1. Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là vị vua yêu nước và
anh hùng, là một nhà văn hóa, nhà thơ xuất sắc ở thế kỷ XIII. Ông là người sáng
lập ra dòng Thiền Trúc Lâm, cũng là người nổi tiếng khoan hòa và nhân ái. Thơ
Trần Nhân Tông có sự hòa quyện giữa cảm quan triết học và thế sự, giữa tinh thần
lạc quan, yêu đời với những rung động tinh tế của người nghệ sĩ. Viết về mùa
xuân Trần Nhân Tông có ba bài thơ Xuân hiểu, Xuân cảnh, Xuân vãn… mỗi bài
thể hiện một nét xúc cảm đặc biệt của nhà thơ trước mùa xuân. Đến với những bài
thơ xuân của Trần Nhân Tông người đọc sẽ cảm nhận được sự vô hạn của mùa xuân đất
trời trong cảm quan về thiên nhiên tươi đẹp và lối tư duy thiền định sâu sắc của
nhà thơ.
2. Xuân hiểu
Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi
(Dịch nghĩa: Ngủ dậy mở cửa sổ/ Không biết xuân đã về/ Một
đôi bướm trắng/ Phần phật cánh, bay đến với hoa)
Đọc
bài thơ Xuân hiểu, chợt nhớ đến tứ thơ trong Thiên Trường vãn vọng (Ngắm
cảnh chiều ở Thiên Trường): Từ cung Thiên Trường, cặp mắt vãn vọng nhìn từ
chiều rộng - từ xa đến gần, từ sau thôn đến trước thôn, đến chiều dài -
con đường có các chú mục đồng cùng đàn trâu dần khuất vào ngõ xóm, đến chiều
cao theo hướng những cánh cò liệng từ trên không xuống cánh đồng… Một
không gian nghệ thuật đa diện. Cảnh sắc từ sau thôn đến trước thôn trong cảnh
trời chiều là rất khó tả một cách cụ thể và rõ nét, nên tác giả dùng cái hư và
cái thực làm nổi bật lẫn nhau. Vừa có cảnh sau thôn, trước thôn nhưng
cảnh đó đã nhạt tựa khói và cảm giác như nửa có nửa không. Sử dụng nghệ thuật hư/ thực, động/ tĩnh để vừa miêu tả cảnh vật vừa bộc lộ tư tưởng thiền định.
Nếu 2 câu thơ trước cảnh vật mờ trong khói, hư ảo, thì ở 2 câu thơ sau cảnh vật
lại nhìn thấy rõ ràng đến mức: Từng đôi cò trắng hạ xuống cánh đồng. Như
vậy, trong khói sương mờ ảo vẫn nhận ra những chấm cò trắng nhỏ nhất bay trên
cánh đồng. Biểu hiện tâm thiền ở chỗ khi đối diện với cảnh vật thì tâm rỗng
không, nhưng cái tưởng là rỗng không thì lại có. Mọi vật đều ở ranh giới của hư
/ thực, có / không, động/ tĩnh, vừa mang đặc điểm của cảnh chiều ở làng
quê thanh bình, vừa là cảnh giới Phật.
Ở
bài thơ Xuân hiểu, nghệ thuật hư/ thực, có/ không thể hiện
trong thi nhãn bất tri (không biết), biết rồi mà vẫn bất ngờ đến độ bất
tri. Cái mới mẻ, tinh khiết và tinh tế của mùa xuân là vậy. Sau một giấc ngủ, mở
cửa thì xuân đã về. Tuyệt diệu! Thiên nhân tương dữ - Thiên nhiên và
con người dường như chiếu ứng nhau, thời gian tự nhiên thì vốn là vậy, vô thủy
vô chung, chính xác vô cùng: Xuân khứ bách hoa lạc/ Xuân đáo bách hoa
khai (Xuân đến trăm hoa nở/ Xuân đi trăm hoa rụng – Mãn Giác Thiền sư), vậy
mà trong sự chính xác tuyệt đối đó, vẫn có những yếu tố bất ngờ trong tư duy
mang đậm yếu tố Thiền: Bất tri xuân dĩ quy. Mùa xuân đến trong cái ngỡ như
không biết mà lại cảm nhận đến từng chi tiết nhỏ nhất trong không gian yên tĩnh
đến mức nghe cả cánh bướm phần phật bay và nhìn thấy cả đôi bướm đang bay đến
bên hoa. Vậy là bức tranh mùa xuân đã có cả hoa, bướm, có sự thanh tĩnh tuyệt đối
nhờ tiếng phần phật của cánh bướm mỏng tanh. Với cái tâm cảm nhận đó thì mùa
xuân tinh khiết, thanh tao đến dường nào trong cảm nhận của Trần Nhân Tông.
