Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

Thả một bè lau 2

Thả một bè lau 2
SỐ HOA ĐÀO
Tuy nhiên trốn trên lầu không gặp bổn đạo sáng hôm đó nhưng Kiều vẫn không tránh khỏi bại lộ tung tích. Giác Duyên thương, không muốn Trạc Tuyền bị bắt bớ tội tình nên tìm nhà bổn đạo để gởi gắm. Không ngờ lại vô tình đẩy Kiều đi vào chỗ tai nạn.
Nào ngờ cũng tổ bợm già,
Bạc Bà học với Tú Bà đồng môn.
Thấy nàng mặn phấn tươi son,
Mừng thầm được buổi bán buôn có lời.
Trong xã hội có những người chuyên buôn bán thịt người! Giác Duyên không biết Bạc Bà cũng có hạt giống của Tú Bà. Thấy Kiều có nhan sắc thì liền nghĩ đến chuyện đem bán. Bán cách nào? Bằng cách mỗi ngày đều gieo tưới hạt giống sợ hãi sẵn có trong lòng Thúy Kiều:
Hư không đặt để nên lời,
Nàng đà lớn sợ rụng rời lắm phen.
'Nguy hiểm lắm đó cô! Ở đây thế nào cũng bị bắt. Đôi khi cảnh sát đã được thông báo, đang đi tìm mà tìm chưa ra đó thôi! Không có chuyện gì cả nhưng người ta đặt thành vấn đề. Mỗi lần nói chuyện với Bạc Bà là Kiều sợ run lên, ngủ không được. Mỗi ngày đều bị tưới như vậy, cuối cùng Kiều phải cháp nhận đề nghị của Bạc Bà: 'Cô phải đi lấy chồng và phải lấy chồng rất xa. Trong vùng này cũng không có ai dám lấy cô đâu! Cô phải lấy một người con trai ở xa cả ngàn cây số. Đi thật xa sống thì mới yên ổn được. Tôi có một thằng cháu trai ở Châu Thai, miền Chiếc Giang, mới về thăm. Nó chưa có vợ. Nếu cô chịu thì tôi giới thiệu cho. Nếu cô lấy nó thì sau đám cưới hai vợ chồng sẽ đem nhau về Chiếc Giang ở. Không ai biết mình nữa. Chỉ có cách đó mới có an ninh mà thôi. Còn ở đây thêm ngày nào thì nguy cho cô ngày đó!' Đọc đến đây chúng ta biết rõ khổ đau của Thúy Kiều là ở chỗ sợ. Cảm giác không an ninh đã có sẵn rồi. Vì sợ mà ăn cắp. Bây giờ vì sợ mà làm tâm bậy một lần nữa: chịu lấy một người mình không biết và không thương.
Chúng ta phải quán chiếu hạt giống sợ trong ta. Vì sợ cho nên nhiều khi ta làm nhiều điều rất ngu xuẩn. Nhất là sợ không có an ninh trong khi mình đang có an ninh. Buồn cười như vậy đó. Có thể là trong giờ phút này mình đang thật sự có an ninh nhiều nhất mà mình lại không biết. Những cái không an ninh nhìn đâu mình cũng thấy! Ở đây lại có người tưới hạt giống sợ đó mỗi ngày.
Mụ càng xua đuổi cho liền,
Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
Rằng: 'Nàng muôn dặm một thân,
'Lại mang lấy tiếng dữ gần lành xa.
'Khéo oan gia của phá gia,
'Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây.
'Kíp toan kiếm chốn xe dây,
'Không dưng chưa dễ mà bay đường trời.
Ghê gớm! Những câu này là những câu có tác dụng tưới tẩm hạt giống lo sợ. Bà càng nói chừng nào thì cái sợ của Kiều càng lớn lên chừng đó.
'Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
'Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
'Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
'Cũng trong thân thích ruột rà chẳng ai.
'Cửa hàng buôn bán Châu Thai,
'Thật thà có một đón sai chẳng hề.
Quảng cáo cho cháu! Không biết có phải cháu thật không?
'Thế nào nàng cũng phải nghe,
'Thành thân rồi sẽ liệu về Châu Thai.
'Bấy giờ ai lại biết ai,
'Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
- 'Tới nơi đó mới có an ninh.' Nhưng nơi đó mới chính là chỗ đoạn trường đau khổ nhất.
'Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
'Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau.'
Nàng càng mặt ủ mày chau,
Càng nghe mụ nói càng đau như dần.
Càng nghe dọa thì Kiều càng khổ. Dần là dùng sống dao hay khúc gỗ để đập cho mềm. Chúng ta hãy tưởng tượng khúc ruột của Kiều có sống dao đập lên! Mỗi lời nói tưới tẩm và dọa nạt đều có tác dụng cho người ta đau khổ, lo sợ, thắt ruột thắt gan như có sống dao đập lên.
Nghĩ mình túng đất sẩy chân,
Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
'Thiếp như con én lạc đàn,
'Phải cung rày đã sợ làn cây cong.
'Cùng đường dù tính chữ tòng.
'Biết người biết mặt biết lòng làm sao?
Con chim đã từng bị bắn rồi thì mỗi khi thấy cành cây cong là sợ. Đi lấy chồng mà không biết người đó là ai thì làm soa mà dám tin. Kiều cũng thấy tất cả sự nguy hiểm của giải pháp Bạc Bà đề nghị chứ không phải không thấy.
'Nửa khi muôn một thế nào,
Bán hùm buôn sói chắc vào lưng đâu?
Bán con cọp mà mua con chó sói thì có gì bảo đảm an ninh đâu?
'Dù ai lòng có sở cầu,
'Tâm mình xin quyết với nhau một lời.
'Chứng minh có đất có trời,
'Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì.'
Kiều vẫn còn tin ở lòng người, tin ở lời thề. 'Nếu người ta thề với đất với trời thì con sẽ đi theo.' Chúng ta phải nghĩ đến xã hội của Thúy Kiều. Thúy Kiều không sống trong cùng một xã hội với chúng ta. Không có những phương tiện về luật pháp, không có những tổ chức nhân đạo, không có những cố vấn tâm lý trị liệu... Thúy Kiều hoàn toàn bơ vơ, không có giải pháp nào nữa.

Được lời mụ mới ra đi,
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
Một nhà dọn dẹp linh đình,
Quét sân đặt trác123 rửa bình thắp hương.
Trong nguyên lục, sau khi Kiều đã chấp nhận, Bạc Bà hỏi: 'Như vậy cô tính cần phải bao nhiêu tiền sinh lễ để cưới?' Kiều nói: 'Con không cần tiền. Có lẽ nên đòi độ 20 lạng vàng thôi. Con sẽ biếu bác 5 lạng, nhờ bác đem lên chùa Chiêu Ẩn cúng 5 lạng. Còn 10 lạng con nhờ bác đi mua những vật dụng cần thiết để làm đám cưới và lo cho chuyến đi mấy ngàn cây số sắp tới.' Rõ ràng Kiều không có lòng tham gì hết. Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du không nói tới việc này.
Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng,
Quá lời nguyện hết Thành hoàng Thổ công.
'Nếu tôi mà có ăn ở hai lòng thì xin ông trời tru diệt tôi đi!' Thề rất độc. Mấy người này không có tin Trời Đất và thần thánh. Họ thề để gạt Kiều đi theo mà đem bán.
Trước sân lòng đã giải lòng,
Trong màn làm lễ tơ hồng hết duyên.
Thành thân mới rước xuống thuyền.
Thuận buồm một lá xuôi miền châu Thai.
Đi không biết bao nhiêu ngày mới đến Châu Thai, một vùng đất phía Nam, gần biển.
Thuyền vừa đổ bến thảnh thơi,
Bạc Sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
Cũng nhà hành viện xưa nay,
Cũng phường bán thịt cũng tay buôn người.
Xem người định giá vừa rồi,
Mối hàng một đã ra mười thì buông.
Theo nguyên lục, Bạc Hạnh bán Kiều được 240 lạng. Gấp 12 lần 'tiền vốn' bỏ ra (để cưới Kiều.) Khi đến bến, hai người dọn vào khách sạn. Kiều hỏi tại sao không về nhà mình mà lại dọn vào khách sạn. Dĩ nhiên anh chàng đâu có nhà ở đây, anh ta là kẻ đi buôn người mà! 'Anh đi lâu quá, sáu bảy tháng thành ra nhà có người thuê. Mình ở tạm khách sạnh vài ngày đợi người ta dọn đi rồi về.' Kiều hơi nghi. Bạc Hạnh nói là đi lo công việc, độ nửa ngày sau đưa về một người đàn ông tướng tá rất kỳ cục. Hai người vào tửu điếm trong khách sạn gọi thịt cá, cơm canh uống rượu với nhau tới khuya. Giới thiệu với Kiều này kia kia nọ. Khi người khách về rồi Kiều hỏi: 'Anh đưa người nào về hồi chiều vậy? Người gì mà trông dễ sợ thế? Giống như ăn cướp!' Bạc Hạnh nói: 'Đâu phải! Người ở miền này làm nghề đánh cá. Dân quê tướng mạo họ như vậy đó chứ đâu phải là ăn cướp!' Kỳ thực người kia là nhân viên của hành viện, đến để xem mặt Kiều. Mai lại, Bạc Hạnh nói: 'Anh về nhà trước sắp đặt rồi chờ em ở nhà. Một giờ sau sẽ có kiệu tới đón. Em không cần mang theo hành lý vì sẽ có người tới lấy sau.' Bạc Hạnh đi. Kiệu đến đón: 'Bà nên đi một mình thôi, hành lý sẽ khiêng tới sau.' Kiều đã nghi là mình đang chui vào một cái bẫy nào đây rồi nên nhất định đem theo tất cả vật sở hữu của mình và của anh chàng Bạc Hạnh (theo nguyên lục, trị giá khoảng 240 lạng vàng.) Sau khi tới hành viện nhận 240 lạng vàng. Bạc Hạnh trở lại khách sạn gom hành lý thì không còn gì cả. Tác phẩm của cụ Nguyễn Du bỏ hết tất cả những chi tiết không quan trọng đó. Ở đây chúng ta đề cập tới vì muốn biết cho tường tận gốc gác câu chuyện. Những dị biệt nho nhỏ này vẽ nên hai thần thái rất khác nhau của Đoạn Trường Tân Thanh và Phong Tình Lục.
Mượn người thuê kiệu rước nàng.
Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa.
Đây là lời mắng của cụ Nguyễn Du: 'Hèn gì mà nó tên Bạc! Bạc tình, bạc bẽo!'
Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
Đưa nàng vào lạy gia đường,
Cũng thần mày trắng cũng phường lầu xanh.
Thoát trông nàng đã biết tình,
Chim lòng khôn lẽ cất mình bay cao.
Thấy là biết rồi! Biết là mình đã bước vào cái ổ nhền nhện rồi. làm sao mà thoát ra được nữa!
Chém cha cái số hoa đào,
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi.
Hai chữ chém cha là một lời chửi. Chửi bằng thơ. Rất mạnh. Cụ Nguyễn Du chửi, tại vì cái đau xót không thể diễn tả được nữa. Chém không phải là chém ai. Giận không phải là giận ai. Chỉ phẫn nộ, ginạ cho cái số phận mình, cái số hoa đào.
Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.
Than thở, uất ức cho số phận hẩm hiu. Cứ nghĩ rằng tất cả những gì xảy ra cho mình hoàn toàn do số mệnh, không biết rằng thái độ và nhận thức của mình đã đóng một vai trò rát quan trọng. Chính mình đưa mình vào chỗ này mà mình không biết. Hoàn toàn đổ hết trách nhiệm cho hoàn cảnh mà không thấy được những hạt giống, những nguyên do tâm lý đã đóng góp đưa mình vào hoàn cảnh này.
'Nghĩ đời mà ngán cho đời' - chỉ trách cứ đời thôi!
'Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!'
Lý thuyết của cụ Nguyễn Du là có tài có sắc thì phải đau khổ bởi vì ông trời ghen ghét. 'Ông trời là cuộc đời, sự sống, thiên nhiên. Tài mệnh tương đố: tài năng và số mệnh ghanh ghét, đố kỵ nhau. Người mà có tài có sắc thì phải đau khổ nhiều. Muốn bình yên và an lạc thì phải làm như không có tài, không có sắc. Đó là kết luận tất yếu của thuyết tài mệnh tương đố.
Tiếc thay nước đã đánh phèn,
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần
Đã xoay đến thế còn vần chửa tha.
Hồng quân là ông mặt đỏ, tức là ông trời. Hồng quần là người đàn bà (ngày xưa họ mặc quần đỏ.) Mở đầu truyện ông trời xanh ghen với má hồng: 'Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.' Ở đoạn này thì ông trời đỏ lại ghen với 'người mặc quần đỏ' (người đàn bà đẹp.) 'Hồng quân với khách hồng quần. Đã xoay đến thế còn vần chửa tha,' Hoàn toàn đổ lỗi cho ông trời. Không thấy chính tâm lý và thái độ của mình cũng đóng một vai trò quan trọng trong hoàn cảnh của mình.
Lỡ từ lạc bước bước ra,
Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
Từ khi bước chân ra khỏi gia đình đã tiên đoán là mình sẽ đau khổ như vậy. Chấm dứt thời thơ ấu, có cha mẹ chị em. Chấm dứt cái thời của thiên đường tuổi thơ.
Đầu xanh có tội tình gì?
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
Mình đâu đã làm điều gì thất đức mà bây giờ phải khổ như thế này?
Biết thân chạy chẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. 
Biết không sao thoát ra khỏi cuộc đời khổ đau này, thôi thì phải chấp nhận. Phải bó tay thua trận. Biết thân chạy chẳng khỏi trời:' Anh không làm gì được đâu! Anh hoàn toàn không có khả năng để thoát ra khỏi hoàn cảnh đau khổ của anh. Sức mấy mà thoát được!' Đó là nhận thức rất nguy hiểm dẫn đến sự thua cuộc: 'Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.' Đành liều! Không cố gắng, không tranh đấu nữa. Hai câu này chứng tỏ Kiều đang hoàn toàn thất vọng, không có ý chí tranh đấu. 'Thôi, cố gắng làm chi! Tất cả những cố gắng của mình đều đã đưa đến chỗ thất bại cả. Bây giờ thôi kệ! Liều!' Rơi vào vũng bùn, không còn ý chí. Ta không thể chấp nhận thí độ này được. Dù đang ở trong đau khổ cùng cực ta cũng không nên có thái độ đó. Thua keo này phải bày keo khác. Những người đau khổ quá nhiều thường có khuynh hướng buông xuôi. Nhưng 'sông có khúc, người có lúc.' Trong đời người thế nào cũng có những giai đoạn khó khăn. Nếu trong giai đoạn khó khăn mà mình buông xuôi, thất vọng, đánh mất ý chí thì làm sao mình đi tới được những giai đoạn quang đãng, hạnh phúc?
Chúng ta hãy để ý đến nghệ thuật pha màu của cụ Nguyễn Du trong đoạn thơ này: mặt phấn - ngày xanh, hồng quân - hồng quần, đầu xanh - má hồng. Chơi chữ rất khéo.
ANH HÙNG ĐOÁN GIỮA TRẦN AI
Trong đời sống thanh lâu lần này Kiều gặp một người đàn ông khác. Thúc Sinh yếu đuối thế nào thì người này cứng rắn chừng đó. Hai người đàn ông này là hai thái cực. Tính khí khác nhau một trời một vực. Nhưng vì Kiều chưa có đủ tuệ giác và từ bi nên lần này cũng không giữ được hạnh phúc lâu bền.
Lần thâu gió mát trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình124 sang chơi.
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.125
Đội trời đạp đất ở đời,
Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông.126
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
Qua những câu thơ này của cụ Nguyễn Du diễn tả được khí phách hiên ngang của Từ Hải. Từ Hải (nghĩa là biển thương) là tên của nhà cách mạng Từ Minh Sơn, không chấp nhận được chế độ chính trị của nhà Minh nên đã đứng lên khởi nghĩa. Chỉ cần nghe âm điệu của câu thơ chúng ta cũng có thể biết được ông là người như thế nào rồi!
Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng.
Từ Hải đi qua vùng Châu Thai nghe nói có một người đàn bà tên là Thúy Kiều sắc đẹp, tài năng và phẩm cách phi thường. Tuy ở thanh lâu nàng vẫn có nhân cách của mình, không phải người đàn ông nào cũng có thể tới với nàng được. Kiều có một nhận thức về đàn ông, ít người tới mà được Kiều cho là người có nhân cách và phẩm giá. Từ Hải nghe vậy muốn đến làm quen cho biết người đàn bà này.
Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
Chỉ mới thấy nhau họ đã có cảm tình với nhau rồi.
Từ rằng: 'Tâm phúc tương cờ,
'Phải người trăng gió vật vờ hay sao!
'Bấy lâu nghe tiếng má đào,
'Mắt xanh chàng để ai vào có không?
'Một đời được mấy anh hùng,
'Bỏ chi cả chậu chim lồng mà chơi!'
Từ Hải hỏi: 'Lấy bụng dạ, trái tim mà đến với nhau thì đâu phải là người trăng gió vật vờ. Lâu nay tôi nghe tiếng cô. Đối với cô không có người đàn ông nào là đáng mặt phải không? Đời phần nhiều là hạng tầm thường, thì không đáng bỏ công chơi với họ! Phải không?' Mắt xanh là con mắt tinh đời, con mắt thấy được những người nào có giá trị và những người nào không có giá trị. Nguyễn Tịch dưới đời nhà Tấn mỗi khi tiếp khách gặp được người tri kỷ thì mắt xanh lè, còn gặp những người tầm thường thì mắt ông vẫn đục. Trong bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính có câu:
'Ta đi - nhưng biết về đâu chứ?
Đã dấy phong yên khắp bốn trời!
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ,
Uống say mà gọi: Thế nhân ơi!
Thế nhân mặt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà người cả tiếng cười.
Người ơi! Hề người ơi!
Người sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi.'
Nàng rằng: 'Người dạy quá lời,
'Thân này còn dám xem ai là thường.
'Chút riêng chọn đá thử vàng,
'Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
'Còn như vào trước ra sau,
'Ai cho kén chọn vàng thau tại mình.'
Thân phận tôi là thân phận một cô gái điếm thì có giá trị gì mà dám khinh thường người khác! Duy có điều này là thật: tôi có nỗi niềm riêng mà chưa tìm được một người tri kỷ nào để gửi gắm thông cảm. Còn khinh người, xem thường người thì: dạ không dám! Ai muốn đến thì bỏ tiền ra mà đến. Tôi đâu có quyền, đâu còn tự do gì nữa mà nói chuyện kén chọn.'
Kiều trả lời như vậy là rất thẳng, rất thật. đây là buổi nói chuyện đầu tiên giữa hai người. Gặp nhau họ nói chuyện liền chứ không có những sinh hoạt gọi là sinh lý gì cả. Vừa gặp mặt, anh chàng đã hỏi rất thẳng câu mình muốn hỏi chứ không một hai rào đón gì cả. Kiều cũng trả lời rất thật.
Từ rằng: 'Lời nói hữu tình,
'Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân.128
'Lại đây xem lại cho gần,
'Phỏng tin được một vài phần hay không?'
'Lời nói của cô, có cái tình thật bên trong. Không khách sáo. Vừa mới gặp nhau mà tôi đã có cảm tưởng là mình đã được hiểu. Cô hãy đến gần lại một chút mà nhìn để xem thử tôi là người cô có thể tin cậy được hay không?' Đây là một con người rất đặc biệt.
Thưa rằng: 'Lượng cả bao dung,
'Tấn Dương được thấy mây rồng có phen,129
'Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
'Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.'
'Nhìn đại nhân tôi biết đại nhân là người có tâm lượng và tương lai lớn. Mong sẽ nghĩ tình mà cho tôi nhờ cậy sau này.'
Nghe lời vừa ý gật đầu,
Cười rằng: 'Tri kỷ trước sau mấy người!
Tri kỷ là người hiểu mình. Chỉ cần nhìn một cái, nghe một câu là hiểu. Tìm được một người tri kỷ thật khó khăn hy hữu. Người gặp được tri kỷ là người rất may mắn, hạnh phúc.
'Khen cho con mắt tinh đời,
'Anh hùng đoán giữa trần ai mới già.
'Một lời đã biết đến ta,
'Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau.130

Từ Hải khen Kiều trong đám bụi bặm, đầy những người vũ phu mà nhận diện ra được người anh hùng thì phải là người có con mắt rất tinh. Một lời nói thôi cũng đủ chứng tỏ là hiểu được mình. Khi tìm được người tri kỷ rồi thì cái gì cũng có thể chia sẻ với nhau được, không có gì thành vấn đề cả.
Hai bên ý hợp tâm đầu,
Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân.
Hai người trở thành bạn thân, không phải do sự cầu thân mà được. Không phải muốn thân mà được thân. Thân là do có sự hiểu nhau. Vì hiểu nhau mà thành ra thân nhau.
Ngỏ lời nói với băng nhân,131
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn.
Người đàn ông này tới thanh lâu chỉ vì tò mò, muốn nói chuyện với Kiều. Khi hai bên thông cảm, hiểu nhau rồi thì họ đặt vấn đề giải phóng Kiều ra khỏi tình trạng của cô ngay lập tức. Không cần phải trải qua giai đoạn đi chơi, đi ngủ với nhau.
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn,
Đặt giường thất bảo vây màn bát tiên.132
Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng.
Hai người ra ở riêng. Trong nguyên lục Thúy Kiều hỏi tại sao Từ Hải không làm đám cưới, đưa Kiều về nhà như những người khác. Từ Hải đáp: 'anh chưa có nhà nên chưa làm chuyện đó được. Bây giờ mình sống với nhău như vậy thôi. Anh muốn đám cưới của anh là đám cướI của một vị quốc vương đi đón một hoàng hậu, có hàng chục ngàn quân lính tiền hô hậu ủng. Nhà anh phải là một dinh thự đàng hoàng chứ không phải là cái nhà bé nhỏ như vậy.' Thúy Kiều thấy nơi người con trai này một tham vọng, một chí hướng lớn. Trong con người này có cả một vùng năng lượng. Kiều biết mình chẳng qua chỉ là một yếu tố làm nên sự sống của người đàn ông này thôi và Kiều chấp nhận. Con người này không phải vì sống bên cạnh người đẹp mà quên hết lý tưởng của mình. Con người này muốn người đẹp tham dự vào lý tưởng của mình. Đó là những dữ kiện trong nguyên lục không được nhắc tới trong tác phẩm của Nguyễn Du.
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoát đã động lòng bốn phương.
Trong nguyên lục, hai người ở với nhau năm tháng thì Từ Hải muốn đi. Ở đây là nửa năm, cụ Nguyễn Du muốn cho Kiều có thêm một tháng hạnh phúc. Cụ có thêm vào nhiều chi tiết rất dễ thương. Nàng Kiều của cụ Nguyễn Du dễ thương và từ bi hơn nàng Kiều trong nguyên lục nhiều lắm bởi vì nàng Kiều của cụ có khá nhiều dân tộc tính. Tuy có những lỗi lầm nhưng cũng có những cái đẹp có tính cách Việt Nam.
Khi sống với Thúy Kiều, năng lượng của người anh hùng vẫn còn nằm nguyên trong lòng Từ Hải. Đây là một người đàn ông đặc biệt. Không muốn làm tiêu ma ý chí trượng phu của người đàn ông, người đàn bà trong trường hợp này cũng là một người đàn bà đặc biệt. Ở đây chúng ta có trường hợp rất lý tưởng.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: 'Phận gái chữ tòng.
'Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.'
Từ rằng: 'Tâm phúc tương tri,
'Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Từ Hải ra đi để xây dựng sự nghiệp. Thúy Kiều xin đi theo. Từ Hải nói: 'Đã biết tim, biết bụng của nhau rồi mà sao em vẫn chưa bỏ được thói quen của người đàn bà? Anh là con người của cách mạng, chí hướng của người con trai nơi anh bắt buộc anh phải đi. Em đi theo chỉ làm vướng bận. Phận sự của em là ở nhà và đợi.'
'Bao giờ mười vạn tinh binh,
'Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.133
'Làm cho rõ mặt phi thường,
'Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.134
'Bằng nay vốn bể không nhà,
'Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
'Đành rằng chờ đó ít lâu,
'Chầy chăng là một năm sau vội gì!'
- 'Em đợi chừng một năm. Anh sẽ về với ít nhất là một vạn quân lính. Lúc đó chúng ta mới có nhà. Bây giờ em đi theo chỉ là vướng chân anh thôi. Em phải ở nhà, làm công việc của người đàn bà nghĩ là chờ đợi. 'Con người này có đức tự tin, hoàn toàn trái ngược với anh chàng Thúc Sinh mít ướt, chỉ biết khóc thôi.
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.
Cố nhiên, bổn phận của người đàn bà là phải nắm áo lại và bổn phận của người đàn ông là phải dứt áo ra đi. Hai bên, mỗi người làm công việc của mình. tất cả những câu những chữ cụ Nguyễn Du dùng để tả Từ Hải đều tài tình, từ nhạc cho đến nghĩa đều toát lên phong thái dứt khoát, rõ ràng của một võ tướng.
ĐƯỜNG KIA NỖI NỌ
Đây là tâm trạng của Kiều sau khi Từ Hải ra đi. Trong thời gian sống với Từ Hải những tâm sự này không có dịp phát hiện:
Nàng từ chiếc bóng song mai,
Đêm thâu dằng dẳng nhặt cài then mây.
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
Cỏ cao hơn thước liễu gầy vài phân.
Không đi thiền hành, không cắt cỏ làm vườn. Đóng cửa trong phòng, gặm nhắm sự thương nhớ.
Đoái thương muôn dặm tứ phần,
Lòng quê theo ngọn mây Tần xa xa.
Xót thay huyên cỗi xuân già
Tấm lòng thương nhớ chắc là có nguôi?
Chốc đà mười mấy năm trời,
Còn ra thì đã da mồi tóc sương.
Rất đúng truyền thống nhà Nho: nhớ quê hương và cha mẹ trước. Bây giờ mới nhớ tới người yêu là Kim Trọng:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Duyên em dù nối chỉ hồng,
May ra thì đã tay bồng tay mang.
Sau tình thì nghĩa phát sinh. Với Kim Trọng thì giờ đây Kiều đâu còn cái tình bồng bột nữa, tình đã trở thành nghĩa.Tuy hai người chưa được sống với nhau nhưng sự thề bồi ngày xưa nay đã trở thành ân nghĩa. Trên căn bản này Kiều nhớ đến mối tình và bổn phận của mình với Kim Trọng. Hình ảnh ngó sen bị cắt đứt nhưng hai đoạn vẫn còn được nối với nhau bằng những sợi tơ sen đã được sử dụng một cách tài tình để nói về mối liên hệ này. Ngó ý tơ lòng. Ý là mạt-na (thức thứ bảy) và lòng là tàng thức (thức thứ tám.)
Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.

Nghĩ chuyện này, nghĩ chuyện khác. Bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang trong lòng. Dù đã từng đi tu nhưng vì không được ai hướng dẫn cả nên tâm tư vân còn hỗn độn. Không biết nắm lấy hơi thở để làm an tĩnh lại tâm hồn. Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời. Trở thành nạn nhân của hoàn cảnh và của tâm mình. Tâm mình có những lo lắng, sợ hãi, khổ đau, nội kết của quá khứ, vậy mà mình không biết cách tu, không biết cách điều phục. Ở Quan Âm Các tu không thành công mà về Chiêu Ẩn Am tu cũng không thành công. Một phần là lỗi của sư chị không dạy sư em - hoặc có thể thời gian ở Chiêu Ẩn Am quá ngắn. Nếu gặp sư chị bây giờ, ta phải nói với sư chị là lần sau nếu gặp sư em thì phải dạy liền. Ngay ngày thứ nhất người ta tới chùa phải dạy cho người ta thở và điều phục tâm tư của mình. Đừng để người ta ở tháng này tháng khác trong chùa mà không dạy người ta. Biết đâu thiền sinh tới đây chỉ ở được ba ngày hay một tuần với mình thôi. Đây là lời nhắn nhủ cho tất cả chúng ta. người nào trong chúng ta cũng là sư chị hết. Nếu sư em về nhà, về tiểu bang của mình mà 'đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời' thì đó là lỗi của sư chị. Sư em có thể là người ngoại quốc, người Việt, đàn ông, đàn bà hay em nhỏ. Tới chùa mình phải chỉ liền cho họ phương pháp điều phục hơi thở và làm an tĩnh tâm tư của họ. Khi mình làm giỏi thì mình có thể dạy giỏi. Đó là bổn phận của mình. Sư chị Giác Duyên đã không thành công lần trước. Mình phải làm hay hơn sư chị.
Chúng ta đọc lại tâm trạng Kiều:
Trước hết là nhớ quê hương:
Đoái thương muôn dặm tứ phần,
Lòng quê theo ngọn mây Tần xa xa.
Tiếp đến là nhớ cha mẹ:
Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi.
Chốc đà mười mấy năm trời,
Còn ra thì đã da mồi tóc sương.
Nhớ tới người yêu và em gái:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
Duyên em dầu nối chỉ hồng
May ra thì đã tay bồng tay mang.
Không nhớ em trai vì theo nguyên tắc nó là con trai, nó có đủ sức để tự lo.
Tấc lòng cố quốc tha hương,
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
Đó là tâm sự ngổn ngang, không có định, không có an lạc của Kiều. Cuối cùng, trở về với tình trạng hiện tại, Kiều chỉ thấy mình đang thiếu Từ Hải thôi:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
Hoàn toàn không có khả năng sống an lạc trong hiện tại thành ra đã tu hai chùa rồi mà vẫn không thành công.
CHẤT CỦI CHO MÙA ĐÔNG
Vào khoảng đầu truyện, có một câu thơ nói lên sự khiếp đảm của một con người không biết tương lai vận mệnh của mình ra sao (câu 218.) Đó là lúc Kiều đi chơi Thanh Minh về mơ thấy Đạm Tiên cho biết mình có tên trong sổ đoạn trường. Kiều thức giấc trong một tâm trạng lo sợ, hoàn toàn mù tịt về tương lai.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Thức dậy một mình giữa đêm khuya, Kiều thấy mình rất cô đơn. Nghĩ đến tương lai cô không biết cái gì sẽ xảy ra cho mình. Hoảng sợ, lo lắng. Cuộc đời đoạn trường của Kiều bắt đầu từ chỗ đó. Kiều đã bước ra khỏi thời thơ ấu thiên đường, trở thành một cô gái lớn, nhưng không biết sẽ đi về đâu. Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh. Có thể Kiều cũng sẽ đi một mình như Đạm Tiên ngày xưa; biết bao người giàu sang thăm viếng, hâm mộ sắc đẹp và tiếng hát của mình nhưng khi chết thì mình hoàn toàn trơ trọi. Khi Kiều bỏ Quan Âm Các trốn đi cũng có câu: 'Đêm khuya thân gái dặm trường'. Thức dậy nửa đêm với cảm giác cô đơn và sợ hãi.
Một mình lưỡng lự canh chầy,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
Hoa trôi bèo giạt đã đành,
Biết duyên mình biết phận mình thế thôi!
Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.
Càng lo nghĩ chừng nào thì những đợt sóng của tâm hành càng nổi lên mạnh mẽ chừng đó. Càng suy nghĩ tới sự cô đơn của mình thì sự sợ hãi lại càng lớn lên. 'Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi, Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.'
Không phải người đàn bà trong trường hợp cô đơn mới cảm thấy sợ hãi. Người đàn ông khi thấy một mình một bóng cô đơn, không ai hiểu mình cũng sợ hãi, không biết cái gì sẽ xảy ra trong đời mình. Đời một con người thế nào cũng có những giai đoạn may và những giai đoạn rủi. Chuyện may rủi này có thể không phải là ngẫu nhiên. Chúng đều có những nguyên nhân gần hay xa. Lâm vào tình trạng khó khăn mà bên mình có được một người hiểu mình, thương mình, yểm trợ cho mình thì đỡ lắm. Khi cô đơn, gặp tai nạn và khổ đau mà một thân một mình hoàn toàn cô đơn thì ta sẽ đau khổ tột độ. Nhưng nếu bên cạnh mình có vài người hay ít nhất là một người hiểu, thương nâng đỡ và bảo vệ cho mình thì hay vì khổ một ngàn lần mình chỉ khổ chừng một trăm lần thôi (hoặc có thể ít hơn.) Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta phải biết đầu tư nơi bạn bè. Cũng như biết mùa đông sắp tới thì phải cưa củi để dành cho những ngày quá lạnh. Không có củi đốt thì mình sẽ chết cóng. Chúng ta làm thế nào để có được một, hai, ba... người bạn. Những người bạn đó sẽ là những người đứng cạnh mình, nâng đỡ, bảo vệ mình trong những lúc mình đau khổ, yếu đuối nhất. Xây dựng tăng thân là một việc làm quan trọng. Tăng thân không hẳn chỉ là những người cùng thực tập theo đạo Bụt; bạn bè nuôi dưỡng, giúp đỡ nhau trong cuộc đời cũng là một hình thức tăng thân. Trong khi đọc 'Con về nương tựa nơi Tăng' chúng ta phải hiểu Tăng bảo là một viên ngọc quý. Đừng coi Tăng bảo là những phần tử đang tu tập với mình mà thôi. phải thấy ở trong đó có những người anh, người chị, người em đích thực của mình. khi mình lâm nạn thì chính những người đó đến ôm lấy mình nói: 'Chị đừng sợ! Em đừng sợ! Có em đây. Có anh đây. Không có gì mà sợ.' Mỗi ngày sống ta phải đầu tư nơi huynh đệ, nơi tăng thân của mình. Ta phải quán chiếu, thấy được những khó khăn, khổ đau của những người sống xung quanh và thực tập làm vơi đi những nỗi khổ đó. Khi bạn mình nở được một nụ cưòi thì chúng ta cũng đã đặt thêm được một viên gạch xây dựng tình bằng hữu. 'Sáng cho người thêm niềm vui, Chìều giúp người bớt khổ.' Đó cũng đồng thời là sự thực tập đầu tư cho tương lai, để dành củi cho những ngày mưa. Tất cả những gì mình làm mình sẽ được hưởng trong tương lai. Tất cả những gì mình làm mình sẽ được hưởng trong tương lai. Hai phía đều dính líu tới nhau. Tình luôn luôn đi với nghĩa. Một người thực tập thông minh thì trong đời sống hàng ngày luôn luôn đầu tư vào các bạn. Những lúc các bạn có vấn đề, yếu đuối, sa xuống thấp thì mình đứng gần, có mặt: 'Có chị đây. Em đừng lo! Có em đây. Anh đừng lo!' Và mình chăm lo thật sự cho người đó chứ không phải chỉ lo vì bổn phận của một người trong tăng thân. Làm được điều đó thì đi đâu mình cũng có cảm tưởng được nâng đỡ. Đó là lời Bụt dạy khi Ngài dạy về Tứ Vô Lượng Tâm: khi thực tập tâm Từ, tâm Bi, tâm Hỷ và tâm Xả đi đâu mình cũng thấy có sự che chở, bảo vệ và nâng đỡ. Một người thực tập 'Sáng cho người thêm niềm vui, Chiều giúp người bớt khổ' thì không có cảm tưởng cô đơn, lẻ loi trong cuộc đời. Đường dài nhưng mình đi một cách rất vững chãi an lạc. Đường càng dài thì càng được đi xa. Không sợ, không thấy 'đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.' Đường càng xa, càng đi càng thích. Dù có những khó khăn, trên đường của mình vẫn có chim, có bướm, có cây. Mình không sống một mình. Mình sống với các bạn.

Buổi sáng, sau khi ngồi thiền ta nên nhắc mình: hôm nay ta phải dâng cho người một niềm vui. Nếu buổi sáng đi qua mà ta không làm được cho một người nào vui thì ta không thực tập được sự đầu tư đó. Buổi chiều, nguyện giúp người bớt khổ, ta sẽ quán chiếu xem người huynh đệ nào đang cần sự săn sóc của ta. Và buổi tối, ngồi thiền xong, ta quán chiếu lại để thấy ngày hôm nay ta có làm công việc đầu tư ấy đàng hoàng không. Buổi sáng chúng ta đã cho ai được niềm vui? Buổi chiều ta có giúp ai được bớt khổ? Đó là một thực tập rất quan trọng. Làm điều đó cũng chính là làm cho mình. Lân mẫn, lo lắng cho họ tức là lân mẫn lo lắng cho chính mình. Đời một con người thế nào cũng có những lúc khó khăn, đen tối, bệnh tật, lo sầu. Nếu chỉ có một thân một mình, người ta sẽ không thể nào sống nổi. Người ta tự tử thường là vậy: hoàn cảnh khó quá, không thể nào vượt thoát. Nhưng nếu có được một người bạn, người anh hay người chị bên mình trong lúc đó thì ý tưởng tự tự sẽ bớt đi bảy mươi, tám mươi phần trăm. Tự tử không phải vì chán đời mà vì sợ. Sợ rằng mỗi ngày mình đều phải sống như vậy thì đau khổ quá, chịu không nổi. Sống trong chánh niệm, thấy người xung quanh đi, đứng, nói, cười... mình cũng phải nhìn để thấy rằng họ cũng đang có những nỗi khổ, niềm đau. Người nào cũng có vấn đề riêng của họ. Không phải chỉ có một mình mình mới có vấn đề thì mình trở nên khó chịu với những người xung quanh. Đôi khi thấy được những vấn đề của người xung quanh rồi mình lại thấy vấn đề của mình không quan trọng mấy và tự nhiên nỗi đau của mình nhẹ đi. Tới giúp người kia tự nhiên mình có niềm vui và vấn đề của mình cũng tan biến. Thực tập này rất quan trọng. Có những nỗi khổ đau lớn gấp trăm, ngàn lần nỗi khổ đau của mình mà mình không thấy. Mình chỉ nghĩ rằng nỗi khổ đau của mình là lớn nhất. Đó là một nguyên do khiến mình đau khổ và tự giam trói mình trong ngục tù chủ quan.
NHẬN DIỆN
Đọc truyện Kiều, ta thường tự đồng nhất hóa với những nỗi khổ đau của nhân vật chính. Nhưng ta cũng phải tập đồng nhất hóa với hoàn cảnh và những khổ đau của các nhân vật khác. Trong ta không những có chất liệu của Thúy Kiều mà còn có chất liệu của những nhân vật khác trong truyện nữa.
Chúng ta có chất liệu của sư trưởng Giác Duyên. Chúng ta rất thương sư em nhưng chúng ta làm ăn ra sao mà không dạy cho sư em cách thở, cách đi thiền hành, cách nắm vững tâm ý. Chúng ta phải thấy ni sư ở trong ta. Một người cũng có hạnh phúc, tu hành rất chân chính nhưng không biết tại sao mà không giúp được sư em về việc thực tập! Tại lo việc chùa hơi nhiều nên không có thì giờ? Hay sư chị chưa được học Kinh An Ban Thủ Ý? Như vậy thì ta càng thương. Ta nói: 'Sư trưởng Giác Duyên, em sẽ cố gắng làm hay hơn chị. Vì chị không được gặp Sư Ông nhưng em đã có dịp gặp Thầy rồi.' Nơi ni sư Giác Duyên có nhiều cái hay, cái đẹp mà có thể chúng ta chưa có. Ni sư rất thương Trạc Tuyền nhưng khi Trạc Tuyền gặp lại gia đình và được gia đình mời về thì ni sư không ngăn cản. Ni sư làm một cái chùa nhỏ là để ở chung cùng với sư em; sư em về nhà rồi thì ni sư khóa cửa, đi vân du. 'Sư đà hái thuốc phương xa, Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu.' Không biết địa chỉ của ni sư để gửi thư. Ni sư là một đám mây tự do, thong dong bay, không vướng bận. Trong túi của ni sư có rất nhiều trăng. Đi tới đâu ni sư cũng có hạnh phúc. Đó là những cái chúng ta có thể học được từ sư chị Giác Duyên.
Chúng ta có một Thúc Sinh ở trong lòng. Không nhiều thì ít, trong mỗi chúng ta đều có chất liệu đam mê và nhu nhược. Chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có hạt giống của sự đam mê nhu nhược đó. Đừng nói: 'Đâu, tôi phải đâu phải Thúc Sinh nà!' Phải công nhận sự có mặt của những hạt giống đó để có thể thực tập chuyển hóa. Thúc Sinh tuy rất thương Thúy Kiều nhưng thiếu hẳn trí tuệ. Không biết nghe lời khuyên của Kiều. Và khi Kiều bị lâm nạn, tuy rất đau khổ Thúc Sinh không có can đảm để hành động, cứu Kiều. Rất sợ vợ. Tuy có một ít sự chung tình nhưng sự chung tình đó không đủ mạnh để Thúc Sinh hành động. Những hạt giống của Thúc Sinh chúng ta đều có hết. Phải nhìn kỹ để thấy sự có mặt của những hạt giống đó mà thực tập chuyển hóa và để đừng làm như Thúc Sinh.
Hạt giống của Từ Hải trong ta cũng có. Chúng ta cũng có khí phách. Thấy những sự bất bình đôi khi ta cũng nổi giận như Từ Hải. Chúng ta cũng muốn làm cách mạng. Nói như vậy không có nghĩa là chống lại với điều vừa nói ở trên là trong ta có sự nhu nhược của Thúc Sinh. Chúng ta có hạt giống của sự nhu nhược nhưng chúng ta cũng có hạt giống của sự khí khái. Nếu chúng ta thực tập tưới tẩm những hạt giống khí khái, anh hùng thì những hạt giống đó sẽ lớn lên. Chúng ta sẽ trở nên một người có cái quyết tâm của Từ Hải. 'Quyết lời dứt áo ra đi, Gió đưa bằng tiện đã lìa dặm khơi.' Đi một cái rột. Người đàn bà không thể làm tiêu hao, lung lạc chí khí trượng phu. Đó là cái chúng ta cần phải học. Ta có Bồ Đề Tâm, có chí hướng, lý tưởng. Đừng làm theo kiểu của Thúc Sinh. Cần hoạt động, cần quyết định thì phải hành động và quyết định một cách rất mạnh mẽ. Nếu trí tuệ cho chúng ta biết hành động đó là hành động đúng, phù hợp với con đường lý tưởng của ta thì ta nhất định phải làm. Đừng để tình cảm này níu kéo, tình cảm kia xô đẩy ngày này sang tháng khác kéo dài., rốt cuộc không bao giờ ta làm được cả. Có những người ôm một cái mộng mà ba, bốn, năm mươi năm không thực hiện được. Đó là vì họ có quá nhiều tính chất nhu nhược của anh chàng Thúc Sinh. Nếu anh, chị có cái mộng nào muốn thực hiện thì phải làm như Từ Hải.
Chúng ta cũng có hạt giống của Hoạn Thư. Đừng nói: 'Ôi Hoạn Thư làm một người ghê gớm quá! Mình làm sao mà là Hoạn Thư được!' Kỳ thực Hoạn Thư và ta có những điểm giống nhau. Mỗi người trong chúng ta đều có hạt giống của sự ghen ghét trong lòng. Có khi chúng ta ganh với em, với chị, với anh, với bạn... Hạt giống ganh ghét đó, chúng ta không biết, không nhận diện ra và chúng ta lấy những lý do khác để bào chữa cho thái độ của mình. Không có ai trong chúng ta vượt ra khỏi tình trạng đó. Tôi cũng có hạt giống ghen. Trong tất cả quý vị ai cũng đều có hạt giống ghen cả. Vì vậy chúng ta phải học thực tập Hỷ Xả Từ Bi để chuyển hóa cái ghen của mình. Thấy một người có hạnh phúc, được thương, được may mắn, mình mừng cho người đó, vui cái niềm vui của họ gọi là Hỷ. Trong lòng mình có niềm vui, có sự nhẹ nhàng, thảnh thơi. Và người kia tự nhiên trở lại thương mình, chia sẻ hạnh phúc của họ cho mình. Nếu mình ghen người kia đau khổ và không thể nào chia sẻ được hạnh phúc cho mình. hạnh phúc của người kia bớt đi là vì sự ganh tuông của mình. Hoạn Thư có mặt trong ta. Nhưng Hoạn Thư không phải chỉ có ganh thôi. Trong cô cũng có lòng từ bi. Đọc tờ cung khai của Kiều, Hoạn Thư thương cho tài văn và tâm trạng của Kiều và đã cho phép Kiều đi tu, khỏi phải làm thân tôi tớ. Nghe lỏm được câu chuyện giữa Kiều và Thúc Sinh, Hoạn Thư vẫn lờ đi, không canh gác, cố ý để Kiều đi trốn. Kiều trốn đi, mang theo chuông vàng khánh bạc, Hoạn Thư vẫn không theo bắt, dù cô có đầy đủ phương tiện để truy nã. Hành động nhân từ đó đã có kết quả rất tốt mà chúng ta sẽ thấy trong những đoạn tới. Từ Hoạn Thư chúng ta cũng học được bài học nhân ái chứ cô không phải là một người bỏ đi. Tất cả chúng ta, giác ngộ nào cũng có những hạt giống tốt và xấu. Chúng ta phải chấp nhận nhau và giúp đỡ nhau để những hạt giống tốt trong nhau phát triển và những hạt giống xấu ngày một yếu dần đi. 
Rồi những Tú Bà, Mã Giám Sinh, Ưng, Khuyển... đừng nói đó là những phường vô lại. Chúng ta cũng có hạt giống của họ. Mỗi người Việt đều có hạt giống của Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông... mà cũng có hạt giống của Trần Ích Tắc, Hồ Quý Ly... Nếu sống trong một môi trường không thuận lợi thì chúng ta sẽ thành ra Trần Ích Tắc. Và nếu được sống trong một hoàn cảnh gia đình và xã hội thuận lợi thì chúng ta sẽ thành ra những Lê Thái Tổ, Trần Thái Tông. Đừng nghĩ rằng bọn Sở Khanh, Ưng, Khuyển, Tú Bà là nên đem đi chém hết. Phải thấy rằng hoàn cảnh giáo dục, gia đình và xã hội của họ đã đưa họ tới chỗ đó. Chúng ta phải có lòng từ bi với những người này và phải chăm sóc họ một cách đặc biệt..
Đọc truyện Kiều theo phương pháp thiền quán, chúng ta phải đi vào da thịt từng nhân vật. Chúng ta sẽ thấy rằng người nào cũng có mặt trong ta cả. Họ ở ngay đó, trong đời sống hàng ngày. Ta chỉ đưa tay ra là đụng. Bằng chánh niệm chúng ta nhận diện liền lập tức những hạt giống của những nhân vật đó trong ta và trong người xung quanh. Ta phải thấy được họ và phải thấy một cách sáng suốt để có thể giúp họ và có thể phản chiếu lại nội tâm ta. Thấy để bắt chước những cái hay, cái đẹp cũng như tránh lập lại những lỗi lầm của họ. Và với tình thương Từ Bi Hỷ Xả, ta tìm cách giúp họ.
57 Sai nha: nhân viên chính quyền.
58 Già giang: cái gông (già) gông vào cổ (giang)
59 Giậm: đồ dùng đánh cá; giàm: bẫy bắt chim hay bắt các loài thú.
Đan giậm giật giàm: ý nói lừa, đánh bẫy cho nên tội.
60 Nghi: ông ta (ông họ Chung), dấu hỏi chứ không phải dấu ngã.
61 Tấc cỏ ba xuân: bài Du Tử Ngâm của Mạnhöng Giao có câu: Thùy ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy = Ai nói rằng cái lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba tháng mùa xuân. Đó là lời người đi chơi xa (du tử) nhớ mẹ. Tấc cỏ ví cho người con: ba xuân ví như cha mẹ.
62 Nàng Oanh: Thuần Vô Úy, cha của nàng Đề Oanh phạm lỗi lớn, Đề Oanh viết thơ tâu lên vua Hán Văn Đế xin thế tội cho cha. Vua Văn Đế đọc biểu cảm động và tha tôi cho cha cô.
63 Ả Lý: Nàng Lý Ký nhà nghèo, bán mình nuôi cha mẹ. Theo Sưu Thần Kiểm soát: Hang núi ở quận Mân Trung, đất Đông Việt có con rắn to, hàng năm dân phải cúng cho thần rắn một đồng nữ. Có một năm, viên quan lệnhöng tìm đồng nữ mà chẳng được ai. Nàng Lý Ký ở huyện Tương Lạc muốn nhân dịp này bán mình lấy ít tiền nuôi cha mẹ, trốn đến cửa quan tự bán mình để nộp thần rắn, và xin được một thanh gươm tốt, một con chó dữ. Đến ngày nộp thần rắn, Lý Ký cầm gươm, dắt chó ngồi chờ sẵn trong miếu. Con rắn khổng lồ bò ra, Lý Ký thả chó ra cắn, còn nàng theo dùng gươm chém. Rắn chết, Hán Vũ Đế biết chuyện, mời nàng về cung lập làm hoàng hậu.
64 Tinh kỳ: Tinh kỳ hôn kỳ giã, hôn giả, kiến tinh nhi hành = Tinh kỳ là kỳ cưới vợ, đám cưới trông thấy sao thì đi
65 Trúc mai: tên của hai giống tre.
66 Dạ đài: đài đêm, chỉ âm phủ.
67 Rén chiềng: thưa trình mà có ý rụt rè. Chiềng là do chữ trình đọc trạnh ra.
68 Quản huyền: ống sáo, dây đàn (chỉ tiếng sáo, tiếng đàn rước dâu.)
69 Mạt cưa mướp đắng: người lấy mạt cưa giả làm cám đem bán, gặp kẻ lấy mướp đắng giả làm dưa chuột; chỉ những phường bịp bợm, chơi với nhau rất cân xứng.
70 Chén đồng: Chén rượu thề. 'Người dưới nguyệt chén đồng' là người cùng uống rượu và thề thốt dưới mặt trăng. Đây là Kim Trọng.
71 Người tựa cửa: người mẹ tựa cửa trông chờ con. Chiến quốc sách: Mẹ Vương Tôn Giả bảo ông: Nhữ triêu xuất nhi vãn lai, tắc ngô ỷ môn nhi vọng nhữ; nhữ mộ xuất nhi bất hoàn, tắc ngô ý tư nhi vọng nhữ = Con sáng sớm đi, chiều mới về thì mẹ đứng tựa cửa mà ngóng trông con: chiều tối ra đi thì mẹ tựa cổng làng mà ngóng trông con
73 Quạt nồng ấp lạnh: quạt khi trời nóng, ấp chiếu chăn cho ấm: khi trời rét, đó là cử chỉ săn sóc của người con hiếu, do chữ đông ôn hạ sanh trong Lễ Ký.
73 Hạ lai: Sân nhà Lão Lai tử, chỉ nhà cha mẹ. Theo Hiếu tử truyện, Lão Lai tử thờ cah mẹ rất có hiếu, đã ngoài 70 tuổi ông còn bày trò chơi trẻ con, mặc áo năm màu ra múa cho cha mẹ coi rồi giả đò té khóc như trẻ con để cha mẹ cười. Đó là gương người hiếu hạnh.
74 Gốc tử: gốc cây tử. Kinh thi: Duy tang dữ tử, tất cung kinh chỉ = Nhớ đến cây dâu với cây tử (cây do cha mẹ trồng) thì nên sanh lòng cung kính. Người sau nhân đó gọi là quê hương, nơi cha mẹ ở là tang tử . Gốc tử đã vừa người ôm: ý nói cha mẹ đã già.
75 Ý cả câu: Thúy Kiều lìa cửa lìa nhà, như con chim lạc đàn, phải mắc vào lầu xanh, mang lấy cái nợ làm gái điếm
76 Kết cỏ ngậm vành: chỉ sự báo ơn sâu. Kết cỏ: theo Tả Truyện, Ngụy Vũ Từ coù người thiếp trẻ đẹp, không có con, ngày thường dặn con là Ngụy Khỏa: 'Nếu chẳng may có chuyện gì hoặc ốm mà chết thì con lo gả chồng tử tế cho nàng.' Nhưng khi Vũ Từ ốm nặng sắp mất lại dặn Khỏa: 'Đem vàng chôn theo ta.' Khi Vũ Từ qua đời, Ngụy Khỏa cứ theo lời dặn của cha khi sáng suốt mà đem gả chồng cho nàng. Sau Ngụy Khỏa đánh nhau với quân Tần ở Phụ Thị, Khỏa thấy một ông già nắm từng bụi cỏ mà kết lại với nhau. Ngựa của tướng bên Tần là Đỗ Hồi bị vướng ngã, Đỗ Hồi bị Khỏa bắt. Đêm hôm ấy Ngụy Khỏa nằm mộng thấy ông già kết cỏ đến nói: 'Tướng quân biết theo lời dạy sáng suốt của tiên nghiêm mà gả chồng cho con gái tôi. Vì vậy tôi kết cỏ cho ngựa Đỗ Hồi ngã để báo ơn sâu của tướng quân.' Ngậm vành: Theo Tục Tề hài ký dẫn trong Hậu Hán Thư, Dương Bảo đời Hậu Hán đi chơi thấy một con chim sẻ vàng bị con chim cắt đánh rơi xuống đất, bắt đem về nuôi đến khi chim sẻ khỏe mạnh thì thả cho chim bay đi. Đêm hôm ấy, có một đứa bé mặc áo vàng đến trước Bảo, lạy nói: 'Cậu là người nhân ái đã cứu sống tôi, thực cảm cái ơn đó nên nay đem bốn chiếc vòng ngọc đến tạ.'
77 Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách: ba mươi sáu cách để giải quyết thì cách trốn đi là hay nhất.
78 Hóa nhi: ông trời, có khi gọi là trẻ tạo.
79 Đà đao: miếng võ hiểm lừa cho người ta đuổi rồi quay lại chém bất ngờ. Đây nói lừa đảo, đánh lừa.
80 Nghỉ: anh chàng
81 Người soi: người sành sỏi.
82 Gió lá cành chim: ý nói cảnh tấp nập đưa đón khách chơi. Nàng Tiết Đào đời Đường lúc bé có câu thơ Chi nghênh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong = cảnh đón những con chim nam bắc, lá đưa những ngọn gió qua lại. Cha nàng xem bài thơ không vui vì biết con về sau không ra gì.
 
83 Tống Ngọc và Tràng Khanh là những người đẹp trai, văn nhân tài tử nhưng có tính trăng hoa.
84 Trân cam: những thức ăn quý, ngon ngọt là những vật phụng dưỡng cha mẹ già của người con hiếu.
85 Liễu Chương Đài: Theo Toàn Đường thi thoại Hàn Hoành đời Đường giỏi thơ, kết duyên với một người con gái ở phố Chương Đài thành Trường An là Liễu Thị. Hàn về quê thăm nhà. Kinh đô có biến, Liễu Thị bị tướng giặc cướp mất. Khi loạn được dẹp yên, họ Hàn cho người đem vàng bạc và bài thơ Chương Đài Liễu để dò tin Liễu Thị: Chương Đài Liễu. Chương Đài Liễu, tích nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thùy, giã ưng phan chiết tha nhân thử = Cây liễu ở Chương Đài, Cây liễu ở Chương Đài, ngày trước xanh xanh, nay có còn không? Cho dù cành dài còn buông rủ như cũ thì có lẽ cũng đã vin bẻ vào tay người khác mất rồi! Sau Liễu Thị được trở về đoàn tụ với Hàn Hoành. Liễu Chương Đài chỉ người yêu xa cách.
86 Bốc rời: bốc tiền tiêu không cần đếm. Ý nói tiêu không tiếc tiền
87 Thang lang: nước hoa lan thơm nấu sôi để tắm.
88 Mây vàng: theo Tự Điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh: 'Có câu thơ cổ của tác giả người đất Thục sang ở đất Tần: 'Thục trung đa hoàng vân' nghĩa là trong đất Thục có nhiều mây vàng, do đó nói nhớ quê nhà người ta thường nói nhớ mây vàng. Bản của KOM, BKD và NKH thì chép 'mây Hàng' lấy tích Địch Nhân Kiệt lên núi Thái Hàng thấy mây trắng thì nói nhà cha mẹ ở đưới đám mây đó. Nhưng 'mây Hàng' thì không đúng vì điển Địch Nhân Kiệt nói mây trắng chứ không phải mây ở núi Thái Hàng, núi Thái Hàng là chỗ Nhân Kiệt đứng nhìn thấy đám mây ở nơi khác.
89 Thu ba: sóng thu, hai con mắt người đẹp trong sáng như nước thu gợn sóng.
90 Sân ngô: sân có trồng cây ngô đồng. Lá cây ngô đồng đổi sang màu vàng là dấu hiệu của mùa thu
91 Dậu thu: dậu hoa mùa thu. Gió sương: chồi hoa chịu được sương tức là chồi hoa cúc (hoa mùa thu).
92 Gối yên: gối dựa vào cái yên ngựa của các ông lão đời trước hay dùng. Xuân đường: người cha.
93 Mặt sắt đen sì: do chữ thiết diện chỉ ông quan nghiêm nghị, cương trực.
94 Ba cây: (tam mộc) là cái khóa tay (nữu), gông cổ (già) và cùm chân (giới).
95 Đào hoen quẹn má: mặt mũi thất sắc, nước mắt giàn giụa hoen cả má đáo. Liễu tan tác mày: nhíu mày chịu đau, lông mày lá liễu không còn ra hình lá liễu nữa.
96 Lầm cát: bùn và cát.
97 Vóc sương: khổ người nhẹ, thanh, trong trắng. Hình thù của Thúy Kiều tiều tụy khi bị hình phạt như gương không sáng nữa vì nước thủy ngân mờ đi, như cành mai bị sương tuyết.
96 Giải vì: mở vòng vây.
99 Có bản ghi: 'giả lại thịnh Đường', tức là còn hay hơn cả thơ đời hưng thịnh của nhà Đường nữa.
100 Châu Trần: họ Châu và họ Trần đời đời làm thông gia với nhau; đây là nói đến chuyện hôn nhân tốt đôi vừa lứa.
101 Cổ xúy: nhạc bát âm. Cổ là tên gọi chung những nhạc khi dùng để đánh như chiêng, trống. Xúy là những nhạc khí để thổi lên như kèn, sáo.
102 Cát lũy: dây leo, chỉ người vợ lẽ. Tao khang: bã rượu và cám gạo, những thức ăn hèn mọn, chỉ người vợ lấy từ buổi nghèo túng khốn khổ tức là người vợ cả.
103 Quan hà: cửa ải và sông, tượng trưng cho chuyến đi xa. Chén quan hà là chén rượu tiễn biệt.
104 Xuân đình: chỗ chơi, Cao đình: chỗ tiễn biệt.
105 Sông Tần: tượng trưng cho sự cách biệt. Có câu hát cổ (bài ca Vị Tây): 'Dao vọng Tần xuyên can trường đoạn tuyệt' = nhìn xa thấy nước sông Tần nát gan dứt ruột vì sự ly biệt.
106 Dương-quan: tên của một cửa ải phía tây nam huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, tượng trưng cho sự ly biệt.
107 Đằng: gác Đằng Vương (Đằng Vương Các.) Gió gác Đằng là chỉ duyên may hiếm có, cơ hội thuận lợi..
108 Tẩy trần: rửa sạch bụi. Tục cổ, khi có người ở xa mới đến, đặt tiệc mời ăn hay biếu vật gì cho người đó là tẩy trần, ý nói để rửa sạch những nỗi gian lao vất vả dọc đường.
109 tuần vược: do chữ thuần lô, rau thuần cá vược là hương vị của quê hương.
110 Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ công tri thu = một lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu sang. Ý cả câu: Mùa thu đến.
111 Côn quang: gậy gộc, chỉ bầy du côn, cầm đầu là hai anh chàng Ưng và Khuyển.
112 Lục trình: đường bộ.
113 Phi phù tí quỷ: đốt một đạo bùa triệu thỉnh ma quỷ tới. Thông huyền: hiểu thấu được những lẽ huyền vi trong vũ trụ.
114 Tam đảo: ba hòn đảo tiên to như núi Bồng lai. Phương Trượng và Doanh Châu. Cửu tuyền: chín suối, chỉ âm phủ.
115 Cánh suyền: cánh buồm đi nhanh (suyền = đi nhanh.)
116 Hồn mai: linh hồn cây mai. Theo Long thành lục, Triệu Sư Hùng đời Tùy qua chơi núi La Phù. Trời chiều sắp tàn, thấy trong rừng có một quán rượu. Hùng ghé vào thấy một người con gái đẹp, trang điểm thanh nhã, mặc đồ trắng ra tiếp. Hai người nói chuyện, uống rượu hương thơm như tỏa vào người. Tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới gốc cây mai đang nở rộ hoa. Đó cũng chỉ là một giấc mộng. Hồn mai trong câu này chỉ người đẹp trong cơn mê.
117 Bàn hoàn: nghĩ quanh nghĩ quẩn, băn khoan lo lắng.
118 Thù: chủ nhân rót mời khách. Tạc: khách rót mời lại chủ nhân. Chén tạc chén thù: người này mời mọc người kia uống.
119 Trì hồ: cầm bầu rượu (đứng hầu rượu).
120 Xem chuyện Tùng của Nhất Hạnh trong quyển Cửa Tùng Đôi Cánh Gài.
121 Điểm nguyệt: điếm cỏ, lều cỏ dưới trăng. Cầu sương: cầu ván có sương ướt. Thơ Ôn Đình Quân: Kê thanh mao điểm nguyệt, Nhân tích bản kiều sương = Tiếng gà gáy nơi điếm cỏ dưới trăng, vết chân người in trên cầu ván có sương ướt.
122 Đàn Việt: danna, cúng dường; người đàn việt là người cư sĩ đến chùa cúng dường. Cửa Già: chốn Già Lam, tức là tu viện.
123 Trác: bàn thờ, bàn hương án.
124 Biên đình: miền biên giới.
125 Côn: võ dùng gậy; quyền: võ tay không. Lược thao: do chữ lục thao tam lược là tên những bộ binh thư thời xưa, chỉ chung phép dụng binh, kế hoạch quân sự.
126 Việt Đông: ở miền nam Trung Hoa.
128 Bình Nguyên Quân: tên Triệu Thắng, con Linh Vương nước Triệu đời Chiến Quốc, là người hiền thích tân khách, tính hào hiệp, trong nhà có đến mấy nghìn khách ăn. Ông làm tể tướng cho Huệ Văn Vương và Hiếu Thành Vương, ba lần thôi không làm tể tướng, ba lần trở lại địa vị, được phong đất ở Đông Vũ Thành. Thơ Cao Thích: Vị tri can đảm hướng thùy thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân = Chẳng biết gan mật hướng vào ai cho phải, khiến người lại nhớ Bình Nguyên Quân. Đây nhân câu trên, Thúy Kiều nói: 'Biết đâu mà gởi can trường vào đâu' nên Từ Hải lấy 'câu Bình Nguyên Quân' mà đáp lại cũng là có ý tự ví mình.
129 Tấn Dương: tên đất, nơi Đường Cao Tổ từ đó dấy binh đánh nhà Tùy dựng nghiệp đế. Ý cả câu: Thúy Kiều tin rằng có phen Từ Hải làm nên được nghiệp đế vương như Đường Cao Tổ
130 Chung: hộc lúa: tứ: xe chở ngườI, vật dụng. Sự giàu sang được đo bằng lúa và xe.
131 Băng nhân: người làm mai.
132 Giường thất bảo: giường có khảm bảy thứ báu (vàng, bạc, phá lê, xà cừ, trân châu, mã não, đồI mồi.) Màn bát tiên: màn thêu hình tám vị tiên (Chung Ly, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quày, Tào Quốc Câu, Lữ Đồng Tân, Lam Thái Hòa, Hà Tiên Cô.)
133 Chiêng: nhạc khí bằng đồng, hình tròn có múm ở giữa để đánh. Tinh: cờ xí
134 Nghi gia: về nhà chồng.
CHƯƠNG 3: HẠNH PHÚC CHÂN THẬT
BÕ LÚC PHONG TRẦN
Đêm ngày luống những âm thầm,
Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương.
Ngất trời sát khí mơ màng,
Đầy sông kình ngạc chật đường giáp binh.135
Chiến tranh tràn tới. Không khí chiến tranh bao phủ cả một vùng.
Người quen thuộc kẻ chung quanh,
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
Nàng rằng: 'Trước đã hẹn lời,
'Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa!'
Còn đang dùng dẳng ngẩn ngơ.
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng la.136
Giáp binh kéo đến quanh nhà,
Đồng thanh cùng gởi: 'Nào là phu nhân?'
Hai bên mười vị tướng quân,
Đặt gươm cởi giáp trước sân khấu đầu.
Cung nga thê nữ nối sau,
Rằng: 'Vâng lệnh chỉ rước chầu vu quy.'
Từ Hải đưa một đạo binh đi đón vợ. Kiều đã xuống chó, bây giờ lên voi.
Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,137
Hoa quan giấp giới hà y rỡ ràng.138
Dựng cờ nổi trống lên đường,
Trúc tơ139 thổi trước kiệu vàng kéo sau.
Đây là đám cưới mà Từ Hải mong muốn. Lời hứa đã được thực hiện. Từ Hải đã thành công và trở về đóng binh ở gần đó.
Hỏa bài tiền lộ ruổi mau,140
Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.141
Kéo cờ lũy phát súng thành,
Từ công ra ngựa thân nghênh cửa ngoài.
Lữa mình là vẻ cân đai,
Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
Từ Hải thân hành ra ngoài cửa đón. Vẫn còn dáng dấp của người anh hùng đã gặp Kiều ngày xưa ở thanh lâu.
Cười rằng: 'Cá nước duyên ưa!
'Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
'Anh hùng mới biết anh hùng,
'Rày xem phòng đã cam lòng ấy chưa?'
Nàng rằng: 'Chút phận ngây thơ,
'Cũng may dây cát được nhờ bóng cây!
- 'Em chẳng qua chỉ là một loại dây leo nương nhờ vào được một cây tùng mạnh khỏe mà leo lên cao.' Cát là dây leo, thường gọi là cát đằng. Có một bộ lục tên là Cát Đằng Lục do một thiền sư sáng tác. Tác phẩm Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách trong bộ luật Sa Di và Sa Di Ni có câu: 'Khởi bất kiến ý tùng chi cát, thượng tủng thiên tầm, phụ thác thắng nhân, phương năng hữu ích.' Nghĩa là: Há không thấy những dây leo nương vào cây tùng mà lên cao được cả ngàn tầm; nương tựa vào những người lớn thì mới có ích lợi trong sự tu tập.
'Đến bây giờ mới thấy đây,
'Mà lòng đã chắc những ngày một hai.'
- 'Bây giờ thì sự vinh quang đã rõ ràng nhưng em đã thấy được nó từ ngày mới gặp nhau!' Chứng tỏ: 'Em là tri kỷ duy nhất của anh. Em có con mắt rất tinh.' Trong lòng nói vậy nhưng bên ngoài thì vẫn có vẻ khiêm nhường lắm: 'Em đâu có giá trị gì đâu!'
Cùng nhau trông mặt mà cười,
Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
Tiệc bày thưởng tướng khao binh,
Om thòm trống trận rập rình nhạc quân.
Vinh hoa bỏ lúc phong trần,
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
Đó là những ngày Kiều có danh, có lợi, có tình, có hạnh phúc. Nhưng than ôi, tình trạng này không được lâu dài!
ÂN OÁN RẠCH RÒI
Trong quân có lúc vui vầy,
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:142
'Khi Vô Tích, khi Lâm Truy,
'Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương.
'Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
'Chút còn ân oán đôi đường chưa xong.'
Kiều muốn đền ơn và báo oán. Những hạt giống đó cũng có mặt trong ta. Chúng ta không muốn giết hay bỏ tù người làm ta khổ nhưng khi thấy người đó bây giờ khổ thì trong lòng ta cũng thấy hơi đã. Đó là hạt giống của sự báo oán. Tất cả chúng ta đều có hạt giống đó. Phải công nhận như vậy. Học Từ Bi Hỷ Xả chúng ta có thể chuyển hóa hạt giống đó. Tôi đã thực tập. Có những người làm khổ tôi rất nhiều trong quá khứ. Đôi khi thấy những người đó khổ thì ban đầu mình nói thầm thầm: 'Cho đáng!' Ngày xưa thì có lúc như thế, nhưng bây giờ thì khác. Tôi đã chuyển hóa. Tôi không muốn những người làm khổ mình ngày xưa khổ. Nếu quý vị đọc sáu điểm tôi đề nghị cho tương lai Phật giáo Việt Nam thì sẽ thấy một trong sáu điều là: 'Phật giáo Việt Nam không có kẻ thù. Phật giáo Việt Nam muốn được cộng tác với tất cả những thành phần khác của dân tộc, dầu với những người ngày xưa đã từng đàn áp Phật giáo và làm cho Phật giáo điêu đứng.' Điều này được bộc lộ rất rõ, đúng với tinh thần Đại Xả của Tứ Vô Lưọng Tâm.
Đọc truyện Kiều, chỗ nào chúng ta cũng thấy thương xót Kiều nhưng tới chỗ Thúy Kiều trả thù thì ta thấy Kiều chưa giỏi. Đã khổ nhiều như vậy mà chưa hiểu được những người kia. Tuy ác độc, gian manh nhưng họ cũng là nạn nhân của gia đình, xã hội và giáo dục của họ. Kiều chưa thấy được điều đó. Cùng tu học với nhau bây giờ, chúng ta có cơ hội làm được chuyện mà ngày xưa Thúy Kiều đã không làm được, tức là thương xót được những người đã làm khổ mình bởi vì họ cũng khổ. Ý định đền ơn thì tốt nhưng ý muốn trả thù thì không xứng đáng; nhất là mình đã từng được đi tu rồi.
Từ công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Anh chàng nghe nói giận lắm. Muốn trừng phạt tất cả những người đã làm cho người yêu của mình đau khổ da diết ngày xưa. Ăn thua là do người đàn bà cả. Người đàn bà cứ tỉ tê nói ra nói vào một hồi là người đàn ông xiêu lòng. Anh hùng vậy đó, nhưng nếu có một người đàn bà yếu đuối hờn ganh bên cạnh thì có thể những hạt giống vô minh sẽ nổi lên. Đó cũng là thương nhưng tình thương ở đây chưa phải là tình thương của Từ Bi Hỷ Xả. Tình thương này còn có chất liệu của vô minh, phân biệt, kỳ thị. Chưa có chất liệu Xả.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,143
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
Đạo ra Vô Tích đạo vào Lâm Truy.
Đi bắt hết những người làm khổ Kiều và mời tất cả những người ân của Kiều về. Vô Tích và Lâm Truy là hai nơi mà Kiều đã chịu khổ rất nhiều. Lâm Truy là nơi Kiều vào thanh lâu lần đầu. Vô Tích là chỗ Kiều bị bắt làm đầy tớ. Các tướng cũng được lệnh bảo vệ cho gia đình họ Thúc (Thúc ông và người nhà) không cho quân lính và dân chúng vào phá. Như vậy là quân lính của Từ Hải có thể phạm vào những nhà khác. Đó là cảnh chiến tranh. Thật nguy hiểm.
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
Mụ quản gia vãi Giác Duyên,
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
Thệ sư kể hết mọi lời,
Lòng lòng cùng giận người người chấp uy.
Thệ sư là lễ tế cáo Trời Đất và Quỷ Thần và hiểu dụ tướng sĩ trước lúc xuất quân. Lễ này có mục đích nêu ra rằng đây là một cuộc hành quân có chính nghĩa, không phải là việc đi cướp bóc, tàn hại nhân dân. Đó là đạo đức chính trị và quân sự ngày xưa. Con người làm chiến tranh nhưng phải biết rằng ngoài con người còn có Trời, Đất, Quỷ, Thần. Không nên nghĩ rằng ngoài con người ra không có cái gì cả. Đó là một nét thuộc về văn minh Đông phương. Hy vọng trong tương lai những nước Tây phương mỗi khi muốn đem quân đi đánh ở đâu cũng sẽ làm lễ Thệ Sư nói cho quần chúng. Quỷ Thần, Trời Đất biết rõ lý do.
Sau khi tướng sĩ và quân lính nghe những chuyện Kiều kể thì ai nấy đều giận. Ai cũng muốn chấp hành và thực hiện cho được mục đích của cuộc ra quân.
Đạo trời báo phục chỉn ghê,144
Khéo thay một mẻ tóm về đầy nơi.
Quân trung gươm lớn giáo dài,
Vệ trong thị lập cơ ngoài song phi.145
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Bác đồng chật đất tinh kỳ rợp sân,146
Trướng hùm147 mở giữa trung quân,
Từ công với phu nhân cũng ngồi.
Tiên nghiêm148 trống chửa dứt hồi,
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.149
Những người có tên điểm danh được dẫn ra trước cửa quân.
Từ rằng: Ân oán hai bên,
'Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh.'
Nàng rằng: 'Muôn cậy uy linh,
'Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.150
'Báo ân rồi sẽ báo thù.'
Từ rằng: 'Việc ấy để cho mặc nàng.'
Cho gươm mời đến Thúc Lang,
Mặt như chàm đổ mình dường giẻ run.
Mặt tái xanh, người run rẩy. Đúng là tướng mạo, là căn cước của anh chàng.
Nàng rằng: 'Nghĩa trọng tình non,
'Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?
'Sâm Thương151 chẳng vẹn chữ tòng,
'Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?
'Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
'Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.
Dầu không sống với nhau suốt đời nhưng vẫn còn tình nghĩa cũ. Kiều biết ơn Thúc Sinh đã kéo mình ra khỏi ổ nhền nhện và cho mình gần một năm hạnh phúc. Nhưng:
'Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
'Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
'Kiến bò miệng chén chưa lâu,
'Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!'
Đó là một lời dọa.
Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm.
Sợ quá! Xin đừng cười, bởi chàng Thúc Sinh đang có mặt trong mỗi chúng ta.
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
Sợ là sợ cho Hoạn Thư, mừng là mừng cho Thúy Kiều. Anh chàng được Kiều trả ơn có thể sẽ bị mất vợ.
Mụ gia sư trưởng thứ hai,
Thoát đưa đến trước vội mời lên trên.
Mụ già là bà quản gia ở nhà họ Hoạn, Sư Trưởng là sư chị Giác Duyên. Hai người vừa đến thì được Kiều mời lên trướng liền.
Dắt tay mở mặt cho nhìn:
'Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi!
'Nhớ khi lở bước sẩy vời,
'Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Kiều có hạt giống của sự biết ơn rất lớn. Nhớ mãi những điều người ta giúp mình. Chúng ta nên biết bất cứ một hạt giống tốt nào mình gieo, một cử chỉ thương yêu lân mẫn nào mình làm đều có kết quả. Kết quả trong lòng mình và trong lòng người khác.Thực tập 'Sáng cho người thêm vui. Chiều giúp người bớt khổ,' bảo hộ sanh mạng và thực tập Từ Bi Hỷ Xả trong đời sống hàng ngày để đầu tư cho tương lai, làm như thế không phải chỉ cho riêng mình mà cho tất cả mọi người.
'Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
'Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân!'
Cúng dường sư chị Giác Duyên và bà quản gia mỗi người một nghìn lạng vàng. Không biết sư chị dùng vàng này để làm gì? Nhưng bà quản gia thì chắc chắc sẽ biết cách xài. Bà sẽ tìm cách thoát khỏi thân phận làm việc cho người và ra sống riêng. Ngày xưa Hàn Tín bên Tàu trong thời đói khổ gặp một bà già tên là Phiếu mẫu cho ăn cơm. Sau này làm nên, Hàn Tín trả ơn bà một nghìn lạng vàng. Những khi người ta khổ đau hoặc lỡ bước mà giúp người ta là rất quan trọng. Một bát cơm thôi nhưng đáng giá ngàn vàng. Không thể nói một bát cơm ngoài chợ chỉ bán có ba hay mười francs. Một bát cơm có khi là ba Francs nhưng có khi là một ngàn lạng vàng, có khi lại không có giá trị gì hết. Đưa một bát cơm mà nói nặng nhẹ thì bát cơm đó không có một giá trị gì. Với tấm lòng thương yêu, săn sóc, nhường cơm xẻ áo cho người thì bát cơm đó đáng giá ngàn vàng. Có những người Việt Nam trong những trường hợp khổ cực, cha trong trại học tập cải tạo (Sơn La hay Ích Khiếu), mẹ bị bịnh... bên này chúng ta nhường cơm xẻ áo gởi về giúp họ, sau này mỗi khi nhớ tới họ rất cảm ơn mình. Nhưng có người sau khi qua được bên này lại nói: 'Gửi cho mấy chục đô la, nhằm nhò gì!' Họ không nhớ rằng trong trường hợp khó khăn mà nhận được sự giúp đỡ là quý. Đó là họ không biết giá trị của bát cơm Phiếu mẫu. Họ nghĩ ằng bên này tiền do mình tự đúc ra, cứ việc bỏ vào bì thơ để gửi về; họ không biết rằng mình cũng phải nhịn áo, nhịn mặc, nhịn tiêu mới có thể gửi về được. Nên biết rằng trong ta có thể có những hạt giống như vậy. Chúng ta có thể có những hạt giống của Hàn Tín, Thúy Kiều và cũng có thể có hạt giống của những người không phải là Hàn Tín, Thúy Kiều.
Hai người trông mặt tần ngần,
Nửa phần khiếp sợ nửa phần mừng vui.
Ghê quá! Mình là thầy tu, mình là mụ quản gia mà bây giờ phải lên tới chỗ này, toàn là quân lính và giáo dựng gươm trần. Bà này làm lớn quá! Họ không biết nói gì cả.
Nàng rằng: 'Xin hãy rốn ngồi,
'Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù!'
Chắc chắn là sư chị không muốn ngồi nhưng sư chị đã bắt buộc phải ngồi vì hơi ngại. Sư chị đâu muốn nhìn thấy những chuyện bạo động, trả thù. Chỗ này chúng ta cần quán chiếu cho kỹ. Chúng ta đọc tiếp để xem Thúy Kiều báo thù Hoạn Thư như thế nào:
Kíp truyền chư tướng hiến phù,152
Lại đem các tích phạm tù hậu tra.153
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư,
Thoát trông nàng đã chào thưa:
'Tiểu thư cũng có bây giờ ở đây!
- 'Tiểu thư mà cũng tới đây nữa hả?' Đó là lời nói mỉa mai. Hạt giống này cũng có trong ta. Thỉnh thoảng chúng ta cũng biết nói lời mỉa mai.
'Đàn bà dễ có mấy tay,
'Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
'Dễ dàng là thói hồng nhan,
'Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!'
- 'Từ xưa đến giờ tìm ra được một người như tiểu thư là hiếm lắm. Càng cay nghiệt lắm thì càng gặp nhiều oan trái.'
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng dở điều kêu ca,
'Rằng: 'Tôi chút phận đàn bà,
'Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
- 'Đàn bà ai lại không ghen tương phu nhân!' Điều này có thật. Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông không ghen. Đàn ông cũng ghen. Nhưng đây là nói chuyện đàn bà với nhau. 'Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.' Nói ra một sự thật. Bà này khôn lắm. 'Tôi là đàn bà. Mà hễ là đàn bà thì ai là không ghen.'
'Nghĩ cho khi các viết kinh,
'Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Nhắc lại những công đức của mình. Rất khéo! Bà này mà đi học trường luật thì chắc cũng sẽ tốt nghiệp hạng cao. Không nói 'đi trốn' mà chỉ nói 'khỏi cửa' thôi - Người ta làm phu nhân, người ta đâu có 'đi trốn'.
'Lòng riêng riêng những kính yêu,
'Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!
Khi chồng mình bị một người đàn bà khác tới chiếm thì tâm niệm muốn giật chồng lại là một tâm niệm phổ biến. Đó là tính người. Tự mình làm luật sư bào chữa. Rất hay. Nhưng cái hay này một phần lớn là của thi sĩ.
'Trót lòng gây việc chông gai,
'Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng!'
- 'Lượng phu nhân lớn như biển. Bây giờ phu nhân thương được chút nào thì con nhờ chút đó.' (Thương ít ít cũng được, miễn có thương là quý rồi.) Rất khéo.
Rằng: 'Tôi chút phận đàn bà,
'Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
'Nghĩ cho khi các viết kinh,
'Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
'Lòng riêng riêng những kính yêu,
'Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!
'Trót lòng gây việc chông gai,
'Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng!'
Rất gọn mà đủ. Ghen thì ghen ghê gớm mà nói thì cũng rất khéo. Và quý hơn hết là vẫn có vài hạt giống của lòng từ bi trong tâm.
Kiều đáp lại:
Khen cho: 'Thật đã nên rằng,
'Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.
'Tha ra thì cũng may đời,
'Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
'Đã lòng tri quá154 thì nên,
'Truyền quân lệnh xuống trướng liền tha ngay.'
Kiều tha bổng cho một người đã từng làm cho mình đau khổ cùng cực. Đêm Hoạn Thư tổ chức tiệc rượu tẩy trần đón Thúc Sinh trở về bắt Kiều hầu rượu là đêm đau khổ nhất của Kiều. Thúc Sinh và thúy Kiều càng đau khổ bao nhiêu thì Hoạn Thư càng 'đã' bấy nhiêu. Nhưng bây giờ chính Kiều ra lệnh tha cho Hoạn Thư. Chuyện này sở dĩ xảy ra một phần là nhờ Hoạn Thư khôn khéo và một phần khác cũng nhờ trong tâm bà ta có hạt giống từ bi. Ngày xưa bà đã làm được hai việc quan trọng. Một là cho Kiều đi tu để thoát khỏi thân phận đầy tớ. Hai là để Kiều trốn mà không tầm nã. Nếu không có hai điều đó thì bây giờ chắc chết. Trong nguyên lục Hoạn Thư bị đánh một trăm roi trước khi tha bổng. Cụ Nguyễn Du của chúng ta không cho đánh Hoạn Thư. Nàng Kiều của cụ Nguyễn Du có lòng từ bi hơn nàng Kiều trong nguyên lục.
Tạ lòng lạy trước sân mây,
Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào.
Những người còn lại đều bị phạt nặng.
Nàng rằng: 'Lồng lộng trời cao!
'Hại nhân nhân hại sự nào tại ta!
Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu: lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt. Làm ác thì bị quả báo ác. 'Hại nhân nhân hại' là luật quả báo. 'Sự nào tại ta': vì các người ác nên bị quả báo chứ không phải tại tôi ác. Nói như vậy, đứng về phương diện pháp lý thì rất đúng nhưng đứng về phương diện đạo lý thì không đúng. Có hai phương pháp xử trị: đức trị và pháp trị. Pháp trị là lấy luật mà đối xử. Phạm lỗi đó thì bị trừng phạt, như vậy là pháp trị. Câu nói của Kiều là câu nói về pháp trị..Nhưng là người tu thì mình không được nói như Kiều. Mình không phải là pháp gia , mình là đạo gia. Mình phải nói: 'Anh đã gây tội lỗi, đáng lý hôm nay anh bị quả báo. Nhưng tại tôi là người tu thành ra may cho anh.' Đó là đức trị. Trị bằng đức, bằng tình thương. Thúy Kiều đã được đi tu, học đạo giải thoát mà vẫn dùng ngôn ngữ của pháp trị, đó là không giỏi. Là người tu mình không nói bằng ngôn ngữ của pháp trị; mình phải nói bằng ngôn ngữ của đức trị. Mình đừng nói: 'Ráng chịu!' không phải là ngôn ngữ của người tu. Đây là một trong những lỗi lớn của Thúy Kiều. Chúng ta hãy tưởng tượng trong khi Kiều đang nói bằng cái giọng sắt đá và máy móc như vậy thì sư chị Giác Duyên cũng đang ngồi phía sau lưng. Sư chị nghĩ gì?
'Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
'Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh,
'Tú Bà với Mã Giám Sinh,
'Các tên tội ấy đáng tình còn sao?'
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình.
Những người ngày xưa thề như thế nào thì bây giờ chịu quả như thế đó. Ví dụ thề: 'Nếu mà tôi có phản bội thì tôi chết liền tức khắc!' hay 'Nếu tôi lừa gạt em thì cho người ta băm nát thân tôi thành từng miếng đem làm thực phẩm cho lợn ăn!' thì Kiều bây giờ cũng cho làm y như vậy. Như vậy thời gian Kiều ở chùa Chiêu Ẩn không ích lợi gì. Có chép Kinh, tụng Kinh, thỉnh chuông, làm đủ thứ... được ở với sư chị nhưng những hạt giống của từ bi, tha thứ không được tưới tẩm nhiều. Kiều có tha cho Hoạn Thư vì thấy được hoàn cảnh và lòng tốt của Hoạn Thư. Trong Kiều cũng có cái thấy, cái hiểu và cái thương. Nhưng với những người này, Kiều hoàn toàn không thấy được rằng sở dĩ họ ác như vậy là vì họ được nuôi dưỡng và sống trong những môi trường mà ai ở trong đó cũng có thể trở thành như vậy. Vì không thấy điều đó nên Thúy Kiều đành lòng để họ bị trừng phạt. Sư chị ngồi phía sau chắc cũng đau xót vô cùng nhưng không làm gì được. Không thể ngăn cản được nữa vì đây không phải thiền môn. Đây là quân trường, đây là tòa án, đây không còn là sư em của mình nữa mà là một vị chỉ huy trưởng quân đội toàn quyền sinh sát (Từ rằng: 'Việc ấy để cho mặc nàng.') Hai người ơn của Kiều, bà quản gia và sư Giác Duyên ngồi phía sau mà khiếp đảm, thấy trái tim Kiều là sắt đá. Chắc sư chị đau khổ vô cùng. Lỗi một phần là của sư chị. Trong thời gian em nó ở với mình, mình đã không dạy. Sư chị có thể là người tốt nhưng sư chị không thực tập dạy em. Vì vậy tuy thương em nhưng sư chị không làm tròn bổn phận của một người chị. Tất cả những sư chị tương lai phải học những bài học này. Em mình không thể nói: 'Hại nhân nhân hại. Ai bảo! Ráng chịu!' Nếu sư em mình làm và nói như vậy là mình chịu trách nhiệm hoàn toàn. 'Tôi đã nói mà nó không chịu nghe!' Nhưng tôi đã nói làm sao để nó không chịu nghe? Hay là vì tôi nói giọng chị Hai thành ra sư em tôi không thèm nghe? Tôi phải nói bằng thứ ngôn ngữ rất ngọt ngào và thương yêu thì em tôi mới dễ dàng tiếp nhận. Còn nếu tôi nói theo kiểu mẹ chồng hay chị Hai thì em tôi sẽ ghét tôi, không chịu nghe, không chịu học với tôi. Dầu có nói đúng cách mấy đi nữa mà nói cái giọng sẵng đó thì ta sẽ không thành công và không làm được trách vụ sư chị? Các sư chị phải ăn nói như thế nào để các em thương và nghe lời mình. Sau này các em không thể nói rằng: ngày xưa sư chị chưa dạy! Sư chị có dạy và dạy bằng ngôn ngữ từ ái, không trách móc, không lý luận, không đổ lỗi. Sư chị chỉ nhẹ nhàng khuyên nhủ em thôi. Nếu sau này em không học được thì không phải là lỗi của chị nữa mà là lỗi của chính em. Tưởng tượng sư chị ngồi phía sau với tư cách thượng khách của sư em mà không làm được gì để ngăn cản sư em hết! Trễ quá rồi! Làm gì được nữa! Sư chị phải thấy trách nhiệm của mình ngày xưa đã không giúp em.
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
Hồn và phách là hai khía cạnh tâm lý. Người Việt phải biết chuyện này. Hồn (spiritual soul) nhẹ hơn phách (vegetative soul.) Phách cũng là hồn nhưng có dính với phần sắc thân nhiều hơn. Đối với tín ngưỡng bình dân của người Việt thì đàn ông có ba bồn bảy phách (vía), đàn bà có ba hồn chín phách (vía nhẹ thì tốt.) Hỏi tại sao thì có thể giải thích bằng nhiều cách. Chín vía có thể nặng hơn bảy vía nhưng nhờ chín vía nên mới có thể thấy, cảm được những điều mà người đàn ông không cảm được. Đứng về phương diện chi tiết, người đàn bà tiếp xúc được nhiều hơn người đàn ông. Ví dụ như gửi quà về nhà, đàn ông thường làm đại khái, còn đàn bà nghĩ tới từng chi tiết một: nghĩ tới từng đứa cháu, từng đứa chắt. Có những người đi máy bay, xe lửa không muốn đem theo nhiều món đến khi thiếu thì than. Hành lý của người đàn bà tuy nhiều một chút nhưng rất cần thiết, đủ từng chi tiết. Đến khi cần cái gì họ nói: 'Có đem theo đây!'; người đàn ông rất hoan hỷ. Đứng về phương diện cơ thể học, con người có hai hệ thần kinh. Hệ gần với thân thể gọi là système nerveux végétatif. Phách gần với thân thể. Theo tín ngưỡng bình dân Việt Nam, khi thân thể đã chết phách vẫn còn và từ từ tan biến. Câu 115, khi thăm mộ Đạm Tiên, Kiều nói: 'Thác là thể phách còn là tinh anh.' Tinh anh thuộc về hồn. 'Hồn kinh phách rời' là khi sợ quá, phách lìa khỏi thân thể.
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta!
Hai câu này cần phải xét lại. Đây là lời luân lý để cảnh cáo người ta. Trời ở đây không phải là một đấng tạo hóa mà là luật của thiên nhiên. Muôn sự tại trời nghĩa là mọi việc đều xoay quanh luật thiên nhiên; trong đó có luật nhân quả. Trồng bắp thì được ăn bắp, trồng đậu thì được ăn đậu, gieo gió thì gặt bão. Khi mình dễ thương với một người nào đó thì mình được người đó đối xử dễ thương lại. Khi mình phản bội độc ác với một người nào đó thì mình sẽ bị đáp lại bằng sự độc ác và phản bội của chính người đó hoặc của một người nào khác. 'Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta': Khi mình phụ người ta thì mình thấy không sao hết nhưng đến khi người ta phụ mình một cái thì mình mới thấy được tất cả đau khổ của một người bị tình phụ. Thấy một người mới tươi mát, tốt lành, dễ chịu nên mình đi theo, bỏ người cũ. Người cũ đau xót cách mấy mình cũng không biết. Nhưng khi cái người mình gọi là tươi mát đó đá mình một cái và bỏ đi, mình mới có cơ hội biết được người bị mình phụ đã đau khổ như thế nào. 'Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta' là luật thiên nhiên, nêu ra để dạy người, nhưng trước hết là để chứng minh rằng chuyện mình trả thù cũng là chuyện tự nhiên thôi. Thái độ này không tốt. Nó chỉ tốt với những nhà pháp trị nhưng không tốt với những nhà đức trị như chúng ta.
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
Có chứ! Những người đứng trên phương diện đức trị nghe tiếng kêu thương vẫn có thể thương được. Ví dụ như sư chị Giác Duyên. Sư chị ngồi ở trên cảm thấy rất đau xót nhưng bất lực, biết rằng mình đã không dạy em. Tác giả nói như vậy là đứng về phía Kiều mà nói nhưng không đứng về phía sư chị mà nói. 'Mình làm mình chịu kêu mà ai thương' có nghĩa là 'Đáng đời!" Kỳ thực cụ Nguyễn Du tuy nói vậy nhưng trong lòng cụ, cụ cũng cảm thấy đau. Nói là nói ngoài mặt vậy thôi. Ai thấy trường hợp những người kia bị băm, bị chém mà không thương! Câu này như để răn dạy. Có người chủ trương phải có sự trừng phạt như vậy thì người ta mới ngán không làm ác. Một phần nào đó họ cũng có lý. Ví dụ khi qua một cái đèo rất hiểm trở trên con đường Sài Gòn - Đà Lạt, từ trên xe đò nhìn xuống người ta thấy một cái miếu thờ những người từ nạn từ xe hơi rớt xuống đèo. Những người có chánh niệm đã lái xe cẩn thận, nhìn xuống thấy cái miếu lại càng cẩn thận hơn nữa. Những tay anh chị đánh người không nương tay (anh chị Cầu Muối), chửi thề, không kính trọng bất cứ ai, không tin ở đức trị, đi ngang qua miếu đó cũng phát ngán, sợ các linh hồn kia kéo mình xuống vực. Thành ra đe dọa cũng có ích lợi. Ở chùa có tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiền lành, mát mẻ như một đóa hoa nhưng cũng có ông Diện Nhiên Đại Sĩ thở ra toàn khói và lửa, cầm thanh gươm đứng để đóng vai trò Ông Ác cho người ta ngán. Anh làm cái đó sẽ bị cái này. Đó là pháp trị; pháp trị cũng đóng được vai trò của nó. Cái hay trong đạo Bụt là vị Diện Nhiên Đại Sĩ thở ra và nói toàn là khói và lửa không ai khác hơn là đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Bồ Tát cười nhẹ nhàng như cơn gió thoảng nhưng cũng phải hiện ra dữ dằn như vậy để cho người ta sợ mà xa lánh điều ác. Đó là một hình thái của tình thương. Đưa cao đánh khẽ. Nhưng Thúy Kiều có đánh khẽ không? Không. Đây không phải là đức trị mặc áo pháp trị. Có tình thương thật thì có thể sử dụng phương pháp pháp trị, nhưng đi sâu vào thì thấy toàn là đức trị. Ở các chùa có những hình vẽ cảnh địa ngục: vạc dầu, cột đồng... cũng là đọa. Nhưng đó không thật sự là ác. Đó là phương tiện để giúp những người không thể giúp được bằng những phương pháp nhẹ nhàng. Vấn đề là cứu độ chứng không phải là trừng trị.
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
Bạc tức là (đức) mỏng. Người có nhiều đức độ, tình thương trong lòng, biết nghĩ tới tương lai gọi là người có hậu hay đức dày. Không ăn xổi ở thì, không phải chỉ biết ngày hôm nay không lo gì đến tương lai. Như cưa củi mà chỉ cưa một chút xíu để xài ngày hôm nay thôi, ngày mai mặc kệ thì gọi là mỏng; cưa nhiều để dành cho ngày mai gọi là dày. Đó là đứng về phương diện vật chất. Phương diện tinh thần cũng vậy. Thương người, giúp người, chất chứa công đức và tình thương nhiều gọi là hậu (dày). Ngược lại với mỏng, không lo cho hạnh phúc của mình và người trong tương lai. Bạc cũng có nghĩa là phụ bạc, phản bội. Đoạn này chúng ta thấy cụ Ngụyễn Du cũng có đức dày. Cụ nói như vậy cốt để dọa. Nếu đứng ra xét xử chắc hẳn cụ sẽ dùng đức trị, dơ cao đánh khẽ, để cảm hóa họ: 'Bữa nay ta tha đó nghe. May mà gặp tui chứ gặp người khác là chết rồi!'
Ba quân đông mặt pháp trường,155
Thanh thiên bạch nhật156 rõ ràng cho coi.
Trời trong, giữa ban ngày, không ai không thấy được luật nhân quả rõ ràng.
Kiều đã tha cho Hoạn Thư là một việc đáng mừng, nhưng Kiều đã trừng phạt những người còn lại đó là một việc không hay. Nếu Kiều biết tu tập thì đã có thể hướng dẫn cho họ thở, nhìn kỹ, nhìn sâu để thấy rõ những đau khổ của hai bên và tìm cách giáo dục cho họ, cho họ những cơ hội và điều kiện để làm lại cuộc đời.
TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác Duyên vội đã gởi lời từ quy.
Sư chị ngán quá! Muốn về liền lập tức, không muốn ở thêm một giờ nào nữa trong chốn quân sự hãi hùng này. Chúng ta phải đi vào trong da thịt của sư chị để thấy. Sư chị bây giờ e ngại lắm, tuy rất thương sư em; không biết sư em sẽ đi về đâu nếu sư chị cứ tiếp tục như vậy. Nó đã rất đau khổ trong quá khứ, bây giờ báo thù được thì nó thấy nhẹ trong lòng. Đó là cái thấy của người đời. Nhưng người tu thì phải khác. Bây giờ sư chị đi, phải khiêng theo một ngàn lạng vàng và tất cả những tâm tư nặng nề tạo ra vì khung cảnh vừa rồi. Sư chị là người tu, dùng vàng để làm gì? Tu chỉnh Chiêu Ẩn Am? Một ngàn lạng vàng nặng lắm! Rồi thì ăn cướp, ăn trộm, làm sao? Khiêng một ngàn lạng vàng đi cũng khổ lắm! Không biết mình sẽ làm chuyện gì với số vàng này, và sư chị cảm thấy mất hết tất cả những an ninh của mình. Và nhất là lại mang theo niềm hoảng sợ và xót thương cho đứa em đồng đạo ngày xưa. Hãy dể cho trí tưởng tượng của chúng ta đi theo để thấy sư chị rời khỏi trung tâm quân sự đó với tâm trạng nào.
Nàng rằng: 'Thiên tải nhất thì,157
'Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.158
"Rồi đây bèo hợp mây tan,
'Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!
Đây là những câu thơ rất hay. Bèo hợp mây tan là lý vô thường. Ngày hôm nay mình sống chung với nhạu là 'bèo hợp', biết đâu mai này mỗi người đi một ngã là 'mây tan'. Vì vậy phải biết trân trọng những giờ phút của ngày hôm nay, phải có hạnh phúc trong giờ phút này. Hai chị em gặp được nhau là điều hiếm có, xa nhau rồi thì không biết bao giờ mới được gặp lại, ngồi chung, uống trà đàm đạo với nhau. 'Thúy Kiều thấy được điều đó.
Sư rằng: 'Cũng chẳng mấy lâu,
'Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
- 'Không lâu đâu! Trong năm năm nữa chị em mình sẽ được gặp nhau lại.' Giống như là sư chị đã biết trước. Biết trước, không phải là do sư chị có tài bấm quẻ mà vì sư chị có quen với một đạo cô tu theo đạo Lão tiên đoán sự hội ngộ của hai chị em trong năm nay và trong năm năm nữa. Và vì đã gặp Thúy Kiều lần này đúng theo tiên đoán của đạo cô Tam Hợp nên sư chị tin rằng tiên đoán về lần hội ngộ thứ hai cũng sẽ đúng.
'Nhớ ngày hành cước phương xa,
'Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.
'Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
'Năm nay là một nữa thì năm năm.
'Mới hay tiền định chẳng lầm.
'Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
'Còn nhìều ân ái với nhau,
'Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?'
'Hành cước' (đi bộ) là sự thực tập của nhà tu. Nếu cái học của mình chưa tới, thì mình phải tìm thầy học đạo. Hành cước có khi gọi là đi vân thủy. Vân là mây, thủy là nước. Mây, nước luôn luôn đi. Người tu hành nếu chưa tìm được thầy, được pháp môn thì phải làm phận sự của mây và nước. Phải đi và đi bằng hai chân (hành cước) của mình chứ không đi ngựa, đi xe.
Những câu thơ này chứng tỏ sư chị Giác Duyên thương sư em Trạc Tuyền rất sâu sắc. Không biết có hiểu nhiều không nhưng có thương và muốn thương. Tình thương cao nhất là tình thương làm bằng cái hiểu. Biết sư em cần gì thì dạy sư em cái đó. Sư chị không biết sư em cần học kinh An Ban Thủ Ý, ru và chuyển hóa nội kết, nên đã không dạy. Sư chị chưa hiểu sư em bao nhiêu.
Nàng rằng: 'Tiền định tiên tri,
'Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
'Họa bao giờ có gặp người,
'Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân.'
- 'Nếu sư chị có gặp lại đạo cô thì xin hỏi dùm về tương lai của em. Em không biết mình sẽ đi về đâu.' Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng là một câu trong Cảnh Sách. Bốn cuốn Luật Tiểu (luật nhỏ) của người tập sự đi tu gồm có: Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu, Mười Giới Sa Di và Sa Di Ni, Uy Nghi và Cảnh Sách. Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu là năm sáu chục bài thi kệ thực tập chánh niệm trong mọi động tác hàng ngày. Bất cứ đi, đứng, nằm, ngồi, rửa tay, đi cầu, giặt áo... làm gì cũng có một bài kệ để thực tập thở ra, thở vào trong khi làm việc đó. Tỳ Ni Nhật Dụng thiết Yếu bản in mới có tên là Từng Bước Nở Hoa Sen. Mười Giới của Sa Di và Sa Di Ni bắt đầu bằng giới không sát sanh. Uy Nghi là phong thái của một nhà tu trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, hành xử. Ví dụ sử dụng phòng tắm, lên chánh điện, vào nhà bếp, đến nhà cư sĩ... phải làm như thế nào cho đúng phong thái một nàh tu. Sách xưa có 24 thiên uy nghi. Sách mới (Bước Tới Thảnh Thơi) có tới 39 chương, vì điều kiện sống và tiếp xúc có khác (ví dụ nghe điện thoại, vào siêu thị...) Cảnh Sách là những lời nhắc nhở của thiền sư Quy Sơn. Bài văn rat hay. Tất cả các sư cô, sư chú ngày xưa đều học thuộc lòng bằng chữ Nho. Tiền lộ mang mang bất tri hà vãng là một câu trong Cảnh Sách, có nghĩa là: đường trước mờ mờ, không biết sẽ đi về đâu. Thúy Kiều cảm biết rằng cuộc đời mình còn nhiều sóng gió lắm, sau này không biết sẽ đi về đâu, vì vậy muốn nhờ sư chị Giác Duyên hỏi đạo cô Tam Hợp giúp mình. Muốn có một cái nhìn tổng quát về tương lai. Đó là nhu yếu của Thúy Kiều và cũng là nhu yếu của tất cả chúng ta. Ai cũng muốn biết tương lai cả cho nên mấy ông thầy chấm số tử vi túi mới có tiền. Nhưng mấy ông liệu có giỏi bằng đạo cô Tam Hợp không? Hay là tiền mất mà mình vẫn không có được cái nhìn rõ ràng nào về tương lai! Trong đạo Bụt, có những điều mình biết nhờ tu học có chánh niệm. Nếu nắm được thân tâm mình thì đi về đâu mình cũng làm chủ được thân tâm, không đánh mất mình và mình không cần đến đạo cô Tam Hợp hay mấy ông thầy chấm số tử vi nữa. Vừa đỡ tốn tiền, vừa khỏi bị mang tiếng mê tín. Chỉ những người yếu bóng vía mới cần tới đạo cô và mấy ông thầy tướng số mà thôi.
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoát đã dời chân cõi ngoài.
Sư chị Giác Duyên nhận lời Kiều và đi. Càng đi càng mau ra khỏi cõi này càng tốt. Cõi ngoài không phải cõi này. Có lẽ cụ Nguyễn Du đã dịch từ chữ phương ngoại: một không gian ở ngoài. Đọc thơ Nguyễn Du mà không biết về Phật học thì đôi khi cũng thiếu. Phương ngoại phương (space outside of space), trời phương ngoại. Đó là không gian nhưng cũng là loại không gian nằm ngoài không gian, vượt ra khỏi không gian thường của người đời. Chúng ta tìm tới cái không gian nằm ngoài không gian, thực tập tiếp xúc được với Tích Môn (historical dimension.) Người tu phải tiếp xúc với Bản Môn (utimate dimension.) 'Cõi ngoài' ở đây có nghĩa là phương ngoại phương, một phương trời không có những chuyện lên-xuống, ra-vào, ân-oán, tử-sinh, trong-ngoài, nhiều-một,... Sư chị biết chỉ ở trong cái khung trời phương ngoại đó, sư chị mới thật sự thoải mái mà thôi.
'Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương' là một câu thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ; có nghĩa là: ta chống gậy đi chơi ở trong khung trời phương ngoại chứ không đi chơi trong khung trời của thế gian. Tuệ Trung Thượng Sĩ, anh ruột của đại tướng Trần Hưng Đạo, là một thiền sư rất nổi tiếng của đời Trần. Trong khi Trần Hưng Đạo thành công về quân sự thì Tuệ Trung Thượng Sĩ thành công về thiền tập. Ngài có một thiền phong rất hùng vĩ. Khí văn, khí thơ và đạo lực của Tuệ Trung tương đương với thiền sư Lâm Tế bên Tàu. 'Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương.' Khung trời phương ngoại là cái chúng ta có thể bước vào bất cứ lúc nào chúng ta muốn. Đó là khung trời thỏai mái của giải thoát, của niết bàn. Phải đi trong không gian của phương ngoại thì mới thật sự có hạnh phúc. Còn nếu tu mà vẫn đi ở phương nội thì chưa có hạnh phúc.
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoát đã dời chân cõi ngoài.
Rất hay! Mà đâu có cần chữ nghĩa nhiều! 'Tạ từ thót đã dời chân cõi ngoài.' Chỉ cần đưa tay nói 'goodbye' một cái là tự nhiên từ cõi của sầu đau và tranh chấp ta đi ngay được vào cõi của thênh thang, nhẹ nhàng, giải thoát. Câu này là một câu chúng ta có thể viết treo ở thiền viện. Tạ từ: thôi, không ăn thua nữa trong cuộc đời! Thoát đã dời chân cõi ngoài: giải thoát có thể thực hiện được trong một cái búng tay. Giã biệt tất cả những phiền não, tranh chấp trong cuộc đời để được có tự do. Và chỉ khi nào mình giải thoát tự do mình mới giúp được người mà thôi.
Tháng 1974, trong khi làm việc cho hòa bình và gây quỹ giúp các cô nhi ở Việt Nam, tôi có bài thơ Trời Phương Ngoại:
Người đi trên đất mắt nhìn trời
Chim liệng từng không mây trắng bay
Một bàn tay đưa cho nắng ngọt
Một bàn tay giữ con đường mây
Lá xanh tháng tư mặt trời lọc
Đi qua rừng cây mà không hay
Búp tay hoa sen vừa hé mở
Vũ trụ sáng nay đã ngất ngây
Trà khuya bay khói thơ không chữ
Thơ chở trà lên tận đỉnh mây
Núi cao mưa lạnh vùng biên ải
Vi vút sau đèo gió gọi cây
Đỉnh tuyết trời quang bừng cảnh mộng
Giác ngộ tung về đóa mãn khai,
Đất xa mầu nhiệm thơm tình mẹ
Hoa nở tràn gian ước kịp ngày.
Thương bé bơ vơ mùa loạn lạc
Sen vàng bướm gửi khắp trời Tây
Tờ hoa nhạc hội bừng chiêng trống
Xóm dưới thôn trên dán chặt đầy
Mắc nối đưòng dây trăm xứ lạ
Ân nghĩa bên trời mãi dựng xây
Ngục thất ba trăm còn tuyệt thực
Mòn chân du thuyết hết đêm ngày.159
Tháng Tư đồng nội trăm hoa nở
Mong ước ôm đầy hai cánh tay
Sắc xuân rực rỡ trời phương ngoại
Thơ hát yêu thương rộng tháng ngày
Gối mộng mây xa về lối cũ
Ngược dòng sông lạ đến tìm ai
TẨY OAN VÀ GIẢI THOÁT
Nàng từ ân oán rạch ròi,
Bể oan dường đã vơi vơi cánh lòng.
Không những đã không xót mà còn thấy khỏe trong người vì đã trả thù được! 'Ân oán rạch ròi' là phải phân biệt ai là bạn, ai là thù. Đó là đường lối chánh trị. Người có tinh thần phe đảng nói: Ta phải phân biệt; người nào nói và làm có lợi cho đường lối và chủ nghĩa ta thì ta nhận làm bạn; những người mà tư tưởng, hành động hoặc văn chương khộng có lợi cho chủ nghĩa ta, dù họ không nói động tới ta, ta cũng liệt họ vào hàng kẻ thù. Nghĩa là phải rõ ràng, rạch ròi ai là bạn, ai là thù. Trong khi đó nhận thức của người tu học đạo Bụt là không có kẻ thù. Tất cả đều là những người mà mình phải thương, phải chuyển hóa, giúp đỡ. Thái độ đó, người có phe đảng không chấp nhận được. Họ nói những ai không phân biệt bạn-thù, không có lập trường, là họ không bao giờ chơi với được. Lập trường của chúng ta là không có thù. Chỉ có bạn thôi, bạn thân hoặc bạn chưa thân, và phải làm cho tất cả mọi người đều thành bạn cả. Đó cũng là một thứ lập trường, không thể nói là không phải lập trường. Kẻ thù chúng ta không phải là con người; kẻ thù chúng ta là tham, sân, si, mạn, nghi, kiến. Mà tham, sân, si, mạn, nghi, kiến cũng không phải là kẻ thù ta, bởi đó là rác mà chúng ta cần để chuyển thành hoa. Cái nhìn của đạo Bụt là như vậy. Những người theo một chủ thuyết, một ý thức hệ không thể đồng ý với chúng ta. Họ nói ân oán phải rạch ròi, thù bạn phải phân minh. Thúy Kiều, cựu ni cô Trạc Tuyền, cũng đang suy nghĩ theo kiểu đó. 'Nàng từ ân oán rạch ròi, Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.' Những oan ức dường như đã nhẹ đi sau khi trả thù được. Mà chưa chắc đã nhẹ; bởi vì Kiều vừa giết hoạc hành hạ một số người. Giai đoạn này là một vết đen trong đời Kiều. Kiều đã không có đợc con mắt của người tu (chúng ta gọi là mắt thương, từ nhãn.) Không có con mắt đó nên Kiều không thương được người đã làm mình đau khổ. Kiều vẫn áp dụng đường lối pháp trị. Trước khi từ biệt, sư chị đã không nói với em điều đó. Sư chị muốn thoát ra khỏi một cách mau chóng, nói bye-bye càng sớm càng tốt. Đó là một cái lỗi của sư chị. Đáng lý, sư chị phải ngồi lại và nói: 'Em đã giải quyết xong việc ân oán rồi; bây giờ em không còn là em trong giới xuất gia của chị nữa, nhưng chị có thể nói cho em như thế này...' Sư chị đã không làm điều đó. Chúng ta phải học được bài học này. Đừng hấp tấp như sư chị Giác Duyên. Muốn cho khỏe, muốn thoát ra cho mau mà không làm tròn bổn phận của một người thương. Sư chị nói: 'Còn nhiều ân ái với nhau.' Nhưng ân ái đó là nghĩ tới chuyện tương lai thôi. Còn nếu thực tập ân ái (thương) thì phải ngồi lại, dạy cho em nói: cái điều mà em vừa làm, chị thấy không xứng đáng với người đã học đạo từ bi. Đây có thể là lần đầu tiên trong hai trăm mấy chục năm lịch sử truyện Kiều chúng ta mổ xẻ chuyện này. Thương Kiều vì Kiều khổ, nhưng chúng ta phải nhìn rõ để thấy những gốc rễ khổ đau của Kiều. Không phải chỉ thương, chỉ tội nghiệp thôi là đủ. Phải thấy được những lầm lỗi của Kiều để chúng ta và các sư em của chúng ta đừng tiếp tục làm thêm những lầm lỗi đó.
Nàng từ ân oán rạch ròi,
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng,
Tạ ân lạy trước Từ công:
'Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,'
'Tất riêng như cất gánh đầy đổ đi!
'Chạm xương chép dạ xiết chi,
'Dễ đem gan óc đền nghì trời mây!'
Kiều cảm ơn Từ Hải đã giúp mình làm được việc trả thù. Không trả thù mà hay hơn. Chắc chắn là như vậy. Như có cơ hội, bắt những người gây chuyện ác tới, nói cho họ biết rằng họ ác độc và họ cần phải thay đổi. Bắt học phải phục vụ cho những người đau khổ dưới quyền kiểm soát của mình cũng có thể là một hình thái học hỏi để giúp họ sáng mắt ra. Lấy công chuộc tội là việc các nhà chính trị xưa đã làm. Thay vì giết, phạt, bỏ tù những người có tội thì yêu cầu họ lo cho những cô nhi viện, đắp cầu, làm đường và làm một số việc cụ thể để chuộc lại lỗi lầm. Ngày xưa ở Việt Nam chuyện này đã được thực hiện tương đối phổ biến. Các thầy có liên hệ tốt với triều đình thường xin lãnh các tù phạm ra để làm việc cho chùa, bảo đảm trong thời gian phục vụ tại chùa họ sẽ không ăn trộm, giết người.. Trong vòng mười, mười hai năm nếu họ chứng tỏ đã hoàn lương thì nhà chùa xin cho họ được trở về đời sống bình thường, cho họ ruộng, giúp họ làm nhà và cưới vợ. Ngày xưa các chùa Việt Nam đã làm như vậy. Rất hay! Nàng Kiều, cựu sư cô Trach Tuyền, đã không học được điều đó và đã trả thù. Những oan ức ngày xưa như một gánh nặng đè lên làm mình đau khổ, bây giờ trả thù được thì nhẹ đi. Đó là suy nghĩ của người đời, không phải của người tu. Người tu không làm nhẹ bằng cách đó. Làm cách đó không nhẹ được. Những gánh nặng trong tâm mình (nội kết) phải được chuyển hóa thì tâm mình mới thật sự nhẹ nhàng.
Từ rằng: 'Quốc sĩ160 xưa nay,
'Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
'Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
'Giữa đường dẫu thấy đất bằng mà tha!
'Huống chi việc cũng việc nhà,
'Lọ là thâm tạ mới là tri ân.
Sau khi được cảm ơn, Từ Hải nói ra những lời rất có tình có nghĩa, rất hay. Từ còn nói thêm rất dễ thương:
'Xót nàng còn chút song thân,
'Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.161
'Sao cho muôn dặm một nhà,
'Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
'Anh còn muốn làm sao để em có thể đoàn tụ được với gia đình nữa thì anh mới thỏa mãn.' Điều này chứng tỏ Từ Hải là người có khả năng hiểu. Vì vậy Từ có thể thương Kiều được một cách sâu sắc. Từ biết Kiều muốn trả ơn những người ơn của mình và có nhu yếu gặp lại cha mẹ và các em. Ngày trước khi Kiều yêu cầu, Từ Hải đã nói rõ: 'Anh biết em muốn như vậy. Chừng nào anh chưa làm được chuyện này thì chừng đó anh chưa thỏa mãn.' Nói như vậy làm cho người thương của mình được an ủi rất nhiều. Thương là phải hiểu nhu yếu của người mình thương.
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Tiệc tẩy oan có mục đích gột rửa tất cả những niềm oan ức, được bày ra trong quân ngũ. Ai cũng tham dự vào việc ăn mừng đó. Đây là một chiến dịch tâm lý chiến rất hay. Nhân cơ hội, tổ chức ăn tiệc phủ phê, gọi là ăn mừng việc mình đã có thể thiết lập công bình xã hội va giải quyết những oan ức trong đời mình; khiến mọi người đều thấy rằng mình cũng đang được tẩy oan chứ không chỉ có riêng Kiều. Một chiến dịch tâm lý trong khung cảnh quân sự. Anh chàng này giỏi lắm!
Trong đạo Bụt, chúng ta không dùng chữ 'tẩy oan' mà dùng chữ 'giải oan'. Ngoài đời người ta tẩy oan bằng rượu. Trong chùa, chúng ta biết rượu đã không những tẩy oan không được mà còn gây thêm những oan ức khác. Uống rượu rất nguy hại. Rượu gây oan ức cho lá gan của mình rất nhiều. Hơn nữa, muốn làm một lít rượu thì phải có cả một thùng lúa nếp; lấy một thùng lúa nếp để làm một chai rượu thì tội nghiệp cho những người đói lắm! Người ta đói không có gạo ăn mà mìn lại lấy gạo làm rượu! Tẩy oan như vậy thì lại càng gây oan thêm. Phương pháp của người tu là giải oan chứ không phải là tẩy oan. Giải là mở ra, không buộc lại. Tẩy oan theo kiểu người đời thì lại cột thêm. Ví dụ: giết những người đã làm cho mình khổ là tạo ra oan hồn trong giới con cháu những người đó; họ sẽ tìm cách trả thù. Không giải được oan mà lại kết oán. Sau này Từ Hải và Thúy Kiều sẽ chết vì cái đó! Phương pháp là giải (mở) chứ không phải là kết (buộc vào.)
Nhân cơ hội binh sĩ đang nức lòng như vậy, Từ Hải tổ chức những cuộc hành quân lớn. Đánh đâu thắng đó và thiết lập một triều đình độc lập ở phương Nam:
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài.
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
Đòi cơn gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam.
Phơng trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm sá gì!162
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Kém gì cô quả kém gì bá vương!163
Trước cờ ai dám tranh cường,
Năm trăm hùng cứ một phương hải tần.
Đoạn văn rất mạnh! Tuy là thơ lục bát nhưng hơi văn đi như gió nói lên được khí thế của quân lực Từ Hải. Liên tiếp thắng hết trận này đến khác như 'trúc chẻ ngói tan.' Quý vị đã từng chẻ tre chưa? Khi chẻ tre người ta đặt cây tre nằm thế ngang, để mũi rựa giữa thân tre và dùng dùi cui đánh vào cán rựa. Rựa đi vào thân tre làm thành những đường nứt rất tự nhiên, 'dễ như chẻ tre.' 'Ngói tan' cũng vậy; khi những viên gạch ở lớp dưới của mái nói rớt ra, rơi xuống thì những lớp ngói phía trên tiếp tục rơi, rơi cho đến hết mái ngói thì thôi. Chiến thắng này dễ dẫn đến những chiến thắng khác. Thua một trận rồi thì có thể thua những trận kế tiếp rất mau.
Trong mấy ngày thôi quân binh của Từ Hải đã chiếm được năm quận huyện thuộc vùng biển (hải tần) của nước Minh. Cố nhiên vùng này có rất nhiều dân đánh cá. Nghe nói Từ Hải cũng xuất thân từ giới anh chị của làng đánh cá. Từ thiết lập một quốc gia độc lập trong suốt năm năm, quan quân nhà Minh không làm gì nổi. Thúy Kiều, như vậy, được Từ Hải che chở, sống với chức vị hoàng hậu trong năm năm. Khổ thì khổ nhưng cũng có những giai đoạn được che chở và có quyền hành. Tuy vậy, Từ Hải không gọi Kiều là hoàng hậu mà luôn gọi là phu nhân; Kiều thì gọi Từ Hải là Đại Vương. Họ không hành quân thêm, chỉ giữ vững vùng đất này trong suốt năm năm. Trong năm năm đó cô nàng có hạnh phúc hay không? Ta có thể tự trả lời được. Chúng ta không nghe nói hai vợ chồng có giận nhau, có cãi nhau, có hóa giải nội kết không, nhưng chắc chắc đó là năm năm tương đối yên ổn của Thúy Kiều. Có những chi tiết cho ta biết Từ Hải rất kính Thúy Kiều, biết nghe những lời khuyên nhủ của Kiều và coi Kiều là một trong những cố vấn chính trị quan trọng nhất của ông. Trong những cuộc luận đàm về phương diện quân sự và chính trị với các tướng, dù là đàn bà Kiều vẫn được tham dự. Tiếng nói của Kiều luôn luôn là một tiếng nói rất quan trọng.
HẠNH PHÚC LÀ TỰ DO
Trong một quốc gia mà lại có một quốc gia tự trị, đó là một cái gai lớn cho triều đình. Bao phen triều đình nhà Minh đã đi tìm những phương pháp để dẹp đi sự nổi loạn đó nhưng không thành công. Chính trị gia Hồ Tôn Hiến xuất hiện. Vị tổng đốc có địa vị quan trọng trong triều đình này được vua nhà Minh giao phó trách nhiệm dẹp trừ cái quốc gia nhỏ bé này. Chấm dứt giai đoạn năm năm yên ổn của Thúy Kiều. Đây là tai nạn lớn nhất, đưa Thúy Kiều đến chỗ tận cùng đến chỗ tận cùng của đau khổ trong đời cô và dẫn cô đến chổ phải tự tử. Chỉ khi nào chết rồi mới có thể tái sanh được. Cố nhiên Thúy Kiều tự tử không chết, cô sẽ được cứu. Nhưng trong kiếp người thế nào chúng ta cũng phải chết một lần, và phải chết thật thì chúng ta mới có thể sinh ra lại được với sự an lạc. Cái đau khổ cùng cực mới đem lại sự tái sinh của chúng ta. Mới đau khổ sơ sơ thì chưa nhằm nhò gì! Phải đau khổ cho cùng cực. Và khi đụng tới cái đáy của khổ đau, chết đi, sống lại thì mới thấy được niềm an lạc chân thật nảy sinh ra. Ngôn ngữ này rất quen thuộc trong nhà thiền. Nếu không chết, chỉ mới ngất ngư thôi, thì không thể nào tái sinh được Phải chết trong tâm hồn, trong đau khổ của mình. Luân hồi có chết thì giải thoát mới sinh ra được.
Có quan tổng đốc trọng thần,
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân164 gồm tài.
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai,165
Tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung.166
Biết Từ là đấng anh hùng,
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
Thám tử triều đinh làm việc rất giỏi. Họ biết Từ Hải không phải là một tay anh chị Cầu Muối tầm thường. Từ là một người có nhân cách, chí khí, có tư cách anh hùng. Không thể dùng phương pháp dọa nạt và bạo lực mà có thể thành công. Họ cũng biết Thúy Kiều được tham dự vào những buổi bàn luận bí mật về quân sự và chính trị. Rất khó giải quyết vấn đề nếu ta không biết rõ tình trạng và tâm lý những người trong cuộc.
Hồ Tôn Hiến lập ra chước chiêu an, gửi sứ giả sang kêu gọi Từ Hải ra hàng và hứa sẽ phong cho chức tước lớn. Một mặt khác họ chuẩn bị quà cáp riêng cho Kiều:
Đóng quân làm chước chiêu an167
Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
Lại riêng một lễ với nàng,
Hai tên thế nữ ngọc vàng nghìn cân.
Theo nguyên lục, ban đầu Hồ Tôn Hiến gửi một viên quan nhỏ tên là Hoa Nhâm tới để dò hỏi. Từ Hải giận nói: 'Ta đang có thanh thế. Tuy không có mở mang bờ cõi dựng nước, nhưng ai có thể cấm ta xưng Vương, xưng Đế, xưng Cô, xưng Quả? Ngươi muốn ta về hàng để làm con chó, con trâu của người khác sao?' và tính đem Hoa Nhâm ra chém. Kiều can; Từ nghe lời tha cho Hoa Nhâm. Tiếp đó, Hồ Tôn Hiến sai một viên quan lớn hơn, tên La Trung Quân, đem lễ vật rất hậu tới. Trong đó, có một trăm ngàn lạng bạc, ba ngàn lạng vàng, gấm vóc, đan ngọc và hai người thế nữ gốc gác từ Kinh đô (những cô thế nữ vùng ven biển không thể so sánh với những phụ nữ từ Kinh đô) làm quà riêng cho phu nhân Vương Thị (Vương Thúy Kiều.) Khi tiếp đón La Trung Quân, Từ Hải không muốn nhận lễ, trái lại muốn đuổi về vì trong lòng ông đã có niềm nghi:
Tin vào gởi trước trung quân
Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ168
Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!169
Bỏ thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
Sao bằng riêng một biên thùy.
Sức này đã dễ làm gì được nhau?
Chọc trời quấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
Nguyên lục nói: Một người đã tự do quen rồi mà bị đưa về câu thúc một chỗ thì rất khó chịu; không những lúng túng khó chịu mà chức phận cũng không ra gì (nhiều lắm là chức Tổng Binh). Mất hết cả tự do, nhân cách. Là quan võ thì thế nào cũng bị các quan văn lấn ép, đàn hạch (chỉ trích, kết tội). Sống như vậy khổ lắm nên Từ Hải nhất định không hàng. Từ Hải rất tự tin vào khả năng của mình và rất trân quý cái tự do của một chàng hiệp sĩ.
