Trong đời, tôi đã thấy mặt trăng lần nào chưa? Nhìn trăng, tôi
nhìn cả đời. Nhưng thấy trăng, tôi không dám nói chắc. Khi tôi nhìn trăng trước
mắt, tôi nghĩ đến trăng nửa khuya loáng thoáng trên tàu lá chuối sau vườn cũ.
Tôi nghĩ đến đèn trung thu lúc nhỏ. Tôi nghĩ đến cái chõng tre giữa sân trên
đó, ngày xưa, tôi nằm nhìn mây bay. Nhìn trăng, tôi không thấy trăng. Chỉ thấy
lá chuối, chõng tre. Thấy cả tôi với trẻ con hàng xóm nô đùa. Có lần tôi trốn
tìm với chúng nó, bị lộ, tôi nhảy bừa vào bụi tre, bất ngờ có đứa con gái đã ngồi
sẵn trong đó. Tôi sợ hoảng, toan vọt ra thì nó kéo tay tôi lại, ấn vai tôi xuống,
cười đồng lõa. Trong loáng thoáng của cây lá, tôi thấy hai cái răng cửa của nó
sáng ngời ánh trăng. Bây giờ, nhìn trăng non, tôi thấy cái miệng và hai cái
răng. Tựa như hai cái răng của nó phát ánh sáng và in hình miệng nó lên bầu trời.
Trăng là đề tài ruột của các thi sĩ từ khi con người biết làm
thơ. Nhưng các vị có thấy mặt trăng hơn tôi không, hay các vị cũng chỉ phóng
hai cái răng lên mặt trăng? Trong mối quan hệ giữa người ngắm trăng và trăng được
ngắm, có bao giờ mặt trăng hiện hữu như nó đang chiếu hay chỉ là một vật được
người làm thơ mượn tạm để nói lòng dạ của mình? Ðem lòng nhìn cảnh hay mượn cảnh
để nói lòng, mặt trăng chẳng phải đều được thấy qua tưởng tượng cả đấy sao?
Càng tưởng tượng "nên thơ", trăng càng xa với trăng thật. Xa như thế,
nó đâu còn đấy nữa; nó không có. Trăng đã không có, làm sao nói được có người
ngắm trăng? Cả hai đều không có. Trăng không có, vì đó là trăng trong mộng. Người
đang sờ sờ ra đấy mà cứ trố mắt vào mộng, ấy là người ảo. Có lẽ ông Lý Bạch đã
chứng nghiệm được điều đó. Ông say rượu, thấy trăng trong nước đẹp quá, nhảy xuống
ôm chị Hằng. Chị Hằng không có, nên ông chỉ ôm thủy thần. Ông cũng không có nốt
vì ông say, ông đang là Lưu Linh.
Trong sự thưởng ngoạn rất chủ quan của tôi về trăng trong
thơ, tôi tự hỏi: có chăng trong thơ một mặt trăng thật và một người ngắm trăng
thật? Thơ có làm được chuyện phi thường đó không? Ðặt câu hỏi như thế tức là
tôi ám chỉ rằng trăng trong thơ thường là mặt trăng thứ hai, mặt trăng đến sau
mặt trăng nguyên thủy. Tôi thử đọc lại những bài thơ mà tôi đã thích trong thơ
Ðường và Nguyễn Du để xem tôi nghĩ như thế có đúng không.
Dễ minh chứng cho tôi nhất là bài "Tĩnh dạ tứ
" quen thuộc của Lý Bạch:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
"Minh nguyệt" trong câu đầu không phải là
"minh nguyệt" trong câu thứ ba. Trong đêm thanh vắng, bỗng mắt Lý Bạch
chạm phải ánh trăng trên đầu giường. Có thể ông đang ngủ thiếp, chợt thức giấc,
bắt gặp trăng. Trong nhận thức đầu tiên của ông, ông ngỡ ánh trăng là sương phủ
mặt đất. Ông ngẩng đầu nhìn trăng, và ông cúi đầu... Lập tức vầng trăng thứ hai
hiện ra trong nỗi nhớ nhung quê cũ của ông.
Cũng vậy, Triệu Hổ đứng trên lầu bâng khuâng nhìn trăng trên
sóng nước. Trăng sáng như nước, nước sáng như trời. Bất giác, ông nhớ người cũ
cùng ngắm trăng với ông năm trước. Cảnh cũ còn đây, người cũ đâu rồi?
Ðộc thượng giang lâu tứ tiểu nhiên
Nguyệt quang như thủy, thủy như thiên
Ðông lai ngoạn nguyệt nhân hà tại?
Phong cảnh y hi tự khứ niên
"Nguyệt" trong câu thứ hai cũng không phải là
"nguyệt" trong câu thứ ba. Cũng vầng trăng đó, nhưng trăng năm này,
trăng trước mắt, vầng trăng đang làm lung linh trời nước một màu kia, phút chốc
đã bị vầng trăng năm ngoái truất phế. Ðây là mặt trăng - thời gian, trăng
quá khứ. Giống như trăng của Lý Bạch khi ông triết lý: người thời nay không thấy
trăng thời xưa, nhưng trăng thời nay đã từng chiếu người thời xưa:
Kim nhân bất kiến cổ thời nguyệt
Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân
Ông nói như thế để làm gì? Ðể chuốc rượu! Bạn không uống rượu
thì ta xin hỏi: trăng còn mãi đấy, người xưa có còn đấy không?
Quân nhược bất ẩm tửu
Tích nhân an tại tai?
Cũng mặt trăng-thời gian, nhưng bây giờ nó chạy tới phía trước,
bay vèo vào tương lai. Trong "Nguyệt Dạ" của Ðỗ Phủ, một
khuê phụ xa chồng đứng ngắm trăng khuya trước sân. Sương móc thơm của đêm trăng
làm ướt mớ tóc mây. Ánh trăng trong giãi trên đôi tay ngọc giá lạnh:
Hương vụ vân hoàn thấp
Thanh huy ngọc tý hàn
Trăng vừa chiếu trên tay ngà thì chớp mắt đã bay vào tương
lai để chiếu trên má cô gái vừa khô nước mắt biệt ly:
Hà thời y hư hoảng
Song chiếu lệ ngân can?
Khuê phụ ngắm trăng nhớ chồng chinh chiến phương xa là một hứng
lớn trong thơ Ðường. Trăng bây giờ trở thành trăng-không gian, vầng trăng
thứ hai đang soi bóng chồng ở xa. Trích dẫn thì nhiều quá, mà e chưa chắc đã
tài hoa bằng Kiều của ta:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
Ðâu có chinh phụ thì đấy có trăng - không gian. Chinh phụ
ngâm chiếu những vầng trăng nhớ nhung như thế.
Có khi mặt trăng thứ hai vừa sáng trong thời gian vừa sáng
trong không gian. Mắt của Lý Bạch đã nhìn như vậy:
Bất hướng Ðông sơn cửu
Tường vi kỷ độ hoa
Bạch vân hoàn tự tán
Minh nguyệt lạc thùy gia
Tôi chọn bản dịch của Ngô Tất Tố vì dịch rõ nhất ý đó:
Non Ðông xa cách bao xuân
Cây tường vi đã bao lần nở hoa
Mây xưa hẵn vẫn bay xa?
Trăng xưa biết rụng xuống nhà ai nao?
Dù là thời gian hay không gian, mặt trăng thứ hai đó chiếu từ
xa, rất xa. Có những mặt trăng thứ hai chiếu gần, rất gần, gần như một người bạn.
Và bởi vì ngày xưa người bạn nhiều khi gần hơn cả người tình, trăng-bạn hiện
ra rất nhiều trong cổ thi. Trăng đó bồi hồi với Lý Bạch khi ông ca múa với bóng
ông và bóng trăng (ngã ca nguyệt bồi hồi), trăng đó đi theo ông từ
trên núi khi chiều hôm ông bước xuống lưng đèo (mộ tòng bích sơn hà, sơn
nguyệt tùy thân quy), trăng đó không rời ông già Ðỗ Phủ sống cô quạnh trong
xóm nhỏ ven sông: khi ông cuốn rèm trăng vẫn ngó theo ông, khi ông chống gậy
trăng vẫn theo bên mình:
Thu nguyệt nhưng viên dạ
Giang thôn độc lão thân
Quyển liêm hoàn chiếu khách
Ỷ trượng cánh tùy nhân
Tròn vành vạnh trăng thu trên trời là vầng trăng thứ nhất. Nó
xuất hiện trước mắt ông lão. Trăng ngó theo ông, trăng đi theo ông là vầng
trăng thứ hai. Bởi vì nó đã trở thành người bạn. Vầng trăng-bạn đó, cảm động
thay, từ xa vẫn đến thăm Nguyễn Du lúc ông cùng đường, suốt ba mươi năm, dù
chân trời góc biển:
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến
Hải giác thiên nhai tam thập niên
Nguyễn Du ôm bệnh, ôm tấc lòng riêng, thường thao thức suốt
đêm, canh một nghe tiếng trống, tiếng ốc, canh năm nghe tiếng gà, suốt đêm nghĩ
quẫn nghĩ quanh, thế mà lạ quá, nhìn ra ngoài, trăng vẫn sáng với ông: lạ quá,
làm sao trăng sáng đầy trời thế mãi trong khi gió tây thổi lạnh ngăn ngắt vào
mình?
Sơn canh cổ giác ngũ canh kê
Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê
Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố
Tây phong xuy ngã chính thê thê
Nguyễn Du ngã bệnh liên miên trong thơ. Buổi sáng lạnh, ông
soi gương thấy mình gầy và già. Ðêm thanh vắng, cửa tre đóng kín, ông nằm rên.
Bệnh cũ mười năm không ai hỏi han, tìm đâu ra thuốc tiên luyện chín lần để uống?
Trong tình cảnh như vậy, ông nhìn trăng thế nào đây? Ông muốn trăng trên trời
xuất hiện ngay trườc cửa để ánh sáng dọi xuống xua tan mọi bóng tối:
An đắc huyền quang minh nguyệt hiện
Dương quang hạ chiếu phá quần âm
Trăng-bạn thường soi chiếu như thế ở câu cuối của Nguyễn Du
sau những than thở, sụt sùi, lạnh lùng, cô đơn, yếu đuối, tơ vò trăm mối, lữ thứ
cùng chân:
Không ốc lậu tà nguyệt
Chiếu ngã đan thường y.
Nhà trống, ánh trăng xế lọt vào, chiếu xuống tấm áo đơn của
ta. Câu cuối của Ðỗ Phủ cũng vậy, sau khi ôm gối không ngủ được, nằm nghe vượn
hú, kèn ngân. Không bi thương như Nguyễn Du, Ðỗ Phủ chợt bắt gặp ánh trăng
xuyên qua những dây leo giãi trên mặt đá, chiếu sáng đám hoa lau trước bãi
sông:
Thỉnh khan thạch thượng đằng ba nguyệt
Dĩ ánh châu tiền lô địch hoa
Những ánh trăng xuất thần như vậy có khi hiện ra giữa bài
thơ, nhưng đây không phải là những bài thơ mang chủ đề về trăng. Quái lạ, khi
trăng đột xuất ở giữa bài thơ, trong một câu thôi, nó thường rất thật, rất gần
với mặt trăng thứ nhất mà tôi sẽ nói ở phần sau. Ðây là trăng của Ðỗ Phủ soi
vào lông chim khiến con chim đang ngủ cứ xoay mình luôn (minh phiên túc điểu
tần). Ðây là trăng Hoành Sơn của Nguyễn Du lóng lánh trên vó ngựa vỗ đường
vào Huế bệ kiến (cố quốc thiềm tùy mã hậu minh). Trăng hiện ra đột ngột rồi biến
ngay mất, chưa kịp tạo cơ hội cho tưởng tượng vẽ vời của vầng trăng
thứ hai.
Ấy là trăng trong thơ cổ. Bây giờ tôi sẽ xem mặt trăng thứ
hai hiện ra như thế nào trong một bài thơ mới. Tôi chọn bài thơ của Hàn Mặc Tử
mà học trò chúng tôi ngày trước thuộc làu làu vì mê quá. Bài thơ làm giữa lúc
thơ mới vừa đại thắng thơ cũ, lời thật mới nhưng ý vẫn còn thấp thoáng bóng
dáng những khuê phụ trong thơ Ðường và cô gái xuân của Lý Bạch e thẹn, rạo rực,
hỏi nhỏ gió xuân: cớ sao gió chẳng biết gì lòng dạ của nhau mà thổi vào tận
trong màn thiếp như thế này? Hà sự nhập la vi?
Tôi sẽ đọc từng đoạn:
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Ðợi gió đông về để lả lơi
Nằm sóng soải… Các quyển từ điển cắt nghĩa: sóng soải là nằm
thẳng dài người ra. "Sóng soải" gợi hình ảnh một thân thể nằm thuỗn
ra, duỗi tay duỗi chân. Ta nói: nằm sóng soải trên giường, trên phản, trên bãi
cát… Ai nhìn một người nằm sóng soải sẽ thấy đập vào mắt một cái lưng dài, tay
dài, chân dài. Sóng soải gợi chiều dài. Mà mặt trăng thì không dài! Nó tròn!
Làm sao nó nằm sóng soải được! Mặt trăng nằm tròn như bào thai nằm trong bụng.
Không ai nói bào thai nằm sóng soải trong dạ con! Huống hồ, để có thể sóng soải,
cái lưng, hai tay và đôi chân cần phải có một mặt bằng thênh thang để duỗi ra
thoải mái, vươn ngón chân, móng tay đến vô tận vô biên. Thế mà mặt trăng ở đây
nằm sóng soải trên cái gì? Trên một nhánh liễu! Trên một sợi lông mày! Một hình
tròn nằm sóng soải trên một đường tơ! Lấy luận lý bình thường mà nói, đáng lẽ
nhà thơ phải viết: cành liễu nằm sóng soải trên mặt trăng mênh mông!
Có lẽ cũng phải dẹp luận lý bình thường qua một bên để đọc
câu thơ tiếp theo: Ðợi gió đông về…Ai đợi gió đông về? Cứ theo cách đọc
bình thường thì đó là trăng. Nhưng ai cấm tôi đọc một mạch từ câu thứ nhất qua
câu thứ hai không ngắt quãng: cành liễu đợi gió đông về…Tôi có nhiều lý lẽ để
biện minh cho cách đọc không bình thường của tôi. Giữa mặt trăng và cành liễu,
ai có tương quan nhiều với gió hơn ai? Chắc chắn phải là cành liễu. Gió chỉ có
tương quan với mây, gió thổi mây bay và do đó dường như trăng trôi. Nếu có ai
nói: gió thổi trăng trôi, thì tương quan giữa gió với trăng cũng chỉ là tương
quan gián tiếp. Còn cành liễu với gió thì tình nhân với nhau từ thuở trái đất mới
sinh. Bởi vậy cành liễu mới đợi gió đông. Gió làm lay động cành liễu, chúng nó
đùa bỡn với nhau, lắm khi cợt nhã. Vậy thì ai "lả lơi"? Ai đợi
gió đông về để lả lơi nếu không phải đích danh thủ phạm là cành liễu?
Ấy thế mà ai đọc câu thơ cũng nghĩ rằng trăng đợi gió và cái
thói lẳng lơ hoa nguyệt là cái nết đánh chết không chừa của trăng. Vì lẳng lơ
như vậy cho nên trăng mới có một thân hình, có tay, có chân, có lưng để nằm và naèm sóng
soải.
Nhìn trăng và thấy trăng nằm trong cái thế chờ đợi rất khêu gợi
đó, vạn vật trong hai câu thơ tiếp theo nín thở như chính mình rợn người trong
hoan lạc của phút giây chờ đợi:
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi!
Nói là vạn vật vì có hoa lá, kỳ thực đây là chuyện trò tâm sự
của một cô gái không thể nói với ai khác những rung động bí ẩn của mình ngoài
trăng sáng một cách vô tư trên trời. Trăng thì vẫn tròn thế thôi, nhưng những
rung động thầm kín của cô gái khiến cô thấy trăng nằm gợi tình như chính cô ước
muốn được nằm như thế. Và hơn thế nữa, hơn thế nữa, cô thấy trăng đang cởi xiêm
y và vạn vật nín lặng nhìn trăng nhúng thân thể nõn nà trong nước:
Trong khóm vi lau rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói sao im đi?
Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe
Nếu lại đem luận lý thường tình để đọc bài thơ thì quả thật
nhà thơ trước sau không như một. Ông vừa mới nói hoa lá đều ngây tình cả không
muốn động ở câu trên thì ở câu dưới ông nghe khóm vi lau kia cứ rào rạt
mãi như ai nói chuyện. Rào rạt mãi, tức là gió cứ thổi hoài. Sao câu trên
lại nói hoa lá không muốn động, và câu trên nữa lại nói trăng đợi gió
đông? Có gió hay không có gió? Không có gió thì không thể có rào rạt.
Có gió thì sao rào rạt lại im đi? Tôi giận lắm nếu có ai bắt bẻ hành tỏi
bài thơ như vậy. Bắt bẻ như vậy là chẳng thưởng thức gì hai chữ ô kìa thần
tình. Có thể lúc đó gió đã thổi rồi. Nhưng gió đang thổi cũng im để trố mắt
nhìn trăng như cô gái đang trố mắt nhìn ai như chính mình đang trần truồng
trong bóng nguyệt.
Thi hứng của Hàn Mặc Tử đẩy ông vào chốn buồng the của thơ Ðường.
Ðúng là gió đã thổi, và gió đông mà trăng chờ đợi bây giờ lân la trên má cô gái
như thử chính cô đợi gió đông về:
Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em
Tiết trinh thì thơ cổ nói nhiều rồi. Cái tiết trinh thì
chỉ Hàn Mặc Tử dám nói. Chữ cái biến trừu tượng thành cụ thể. Nó cụ
thể hóa nỗi bẽn lẽn của cô gái. Nó đưa nỗi bẽn lẽn đó vào hoang tưởng của một vết
thương êm ái nằm sâu trong tiềm thức của cô thiếu nữ. Chính nó đã lột trần truồng
mặt trăng. Mặt trăng là hóa thân của cái đó.
Vậy thì thế nào là mặt trăng thứ nhất? Tôi thử tìm trong thơ
Nguyễn Du vì Tố Như là người tình của trăng. Tôi dừng lại rất lâu với bài "Ðạo
Ý" và tôi ngỡ tôi thấy trăng của tôi trong đó, nhưng vẫn chưa phải.
Tôi đọc bài thơ:
Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh,
Tỉnh thuỷ vô ba đào.
Bất bị nhân khiên xả,
Thử tâm trung bất dao.
Túng bị nhân khiên xả,
Nhất dao hoàn phục chỉ.
Trạm trạm nhất phiến tâm,
Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.
Quách Tấn dịch như sau:
Trăng trong lòng giếng cổ,
Nước giếng không ba đào.
Chẳng bị người khuấy động,
Lòng nầy không chút xao.
Dù bị người khuấy động,
Xao rồi trở yên lặng.
Vằng vặc một mảnh lòng,
Giếng trong trăng giọi bóng.
Bài thơ tuyệt diệu. Nhưng đây là ý về lòng, ý về trăng, mượn
trăng để diễn ý, không phải mặt trăng đang chiếu trên trời. Tôi ngắm rất lâu
trăng tròn trong lòng giếng và tôi ngần ngại: hay đây cũng là trăng thật, thật
đâu kém trăng trên trời? Thế nhưng, lòng này không chút xao làm hiện
người giữa lòng giếng, không phải trăng. Người là thật, lòng là thật, tâm là thật;
trăng là hình, là ảnh, là bóng, là ẩn dụ. Trong mối quan hệ giữa người và cảnh,
cảnh bay trọn vào lòng người, vào nội tâm.
Làm thế nào để người đừng nuốt cảnh, cảnh đừng nuốt người, cảnh
với người đều hiện hữu, nhưng không phải tách biệt ra làm hai? Tôi muốn tìm thấy
trong thơ cảm giác kinh ngạc của tôi khi trực diện với mặt trăng trong những
lúc bất ngờ nhất: thức giấc giữa khuya nhìn qua cửa sổ, bước ra vườn đêm nhìn
lên mái nhà, quanh co đường đèo nhìn lên đỉnh núi… Trăng bất thần hiện ra, rạng
rỡ, sáng quắc. Mắt của nó và mắt của tôi như chạm nhau, sững sờ, không nói được.
Thơ có nói được thay tôi không?
Trong thơ Ðường, có lẽ Vương Duy là người gần tôi nhất trong
cảm nhận đó. Mỗi lần thấy trăng ló ra là tôi nghĩ đến bài "Tiếng chim
trong khe núi". Tôi nói: tôi thấy trăng ló ra. Tôi không
nói: tôi nhìn trăng ló ra. Ta nhìn, ta ngắm trăng trên trời, nhưng ta
không ngắm trăng khi nó ló ra. Khi đó, ta chỉ thấy. Cái thấy đến bất chợt. Sau
đó, mặt trăng từ từ lên và ta ngắm, ta nhìn. Có lẽ Vương Duy muốn diễn tả cái
thấy nguyên thủy đó của ông chăng?