3. Từ
cái bất ngờ, tinh khôi, mới mẻ, tĩnh lặng của mùa xuân vào sáng sớm trong bài
thơ Xuân hiểu đến bài thơ Xuân cảnh thì mùa xuân đã hiện
lên như bức tranh thủy mạc.
Xuân
cảnh
Dương
liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa
đường thiềm ảnh mộ vân phi
Khách
lai bất vấn nhân gian sự
Cộng
ỷ lan can khán thúy vi
(Dịch
thơ: Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày/ Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay/
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế/ Cùng tựa lan can nhìn núi mây – Bản
dịch của Huệ Chi)
Chiều
xuân bắt đầu bằng tiếng chim kêu chậm rãi trong khóm hoa dương liễu rậm, vẫn là
nghệ thuật động/ tĩnh của thi pháp thơ Đường, vẫn là thiên nhiên
tĩnh lặng trong âm thanh của tiếng chim, mà sao cái cảm giác quyến luyến, quấn
quýt giữa người và cảnh cứ tạo nên sự ám ảnh. Ám ảnh về nỗi buồn chăng? Bởi
hình ảnh mộ vân phi hay bởi hình ảnh điểu ngữ trì, hay bởi cả
hình ảnh khách lai cùng cộng ỷ lan can khán thúy vi. Tâm
thiền tuyệt đối, không cần bất vấn nhân gian sự mà chỉ cần cộng ỷ
lan can khán thúy vi là đã dĩ tâm truyền tâm. Trước cảnh vật quấn
quýt, quyến luyến, trước không gian của hoa, của liễu, của chim, của mây… con
người tưởng là đối cảnh sinh tình, mà dường như tất cả đều không, cái tâm
rỗng không trong cảnh mây chiều, con người như thế mới đủ tâm lực nhường ngôi
cho con, nhận tước vị Thái thượng hoàng, bước vào Phật học, chu du khắp đất nước…
Bức
tranh mùa xuân trong Xuân cảnh không chỉ là cảnh xuân mà còn là cảnh
giới Phật. Và rồi bước vào Xuân vãn nhà thơ đã khẳng định được sắc
không trong Thiền định.
4. Xuân
vãn
Niên
thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất
xuân tâm tại bách hoa trung
Như
kim khám phá đông hoàng diện
Thiền
bản bồ đoàn khán trụy hồng
(Dịch
nghĩa: Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ sắc với không/ Mỗi khi
xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa/ Ngày nay đã khám phá được bộ mắt của
chúa xuân/ Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cảnh hoa rụng)
Nếu
nói “dấu hiệu chung của tất cả các dạng tu tập Thiền là sự hướng dẫn con người
đạt một tâm trạng tập trung, lắng đọng, như là một hồ nước mà người ta chỉ có
thể nhìn thấu đến đáy nếu mặt nước không bị xao động”([1]) thì dường như
Trần Nhân Tông đã đạt đến độ là dù mặt nước có bị xao động vẫn nhìn thấu đến
đáy, bởi Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Tuổi
trẻ chưa từng hiểu rõ sắc với không nên dù tỏ ra bất tri khi mùa
xuân về, thì cái tâm của nhà thơ vẫn còn chộn rộn bởi cánh bướm
phần phật bay đến khóm hoa. Rồi tâm Thiền đạt đến độ Cộng ỷ lan can khán
thúy vi thì vẫn lắng nghe Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ dày. Âm thanh
thiên nhiên vẫn vang vọng trong tâm hồn - Nhất xuân tâm tại bách hoa
trung, dù cái tâm đó đang đi về phía rỗng không. Dường như yếu tố Thiền định đã
đưa tâm trạng của tác giả đạt đến độ Bất nhi, “nơi mà những ý nghĩ nhị
nguyên như “ta đây vật đó” được chuyển hóa; hành giả đạt sự thống nhất với “Thượng
đế”, với cái “Tuyệt đối”, những khái niệm về không gian và thời gian đều được
chuyển biến thành cái “hiện tại thường hằng”, hành giả chứng ngộ được sự đồng
nhất của thế giới hiện hữu và bản tính” ([2]). Như kim
kham phá đông hoàng diện/ Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng (Chúa xuân nay
đã thành quen mặt/ Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng).
5. Ngày
xuân, đọc những bài thơ xuân của Trần Nhân Tông giúp cho tâm hồn mình thêm tỉnh
táo, linh động, tập trung, nhìn thế giới rõ ràng như là nó, đó là cảnh giới cần
thiết cho mỗi người. Nhờ Thiền định mà ta biết mình là ai, hướng lòng mình đến
vẻ đẹp nhân văn bất diệt. Đọc thơ xuân Trần Nhân Tông ta càng thấy mối quan hệ
khăng khít giữa thiên nhiên và con người - thiên nhân tương dữ, càng biết
luyện cho lòng mình trong veo như mặt nước hồ thu để mỗi năm đón nhận thêm một
mùa xuân tươi đẹp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét