thì làm sao nói lên được như vậy! Chập chờn qua lại, chưa chịu tu hẳn. Vấn đề là ở chỗ đó. Nếu đã 'quyết vào rừng tía quyết xa bụi hồng' thì đâu còn có vấn đề nữa!
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi.
Làm sao còn hy vọng hàn gắn với Thúc sinh? Miễn không bị làm nhục là đã đỡ rồi! Trong câu này ý còn nuôi sự hy vọng. Nói không hy vọng nhưng trong đáy lòng vẫn còn hy vọng. Trên phương diện Ý thức thì quyết định như vậy (tu) nhưng dưới A Lại Gia thức vẫn có sự mong ước về tương lai. Đó là tâm trạng của Thúy Kiều. Vì vậy mà Kiều tu không thành công. Không quyết tâm tu. Quyết tâm tu thì tự nhiên có an lạc và tất cả tai nạn sẽ chấm dứt. Ở đây vì Kiều không quyết tâm tu, vẫn nghĩ rằng nếu có cơ hội thì mình sẽ được tháo cũi sổ lồng nên cô đã thất bại.
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
Ngày pho thủ tự đêm nhồi tâm hương.
Đó! Dùng cửa Phật để vùi lấp những sầu thảm trong quá khứ của mình thôi chứ không quyết tâm chuyển hóa chúng. Có chỗ đề là 'Ngày pho thủ tự đêm nồi tâm hương' nhưng chữ nồi khó hiểu. Người ta đốt hương trong lư chứ ai lại đốt trong nồi. Chữ nhồi là động từ, có nghĩa là huấn luyện, thực tập. Tâm hương không phải là hương thường, phải đem lòng mình ra làm hương chư không phải lấy trầm để làm. Tâm nhiên ngũ phận là lấy lòng mình thắp lên năm thứ hương: Giới hương, Định hương, Tuệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Thực tập Giới, Định, Tuệ là cúng dường ba thứ hương đầu tiên. Sự giải thoát và cái thấy do sự giải thoát đem lại là những thứ hương quý để cúng dường Bụt. Chúng ta phải thực tập mỗi ngày năm thứ tâm hương thì mới có phẩm vật mà cúng dường. Đó là nhồi tâm hương. Nếu nhồi là một động từ thì chữ đối lại phải là một động từ. Chữ pho (danh từ) không thích hợp, phải được đọc là phô (động từ) Phô có nghĩa là trình bày ra. Ngày phô thủ tự, đêm nhồi tâm hương. Ban ngày thì bày kinh ra chép; ban đêm thì thực tập ngồi thiền. Trên nguyên tắc là phải làm như vậy. Nhưng trên thực tế, Kiều không khí được hướng dẫn để tu tập như thế.
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
'Giọt nước cành dương' là hình ảnh trong nghi thức Gia Trì Nước Tịnh:
Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhân thiên
Pháp giới quảng tăng diên
Diệt tội tiêu khiên
Hỏa diệm hóa hồng liên
Nghĩa là:
Giọt nước tịnh trên đầu cành dương liễu
Rưới khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Tự tánh của nước đó là không; nước đó có tám khả năng (bát công đức) có thể làm tiêu tan những sầu khổ, phiền não, đưa lại sự thanh lương, mát mẻ và giải thoát cho con người.
Pháp giới rộng ra, sáng thêm.
Tiêu diệt được tất cả những tội lỗi, oan khiên.
Trong biển lửa cháy bừng mà có giọt nước Cam Lộ rưới vào thì tự nhiên có một đóa sen màu hồng nở.
Tôi dịch:
Cành dương nước tịnh
Rưới khắp tam thiên
Tánh không tám đức độ nhân thiên
Pháp giới sáng rộng thêm
Diệt mọi oan khiên
Biển lửa nở hoa sen.
Giọt nước trên cành dương với sức tâm linh và từ bi của Đức Quan Thế âm có thể tưới tắt những khổ đau và nóng bức trong lòng mình. Phải là giọt nước Cam Lộ mới có thể làm được điều đó. Những câu vừa đọc có dính đến Kinh. Không hiểu Kinh thì không hiểu thơ.
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Trên nguyên tắc là như vậy. Nhưng trên thực tế tâm của Kiều không có sự cương quyết và Kiều cũng không có một vị thầy hướng dẫn tu học. Thông minh cách mấy mà không có thầy, bạn và tăng thân thì cũng khó mà tu được. Vì vậy, tuy việc ở chùa có giúp Kiều thoa dịu phần nào những đau khổ nhưng vẫn chưa đủ để Kiều có an lạc, hạnh phúc. Ni cô Trạc Tuyền vì tu một mình, nên không thành công được bao nhiêu.
Nâu sòng từ trở màu thiền;
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.
Chữ thiền có một số người phát âm là thuyền. Hồi còn là chú tiểu tôi cũng đọc là thuyền na (dhyana). Nhưng sau này tôi nghĩ chúng ta nên thống nhất cách phát âm là thiền để khỏi trùng với chữ thuyền là chiếc đò.
Quan phòng then nhặt lưới mau,
Nói lời trước mặt rơi châu vắng người.
Cụ Trần Trọng Kim giải thích chữ quan phòng là Hoạn Thư canh giữ không cho Kiều trốn đi. Giải thích như vậy không đúng nghĩa. Quan phòng là vấn đề giới luật. Quan là cửa, phòng là hộ trì. Mười giới Sa Di được chia làm hai phần. Bốn giới đầu (sát, đạo, dâm, vọng) là bốn giới trọng, phải hành trì như cánh cửa đóng chặt lại, không thể mở ra được (quan). Sáu giới sau là sáu giới nhẹ, có mục đích bảo vệ, hộ trì (phòng). 'Quan phòng then chặt lưới mau' nghĩa là đứng về phương diện giưới luật thì phải nghiêm cẩn, giữ gìn. Nhặt và mau đều có nghĩa là sít sao. Then, chấn song, phải sát; nếu không thì người ta có thể đẩy cửa vào được. Lưới phải sít; nếu không sẽ bị thất thoát ra ngoài. Câu này có nghĩa là giới luật được hành trì tinh nghiêm, vững vàng. Đó là trên bề mặt. Bởi vì 'nói lời trước mặt rơi châu vắng người': vẫn có tâm sự, khi có mặt người (bổn đạo) thì nói nói cười cười, không có người thì vẫn khóc. Chứng tỏ sự tu hành cạn cợt. Niềm đau còn nhiều. Không quyết tâm tu học. Không có thầy, có bạn. Câu này đi đoi với câu 'Phật tiền thảm lấp sầu vui'. Chôn giấu chứ không chuyển hóa, vì vậy niềm đau vẫn còn. Chúng ta không trách Trạc Tuyền vì Trạc Tuyền không có tăng thân, không có thầy nên không biết phương pháp chuyển hóa nội kết. Vùi sâu lấp thảm bằng gì? Bằng sự bận rộn. Ở đây sự bận rộn là chép Kinh, đốt nhang, quét dọn... Chuyện tụng Kinh, đốt nhang, làm công việc chùa... có thể chỉ là sự bận rộn để phủ lấp niềm đau của mình. Sự bận rộn đó không được gọi là sự tu học chân chính. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó trong đoạn thơ này. Tụng Kinh, lạy Bụt, ngồi thiền, chấp tác... phải được thực tập như sự tu học. Phải làm những công việc hàng ngày này một cách có chánh niệm và hạnh phúc thì những công phu ấy mới có tác dụng chuyển hóa. Nếu chúng ta làm những việc này như những bổn phận hay những công tác thì chưa phải là tu. Đó chỉ là làm cho mình bận rộn để quên đi vấn đề của mình thôi. Vấn đề vẫn y nguyên như cũ. Rất nguy hiểm. Trên phương diện hình thức thì có thể gọi là tu, nhưng trên phương diện nội dung đó chưa phải là tu. Lấp thảm vùi sầu hay chuyển hóa thảm sầu? Chuyện này không thể che dấu được. Mình tự soi mình. Trước mặt bổn đạo có thể mình nói cười như đang có hạnh phúc và giải thoát nhưng khi trở về đối diện với chính mình thì mình có thể không nói không cười được với chính mình; mình khóc. Đó là trường hợp của Trạc Tuyền. Lại thêm:
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
Hai câu này tố cáo trong đáy lòng Kiều vẫn có ước muốn gặp Thúc sinh chứ Kiều chưa quyết tâm đi tu. Vì vậy đời của Kiều còn khổ. Chúng ta có thể học được rất nhiều bài học từ truyện Kiều. Làm việc và tu tập ở một nơi nhưng tâm không nằm ở đó mà nằm ở một chỗ khác. Tu như vậy thì làm sao thành công, làm sao chuyển hóa được!
Những là ngậm thở nuốt than,
Tiểu thơ phải buổi vấn an về nhà.
Thừa cơ sinh mới lẻn ra,
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
Trong nguyên lục, Thúc sinh đang có một kỳ thực tập đi thi. Thời xưa sinh viên thỉnh thoảng có một kỳ thi thực tập ở quận. Các sinh viên đại tập (đã học xong, đang ôn luyện để đi thi) được tụ họp lại và làm những đề thi do các thầy giáo trong vùng đưa ra, làm bài trong thời gian tương đương với thời gian của trường thi. Các thầy chấm bài xem thử các ông học trò này nếu di thi thì có đậu không. Đó là kỳ thi tổ chức trong quận. Trong thời gian mười mấy ngày Thúc sinh đi thi thử đó, Hoạn Thư về thăm mẹ, Thúc Sinh quên một vật dụng gì đó, về lấy thì mới biết là Hoạn Thư đi vắng. Lợi dụng cơ hội đó, Thúc Sinh ra thăm Kiều ở Quan âm Các. Đó là trình tự trong nguyên lục. Trong truyện Kiều thì giống như Hoạn Thư gài bẫy, đi thăm mẹ rồi giữa chừng trở về xem Thúc Sinh có lẻn ra thăm Kiều không. Thúc Sinh ra gặp Kiều:
Sụt sùi kể nỗi đoạn trường,
Giọt châu tầm tã dẫm tràng áo xanh.
Chàng đã khóc quá trời đất! Không có tư cách của nam nhi gì cả. Áo xanh là áo của anh chàng, vì áo cô nàng bây giờ là áo nâu.
'Đã cam chịu bạc với tình,
'Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
'Thấp cơ thua trí đàn bà,
'Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
'Vì ta cho lụy đến người,
'Cát lầm ngọc trắng thiệt đời xuân xanh.
Than thở cho hoàn cảnh của Kiều. Anh chàng thấy mình cũng phải lãnh trách nhiệm. Phải hành động chứ! Vậy thì làm gì?
'Quản chi lên thác xuống ghềnh,
'Cũng toan sống thác chữ đồng làm hai.
- 'Anh chưa có con trai nối dõi nên chưa chết được.' Trong luân lý ngày xưa người con trai có bổn phận phải có con trai để nối dõi tông đường. Nếu không có con trước khi chết là phạm tội bất hiếu rất lớn. Không thể hiểu câu này nếu không hiểu nhân sinh quan của người Á Đông thời xưa (thời nông nghiệp). 'Bất hiếu hữu tam, vô lậu hữu đại': Có ba tội bất hiếu, không con nối dõi là tội nặng nhất. Không có sự tiếp nói về sau (vô lậu) là tội bất hiếu lớn hơn cả. Đó là luân lý Khổng giáo trong bối cảnh xã hội nông nghiệp ngày xưa. Không có con trai nối dõi tông đường thì bao nhiêu cơ nghiệp của tổ tiên để lại sẽ không giữ được. Đứng về phương diện đó mà nhận xét thì những người con trai đi tu đều là bất hiếu! Đó là sự kích bác đạo Phật từ đạo Nho. Để đáp lại, trong đạo Bụt có một thời người ta phải viết lách, thuyết pháp để chứng tỏ rằng người đi tu cũng có hiếu lắm. Những chuyện như truyện Bà Chúa Ba (Quan Âm Nam Hải) hay Quan Âm Thị Kính đều chứng tỏ rằng người xuất gia có thể bày tỏ niềm hiếu thảo của mình, thực tế cứu độ được cha mẹ, gia đình và giúp cho xã hội. Bốn câu đầu của truyện Bà Chúa Ba:
Chân như đạo Bụt rất mầu,
Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân.
Hiếu là độ được đấng thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân mọi loài.
Trả lời ngay sự kích bác của Khổng giáo: trong đạo Bụt có hiếu và có nhân, tại sao các ông nói chúng tôi không có nhân và không có hiếu?
Thúc Sinh nói: 'Anh chưa chết với em được là vì anh chưa có con trai.' Người Tây phương nghe lý luận này chắc là không hiểu được. Đây là ý niệm về hiếu trong xã hội cổ.
'Thẹn mình đá nát vàng phai,
'Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?'
Nghĩ đến chuyện chung tình là nghĩ đến chuyện phải chết thôi, không có con đường nào để sống. Anh chàng này dở lắm.
Nàng rằng: 'Chiếc bách sóng đào,
'Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
'Chút thân quằn quại vũng lầy,
'Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
'Cũng liều một giọt mưa rào,
'Mà cho thiên hạ trông vào cũ hay!
'Xót vì cầm đã bén dây,
'Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta,
'Liệu bài mở cửa cho ra,
'Ấy là tình nặng ấy là ân sâu!'
Kiều nói: 'Thân em quằn quại trong vũng bùn. Sống được đến ngày hôm nay là may mắn rồi. Em không đòi hỏi gì hết, chỉ mong anh nghĩ đến tình của chúng ta mà tháo cũi sổ lồng cho em ra khỏi tình trạng này. Chừng đó là đủ chứng tỏ anh thương em.'
Sinh rằng: 'Riêng tưởng bấy lâu,
'Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
'Nữa khi giông tố phủ phàng,
'Thiệt riêng đấy cũng lại càng cực đây.
Nói xấu vợ: 'Đã từ lâu anh nghĩ rằng lòng người nói chung, lòng vợ anh nói riêng rất nham hiểm. Nếu bà ta nổi cơn thịnh nộ lên mà làm tình làm tội em thì tội nghiệp cho em mà lòng anh cũng tan nát!
'Liệu mà cao chạy xa bay,
'Ái ân ta có ngần này mà thôi!
Thúc Sinh khuyên Kiều đi trốn. Hoàn cảnh như một cái lưới buộc hai người, Thúc Sinh không thấy con đường thoát nào cho đời sống đôi lứa với Kiều. Hai người đang đi trên hai con đường hoàn toàn khác nhau, không còn cơ hội để chắp lại cuộc tình duyên dở lở.
'Bây giờ kẻ ngược người xuôi,
'Biết bao giờ lại nối lời nước non?
'Dẫu rằng đến thác vẫn còn vương tơ!'
Cùng nhau kể lể sau xưa,
Nói rồi lại nói lời chưa hết lời.
Mặt trông tay chẳng nở rời,
Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
Lâu quá hai người không được gặp. Khóc lóc, than thở, rồi đồng ý giải pháp Kiều đi trốn... vậy mà sau đó vẫn không thể rời nhau được. 'Mặt trông tay chẳng nở rời' tức là Thúc Sinh nắm tay Kiều. Như vậy ni cô này thật bê bối. Có người đi đến:
Nhận ngừng nuốt tủi đứng ra,
Tiểu thư đã thấy rẽ hoa bước vào.
Cười cười nói nói ngọt ngào,
Hỏi: 'Chàng mới ở chốn nào lại chơi?'
Dối quanh Sinh mới liệu lời:
'Tìm hoa quá bước xem người viết kinh.'
- 'Anh đi xem hoa, tiện ghé vào coi sư cô chép kinh.' Càng nghe tả về Thúc Sinh chúng ta càng thấy rõ tính khí của anh chàng. Hoạn Thư tiếp lời, khen luôn:
Khen rằng: 'Bút pháp đã tinh,
'So vào với thiếp Lan-đình nào thua!
'Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
'Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!'
Thiền trà cạn nước hồng mai,
Thong dong nối gót thư trai cùng về.
Hai vợ chồng uống trà ở chùa rồi từ giã ra về như một cặp uyên ương tương đắc lắm. Có vẻ như không có vấn đề gì cả nhưng tình cảm trong lòng mìh, hai bên không nói được với nhau. Rất tội nghiệp! Thiền trà là cách uống trà trong nhà chùa. Trà ở đây được làm bằng nước hồng mai, tức là nước gỗ cây mai sống gần trăm năm; màu gỗ đỏ, chẻ ra nấu trà mùi thơm rất tinh khiết. Ở chùa Hương Tích thỉnh thoảng thấy có bán trà hồng mai. Những cây mai ở Làng Mai mới có chín, mười tuổi. Phải đợi chín mươi năm nữa mới có thể làm trà hồng mai được.
Nàng càng e lệ ủ ê,
Rỉ tai hỏi lại hoa tì trước sau.
Hoa rằng: 'Bà đến đã lâu,
'Nhón chừng đứng núp độ lâu nửa giờ,
'Rành rành kẽ tóc chân tơ,
'Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
'Bao nhiêu oan khổ tình thương,
'Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than.
'Dặn tôi đứng lại một bên,
'Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.'
Cô thị giả báo lại như vậy.
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
'Đàn bà thế ấy thấy đâu một người!
'Ấy mới gan ấy mới tài,
'Nghĩ càng thêm nỗi sờn gai rụng rời!
Lạnh xương sống luôn! Thật là một người đàn bà ghê gớm!
'Người đâu sâu sắc nước đời,
'Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
'Thục tang bắt được dường này,
'Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
Đáng lẽ bắt quả tang như vậy người ta phải chau mày nghiến răng, chửi mắng, giựt tóc, đánh lộn..luôn luôn... mà đây:
'Thế mà im chẳng đãi đằng,
'Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng.
Giận dầu ra dạ thế thường.
'Cười dầu mới thực khôn lường hiếm sâu!
'Thân ta ta phải lo âu.
'Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này.
'Ví chăng chắp cánh cao bay,
'Trèo cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
- 'Rõ ràng đây là một con người rất sâu hiểm. Nếu không liệu mà trốn thì thế nào cũng có ngày bị đánh, giết, làm nhục.'
'Hận bèo bao quản nước sa,
'Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Đã là thân phận luân lạc rồi thì đâu còn sợ chuyện lênh đênh nữa! Lênh đênh ở đây cũng là lênh đênh mà lênh đênh bên Mỹ cũng là lênh đênh.
Chỉn e quê khách một mình,
'Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!'
Thính chuyện đi trốn nhưng lo không có vài trăm quan Pháp hoặc mấy chục đô la Mỹ thì khi đói lấy gì mà ăn. Vì vậy cho nên:
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.
Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Trong lòng Thúy Kiều có cảm tưởng bấp bênh, sợ đói. Vì vậy phát sinh tâm niệm ăn cắp. Lấy đồ thờ bằng vàng bạc trong chùa đem theo để khi đói quá bán đi mua cơm ăn. Điều này chứng tỏ Kiều chưa biết giữ giới, chưa thực sự tu. Khi đi tu, mặc vào người chiếc áo nâu sồng rồi thì đời sống mình phải được hoàn toàn nương tựa trên đàn na thí chủ. Tại sao phải sợ không có tiền mua cơm? Đã cạo đầu, mặc áo nhật bình, quyết chí đi tu rồi thì tại sao mình phải sợ đói? Ngày xưa, khi Bụt còn tại thế thì tình trạng đã là như vậy rồi. Thầy tu không cần nhà cửa, chỉ cần có một cái bát thôi. Khi đi tu là mình phải sống trên sự bố thí của người ta.
Nhất bát thiên gia phạn
Cố thân vạn lý du
Kỳ vi sinh tứ sự
Giáo hóa độ xuân thu
Nghĩa là:
Một bát cơm ngàn nhà
Một mình đi vạn dặm
Đó cũng chỉ vì vấn đề sinh tử
Giáo hóa cho tất cả mọi người, mùa xuân cũng như mùa thu.
Tạm dịch:
Bình bát cơm ngàn nhà

Thân chơi muôn dặm xa
Vì việc lớn sinh tử
Giáo hóa tháng ngày qua.
Vấn đề lớn nhất, sứ mạng chính của người tu là giải quyết vấn đề sinh tử. Sinh tử sự đại: việc sinh tử là việc lớn. Người xuất gia phải giải quyết vấn đề sinh tử chứ không phải giải quyết vấn đề làm chùa, đi học để lấy cái bằng hay lên chức làm giáo thọ... Vấn đề quan trọng nhất của người xuất gia là thoát khỏi sinh tử. Bốn chữ Sinh Tử Sự Đại có thể được viết treo ở thiền đường. Ngồi thiền, đi thiền hành, ăn cơm... làm tất cả mọi cái là để giải quyết một vấn đề: vượt thoát sinh tử.
Khi đã đi tu thật rồi thì phải lấy cơm thiên hạ làm cơm của mình, lấy gốc cây làm nhà. Chùa nào cũng có thể là chùa của mình cả. Tại sao phải cất tiền riêng? Ngày xưa cũng như bây giờ, hễ người tu ròi thì không được sợ đói. Mình trở thành con người chung. Quần chúng Phật tử sẽ lo cho mình. Chỉ sợ mình không tu thôi. Nếu mình tu thì cơm của tín thí là cơm của mình. Ăn cơm đó là để hoàn thành sự nghiệp giác ngộ.
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co: chỉ vì lo quá mà sinh chuyện. Thúy Kiều có cảm giác không có an ninh. Lo sợ đủ cái, trong đó có chuyện sợ đói. Rồi đi đến chuyện ăn cắp đồ thờ bằng vàng bạc để trốn đi. Chuyện phạm giới, thiếu niềm tin, thiếu quyết tâm này sẽ đưa lại những đau khổ trong tương lai cho Thúy Kiều. Chúng ta sẽ thấy ở đoạn sau. Nếu Thúy Kiều quyết chí tu hành, quyết chí làm ni cô thì Thúy Kiều sẽ không sợ nữa. Ở ngay tại đó cũng không sợ. Thái độ của Kiều đối với Thúc Sinh sẽ khác. Giả dụ như hồi Hoạn Thư đứng nghe lóm, dù Kiều không biết, mà Kiều nối: 'Thôi anh đừng tới đây nữa! Em muốn tu. Em muốn làm một người xuất gia đàng hoàng.' Hoạn Thư nghe biết thì sẽ sung sướng và kính phục Kiều lắm. Kiều sẽ khỏi phải trốn đi đâu cả. chỉ ở đó tu thôi cũng đã có an ninh rồi, huống hồ trong tương lai lại có cơ hội đi tham vấn, học Đạo với các ni sư khác. Thành ra cái căn bản nằm ở trong trái tim của Thúy Kiều chứ không phải nằm ở Hoạn Thư hay Thúc Sinh. Vì tu mà không có quyết tâm cho nên mới có vấn đề. Trong cuộc nói chuyện với Thúc Sinh, Kiều không chứng tỏ quyết tâm tu gì cả. Chỉ khóc lóc và than thở chuyện người đàn bà kia đọc ác và bàn chuyện đi trốn. Bây giờ đi trốn cũng vậy. Trốn đi không phải để làm ni cô tu hành. Chỉ muốn thoát ra thôi. Chính vì không được bảo vệ bởi niềm tin, bởi Bồ-đề Tâm và nhất là bởi Giới Luật nên ni cô Trạc Tuyền phạm giới tùm lum: ăn cắp, leo tường chạy trốn, không có niềm tin và sau này sẽ phạm giới nói dối.
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Làn đường theo bóng trăng tà về tây.
Nửa đêm Kiều trèo tường đi về hướng Tây. Trong nguyên lục, Thúc Sinh nói: ở hướng Tây có một số chùa của các ni sư, trốn về hướng đó thì có thể tạm trú được trong những ngày đầu. Kiều không đi ngõ chính mà phải leo tường, ta có thể nghĩ muốn vào Quan Âm Các thì phải vào cửa chính của tư thất Hoạn Thư. Đây là những câu thơ đẹp vẽ lên hình ảnh người trốn đi trong đêm khuya;
Mịt mùa dặm cát đồi cây,
Tiếng gà điểm nguyệt dấu giày cầu sương121
Canh khuya thân gái dặm trường,
Phần e đường sá phần thương dãi dầu!
Thật tội nghiệp.
AM CHIÊU ẨN
Đi hết đêm.Tới sáng:
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài.
Trong Nguyên lục: Thúy Kiều tới Chiêu Ẩn Am gõ cửa, một chú tiểu đi ra. Kiều hỏi: Trụ trì ở đây là ai? Chú tiểu trả lời 'Ni sư Giác Duyên.' Do đó Kiều biết tên ni sư trụ trì. Khi gặp ni sư, Kiều nói dối: 'Con là đệ tử của thầy con ở Bắc Kinh. Thầy con và con định tới Chiêu Ẩn Am thăm ni sư Giác Duyên nhưng giữa đường con lạc mất thầy con. Vì vậy con tìm tới trước.' Ni sư Giác Duyên nói: 'Có phải ni sư Hằng Thủy ở Bắc Kinh không? Nếu phải thì đó là bạn thân của tôi.' Kiều đáp: 'Dạ đúng là ni sư Hằng Thúy.' Vào am rồi, Kiều giở bọc lấy chuông vàng, khánh bạc trao cho ni sư Giác Duyên, nói của thầy mình dặn đem tới cúng dường. Đi tu mà đem tiền, vàng, đô la tới bỏ vào chùa là nguy hiểm lắm. Chỉ nên đem tấm lòng của mình tới là tốt hơn.
Truyện Kiều của Nguyễn Du kể khác Nguyên lục một chút:
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong.
Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Mình là thầy tu, thấy một người khác mặc áo thầy tu thì tự nhiên có cảm tình.
Gạn cùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
'Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
'Quy sư quy Phật tu hành bấy lâu.
'Bản sư rồi cũng đến sau,
'Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.'
Chuông vàng khánh bạc bên mình dở ra.
Thúy Kiều nói dối. Vì sợ nói thiệt mình từ Quan Âm Các trốn ra thì sẽ không được chấp nhận. Thiếu niềm tin, có rất nhiều sợ hãi, có cảm giác không an ninh... Bị bao nhiêu nỗi khổ trong lòng xô đẩy đi làm những chuyện không đúng. Nếu đi vào mà nói thiệt hết cho sư Giác Duyên thì sẽ không có vấn đề gì cả. Ở đây Kiều lại giấu quanh, nói dối. Hồi mười hai giờ khuya vừa mới phạm giới ăn cắp (giới thứ hai). Bây giờ lại phạm tới một giới lớn nữa, giới thứ tư, nói dối.
Sư Giác Duyên cũng không để ý tới chuyện vàng bạc.
Xem qua sư mới dạy qua:
'Phải Ni Hằng Thủy là ta hậu tình.
'Chỉn e đường sá một mình,
'Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.'
Gởi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
Được sự che chở của sư Giác Duyên nên Kiều có một ít sự an ổn. Am mây có sự liên hệ đến chỗ các thiền sư tĩnh tu. Ví dụ như Ngọa Vân Am (Am Mây Ngủ) trên núi Yên Tử là nơi tĩnh tu của Trúc Lâm Đại Sĩ (vua Trần Nhân Tôn sau khi xuất gia.) Cao Tăng Truyện có thuật chuyện thiền sư Nhất Biển làm một cái cốc trên đỉnh núi. Đây là bài thơ của thiền sư chép lại trong Cao Tăng Truyện:
Thiên phong đỉnh thượng nhất gian ốc,
Lão tăng bản gian, vân bản gian.
Tạc dạ vân tùng phong vũ khứ,
Đáo đầu bất tợ lão tăng nhân.
Nghĩa là:
Một gian nhà tranh trên chóp ngàn ngọn núi
Lão tăng ở nửa gian, mây ở nửa gian.
Đêm qua mây đã theo gió và mưa đi mất,
Rốt cuộc nó không được nhàn hạ bằng ông thầy tu già.
Từ đó, những chiếc am dựng trên đỉnh núi thường được gọi là am mây.
Gửi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc trước trai phòng quen tay.
Đã tu được ba tháng, chép Kinh cũng khá, công việc thắp nhang, đốt đèn, dọn dẹp trai đường, phòng ốc cũng đã quen thuộc rồi.
Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt tiếng chày nện sương.
Đó là sinh hoạt hàng ngày trong thiền môn: tụng kinh, thỉnh chuông buổi sớm và buổi khuya. Văn chương rất đẹp! Có bản chép là 'Sớm khuya lá bối phướn mây' thì không đúng. Phướn là cái treo trên trần rũ xuống, nhiều màu, có đề 'Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật' hay 'Nam Mô A Di Đà Phật' để trang trí trong chùa, không dính đến công phu hàng ngày. Lá Bối tức là Kinh (ngày xưa người ta chép Kinh trên lá Bối); còn phiến mây là cái vân bản (cái khánh hình đám mây.) Ngọn đèn khêu nguyệt có lẽ được ảnh hưởng đoạn văn trong Nghi Thức Chẩn Tế:
'Kinh song lãnh tấm tam canh nguyệt
Thiền thất u minh bản dạ đăng.'
Nghĩa là:
Từ cửa sổ (người thầy tu) ngồi đọc Kinh cái lạnh thấm vào ánh trăng canh ba; Trong thiền thất mờ mờ tỏ tỏ ngọn đèn nửa đêm. (Tam canh và bán dạ đều là nửa đêm.)
Nếu quen thuộc Kinh điển chúng ta sẽ thấy hình ảnh 'ngọn đèn khêu nguyệt' đẹp hơn. 'Tiếng chày nện sương' là tiếng chuông đại hồng ngân lên buổi sớm. Chu Mạnh Trinh, trong bài Chùa Hương, có hai câu nói về ảnh hưởng của một tiếng chuông trong lòng người:
'Thoáng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.'
MỖI HÀNH ĐỘNG ĐỀU CÓ KẾT QUẢ
Thúy Kiều thông minh, học mau, ni sư thương, cho ở lại lâu trong chùa.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
Sư càng nể mặt nàng càng vững chân,
Cửa Thiền vào cữ cuối xuân,
Bóng hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời.
Kiều ở Chiêu Ẩn Am cũng khá lâu. Trước kia ở Quan Âm Các chỉ được vài tháng mùa thu: 'Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.' Như vậy trốn đi, đến Am Chiêu Ẩn phải là đầu mùa Đông. Ở lại qua mùa Đông, rồi hết mùa Xuân.
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lên chơi cửa già.122
Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: 'Khéo giống của nhà Hoạn Nương!'
Người bổn đạo này có lẽ đi đã nhiều chùa, trong đó có Quan Âm Các, cho nên đã nhận ra chuông vàng khánh bạc của Hoạn Thư. Chúng ta thấy: không có một hành động nào của mình mà không có kết quả. Theo cụ Nguyễn Du, Kiều bị lộ tung tích vào lúc cuối xuân. Nhưng theo nguyên lục (Phong Tình Lục) thì đó là mùa thu, lúc chùa Chiêu Ẩn tổ chức lễ Vu Lan. Ni sư Giác Duyên là người có đạo hạnh, rất dễ thương vì vậy khi có lễ các phu nhân và tiểu thư cũng đã đến rất đông. Hôm đó Kiều thoái thác là nhức đầu, nằm trên lầu không xuống. Dinh quan Lại Bộ Thượng Thư không cách Am Chiêu Ẩn bao xa. Kiều sợ bị nhận diện. Cũng theo nguyên lục, chuông vàng khánh bạc không bày trên chánh điện mà để trong phòng sư Giác Duyên. Người bổn đạo được phép vào phòng sư nên thấy và nhận ra. Câu chuyện chỉ xảy ra giữa hai người. Nguy lắm! Chùa mà chứa những đồ vàn bạc ăn cắp (lại từ một nhà quan nữa!) thì có thể bị cảnh sát tới thăm bất cứ lúc nào. Sư nghe sợ nhưng không nói liền. Đợi tới khuya, bổn đạo về hét, hai thầy trò ngồi lại với nhau sư mới hỏi Kiều.
Giác Duyên thực ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Khi Kiều đến gõ Am Chiêu Ẩn, một chú tiểu ra mở cửa. Ngoài hai người chùa còn có người khác. Chi tiết 'đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau' cho thấy Trạc Tuyền được ni sư coi như một người thân, cho ở chung một phòng. Như vậy ni sư Giác Duyên rất thương Trạc Tuyền trong nguyên lục chứng tỏ Giác Duyên chưa phải là một ni sư lớn tuổi. Sư đối với Trạc Tuyền thân mật như em ruột của mình. Trạc Tuyền thường gọi Giác Duyên là 'sư huynh', 'đạo huynh' (đúng ra phải gọi là 'sư chị.) Như vậy Giác Duyên cũng còn trẻ, hơn Kiều nhiều lắm là mười tuổi.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu
Sự mình nàng mới tó đầu bày ngay:
'Bây giờ sự đã dường này,
'Phận hèn đủ rủi dù may tại người.'
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương nửa sợ bồi hồi chẳng xong.
Rỉ tai mới kể sự lòng:
'Ở đây cửa Phật là không hẹp gì.
Cửa Phật là cửa rộng. Đó là một câu nói mà ai cũng thuộc lòng. Cửa Phật là cửa rộng, không ai có thể đóng cửa lại không cho mình vào. Đó là truyền thống của Đông phương và đã đi sâu vào lòng người Việt. Một năm nọ ở Cali, ban tổ chức khóa tu đã làm việc theo kiểu Tây phương, nghĩa là khi đã đủ 150 người thì khóa sổ. Có những người điện thoại muốn ghi tên thì được ban tổ chức trả lời: 'Dạ thưa hết chỗ!"Nhưng những người muốn ghi tên không chịu thua: 'Hết chỗ rồi hả? Cho tôi biết địa chỉ đi!' Và họ nói với nhau: 'Bửa đó mình cứ kéo nhau lên, thầy sẽ không đóng cửa đuổi mình đâu mà sợ!' Đó là dân tộc tính của mình: Cửa Phật là cửa rộng. Hễ mình tới chùa thì không có ai có thể đuổi mình về được vì ai cũng công nhận cửa Phật là cửa rộng. Ban tổ chức bên Mỹ làm việc theo phương pháp Mỹ, không đi đôi được với tinh thần truyền thống: 'Ở đây cửa Phật là không hẹp gì.'
'E chăng những sự bất kỳ,
'Để nàng cho đến thế thì cũng thương.
- 'Nhưng nếu không làm gì hết, cứ ngồi yên như vậy thì một ngày kia có tai họa, sư em sẽ bị bắt bớ và tra khảo thì sư chị cũng sẽ chịu không nổi.'
'Lánh xa trước liệu tìm đường,
'Ngồi chờ nước đến nên đường còn quên.'
- 'Em phải lánh đi, chứ nếu ngồi đây mà đợi nước đến chân mới nhảy thì quê lắm!' Và do đó mà Kiều đã bị rơi trở lại trong vũng bùn một lần nữa. Bởi nghiệp còn nặng mà lòng không quyết chí tu!
Có nhà họ Bạc bên kia,
Am mây quen lối đi về dầu hương.
Nhắn sang dặn hết mọi đường,
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
Những mừng được chốn an thân,
Vội vàng nào kịp tình gần tính xa.
Kiều mang chuông vàng khánh bạc đi tỵ nạn ở nhà họ Bạc.
Nào ngờ cũng tổ bợm già,
Bạc Bà học với Tú Bà đồng môn.
Rốt cuộc là Kiều phải vương vào cái ổ nhền nhện thanh lâu một lần thứ hai.
BÀI HỌC TRẠC TUYỀN
Bởi vì Trạc Tuyền đã không có cơ hội thực sự thực tập đời sống xuất gia nên mới xảy ra những chuyện rủi ro và trầm luân trở lại. Trong truyền thống đạo Bụt đại thừa, đi xuất gia không là để trốn tránh những đau khổ trong cuộc đời. Có thể những đau khổ Kiều trong cuộc đời là những yếu tố tốt cho mình thấy được giá trị của cuộc đời và đi xuất gia. Nhưng xuất gia không phải là để trốn tránh những đau khổ đó mà là để chuyển hóa và giúp người khác chuyển hóa chúng. Đạo Bụt đại thừa nói rất nhiều đến Tâm Bồ Đề. Tâm Bồ Đề là một chí nguyện lớn. Đi xuất gia là phải có một chí nguyện lớn. Chí nguyện hoằng dương chánh pháp, độ thoát chúng sanh, đem niềm vui đến cho mọi người. Nếu không có nguồn năng lượng này thì lòng mình yếu lắm. Yếu cho đến nỗi những nội kết, khổ đau của chính mình mình cũng không chuyển hóa được. Chỉ 'thảm lấp sầu vùi' thôi thì làm sao chuyển hóa được! Nói và cười với bổn đạo đến chùa như bổn phận của một người tiếp khách, vậy thôi; khi người bổn đạo về thì mình lại đối diện với niềm đau của mình, chỉ biết khóc. Tu học như vậy thì không bao giờ thành công được. Không có quyết tâm, do đó những nội kết trong lòng mình vẫn y nguyên như cũ. Cái thảm và cái sầu đó được cộng thêm với những cái khác như cảm tưởng nghi ngờ, không có an ninh, lo sợ... Sự hành trì mười giới cũng không đàng hoàng cho nên không có gì bảo hộ cho mình. Tuy mặc áo thầy tu, ở chùa, tụng Kinh nhưng mình không được bảo hộ bởi Bồ Đề Tâm, bởi Giới Luật, bởi niềm tin. Tu như vậy có vẻ có hình thức mà không có nội dung. Nếu trong lòng mình có Tâm Bồ Đề thì mình được một sức mạnh rất lớn thúc đẩy và cho mình nhiều sinh lực. Năng lượng đó giúp mình làm việc và tu học. Mình thấy mình có sứ mạng đem tới sự thay đổi, độ mình và độ đời. Chính năng lượng Tâm Bồ Đề ấy giúp mình không vấp ngã. Mình biết rằng mình muốn làm gì và đi đâu. Trong thời tôi còn thơ ấu, mới đi tu, chưa biết gì nhiều, Phật Pháp chưa sâu sắc, chưa biết con đường thực tập, chưa biết con đường chánh niệm, chưa biết con đường chuyển hóa... nhưng trong con người của chú tiểu mười sáu tuổi ấy có một nguồn năng lượng rất lớn, một chí nguyện rất lớn. Chính nguồn năng lượng đó đã bảo vệ cho chú, cho chú sức mạnh để có thể học, tu, để có thể làm được những chuyện mà một người khác có thể không làm được. Ví dụ như bị áp đảo, khổ nhục, khó khăn mà không nản lòng. Đó là nhờ nguồn năng lượng của Bồ Đề Tâm. Trong sư cô Trạc Tuyền không có nguồn năng lượng đó. Chỉ muốn trốn thoát hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng thôi. Thêm vào, không có thầy, bạn và tăng thân nên sự thực tập của cô trong chùa chỉ có tính cách hình thức. Nói đến mười giới thì chúng ta thấy Kiều phạm vào rất nhiều giới, trong đó có các giới nói dối và ăn cắp. Đã là một sư cô rồi nhưng khi người yêu cũ tới thì vẫn không có ý thức được mình là một sư cô. Trong khi nói chuyện, khi khóc, khi cầm tay thì Trạc Tuyền cư xử không có tính cách của một sư cô. Trong uy nghi cũng như giới hạnh Trạc Tuyền vi phạm rất nhiều và cái đó đem lại những hậu quả khổ đau về sau. Giá dụ đừng ăn cắp thì đã không xảy tới chuyện người bổn đạo nhìn ra vật sở hữu của nhà Hoạn Thư. Sự thật Hoạn Thư tuy là là một người đàn bà ghen tuông cực độ nhưng vẫn có những hạt giống của từ tâm. Hoạn Thư đã cố tình để cho Kiều đi trốn. Và dầu biết Thúy Kiều đã ăn cắp chuông vàng khánh bạc mang theo. Hoạn Thư vẫn tha thứ, không truy nã. Nếu muốn truy nã thì chỉ trong vòng bốn năm tiếng đồng hồ là bà có thể tìm ra Kiều ở đâu và lấy lại những bảo vật đó rồi. chính nhờ hạt giống lành đó trong tâm mà Hoạn Thư sẽ được cứu thoát sau này. Bất cứ một tâm niệm lành nào, bất cứ một hạt giống nào mình có trong lòng đều có thể nẩy mầm và sinh hoa kết trái. Chỉ cần tưới tẩm thôi. Luật nhân quả này cũng áp dụng được trong trường hợp Kiều ăn cắp. Hành động gọi là ăn cắp đó có kết quả về tương lai. Tuy không bị bắt, bị tù nhưng chính vì hành động ăn cắp đó mà Kiều rơi một lần thứ hai nữa vào dòng khổ đau.
Rõ ràng Hoạn Thư đã cố tình không theo đuổi, đã cố tình tha thứ cho Kiều mà Kiều vẫn sợ. Chính vì sợ nên Kiều mới lâm vào tình trạng này. Sợ rằng nếu không có tiền, không có gì để hộ thân thì mình sẽ bấp bênh:
'Chỉn em quê khách một mình,
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!'
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân,
Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Hành động phạm giới này được thúc đẩy bởi lòng tham mà bởi cái sợ. Nguyên nhân cái sợ ở chỗ nào? Ở chỗ vô minh, không thấy được rằng đã là người xuất gia thì mình không nên sợ đói, sợ không có chổ ở. Nếu mình là người tu đích thực thì ở đâu người ta cũng ủng hộ mình, tới chùa nào người tu cũng thương, cũng chấp nhận. 'Nhất bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du.' Bao nhiêu là không gian, bao nhiêu là tự do. Ở đâu mình cũng ở được vì mình có tu, có quyết tâm tu. Đã quyết tâm tu ròi thì không cần phải sợ cái gì cả. Kiều chưa quyết tâm tu cho nên cái sợ bấp bênh vẫn còn. Xuất gia, cạo sạch mái tóc là một hành động rất quả quyết. Gương mặt mình tự nhiên rạng rỡ, đẹp ra. Mình biết con đường mình đi thành ra không còn những vương vấn khác. Một cánh cửa đã đóng lại và mình đã cương quyết đóng lại mãi mãi rồi thì tự nhiên có một sự giải thoát. Sự giải thoát đó bừng tỏa trong con người, nơi nét mặt của mình. Trước đó một ngày, hai ngày, người ta chưa thấy điều đó vì cánh cửa chưa đóng. Xuất gia làm ni cô mình sẽ có cái hay đó. Một cánh cửa đã được đóng rồi và mình biết mình sẽ không đi qua cửa đó nữa, với chuyện chồng con. Thúy Kiều chưa được cái đó. Kiều bước vào cửa thiền như vào một chỗ tị nạn.
Vậy thôi. Chưa quyết tâm. Tuy có cảm tình với thiền môn nhưng chưa hết lòng. Chưa nhận ra được mình là người tu hành, hoàn toàn phó hết tất cả thân mạng, tâm ý, lý tưởng mình cho đạo. Một người đã đi tu rồi là cương quyết tu học. Hành động ăn cắp ở đây không được thúc đẩy bởi lòng tham mà bởi sự sợ hãi có nguồn gốc ở vô minh và thiếu bồ đề tâm. Vô minh là không có sự sáng suốt. Có sáng suốt thì tự nhiên sẽ thấy rằng ngay ở Quan Âm Các mình cũng đã có thể có tự do và hạnh phúc rồi. Chính vì không thấy điều đó nên những vương vấn cũ của Kiều vẫn còn đó và đã biểu hiện trong giờ viếng thăm của Thúc Sinh. Tưởng rằng chỉ có hai người, không ai biết, không người người vợ cả đã đứng nghe hết tất cả. Cái sợ của Kiều vì vậy càng lớn thêm. Cái sợ càng lớn sự u mê càng to. Và Kiều lại phạm vào những lỗi lầm có ảnh hưởng đến đời sống sau này của mình. nếu không sợ đói khổ bấp bênh, chỉ đi thôi, không ăn cắp thì tới ở với sư chị Giác Duyên sẽ đâu có chuyện gì! Tị nạn xảy ra chỉ vì vướng có một chút xíu đó thôi! Chuông vàng, khánh bạc là vật chất nhưng cũng là biểu hiện của tâm thức. Mang theo chuông khánh đó không ích lợi gì cả. Mang theo chúng chứng tỏ mình mang theo vô minh, sợ hãi, nghiệp chướng. Chính chuông vàng khánh bạc đó đã đẩy Kiều xuống hố sâu một lần thứ hai.
Tất cả những đoạn này, nếu đọc với chánh niệm chúng ta sẽ thấy rất rõ giá trị của Bồ Đề Tâm, của sự trì giới và sự quyế tâm của một người tu học. Nếu chúng ta quyết tâm tu học thì những tai nạn sẽ tan biến như mây khói. Chúng ta biết con đường của chúng ta đi.
Nhất Hạnh
Theo http://butsen.net/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  NSND Lê Huy Quang: Phải biết thua người khác! 24 Tháng Tám, 2023 Thiết kế mỹ thuật sân khấu có vai trò quan trọng góp phần làm nên thà...