Nhân nhàn, quế hoa lạc
Dạ tĩnh, xuân sơn không
Nguyệt xuất, kinh sơn điểu
Thời minh xuân giản trung
(Người nhàn hoa quế rụng
Ðêm tĩnh núi xuân không
Trăng hiện chim kinh hãi
Rộn kêu giữa khe xuân)
Ðêm thật yên trước khi trăng lên. Người yên, cảnh vật yên.
Yên lặng tuyệt đối của vũ trụ trước một mầu nhiệm sắp ra đời. Yên lặng tuyệt đối?. Tại sao hoa quế rụng?. Trong mấy chục năm trời tôi ăn ngủ không tròn với mấy
cánh hoa quế này. Nó rụng như thế là nó yên hay không yên? Câu thứ hai của bài
thơ, dạ tĩnh, là đêm tĩnh hay không tĩnh? Bỗng tôi hiểu được yên lặng tuyệt
đối của Vương Duy khi đọc một câu thơ thiền:
Gió thoảng qua rồi, hoa rụng cánh
Vương Duy nhuần nhuyễn đạo Phật, chắc không xa ý đó chăng? Ai
nghe một tiếng vạc kêu trong đêm khuya mới thấy đêm sâu như thế nào. Buổi trưa
thiếu tiếng gà làm sao nghe được im lắng mênh mang của nắng hạ? Làm sao ai biết
một chút gió nhẹ đã thoảng qua và đã xa mất nếu hoa không rơi một cánh? Không
có gió đó nữa lấy gì ý thức về gió nếu không làm động cánh hoa? Không có động
làm sao có tĩnh? Vậy thì, trong câu thơ, cả gió nhẹ cũng đã thoảng qua rồi, vũ
trụ yên lặng tuyệt đối chờ đợi mầu nhiệm.
Nguyệt xuất! Khe núi! Trăng! Chim! Giật mình! Kinh sợ! Kêu!
Giữa im lặng của hoa rụng và kinh sợ của chim núi, giữa khe núi và trăng chiếu,
tuyệt nhiên không có trung gian - không thời gian, không không gian, không ý niệm,
không tình cảm, không ẩn dụ, không có lòng, không có ý, không có tâm, không có
gì cả. Không có gì cả cho nên mặt trăng nguyên thủy hiện nguyên hình. Ai muốn
hiểu cái chốn rỗng không của thiền có lẽ sẽ hé thấy ở đây chăng?
Trong bài thơ, tất cả đều là cảnh; người chỉ có mặt ở hai chữ nhân
nhàn. Nghiệm cho cùng, ngay hai chữ đó cũng có thể bỏ, bời vì Vương Duy ở đây rỗng
không. Nếu ông không vứt bỏ đi được tất cả bận rộn, khuấy động trong lòng ông,
chắc chắn ông không nắm bắt được cái rỗng không vô thời gian, vô không gian của
cảnh. Ở đây, không có trung gian giữa cảnh với người bởi vì không có trung gian
giữa Vương Duy với chính ông. Tâm ông rỗng không. Vì tâm ông rỗng không cho nên
trong đó mới chiếu được vầng trăng nguyên thủy.
Tôi yêu nước giếng thanh tịnh của Nguyễn Du bao nhiêu thì tôi
yêu mặt trăng hiển lộ của Vương Duy bấy nhiêu. Một bên chuộng tĩnh. Một bên gợi
động. Nhưng động với tĩnh có bao giờ là hai với nhau đâu, chúng nó ở trong
nhau. Giếng nước của Nguyễn Du có khuấy cho nên mới có lắng. Con chim của Vương
Duy có ngủ cho nên mới giật mình. Nếu chỉ có thanh tịnh mà thôi thì đó là cõi
chết. Thiền chỉ có mặt ở đâu có ba đào. Cho nên trong nhiều bài thơ thiền về
trăng, động và tĩnh thong dong qua lại với nhau. Tôi đọc một bài:
Bóng tre lướt trên hè
Không phủi một hạt bụi
Trăng dọi sâu đáy khe
Không làm nhăn mặt nước
Nước cũng không làm trăng ướt! Thong dong qua lại giữa động
và tĩnh là trăng của thiền. Mà trăng đó cũng là trăng thật. Ai nhìn trăng trên
trời mà không thấy trăng thong dong. Thong dong, nó chiếu ánh sáng đến vô tận.
Nó chiếu ánh sáng thế kia, ai dám nói nó tĩnh? Nó thong dong thế kia, ai dám
nói nó động?