Vua Minh Mạng rất mê truyện Kiều. Một hôm, trong khi tiếp các quan, vua gọi thi sĩ Nguyễn Du (hồi đó đang làm quan dưới triều Nguyễn) nói: 'Khanh viết như vậy là không được! 'Chọc trời quấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!' viết như vậy là không có lễ phép gì với trẫm cả! Trên đầu phải có vua chứ! Vì vậy ta phạt khanh.' Vua bảo quân hầu mang rượu ra và phạt thi sĩ uống ba chén. Ngày xưa người ta phạt nhau bằng rượu. Nhiều người ưa 'được' phạt lắm! Sau này khi thi sĩ uống ba chén rượu rồi, vua lại bảo: 'Nhưng mà hay! Phạt thì phạt nhưng thơ rất hay! Vì vậy trẫm thưởng cho khanh.' Và vua truyền quân hầu mang ba tấm lụa tặng thi sĩ về may áo mặc cho ấm. Giai thoại này được truyền tụng đến ngày nay. Vua Minh Mạng cũng chịu chơi lắm!
Điều chúng ta muốn nhắc ở đây là Từ Hải biết hạnh phúc của mình nằm ở chỗ tự do nhưng vì lời nói của Kiều rất 'mặn mà' cho nên Từ không thấy được điều đó nữa và chuyển sang một quan niệm khác về hạnh phúc; cái hạnh phúc không tự do! Là những người tu hành, chúng ta nên suy ngẫm. Chúng ta đi xuất gia để có tự do, Hạnh phúc của chúng ta là có tự do. Tự do với độc lập đi chung. Có độc lập, có tự do thì mới có hạnh phúc. Ta đừng nên quên điều đó. Cạo đầu, mặc áo thầy tu, đi xuất gia là cũng như Từ Hải, biết rằng hạnh phúc của mình hoàn toàn được căn cứ trên sự tự do của mình. Đôi khi có những tiếng mời gọi, những điều hấp dẫn, đôi khi thấy tự do lớn quá, ta không sử dụng nổi tự do của ta, ta nói: 'Thôi, tự do mệt quá! Bây giờ tôi chỉ muốn làm nô lệ!' Làm nô lệ cho một người, làm nô lệ cho một gia đình... Điều này có thật. Hạt giống của sự nô lệ có mặt trong tất cả mọi người. Trên phương diện trí tuệ, chúng ta biết tự do thênh thang là nền tảng của hạnh phúc. Nhưng đôi khi, thấy tự do thênh thang, ta mệt quá, ta muốn làm nô lệ, muốn chui vào hoàn cảnh nô lệ. Trong mỗi chúng ta đều có anh chàng Từ Hải và cô nàng Thúy Kiều. Chúng ta phải cẩn thận. Có bao nhiêu thầy và sư cô trẻ đang có tự do thênh thang của người xuất gia: 'Nhất bát thiên gia phạn, Cô thân vạn lý du' vậy mà tự nhiên đầu hàng, chui vào chỗ mất tự do. Sau một vài năm thì mới thấy rõ mình đã đi lún quá sâu trong con đường mất tự do. Lúc đó đã quá trễ rồi! Một đã luân hồi thành bốn, thành năm, thành sáu rồi! Làm sao có tự do được nữa! Trong khi đang còn là người xuất gia, đang có sự tự do mà có người không thấy được sự quý báu của tự do, không thấy được hạnh phúc của chính mình! Ta nghĩ: 'Ôi, hạnh phúc thay nếu ta được làm nô lệ!' Nô lệ cho một người, cho một nhóm người. Đó không phải là chuyện của một ngày. Hạt giống nô lệ có sẵn trong lòng mọi người. Có sẵn trong Từ Hải, có sẵn trong Thúy Kiều. Vì vậy chúng ta phải lòng tự xét lòng: ta phải biết. Chúng ta thường đứng núi này trông núi nọ mà không thấy được những hạnh phúc và những mầu nhiệm của giờ phút hiện tại.Ta cứ nghĩ đứng núi bên kia chắc sướng hơn đứng núi bên này. Có một sư cô ra đời, cùng với người kia sản xuất ra bốn trự. Một mà luân hồi thành sáu! Lúc ấy mới thấy cuộc đời trầm luân, nặng nề quá cỡ! Đến khi vượt biên họ viết thư cho tôi nói: 'Thầy ơi! Chúng con bây giờ là sáu đứa lận. Làm sao khi chúng con qua bên đó Thầy cho chúng con đi xuất gia lại hết thảy sáu người!' Sức mấy! Một người mà còn chưa nắm vững vận mệnh được, bây giờ sáu người... rất khó! Đọc bài Phóng Cuồng Ca của Tuệ Trung Thượng Sĩ chúng ta mối thấy tự do là cái quý nhất trên đời. Tự do đó đưa chúng ta tới hạnh phúc chân thật. Và khi chúng ta có hạnh phúc, chúng ta mới có thể ban phát hạnh phúc cho những người khác. Còn nếu chúng ta không có tự do, không có hạnh phúc thì chúng ta không làm hạnh phúc được cho bất cứ một ai. Chúng ta chết chìm và kéo những người khác chết chìm theo chúng ta.
LÝ LUẬN CỦA TRÁI TIM
Và bây giờ là suy nghĩ của Kiều:
Nàng thì thật dạ tin người,
Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
Đây là tâm lý của người đàn bà. Trong nguyên lục có những chi tiết có thể làm sáng thêm hai câu thơ này: Hai cô thế nữ rất khôn khéo, được huấn luyện rất kỹ để đóng vai trò dẫn dụ. Về phương diện hình thức thì là hai cô tỳ nữ với tất cả tài năng để phụng sự một vị đại phu nhân; về nội dung họ là hai tay gián điệp của triều đình. Ban đầu Từ Hải muốn trả về tất cả lễ vật rồi đuổi sứ về. Thúy Kiều nói: 'Người ta có lễ độ, có lòng tốt, đem tới những tặng vật như vậy thì tại sao mình lại từ chối?' Từ nghe lời, nhận lễ. Chính sự chấp nhận lễ vật đó mà phòng tuyến bị vỡ. Hai cô gián điệp lọt được vào tư thất của Kiều, đem tất cả sự khôn ngoan, miệng lưỡi của những người gián điệp để thuyết phục Kiều: 'Phu nhân là một người con có hiếu. Ai cũng biết thành tích hiếu thảo của phu nhân, bán mình để chuộc cha. Một người có hiếu lại có Trung là một người hoàn hảo. Trung là trung thành với đất nước, triều đình. Các vị thánh đế đã khai sáng đất nước này. Đất nước đang hòa bình, lương dân đang sinh sống an ổn; vậy mà bây giờ vì chiến tranh loạn lạc, đất nước phải chia hai, người dân chết trong năm năm qua đã nhiều. Nếu phu nhân chấp nhận khuyên Đại Vương ra hàng là Trung với đất nước, là giải phóng cho lương dân khỏi nạn đao binh. Đại Vương sẽ được phong quan tước, còn phu nhân thì sẽ có cơ hội về đoàn tụ gia đình.' Đoàn tụ với cha mẹ và hai em là một ao ước thâm sâu của Thúy Kiều. Mười lăm năm lưu lạc mà bây giờ lại có một cơ hội đoàn tụ gia đình. Bỏ qua thì uổng! Hai cô gián điệp đã động tới được ước muốn sâu sắc nhất trong lòng Kiều. Hai cô còn nói: 'Khi công việc thành rồi thì quan Tổng Đốc sẽ dâng biểu xin vua ban hiệu Trung Hiếu Khả Phong cho phu nhân vì phu nhân đã cứu cho bao nhiêu sinh linh khỏi chết. Nếu phu nhân về thăm gia đình với danh hiệu đó thì chắc chắn gia đình sẽ hạnh phúc lắm!' Hai cô nói rất khéo! Khiến cho Kiều hoàn toàn chấp nhận.
Ta nên biết rằng ta vốn có trí tuệ và khả năng xét đoán. Nhưng một khi ta đã để cho cái ước muốn trong lòng ta thắng rồi thì ta sẽ dùng mọi cách để lý luận theo ước muốn đó. Đôi khi lý luận rất hay, nghe xuôi tai hợp lý giống như ta đã tìm ra con đường của trí tuệ rồi nhưng kỳ thực, tất cả những lý luận đó đều vâng theo một ước muốn sâu sắc ở trong lòng. Khi ta đã ước muốn cái đó, nghĩ rằng ta chỉ có thể sung sướng thật sự khi đi theo con đường đó thì tất cả những lý luận của chúng ta sẽ được dùng để phục vụ cho ước muốn đó. Có vẻ như ta vừa có tình, vừa có trí nhưng kỳ thực chính là cái tình, cái ước muốn ở trong ta đóng vai trò chủ động. Lý luận của chúng ta đang làm vai trò biện hộ mà thôi. Chúng ta lý luận ngàn cách để chứng tỏ rằng lý luận của chúng ta là đúng. Lý luận đó không còn khách quan nữa. Đây là điều mà hầu hết chúng ta đều mắc phải. Khi tâm ta đã hướng về một hướng nào đó rồi ta quên hết mọi chuyện ở hướng đối diện. Đã muốn rồi thì lý luận đủ cách. Nghĩ rằng mình đã có trí tuệ, kỳ thật mình mất trí tuệ. Mầm mống của sự thất bại không phát sinh từ Từ Hải mà phát sinh từ Thúy Kiều. Thúy Kiều rất quan trọng với Từ Hải, hai người là một, cho nên một khi mầm mống ấy đã chiếm cứ được Thúy Kiều rồi thì nó lang sang Từ Hải rất dễ dàng. Cụ Nguyễn Du nói rằng Kiều 'thật dạ, tin người', bị lễ vật làm tối mắt và những lời nói ngon ngọt chinh phục. Nhưng cụ chưa thấy rằng ước muốn rất chính đáng của Thúy Kiều là được đoàn tụ với gia đình chính là động cơ thúc đẩy Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Trong chúng ta cso biết bao nhiêu người xa quê, lưu đày. Chúng ta có hạt giống mong ước trở về quê hương, đoàn tụ với cha mẹ, con cái, thấy được mồ mả của tổ tiên... Ai cũng có hạt giống đó. Thúy Kiều ngày xưa cũng vậy. Chúng ta hãy cẩn thận. Trong Từ Hải có trí tuệ nhưng cũng có tình cảm. phần tình cảm đã bị trấn ngự bởi Thúy Kiều. Ta nên biết phần tình cảm nhiều khi mạnh hơn phần trí tuệ rất nhiều. Những suy nghĩ, phản ứng của Từ Hải ban đầu rất rõ ràng, minh bạch nhưng vì ảnh hưởng của Thúy Kiều mà những đám mây đen bắt đầu giăng phủ. Từ Hải bắt đầu không thấy được sự thật một cách rõ ràng và khách quan nữa.
Kiều tự dùng những lý luận của trí tuệ để che lấp cái ước muốn sâu sắc của mình: 'Bây giờ ta phải đi con đường của chánh đạo. Ta đã là con gái Hiếu. Bây giờ ta cũng muốn trung nữa (vì theo đạo lý Khổng Mạnh phải vừa Hiếu vừa là Trung thì mới là một con người toàn vẹn.) Hơn nữa, đây là con đường bất bạo động. Tôn trọng sự sống của sinh dân. Chấm dứt chiến tranh. Đi theo con đường này thì không những ta hạnh phúc mà bao nhiêu dân chúng trong nước cũng được hạnh phúc. Không còn cảnh nhà tan, cửa nát.' Lý luận rất đúng, rất hoàn hảo. Nhưng dầu sao đó cũng là lý luận phát sinh từ ước muốn của cô là được đoàn tụ gia đình. Đó không phải là một ước muốn bậy. Chúng ta không lên án ước muốn đó. Chúng ta chỉ nhìn kỹ để thấy rằng tất cả những lý luận coi như tuyệt hảo đó phát xuất từ một ước muốn mà thôi. Ta chỉ cần thấy điều đó. Và ta cũng sẽ thấy được những tai họa và hiểm nguy đang chờ ta. Có những trường hợp ước muốn thúc đẩy không được chính đáng. Nếu là người khôn khéo, chúng ta tìm những lý luận tuyệt vời, đến các luật sư cũng đều phải bó tay, chấp nhận lý luận của chúng ta; vì đó là lý luận của trái tim: 'Le coeur a ses raisons que le raison ignore!'
Nàng thì thật dạ tin người,
Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè sóng vỗ hãi hùng nước sa.
Đó là giấc mơ mà Kiều muốn thực hiện. Bây giờ Kiều đem lý luận ra để chinh phục Từ Hải:
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Kiều hỏi: 'Đại Vương nghĩ sao? 'Từ Hải nói: 'Không hàng thì có ba điều lợi. Một là muốn hành quân, đánh phá đâu cũng được, không có ai ngăn cản mình. Hai là muốn có thêm ngân quỹ, vàng bạc, lụa là gì cũng được dễ dàng. Ba là nếu thắng trận thì mình có khả năng tiến tới, không tiến được thì đóng binh rút về căn cứ, mình ở trong tư thế chủ động. Đó là ba điều thuận lợi của lập trường không hàng. Nếu hàng thì có năm điều hại. Thứ nhất là nhận sắc phong của vua, nếu quan hơi có lỗi lầm một chút thì bị vua trừng phạt. Thứ hai là sẽ bị các quan, nhất là phía quan văn, sai khiến, đàn hạch. Thứ ba là mình có thể sẽ bị dời đi nơi khác, bị cô lập hóa; khi đó thế mạnh nằm trong tay triều đình, mình có thể bị bắt giết bất cứ lúc nào. Thứ tư là một khi mình không nắm quyền bính trong tay thì chỉ cần được một vị quan văn sai khiến, bất cứ một tên lực sĩ nào cũng có thể nữa đêm tới gõ cửa nhà là bắt mình được mình. Thứ năm là dân chúng trong vùng biển này thế nào thế nào cũng có người khổ vì chiến tranh do mình gây ra, thừa lúc mình không có thế lực và binh quyền sẽ tìm cách trả thù báo oán. Đó là năm điều hại.' Từ Hải lý luận khá rõ ràng. Nhưng Kiều đã bị ước muốn kia trấn ngự nên lý luận rất hay (theo nguyên lục); 'Nếu mình nhận sắc phong của vua mà  không tiếp nhận một chức quan thì làm sao có thể phạm lỗi được? Thứ hai là nếu nhận chức quan có tính cách chức vị (nominal), ngồi chơi xơi nước thôi, không chịu sự sai khiến thì làm sao đàn hạch, hỏi tội được? Thứ ba là nếu hàng nhưng ra điều kiện là vẫn được ở chỗ hiểm yếu của mình, không bị dời căn cứ, không phải đi vào chầu trong triều thì làm sao lính vua có thể bắt được mình? Thứ tư mình có thể chấp nhận không gây chiến tranh, quy thuận triều đình, theo lệnh của vua nhưng vẫn giữ quyền bính của mình. Mình án binh bất động nhưng thế mạnh vẫn thuộc về mình. Thứ năm là mình vẫn có quyền bính, không chống triều đình, những kẻ sĩ dân trong vùng có trả thù muốn báo cũng không làm gì được. Hàng không những không có năm điều hại mà có năm điều lợi.' Rất có biện tài. - Và hơn nữa là vợ của Từ, (điều này cô ta không nói), sẽ có thể được về thăm gia đình với bảng hiệu 'Trung Hiếu Khả Phong', cờ lọng đầy đủ! Đó là giấc mơ của Thúy Kiều. - Từ Hải nghe lọt tai.
Nhân khi bàn bạc gần xa,
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
Rằng: 'Ơn thánh đế dồi dào,
'Tưới ra đã khắp thắm vào đã sâu.
'Bình thành170 công đức bấy lâu,
'Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
Ca ngợi công đức lập quốc của nhà Minh.
Ngẫm từ dấy việc binh đao,
'Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu.117
'Làm chi để tiếng về sau,
'Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào!
'Sao bằng lộc trọng quyền cao,
'Công danh ai dứt lối nào cho qua?'
- 'Chúng ta đã giết hại sinh linh nhiều rồi! Và trên nguyên tắc: 'Được làm vua, thua làm giặc', nếu Đại Vương chiếm hết được cả nước thì Đại Vương mới làm vua, còn chiếm một phần của nước thì đến khi chết người ta vẫn gọi mình là giặc, như Hoàng Sào. Chi bằng ta tiếp nhận chức tước của triều đình. Công danh của chúng ta mấy ai có thể qua mặt được?' - Đứng về phương diện Nhân, Nghĩa, Hạnh Phúc, tất cả lý luận của Thúy Kiều đều tuyệt hảo cả. Chỉ có một điều ta cần nhớ là tất cả những lý luận đó đều đến từ ước muốn của cô nàng chứ không phải từ nhận thức khách quan.
Từ Hải đã biết rõ hạnh phúc của mình nằm ở chỗ tự do, rằng: 'Bỏ thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu! Áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi!' Vậy mà:
Nghe lời nàng nói mặn mà,
Thế công Từ mơi trở ra thế hàng.172
Nghe lời Kiều thì quên hết!
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh.173
Trong nguyên lục không nói chuyện giải binh mà nói hàng với điều kiện không giải binh. Khi Hồ Tôn Hiến gửi một vị phụ tá có tài ngoại giao lớn tên là Lợi Triện sang thương thuyết nữa, Từ Hải nói: 'Nếu tôi hàng thì quý vị cho tôi chức Tổng Binh là cùng chức gì! Chức tước trong triều nhiều lắm là lên tới nhị phẩm. Các quan văn trong triều sẽ coi tôi ra gì đâu! Tôi là dân nhà binh, tự do quen rồi, làm sao nép phục dưới mấy ông đó!' Lợi Triện đáp: 'Một khi Đại Vương quy thuận triều đình thì sẽ được phong tước Hầu. Hai là được trấn tại đây, không bị đổi đi nơi khác. Ba là không giải binh, không buông quyền bính, được dùng quân trong vùng này.' Lợi Triện hứa: 'Ba điều kiện đó chắc chắn được chấp nhận!' và về báo cáo lại với Hồ Tôn Hiến. Hồ Tôn Hiến nói: 'Như vậy thì nên tổ chức uống máu ăn thề với Từ Hải rồi quyết định ngày giờ thực hiện việc quay về với triều đình ngay tại đại bản doanh của Từ Hải (không bắt Từ Hải ra khỏi vùng của mình.)' Người thân tín của Hồ Tôn Hiến là quan Lợi Triện cùng Từ Hải lập bàn thờ uống máu ăn thề, hứa sẽ thi hành hiệp ước đó, làm không đúng lời sẽ bị trời tru đất diệt. (Ngày xưa chuyện thề thốt quan trọng lắm!)
BẤT Ý THƯA CƠ
Tin lời thành hạ yêu minh,174
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng
Sau khi Lợi Triện và Từ Hải đã uống máu ăn thề, định ngày chính thức ra hàng rồi, Từ Hải thấy viễn tượng tương lai của mình là được phong tước Hầu, nắm giữ binh quyền và được triều đình chấp nhận. Tất cả những chàng lính trong quân đội Từ Hải đều thấy viễn tượng được về thăm gia đình. Ý chí chiến đấu không còn. Tác giả dùng tám chữ: 'Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.' Rất hay! Chỉ cần tám chữ là thấy được tình trạng bê hối của quân ngũ Từ Hải. Và cố nhiên, điều này không lọt qua mắt của thám báo triều đình:
Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
Vương sư175 dòm đã tỏ tường thực hư.
Hồ công quyết thế thừa cơ,
Lễ tiên binh hậu khắc cờ lập công.
Đây là câu lục bát toàn chữ Hán, không có chữ Nôm.
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
Lễ nghi phục trước bác đồng phục sau.
Theo nguyên lục, Hồ Tôn Hiến mặc áo mão triều đinh, đi dưới những cây lọng, phía trên có một lá cờ lớn thêu bốn chữ 'Đại thiên chiêu phủ'. Hồ dẫn theo ba đạo binh đi phía Bắc, phía Nam và tập hậu. Đoàn quân phía trước hoàn toàn không có khí giới, chỉ có nghi lễ và âm nhạc.
Từ công hờ hững biết đâu,
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên.
Từ Hải mặc lễ phục của đại quan đi bộ ra đầu hàng, trong tay hoàn toàn không có một tấc sắt.
Hồ công ám hiệu trận tiền,
Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
Đang khi bất ý chẳng ngờ,
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn,
Từ sinh liều giữa trận tiền,
Dạn dày cho biết gan liền tướng quân.
Khi nghe tiếng pháo lệnh và thấy địch quân reo hò ập lại từ ba phía, Từ Hải biết mình đã trúng kế. Không có ngựa để chạy trốn. Từ quay lui, cướp giáo của một địch quân, tả xung hữu đột, giết hàng chục quân sĩ và một viên tùy tướng của triều đình. Thấy Từ ghê gớm quá, phía triều đình nới vây, không dám đánh trực tiếp với Từ nữa mà dùng cung tên. Từ Hải bị tên nhắm bắn từ bốn phía, toàn thân bị tên cắm đầy như một trái chôm chôm.
Khí thiêng khi đã về thần,
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng.
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
Nỗi oan ức của Từ Hải lớn quá. Thác rồi mà khí uất vẫn còn khiến thân Từ đứng sững như một pho tượng đồng, không chịu ngã ra. Trước khi chết Từ Hải la lên: 'Phu nhân làm ta lầm!'
Quan quân truy sát đuổi dài,
Hằm hằm sát khí ngất trời ai đang.
Quân triều đình thừa thế đuổi theo, chém giết, tiêu diệt những đạo quân còn lại của Từ Hải. Rất tội nghiệp! Người ta đã chịu hàng rồi mà lại giết người ta và giết tất cả quân lính của người ta. Nói cái giọng: 'để tránh chuyện binh đao, tôn trọng sự sống của dân chúng' chẳng qua chỉ là nói dối mà thôi. Người ta đã hàng rồi mà không cho người ta cơ hội để hàng.
Trong ngoài hào lũy tan hoang,
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
Một số binh sĩ dắt Kiều tới chỗ Từ Hải vừa chết.
Trong vòng tên đá bời bời,
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ tro.
Khóc rằng: 'Trí dũng có thừa,
'Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
'Mặt nào trông thấy nhau đây?
'Thà liều sống chết một ngày với nhau!'
Dòng thu như xối cơn sầu,
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
Tương triền là quấn quít lấy nhau. Trong Từ Hải có oan khí, trong nàng Kiều cũng có oan khí đó. Và vì vậy, Từ Hải ngã xuống như một người chết bình thường khi Kiều tới gieo đầu xuống chân Từ Hải tự tử.
Quan quân kẻ lại người qua,
Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
Đem vào đến trước trung quân,
Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
Rằng: 'Nàng chút phận hồng nhan,
'Gặp cơn binh cách nhiều nàn176 cũng thương!
'Đã hay thành toán miếu đường,
'Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
'Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
'Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?'
Hồ Tôn Hiến nói: 'Đã đành sự thành công này là do kế hoạch của triều đình, nhưng nói về công trạng thì không có nàng việc lớn không thành. Nàng có công, vậy nàng muốn được thưởng như thế nào?'
Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới gởi thấp cao sự lòng.
Rằng: 'Từ là đấng anh hùng,
'Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi.
'Tin tôi nên quá nghe lời,
'Đem thân bách chiến177 làm tôi triều đình.
'Ngỡ là phu quý phụ vinh,178
'Ai ngờ một chút tan tành thịt xương.
'Năm năm trời bể ngang tàng,
'Dẫn mình đi bỏ chiến trường như không.
'Khéo khuyên kể lấy làm công,
'Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
'Xét mình công ít tội nhiều,
'Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi.
'Xin cho thiên thổ một đôi,179
'Gọi là đắp điếm cho người tử sinh.'
Kiều xin được mai táng cho Từ Hải tử tế.
Hồ công nghe nói thương tình,
Truyền cho kiểu táng di hình bên sông.
'Kiểu táng' (hay cáo táng) là bọc cỏ mà chôn, nghĩa là chôn một cách sơ sài, dối trá.
HẾT KIẾP ĐOẠN TRÀNG
Trong quân mở tiệc hạ công,180
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yết dưới màn,
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
Bị bắt chơi đàn góp vui cho quân thắng trận, đây cũng là một trong những giờ phút đau khổ nhất của đời Kiều.
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn giây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Cứ lâu lâu, thi sĩ lại cho ra một câu thần sầu quỷ khốc! Tất cả những đau khổ cùng cực của Thúy Kiều biểu lộ hết trong bản đàn.
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Đang say, đang vui mà nghe khúc dạo nhạc đó Hồ Tôn Hiến cũng phải khóc!
Hỏi rằng: 'Này khúc ở đâu?
'Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!'
Thưa rằng: 'Bạc mệnh khúc này,
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
'Cung cầm lựa những ngày xưa,
'Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!'
Ngày xưa Kiều sáng tác khúc Bạc Mệnh. Cái bạc mệnh ấy trong giờ phút này được phát hiện quá rõ ràng!
Nhìn vào người đàn bà đang đau khổ cùng cực ấy Hồ Tôn Hiến vẫn thấy nàng rất đẹp. Đẹp một cách não nùng! Bị nhan sắc của Kiều chinh phục, Hồ Tôn Hiến nói: 'Thôi đừng khóc nữa! Tôi sẽ cưới cô làm vợ lẽ.' Ông quan lớn này đã say lắm rồi! Say vì rượu, say vì sắc đẹp não nùng của Kiều. Quan lớn là người chiến thắng nhưng trong tiệc rượu này ông lại thua trận rát thảm hại. Giữa mặt quan quân đông đảo hàng ngàn người, Hồ Tôn Hiến đã khoác vai Thúy Kiều múa, trong tay cầm một ly rượu. Đó là những chi tiết đọc thấy trong nguyên lục mà truyện Kiều của cụ Nguyễn Du không có.
Nghe càng đắm ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Đó là hai câu lên án quan lớn đại diện cho triều đình. Đã chiến thắng nhưng nhân cách lại không ra gì.
Dạy rằng: 'Hương hỏa ba sinh,
'Dây loan xin nối cầm lành cho ai.'
Thưa rằng: 'Chút phận lạc loài,
'Trong mình nghĩ đã có người thác oan.
'Còn chi nữa cánh hoa tàn,
'Tơ lòng đã đứt dây đàn Tiểu Lân181
'Rộng thương còn mảnh hồng quần,182
'Hơi tàn được thấy gốc phần183 là may!'
Kiều từ chối, bày tỏ sự đau khổ của mình và chỉ có một thỉnh nguyện duy nhất là được về đoàn tụ với gia đình. Nhưng quan lớn đâu có nghe được điều đó. Quan lớn đâu có để ý tới khía cạnh nhân đạo nữa. Quan đã say lắm rồi! Say rượu và say sắc dục. Quan lớn đâu có thể nghe được tiếng kêu cứu của Thúy Kiều và ước vọng duy nhất còn lại của Kiều là được trở về với cha mẹ.
Hạ công chén đã quá say,
Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
Nghĩ mình phương diện quốc gia,
Quan trên nhắm xuống người ta trông vào.
Phải tuồng trăng gió hay sao,
Sự này mình biết thế nào được đây?
Sáng tỉnh dậy, nhớ lại những chuyện xảy ra tối hôm trước, Những chuyện mà nhìn vào người ta có thể đánh giá mình rất thấp. Hồ Tôn Hiến biết mình đã đi quá mức của một vị quan lớn đại diện cho triều đình. Sợ bị khiển trách và chê cười, Hồ đi tới một giải pháp rất mãnh liệt và chớp nhoáng:
Công nha vừa buổi rạng ngày,
Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài.
Lệnh quan ai dám cãi lời,
Ép tình mới gán cho người thổ quan.
Ép gả Thúy Kiều cho một viên quan địa phương (từ thổ quan dùng để chỉ cho các quan người địa phương, cai trị những vùng dân tộc ít người.)
Ông tơ cực nhé đa đoan!
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao.
Nàng càng ủ liễu phai đào,
Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
Đành thân cát dập sóng vùi,
Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh.
Chân trời mặt bể lênh đênh,
Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào?
Thấy con đường trước mặt của mình mờ ảo và hứa hẹn nhiều khổ đau, Kiều thấy mình hoàn toàn lạc hướng, không biết sẽ di về đâu. Không còn có một năng lượng, một trí tuệ nào để dẫn mình đi trên con đường đời nữa hết!
Duyên đâu ai dứt tơ đào,
Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay?
Thân sao thân đến thế này?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Một mình cay đắng trăm đường,
Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi.
Đây là tâm trạng của những người sắp tự tử. Kiều thấy đời sống không còn có ý nghĩa nào nữa cả, sống không có niềm vui, chết là khỏe hơn. Trong tuyện Ngu Sơ Tân Chí, bức thư của nàng Tiểu Thanh có câu: 'Vị tri sanh lạc, yên tri tử bi.' (Nếu ta không thấy niềm vui trong khi sống thì làm sao ta có thể biết rằng chết là đau khổ?) Đối với những người dã thấy được niềm vui trong sự sống thì họ có thể nghĩ rằng cái chết là khổ đau; nhưng đối với những người mà trong cuộc sống không bao giờ thấy niềm vui cả thì cái chết đôi khi lại là một con đường giải thoát. Đó là tâm trạng người sắp tự tử. Khi nào chúng ta lâm vào sự suy nghĩ như vậy thì chúng ta biết ý định tự tử đã được nhen nhúm trong con người mình.
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
Trăng đã sắp lặn rồi mà chuyện 'chết hay không chết' (to die or not to die) vẫn còn lẩn quẩn trong Kiều. Đi, dứng, nằm, ngồi. Kiều đều bị tư tưởng đó khuấy động.
Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
Hỏi ra mới biết là sông Tiền Đường.
Nghe hai chữ 'Tiền Đường' Thúy Kiều nghĩ ngay tới Đạm Tiên. Mười lăm năm trước, trong một lần tự tử không chết, Kiều nằm mơ thấy Đạm Tiên và được Đạm Tiên hẹn sẽ gặp lại ở sông Tiền Đường. Kiều không còn suy nghĩ gì nữa, nghĩ rằng đây là lúc mình phải chết. Trước đó: Mảnh trăng đã gác non đoài, Một mình luống những đứng ngồi không yên' là chưa giải quyết được vấn đề "chết hay không chết?' Nhưng khi nghe tiếng sóng và biết đây là sông Tiền Đường rồi thì không còn vấn đề suy nghĩ nữa. Chắc chắn là chết vì đây là một điều tiền định!
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây.
'Đạm Tiên nàng nhé có hay!
'Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.'
Ở đây chúng ta nên nhớ rằng: đứng về phương diện tâm lý, khi con người sa vào thế giới của bi quan và đen tối rồi thì họ quên tất cả những điều ngược lại. Cách đó năm năm, Kiều gặp sư chị Giác Duyên cho biết Tam Hợp đọa cô tiên đoán trong năm năm tới hai chị em sẽ được gặp lại. Kiều tin chắc điều này sẽ xảy ra; 'Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.', 'Lời sư đã dạy ắt là chẳng sai.' Nhưng trong giờ phút này Kiều chỉ nghĩ đến chuyện gặp Đạm Tiên (nghĩa là chuyện chết) thôi, còn chuyện sẽ được gặp Giác Duyên thì cô quên hẳn. Trong những lúc lâm vào tình trạng đen tối, ta chỉ tiếp xúc được với những hạt giống và chất liệu đen tối bên trong và xung quanh ta thôi. Còn tất cả những hạt giống đẹp đẽ, tươi mát, tích cực ở trong và xung quanh thì ta không thấy. Cái hoa tươi đẹp vậy mà mình không thấy. Màu trời xanh mầu nhiệm như vậy mà mình không thấy. Đối với mình cái gì cũng đen tối hết. Đen từ bên trong đen ra. Lâm vào tình trạng đen tối của tâm hồn ta thấy người nào cũng xấu, cũng dễ ghét. Trời đất cũng dễ ghét luôn! Không có gì tích cực, không có gì tươi mát, không có gì đáng sống hết! Chỉ có cái đen trong mình là có thật thôi! Đây là điều đang xảy ra cho Thúy Kiều. Là người tu, khi lâm vào tình trạng đen tối, ta phải tự nhắc mình rằng đây chỉ là tình trạng chốc lát, nhất thời. Trong bản thân ta và xung quanh ta vẫn có những cái rất mầu nhiệm mà ta không tiếp xúc được trong giây phút này. Ta phải nhờ những người anh, người chị, người em kéo ta ra khỏi tâm trạng đen tối đó. Vì vậy tu là phải tu với tăng thân. Bất cứ người nào trong chúng ta cũng thỉnh thoảng rơi vào tình trạng đen tối. Nếu ta không có một sư anh, sư chị, sư em giúp ta vượt thì ta có thể lún rất sâu vào tâm trạng này. 'Con về nương tựa Tăng' là chỗ đó. Tu mà không có tăng thân thì không thể thành công được. Và ngược lại, khi thấy một người sư anh, sư chị, sư em mình đang ở trong tình trạng đen tối, ta phải tìm cách kéo người ấy ra khỏi. Đó là bổn phận của chúng ta, một phần từ trong tăng thân. Đừng để người kia lún sâu vào tình trạng đen tối. Người đó có thể đang bệnh, thể xác yếu đuối. Thể xác yếu đuối đưa tới những tư tưởng đen tối. Ta phải làm thế nào để gần gũi, ưu ái, giúp người ấy thoát ra khỏi tình trạng ốm yếu của thể xác và tinh thần. 'Con về nương tựa Tăng' rất quan trọng. Ta phải tu với tăng thân, có anh, có chị, có em để nương tựa.
Đạm Tiên nàng nhé có hay!
'Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.'
Đáng lý lúc đó Kiều phải nghĩ tới Giác Duyên, và phải nói: 'Sư chị ơi! Sư chị hẹn gặp lại em mà bây giờ sư chị ở đâu? Sư chị Giác Duyên là người Kiều rất thương và tin cậy. Sự thật, lúc đó Giác Duyên đang đi tìm Thúy Kiều. Nhưng Thúy Kiều đâu đi tìm Giác Duyên! Thúy Kiều chỉ muốn đi kiếm một con ma thôi! (ma Đạm Tiên.) Trong Kinh Lăng Nghiêm Bụt dạy: 'Thập phương Như lai lân niệm chúng sanh như mẫu ức tử. Nhược thử đào thệ tuy ức hà vi? Tử nhược ức mẫu như mẫu ức thời, tử mẫu lịch sanh bất tương vi viễn. Nhược chúng sanh tâm ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai tất định kiến Phật, khứ Phật bất viễn.' Nghĩa là: Các đức Như Lai mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ mẹ chạy trốn thì mẹ có nhớ cũng không đi đến đâu. Trong khi đó, nếu con cũng nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì thế nào mẹ con cũng được gặp nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Bụt, niệm Bụt, hướng về Bụt thì bây giờ và trong tương lai chắc chắc chúng sanh và Bụt sẽ được đoàn tụ. Ở đây, trong tâm trạng đen tối, Kiều chỉ nhớ tới ma Đạm Tiên và sự chết mà thôi. Không nhớ tới sư chị Giác Duyên và tất cả sự nhẹ nhàng, an tịnh, giải thoát mà sư chị biểu lộ. Chỉ ' tìm những chốn đoạn tràng mà đi', không tìm những chỗ thanh thản. Đó là trường hợp của nhiều người.
Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
Một thiên tứ tuyệt gọi là để sau.
Trước khi tự tử Kiều vẫn có thói quen của thi sĩ, muốn làm một bài thơ để lại. Cụ Nguyễn Du không viết bài thơ ấy, nhưng trong nguyên lục đó là một bài thơ sáu câu sáu chữ:
Thập ngũ niên tiền hữu ước
Kim triêu thỉ đáo Tiền Đường
Bách thế quang âm hỏa thước
Nhất sinh thân sự hoàng lương.
Triều tín thôi nhân khứ giả
Đẳng nhàn khước liễu đoạn trường.
Nghĩa là:
Mưòi lăm năm trước đã có ước hẹn
Sáng hôm nay mới tới được sông Tiền Đường.
Thời gian một trăm năm đi mau như lửa tàn
Một đời người thân thế như giấc kê vàng
Nước triều lên như thông điệp giục giã mình ra đi
Để chấm dứt kiếp đoạn trường này.
Tôi tạm dịch:
Mười mấy năm xưa có hẹn
Sáng nay mới tới Tiền Đường.
Một kiếp thời gian thấm thoát
Trăm năm chỉ giấc kê vàng.
Tiếng sóng ngoài kia giục giã
Từ đây hết kiếp đoạn trường.
Viết xong bài thơ tuyệt mệnh Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường:
Cửa bồng vội mở rèm châu,184
Trời cao sông rộng một màu bao la.
Rằng: "Từ công hậu đãi ta,
'Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
'Giết chồng mà lại lấy chồng.
'Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
'Thôi thì một thác cho rồi,
'Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông.'
Trông vời con nước mênh mông,
Đem mình gieo xuống giữa giòng trường giang.
Thổ quan theo vớt vội vàng,
Thì đà đắm ngọc chìm hương cho rồi,
Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
Những người có sắc có tài là những người dễ bị đau khổ nhiều nhất! Đây là những giọt nước mắt của cụ Nguyễn Du nhỏ xuống để khóc cho Thúy Kiều mà cũng để khóc cho bản thân tác giả. Cụ Nguyễn Du là người có tài. Cụ đã từng thờ nhà Lê, sau này bắt buộc lại phải làm quan cho nhà Nguyễn. Cảm tưởng mình đã phụ bạc nhà Lê là một niềm đau trong lòng thi sĩ.
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
Những là oan khổ lưu ly,
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
Làm gương cho khách hồng quần thử soi.
Đời người đến thử thế thôi,
Trong cơ âm cực dương hồi185 khôn hay,
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!
Thúy Kiều đã chết. 'Trong cơ âm cực dương hồi khôn hay' tức là khi cái âm (yin) đến chỗ sâu nhất thì cái dương (yang) bắt đầu sinh ra. Cái lạnh lẽo của mùa Đông từ từ hết thì cái ấm áp của mùa xuân từ từ sinh ra. sẽ có sự thay đổi!
- Quá trình tu học của chúng ta là quá trình chết đi để sống lại. Những đau khổ của kiếp người rất quan trọng. Đi tu không phải là để trốn tánh đau khổ. Đi tu có nghĩa là sử dụng tất cả những đau khổ của mình để chuyển rác thành hoa. Sự sống chân thật được làm bằng chất liệu của sự chết. Hạnh phúc chân thật được làm bằng chất liệu khổ đau. Những người nào trong chúng ta đã từng đau khổ thì đừng vì vậy mà buồn phiền. những đau khổ đó chính là chất liệu cần thiết để chúng ta có thể tạo dựng ra hạnh phúc và giải thoát, như những người làm vườn biết sử dụng rác để làm phân, biến rác thành hoa. Những người chưa đau khổ thì khó thành công hơn những người dã từng đau khổ. Nhưng khổ đau nhiều, tiếp tục chất chứa phiền não mà không biết phương pháp biến rác thành hoa thì mình có thể chết chìm trong đau khổ. Nếu thông minh, có thầy, có bạn thì với số lượng đau khổ mình có, mình có thể chuyển rác thành hoa dễ dàng. Và mình có thể thành công mau hơn những người chưa từng đau khổ hoặc chỉ mới đau khổ sơ sơ. Sự thực tập của chúng ta là mỗi ngày phải tập chết. Chết đi những vô minh, tham đắm, khổ đau để an lạc và giải thoát được bùng nổ. Đức thế tôn cũng đã trải qua chuyện chết đi sống lại này bao nhiêu lần trước khi thành đạo. Là học trò của Ngài, chúng ta cũng phải học chết. Mỗi khi ngồi thiền, chúng ta phải chết. Hãy để cho chúng ta chết để chúng ta có thể sống dậy được.
Thúy Kiều đã chết. Đây là một tin mừng của Thúy Kiều. vì nếu không chết như vậy thì không sống trở lại được. Trong Thánh Kinh của Cơ Đốc Giáo cũng có tư tưởng này: '... si le grain de blé qui est tombé en terre ne meurt, il reste seul; mais s'il meurt, ol porte beaucoup de fruit.' Hạt cây mà không chết thì cái cây không thể sanh ra được. Khi một hạt lúa được gieo xuống đất, hạt phải chết, nứt ra, tàn hoại thì mộng cây mới có thể trở thành cây con được. Tu hành ta đừng nên sợ chết. Trái lại, ta phải học chết mỗi ngày để cho sinh mệnh của giải thoát có thể thoát thai ra từ những đau khổ của chúng ta.
Ở CHO YÊN NGỒI CHO VỮNG
Bây giờ chúng ta hãy theo sư chị Giác Duyên:
Giác Duyên từ tiết giã nàng,
Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
Bầu là bầu cam lộ; níp là cái túi để đựng Kinh Kim Cương. Hành lý của người tu chỉ có một cái bình đựng cam lộ và một túi đựng Kinh Kim Cương thôi. Vân du là vân thủy. Người tu là phải có tự do. Tìm về chỗ có mây nước, giải thoát và an lạc mà tới. Không chui đầu vào làm nô lệ. Hồi còn bé, tôi có được nghe giai thoại của một anh học trò nghèo và một vị xuất gia gặp nhau trên một chuyến đò. Ông thầy hình như vừa mới đi cúng về. Trong túi ông không biết có trăng gió hay không nhưng chắc chắn là có chuối có xôi (có oản) Ạnh học trò nghèo kiết xác mồng tơi than đói. Ông thầy lấy xôi, chuối mời. Anh ta rất mừng. Ăn xong, ông thầy hỏi: 'Anh là học trò thiệt không mà ăn xôi, ăn chuối của tôi?' -'Dạ con là học trò thiệt mà, thưa thầy!' - 'Vậy anh làm cho tôi một bài thơ đi!' Đây là bài thơ của anh học trò:
Một hòm kinh sử, níp Kim Cương186
Thầy tớ cùng nhau một chuyến dương
Đám hội đàn chay thầy đủng đỉnh
Ngồi cao chức trọng tớ nghênh ngang
Sao người chẳng nhớ lời Hàn Dũ
Đầy tớ còn căm chuyện Thủy Hoàng187
Phút chốc lên bờ rồi tiễn biệt.
Người thì nên Bụt tớ nên sang.
Tôi còn nhớ bài thơ này chỉ vì trong bài thơ có chữ 'níp Kim Cương.'
Giác duyên từ tiết giã nàng
Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du.
Gặp bà Tam Hợp đạo cô
Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
'Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
'Kiếp sao gặp những đoạn trường thế thôi?'
Đạo cô Tam Hợp là người theo Lão giáo, có thể biết chuyện quá khứ và tương lai. Sư chị nói chuyện về Trạc Tuyền và hỏi về vận mệnh của cô. Chứng tỏ sư chị rất còn thương sư em.
Sư rằng: 'Phúc họa đạo trời,
'Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
'Có trời mà cũng tại ta,
'Tu là cỗi phúc188 tình là dây oan.
'Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra' là tư tưởng của Kinh Hoa Nghiêm: 'Nhất thiết duy tâm tạo.' Trời là cộng nghiệp; ta là biệt nghiệp. Chúng ta bị ảnh hưởng của cộng nghiệp nhưng chúng ta cũng chịu trách nhiệm với tư cách cá nhân. nếu biết tu tập thì ta tọa ra phước đức; còn bị ràng buộc vào trong tình cảm thì ta tạo ra những oan nghiệp cho mình và cho người khác. Đó là lời thốt ra từ miệng một đạo cô.
Và bây giờ nhà đạo học đưa ra một sự phân tích về bản án của cuộc đời Thúy Kiều:
'Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
'Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
'Lại mang lấy một chữ tình,
'Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
'Vậy nên những chốn thong dong,
'Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
'Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,
'Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Thúy Kiều có sắc đẹp và thông minh nhưng lại thiếu những nhân tốt của cuộc đời. Vô duyên là không có duyên may mắn, trong quá khứ đã không gieo trồng những hạt giống tốt. Người ta thành công được không phải do tài năng của mình mà do sự may mắn. Sự may mắn không phải ngẫu nhiên mà đến. May mắn có nghĩa là những nhân duyên do mình hoặc cha mẹ ông bà mình đã gieo trồng trong quá khứ. Nếu chúng ta đã có duyên lành rồi tức là chúng ta may mắn hơn Thúy Kiều.
Nếu chỉ vô duyên thôi thì không đến nỗi gì. Thúy Kiều đã vô duyên mà lại còn thêm tội đa tình nữa! 'Lại mang lấy mọt chữ tình. Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong.' Mình tự buộc chứ có ai buộc mình đâu! 'Xin cho tôi làm nô lệ! Tôi phát nguyện được làm nô lệ cho người suốt đời, đời này sang đời khác!' Tự do không muốn, chỉ muốn làm nô lệ! Không ai buộc được mình hết, chỉ có một người có thể buộc được mình thôi: chính mình!
Hai nguyên do tọa nên bi kịch của Thúy Kiều: Thứ nhát, không có những hạt giống phước đức của kiếp trước. Thứ hai, mình tự cột mình vào trong vòng tình ái. Hai cái đó sẽ đưa Kiều tới đâu?
Vậy nên ở chốn thong dong,
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
Dầu có được cơ hội đi vào những chốn tự do và thong dong thì Kiều cũng ở không yên ngồi không vững. 'Vậy nên những chốn thong dong' có nghĩa là Kiều đã có cơ hội đi vào những chốn thong dong. Chốn thong dong là chốn nào? Chốn thong dong là chốn có những người có thể bước những bước chân thảnh thơi, ngồi uống trà, ăn cơm có hạnh phúc, có thể ngồi yên từ giờ này sang giờ khác mà không cần phải bôn ba chạy đi đâu hết. Đã có duyên đi tới những chốn thong dong đó nhưng vẫn không thong dong được. Vẫn đi thì như 'chó đạp phải lửa'189, vẫn ngồi như ngồi trên than hồng. Không tiếp xúc được với sự thong dong ở trong lòng mình và xung quanh mình. Cứ nhìn Làng Mai là chúng ta biết. Ở Làng Mai có những người an trú được. Họ ngồi yên được, uống trà được, nhìn mây, nhìn trời được. Họ nhận đó là quê hương của họ. Mỗi giờ phút họ có htể an an lạc và hạnh phúc. Nhưng có những người khác không làm như vậy. Không có khả năng ngồi, không có khả năng đi. Thấy chỗ này chưa phải là chỗ của mình. Chỗ của mình là chỗ khác, chỗ nào? Chỗ đoạn trường. Những lời của đạo cô Tam Hợp hay lắm!
Ở tức là trú (dwelling.) Ở không yên ổn' tức là không an trú. Ngồi trên xe lửa mà không yên, ngồi trong thiền đường cũng không yên, ngồi trên bãi cỏ cũng không yên, ngồi ở cốc Ngồi Yên cũng không yên. Không có chỗ nào mà ngồi yên được. Ngồi trên than hồng thì làm sao vững vàng được! Chúng ta học: 'Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề, Vững thân chánh niệm không hề lãng xao.' Sự thực tập của chúng ta là ở cho yên và ngồi cho yên. Chỉ có chừng đó thôi. Chúng ta học Kinh Hoa Nghiêm, giới luật, thở, thiền hành... là cốt để đi tới một cái đó: ngồi cho yên, ở cho yên và có hạnh phúc. Vì bất an nên chúng ta rong ruổi. Rong ruổi về quá khứ, rong ruổi về tương lai. Điều này không cần phải ai nói, chúng ta chỉ cần nhìn lại tâm chúng ta để thấy. Chúng ta có ngồi yên không? Chúng ta có khả năng uống trà, ăn cơm, nắm tay một người bạn, nhìn trời xanh, mây trắng, bước những bước chân thảnh thơi trên con đường thiền hành hay không? Chúng ta có chất liệu bất an của Thúy Kiều không? Nhiều hay ít, chúng ta đều có chất liệu ấy của Thúy Kiều. Tu tức là chuyển hóa chất liệu để có thể ở cho an ổn, ngồi cho vững vàng.
'Vậy nên những chốn thong dong. Ở không an ổn ngồi không vững vàng' là câu thơ tả được tâm trạng của nhiều người. Không có hạnh phúc vì không an trú được trong giây phút hiện tại: bây giờ và ở đây. Đi đâu cũng bất an: về Việt Nam cũng bất an, qua Mỹ cũng bất an, về Làng Mai cũng bất an... Nếu tâm ta an thì chỗ nào cũng là chỗ thong dong, chỗ nào cũng là tịnh độ, chỗ nào cũng là an lạc cả.
Tâm không an trú, không có khả năng ngồi ở Thiền Đường hay Tịnh độ thì phải đứng dậy để đi. Đi đâu? Đi vào những thế giới của đoạn tràng. Đoạn tràng là đứt ruột, đau khổ, ngũ thú, lục đạo. Ai dắt chúng ta vào những con đường u mê, những chốn đoạn tràng đó? 'Ma đưa lối quỷ dẫn đàng.' Ma quỷ này là những tâm hành tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. La Hán có nghĩa là người phá ma. Ma ở đâu? Ở trong tâm chúng ta. Chính vì chúng ta không thể an trú được nên những con ma trong tâm xuất hiện, xui bảo chúng ta: 'Mình ở chỗ này không được, phải đi tìm hoàn cảnh khác.' Càng suy nghĩ càng bấn loạn trong tâm và tâm hành bất an xui hai chân ta phải chạy. Đó là những con ma đưa chúng ta vào những hoàn cảnh đen tối, đoạn tràng. Ta hãy đọc lại những câu này và phản chiếu lại nội tâm mình:
'Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
'Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
'Lại mang lấy một chữ tình,
'Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
'Vậy nên những chốn thong dong,
'Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
'Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,
'Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Dễ sợ! Những câu thơ như lột hết tâm can mình ra, chỉ cho mình thấy bản chất luân hồi, khổ đau và địa ngục nằm ngay trong chính con người mình.
'Hết nạn ấy đến nạn kia,
'Thanh lâu hai đợt thanh y hai lần.
'Trong vòng giáo đựng gươm trần,
'Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi.
'Giữa dòng nước dẫy sóng dồi
'Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.190
Cố nhiên không có khả năng an trú được trong những chốn thong dong thì thế nào mình cũng gặp tai nạn. Tai nạn xảy ra ngay ở chỗ mà mọi người đang sống thong dong. Trong chỗ thong dong đó, người khác sống thong dong nhưng mình đâu có thong dong! Đạo cô tóm tắt cuộc đời đau khổ của Kiều, chung cục phải tự tử dưới sông trong cô đơn, im lặng (vắng tanh). Những đau khổ của mình, mình không thể nói cho ai nghe được.
'Oan kia theo mãi với tình -
(Còn tình tức là còn oan.)
'Một mình mình biết một mình mình hay.
Có tám chữ mà hay đến nước như vậy! Tất cả những khổ đau của mình không ai có thể hiểu được, chỉ có mình mới thấm thía được mà thôi; vì người khác không ở trong da thịt mình thì làm sao hiểu được!
'Làm cho sống đọa thác dày,
'Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi.'
Sống thì rơi xuống (đọa), chết cũng là bị đày. 'Làm cho sống đọa thác đây' là vì hai điều đã nói: vô duyên với Phật pháp, với sự an lạc và lại tự mình buộc lấy mình trong con đường của tình ái.
THẢ MỘT BÈ LAU
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
'Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!'
Nhưng đạo cô không nói một đời. Chỉ nói kiếp sống từ khi Thúy Kiều sinh ra cho đến khi Kiều chạm vào đáy đau khổ (hitting the bottom) phải tự tử ở sống Tiền Đường thôi.
Sư rằng: 'Song chẳng hề chi,
'Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
'Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
'Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm.
'Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời.
Tuy bị ràng buộc trong vòng tình ái nhưng Kiều không phạm lỗi tà dâm. Đây là nói tới đêm đầu tiên Thúy Kiều được gần Kim Trọng. Hai người rất mê nhau nhưng Thúy Kiều nhất định không phạm giới thứ ba. Chính nhờ Thúy Kiều mà Kim Trọng không bị phạm giới tà dâm. 'Giữ gìn cho tôi và giữ gìn cho anh. Để cho ngày hôm nay còn tươi sáng và để ngày mai chúng ta vẫn sẽ còn có nhau.' Đó là một câu trong bài hát Hộ Trì Sáu Căn. Trong suốt mười năm lưu lạc, Thúy Kiều nhớ mãi hình ảnh đêm đó. Đó là một sự nâng đỡ rất lớn cho Thúy Kiều trong những lúc đau khổ. Nếu hai người phạm giới thứ ba trong đêm hôm đó thì Thúy Kiều đã mất một hình ảnh rất đẹp, không thể đem theo trong suốt mười lăm năm để chống đỡ với những đau khổ. Hành động bán mình chuộc cha của Kiều cũng là một hành động chuyển nghiệp rất tốt.
'Hại một người cứu muôn người
'Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
Hai câu này nói đến chuyện Từ Hải chết và cứu được muôn dân khỏi nạn đao binh. Chỗ này gượng ép vì Kiều đâu có muốn hại Từ Hải!
'Thửa công đức ấy ai bằng?
'Túc khiên191 đã rửa lâng lâng sạch rồi.
'Khi nên trời cũng chiều người,
'Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
'Giác Duyên nhớ đến nghĩa nhau,
'Tiền Đường thả một bè lau rước người.
'Trước sau cho vẹn một lời,
'Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!'
Đạo cô khuyên ni sư Giác Duyên làm một chiếc bè lau để đợi vớt Kiều ở sông Tiền Đường. Trong thời gian 1965-1966, đất nước Việt Nam đau khổ cùng cực vì chiến tranh. Tôi có cho đăng một đoạn Kiều này trong tờ báo Giữ Thơm Quê Mẹ mà tôi đang chủ trương lúc đó, lấy tên là Thả Một Bè Lau. Thân phận Việt Nam chua xót, đau khổ giống hệt thân phận Thúy Kiều. Khi thì phải đi với Pháp, khi thì đi với Nhật, với Mỹ... như một cô gái giang hồ. Đau khổ cùng cực! Từ tấm thân làm nô lệ đến tấm thân đi vào chiến tranh, không có gì khác nàng Kiều hết. 'Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần.' Thanh y là bị làm đầy tớ, nô lệ cho nước ngoài. Thanh lâu là làm gái giang hồ. Mối tình với những chủ thuyết Đại Đông Á, Mác-Xít, Tư Bản... là mình buộc lấy mình. Tự nhiên, khi không mà tự buộc mình trong những chủ thuyết như vậy để khổ. Vương vấn vào những mối tình như vậy thì chỉ làm lớn thêm khổ nhau. Chiến tranh là do đâu? Do chỗ mình quấn mình vào những hoàn cảnh đó, đi đôi với những thế lực ngoại quốc đó. Mời quý vị đọc lại mà xem:
'Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
'Vô duyên là phận hồng nhan đã đành.
'Lại mang lấy một chữ tình,
'Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
'Vậy nên những chốn thong dong,
'Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
'Ma đưa lối quỷ dẫn đàng,
'Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
'Hết nạn ấy đến nạn kia,
'Thanh lâu một lượt thanh y hai lần,
'Trong vòng lễ giáo dựng gươm trần,
'Kề răng hùm sói gửi thân tôi đòi.
'Giữa dòng nước đẩy sóng dồi,
'Trước hàm rồng cá gieo mồi vắng tanh.
'Oan kia theo mãi với tình,
'Một mình mình biết một mình mình hay.
'Làm cho sống đọa thác đày,
'Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!'
Đó không phải là số phận của riêng nàng Kiều. Đó là số phận của nước Việt Nam! Con đường thoát là con đường nào? Là phải tu. Không tu thì không thoát ra được. Phải nghe lời Tam Hợp đạo cô thả một bè lau. Cái bè lau cứu được số mạng nước Việt Nam là sự tu học. Nếu không tu thì không thể đưa đất nước ra khỏi tình trạng của Thúy Kiều. Hồi đó tôi đã thấy được rất rõ rằng chỉ có sự tu học theo con đường của chánh pháp mới có thể cứu được đất nước ra khỏi con đường khổ đau. Và tôi đã đăng đoạn thơ này lên báo Giữ Thơm Quê Mẹ với tên là Thả Một Bè Lau. Tất cả công việc chúng tôi làm trong thời gian đó là kêu gọi mọi người thương nhau, chấp nhận lẫn nhau, đi theo con đường của từ bi, xóa bỏ hận thù. Nhưng tiếng súng đã át tiếng thuyết pháp. Biết bao nhiêu người đi trên con đường của từ bi xóa bỏ hận thù đã bị giam cầm, tra tấn và áp bức.
Nếu quý vị thấy được tình trạng của đất nước và dân tộc và thấy được rằng chỉ có con đường tu học, từ bi hóa giải hận thù mới đưa đất nước ra khỏi giai đoạn đau khổ hiện tại thì quý vị biết mình phải làm gì và không nên làm gì. Công việc của chúng ta là thả một bè lau, đưa thuyền Từ của đạo Bụt ra để tế độ đất nước. Phải tu mới được. Không có con đường nào khác. Tu với bản thân mình, thành lập tăng thân. Đem đọa lý Từ Bi như một chiếc bè để cứu Việt Nam ra khỏi giai đoạn đen tối mấy chục năm. Đó là con đường thoát. Con đường thoát đó đã được chỉ rõ trong lời phán quyết của đạo cô Tam Hợp. Không cần tìm đâu xa, ngay trong truyện Kiều ta đã có thể thấy được con đường giải t hoát của đất nước.
GIÓ TRĂNG MẮT MẶT MUỐI DƯA CHAY LÒNG
Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú192 bên sông Tiền Đường.
Đánh tranh chụm nóc thảo đường,
Một gian nước biết mây vàng chia đôi.
Sư chị thương sư em lắm cho nên đã tìm tới bên sông Tiền Đường lợp một am tranh và ở lại đó để chờ Thúy Kiều. Có ai thương sư em bằng sư chị đâu! Chỗ sư chị ở, tuy nhỏ nhưng rất đẹp: Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Thuê năm ngư phủ hai người,
Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
Biết Thúy Kiều sẽ tự tử ở đây nên sư chị thuê hai người ngư dân giăng lưới chực sẵn. Tiền đâu mà thuê? Có lẽ vàng ngày xưa Thúy Kiều đã cho sư chị. Hai người ngư dân trọn năm không đánh cá nữa, chỉ 'đánh người' thôi. Thấy cá thì phải theo lời sư chị bỏ ra ngoài.
Một lòng chẳng quản mấy công,
Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
Chuyện gặp lại sư em giống như có sự chuyển vận luân hồi, đã định trước.
Kiều từ gieo xuống duềnh ngân,
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
Ngư ông kéo lưới vớt người,
Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa.
Trên mui lớt mướt áo là,
Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
Giác Duyên nhìn thật mặt nàng,
Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
Chưa chết hẳn, chỉ mới uống nước hơi nhiều thôi.
Mơ màng phách quế hồn mai,
Đạm Tiên thoát đã thấy người ngày xưa.
Rằng: 'Tôi đã có lòng chờ,
'Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
Cô này kể công quá! Đã nói mười lăm năm sau mới gặp mà tại sao phải chờ tới mười lăm năm ở đây? Đi chơi trong thời gian ấy phải hay hơn không! Cái cô Đạm Tiên này cũng không có tự do và thảnh thơi gì hết!
'Chị sao phận mỏng phúc dày,
'Kiếp xưa đã vận lòng này dễ ai!
'Tâm thành đã thấu đến trời,
'Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
'Một niềm vì nước vì dân,
'Âm công cất một đồng cân đã già.
Cán cân đã già về phía hạnh phúc, non về phía đau khổ. Lấy bớt bên phía khổ đau thì phía hạnh phúc chĩu xuống.
'Đoạn trường số rút tên ra,
'Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
- 'Tên chị đã được rút ra khỏi sổ đoạn trường, vì đức chị đã nhiều, nợ đã trả hết. Mười bài thơ ngày xưa chị đóng góp vào tập thơ của hội Đoạn Trường em trả lại cho chị vì chị không còn là một hội viên của Hội nữa.' Hai câu thơ này vẫn còn vướng văn phạm Trung Hoa: Đoạn trường thơ. Phải nói là Sổ Đoạn trường và Thơ Đoạn trường thì mới là đúng với văn phạm Việt. tuy nhiên nếu ta đọc hai câu thơ này theo kiểu đọc hai câu 'gió cây trút lá trăng ngàn ngậm sương' thì cũng thấy hay.
'Còn nhiều hưởng thụ về sau,
'Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!'
- 'Từ đây về sau duyên phước của chị sẽ đầy đủ.'
Nàng còn ngơ ngẩn biết sao,
Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai.
Giác Duyên gọi: 'Trạc Tuyền! Trạc Tuyền!' Sư chị nhất định kêu nó bằng 'em', quyết bắt nó về tu trở lại, không cho đi hoang nữa cho nên quyết gọi nó là 'Trạc Tuyền' chứ không xưng là 'phu nhân' nữa.
Giật mình thoát tỉnh giấc mai,
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
Sướng quá! Chết mà không chết. Thức dậy thì thấy có sự chị ngồi một bên. Đây là giây phút hạnh phúc nhất của Thúy Kiều. Có ai đang ngồi trong thất niệm mà tự nhiên nắm lấy hơi thở: 'thở vào - tỉnh lặng', thở ra - mỉm cười', rồi nhìn lại thấy sư chị mình đang ngồi một cách thân ái bên mình không? Ngưòi đó là người có hạnh phúc. Phép lạ này các sư cô và sư chú có thể thực hiện được bất cứ giờ phút nào. Đừng sống với một con ma, hãy trở về với hơi thở mầu nhiệm. Hãy tỉnh dậy để thấy rằng bên mình đang có một sư chị rất ngọt ngào và vẫn thương mình sâu sắc như ngày nào. Vì lâu nay mình đang chạy theo một con ma nên không biết rằng sư chị luôn luôn có mặt đó. Sư chị là ai? Đó là câu hỏi. Đừng nói sư chị không có mặt đó; nói như vậy là oan lắm! Sư chị Giác Duyên luôn luôn có mặt. 'Thập phương Như Lai lân niệm chúng sanh như mẫu ức tử.' Sư chị luôn nghĩ đến mình nhưng mình lại đi trốn sư chị, không tìm về với sư chị đó thôi. Hàng ngày sống với một con ma, thì sư chị có cũng như không. Phải tỉnh dậy mới gặp sư chị được! 'Giật mình thoát tỉnh giấc mai' Luôn luôn hạnh phúc bắt đầu từ chỗ tỉnh thức.
Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư.
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
Rất hay! Hai chị em được đoàn tụ. 'Một nhà chung chạ sớm trưa.' Buổi sớm có nhau, buổi trưa có nhau. Ở chung một nhà, thấy được sự quý giá của nhau chứ không phải đi ra đi vô gặp không nhìn, mà lại nhìn đi chỗ khác. 'Một nhà chung chạ sớm trưa' là hạnh phúc lắm. Mình sống với các sư chị và các sư anh của mình và có đủ hạnh phúc để cho nhau. Mình đâu có cần nhiều điều kiện vật chất để có hạnh phúc đâu! 'Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.' Đủ những thức ăn cho thân thể và tinh thần. Gió trăng mát mặt là hạnh phúc khi mình được tiếp xúc với những mầu nhiệm của thiên nhiên. Khi bị giam hãm trong khổ đau thì gió có mát mình cũng không thấy mát, trăng có trong mình cũng không thấy trong. Khi được thảnh thơi rồi thì mình tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống xung quanh và trong bản thân mình. Muối dưa chay lòng là chấp nhận nếp sống đơn giản của nhà chùa. Chay lòng nghĩa là lòng không còn nhuộm những màu sắc ngoài đời nữa. Không đi kiếm những cái mà ngoài đời người ta cho là thiết yếu cho hạnh phúc. Mình đã biết giá trị của những cái đó quá rồi! Mình không đi tìm những chỗ ăn ngon, mặc đẹp, vinh hoa phú quý, bằng cấp này, địa vị kia nữa. Từ bỏ được rồi mình mới có thể sống một đời sống thanh bạch. Muối dưa, nhưng rất hạnh phúc. Một bài thơ tôi làm tại Phương Vân Am có câu: 'Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui.' Có thanh tịnh, có an lạc thì mình mới thấy những mầu nhiệm xung quanh mình:
Trăng sao vẫn đẹp đêm rằm
Bãi dương vẫn mướt sóng tùng vẫn xao
Lòng quê lòng vẫn khát khao
Hoa mai cứ nở đồi cao gọi mời
Tháng tư lá lục hoa cười
Cho trăng thêm tuổi, cho đồi thêm xuân
Vườn xanh cây mướp trổ bông
Trẻ thơ đùa giỡn trước sân nắng đào
Chợ văn bán sách lầu cao
Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui.
Hồi đó thầy trò bán sách (theo đường dây thép) để có tiền mua muối mua dưa: 'Chợ văn bán sách lầu cao, Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui.' Cái vui của người xuất gia khác với cái vui ở ngoài thế tục.
Hạnh phúc luôn luôn đơn giản. Hạnh phúc không bao giờ quá rắc rối. Ta có hạnh phúc không? Sư em, sư chị có hạnh phúc không? Đó là câu hỏi: Những điều kiện của hạnh phúc đã có đủ; chỉ có vấn đề là ta có khả năng sử dụng những điều kiện hạnh phúc đó để sống hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại hay không mà thôi. Ví dụ; gió trăng mát mặt. Hồi hôm trăng đẹp lắm, không biết quý vị có thấy không? Trăng đẹp, nhưng nếu tâm ta vẫn còn đi với một con ma thì trăng có đó cũng như không. Gió mát, nhưng tâm ta không ở đó t hì gió có coi như là không có. Muối dưa đáng lý làm cho tâm hồn chúng ta ngày càng an tịnh thì chúng ta có thể nói: 'Tại sao sống cực khổ như vậy? Tại sao mà đọa đày tấm thân ở cái chốn khỉ ho cò gáy này?' Tất cả đều do tâm mà ra hết. 'Sư rằng: 'Phúc họa đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.' Đọc truyện Kiều, chúng ta có thể không đọc như một tiểu thuyết mà đọc như đọc Kinh. Chất liệu của tuệ giác được chứa đựng trong này rất nhiều, được biểu hiện bằng những hình ảnh thi ca rất đẹp.
Trong truyền thống đạo Bụt, muốn có hạnh phúc thì phải sống đơn giản. Thế giới hôm nay lâm vào tình trạng khổ đau và bế tắc là vì người ta không thấy được hạnh phúc trong nếp sống đơn giản. Nhiều bậc giác ngộ nói rằng nẻo thoát cho thế giới ngày hôm nay là một nếp sống đơn giản (a simple life style.) Nền văn minh hiện đại của chúng ta đã đi vào ngõ bí. Nếu chúng ta cứ tiếp tục đi theo hướng này thì chúng ta sẽ chết, nền văn minh này sẽ bị tiêu diệt. Chỉ có một nẻo thoát thôi, là tìm về một nếp sống đơn giản mà hạnh phúc. Bây giờ ai cũng nghĩ rằng phải có xe hơi, tủ lạnh, trương mục, một số lương tối thiểu nào đó, một bằng cấp và phải được công nhận thì mới có hạnh phúc. Nếu chưa có những điều kiện đó thì mình vẫn có cảm tưởng như mình bất lực, không phải là con người. Vì vậy ai nấy đều đưa đầu vào guồng máy. Chỉ những người rất khương kiện mới nói rằng hạnh phúc của tôi không phải là đi về hướng đó, hạnh phúc của tôi là đi về hướng khác. Chúng ta tìm về một nếp sống đơn giản, có tự do và hạnh phúc. Muối dưa chay lòng có nghĩa là đã buông bỏ những đua chen trong cuộc đời, chấp nhận rằng chỉ có nếp sống đơn giản mới đem lại hạnh phúc thật sự mà thôi. Những người ở thành phố phải trả thuế rất nặng về nhà cửa và chức nghiệp (nhất là giới bác sĩ, kỹ sư, thương gia.) Nhiều người tự tử vì thuế. Thuế nặng quá, người ta phải chạy, không có thì giờ để thở, để tiếp xúc với ánh trăng, với cơn gió thoảng. Muối dưa chay lòng là một điều kiện quan trọng để ta có được cái hạnh phúc của gió trăng mát mặt. Tám chữ này có thể là nẻo thoát cho nền văn minh hiện đại. Ta có thể viết tám chữ này treo trong thiền đường. Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng. Thật đơn giản, giải pháp của đạo Bụt đối với nền văn minh mới!
Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
Đây là tả cảnh chỗ hai sư cô ở nhưng cũng đồng thời nói được tâm trạng thư thái, tự do của hai chị em. 'Bốn bề bát ngát mênh mông' nghĩa là họ có tự do. Chúng ta nhớ bài thiền tập:
Là hoa tươi mát
Là núi vững vàng
Nước tĩnh lặng chiếu
Không gian thênh thang.
Khi sống có tự do và buông thả thì tự nhiên ta có 'không gian thênh thang.' Quan trọng nhất là khi có 'triều dâng hôm sớm' mà nghe được tiếng triều dâng. Mây lồng trước sau: cảnh là một cái khung, mây được lồng vào cảnh đó. Mây mong manh, đủ màu, đủ hình thái, rất đẹp. Tôi còn nhớ một lần ở Ba Lan, trước khi đi giảng tôi có tới thăm một họa sĩ. Họa sĩ không vẽ gì hết, chỉ vẽ mây thôi. Hỏi tại sao, ông nói: 'Thưa Thầy, tại vì chỉ có mây là đáng vẽ thôi!' Nếu ông vẽ mây mà có chánh niệm thì nhìn vào mây ông có thể thấy tất cả mọi cái khác đều có trong mây. Lúc đó ông sẽ không còn kỳ thị giữa mây và không mây nữa. 'Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau' cũng là những mầu nhiệm của vũ trụ, nếu không thanh thản thì ta cũng không tiếp xúc được. Trong đời sống 'một nhà chung chạ sớm trưa' ta phải giúp nhau để cho những người kia (sư chị, sư anh hay sư em của mình) tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống đang có mặt hôm nay. Mùa xuân, cây cối xanh tươi. Cứ mỗi vài ngày lại có một loại hoa mới xuất hiện. Có những đám mây rất đẹp, những cơn gió rất mát. Những cái đó ta làm sao tiếp xúc được khi ta bị giam giữ trong sự tiếc thương quá khứ, lo lắng bất định trong tương lai, khi ta quên đi giờ phút hiện tại. Là những người thương nhau, ta phải giúp nhau ra khỏi tâm trạng lo lắng, tiếc nuối, buồn phiền để có thể tiếp xúc được với những mầu nhiệm của sự sống trong giờ phút hiện tại. Sự thực tập của chúng ta là sự thực tập tiếp xúc. Nếu không tiếp xúc được với những mầu nhiệm của hiện tại thì ta thực tập không được thành công. Thực tập tiếp xúc được với những mầu nhiệm trong hiện tại thì thời gian chúng ta ở lại đây là thời gian hạnh phúc nhất trong đời và sau đó ta có thể tiếp tục sống hạnh phúc ở bất cứ nơi nào.
Đọc đoạn này, chúng ta thấy sư chị rất dễ thương và rất thương sư em. Có thể sư chị có nhiều nhiệm vụ ở những nơi khác nhưng cứu được sư em rồi thì hai chị em ở lại đó. Chúng ta hãy nhìn lại xem thử chúng ta đã được như Thúy Kiều và Giác Duyên lúc này hay chưa. Ta có thấy rằng được sống với sư chị, sư em mình trong khung cảnh có trăng, có gió, có mây, có trời là hạnh phúc hay không?
Trong bản in của cụ Trần Trọng Kim thì đến đây thơ được chấm câu và ngắt sang đoạn khác nhưng tôi thấy không nên, phải đọc tiếp:
Nạn xưa trút sạch làu làu,
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
Tất cả những tai nạn vướng vào thân phận Thúy Kiều, làm cho Thúy Kiều ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, đều được trút sạch hoàn toàn. 'Nạn xưa trút sạch làu làu.' Sáu chữ này nói về sự chuyển hóa hoàn toàn của Thúy Kiều. Từ khi Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường, cái nghiệp quá khứ của Kiều đã chấm dứt. Mỗi người chúng ta đều cso sông Tiền Đường, chúng ta sẽ chấm dứt được tất cả những khổ đau và tai nạn của mình. Chúng ta được sinh ra lại trong một đời sống mới. Sông Tiền Đường đó có thể là Xóm Thượng hay Xóm Hạ, New York City, Amsterdam hay Mineaplis..., bất cứ ở đâu mà ta thấy rằng ta có thể chết được trong đời sống khổ đau vương vấn và tái sinh lại trong đời sống thanh thản, nhẹ nhàng. Mỗi người trong chúng ta đều có một sông Tiền Đường. Vấn đề là chúng ta đã tới được sông Tiền Đường đó hay chưa. 'Nạn xưa trút sạch làu làu.' Không có câu thơ nào đẹp bằng! Đó là sự giải thoát hoàn toàn. Đó là sự buông bỏ tất cả những tai nạn, nghiệp chướng; nhờ mình chết được. Trong Thiền chúng ta có danh từ 'chết đi sống lại' (tuyệt hậu tái tô.) Nếu không chết đi sống lại thì chúng ta không sinh ra được trong cõi Tịnh Độ; Tịnh Độ ngay trong giờ phút này.
Cô nàng đã được giải thoát. Còn anh chàng thì sao? Đó là điều chúng ta sẽ xét lại trong đoạn sắp tới. Bây giờ chúng ta hãy đọc chung lại đoạn này:
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
Bốn bề bát ngát mênh mông,
Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
Nạn xưa trút sạch làu làu,
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
Thời gian này (không biết rõ là được bao nhiêu tháng) là thời gian rất hạnh phúc của hai chị em. Cả chị và em đều lớn lên một cách rất mau. Tuy hai người rất thương yêu nhau, lưu luyến nhau nhưng chị bây giờ đã biết dạy cho em và em đang quyết tâm thực tập đàng hoàng theo chị. Thúy Kiều sau đó chứng tỏ đã lớn lên vững mạnh và chuyển hóa lớn lao. Điều đó không được nói tới trong sáu câu thơ này. Nếu viết lại truyện Kiều thì chỗ này chúng ta phải viết về chuyện thực tập của hai bên. Ngày xưa khi ở Am Chiêu Ẩn sư chị không dạy cho sư em đàng hoàng. Khi lâm vào tình trạng bối rối khổ đau thì sư em không biết cách giữ thân, giữ tâm. Kỳ này thì khác. Đứng về phương diện tu tập và kinh nghiệm thì Thúy Kiều, tức ni cô Trạc Tuyền, bây giờ đã bước những bước rất dài. Kinh nghiệm khổ đau rất nhiều và kinh nghiệm tu tập trong giờ phút chót đã có đầy đủ. So với người con trai thì Thúy Kiều đã bước những bước của người khổng lồ. Kim Trọng vẫn còn lẽo đẽo đi trên con đường lận đận. Trên đường tâm linh, Kim Trọng còn đi lọt phía sau một quãng khá dài. Điều này chúng ta thấy rất rõ mỗi khi ở Làng Mai một, hai, ba năm về gặp lại những người bạn cũ. Những người ngày xưa cùng đi một đường với ta tại sao bây giờ vẫn chưa gỡ được những sợi dây mà mình thấy rất dễ gỡ! Đây là tâm trạng Thúy Kiều trong những câu thơ sau. Thúy Kiều đã làm rất hay và làm một cách rất nhẹ nhàng, vô tướng để giúp người con trai mình ngày xưa (người cũ, cố nhân.) Những người mình đã có cảm tình ngày xưa, mình có bổn phận phải độ họ thôi, mình phải độ cả những người khác. Nhưng họ là những người năằ trong diện ưu tiên. Giống như năm người bạn tu của Tất Đạt Đa. Cùng tu chung với nhau, sau này thấy Tất Đạt Đa uống sữa, ăn cháo, ăn yoyurt... họ nghĩ ông này tụ hành không ra gì hết và bỏ đi. Nhưng tình đồng đạo còn đó nên khi thành đạo rồi Bụt nghĩ đến năm người và tìm tới vườn Nai độ họ. Chúng ta cũng vậy. Đạt tới sự nhẹ nhàng rồi chúng ta phải đi tìm cha, tìm mẹ, tìm anh chị em, tìm người cũ của mình để giúp họ. Đó là chuyện rất thông thường. Rồi quý vị sẽ thấy điều này là một điều rất dĩ nhiên.
135 Kình ngạc: hai giống cá to dữ, chỉ quân lính hùng mạnh. Giáp binh: áo giáp và khí giới.
136 Tiếng la: tiếng thanh la, nhạc khí bằng đồng dùng để đánh.
137 Phượng liễn loan nghi: kiệu và các đồ nghi trượng có chạm, thêu hình chim loan, chim phượng.
138 Hoa quan: mũ có đính vàng ngọc, kim cương đẹp đẽ. Chấp chới: sáng lóng lánh. Hà y: áo đỏ tía như sắc ráng trời.
139 Trúc tơ: sáo và đàn, âm nhạc.
140 Bài: miếng gỗ vuông để viết chữ; hỏa: ý việc khẩn cấp, nóng như lửa. Hỏa bài tiền lộ: thẻ bài hỏa tốc cầm đi trước để báo tin cho nhân dân biết mà lo việc phục dịch hay dẹp đường cho quan quân đi.
141 Nam đình: triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra. Đại doanh: doanh trại lớn, chỗ đóng quân của Từ Hải.
142 Hàn vi: đói lạnh, chỉ lúc nghèo hèn, không có thế lực, khổ đau.
143 Nghiêm quân: chỉnh đốn hàng ngũ quân lính. Tuyển tướng: lựa chọn, sắp đặt các tướng.
144 Báo phục: báo trả lại; ân thì báo ân, oán thì báo oán. Chỉn ghê: rất đáng sợ.
145 Vệ cơ: các đơn vị quân đội ngày xưa. Thị lập: đứng hầu. Song phi: dàn ra làm hai hàng.
146 Bác đồng: mác và giáo. Tinh kỳ: cờ tinh, một loại cờ hiệu dùng trong quân ngày xưa.
147 Trướng hùm: do chữ hổ trướng: nơi làm việc của các tướng soái.
148 Tiên nghiêm: hồi trống đánh mở đầu để làm tăng vẻ trang nghiêm.
149 Cửa viên: do chữ viên môn: cửa dựng bằng càng xe. Thời xưa, vua đi tuần thú, săn bắn ở ngoài dựng ở đâu quây các cổ xe làm giậu, dừng càng xe làm cửa gọi là viên môn (viên: càng xe.)
150 Cho phu: cho bõ, cho đáng.
151 Sâm Thương: chỉ sự cách biệt, không được gặp nhau như sao Sâm và sao Thương. Theo Từ điển truyện Kiều của Trần Trọng Kim: 'Sâm là sao Cày, mấy sao ở giữa chòm Orion, Thương là mấy sao sắc đỏ ở đuôi chòm sao Scopion mà ta gọi là sao Thần Nông. Trong vòm trời, hai vị sao ấy cách nhau gần 1800 cho nên hễ thấy được sao này mọc thì sao kia lặn, không thể nào cùng thấy trong một bầu trời (người ta vẫn hiểu lầm là sao Hôm và sao Mai) cho nên dùng để tỉ dụ sự cách biệt không gặp nhau được. Theo chú giải Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang: 'Sao Sâm là chòm sao gồm bảy ngôi ở phía Tây, một trong nhị thập bát tú, màu đỏ da cam; sao Thương tức là chòm sao Tâm, gồm ba ngôi ở phía Đông, nằm trong nhị thập bát tú, màu đỏ lửa.
152 Hiến phù: dâng nộp những người tù binh bắt được, đây ý nói giải những người có tội tới.
153 Các tích: án tích kể những tội lỗi của người tù phạm. Phạm tù: người bị bắt làm tù vì phạm tội. Hậu tra: đợi để tra hỏi.
154 Tri quá: biết lỗi.

155 Ba quân: Tiền quân, trung quân và hậu quân; ý nói tất cả quân lính. Pháp trường: chỗ hành hình người có tội.
156 Thanh thiên bạch nhật: giữa trời xanh đang lúc ban ngày, ý nói rõ ràng, không giấu diếm ai.
157 Thiên tải nhất thì: nghìn năm mới có một lần, dịp hiếm có.
158 Bàn hoàn: quanh quẩn, quấn quít, vui vẻ với nhau.
159 Theo ghi chép của sư cô Chân Khong trong quyển Thử Tìm Dấu Chân Trên Cát: 'Hồi đó chúng tôi thường tổ chức các đại nhạc hội để giúp các em cô nhi ở Việt Nam... Chúng tôi cũng cho ra tờ Le Lotus đặc biệt in trên giấy vàng để kêu gọi ngưòi đỡ đầu cho cô nhi chiến nạn... Hồi ấy tại khám Chí Hòa có ba trăm tăng sĩ tuyệt thực để gây áp lực trên Hòa Hội Paris; chúng tôi cũng được thầy phái đi các nước Hoa Kỳ, Đan Mạch, Ý Đại Lợi, Anh Cát Lợi, v.v... để vận động yểm trợ cho cuộc tuyệt thực này. Tôi còn nhớ tại Rome có ba trăm linh mục đi diễn hành, mỗi vị đeo trên ngực bảng tên của một tăng sĩ Việt Nam tại khám Chí Hòa. Tinh thần liên đới quả thật đẹp. Hedi Vaccara và mấy người bạn Ý của phái đoàn đã rất vất vả trong lần tổ chức cuộc diễn hành này.'
160 Quốc sĩ: người tài của đất nước
161 Kẻ Việt người Tần: kẻ ở nước Việt (phía Đông Nam), người ở nước Tần (phía Tây Bắc); ý nói mỗi người một nơi, cách biệt xa xôi.
162 Giá áo túi cơm: do chữ y giá phạn nang: cái giá mắc áo, cái túi đựng cơm, chỉ người vô dụng, không có chí hướng. Ý cả hai câu: gặp buổi loạn lạc thì mài gươm mà kiến tạo sự nghiệp, còn những hạng người tầm thường chỉ biết có ăn có mặt thì kể làm gì.
163 Cô quả: tiếng khiêm cung của các vua chúa nước nhỏ thời xưa (như người tu xưng là bần đạo: tôi tu đạo còn nghèo lắm.) Cô: như con mồ côi, không ai dạy bảo, giúp sức cho. Quả: tức là quả nhân, ý nói khiêm là người ít đức, nhờ quần thần giúp đỡ. Bá Vương chỉ chung cho cái thế lực hùng mạnh của người đứng đầu các nước chư hầu.
164 Kinh luân: lấy từng mối tơ mà gỡ ra gọi là kinh, so từng sợi tơ cùng một loại mà kết thành con gọi là luân; sửa sang sắp đặt việc chính trị gọi là kinh luân.
165 Đẩy xe: chữ Hán là thôi cốc. Theo Hán Thư, ngày xưa khi một viên tướng vâng chỉ vua đi đánh giặc, vua tiễn ra cửa thành và lấy tay đẩy xe của viên tướng, tỏ ý vua ủy thác công việc quan trọng. Vâng chỉ: vâng theo chiếu chỉ của vua. Đặc sai: phái đi làm nhiệm vụ dặc biệt.
166 Tiện nghi: có quyền quyết định tại chỗ, tùy theo sự nghi mà làm, không cần phải hỏi ý kiến vua. Sách Quả Sự Loại kể chuyện đời Tống có một viên tri phủ xứ Hà Bắc tên là Vân Ngạn Bát xin với vua cho ông ta có thể tùy tiện giải quyết việc cấp tốc tại chỗ các vấn đề quân sự, khỏi phải bất cứ việc gì cũng gửi sứ về hỏi ý kiến vua; vua chấp nhận. Bát tiễu: dẹp giặc, đánh giặc - có bản ghi là phủ tiễu: dẫn dụ cho bên kia quy hàng rồi phong chức (phủ), nếu họ không nghe thì mới đánh (tiểu). Đổng nhung: trông coi, đốc suất việc quân.
167 Chiêu an: kêu gọi, chiêu dụ hàng giặc để đặt lại an ninh.
168 Hồ đồ: Không rõ ràng trong đầu. Từ Hải còn nghi ngờ lắm.
169 Bể Sở sông Ngô: Sở, Ngô là tên hai nước thời Xuân Thu, nay thuộc miền đông nam Trung Quốc, là địa bàn hoạt động của Từ Hải
170 Bình thành: địa bình thiên thành là chữ sách Kinh thư: Làm cho thủy thổ được điều hòa gọi là địa bình; khiến cho ngũ hành (thủy, hỏa, kim, mộc, thổ) theo thứ tự mà ổn định gọi là thiên thành. Đó là lời nói công đức trị nước lụt của vua Vũ. Đây ý nói công đức to lớn của vua lo sửa sang việc nước, ra ơn cho dân.
117 Vô Định là tên một con sông ở Thiểm Tây. Thơ của Trần Đào đời Đường có câu: 'Khả lân Vô Định hà biên cốt' = khá thương thay cho đống xương ở bến sông Vô Định (xương của người chết vì chiến tranh.)
172 Thế công: thế mạnh chủ động tiến đánh. Thế hàng: thế yếu phải đầu hàng.
173 Thúc giáp: bỏ áo giáp lại, tức là bỏ các đồ binh khí. Giải binh: giải tán quân đội
174 Thành hạ yêu minh: hai bên đến dưới thành (thành hạ) để giao ước hòa với nhau.
175 Vương sư: quân của nhà vua.
176 Nàn: tai nạn.
177 Bách chiến: trăm trận đánh, ý nói dạn dày chốn trận mạc.
178 Phu quý phụ vinh: chồng làm nên quan sang, vợ cũng được vinh hiển.
179 Thiên thổ: chỗ đất hèn hạ, chỗ đất xấu. Một đôi (cũng đọc là một doi): một dải đất nhỏ ở rìa cửa sông hoặc dọc sông.
180 Hạ công: mừng công thắng trận.
181 Tiểu Lân: họ Phùng, hiệu Tục Mệnh, vợ vua nước Tề. Sau khi nước Tề thua nước Chu, Tiểu Lân bị bắt về Chu. Chu Vũ Đế gả nàng cho người khác. Nhân lúc ngồi đàn, dây đàn đứt, nàng xúc cảm làm thơ, có câu: 'Dục tri tâm đoạn tuyệt, Ưng khán tất thượng huyền' = Muốn biết lòng tôi dứt nát như thế nào thì nhìn dây đàn trên đầu gối này.
182 Hồng quần: người đàn bà (ngày xưa mặc quần đỏ.)
183 Gốc phần: chỉ quê nhà.
184 Cửa bồng: cửa thuyền (bồng: thuyền nan to.)
185 Âm cực dưong hồi: khí âm đã cùng cực thì khí dương lại về, đó là đạo tuần hoàn; ở đây dùng với ý gợi cho biết vận bĩ của Kiều đến đây là cùng cực và vận thái sắp đến.
186 Học trò thì có Tứ Thư, Ngũ Kinh; thầy tu thì có níp đựng Kinh Kim Cương.
187 Hàn Dũ là một ông quan, tâu lên vua để vua bạc đãi tăng đồ; Tần Thủy Hoàng nghe lời các quan đốt hết Tứ Thư, Ngũ Kinh và giết các nhà Nho. Nhà sư và nhà Nho luôn nhớ đến Pháp nạn và Giáo nạn của họ.
188 Cỗi phúc: gốc của phúc đức.
189 Thành ngữ Việt Nam.
190 Câu này lấy ý thơ Đỗ Phủ: Ngư long tịch mịch thụ giang lãnh vắng tanh thị: Rồng cá lặng lẽ sông thu lạnh. Cho nên vắng tanh là đúng.
191 Túc khiên: nợ nần trong quá khứ.
192 Thú; chỗ ở, nơi tới.
CHƯƠNG 4: TAN SƯƠNG ĐẦU NGÕ
HOA ĐÀO NĂM NGOÁI
Chúng ta hãy đi trở lại mười lăm năm trước:
Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.
Mười lăm năm là một đường hầm dài rất tối. Chúng ta đã từng thử làm người bạn đồng hành của Thúy Kiều, đi ngang qua con đường hầm tối mười năm đó. Kiều đã tìm thấy ánh sáng. Bây giờ anh chàng mới bắt đầu. Tội nghiệp!
Kim Trọng đi hộ tang cho ông chú ở Liêu Dương, sáu tháng trở về:
Vội sang vườn Thúy dò la,
Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rờ.
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Cứ tưởng tượng về thì cảnh sẽ như xưa mà người cũng như xưa. Nhưng mọi sự đã hoàn toàn đổi khác. Trong tâm mình chứa chất một hình ảnh. Mình nghĩ rằng hình ảnh đó sẽ mãi còn như vậy. Nhưng sự thật của cuộc đời là vô thường. Chỉ cần mấy ngày thôi mà tình trạng đã hoàn toàn đảo ngược. Sau tai nạn, gia đình Thúy Kiều phải bán nhà. Từ một gia đình giàu có, họ phải đi may thê, viết mướn, làm công cho người ta và cư trú trong một túp nhà rất lụp xụp. Kim Trọng trở về thấy ngôi nhà cũ hoàn toàn cô liêu. 'Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.' Hình ảnh trong lòng chàng trai đem so với hình ảnh hiện tại thì hoàn toàn khác nhau. Sự ngạc nhiên của Kim Trọng bắt đầu từ sự so sánh hai hình ảnh đó.
Trước sau nào thấy bóng người' nhưng: 'Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.' Cây hoa đào năm ngoái chỗ hai người trao cành kim thoa vẫn nở hoa rực rỡ, cười với gió mùa xuân (gió đông). Câu này lấy tứ từ bài thơ của thi sĩ Thôi Hộ đời Đường:
Tích niên kim nhật thử môn trung
Nhân diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiểu đông phong.
(Năm xưa, cũng ngày này, tại cổng nhà này, (nàng đứng dưới cây hoa đào) gương mặt phản chiếu màu hồng của hoa đào, người ấy không biết bây giờ đã đi đâu rồi, trong khi hoa đào vẫn cười với gió mùa xuân y hệt như năm ngoái.)
Cây hoa đào năm ngoái đã che chở cho Thúy Kiều. Bây giờ không còn Thúy Kiều nữa nhưng đến mùa, hoa đào vẫn nở, vẫn đẹp, vẫn tự do, hạnh phúc. Con người không có hạnh phúc và tự do vì con người có sự mê đắm. 'Đào hoa y cựu tiếu đông phong': hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Chỉ có chàng Kim là méo miệng, không cười được. Nhiều khi người ta ước ao làm một cây đào hay một cây thông cho khỏe. Trong con người mình có những tình tự tham đắm, khổ đau, lo lắng và mình thấy hạnh phúc của mình không bằng hạnh phúc của một cây đào hay một cây thông. Nguyễn Công Trứ ngày xưa cũng đã có tâm tình đó cho nên một hôm thi sĩ nói: 'Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.' Khi có những hồi hộp, khổ đau, lo lắng thì nhìn một cây thông ta cũng thấy nó hạnh phúc, vững mạnh hơn ta quá nhiều. Thiền ôm cây (tree hugging meditation) rất lợi ích. Mỗi khi ở trong tình trạng như vậy ta có thể tới ôm cây để tiếp nhận được sự vững chãi và tươi mát của cây. Trúc Lâm Đại Sĩ, tức vua Trần Nhân Tông khi đã đi tu, một lần trả lời câu hỏi của một thiền sinh về chuyện tu học, đã nói:
Vườn nhà vắng mặt người chăm sóc
Lý trắng đào hồng tự nở hoa.
Khỏi phải lao tác mệt nhọc, khỏi phải tranh đấu. Trong con người mình có sẵn giác tánh, cho giác tánh đó có cơ hội thì tự nhiên nó sẽ nở hoa. 'Vườn nhà vắng mặt người chăm sóc, Lý trắng đào hồng tự nở hoa.' Ở đây ta thấy hình ảnh một cây đào. Ngày xưa bên Tàu có một thiền sư tên Linh Vân đi chơi tháy hoa đào nở thì giác ngộ. Khỏi tu gì hết! Nhưng chắc chắn trước đó ông cũng đã đi thiền hành, đã tập hơi thở rồi cho nên đến lúc thấy hoa đào ông mới giác ngộ chứ! Có biết bao nhiêu người thấy hoa đào nhưng có giác ngộ gì đâu! Nhất là anh chàng Kim Trọng. Thấy hoa đào, càng thấy càng rầu, không giác gì cả! Trước mặt chúng ta là hai hình ảnh trái ngược. Một là hình ảnh cây đào rất giải thoát. Có nàng Kiều hay không có nàng Kiều đứng một bên thì cây cũng tỉnh bơ, vân cười với gió mùa xuân. Một anh chàng khác, không tên 'đào' mà tên Kim, không thể tiếp xúc được với hoa đào; bởi vì thiếu một người thì cây hoa đào không có nghĩa gì nữa. Trên đời không còn gì có nghĩa nữa nếu nàng (hay chàng) không có mặt. Un seul être vous manque et tout est dépeuplé.': chỉ thiếu một người thôi là cả thế gian này trở nên trống rỗng, lạnh tanh. Đó là một câu thơ của Lamartine. Do tâm mình ra hết. Khi mình đã vướng vào một cái và cho đó là thế giới của mình rồi thì mình bỏ hết tất cả những gì còn lại trong thế giới kia. Nếu nàng không có mặt đó thì không có cái gì có mặt đó hết. Gió càng không mát, trăng cũng không trong, đào cũng không hồng, không có cái gì ra cái gì hết. đó là một sự bất công rất lớn. Có phải vậy không? Tại sao vũ trụ, thiên nhiên, sự sống mầu nhiệm như vậy mà mình cho là zero hết khi mình chỉ thiếu có một cái thôi? Mà cái đó chưa chắc mình đã thật sự thiếu. Có thể nó có đó mà mình không thấy. Những người đã từng đau khổ vì mất mát một người thân (cha, mẹ, con, cháu, người yêu, hay thầy, trò của mình) có thể hiểu được tâm trạng của Kim Trọng lúc này. Trong những lúc thiếu thốn như vậy, tốt hơn là trở về với thiên nhiên. Tiếp xúc với thiên nhiên ta sẽ được an ủi rất nhiều và sẽ có thể thấy trở lại, tiếp xúc trở lại với người ta đã mất. Có một lần tôi đi thiền hành ở Xóm Thượng với một người cha trẻ mất con. Tôi chỉ cho người đó tiếp xúc với những bông hoa, đọt lá, giúp người cha đó tìm lại và tiếp xúc với đứa con vừa mới mất. Nếu mình mất cha, mẹ, người yêu hay con cái mình cũng phải làm như vậy. Phải trở về với thiên nhiên. Thiên nhiên có thể an ủi được mình, chỉ cho mình cách tiếp xúc lại được với người mình thương. Cũng thi sĩ Lamartine nói: Mais la nature elle là qui t'invite qui t'aime. Plonge-toi dans son sein qu'elle t'ouvre toujours. Et tandis que tout change pour toi, la nature est la même. Et la même soleil se lève sur tes jours. (Nhưng này bạn, dù bạn có khổ đau thì thiên nhiên vẫn còn đó. Thiên nhiên vẫn yêu bạn. Bạn nên lặn hụp vào trong lòng của thiên nhiên vì thiên nhiên đang mở hai cánh tay để đón bạn. Trong khi đối với bạn tất cả đều thay đổi, thì thiên nhiên vãn là thiên nhiên cũ. Không phản bội bạn, sẵn sàng mở hai cánh tay đón nhận bạn. Mặt trời hôm nay, mọc lên, chiếu xuống cuộc đời bạn vẫn là mặt trời cũ. Bạn đừng quên.) Đó là lời khuyên của thi sĩ. Bạn đừng nói rằng 'Un seul être vous manque et tout est dépeuplé': Chỉ thiếu một người là không còn gì nữa hết! Nói như vậy là bất công. Trở về, tiếp xúc với thiên nhiên là con đường thoát cho những người đột nhiên mất một người thân. Cây đào đang nở hoa là một sứ giả của Bụt, của chân như mầu nhiệm. Cây đào nói: 'Bạn ơi, đừng đau khổ nữa! Có tôi đây!' Nhưng Kim Trọng đâu đã nghe được, đâu đã tiếp xúc được. Sự đam mê đã lớn quá rồi, trong lòng chỉ còn có một hình ảnh. Không có cái phản chiếu hình ảnh đó thì coi như cuộc đời không còn gì nữa cả. "Nếu đời không có em thì đời không có giá trị gì hết!' Đó là lời tuyên bố của những người đang kẹt vào sự đam mê.
Xập xèo én liệng lầu không.
Có lan mặt đất rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai góc mọc đầy,
Đi về này những lối này năm xưa.
Tất cả những hình ảnh của quá khứ hiện ra. Khi đã bị hình ảnh của quá khứ trấn ngự trong tâm rồi, đem ra so với hình ảnh hiện tại thì thấy bây giờ mình đã mất hết. Trong khi đó thế giới vẫn còn là thế giới. Người ta tự tử là vì tưởng rằng mình đã mất hết rồi. Kỳ thực người ta không mất gì cả. 'Chúng ta đã được gì hôm qua và sẽ mất gì sáng nay' là một câu thơ tôi viết tron bài Hoa Mặt Trời.
QUÁ THƯƠNG CHÚT NGHĨA ĐÈO BỒNG
Chung quanh lặng ngắt như tờ
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẻ hỏi một hai sự tình.
Hỏi ông ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
Hỏi nhà nhà đã dời xa,
Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân
Đều là sa sút khó khăn,
May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi,
Điều đâu sét đánh lưng trời,
Thoát nghe chàng đã rụng rời xiết bao.
Hỏi han di trú nơi nao193
Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
Phải hỏi thăm mấy ngày trời mới tìm được tới chỗ gia đình viên ngoại. Tới nơi thì thấy gì:
Nhà tranh vach đất tả tơi
Lau treo rèm nát trúc gài phên thưa.
Một sân đất cỏ dầm mưa,
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẫn đường.
Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
Chàng Vưong nghe tiếng vội vàng chạy ra.
'Vương Quan ơi! Vương Quan!' Vương Quan là bạn học Kim Trọng, gọi Vương Quan chứ còn gọi ai được nữa! Kim đâu có quen với hai ông bà viên ngoại mà cũng đâu có quen với cô em gái của Kiều.
Dắt tay vội rước vào nhà,
Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
Trong nhà này bây giờ ai cũng đã biết tất cả những bí mật giữa Kim và Kiều rồi. Thấy Kim, Vương Quan kéo ngay chàng vào trong nhà. Hai ông bà nghe nói có chàng Kim tới cũng ra hết. Vì thương lắm. Thương con bao nhiêu thì thương chàng bấy nhiêu. Bây giờ đã hiểu thì thương. Lúc trước thì chưa chắc.
Khóc than kể hết niềm tây:
'Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
'Kiều nhi phận mỏng như tờ,
'Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng.
'Gặp cơn gia biến lạ dường,
'Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
'Dùng dằng khi bước chân ra,
'Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
Càng nghe nói chàng Kim càng thấy gia đình này đã biết hết chuyện mình.
Trót lời nặng với lang quân,
'Mượn tay em nó Thúy Vân thay lời.
Chúng ta hãy nhớ lại chuyện công chúa Huyền Trân. Sau khi vua Chàm mất, theo nguyên tắc công chúa phải lên giàn hỏa đốt theo vua Chàm. Nhưng nhờ công chúa có mang nên người ta hoãn lại, đợi công chúa hạ sinh em bé rồi mới làm lễ hỏa thiêu. Đó là tục lệ của Ấn Độ. Vua Anh Tông, anh ruột của công chúa Huyền Trân, đã tổ chức một cuộc bắt cóc cứu công chúa về. Thấy bên mình làm như vậy là tráo trở, đã gã con cho người ta rồi mà làm như vậy là không tử tế. Thượng Hoàng (Trúc Lâm Đại Sĩ) sai đệ tử là thiền sư Bảo Phác xuống nói chuyện với vua Anh Tông nên làm một hành động gì để xin lỗi. Để tâm được yên, vua Anh Tông cho ba trăm người thợ khéo nước Chàm đã cống hiến cho nước Việt được về nước. Ở đây cũng vậy. Thúy Kiều đã hứa lỡ cho Kim Trọng, bây giờ phải bán mình chuộc cha nên rất áy náy. Vì vậy nàng xin với cha mẹ ba bốn lần gả em gái mình cho chàng Kim. Ngày xưa ở Đông Phương (với chế độ đa thê) có khi hai chị em cưới cùng một chàng. Ở Việt Nam người ta gọi là: 'hoa thơm hái cả cụm.' Nếu Thúy Vân là một cô gái mới thì cô ta sẽ nói: 'Tui đâu có mắc nợ anh chàng hồi nào mà bắt tui phải trả nợ!' Nhưng ở đây tình chị em liên đới nên chị mắc nợ thì em trả dùm cho chị. Trong xã hội cũ, gia đình là một khối thì người ta chấp nhận và làm chuyện đó được. Các cô gái mới bây giờ thì chắc không chịu đâu!
'Trót lời nặng với lang quân,
'Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
'Gọi là trả chút nghĩa người,
'Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên.194
'Kiếp này duyên đã phụ duyên,
'Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh.
'Mấy lời ký chú đinh ninh,
'Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
'Phận sao bạc bấy Kiều nhi,
'Chàng Kim về đó con thì đi đâu?'
Chuyện chỉ xẩy ra mới cách đây sáu tháng. Vết thương còn tươi. Hai ông bà nhắc lại thì đau lòng, và khóc.
Ông bà càng nói càng đau,
Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
Nỗi đau của ông bà làm cho ông bà không thấy được rằng nỗi đau của anh chàng cũng rất lớn. Dàu là dập nát, vò nhàu. Quý vị có thấy dưa cải không? Gắp một gắp dưa cải nhìn thì thấy nó nhàu nát, nhăn nhíu. Cái lòng của Kim Trọng lúc này là như vậy.
Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai.
Đau khổ cho đến nỗi thân hình của Kim Trọng giống như một con giun bị người ta cuốc nhằm. Quằn quại, đau đớn. Cả thân và tâm đều đi vào địa ngục. Thân quằn quại mà tâm cũng quằn quại. Đường hầm mười lăm năm cô nàng đã đi qua rồi, anh chàng bây giờ mới bắt đầu. 'Vật mình vẫy gió tuôn mưa, Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai.' Đau khổ tuôn ra như mưa như gió. Mình không còn là mình nữa. Một người thông minh, bặt thiệp, linh mẫn bây giờ giống như một cái xác không hồn, không còn gì nữa cả. Đó là chứng bệnh tương tư thất tình.
Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
Có những lúc cơn đau đi lên, ngưng lại một chút rồi lại đau lên một chập khác. Giống như cơn sốt, sốt xong, bớt sốt rồi sốt lại. Chữ đoạn và chữ thôi có nghĩa là từng chập một. Đau, ngất một hồi, bớt đi, nghĩ nhớ tới lại đau, lại ngất. Những cái đau đó hoàn toàn do tâm mình hết. Mỗi khi hình ảnh kia hiện lên thì mình đau trở lại. Rõ ràng khi một người lâm vào trạng thái đam mê thì người dó rất đau khổ. 'Đau đòi đoạn ngất đòi thôi, Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.' Những người nào đã đi ngang qua cái cầu này đều thấy rằng những điều cụ Nguyễn Du viết là có thiệt. Chắc chắn cụ cũng đã đi ngang qua đó rồi. Đó là tình trạng của người thất thình đau khổ. Tình yêu đúng là một tai nạn vì người yêu nào cũng phải đi qua những cái cầu này. Cụ Nguyễn Du là một thi sĩ có khả năng diễn tả tình cảm con người một cách tuyệt diệu. Nói về tình yêu đoạn nào cũng hay. Ngôn ngữ về tình yêu của cụ thật xuất sắc. Tả đau khổ của một chàng trai mất người yêu mà đến mức như thế thì thiết tưởng những nhà văn của thế kỷ hai mươi này ít ai sánh được.
Thấy chàng đau nỗi biệt ly
Nhịn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên:
'Bây giờ ván đã đóng thuyền,
'Đã đành phận bạc khôn đền tình chung.
'Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
'Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?'
- 'Này con, thân con quý lắm! Con đừng bỏ cái thân con.' Trong tình trạng thất tình như vậy người ta không muốn sống nữa. 'Một người không có mặt thì cả thế giới này cũng như không!' Tình trạng đó là tình trạng rất nguy hiểm. Anh chàng chỉ muốn chết. Gia đình của Thúy Kiều là tăng thân cứu Kim Trọng, nếu không có họ có thể Kim Trọng đã tự tử. Lạ thay, tình thương đáng lý phải đem lại sự an ủi ấm áp, hạnh phúc mà trái lại, nó đưa ta đến gần cái chết. Tình ái, đam mê thường đưa người ta tới cái chết. Trong rất nhiều trường hợp, tình yêu và cái chết là hai cái rất gần nhau. L'amour et la mort gần như đồng nghĩa. Rất dễ sợ! Trong đạo Bụt có nói về tình thương, diễn tả bằng những ngôn ngữ rất rõ ràng: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Tình thương phải có tác dụng hiến tặng niềm vui (Từ), làm vơi nỗi khổ (Bi), có sự vui vẻ (Hỷ) và không kỳ thị (Xả). Tình đam mê rất kỳ thị. Chỉ có một người có giá trị thôi còn tất cả những người khác không có giá trị gì cả. Chỉ có một hiện tượng là đẹp thôi còn tất cả những hiện tượng khác đều không đẹp. Đó là kỳ thị, là không Xả. Tình thương đó đem tới toàn những khổ đau Thực tập tình thương trong đạo Bụt cho chúng ta thấy được rõ ràng thứ tình nào đem lại hạnh phúc và thứ tình nào dìm mình vào hố sâu của đau khổ, cô đơn, đưa mình tới cận kề cái chết.
'Quá thương chút nghĩa đèo bòng, Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?' Cha mẹ Thúy Kiều đã đóng vai trò cha mẹ của chàng sinh viên này. Nhờ có hai ông bà và hai người con còn lại mà Kim Trọng không tự tử. May cho Kim Trọng! Bốn người đó là ai? Bốn người đó là Thúy Kiều. Chính vì vậy mà Thúy Kiều đã giúp được Kim Trọng một lần nữa. Thúy Kiều đã từng giúp Kim Trọng một lần rồi, không phạm giới trong đêm đầu tiên hai người gặp nhau. Bây giờ là lần thứ hai Thúy Kiều giúp mà Kim Trọng không biết. Nhờ sự có mặt của hai ông bà viên ngoại và hai người em Kiều mà Kim Trọng đã không tự tử.
Dỗ dành khuyên giải trăm chiều
Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.
Những lời khuyên tuy không có tác dụng ngay như sự có mặt của bốn người là rất quan trọng.
Thề xưa giờ đến kim hoàn,
Của xưa lại giở đến đàn với hương.
Sinh càng trông thấy càng thương,
Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
Rất dại! Đem những vật cũ ra làm gì để cho người ta nhớ và càng khổ thêm!
Rằng: 'Tôi trót quá chân ra,
'Để cho đến nỗi trôi hoa giạt bèo.
Tức quá, bưỏi vì anh chàng là con nhà giàu có quyền thế; nếu anh chàng có mặt lúc đó thì đã có thể can thiệp vào được rồi, Kiều đâu phải bán mình lấy bốn trăm lạng!
'Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
'Những điều vàng đá phải điều nói không!
'Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
'Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
'Bao nhiêu của mấy ngày đường,
'Còn tôi tôi gặp mặt nàng mới thôi.'
Đây là ngôn ngữ của một người yêu. 'Bây giờ con không chết nữa nhưng con sẽ dùng tất cả sức con để tìm Kiều. Con sẽ có tin tức của nàng cho hai bác và hai em.' Bây giờ chàng trai đã tìm được một lý do để sống!
Nỗi thưong nói chẳng hết lời,
Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
Vội về sửa chốn vườn hoa,
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn195 chăm chút lễ thường,
Dưỡng thân196 thay tấm lòng nàng ngày xưa.
Kim Trọng về sửa sang cái nhà mình thuê lúc trước (có hiên Lãm Thúy) và rước gia đình và rước ông bà viên ngoại qua sống với mình. Kim đóng vai trò của một người con rể. Coi như Kiều là vợ chính thức của mình rồi.
Đinh ninh mài lệ chép thư
Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.
Lấy nước mắt mình mài mực để viết thư hỏi thăm tin tức của Kiều. (Đôi khi lấy nước trà mài mực cũng được.) Thuê người đi tìm hỏi và chuyển thư.
Biết bao công mượn của thuê
Lâm-Thanh mấy độ đi về dặm khơi.
Người một nơi hỏi một nơi,
Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
Người ta đưa Kiều đi Lâm Truy mà nói dối là đi Lâm Thanh. Hỏi Lâm Thanh thì làm sao mà tìm ra được! Nhất là thời đó đâu có nhà dây thép, điện tín, điện thoại. Trời đất rộng lớn như vậy thì làm sao tìm ra được tung tích một người.
Sinh càng thảm thiết khát khao,
Như nung gan sắt như bào lòng son.
Sắt son là niềm chung thủy cùng cực. Son lúc nào cũng đỏ, sắt lúc nào cũng cứng. Cái gan của Kim Trọng bằng sắt nhưng cũng có lúc bị nung nóng lên; lòng Kim Trọng là một tản son nhưng cũng có nhiều khi bị bào mỏng ra.
Ruột tằm ngày một héo don,
Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve.
Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
Quý vị có thấy rõ ràng rằng yêu là khổ không? Không ăn, không ngủ, càng ngày càng ốm. Khóc ra nước mắt, tâm hồn lúc thức cũng như lúc ngủ đều đi vơ vẩn như một ma đói, đói tình. Cho nên người ta mới nói tình yêu là một tai nạn. Có ai muốn rước tai nạn vào lòng. Nhưng trong lòng, trong cơ thể mỗi người đều có hạt giống của đam mê. Lỡ mà vương vào tai nạn thì chỉ có một tăng thân mới cứu được mà thôi. Nếu không chết không vong thân là nhờ tăng thân. Trong trường hợp Kim Trọng, tăng thân đó là gia đình Thúy Kiều, không phải là gia đình Kim Trọng. Gia đình Kim Trọng nói: 'Mày mê cái con nào mà bây giờ mày ốm nhom như vậy?' Nhưng gia đình của Thúy Kiều thì vì đã hiểu cho nên đã thương. Nguyễn Bính nói: 'Chao ôi, yêu có ông Trời cứu. Yêu có ông Trời giữ được chân' Khi mình đã bị tai nạn rồi thì không ai cứu được cả. Trời cứu cũng không được nữa, huống hồ là người bạn! Nguyễn Bính không biết rằng tăng thân có thể cứu được. Cơ hội của quý vị là tăng thân. Quý vị thoát được là nhờ tăng thân: Ngày xưa tôi cũng nhờ tăng thân mà thoát được. Tăng thân là cơ hội duy nhất của chúng ta. Chúng ta phải coi tăng thân là một viên ngọc quý. Đôi khi chúng ta có giận, có hờn từng người trong tăng thân nhưng kỳ thực tăng thân luôn luôn là viên ngọc quý. Tăng thân lúc đó sáng suốt lắm, chỉ có mình là mê thôi. Chúng ta phải giúp nhau. 'Chao ôi yêu có ông Trời cứu!' là một câu nói rất đơn giản của một thi sĩ miền Bắc Việt Nam thế kỷ hai mươi. Yêu là một tai nạn. Nếu không phải là tai nạn thì sao phải 'cứu'? Tây phương cũng nói yêu là 'té xuống', fall in love, tomber amoureux. Đang đi tự nhiên té xuống, sụp hầm sụp hố. Và yêu cũng là một cơn bệnh: love sickness.
Xuân huyên lo sợ xiết bao,
Quá ra khi đến thế nào mà hay!
Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
Duyên Vân sớm đã xe dây cho chàng.
Sợ Kim Trọng chết, hai ông bà vội vàng sắp đặt gả Thúy Vân cho Kim Trọng. Anh chàng chấp nhận. Đã mất Thúy Kiều nh nếu có Thúy Vân thì cũng được an ủi, vì em của Thúy Kiều cũng có chứa đựng Thúy Kiều ít nhiều bên trong. Tình yêu là như vậy. những gì có liên hệ tới người yêu của mình, mình đều yêu hết. Khi thương thì thương hết tất cả đường đi nước bước, những thức ăn, thức uống của người yêu mình cũng yêu tuốt. Mà khi đã ghét thì ghét hết. 'Yêu ai yêu cả đường đi, Ghét ai ghét cả tông chi họ hàng.' Con người yêu ghét tức cười như vậy. Không Xả, tức là không bình đẳng, vì tình yêu ấy chứa đựng rất nhiều tính phân biệt và kỳ thị. Cái đường người đó đi tại sao mình thương làm chi? Tông chi họ hàng người đó có dính gì tới mình mà mình ghét? Đó là một thái độ hết sức kỳ thị, không bình đẳng, Từ, Bi, Hỷ, Xả mới là tình yêu đích thực. Tâm trạng của Kim Trọng cũng thường thôi. Em gái của Thúy Kiều là Thúy Kiều trong một mức độ nào đó. Được cưới Thúy Vân, Kim Trọng cũng bớt đau khổ. Đó là thuốc của ông bà viên ngoại cho chàng Kim uống. Nhưng đó cũng là di chúc của Thúy Kiều.
Người yểu điệu kẻ văn chương,
Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì.
Cặp đó xem ra cũng được lắm. Nhưng:
Tuy rằng hai chữ vu quy,
Vui này đã cất sầu kia được nào!
Khi ăn ở lúc ra vào
Càng âu duyên mới càng đào tình xưa.
Tình yêu của Kim Trọng với Thúy Vân phát triển rất mau nhưng tình lưu luyên với Thúy Kiều vẫn không giảm bớt. Những lúc ngồi một mình Kim Trọng vẫn khóc, lòng dạ rối beng:
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đôi trận vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ thư phòng,
Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm,
Dường như bên nóc bên thềm,
Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng.
Mỗi khi đốt hương đánh đàn một mình thì cảm thấy linh hồn Kìêu đang về với mình. Đó là do tâm mà ra cả. Bụt dạy 'Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.' Kim cứ nghĩ rằng Kiều đã chết rồi và hồn đang về đáp lại tiếng đàn của mình. Đó là kỷ niệm đêm đầu tiên hai người gặp nhau. Nhưng cụ Nguyễn Du rất ý thức, cụ nói:
Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
- 'Nó đã chết đâu! tại thương, tại khổ nên anh tưởng tượng ra như vậy chứ!' Đây là kiến giải của cụ Nguyễn Du. Tất cả đều do tâm thức của mình. Mình nằm mơ thấy, nói: 'Thiệt mà, tui thấy!' Nhưng kỳ thực đó cũng từ trong tâm đi ra.
GIÁC DUYÊN ĐÂU BỖNG TÌM VÀO TẬN NƠI
Lấy Thúy Vân, có một liên hệ mới, niềm vui mới, đời sống của Kim Trọng tìm lại được sự thăng bằng. Nhưng tình cảm vấn vương với Thúy Kiều vẫn còn nhiều.
Năm tháng đi qua.
Những là phiền muộn đêm ngày
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
Chế khoa197 gặp hội trường văn,
Vương Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày.
Cửa trời rộng mở đường mây198
Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.199
Vương Quan và Kim Trọng thi đậu, vinh hiển. Quê hương, làng xóm cũng được thơm lây.
Chàng Vương nhớ đến xa gần,
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.200
Tình xưa ân trả nghĩa đền,
Gia thân bèn mới kết duyên Châu Trần.
Vương Quan, sau khi thi đậu thì sang nhà láng giềng năm xưa là Chung lão để tạ ơn Chung lão để can thiệp, giúp đỡ, chỉ đường khi gia đình bị nạn. Có một bí mật nào đó mà ta chưa hay: chàng Vương yêu cô con gái của Chung lão. Bây giờ trở về, đã đậu khoa Hội, Chung lão bằng lòng gả con gái cho.
Kim từ nhẹ bước thanh vân,
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương.
Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?201
Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly.
Vâng ra ngoại nhậm Lâm Truy,
Quan sơn nghìn dặm thê nhi một đoàn.
Kim Trọng được vua cử đi làm quan ở Lâm Truy, chỗ ngày xưa nàng Kiều đã tới nơi mà gia đình đã tưởng là Lâm Thanh. Bây giờ số mạng gửi anh chàng đến đó.
Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu hao.
Ngày xưa có nhiều người làm quan rồi nhưng vẫn giữ được phong cách nhàn hạ của người Nho sĩ. Làm việc quan xong rồi thì uống trà, lấy đàn ra gảy. Đời nhà Tống có ông Triệu Biện, đỗ tiến sĩ, đi làm quan nhưng vẫn giữ được sự thanh nhàn. Ông đem theo một cây đàn và một con chim hạc. Sáng, chiều tuy làm việc quan nhưng ông vẫn được nghe tiếng hạc, tiếng đàn. 'Cầm đường ngày tháng thanh nhàn. Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.' Không giống như giới doanh thương business-man bây giờ, không có thì giờ để thở.
Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
Nàng Vân nằm bổng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi.
Một đêm tại tư thất nơi phủ đường Lâm Truy, Thúy Vân nằm mơ thấy Thúy Kiều. Tỉnh dậy nàng kể cho chồng nghe. Kim Trọng sinh nghi: 'Có lẽ Kiều đi Lâm Truy chứ không phải Lâm Thanh.'
Nọ Lâm-Thanh với Lâm-Truy,
Khác chi một chữ hoặc khi có lầm.
Trong cơ thanh khí tương tầm,
Ở đây hoặc có giai âm202 chăng là?
'Thanh khí tương tầm' nghĩ là đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Cùng là một âm thanh thì ứng (echo) lại với nhau, cùng một chí khí thì đi tìm nhau. Ví dụ là người muốn học Phật pháp thì mình đi tìm những người học Phật pháp để làm bạn.
Thăng đường chàng mới hỏi tra,
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên.
Có người thư ký già, họ Đô, biết chuyện, báo cáo. Đây là những lời báo cáo, tuy ngắn nhưng tóm tắt lại được quãng đời mười năm của Thúy Kiều. Nói rất gọn, như đánh dây thép vậy. Nếu quý vị muốn đánh dây thép thì phải học đoạn văn này để đừng đánh dư chữ mà tốn tiền.
'Sự này là ngoại mười niên,
'Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
'Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
'Đi mua người ở Bắc Kinh đưa về,
'Thúy Kiều tài sắc ai bi,
'Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
'Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
'Liều mình thế ấy phải lừa thế kia.
'Phong trần chịu đã ê chề,
'Dây duyên sau lại gả về Thúc Lang.
'Phải tay vợ cả phũ phàng,
'Bắt về Vô Tích toan đường bẻ hoa.
'Bực mình nàng phải trốn ra,
'Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
'Thoắt buôn về thoắt bán đi,
"Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
'Bỗng đâu lại gặp một người,
'Hơn người trí dũng nghiêng trời uy linh.
'Trong tay mười vạn tinh binh,
'Kéo về đóng chật cả thành Lâm-Truy,
'Tóc tơ các tích mọi khi,
'Oán thì trả oán ân thì trả ân.
'Đã nên có nghĩa có nhân,
'Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
'Chưa tường được họ được tên,
'Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường.'
Ông thư ký họ Đô chỉ biết tin tức Kiều trong mười năm đầu, không rõ tên họ và tung tích của vị Đại Vương giúp Kiều (Từ Hải.) Ông khuyên Kim Trọng hãy mời Thúc Sinh đến để hỏi thăm về những việc đã xảy ra những năm sau này.
Nghe lời Đô nói rõ ràng,
Tức thì đệ thiếp mời chàng Thúc Sinh.
'Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
'Chồng con đâu tá tính danh là gì?'
Thúc rằng: "Gặp lúc lưu ly,
'Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
'Đại vương tên Hải họ Từ,
'Đánh quen trăm trận sức dư muôn người.
'Gặp nàng khi ở Châu Thai,
'Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên.
'Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên.
'Làm cho động địa kinh niên đùng đùng.
'Đại quân đồn đóng cõi Đông,
'Về sau chẳng biết vân mồng203 làm sao.'
Thúc Sinh đã cho Kim Trọng những tin tức về Kiều trong thời gian nàng sống với Từ Hải. Chàng nói chàng không có tin tức gì từ đó về sau.
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao204
Lòng riêng chàng luống lao đao thẩn thờ.
Xót thay chiếc lá bơ vơ,
Kiếp trần205 biết rũ bao giờ mới xong?
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
Bình bồng206 còn chút xa xôi,
Đỉnh chung207 sao nỡ ăn ngồi cho an!
Rắp lòng treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
Kim Trọng muốn từ quan, lội sông trèo núi đi tìm Kiều, dù cho có chết giữa đường đi nữa. Đó là ước muốn của Kim Trọng. Nhưng sự thật thì bây giờ chàng đã có thê nhi rồi, đâu còn sống nhờ cha mẹ như thời còn là sinh viên nữa mà làm được chuyện đó. Từ quan rồi thì lấy tiền đâu mà đi xe buýt, mà mua vé máy bay tìm nàng? Nhất là đã dính vào danh lợi của triều đình rồi thì khó bỏ lắm! Rốt cuộc, đâu có 'treo ấn từ quan', 'vào sinh ra tử' gì, chỉ ngồi đó viết thư và gửi e-mail mà thôi.
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!
Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa đã biết mấy phen đổi dời!
Năm này sang năm khác chàng chờ đợi mà tìm không ra tin tức. Bỗng có chuyện xảy ra:
Năm mây bỗng thấy chiếu trời,208
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành.
Kim thì cải nhậm Nam-Bình,
Chàng Vương cũng cải nhậm thành Phú-Dương.
Vua ban sắc chỉ đổi Kim Trọng đi làm quan ở Nam Bình (thuộc tỉnh Phúc Kiến) và Vương Quan ở thành Phú Dương (thuộc tỉnh Chiết Giang.) Chính nhờ có biến cố này mà hai gia đình sẽ tìm được nàng Kiều.
Sắm sanh xe ngựa vội vàng,
Hai nhà cũng thuận một đường phó quan.
Xảy nghe thế giặc đã tan,
Sóng êm Phúc-Kiến lửa tàn Chiết Giang.
Được tin Kim mới rủ Vương,
Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa.
Trên đường đi, hai người hy vọng có thể tìm Kiều ở Hàng Châu (nơi sông Tiền Đường chảy ngang qua.)
Hàng châu đến đó bấy giờ,
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
'Thất cơ Từ đã thu linh209 trận tiền.
Nàng Kiều công cả chẳng đền,
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà treo ngọc trầm châu,
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan.
Tới Hàng Châu, Kim và Vương hỏi thăm biết được là Kiều đã nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử.
Thương ôi! Không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
Chiêu hồn thiết vị lễ thường,210
Giải oan lập một đàng tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.211
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn tinh vệ212 biết theo chốn nào?
Hai gia đình thiết lập chay đàn bên sông để làm lễ giải oan siêu độ cho Kiều.
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao,
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
Trông lên linh vị chữ bài,
Thất kinh mới hỏi: 'Những người đâu ta?
'Với nàng thân thích gần xa,
'Người còn sao bỗng làm ma khóc người?'
Không biết sư chị Giác Duyên hôm ấy có Phật sự gì cho nên đã đi ngang qua chỗ làm chay. Cố nhiên là người tu, thấy đám chay thì sư chị ghé vào xem thử và do đó đã khám phá ra rằng đây là gia đình Trạc Tuyền đang cầu siêu cho sư em mình. Trong lòng sư chị có lẽ ngổn ngang nhiều tình cảm. Mừng rằng sư em mình sẽ được gặp lại gia đình và cũng rất mừng khi mình có thể đem cho gia đình này một tin tức làm họ sửng sốt bất ngờ và tạo ra hạnh phúc khôn cùng. Đó là một mảnh tin làm chấn động cả gia đình Kiều.
Nghe tin ngơ ngác rụng rời,
Xúm quanh kể họ rộn lời hỏi tra:
'Này chồng này mẹ này cha,
'Này là em ruột này là em dâu.
Trong các buổi hát đúm (hát đối giữa hai bên nam nữ) ở Việt Nam, có khi bên con gái hỏi bên con trai:
'Truyện Kiều anh đã thuộc làu,
'Đố anh kể được một câu sáu người.'
Nếu bên con trai giỏi thì họ sẽ hát:
'Này chồng này mẹ này cha,
'Này là em ruột này là em dâu.
(Sáu người là: chồng (Kim Trọng), mẹ, cha, em ruột (Thúy Vân và Vương Quan), em dâu (vợ Vương Quan.) Còn nếu bên con trai im thin thít thì bên con gái họ sẽ cười khúc khích cho đến khi bên con trai chịu thua mới đọc hai câu trên ra.)
'Thật tin nghe đã bấy lâu,
'Pháp sư dạy thế sự đâu lạ dường!'
Sư rằng: 'Nhân quả với nàng,
'Lâm-truy buổi trước Tiền-Đường buổi sau.
'Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
'Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về.
'Cùng nhau nương cửa Bồ-Đề,
'Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
- 'Chùa ở gần đây, nếu quý vị muốn thì tôi xin đưa quý vị tới để gặp Kiều ngay bây giờ.' Nghe xong mọi người thấy như từ địa ngục vừa được vớt lên thiên đường.
'Phật tiền ngày bạc lân la,
'Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.'
Trong nguyên lục sư chị Giác Duyên nói: 'Quý vị nhớ Thúy Kiều lắm phải không? Thúy Kiều cũng tỏ bày niềm thương nhớ quý vị lắm.' Ở chùa thỉnh thoảng Kiều cũng nhớ cha mẹ và các em.
Nghe tin nở mặt nở mày,
Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
Từ phen chiếc lá lìa rừng,
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
Rõ ràng hoa rụng hương bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Minh dương213 đôi ngã chắc rồi,
Cõi trần mà lại thấy người Cửu-nguyên!214
Tưởng rằng kiếp sau mới mong thấy lại được nhau mà bây giờ sư chị lại nói Kiều đang còn sống và ở gần đây. Không có phép lạ nào hơn phép lạ này!
Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ theo liền một khi.
Bỏ chuông mõ, bỏ cỗ bàn, mọi người đi theo sư chị Giác Duyên. Đây là đoạn rất vui.
Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
Đường về chùa mà phải bẻ lau, vạch cỏ mà đi. Có lẽ đường chính hơi dài và vì thấy gia đình nôn nóng quá, ni sư cũng muốn Kiều mừng nên đã dẫn mọi người đi đường tắt. Tuy gia đình Kiều mừng như vậy nhưng vẫn còn nghi không dám mừng nhiều, sợ thất vọng: 'Đôi khi ni sư này lộn, nhỡ đó là một người khác thì làm sao?' Sự thật rõ ràng như vậy nhưng mà ta vẫn không tin là sự thật. Ta nói: "It is too good to be true." (Không dám tin, vì sự thật đẹp quá.)
Quanh co theo dải giang tân,15
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
Đọc tới câu này tôi có cảm tưởng 'rừng lau' là cái rừng có nhiều vấn đề, nhiều phiền não; 'Phật đường' là chỗ mình đã về, đã tới, vững chãi, thảnh thơi, đã hạnh phúc. Mỗi khi đọc tới câu này là tôi thấy hình ảnh đó. 'Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.' Vấn đề là mình đã đi ra khỏi rừng lau hay chưa.
TƯỞNG BÂY GIỜ LÀ BAO GIỜ
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,

Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra.
Ta có thể thấy tâm trạng Giác Duyên lúc đó. Nghĩ rằng mình sẽ mang lại một niềm vui rất lớn cho sư em. Thành ra mới tới cổng sư chị đã kêu: 'Sư em ơi! Ra có khách! Có ai hỏi này!' 'Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra.' Đã thành ni cô rồi, phong thái của Kiều lại càng thêm thanh tao. Cố nhiên là Trạc Tuyền không chạy, đi đàng hoàng theo kiểu thiền hành.
Trông xem đủ mặt một nhà:
Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hòa hai,
Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
Kể cha, mẹ, em rồi mới tới người yêu. Đó là theo thứ tự theo luân lý Á Đông. Không được kể chàng trước, dù mình thương chàng ghê gớm. Phải có thứ tự. Và phải chào theo thứ tự đó. Không thể nào một người Á Đông mà chào theo kiểu ngược lại. Một người Mỹ có thể tới ôm anh chàng trước. Nhưng một người Việt hay một người Hoa thì không thể nào làm như vậy. Đó là đảo lộn trật tự của mấy ngàn đời. 'Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!' Làm như phớt tỉnh ăng lê, hơi lạnh lùng. Kỳ thực, Á Đông bên ngoài là phải làm như vậy. Theo Á Đông, cha trước, mẹ sau. Vì cha đóng vai người anh, mẹ đóng vai người em. Ở Việt Nam vợ kêu chồng bằng 'anh'. (Tây phương nghe chuyện này họ tức cười lắm!) Liên hệ vợ chồng là một thứ liên hệ anh em, người vợ luôn luôn làm em, vợ phải xưng 'em'. Dầu người vợ có thông minh hơn, lớn hơn một hai tuổi, hay giàu có hơn thì cũng đóng vai trò người em.
Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao.
Giọt châu thánh thót quẹn bào,
Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình!
Khóc mừng, những giọt nước mắt của hạnh phúc. Mừng thì có mừng, nhưng trong tâm vẫn chất chứa nhiều đau khổ ngày xưa (cô đơn, thương nhớ...) cho nên vừa mừng vừa tủi, vừa tủi vừa mừng. Cái tủi làm cho cái mừng lớn hơn. Cái mừng làm cho cái tủi sống dậy.
Câu 'Tưởng bây giờ là bao giờ' tôi đã suy nghĩ nhiều giờ đồng hồ để tìm cách dịch ra tiếng Anh mà vẫn chưa dịch được. Ta đang đứng trước một sự thực quá đẹp, quá mầu nhiệm cho đến nỗi ta không dám tin sự thực đó là có thật. Mười lăm năm sống trong tuyệt vọng, không còn nghĩ rằng mình sẽ được gặp người thân. Ấy vậy mà không chuẩn bị gì cả, tự nhiên phép lạ hiện ra trước mặt. 'Tưởng bây giờ là bao giờ.' 'Bao giờ' tức là không phải 'bây giờ.' 'Bao giờ' là 'when', 'bây giờ' là 'now'. Làm sao mà dịch được. Nếu cắt nghĩa thì mình cắt nghĩa thế nào? Giờ phút hiện tại mầu nhiệm quá cho đến nỗi mình phải nghi ngờ rằng giờ phút này thuộc về quá khứ hoặc đây là một nơi mơ ước của tương lai chứ không phải là một cái gì có thật trong hiện tại. Câu này hay ở nhiều chỗ. Thứ nhất là cái hay về nội dung, không biết sự thực đã là sự thực chưa, hay chỉ là một giấc mơ thôi. Thứ hai là cái hay về hình thức. Cả hai tiếng 'bây giờ' và 'bao giờ' đều chuyển tải thời gian, đều có chữ 'giờ' đứng đằng sau. Thơ là hình ảnh và âm nhạc. Nếu không dùng hai chữ 'giờ' lập lại thì sẽ dỡ. Nếu nói: tưởng bây giờ là lúc nào? Thì sẽ không hay. Bây giờ và bao giờ là hai chữ giống nhau, như hai sợi tóc. Bây giờ là vần bằng, bao giờ là vần bằng. Hai chữ có thể trộn với nhau. Nếu dịch: 'Is it true or is ti not true?' thì dở quá đi! Giờ phút bây giờ có thực là giờ phút bây giờ không? Thực tại trong giờ phút này có phải là một thực tại hay chỉ là một hình ảnh của tâm trí mình? Đó có phải là một điều trong quá khứ mà mình mộng tưởng ra hay một điều trong tương lai mà mình mơ ước vào? 'Tưởng bây giờ là bao giờ?' sáu chữ rất mầu nhiệm! Ai dịch được thì giỏi. Nếu không dịch bây giờ thì bao giờ mới dịch? Tôi nghĩ truyện Kiều có những câu xứng đáng được viết để treo trong thiền đường. Giáo lý và thực tập của chúng ta là sống trong giờ phút hiện tại và thấy được những mầu nhiệm của giờ phút hiện tại. Ngày xưa Kiều còn là thiếu nữ mười sáu, mười bảy tuổi, mỗi ngày cô đều gặp những người thân. Hồi ấy Kiều có cái nhìn và cái cảm nghĩ như bây giờ không? Có tâm niệm trân quý người thân như trong giờ phút tái ngộ đoàn tụ này không? Tại sao cũng cảnh đó, người đó, những điều kiện đó mà cái thấy khác nhau như vậy? Tại sao bây giờ mình trân quý cái mình đang có một cách kỳ lạ, trân quý đến nỗi mình tự hỏi: Cái đó có thật không? Do những đau khổ mình đã trải qua, những giác ngộ mình đã đạt được mà mình tiếp xúc được với cái mầu nhiệm của thực tại.
Cái gì trong đời sống mà không phải là mầu nhiệm! Sự kiện mình đang còn sống là một phép mầu. Một chiếc lá một bông hoa đều là một phép lạ, đều là mầu nhiệm cả. Khi còn có khả năng và điều kiện để tiếp xúc, để có hạnh phúc thì ta không chịu tiếp xúc để có hạnh phúc. Đợi khi mất rồi thì ta mới than khóc. Đọc truyện Kiều cũng giống như nhìn trăng, nhìn mây, đi thiền hành, tiếp xúc với thiên nhiên, hoa lá, con người. Nếu tâm ta sáng tỏ, nếu ta có năng lượng của chánh niệm thì ta có thể nhận diện rằng tất cả những gì đang bao quanh ta đều là phép lạ rất mầu nhiệm. Chính thân thể, tâm hồn ta cũng là những hiện tượng hết sức mầu nhiệm. Tất cả những cái đó, tác giả gọi là 'bây giờ'. Trong sự sống, vì buồn đau, giận ghét, lo lắng mà chúng ta dày đạp lên cái bây giờ, loại cái bây giờ ra khỏi sự sống và không thấy được, không tiếp xúc được với những mầu nhiệm. Chúng ta nhớ một câu tương tợ cách đó mười lăm năm lúc Kim Trọng và Kiều được thực sự gặp nhau. Lúc đó gia đình Kiều đi ăn sinh nhật bên ngoại. Kiều ở nhà phá rào sang gặp Kim Trọng. Ở chơi vài tiếng đồng hồ Kiều phải về xem gia đình về chưa. Thấy gia đình chưa về thì lại tiếc, 'đi chui' sang nhà Kim Trọng một lần nữa. Kim Trọng đang ngủ gật, thấy người yêu xuất hiện Kim Trọng hỏi: 'Đây là mộng hay là thực?' Kiều trả lời: 'Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?' Hạt giống tuệ giác trong Thúy Kiều lúc đó có chưa chúng ta chưa bàn tới, nhưng chắc chắn đã có trong tâm hồn thi sĩ. Vì vậy đọc câu này chúng ta không thể nào không nhớ đến câu trước. Nếu ta không sống tỉnh thức và sâu sắc giờ phút hiện tại thì tất cả sẽ chỉ là một giấc chiêm bao. Tưởng bây giờ là bao giờ. Câu này có mang theo sự tội nghiệp. Vì khổ đau, vì ước mơ không thành tựu ta chưa bao giờ được sống thật, chưa bao giờ có hạnh phúc thật cả cho nên bây giờ thấy được hạnh phúc, thấy được mầu nhiệm ta lại nghĩ không biết có thật hay không. Kiều cũng phản ứng giống như gia đình Kiều khi nghe tin Kiều còn sống. Không dám tin, vì sự thật đẹp quá.
Về phương diện văn chương, đây là những lời cực tả niềm hạnh phúc của nhân vật. Về phương diện tâm lý, ý tứ câu này rất sâu sắc. Đã quen sống trong mộng, ta không có khả năng tiếp xúc với bản thân thực tại. Ta thường lẫn lộn mộng và thực. Khi cái thực tự hiển bày cho ta thì cái không có khả năng tiếp xúc. Hồi đi thăm tu viện Cấp Cô Độc, tôi có ngồi bên cạnh những bức tường đổ của cái thất ngày xưa Bụt ở, mân mê những viên gạch. Một phái đoàn khảo cổ của Nhật đã đến đây xin phép đào xới, khai quật và làm phát hiện nền móng của những tu viện ngày xưa thiết lập trong vườn Kỳ Đà. Tất cả đều đã đổ nát và bị phù sa che lấp, gai cỏ mọc đầy. Các nhà khảo cổ đã moi lên và trình bày lại tất cả. Có những thời gian tu viện Cấp Cô Độc rất hưng thịnh, các tu viện được xây sát nhau. Bây giờ khai quật ra chúng ta biết chỗ nào là thiền đường, tăng xá và thực đường. Tuy tất cả đều bị đổ nát nhưng móng của các bức tường vẫn còn nên ta có thể thấy rất rõ cách bố trí phòng ốc các tu viện. Những giai đoạn hưng thịnh của tu viện Cấp Cô Độc là những lúc các thầy tu học có hạnh phúc, tiếp xúc được với Bụt, Pháp và Tăng. Nhưng những giai đoạn đó không kéo dài được mãi mãi. Nhìn vào một vùng đất hoang vu cỏ mọc, chúng ta đâu có thể tưởng tượng ngày xưa nơi này đã từng hưng thịnh như vậy. Chúng ta hãy nhắm mắt lại và tưỏng tượng Làng Mai một trăm năm về sau. Chúng ta thấy gì? Có thể ta không thấy sư chị, sư anh, sư em, sư tổ, không thấy thầy, không thấy gì hết. Chỗ này có thể trở thành một siêu thị. Bây giờ trong giây phút hiện tại chúng ta có sư anh, sư chị, sư em đang ngồi với ta. Có thầy đang ngồi giảng. Có nước trà để uống. Có đường để đi thiền hành. Có bàn tay để nắm tay người bạn. Có hai mắt để nhìn và nhận diện ra đó là người anh, người chị, người em của mình. Chúng ta đang làm chuyện đó hay không? Hay chúng ta đợi một trăm năm sau để rồi thấy những điều có thể xảy ra chỉ là chuyện đã xảy ra trong một giấc chiêm bao mà thôi? Đưa tay ra và chạm vào người bên cạnh một chút xíu để coi thứ đó là thật hay giả. Chúng ta có khả năng làm chuyện đó hay không? Hay chúng ta cứ tự giam hãm mình trong cái buồn, cái giận, cai lo để không làm được chuyện đó? 'Tưởng bây giờ là bao giờ, Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!' là những tiếng chánh niệm giúp chúng ta tỉnh thức. Tất cả bí quyết của sự thực tập nằm ở chỗ đó. 'Tưởng bây giờ là bao giờ': 'Is it now or never!'. Tôi chịu thôi, không dịch ra tiếng Anh hay tiếng Pháp! Tôi tin chắc tất cả quý vị216 đều hiểu, đều thấm rồi nhưng không nói ra lời đó thôi. Nói không ra lời thì phải có người giúp. Người đó là thi sĩ. Thi sĩ là người giúp mình nói những điều mình cảm mà không nói được. Nhưng đây là thi sĩ Việt cho nên mình cần thi sĩ Anh, thi sĩ Pháp. Chỗ mầu nhiệm của câu này, chắc dịch không được, là hai chữ bây giờ và bao giờ, lấp láy lại. Phải là một tay phù thủy cao tay ấn lắm mới có thể sử dụng những âm binh ngôn ngữ như thế được. Ngôn ngữ đối với một thi sĩ giống như âm binh mà một thầy phù thủy sử dụng. Bắt nó làm gì thì nó làm theo mình. Vị tổ thứ ba trong phái Trúc Lâm, thầy Huyền Quang, cũng là một thi sĩ lớn của Việt Nam. Thầy cũng có một câu thơ nói về chuyện chiêm bao trong khi mở mắt. Đó là bài Ngủ trưa trên núi. (Nghe tổ cũng ngủ trưa chúng ta thấy khỏe trong người quá phải không? Tổ ngủ trưa thì tại sao mình không được ngủ trưa?)
Vũ quá sơn khê tĩnh
Phong lâm nhất tháp lưong
Phản quan trần thế giới
Khai mãn túy mang mang.
(Cơn mưa đã qua, khe nước trong núi im lặng. Rừng phong ngủ một giấc mát. Nhìn lại thế giới bụi bặm bên dưới. Mắt mở nhưng vẫn say như thường.)
Tôi dịch:
Mưa tạnh khe núi tĩnh
Ngủ mát giữa rừng phong
Nhìn lại cõi nhân thế
Mắt mở vẫn say nồng.
Mắt mở nhưng vẫn say như thường. 'Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!' Lối sống đó người ta gọi là 'sống say chết mộng' (túy sinh mộng tử.) Đạo lý của nhà Phật là sống tỉnh thức. Phải mở mắt. Mở con mắt tuệ, con mắt chánh niệm chứ không phải là con mắt thịt. Mở con mắt thịt thì có thể vẫn còn mê. Mở con mắt chánh niệm thì lúc đó thì mình thật sự tiếp xúc được những mầu nhiệm của sự sống. Bụt có khi được gọi là 'con mắt tuệ'. Ngày Bụt nhập diệt có một số thầy khóc. Trong những lời khóc than có câu: 'Đức Thế Tôn không còn nữa! Con mắt của thế gian không còn nữa!' (The eye of the world is no longer there.) 'Con mắt của thế gian' là Bụt. Con mắt này là con mắt trí tuệ, tỉnh thức. Bụt được diễn tả như con mắt của cuộc đời, tức là cái thấy tỉnh thức của cuộc đời. Nếu có con mắt đó thì mới không 'túy mang mang', không còn mê ngủ nữa.
TÁI SINH TRẦN TẠ ÂN NGƯỜI TỪ BI
Huyên già dưới gối gieo mình,
Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi:
Kiều chạy lại ôm mẹ khóc. Không ôm cha mà ôm mẹ vì với người con gáim người mà mình có thể gần gũi, có thể tiếp xúc về thân thể dễ dàng nhất là mẹ. Trong đây chúng ta thấy rất rõ những đặc tính của văn hóa Á Đông. một người con gái Mỹ sau khi bị xa cách người yêu mười lăm năm sẽ không làm như vạy mà sẽ tới ôm anh chàng trước. Nhưng cô Kiều là người Việt, vì vậy cô phải tới ôm mẹ. Giữa mẹ và con gái có tình bạn, họ dễ tâm sự với nhau. Vì vậy ôm mẹ để kể chuyện đau khổ của mình là dễ nhất.
Từ con lưu lạc quê người,
'Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm,
'Tính rằng sông nước cát lầm217
'Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!'
Ông bà trông mặt cầm tay,
Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
Ông bà ngắm con gái. Đi ngang qua mười lăm năm, sự dãi dầu không làm cho Kiều mất phong độ. Có ốm, có già đi chút ít nhưng vẫn còn tươi, còn xinh. 'Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.' Mười lăm năm đau khổ mà Kiều vẫn còn giữ được sáu bảy phần trăm sự tươi mất, trẻ trung của ngày cũ. Nguyệt và hoa đều chỉ cho Thúy Kiều. Đẹp như nàng, tươi như bông hoa, nhưng cả hoa và trăng đều đã bị dãi dầu, đi qua những cơn bão tố của cuộc đời khổ đau.
Nỗi mừng biết lấy chi cân,
Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu.
Sư Cô Diệu Nghiêm mới đi thăm Việt Nam có mấy tuần lễ mà về nói hoài không hết chuyện Việt Nam, huống hồ là mười lăm năm của Trạc Tuyền.
Hai em hỏi trước han sau,
Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi.
Hai đứa em hỏi tíu tít. Anh chàng thì đâu dám tới gần, tuy đã được gia đình chấp nhận, và đã được xem như là chồng của Kiều. Chỉ đứng đàng sau nhìn nhưng mặt mày chàng có vẻ tươi lắm. Một anh chàng Mỹ, Pháp hay Hòa Lan chắc là không chịu làm như vậy đâu. Để ý đọc với chánh niệm thì ta thấy tất cả khung cảnh và cách thức Á Đông hiện nay rất rõ trong này.
Trong đoạn này chúng ta không thấy cụ Nguyễn Du nói gì về sư chị. Sư chị đang đứng đâu và làm vì trong khi gia đình họ đoàn tụ? Khi đọc đoạn văn này tôi lại thấy rất rõ hình dáng của sư chị đang đứng đó và chứng kiến những gì xảy ra. Sư chị rất muốn xem cuộc hội ngộ này đem tới hạnh phúc như thế nào. Vì vậy sư chị rất chánh niệm. Sư chị đâu có đi vô nhà trong pha trà! Lúc này là lúc rất quan trọng. Sư chị đứng đó rất im lặng mà quan sát, có thể là trong góc sân, có thể là trước cửa chánh điện. Sư chị là một người thật sự thương sư em. Cố nhiên sư chị đã thấy trong lòng rồi: Có thể mình phải trả sư em lại cho gia đình sư em vì họ đã bị xa cách tới mười lăm năm. Tâm tư sư chị như thế nào? Tình thương của sư chị có vướng mắc không? Sư chị có muốn giữ sư em ở lại bên mình mãi mãi không? Hay sư chị hiểu được ước vọng của gia đình sư em và sư em? Tôi nghĩ rằng trong lòng sư chị đã có sự quyết định.
Quây nhau lạy trước Phật đài,
Tái sinh trần tạ ân người từ bi.
Sau khi nghe hết chuyện, gia đình Kiều mới thấy vai trò sư Giác Duyên rất là quan trọng trong đời sống Thúy Kiều. Cha mẹ đã sinh ra Kiều nhưng sư chị là người cứu Kiều, sinh ra Kiều lần thứ hai. Trong nguyên lục, Vương Ông đi về hướng Giác Duyên lạy xuống. Mẹ của Thúy Kiều, Vương Quan và Thúy Vân đều lạy theo. Cố nhiên, chàng Kim cũng phải làm như vậy thôi (tăng thân mà!) Nhưng mà Nguyễn Du đã sửa lại chút đỉnh. Cụ nói lạy Bụt. Cụ muốn Bụt và sư chị cùng trở thành đối tượng của sự biết ơn đó. Lạy Bụt tức là cũng lạy sư chị. Ở đây sự cung kính đẹp hơn. 'Tái sinh trần tạ ân người từ bi.' Người chết rồi mà làm cho sống lại thì gọi là tái sinh. Đó là phận sự của sư chị hoặc sư anh. Là người tu thì phải biết cứu người. Giọt nước Cam Lộ của Bụt có thể làm cho một người chết sống lại được. Giọt nước Cam Lộ trên cành dương liễu của đức Bồ Tát Quan Thế Âm tưới xuống một nhành cây khô thì nhành cây đó trở nên xanh tươi, mọc lá trở lại: 'Sái khô mộc nhi tác phùng xuân.' Người tu phải đạt cho được phép lạ đó. Phải có giọt nước từ bi để làm sống dậy những gì đã khô héo và chết đi vì đau khổ. Chữ 'người từ bi' cụ Nguyễn Du dùng có thể chỉ cho Bụt mà cũng có thể chỉ cho sư chị. Tùy quý vị chọn lựa. Trong nguyên lục thì nói rất rõ ràng là quay lại lạy sư chị. Cụ Nguyễn Du gần gũi với mình hơn. Dầu sao cũng có Bụt ở trên và sư chị dù sao cũng chỉ là học trò của Bụt. Sư chị cứu được mình tức là Bụt cứu mình. Nếu không có Bụt thì làm sao có sư chị? Lạy xuống Phật đài để tạ ơn Bụt và tạ ơn sư chị. Đó là chuyện rất hay, rất đúng. Tôi bằng lòng thái độ của cụ Nguyễn Du.
Chi tiết lạy này chứng tỏ sư chị đang không ở trong nhà bếp để nấu trà đãi khách. Sư chị có mặt một cách đích thực trong giờ phút đó. Chúng ta cũng có thể hiểu được lúc đó mọi người đã đi vào thảo am rồi; chuyện đoàn viên thì có thể xảy ra trước cổng chánh niệm. Sau khi lạy tạ Giác Duyên, ông bà nói: 'Thôi bây giờ con về nhà!'
Kiệu hoa giục giã tức thì,
Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
Cố nhiên, ban đầu Trạc Tuyền không muốn đi về, sư cô muốn tiếp tục tu vì sư cô đang có hạnh phúc. Trạc Tuyền nói: 'Con đi tu rồi, làm sao về nhà được? Nhưng lý luận của bên gia đình là: 'Con đi tu đã đành rồi, nhưng con phải có bổn phận với gia đình. Con là một người con, một người tình. Con phải trả cái nợ đó.' Ở dây một câu hỏi được đặt ra người tu làm sao để trả nợ gia đình và xã hội. Đây là một chủ đề rất hay. Chúng ta sẽ tiếp tục ở đoạn sau. Ta sẽ thấy phản ứng của sư chị và của Kiều.
TÌNH KIA HIẾU NỌ
Kiệu hoa giục giã tức thì,
Vương ông dạy rước nàng về một nơi.
Mười lăm năm bây giờ mới gặp lại con gái, đâu có thể để cho con gái ở lại đây được! Thế nào cũng phải đưa nó về. Đó là cái thường tình. Sư chị đã biết trước chuyện đó. Nhưng sư em không muốn về. Sư em rất thương sư chị và muốn tu chứ không muốn trở về cuộc đời bụi bặm ở ngoài nữa. Đây là lời của sư em:
Nàng rằng: 'Chút phận hoa rơi,
'Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
'Tính rằng mặt nước chân mây,
'Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
'Được rày tái thế tương phùng,
'Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay.
'Đã đem mình bỏ am mây,
'Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa.
- 'Niềm ao ước sâu sắc cảu con bây giờ đã đạt được. Được gặp lại cha mẹ và các em là con thỏa nguyện lắm rồi! Con đã lớn tuổi rồi, và rất hâm mộ việc tu hành. Đứng về phương diện thể chất cũng như tâm hồn con đã chín muồi để có thể sống an lạc, hạnh phúc với đời sống xuất gia.'
'Mùi thiền đã bén muối dưa,
'Màu thiền ăn mặc đã sưa nâu sồng.
- 'Con đã có hạnh phúc trong cuộc sống này rồi, con không muốn trở về cuộc sống thế gian nữa.'
Sự đời đã tắt lửa lòng,
'Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
- 'Những phiền não, dục vọng, tham, sân, si, danh lợi... không còn trong lòng con nữa thì con trở về chốn bụi bặm làm chi?' Lửa lòng ở đây là phiền não (afflicion). Không có lửa dục, lửa tham, lửa sân nữa thì gọi là tắt lửa lòng. Nhưng đã có một thứ lửa khác nhem nhúm, đó là lửa tam muội, lửa từ bi. Đây là một sức sống mới. 'Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?' Sự thực là như vậy. Nếu muốn lấy chồng thì có người chồng nào xứng đáng bằng Từ Hải không? Nếu muốn danh vọng thì có thứ danh vọng nào lớn hơn danh vọng của một vị đại phu nhân không? Thúy Kiều đã nếm hết tất cả những cái đó rồi và đã thấy những cái đó không đang để cho mình phải bận tâm. Vậy thì còn gì trong cuộc đời Kiều mong muốn nữa? Đây là những câu nói rất thật.
'Dở dang nào có hay gì,
'Đã tu tu trót qua thì thì thôi!
Chúng ta nên biết rằng thời gian truyện Phong Tình Lục được viết chưa có đạo Phật hiện đại hóa, chưa có đạo Phật đi vào cuộc đời. Người ta vẫn nghĩ rằng giữa hai nếp sống xuất gia và tại gia không có gạch nối liên hệ. Đi tu là hoàn toàn khác, không dính líu gì với cuộc đời. Chúng ta bây giờ có cái nhìn khác. Vì cuộc đời cần nên chúng ta mới đi tu. Nếu tu đàng hoàng và thành công thì chúng ta có thể giúp được đời, trước hết là giúp gia đình chúng ta.
'Trùng sinh ân nặng bể trời,
'Lòng nào nở dứt nghĩa người ra đi?'
Lý do thứ nhất là:Con muốn tu, con đã có hạnh phúc trong đời sống tu học. Lý do thứ hai là: 'Con thương sư chị con. Cha mẹ đã sinh con lần thứ nhất. Sư chị đã sinh ra đời sống tâm linh và giải thoát của con. Cái nghĩa đó con muốn báo đền. con muốn ở với sư chị.' Rất dễ thương. Giải thoát cũng có mà tình nghĩa cũng có. Đủ hết. Tóm lại, những lý luận của Thúy Kiều không phải chỉ là lý luận. Nó là sự thật trong lòng Kiều.
Người cha lúc đó mới dùng lý luận ngoài đời để phản công lại: 'Con còn có bổn phận với gia đình, và với người yêu. Con đã hứa với người ta bây giờ con đâu có thể làm ngơ dễ dàng như vậy được!' Những người trong gia đình thuộc về phe đa số. Phải cứng cáp lắm và phải có tăng thân họa may mình mới địch lại nổi!
Ông rằng: 'Bỉ thứ nhất thì,
'Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền.
Thử là cái này, bỉ là cái kia. Nhất thì là có khi. Cái này có liên hệ tới cái kia. Khi thì phải thế này, khi thì phải thế kia. 'Tu hành thì tu chứ ai cấm? Nhưng mình phải biết linh động (tòng quyền)!' Chữ quyền đi với chữ kinh (kinh quyền.) Kinh là con đường thẳng, có những nguyên tắc, cứ theo đúng như vậy mà làm là được. Quyền là linh động trong những trường hợp đặc biệt.
'Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
'Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
'Độ sinh nhờ đức cao dày,
'Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung.'
- 'Tu để thành Phật thành Tiên, chuyện đó tốt lắm! Cha cũng đồng ý. Nhưng vấn đề hiếu và tình là bổn phận của con người, con cũng phải giải quyết những vấn đề ấy chứ! Đối với gia đình con phải có bổn phận. Đối với người mà con đã thề nguyện con phải giải quyết. Cha đâu có cấm con tu nhưng mà con phải làm xong những chuyện đó rồi thì con mới tu được. Nếu con nghĩ rằng con có ân nghĩa vói sư chị thì sau này mình sẽ làm một ngôi chùa cho đàng hoàng rồi mời sư chị tới tu chung có phải vui hơn không?' Không biết ông có nghĩ thiệt như vậy không hay chỉ cố để an ủi để Kiều chấp nhận về nhà. Chúng ta nên biết ở Trung Hoa và Việt Nam quan niệm Hiếu và Tình rất quan trọng. Rất nhiều nhà Nho công kích đạo Phật là những người xuất gia không biết tình, không biết hiếu, bỏ bê bổn phận đối với gia đình, xã hội, quốc gia. Bên đạo Phật người ta phải tìm cách trả lời: Chúng tôi đi tu không phải là không đáp ứng những bổn phận đó. Ở đây cùng một vấn đề, khi được đặt trước một hoàn cảnh như vậy chúng ta không thể nào giải quyết được. Nói: 'Thôi, ba má và hai em đi về đi! Con nhất định ở đây thôi! Thì không được. Đứng vào trường hợp này chúng ta thấy cũng khó lắm. Có lẽ trong Kiều có một ý định về thì về, giải quyết xong thì trở lại cuộc sống tu hành. Lúc bấy giờ Kiều không có ai hết, rất đơn côi. Sư chị thì không nói; sư chị tuy thương lắm nhưng chỉ đứng đó thôi. Sư chị là người có thương yêu, có hiểu biết. Sư chị không có ý niệm muốn tranh đoạt để giữ Kiều riêng cho mình. Trạc Tuyền biết rất rõ sư chị đang đứng đó và đã chứng kiến tất cả những gì đang xảy ra. Tôi chắc lúc nãy Trạc Tuyền đã ngước đầu lên nhìn sư chị để cầu cứu, hay ít nhất là để hỏi. Tôi thấy rất rõ sư chị đang gật đầu nói: 'Em đi đi. Em phải về. Chị có đức tin ở em.' Vì vậy Trạc Tuyền đã đồng ý đi về với gia đình để lo giải quyết vấn đề. Bên kia, sau mười lăm năm mới tìm được Thúy Kiều, không có lý gì được thăm hỏi chút xíu rồi phải về. Phải kéo Kiều về chứ!
Nghe lời nàng phải chiều lòng,
Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
Tôi nghĩ cùng đi tới am, ngoài gia đình của Thúy Kiều còn có một vài gia nhân hầu hạ của hai ông quan mới Kim Trọng và Vương Quan. Thế nào những người này cũng đã được phái đi đem võng lọng tới rước. Bây giờ, có phương tiện chuyển vận, họ đi đường đàng hoàng chứ không phải đi tắt trong rừng lau nữa.
TRỜI CÒN ĐỂ CÓ HÔM NAY
Một nhà về đến quan nha,
Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.
Tàng tàng chén cúc dở say,
Đứng lên Vân mới giãi bày một hai:
Rằng: 'Trong tác hợp cơ trời,
'Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
'Gặp cơn binh địa ba đào,218
'Vậy đem duyên chị cột vào duyên em.
'Cũng là phận cải duyên kim,219
'Cũng là máu chảy ruột mềm220 chứ sao?
'Những là rày ước mai ao,
'Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
'Bây giờ gương vỡ lại lành,221
Khuông thiêng lừa lọc đã dành có nơi.222
'Còn duyên may mới còn người,
'Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
Quả mai ba bảy đương vừa,223
'Đào non sớm vội xe tơ kịp thì!'
Cô này cũng văn chương dữ! Trong việc đoàn viên, Thúy Vân đứng lên đề nghị làm đám cưới cho hai người. Chuyện này không phải do ông bố, bà mẹ, Vương Quan hay Kim Trọng khơi ra. Chính Thúy Vân đứng dậy khơi ra. Bởi vì Thúy Vân đứng ở địa vị thuận lợi hơn những người khác để làm việc này. Thúy Vân đang là 'chủ nhân' của Kim Trọng và đây là một xã hội đa thê.
Thúy Kiều nghe xong thì nói: 'Thôi đi cô!'
'Dứt lời nàng vội gạt đi:
'Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
'Một lời tuy có ước xưa,
'Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
'Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
'Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!'
Anh chàng lúc đó mới tấn công, can thiệp vào:
Chàng rằng: 'Nói cũng lạ đời,
'Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
'Một lời trót đã thâm giao,
'Dưới dày có đất trên cao có trời.
'Dẫu rằng vật đổi sao dời,
'Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh!
'Duyên kia có phụ chi tình,
'Mà toan chia gánh chung tình làm hai?'
- 'Mỗi lời mình nói ra đều có sự chứng kiến của trời cao đất dày. Lời hứa của mình là lời hứa sống chết. Dù sự vật có thay đổi, dù sao trên trời có dời đi chỗ khác mình vẫn giữ lấy lời của mình như thường. Anh đã làm lỗi gì để bây giờ em lại nói như vậy?'
Đây là lý luận của Kiều:
Nàng rằng: 'Gia thất duyên hài,
'Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng.
Không ai là không nghĩ tới và mơ ước chuyện lứa đôi. Nhưng:
'Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
'Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương.
'Chữ trinh đáng giá ngàn vàng.
'Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa.
'Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
'Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
'Bấy chầy gió táp mưa sa,
'Mấy trăng đã khuyết mấy hoa cũng tàn.
'Còn chi là cái hồng nhan,
'Đã xong thân thế cò toan nỗi nào?
- 'Trong đạo vợ chồng, sự trong sáng, nguyên vẹn của người vợ rất là quan trọng. Nếu không có trinh tiết thì làm sao mà không khỏi thẹn thùng? Những đau khổ em đã đi qua dày xéo tất cả. Trong hoàn cảnh của em, không có bông hoa nào mà không tàn, không có mặt trăng nào mà không khuyết.'
'Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
'Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!224
'Đã hay chàng nặng vì tình,
'Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
- ' Cố nhiên là chàng nặng chữ tình trong lòng. Nhưng nhìn vào hoa đèn em phải thấy thẹn chứ! Đây không còn là trường hợp ngày xưa nữa bởi vì em đã đi ngang qua biết bao nhiêu sóng gió và bão táp rồi!'
'Từ rày khép cửa phòng thu,
'Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
'Chàng dù nghĩ đến tình xa,
'Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ.225
'Nói ra chi kết tóc xe tơ,
'Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!'
Kiều vẫn còn tiếc muốn tiếp tục tu. Tốt nhất là được tu với sư chị, nếu bắt buộc phải ở lại trả hiếu cho cha mẹ thì vẫn phải tu ở nhà giống như người xuất gia vậy. Trong lòng Kiều đã có quyết định rồi, bởi vì Kiều không còn những phiền não và ước muốn chen chân vào chốn bụi hồng nữa. Kiều khuyên Kim Trọng đem tình yêu đổi ra tình bạn. Điều này có nghĩa là Thúy Kiều đã lớn, đã khai mở. Thúy Kiều không còn biết thứ tình gọi là tình đam mê nữa. Thứ tình đam mê mười lăm năm trước bây giờ đối với Thúy Kiều đã lạnh như tro tàn. Kiều đã học đường tình thương trong đạo Bụt, thứ tình giải thoát từ bi. Thấy rằng thứ tình này khỏe quá, đẹp quá và bổ dưỡng quá! Nó không đem lại những ray rứt. Tình cầm sắt sẽ gây sóng gió nhưng tình bạn thì chỉ đem lại an lạc và hạnh phúc thôi.
Anh chàng lại cãi:
Chàng rằng: 'Khéo nói lên lời,
'Mà trong lẽ phải có người có ta!
- 'Em định nghĩa chữ trinh như thế nào? Có lúc thì phải đi đường thẳng (kinh) nhưng có khi phải linh động (quyền). Lúc bình thường (khi thường) thì theo phương pháp kinh; gặp giai đoạn đặc biệt (khi biến) thì phải theo phương pháp quyền.' Lý luận này giống hệt như lý luận của ông bố vợ. Anh chàng này chắc đi học trường luật.
'Như nàng lấy hiếu làm trinh,
'Bụi nào cho đục được mình ấy vay?;
- 'Cái trinh của em là cái trinh làm bằng chất liệu hiếu. Vì hiếu nên em phải bán mình, đi vào con đường kia. Cho nên đối với anh, em vẫn còn hoàn toàn trong trắng.' Nói cũng khéo lắm! Anh này rất có tài năng của một trạng sư!
'Trời còn để có hôm nay,
Tan sưong đầu ngõ vén mây giữa trời.
Hai câu này rất hay! Thuộc về số những câu hay nhất trong truyện Kiều. Trời ở đây không phải là Thượng Đế, Ngọc Hoàng hay tạo hóa. Trời ở đây là tình trạng, hoàn cảnh. Ngày hôm nay chúng ta được gặp nhau, nhìn nhau, nắm tay nhau; tôi còn sống, anh còn sống, em còn sống để co thể ngồi uống trà với nhau, đi thiền hành, nhìn trăng với nhau... Ngày hôm nay quý vô cùng! Trời còn để có hôm nay. Chúng ta có được ngày hôm nay để sống, thở, nhìn thấy nhau là một phép lạ lớn. Nếu không biết sống, không tỉnh thức, an lạc và hạnh phúc thì chúng ta quá tệ! Đây là những tiếng chuông chánh niệm lớn. Nếu dịch 'Trời' là 'God' thì nói: 'God has allowed today to be.' Trời còn để có hôm nay. Đó là một giác ngộ rất lớn, một phép tỉnh thức. Chúng ta còn có được ngày hôm nay. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Không biết ngày mai như thế nào nhưng hôm nay mình có hôm nay đây. Ta phải làm thế nào để tỏ sự trân quý của mình đối với ngày hôm nay. 'Trời còn để có hôm nay' tức là mình còn may mắn lắm! Mình rất có hạnh phúc; được ngồi nhìn nhau, đưa tay ra thì chạm được người mình thương. Đọc câu này tôi cảm động rất sâu sắc. Cái thấy được diễn tả bằng sáu bảy chữ này là chánh niệm. Tất cả chúng ta đều có may mắn. Cố nhiên, chúng ta có thể có những rủi ro, đã đi qua những cơn cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào. Nhưng trời vẫn còn cho chúng ta có ngày hôm nay, vẫn để cho chúng ta sống tới ngày hôm nay để có thể tiếp xúc được với nhau, ngồi bên nhau. Trời còn để có hôm nay. Sáu chữ được làm bằng chánh niệm, tỉnh thức. Chánh niệm là gì? Là thứ năng lượng làm tan đi hết tất cả những u mê, thất niệm.
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.' Câu thứ hai rày cũng rất mầu nhiệm. Cái ngõ mình đi ra đi vào buổi sáng có thể có sương mù, không cho mình thấy được đường. Nhưng bây giờ sương đã tan rồi. Mình thấy gì khi tan sương đầu ngõ? Mình thấy những bông hoa. Khi mây vén ra ở giữa trời thì mình thấy gì? Thấy trăng. Những đau khổ mình đã đi qua, cái đường hầm đen tối kéo dài mười lăm năm, mình nói rằng hoa đào mà không khuyết, trăng nào mà không tàn: 'Ấy vậy mà: 'Trời còn để có hôm nay.' Khi mình thức tỉnh ra được, thấy được điều này thì; Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.' Lại thấy hoa và trăng trở lại. Hay như vậy đó! Sự thật là chúng ta còn có ngày hôm nay. Nếu chúng ta tiếp xúc được với cái hôm nay mầu nhiệm thì cũng có nghĩa là những u mê, thất niệm, những trở lực thuộc tham, sân, si kia đều được vén ra. Tưởng là hoa tàn, ai dè hoa còn tươi hơn bất cứ lúc nào hết! 'Trời còn để có hôm nay.' Tiếp xúc được điều đó thì:
'Hoa tàn mà lại thêm tươi,
'Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
Mình đã chuyển hóa được khổ đau. Những khổ đau trong quá khứ mười lăm năm đã trở thành có ích lợi. Rác đã trở thành hoa. Và dù mình có pảhi khổ trong mười lăm, hai mươi hay ba mươi năm đi nữa nếu mình giác ngộ được rằng: 'Trời còn để có hôm nay' thì mình đã không có gì mất hết. Trái lại, hoa còn tươi, trăng còn sáng hơn xưa.
Có điều chi nữa mà ngờ,
'Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu!220
Nghe chàng đã nói hết điều,
Hai thân thì cũng quyết theo một bài.
Anh chàng là trạng sư mà! Cả nhà về phe Kim một trăm phần trăm, bắt Kiều phải làm đám cưới với anh chàng cho được. Sư chị ở đâu mà không tới giúp em? Mới biết tăng thân là cần lắm!
Hết lời khôn lẽ chối lời,
Cúi đầu nàng những ngắn dài thở than.
Trong nguyên lục, sau khi chấp nhận làm lễ, Kiều nói: 'Em làm lễ như vậy để mọi người vui thôi, nhưng em cương quyết không sống đời vợ chồng như thế thường. Em chỉ muốn sống với gia đình và với người yêu cũ thì em sẽ sống như bạn thôi chứ sẽ không có chuyện chăn gối. Thà rằng chết chứ em không làm chuyện đó nữa. Em đã thoát nó rồi!' Phải làm tròn bổn phận của một người con, một người chị và của một người đã thề nguyền. Mình còn sống trong cuộc đời này nhưng lòng của mình đã là lòng của một người tu. Phật giáo nhập thế! Kiều bây giờ có bản lĩnh lắm! Chúng ta sẽ chứng kiến việc Kiều dạy cho Kim Trọng tu. Nhờ đọc nguyên lục tôi khám phá ra những chi tiết không có trong truyện Kiều bằng chữ Nôm.
Gia đình Kiều chưa hiểu Kiều. Chưa biết Kiều đã đi rất xa trên đường tu tập. Kỳ này sư chị đã dạy sư em rất đàng hoàng. Bao nhiêu những đam mê, danh vọng, phiền não của Kiều đã tiêu tan. Kiều không thể nào trở về cuộc sống bụi bặm, trần tục như xưa nữa. Kiều có thể sống trong cuộc đời mà không bị cuộc đời làm ô nhiễm. Kiều nói thật, rất rõ trong nguyên lục: 'Con chiều cha mẹ. Em chiều anh. Làm lễ thì làm để cho trọn, đẹp về phương diện hình thức. Nhưng em rất ham tu. Không ép em được. Một là em chết, hai là để em sống cuộc đời của người tu trong lòng gia đình này. Nếu bắt con phải làm như người khác thì con sẽ chết. Con không thấy hạnh phúc trong nếp sống đó nữa.' 'Ôi! Con gái nói bề ngoài như vậy thôi! Đến lúc đó thì nó sẽ làm khác!' Ai cũng nghĩ như vậy. Nhưng sự thực, Kiều đã làm đúng như Kiều nói.
GƯƠNG TRONG CHẲNG CHÚT BỤI TRẦN
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.227
Cùng nhau giao bái một nhà,
Lễ đà đủ lễ đôi là xứng đôi.
Động phòng dìu dặt chén mồi,
Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.
Những từ sen ngó đào tơ,
Mười lăm năm mới bây giờ là đây!
Từ sen ngó đào tơ là từ hồi còn trẻ, mười lăm năm về trước; bây giờ lời thề mới được thực hiện. Đối với Kim Trọng và những người trong gia đình, đây là một đám cưới thật sự. Nhưng đối với Kiều, đây là chiều thế gian cho người ta có một hình thức mà thôi. Kiều nhất quyết đi trên con đường thoát tục, không đi theo cuộc đời thế gian nữa.
Tình duyên ấy hợp tan này,
Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.
Tối hôm đó sau khi ăn tiệc, cả nhà chúc hai người có hạnh phúc rồi rút lui. Tất cả họ nghĩ rằng họ sẽ ăn nằm với nhau. Nhưng hai người đã ngồi nói chuyện đến khuya.
Canh khuya bức gấm rủ thao,
Dưới đèn tỏ dạng má đào thêm xuân.
Kim Trọng nhìn lại thấy Thúy Kiều còn đẹp quá dưới ánh đèn.
Tình nhân lại gặp tình nhân,
Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
Ngày xưa Thúy Kiều đẹp mê hồn, bây giờ Kiều vẫn rất đẹp. Thúy Kiều là bông hoa ngày xưa, Kim Trọng là con ong cũ. Con ong lại muốn đi thăm bông hoa. Kim Trọng là người chưa giải thoát, vẫn muốn có liên hệ nam nữ với Thúy Kiều trong đêm đó. Nghĩ rằng sau khi đã uống rượu thề bồi, chứng tỏ mình có nhiều thương yêu và tình nghĩa rồi thì thế nào rồi Kiều cũng chịu. Nhưng Kiều cự tuyệt. Ở đây, cụ Nguyễn Du rất kín đáo tế nhị, không nói ra những điều đó.
Nàng rằng: 'Phận thiếp đã đành,
'Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
'Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
'Chiều lòng gọi có xướng tùy228 mảy may.
'Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
'Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!
'Những như âu yếm vành ngoài,
'Còn toan mở mặt với người cho qua.
'Lại như những thói người ta,
'Vớt hương dưới đất bẽ hoa cuối mùa.
'Cũng là giở nhuốc bày trò,
'Còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi!
'Người yêu ta xấu với người,
'Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!
Kiều nói rằng chấp nhận cái đám cưới này, dù chỉ là đám cưới hình thức, Kiều cũng cảm thấy xấu hổ lắm rồi. Còn nếu phải làm chuyện đó thì thà Kiều chết đi mà còn đẹp hơn. Lý do của Kiều là hai người không còn xứng đôi nữa. Nếu Kiều chấp nhận làm việc đó với Kim Trọng tức là Kiều không đối xử đẹp với Kim Trọng. Cái tình của hai người sẽ mất đẹp đi và chỉ còn lại sự bẽ bàng, thù nghịch. Một lý do khác là Kiều đã tu, đã nếm được mùi tịnh lạc và thấy hạnh phúc chân thật là như thế nào rồi thì không thể trở về chuyện đó được. Cũng như ăn chay đã từ lâu ngày mà cho mình một tô canh cá hay canh cua thì ăn làm sao được nữa!
'Cửa nhà dầu tính về sau,
'Thì con em nó lọ cầu chị đây.
- 'Nếu cần phải có con nối dõi thì đã có Thúy Vân rồi, đâu có cần phải em.'
'Chữ trinh còn một chút này,
'Chẳng cầm cho vững lại dày cho tan!
'Còn nhiều ân ái chan chan,
'Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi?'
- 'Cái đẹp duy nhất còn lại của em là tấm lòng và cuộc sống tu hành. Xin anh hãy giữ gìn cho em.'
Trong lòng Kim Trọng phát sinh một niềm kính ngưỡng chưa bao giờ có đối với Kiều. Kim Trọng nói:
Chàng rằng: 'Gắn bó một lời,
'Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau
'Xót người lưu lạc bấy lâu,
'Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều.
'Thương nhau sinh tử đã liều,
'Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.
- Chúng ta đã thề thốt với nhau và đã phải xa nhau! Vì thương mà liều sống chết để tìm nhau. Gặp nhau là cũng chỉ mong được thấy nhau bình yên thôi!'
'Chừng xuân tỏ liễu còn xanh,
'Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân.
'Gương trong chẳng chút bụi trần,
'Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm!
- 'Anh tưởng em còn trẻ thì em cũng như những người con gái khác. Nhưng anh nhận ra rằng tâm hồn em rất trong sáng, không vướng một hạt bụi nào cả. Càng nghe em nói anh càng kính phục em thêm!'
'Bấy lâu đáy bể mò kim
'Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa?
- 'Lâu nay anh đi tìm em là vì lời thề vàng đá chứ đâu phải là để tìm chuyện chăn gối!' Nói rất hay! Có lẽ cũng có sự thật trong lời nói của Kim, nhưng chỉ được mấy chục phần trăm thôi. Trước đó anh ta đã ép nhưng đã bị Kiều cự tuyệt. Bây giờ phần hoa nổi lên, phần rác đi xuống.
'Ai ngờ lại hợp một nhà,
'Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!'
- 'Đâu cần phải chăn gối với nhau mới là vợ chồng chân thật!' Anh chàng nói triết lý! Anh chàng chấp nhận điều đó. Nếu Kim Trọng là một người vũ phu thì chàng đâu đã nghe được những điều Thúy Kiều nói. Ép thì hư hết! Kim Trọng là người có khả năng nghe và chấp nhận, chuyển hóa. Chúng ta cũng thấy trong Thúy Kiều có khả năng của đức Quán Thế Âm đã đi vào cuộc đời để dìu dắt người ta đi về hướng giải thoát.
Nghe lời sửa áo cài trâm,
Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng:
'Thân tàn gạn đục khơi trong,
'Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
- 'Chàng là người rất đặc biệt, không phải tầm thường!' Thật ra quân tử ban đầu không khác lòng người ta lắm, cũng đòi hỏi như người ta vậy. Nhưng nhờ có giáo dục chàng mới được như vậy. Cái lạy này làm cho Kim Trọng kẹt cứng. Cái lạy nặng nghìn cân!
Gạn đục khơi trong có nghĩa là tu tỉnh và chuyển hóa lại. Những gì xấu mình làm cho tốt, những gì đục mình làm cho trong, những gì héo mình làm cho tươi. Đó là công phu tu học. Gạn đục khơi trong là như vậy. Trong chúng ta luôn luôn có rác và hoa. Chúng ta tu học để chuyển rác thành hoa. Gạn đục khơi trong là do công phu tu hành mà có. Thúy Kiều nói: Thân tàn gạn đục khơi trong, Là nhờ quân tử khác lòng người ta.' Thật ra không phải nhờ Kim Trọng mà nhờ bản thân Thúy Kiều đã tu học, đã chuyển hóa. Bây giờ Thúy Kiều hồi tưởng công đức cho Kim Trọng, nhưng Kim Trọng chỉ là một trong những điều kiện để giúp Kiều có thể tiếp tục được con đường tu học đó thôi. Ở đây, Kiều sử dụng ái ngữ: 'Sở dĩ em được như vậy là nhờ anh.' Đây là một phương tiện quyền xảo của người tu. Anh chàng chỉ mới hứa thôi. Nói như vậy để anh ta giữ vững lời hứa của mình. Không quên 'Thận chung như thận thủy', sau cũng giữ được như trước. Cố nhiên, 'khác lòng người ta' tức là Kim Trọng hiểu được chí hướng của Kiều và tôn trọng chí hướng đó. Đây là một điều đáng khen về phía Kim Trọng. Nhưng yếu tố căn bản để làm cho 'gạn đục khơi trong' là cái thấy, là sự tu học của Thúy Kiều. Cái hiểu và lời hứa của Kim Trọng là một trong những điều kiện yểm trợ cho sự hành trì đó thôi.
'Mấy lời tâm phúc ruột rà,
'Tương tri dường ấy mới là tương tri!
- 'Những lời anh vừa nói là thật từ trong tâm, trong ruột đi ra. Không phải là lời nói ngoại giao. Hiểu nhau như vậy mới thật là hiểu nhau. Anh đã hiểu được em rồi thì anh là người đích thật thương em.' Sư chị không biết bây giờ ở đâu nhưng nếu thấy được sư em hành xử như vậy chắc chắn sư chị mừng lắm! Công phu dạy dỗ của sư chị rất thành công.
Khi hai người bạn hiểu nhau thì gọi là bạn tương tri. Trong đạo Bụt chúng ta đã học rằng có hiểu thì mới thương được. Chưa hiểu nhau thì chưa thương nhau. Chưa hiểu nhau sâu sắc thì chưa thương nhau sâu sắc. 'Tương tri dường ấy mới là tương tri.' Câu nói của Kiều rất phù hợp với chánh pháp. Kiều nói sự thật, không phải nói dối. Ngôn ngữ của Kiều làm cho mạnh hơn ý chí của người con trai. Kiều biết rằng người con trai đó thông mịnh nhưng có thể yếu đuối. Kim Trọng đã có nghe Kiều nói rằng làm lễ chẳng qua là để cho đẹp về hình thức thôi chứ. Kiều không muốn sống đời vợ chồng dung thường. Mọi người, trong đó có Kim Trọng, nghĩ rằng những cô gái sắp về nhà chồng là ưa nói như vậy, kỳ thực đến lúc đó là mình tiến tới một bước thì các cô sẽ chấp thuận. Trong trường hợp này sự tình đã không xảy ra như vậy. Vì đứng về phương diện tâm linh và kinh nghiệm sống mà xét thì Thúy Kiều đã đứng vào vị trí một người thầy về mặt tu học và tâm linh. Kim Trọng tìm ra sự thật rằng người con gái này không còn là người con gái mình yêu ngày xưa nữa. Người con gái ngày xưa cũng đã giữ giới: 'Anh đừng làm như vậy. Làm như vậy sẽ hỏng hết!' Bây giờ chuyện lập lại lần thứ hai, Thúy Kiều lại gạt ra một lần nữa. Nhưng kỳ này không phải là Thúy Kiều giữ giới. Thúy Kiều không cần giữ giới nữa. Thúy Kiều đã có kinh nghiệm trực tiếp về sự sống, về giá trị của vật dục, dục lạc. Vì vậy Kiều đã tới trình độ không cần giữ giới nữa mà giới vẫn được giữ như thường. Thúy Kiều đã ớn chuyện đó tới xương tới tủy cho nên không cần giữ giới mà giới vẫn được giữ. Khác nhau ở chỗ đó. Ngày xưa chàng sinh viên tiến tới thì cô Kiều giữ giới. Bây giờ cũng chàng sinh viên đó, già hơn và làm quan rồi, đứng về phương diện hình thức thì đã là chồng của Kiều rồi, chàng sinh viên tiến tới thì Thúy Kiều không cần giữ giới mà chàng sinh viên đó cũng không phạm giới. Giữ giới là khi nào mình còn yếu. Khi mình giải thoát rồi thì không cần giữ Giới mà Giới vẫn được giữ. Vua Trần Thái Tông ngày xưa, trong sách Khóa Hư, cũng có viết như vậy. Nói rằng khi mới tu học thì chúng ta cần phải niệm Bụt, tụng Kinh và giữ Giới nhưng khi chúng ta đã giải thoát rồi thì: 'đâu còn Bụt để mà niệm, Kinh nào để mà tụng, Giới nào để mà trì!. Ở đây chúng ta phải hiểu như vậy. Ngày xưa Kiều đã giữ giới như một cô thiếu nữ. Bây giờ Kiều đã vượt ra khỏi, đã giải thoát rồi, Kiều không giữ Giới mà Giới vẫn được tôn trọng. Kiều trở thành người dạy cho Kim Trọng. Người đàn bà Đông phương rất hay, họ dạy mà không có vẻ là dạy. Vẫn có vẻ như tuân phục người đàn ông nhưng kỳ thực trong đó họ hướng dẫn người đàn ông đi theo.
'Thân tàn gạn đục khơi trong,
'Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
'Mấy lời tâm phúc ruột rà,
'Tương tri dường ấy mới là tương tri!'
Rất khéo. Càng nói thì càng buộc người con trai vào lời hứa. Chúng ta thấy Kiều rất giỏi về tâm lý.
'Chở che đùm bọc thiếu gì,
'Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!'
- 'Từ đây trở về sau anh sẽ là người hộ pháp, che chở, đùm bọc em.' Chở che đùm bọc là một lời khen lớn chứ không phải là thường. Trong văn chương người ta nói ơn 'trời che đất chở' (thiên phú địa tải.) Trái đất chở mình và bầu trời che mình. Coi người kia như trời đất, cho người kia trở thành rất quan trọng. Người kia khi đã lãnh một sứ mạng như vậy thì không còn có thể đi lui được nữa. Ơn che chở, lượng đùm bọc. Đùm bọc là nói về lượng. Biển có thể bao hàm được nhiều và mùa xuân có thể nuôi được nhiều. 'Xuân dục hải hàm chi lượng' tức là lượng như lượng của biển cả và của mùa xuân. Trong bản tiếng Nôm, cụ Nguyễn Du nói: 'Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng.' Trên hình thức như thế thì như lạy tạ một ngưòi, người đó là người hiểu thương mình, nhưng kỳ thực là lạy tạ cả Trời, Đất, mùa Xuân và Biển cả. Muốn rằng người kia đại diện cho Trời, Đất, mùa Xuân và Biển cả che chở và đùm bọc cho mình. Chúng ta thấy trí tuệ cũng như sự khôn khéo của Kiều rất lớn. Và chúng ta biết Kiều đã lớn lên, trưởng thành và chín chắn trong con đường tu học. 'Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!' Đêm nay là cái đêm mà chàng phát nguyện tu học và tôn trọng nếp sống tâm linh của nàng.
Trong nguyên lục, sau khi Kiều đã nói cho Kim Trọng nghe ý chí của mình thì Kim Trọng giật mình nói: 'Tình của em là một thứ tình rất trinh liệt. Vậy anh đâu còn dám mơ tưởng đến thứ tình tầm thường như trước nữa.' Cũng trong nguyên lục, Kiều làm mười bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt (năm chữ bốn câu) để hướng dẫn cho Kim Trọng thấy được chí hướng của mình và tỏ ý khuyên Kim Trọng cũng nên bắt đầu tu học. Thúy Kiều dạy Kim Trọng rất tế nhị. Kiều khuyên Kim Trọng đem hết thông mình tài trí và đức hạnh ra để làm quan. Kiều chia sẻ cái hay nhất của mình trong đời sống tu hành và khuyên Kim Trọng cũng nên thực tập để vượt thoát những vướng víu, buồn lo, khao khát trong lòng. Đây là bài thơ thứ mười của Kiều, chép trong nguyên lục:
Kim nhật trùng kiến lang
Bất phục tri hữu tử
Nguyện quân tảo định tình
Thận chung như thận thủy.
Tôi dịch:
Hôm nay gặp lại chàng
Tử sinh em đã vượt
Xin chàng sớm định tâm
Giữ gìn sau như trước.
Đưa ra mười bài thơ, Kiều nói thêm: 'Mười bài thơ nói lên cái tình của em.' 'Thử thiếp tình giả: đây là tình của em; một thứ tình rất trong sạch, nhẹ nhàng, giải thoát. 'Nguyện di quân tình dĩ tựu ngã': xin anh dời tình của anh tới để gặp tình của em. Tình em là tình đã vượt, đã tới. Tình anh đang còn vướng mắc. Anh hãy định tâm lại, hãy chuyển, dời tình anh tới để gặp em. Vì em không thể nào lui được. Một con gà con sau khi đã san ra không thể nào lại chui vào trong vỏ trứng được nữa. Đó là ý của Kiều. Đọc nguyên lục có cái lợi là ta có thể thấy được những chi tiết không có trong tác phẩm của cụ Nguyễn Du.
Đây là một người đàn bà đã khổ đau, đã tu học, đã đạt tới giác ngộ và có khả năng giúp người đàn ông. Kim Trọng là người rất thông minh, giật mình thấy được rằng người đang ngồi với mình tối hôm nay là một con người hoàn toàn khác, không phải là người con gái năm xưa nữa. Mười lăm năm đã biến nàng thành một người chín chắn, một người mà mình không thể coi thường được. Một người có thể dạy mình và soi sáng cho mình.
CUỐN DÂY TỪ ĐẤY VỀ SAU CŨNG CHỪA
Thoát thôi tay lại cầm tay,
Càng yêu vì nết càng say vì tình.
Thêm nến giá nối hương bình,
Cùng nhau lại chúc chén quỳnh giao hoan.
Hai bên lại uống rượu. Chúng ta biết Trạc Tuyền đã giữ giới rồi, chắc chỉ uống trà thôi chứ đâu có uống rượu được. Nếu uống say thì làm sao dạy được người ta!
Tình xưa lai láng khôn hàn,
Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
Đây là Kim Trọng, nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa, muốn Kiều đàn cho mình nghe một lần nữa. 'Tình xưa lai láng khôn hàn' là tâm trạng của Kim Trọng. Tình ngày xưa còn lai láng. Anh chàng đã hứa rồi nhưng chưa hứa đủ, phải thực tập nữa. Kiều biết rất rõ điều đó cho nên cô mới buộc anh phải tu để có thể giữ được trọn lời hứa. Tình xưa lai láng nghĩa là quá khứ vẫn còn mạnh. Khôn hàn là không thể nào ngăn chặn lại được.
Nàng rằng: 'Vì mấy đường tơ,
'Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
- 'Anh biết không, chính vì bản đàn đó mà em đã khổ suốt đời!' Thi ca, âm nhạc, hội họa... có thể ảnh hưởng trên đời mình rất nhiều. Nếu không cẩn thận, không chánh niệm khi thưởng thức những bản nhạc, bài thơ... mình sẽ đi sâu vào sầu khổ. Lầm người là đẩy con người đi tới chỗ lầm lạc. Lầm ở đây là wrong view, cái thấy sai lầm về cuộc đời. Câu nói của Kiều có nghĩa là mình phải cẩn trọng trong khi tiêu thụ những sản phẩm của âm nhạc hay văn học, vô tuyến truyền hình, âm nhạc... đóng một vai trò rất lớn trong cuộc đời mình. Nếu tiêu thụ những sản phẩm đó mà không có chánh niệm thì mình sẽ khổ suốt đời. Điều này rất rõ trong thế giới của chúng ta. Nếu chúng ta cho trẻ em tha hồ tiêu thụ những sản phẩm văn hóa như vô tuyến truyền hình, âm nhạc, trò chơi điện tử thì các em sẽ khổ suốt đời vì các sản phẩm ấy có thể có rất nhiều độc tố. Bản đàn Thúy Kiều sáng tác hồi nhỏ là kết quả của những hạt giống sầu khổ, đen tối, chán đời. Có thể những hạt giống đó đã được trao truyền lại, Thúy Kiều đã không biết để chuyển hóa mà vẫn để nền âm nhạc đau thương đó trấn ngự đời mình và dẫn mình đi về những nẻo đường không sáng sủa.
Nàng rằng: 'Vì mấy đường tơ,
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!'
Những bài mình hát hàng ngày vận vào mình và đưa mình đi theo ngả của nó. Ở Sài Gòn, vào khoảng năm 1950, bọn con nít hát nghêu ngao ngoài đường 'Ôi ta buồn ta đi lang thang, bởi vì đâu?' Con nít mới có sáu bảy tuổi mà hát những câu như vậy thì đời của chúng đi về đâu? Chúng ta thấy ngay ở trong giới Phật tử cũng có những bài hát rất sầu đau: 'Ngài ra đi, từ ly, vợ hiền con yêu dấu...' Nhạc rất sầu đau, không có gì phản ảnh tính cách giải thoát của đạo Bụt hết. Những bài thơ cũng vậy. Chúng ta thấy rất nhiều bài thơ và nhiều bài nhạc được sáng tác gần đây cho thiếu nhi mang nặng rất nhiều tính chất khổ đau. Và như vậy, không có Phật chất. Chúng ta có những bài hát như: 'Boong Boong, Tôi là chuông đại hồng...' hát lên thấy sảng khoái, mạnh mẽ. Còn những bài như Trái Tim Bồ Tát, tuy rằng để ca ngợi đức Hòa thượng Quảng Đức nhưng giọng rất sầu khổ; hát lên thì tát cả sẽ giống như những cây liễu rũ. Chúng ta thử nghe một vài bài rồi mới biết những bài hát đó tưới những hạt giống sầu đau trong chúng ta.
'Ăn năn thì sự đã rồi!
Nể lòng người cũ vâng lời một phen.'
- 'Nhưng nể anh là một người bạn thân thiết nhất đời nên em sẽ vâng lời đàn một lần nữa.' Nhưng Kiều đã biết trước rằng lần này mình đàn thì bản đàn sẽ khác vì tâm linh đã giải thoát rồi. Khi tâm mình đã giải thoát rồi thì chạm đến cái gì là cái đó chuyển hóa. Kiều ó một đức tin rất lớn ở nơi mình.
Bản nhạc Kiều sáng tác có tên là Bạc mệnh (số phận mỏng manh.) Mới có mười sáu, mười bảy tuổi mà đã làm ra một bản nhạc tên là 'số phận mỏng manh'! Chúng ta thấy lối giáo dục đó, lối thưởng thức văn nghệ đó, không lành mạnh. Cho nên khi thấy có một người học trò làm ra một bản nhạc buồn thì tôi nói liền: 'Bài này buồn con ơi! Nên làm một bài khác vui hơn.' Chê là chỉ chê cái đó thôi chứ không chê kỹ thuật. Ở bên Mỹ có một thầy ngâm thơ rất hay nhưng có nhiều lúc thầy ngâm những bài thơ buồn quá, thầy khóc nức nở trong khi ngâm. Tôi nói: 'Không được! Mình là người tu, mình không có quyền như vậy!' Không được đầu độc mình và đầu độc những người xung quanh. Những bài thơ mình ngâm phải là những bài hùng tráng, có tính cách giải thoát. Khi mình đã làm cây lệ liễu rồi thì mình sẽ làm cho người xung quanh mình khóc hết. Lúc đó mình đang 'phản tuyền truyền' giáo lý của mình, giáo lý của giải thoát.
Trong truyện Kiều có một số đoạn thi sĩ Nguyễn Du tả Kiều đàn. Lần đầu tiên là đàn cho Kim Trọng nghe khi hai người mới gặp nhau. Kim Trọng yêu cầu: 'Nghe đồn em đàn rất hay. Em đàn cho anh nghe đi! Thúy Kiều đem bản nhạc hay nhất của mình, Bạc mệnh ra đàn:
So vần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu,
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng Lăng,
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
Quá quan này khúc Chiêu Quân,
Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
Ngọn đèn như tỏ như mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
Anh chàng ngồi không yên được vì bản đàn đau buồn quá đi! 'Khi tựa gối khi cúi đầu, Khi vò chín khúc (tức là đau ruột) khi chau đôi mày.' Buồn quá!
Rằng: 'Hay thì thật là hay,
'Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào.
'Lựa chi những bậc tiêu tao,
'Dột lòng mình cũng nao nao lòng người?'
Kim Trọng trách Thúy Kiều tại sao lại đàn một bài buồn quá như vậy. Thúy Kiều đáp"
Rằng: 'Quen mất nết đi rồi,
'Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
Trời trao cho mình chất đó thì mình chịu thôi!' Mà Trời nào? Đó là hạt giống của ông bà cha mẹ trao lại hoặc do từ giáo dục và thói quen mang tới.
Một lần khác, Kiều bị bắt buộc phải đánh đàn cho Thúc Sinh nghe; người buộc Kiều là vợ cả của Thúc Sinh, Hoạn Thư:
Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu đã bày trò chơi.
Rằng; 'Hoa nô đủ mọi tài,
'Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe!'
Kiều phải đàn với tư cách của một người đầy tớ chứ không phải với tư cách của người yêu như cũ:
Nàng đà tán hoán tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn:
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
Thúc sinh ngồi trên bàn tiệc khóc nức, không thể dừng lại được. Tiếng đàn Kiều ai oán quá! Hoạn Thư rầy: 'Mầy đàn cái bài gì mà dữ dội quá vậy, ác ôn quá vậy! Mày làm cho chàng khóc! Đó là tội của mày! 'Nhưng Thúy Kiều đâu thể đàn một bài vui được! Chất nghệ thuật của nàng là chất sầu cảm.
Một lúc khác Kiều phải đàn cho một cuộc liên hoa, tổ chức bởi quan lớn Hồ Tôn Hiến để ăn mừng thắng trận. Hồ Tôn Hiến vừa lừa và giết được Từ Hải, chồng của Kiều.
Trong quân mở tiệc hạ công,
Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
Bắt nàng thị yến dưới màn,
Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay.
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
Cũng bài đó. Một cung đàn mà làm cho gió phải tủi, mưa phải sầu. Tiếng đàn lâm ly ai oán như có máu chày trên ngón tay người đàn. Con ve mùa hè than khóc cũng không buồn như vậy. Con vượn trong rừng sâu kêu thương khi con chết cũng không đau khổ đến thế. Ai ngồi trong tiệc cũng phải khóc, kể cả người anh hùng chiến thắng là Hồ Tôn Hiến. Tâm trạng của Kiều luc sđó là tâm trạng đua khổ cùng cực.
Hỏi rằng: 'Này khúc ở đâu?
'Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!'
Thưa rằng: 'Bạc mệnh khúc này,
'Phổ vào tay ấy những ngày còn thơ.
'Cung cầm lựa những ngày xưa,
'Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!'
- 'Ngày xưa đã chọn loại âm nhạc đó. Bây giờ kết quả là đây. Quan lớn nhìn vào thì thấy!' Nhưng đau khổ chỉ cho Thúy Kiều biết là mình đã đi lầm đường trong sự thưởng thức âm nhạc, nghệ thuật. Vì vậy bây giờ Thúy Kiều nói một cách rất rõ ràng với Kim Trọng:
Nàng rằng: 'Vì mấy đường tơ,
Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
'Ăn năn thì sự đã rồi!
'Nể lòng người cũng vâng lời một phen.'
Và bây giờ cụ Nguyễn Du tả Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe sau mười lăm năm gặp lại. Lần này, tiếng đàn của Thúy Kiều không còn như ngày xưa vì tâm Kiều đã giải thoát:
Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?229
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên.230
Trong sao châu nhỏ duyền quyên,231
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.232
Khúc nhạc nghe đầm ấm, khoan hòa như ánh dương. Nhàn nhã, xuất thế như Trang Sinh hóa bướm.Trong như hạt ngọc trai phản chiếu ánh trăng soi trên vùng bể. Ấm như một hạt ngọc ở Lam Điền vừa mới đông lại. Đây là những hình ảnh tả sự ấm áp, trong trẻo, tươi xuân của bản đàn. Không có chất liệu đau khổ ngày xưa nữa vì tâm của người đánh đàn đã được chuyển hóa.
Lọt tai nghe suốt năm cung,
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
Kim Trọng nghe bản nhạc rất ngạc nhiên:
Chàng rằng: 'Phổ ấy tay nào,
'Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
'Tẻ vui hỏi tại lòng này,
'Hay là khổ tận tới ngày cam lai?'
Vui khổ là tại nhận thức của mình hay là vì mình hết cái đắng (khổ) thì tự nhiên cái ngọt (cam), cái vui đến? Đó là câu nói triết lý của chàng Kim Trọng. Anh chàng bắt đầu thấm giáo lý Duy Tâm. Buồn hay vui đều là do tâm.
Câu trả lời của Thúy Kiều càng làm rõ hơn điều Kiều đã tuyên bố trước đó về vấn đề thưởng thức văn nghệ.
Nàng rằng: 'Vì chút nghề chơi,
'Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
'Một phen tri kỷ cùng nhau,
'Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa.'
Vì ham chơi nhạc sầu khổ mà tiếng nhạc đoạn trường (đứt ruột) đã hại mình biết bao nhiêu năm tháng. Cứ ngồi mà ủ rũ hát những bài Nam Ai, Nam Bình, Tiếng Xưa, Đêm tàn bến Ngự... và sáu câu vọng cổ thì dân tộc có thể vươn lên được hay không? Tuy rằng trong đó có chút ít quốc hồn quốc túy thật nhưng đó chỉ là những đau thương của dân tộc được ghi chép lại. Nếu chúng ta cứ tiếp tục hát mỗi ngày những bài hát sầu đau thúi ruột như vậy thì chắc có lẽ ai cũng thành Thúy Kiều hết!
Bây giờ chúng ta dã hiểu nhau, đã thấy được sự thật rồi thì xin vĩnh biệt cái loại âm nhạc đứt ruột từ đây. Vì nếu chúng ta cứ tiếp tục thì con cháu chúng ta sẽ bị ảnh hưởng. 'Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa.' Đây là quyết đinh của Thúy Kiều. Thúy Kiều đã cảm thấy được sự thật của giới thứ năm và muốn con cháu mình sau này sẽ không vướng vào đó nữa.
Chuyện trò chưa chạn tóc tơ,
Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông.
Tình riêng chàng lại nói sòng,
Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao.
Trong nguyên lục, Kim Trọng chỉ nói cho Thúy Vân nghe thôi nhưng Thúy Vân đem ra nói huỵch toẹt với gia đình.
Cho hay thục nữ chí cao,
Phải người sớm mận tối đào như ai?
Hai tình vẹn vẽ hòa hai,
Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ.
Khi chén rượu khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
193 Có bản đề: Vội han di trú nơi nào.
194 Trường Hận Ca có câu: 'Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ' = mối sầu hận này dằng dặc không bao giờ nguôi.
195 Thần: buổi sáng (thần chung là tiếng chuông sớm); hôn: buổi chiều.
196 Dưỡng thân: nuôi cha mẹ.
197 Chế khoa: khoa thi đặc biệt được mở do ý riêng nhà vua, khác với khoa thi thường lệ, đây là thi Hội. Khi đậu tú tài (khoa hương, thi ở địa phương) thì mới thi Hội ở Kinh đô. Đậu ở kinh đô thì mới được chọn lợa làm quan, lo công việc của nhà nước.
198 Cửa trời: cửa của nhà vua. Đường mây: đường lập công danh.
199 Ngõ hạnh: tức ngõ Hạnh viên, tên một khu vườn xưa là nơi các tân khoa tiến sĩ chơi và dự yến. Chỉ cảnh thi đỗ được ăn yến xem hoa. Dặm phần: chỉ quê hương. Hương: tiếng thơm.
200 Chu tuyền: lo lắng cho mình trọn vẹn (trong cơn nguy biến.)
201 Kim mã ngọc đường: Sách Ấu học tâm nguyên có câu 'Kim mã ngọc đường tiện hàn lâm chi thanh giá' nghĩa là "Kim mã ngọc đường là nói về thèm khát cái danh giá của các vị hàn lâm (những người học giỏi được triều đình thu nhận. Đây là nói Kim Trọng được vinh hiển mà Thúy Kiều ở đâu không được chung hưởng cảnh phú quý với chàng.
202 Giai âm: tin tốt lành, tin mừng.
203 Vân mồng: chỉ tin tức, manh mối. Chữ vân mồng có lẽ là từ chữ văn vọng (văn: nghe, vọng: đưa tới.)
204 Tiêu hao: tin tức.
205 Kiếp trần: số kiếp một hạt bụi.
206 Bình bồng: bèo trôi trên nước, cỏ bồng ngả xuôi theo gió; chỉ thân phận phiêu bạt của Thúy Kiều.
207 Đỉnh chung: cái vạc và cái chuông bằng đồng, chỉ công danh phú quý. Đời xưa người ta dùng hai vật ấy mà ghi công để biểu dương, cho nên đỉnh chung có nghĩa là công danh do đó có nghĩa luôn là phú quý. (Cửu đỉnh vạn chung: một bữa ăn nấu chín vạc, mỗi kỳ lương lãnh mười ngàn đấu thóc.) Lại do chữ Hán: 'Liệt đỉnh nhi thực, thực thì kích chung' = ăn thì bày vạc, khi ăn thì thỉnh chuông. Chỉ nhà phú quý.
208 Năm mây chiếu trời: tờ chiếu của vua có vẽ mây năm sắc.
209 Thu linh: thu khí thiêng, tức là chết.
210 Chiêu hồn: gọi hồn. Thiết vị: đặt bài vị đề tên người chết.
211 Canh hồng: hình ảnh Thúy Kiều như cánh chim hồng khi Kiều gieo mình tự tử. Phú Tào Thực: Phiên nhược kinh hồng, uyển nhược du long = nhẹ nhàng bay vút như chim hồng khi kinh hãi, uyển chuyển mềm mại như con rộng khi lượn chơi (tả hình dáng nhẹ nhàng uyển chuyển của thần nữ sông Lạc). Theo Tề đông dã ngữ: Thương tâm kiều hạ xuân ba lục, tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai = đau lòng khi thấy lớp sóng biếc dưới chân cầu nơi đã từng có bóng con chim hồng kinh hãi rọi xuống.
212 Tinh vệ: giống chim nhỏ ở bãi biển. Theo Thuật Dị Ký, ngày xưa con gái Viêm Đế chết đuối ở biển Đông, hóa ra chim tinh vệ, mỗi ngày ngậm đá thả xuống lấp biển (tại vì biển này mà phải chết đuối.) Đây là nói oan hồn của Thúy Kiều.
213 Minh dương: cõi âm (minh: tối tăm) và cõi dương
214 Cửu-nguyên: chín suối (cửu tuyền), nơi người chết ở.
216 Chỉ thính chúng Tây phương.
217 Sông nước cát lầm: nước sông cát làm vẫn đục (lầm: vẫn đục.) Ý cả câu: cứ tưởng Kiều đã bỏ mình dưới sông (Tiền Đường.)
218 Binh địa ba đào: đất bằng nổi sóng, ý nói những bất trắc xảy ra trong đời người ta.
219 Phận cái duyên kim: ý nói duyên phận kết hợp với nhau như hột cải bị hổ phách hút, cái kim bị từ thạch (nam châm) hút. Chữ Hán có câu 'Hổ phách thập giới' nghĩa là hổ phách hút hột cải và 'từ thạch dẫn chậm' nghĩa là đá tử thạch hút kim.
220 Máu chảy ruột mềm: bên này khổ thì bên kia khổ, bên này hạnh phúc thì bên kia hạnh phúc.
221 Gương vỡ lại lành: nói việc nối lại được tình xưa nghĩa cũ, tình vợ chồng đã tan nay hợp.
222 Khuông thiêng: ông trời. Lừa lọc: sắp đặt. Đã đành có nơi: còn để cho mình cơ hội.
223 Quả mai ba bảy đưong vừa: ý nói Thúy Kiều đã luống tuổi nhưng lấy chồng vẫn chưa muộn. Bài thơ Phiếu Mai (Mai rụng) trong Kinh Thi (sách chép những câu ca dao của Trung Quốc) có câu: 'Phiếu hữu mai kỳ thực thất hề! Cầu ngã thứ sĩ, Đãi kỳ câm hề!' = (Mùa xuân sắp qua) Quả mai rụng, mười phần còn bảy thôi! (Kể đã muộn rồi) vậy những trai lành ai muốn lấy ta, liệu chọn ngày tốt mà làm lễ cưới đi thôi. (Mùa xuân sắp qua) Quả mai rụng, mười phần còn có ba thôi (Kể đã muộn rồi) vậy những trai lành ai muốn lấy ta, nên kíp ngay lúc này mà xin làm lễ cưới đi thôi. Quả mai ba bảy đương vừa ý nói mai rụng nhưng vẫn còn mai, vẫn còn thì giờ để làm đám cưới. Đào non: tức là yêu đào, gốc ở câu Kinh Thi 'đào chi yêu yêu' là cây đào đương non, dùng để ví người con gái mới đến tuổi lấy chồng.
224 Trần cấu: bụi bặm. Bố kinh: đạo của người vợ hiền; do chữ bố quần kinh thoa (quần vải thoa cỏ.)
225 Cầm sắt: Tình vợ chồng; Cầm cờ: tình bạn.
220 Chàng Tiêu: Tiêu lang. Thơ của Thôi Giao đời Đường có câu 'Hầu môn nhất nhập thâm như hái, Tòng thử Tiêu lang thị lộ nhân' - Cửa hầu vào đấy sâu như biển, Từ đó chàng Tiêu khách qua đường. Lấy điển vợ Tiêu Lang tên là Lục Châu bị bắt dâng cho Quách Tử Nghi, từ đó Tiêu Lang thấy vợ không dám nhận, cứ phải dửng dưng như khách qua đường.
227 Đốt đuốc hoa, treo màn hồng làm lễ cưới.
228 Xướng tùy: phu xướng phụ tùy, chồng nói vợ đáp ứng theo, có nghĩa là chồng vợ.
229 Hồ điệp: con bươm bướm. Trang Sinh: tức Trang Chu (Trang Tử) người thời Chiến Quốc. Trang Tử: 'Xưa kia Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm. Tự thấy thích chí chẳng biết đến Chu nào nửa! Thoát thức dậy, thì thù lù là Chu! Không biết Chu chiêm bao thành bướm hay bướm chiêm bao thành Chu?'
230 Thục đế: Vua nước Thục. Đỗ Quyên: chim cuốc, cũng gọi là tử quy hay đỗ vũ. Hoàn vũ ký: Vua nước Thục là Đỗ Vũ, hiệu Vọng Đế sau khi đã nhường ngôi cho người khác lên ở ẩn ở núi Tây Sơn, chết hóa thành chim đỗ quyên tiếng kêu ai oán.
231 Duyền quyên: vùng bể có trăng soi.
232 Lam Điền: tên hòn núi ở tỉnh Thiểm Tây, nơi sản sinh nhiều ngọc qúy. Mấy câu tả khúc đàn ở đoạn này lấy ý trong bài Cầm Sắt của Lý Thường Ấn: Trang sinh hiểu rộng mê hồ điệp, Thục đế xuân tâm thác đỗ quyên; thương hải ngụyệt minh châu hữu lệ. Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên = Trang sinh trong giấc chiêm bao buổi sáng mơ màng tưởng mình hóa bướm, vua Thục đế thác cái lòng thương tiếc thì xuân vào chim đỗ quyên; chỗ bể rộng bóng trăng soi hạt ngọc trai có nước mắt. Lam Điền buổi nắng ấm những hồn ngọc lên hơi.

Nhất Hạnh
Theo http://butsen.net/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Những ngày xưa không thể quên

Những ngày xưa không thể quên... Nếu ai đã từng đến Nha Trang, phải công nhận với tôi rằng biển ấy thật là đẹp. Một bãi biển dài thoai tho...