Trăng thu chiếu sáng mênh mông
Càng đi xa
Trăng càng đi xa nữa
Xa mãi trên bầu trời xa
Chiếu sáng khắp vũ trụ, trăng cũng thong dong chiếu sáng
trong một giọt sương. Nơi một giọt sương, có vô tận ánh trăng trong vũ trụ. Vô
tận ánh trăng trong vũ trụ long lanh trong một giọt sương. Giữa một và vô tận,
giữa vô tận và một không có trung gian, không có chướng ngại. Ai dám bảo đó
không phải là trăng thật? Không phải là vầng trăng thứ nhất?
Cuộc đời
Ví thế nào?
Một giọt nước
Rơi
Từ miệng con chim đêm
Phản chiếu ánh trăng
Rất tĩnh. Nhưng hãy nhìn giọt nước đang rơi. Vô tận ánh trăng
trong vũ trụ đang rơi. Trăng trong thơ thiền là trăng của cái phút chốc trước mắt
và chỉ có trăng trong cái chớp mắt chưa bị ô nhiễm vì ý niệm mới là trăng
nguyên thủy mà thôi.
Tôi không thể nói gì thêm nữa và đáng lẽ phải chấm dứt ở đây.
Nhưng tôi yêu Nguyễn Du quá, nên tôi muốn yêu thêm nữa một bài thơ của ông
trong đó có chữ một. Ở trên, tôi vừa nói một và vô tận thong
dong qua lại trong trăng của thiền. Tương quan đó được diễn tả nhiều lắm trong
thơ thiền mà đây chỉ là một ví dụ:
Khuất sau núi lam
Vượn bồng con về ngủ
Trên mõm đá xanh biếc
Con chim dừng cánh
Miệng ngậm một nhánh hoa
Tất cả vũ trụ thu vào trong một, một cánh hoa, trở thành
trọng tâm của bài thơ, thổi tất cả sức sống vào bài thơ. Ðêm trước sân cười
một nhánh mai của Mãn Giác nằm trong tứ thơ đó. Nguyễn Du cũng thổi chữ một như
thế vào bài "Dạ Hành":
Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân
Phù âu tĩnh túc noãn sa tân
Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý
Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân
(Vị sư già ngủ ngon trong mây núi Hồng
Chim âu cũng nằm yên trên bãi cát ấm
Bóng trăng tàn dập dờn trên biển nam xa nghìn dặm
Trên lối cũ gió lạnh dồn cả vào một người)
Nguyễn Du sử dụng tài tình tĩnh và động, bao la và đơn chiếc.
Vị sư già ngủ, mà ngủ trong mây. Sóng vờn trăng ở biển xa, xa thẳm. Tất cả đều
ngủ yên, kể cả trăng cũng sắp đi ngủ vì trăng tàn. Trong cảnh mênh mang, tịch lặng
đó, bỗng một chấm người di động trong cơn gió, gió ở đâu như ở khắp trần gian dồn
thốc tất cả khí lạnh vào mặt. Cái chấm nhỏ đó là cái thần của bức tranh. Nó nhỏ
xíu, nhưng nó vác trên vai tất cả bi ai của kiếp người.
Ở xa quê, có lần nào đi một mình giữa phố khuya mà câu thơ của
Tố Như không chiếm trọn lòng tôi! Nhưng may quá, tôi học được rồi: ở đâu có ba
đào thì ở đó mới có thiền, ở đâu có bi ai thì ở đó mới có an vui, ở đâu có tàn
trăng thì ở đó mới thấy "trăng tàn mà lại bằng mười rằm xưa". Cùng
bắt đầu bài thơ với tĩnh lặng như Nguyễn Du, hãy xem câu cuối của thiền tổ Ðạo
Nguyên khác biệt như thế nào:
Bãi sông sóng lặng
Trong cây gió yên
Thuyền ai ngủ bến
Trăng tròn nửa đêm
Trăng sáng vằng vặc
Bao nhiêu động! Bao nhiêu sáng! Mà tự nhiên, bình thường,
không vướng mây cũng không làm vướng bầu trời.Trăng thong dong trong bầu trời rỗng
không, người thong dong trong tấm lòng rỗng không, giữa hai rỗng không như vậy
khi gặp nhau, cảnh nào hiện ra, dù bên ngoài hay trong lòng, mà chẳng phải là mặt
trăng thứ nhất?.
Cao Huy Thuần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét