Nhan đề tác phẩm văn chương
Nhan đề tác phẩm là cửa sổ nhìn thế giới do nghệ sĩ
mở ra, là “chìa khóa nghệ thuật” giúp người đọc mở ra cánh cửa chìm của tác phẩm.
Nhan đề, dự đồ nghệ thuật, và cái biểu nghĩa của văn bản
Nhiều nhà văn sau khi hoàn thiện khâu cuối cùng của sự sáng tạo
nghệ thuật mới đặt tên cho tác phẩm của mình; tên gọi này, chính là sự tổng kết
lại dự đồ sáng tác của họ. Ernest Miller Hemingway chia sẻ về kinh nghiệm đặt
nhan đề như sau: “Sau khi viết xong một truyện… tôi kể ra cả một lô tên có thể
mang đặt cho truyện đó. Đôi khi chúng có hàng trăm cái tên. Rồi tôi bắt đầu gạch
bỏ, có khi, tất cả những tên nghĩ ra đều bị gạch hết”. Lại có trường hợp đặt
nhan đề cho tác phẩm do một sự tình cờ nào đó, có lúc tên truyện được lấy ra từ
trong thân truyện. Nhan đề, một yếu tố cận văn bản (cùng với tiêu đề
các chương, các lời tựa, bạt, lời đề từ, các lời bình luận in trên bìa sách,
các ghi chú của người viết...) do tác giả đặt (hoặc bạn hữu/biên tập viên sành
sỏi nào đó gợi ý), nhìn chung đều có dụng ý tư tưởng, thậm chí nó còn có chức
năng định hướng cách đọc, sự tiếp nhận của độc giả đối với phần chính văn. Nhan
đề như một một mã của thông điệp thẩm mỹ, một mô hình nghệ thuật, nó là cái biểu
nghĩa của văn bản văn học, cho độc giả biết trước: văn bản này viết về cái gì,
có thể đọc nó hoặc nên đọc văn bản như thế nào.
Người xưa khẳng định: “Chỉ ra cái cốt tuỷ của toàn bài, hoặc ở
đầu bài, hoặc ở giữa bài, hoặc ở cuối bài”. Không ít tác giả nhận thấy: “đầu
đề phải nổi lên trên bề mặt văn bản, không có nó… không thể xây dựng được mô
hình văn bản”. Quan điểm này, đúng với một số trường hợp. Nhà văn Đỗ Chu kể: “Bắt
tay vào viết truyện ngắn, có truyện ban đầu đến với tôi bằng một cái tên. Hương
cỏ mật, Mùa cá bột, tôi nghĩ ra những cái tên ấy trước, thấy hay hay, rồi liên
tưởng ra nhân vật và cốt truyện”. Như vậy, nhan đề tương ứng với ý tưởng và dự
đồ sáng tác, nó loé sáng bất chợt và trở thành cái tứ của truyện, thúc đẩy nhà
văn kiếm tìm, suy ngẫm liên tưởng, chi phối mạnh mẽ đến việc tổ chức thế giới
nghệ thuật. Nhan đề là cái ý tưởng, ý tứ ban đầu thôi thúc nhà văn cầm bút. Lưu
Hi Tải tổng kết: Nếu hình thành ý tứ trước khi viết, tác giả sẽ viết nhàn nhã.
Nếu cầm bút viết, rồi ý mới nảy sinh, thì chân tay lúng túng” (Nghệ khái
văn khái).
Không ít tác phẩm thay đổi tên gọi nhiều lần, do tác giả
chưa ưng ý. Cái tác giả cảm thấy chưa thích hợp, theo tôi chính là vì nhan đề
chưa trở thành một tín hiệu nghệ thuật nào đó. Chẳng hạn, trong cuộc
sống lắm khi vì khó khăn, bị dồn đuổi đến bước đường cùng muốn bám lấy sự sống,
nên không tránh khỏi xảy ra chuyện tham lam ăn cắp. oái oăm hơn có kẻ vừa ăn cướp
vừa la làng, làm lẫn lộn hư thực. Nghĩ về thực tế trên, nhà văn Bùi Hiển tâm sự
về một trường hợp viết truyện ngắn của mình: “Tên truyện cũ Thằng ăn trộm in
ở tuần báo Văn nghệ (do Đời nay ấn hành) tháng 10-1940
không nói được điều đó. Tôi thấy tiếc cho chủ đề và đổi thành Kẻ hô hoán”.
Phạm Tiến Duật đánh giá cao lao động sáng tạo của nhà văn
ngay từ nhan đề. Theo ông, người nghệ sĩ có ba cách đặt đầu đề cho
tác phẩm của mình: Cách thứ nhất là không đặt gì cả, tức là tác giả
khước từ hoàn toàn việc giới thiệu với người đọc tác phẩm của mình: ở loại này
tác giả thường viết lên đầu đề hai chữ vô đề. Cách thứ hai: đặt đầu đề
mà như không đặt. Cách thứ ba: đặt đầu đề gợi ý, gợi tình, gợi cảm, gợi cảnh.
Như thế, phương pháp đặt nhan đề gần giống với cách cấu tứ: phú, tỉ, hứng. Một
“bài thơ hay”, “bài thơ lớn” ngoài nội dung cụ thể của nó đem lại, thì nhan đề
cũng góp phần không nhỏ trong việc tạo ra tầm vóc tư tưởng của bài thơ. “Dù đặt
thế nào thì đặt đầu đề của tác phẩm văn học phải thống nhất biện chứng với nội
dung tác phẩm”,“thống nhất trong âm dương, trong phức điệu”. Nhà thơ Phạm Tiến
Duật tỏ ra không ưa kiểu “treo đầu dê bán thịt chó”, càng không bằng lòng với
kiểu tạo ra một cái nhan đề quá nghèo nàn về tư tưởng. Nhan đề sẽ “vô duyên” nếu
như “nó không bổ sung cho tác phẩm được gì”. Cần phải có “nghệ thuật” đặt nhan
đề: “Nếu dưới bài là chật thì đầu đề phải rộng; dưới bài quá lạnh thì đầu
đề phải nóng. Cái tứ của bài là giả thì tác phẩm chỉ có thể cứu lại bằng cái
tình thật chứa trên đầu bài” (Phạm Tiến Duật, Vừa làm vừa nghĩ, Nxb.
Văn học, 2003).
Mỗi tác giả có cách đặt nhan đề khác nhau, theo hứng thú thẩm
mỹ riêng: Người thích dài, người thích cộc, kẻ gây thích gây ấn tượng, người
thích giấu ý đồ... Phạm Tiến Duật định ra cái tiêu đề cũng có vẻ thừa: “Bài
thơ về tiểu đội xe không kính”. Theo tôi, dấu hiệu của sự sáng tạo, mỹ cảm độc
đáo của thi nhân có quan hệ chặt chẽ với cái yếu tố thừa đó. Nguyễn
Công Hoan thường đặt nhan đề có ý nghĩa mỉa mai, đánh dấu, hoặc ngầm thông báo
một tình huống nhân sinh (thường là phi lí, nghịch lí) ở đời, cho thấy lập
trường đạo đức của nhà văn. Ví dụ: Báo hiếu: Trả nghĩa cha; Báo hiếu:
trả nghĩa mẹ, Thầy cáu; Tôi chủ báo, anh chủ báo, nó chủ báo; Ngựa người và người
ngựa, Mất cái ví; Cụ chánh bá mất giày; Đồ mắt mù cả lũ… Với Nguyễn Công
Hoan, nhan đề thường cô đúc toàn bộ tinh thần của truyện, ám chỉ xa xôi một hiện
tượng có thật nào đó trong đời sống. Truyện Nguyễn Công Hoan thuộc kiểu “ngụ
ngôn”. Hầu hết nhan đề truyện ngắn của ông đều là sản phẩm của một
sự phân tích logíc nghệ thuật thấu đáo, kĩ lưỡng. Đọc truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan ta thấy nhan đề phản ánh một nếp nghĩ, một vốn sống và kĩ thuật viết truyện
riêng biệt. Khi viết truyện, Nguyễn Công Hoan thường tập trung vào một ý, xoáy
sâu vào một vấn đề, ít khi lan man tản mạn. Về điểm này, chính nhà văn cũng thừa
nhận: “Mỗi truyện ngắn của tôi có thể tóm tắt bằng một câu nêu lên một ý”.
Ở Nguyễn Ngọc Tư, nhan đề truyện ngắn thường là một trạng thái tình cảm nào đó
hoặc là một nhận xét về con người, cuộc đời: Thương quá rau răm, Một trái
tim khô, Cánh đồng bất tận, Biển người mênh mông, Nhớ sông, Nhà cổ… Kiểu nhan đề
như vậy, phản ánh một đặc điểm nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư: Giàu
chất trữ tình, giàu cảm xúc.
Nhan đề, hành trình cầm bút và ý thức sáng tạo/sở hữu (của cá
nhân, tập thể)
Văn học luôn gắn bó với đời sống, nhà văn thâm nhập và biểu
hiện cuộc sống theo những con đường khác nhau. Nhan đề tác phẩm, nhìn từ
phương diện này, giữ vai trò như một cột mốc đánh dấu từng chặng đường thâm nhập
cuộc sống của tác giả. Nếu Nguyễn Tuân không đi thực tế Tây Bắc, với khát khao
khám phá chất vàng mười của thiên nhiên và con người nơi đây, chắc chắn không
thể có những trang viết tài hoa độc đáo như trong tùy bút “Sông Đà”. Một nhà
văn trẻ hỏi Nguyễn Tuân: “Thưa bác, bác đã viết Sông Đà như thế nào ạ”.
Nguyễn Tuân cười hóm hỉnh, rồi trả lời rất ngắn: “Tôi đi, tôi viết”. Tên gọi
“Sông Đà” đã trở thành biểu tượng cho một chuyến đi, nó nói lên bài học về
kinh nghiệm sống, vốn sống đối với người sáng tác. Nguyễn Huy Tưởng đi chiến dịch
biên giới 1950, viết “Kí sự Cao Lạng”. Tô Hoài đi cùng bộ đội tham gia chiến dịch
giải phóng Tây Bắc năm 1952, ông có điều kiện thấu hiểu cuộc sống tủi nhục của
đồng bào các dân tộc miền núi dưới ách phong kiến thực dân, nên viết thành
công“ Truyện Tây Bắc”. Khi Tố Hữu giác ngộ lý tưởng cộng sản, ông có
tập thơ “Từ ấy”.Những tên gọi như “Xiềng xích”, “Ra trận”,“Giải phóng”, “Lên Tây
Bắc”... đều phản ánh được từng chặng đường hoạt động cách mạng của nhà thơ Tố Hữu.
Nếu như, đối với các nhà văn - chiến sĩ, nhan đề thường in đậm cảm quan chính
trị và nhiệt hứng yêu nước cao đẹp; thì ngược lại, đối với sáng tác của nhà
văn lãng mạn, ngay từ nhan đề, người đọc có thể nhận thấy rõ một vài gợi ý về
cái “tháp ngà nghệ thuật” do anh ta dựng nên. Cách đặt nhan đề vừa cho thấy sự
tìm tòi đa dạng của nghệ sĩ.
Tác phẩm văn học dân gian thường không có nhan đề,
đó là tài sản chung của cộng đồng, phản ánh kiểu tư duy tập thể. Nhan đề,
với tư cách yếu tố cận văn bản, xuất hiện hầu hết ở các tác phẩm văn
học viết. Việc đặt nhan đề hay không đặt nhan đề liên hệ mật thiết với ý
thức sáng tạo cá nhân, với ý thức sở hữu văn bản.
Nhan đề, thể loại, văn phong, thời đại và kiểu tác giả….
Cách đặt nhan đề trong tác phẩm tự sự và thơ trữ tình rất đa
dạng.
Nhan đề truyện ngắn có thể trở thành một điểm
nhấn về một hiện tượng, một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh, hay mảnh
nhỏ nào đó của thế giới. Đối với tự truyện, nhan đề bộc lộ rõ cái
nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư hoặc nhấn mạnh tiểu sử, sự trải nghiệm (Thời
thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi - Gorki...). Nhan
đề tiểu thuyết có xu hướng khái quát (Chiến tranh và hoà bình, Sông Đông êm đềm...). Ở thời
trung đại, nhiều nhan đề tiểu thuyết thông báo trước cho người đọc tính chất
ghi chép của tác phẩm, chú ý đến các biến cố, sự kiện trong không gian thực (Hoàng
Lê nhất thống chí; Tây Dương Gia Tô bí lục...). Về sau,nhan đề phản ánh sự quan
tâm của nhà văn tới phương diện dòng ý thức, tức là chú ý nhiều hơn đến bề sâu
nội tâm (Sống mòn, Đi tìm thời gian đã mất...).
Chúng ta thường gặp những nhan đề thông
báo nhân vật trung tâm của tác phẩm (Chí Phèo, Lão Hạc…), có khi
cho biết trước hai, ba nhân vật chính của truyện (ví dụ: Ngọc Kiều Lê
tân truyện, Kim Vân Kiều truyện, Tống Trân - Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc
Hoa…). Nhan đề cũng có thể nêu bật một nhận xét, quan điểm nào
đó của tác giả hay của nhân vật chính trong truyện: Trẻ con không được
ăn thịt chó, Cái mặt không chơi được (Nam Cao); Đời là một cuộc chiến
đấu (Vũ Trọng Phụng), Rồi cũng tới nơi thôi, Mùa đông ấm áp, Với tay là đến (Nguyễn
Thị Thu Huệ); Đời thế mà vui, Sống dễ lắm (Nguyễn Huy Thiệp); Lít,
người gác chắn can đảm (Ma Văn Kháng)... Nhan đề hé mở một phần nội dung
câu chuyện: Ông tiên ăn mày (Vũ Trinh), Con chó nhà nghèo có
nghĩa (Phạm Quí Thích), Nghiệp oan của Đào thị, Từ Thức lấy vợ
tiên (Nguyễn Dữ), Giấc mơ của bà nội (Ma Văn Kháng), Đứa
con trở về, Tìm chồng cho má (Lê Văn Thảo)...Nhan đề nêu phẩm chất, tính
cách nhân vật: Con người điêu trá (Vũ Trọng Phụng).
Ngoài ra còn có các kiểu đặt nhan đề sau: Nhan đề nêu thời
gian không gian địa danh cụ thể, “chỉ ra sự hình thành của cá nhân, hành trình
và cả những khủng hoảng lớn của nó” (Tadié). Nhan đề nêu tình huống và sắc
điệu thẩm mỹ, ví dụ “Vợ nhặt” (Kim Lân) - một bên biểu tượng cho khao
khát hạnh phúc, thông báo chuyện hệ trọng lớn lao, thiêng liêng của đời người
(vợ), một bên biểu tượng cho sự tầm thường, giản đơn như một chuyện đùa (nhặt).
Nhan đề tác phẩm có thể nêu sự kiện gặp gỡ, có ý nghĩa tổng kết một
vài hành động cách ứng xử. Nhan đề nêu ngoại hình nhân vật, nguồn gốc sự việc,
con vật, mối quan hệ của nhân vật này với nhân vật kia; gợi một sự tích nào đó.
Nhan đề giới thiệu vị trí, vai trò, quyền tước, xuất xứ của nhân vật; cũng có
thể là câu tục ngữ, thành ngữ, ca dao hay luận đề nào đó (Sống chết mặc bay
- Phạm Duy Tốn, Đôi mắt - Nam Cao…). Nhan đề là câu hỏi (Làm
gì?). Nhan đề nêu một giả định, một sự phi lí, bất thường, nêu một sự hi hữu
lạ lẫm hoặc một lời khuyên... Thôi thì muôn hình vạn trạng!
Thơ trữ tình có kiểu đặt nhan đề khác với loại hình tự sự.
Nhan đề của kiểu tác giả ngôn chí trong văn học trung đại thường nêu lý tưởng,
chí hướng của loại người nào đó hay của chính tác giả. Cũng có khi nhan đề nêu
hoàn cảnh cảm hứng, cách thức thể hiện tình cảm, tâm trạng, cho biết tâm thế trữ
tình của người phát ngôn: Thuật hoài, ngôn hoài, cảm hoài, cảm tác, tự
tình,tự thuật, tự trào, ngẫu tác, ngẫu thành, cảm thành, hữu cảm, tức sự, mạn hứng,
hứng, ngâm, vịnh, than, thán, mộng... Nhan đề gợi trạng huống nhân tình,
thế thái (Thầy đồ ve gái goá, Anh giả điếc - Nguyễn Khuyến…) nêu cảnh tượng,
cảnh tình nào đó (Học trò ngủ gật, Tiếng đập vải đêm thu, Không chồng mà
chửa, Thiếu nữ ngủ ngày, Lũ ngẩn ngơ...), đôi lúc thể hiện quan niệm, thái độ,
nhận xét của nhà thơ.
Ở thơ, kiểu nhan đề thể hiện tâm trạng chiếm số lượng lớn
hơn cả. Nếu thi đề nhắc đến nhân vật thì thường là một nhân vật được xác định về
phẩm chất, khác với truyện thường xác định về nguồn gốc hoặc vai trò và cách ứng
xử... của chính nhân vật đó. Đây đó, người đọc bắt gặp nhan đề là hình ảnh nhân
hóa, là một ấn tượng, kỷ niệm….
Nhà thơ trào phúng, hoặc nội dung thơ có
ý nghĩa trào phúng thường đặt nhan đề có từ bỡn, giễu, chế,
phú, chửi, mừng, đùa, khen người này người kia, sự việc này hay khác.
Người thâm trầm kín đáo hoặc thích “tế nhị” thì biến nhan đề trở
thành kiểu chơi chữ (Hỏi tham quan tuần mất cướp - Nguyễn Khuyến…).
Người bốp chát thì nêu ngay sự bất thường để chĩa ngòi bút vào mà chọc tức, chửi
rủa, lên án. Nói chung, ngay nhan đề đã bộc lộ rõ sự mỉa mai hờn
mát, chế giễu đối tượng. Khi nhà thơ nói về những cái hỏng, cái
xấu, cái dở của mình, nhan đề thường có từ tự, than, thán; các
danh từ, đại từ xưng hô bao giờ cũng gắn với các tình từ chỉ đặc tính chưa
hoàn thiện của mình. Đối với nhà thơ bất đắc chí, nhan đề thường gắn
với tên gọi như: than, buồn, ngán, cảm….
Kẻ “tài tử đa cùng” như Nguyễn Du chẳng hạn, trong nhan đề
thường xuất hiện các địa danh, con đường, cảnh, việc chiếm vị trí quan trọng
trong nhan đề: Giữa đường ngẫu hứng, Trên đường trạm Đào hoa, Sớm đi trên
đường Phương Hoàng, Vượt sông long Vĩ, Cảm xúc ở chốn Giang Đình, Từ biệt Nguyễn
Đại Lang... Ở Nguyễn Công Trứ, nhan đề thường nói tới những thú vui
chơi tài hoa, hơn người khác đời, chủ yếu vẫn là tài - tình - sắc;
hoài tài, đắc ngộ, ngất ngưởng đều có. Ông vịnh cái nhàn, tự do tự tại, vịnh
phú qúy bần hàn bầu rượu túi thơ, cuộc cờ chén trà... Dù vịnh về các mùa trong
năm thì cũng được soi ngắm từ cái nhìn của người tài tử đa tình phóng khoáng,
coi thường xa mã, đủng đỉnh “cười ra rả”, “xênh xang hội gió mây”...Nhan đề thơ
Hồ Xuân Hương có ý nghĩa biểu tượng, cái tục của nhan đề gợi nhớ cái
thanh. Tên tác phẩm giản dị nhưng ý tứ triển khai trong bài rất công
phu tài tình. Đó là những đồ vật, những hang động, hòn đá, cái trống, cái
giếng, cái quạt. Hồ Xuân Hương có biệt tài khám phá những nét tương đồng,
mối liên hệ xa xôi giữa các sự vật hiện tượng. Thi sĩ, nhìn đâu cũng thấy những
biểu tượng. Với Xuân Hương, đọc thơ sẽ thấy những cái ngoài thơ. Chữ
nghĩa trở thành những cửa ải đối với người đọc. Vượt qua nhan đề như là vượt
qua các cửa ải chữ nghĩa để đến với các thông điệp.
Nhìn một cách tổng quát, cách đặt nhan đề tác phẩm chịu sự
chi phối của đặc trưng thể loại, phong cách, kiểu tác giả, tư tưởng chủ đề, chất
liệu đề tài, cách thức thể hiện và hệ thống nhân vật trung tâm, ý thức
văn phong, lối viết của từng thời đại.
Thời trung đại, nhà văn miêu tả thực tại theo tinh thần thực
lục, sử luận, không thể loại nào mang tính chất thuần tuý nghệ thuật. “Thể
loại trong văn học trung đại là một phạm trù chủ đạo được thể hiện trong cách
thường xuyên nêu bật nó lên ngay ở tên gọi tác phẩm” (1). Cách đặt
nhan đề thường theo khuôn mẫu nghiêm ngặt. Cấu tạo nhan đề có xu hướng chứa đựng
yếu tố thuộc tên gọi của thể loại sử học: Chích quái, mạn lục, mộng lục, bí lục,
diễn chí, kí sự, liệt truyện, du kí... Những chữ đứng đầu hoặc cuối nhan đề ấy
đều nêu rõ chức năng ngoài văn học của thể loại (công vụ, tôn
giáo, nghi lễ…): Cáo, hịch, chiếu, biểu, bi, kí, điếu… Nếu có
nhan đề phản ánh, thiên hướng ghi chép, thì cũng có nhan đề nảy sinh từ nhu
cầu biểu đạt nỗi buồn đau, thương khóc, thở than (Chinh phụ ngâm khúc, Ai tư
vãn…). Nhan đề thơ chữ Hán của các nhà Nho, thường trang trọng, đậm chất
quan phương và chất kí. Thơ chữ Nôm, nhan đề hướng về phía trần tục, riêng tư.
Nhiều truyện thơ Nôm nhấn mạnh tính chất đổi mới, tính sáng tạo của cốt
truyện: “Ngọc Kiều Lê tân truyện”, “Phù Dung tân truyện” , “Đoạn trường tân
thanh”, “Hoàng Tú tân truyện”, “Sơ kính tân trang”… Đến thời hiện
đại, cá tính cá nhân được giải phóng khỏi những ràng buộc khe khắt;
cách đặt nhan đề tự do phóng túng hơn, ít khi nhan đề trùng nhau như chúng
tôi đã nhắc đến ở trên.
Nhan đề, sự đọc và người tiếp nhận
Nhan đề giữ vị trí quan trọng đối với không chỉ người sáng
tác mà đối với cả người tiếp nhận.
Việc đặt nhan đề nói riêng và quá trình sáng tạo tác phẩm nói
chung, có quan hệ mật thiết với vốn sống, kỉ niệm sâu sắc của tác giả.
Trường hợp, Nguyễn Trung Thành viết “Rừng xà nu” là như vậy. Cái đêm ngồi
viết truyện, nhà văn nhớ về cuộc chia tay của mình với Nguyễn Thi tại khu rừng
xà nu bát ngát, vạm vỡ phía tây Thừa Thiên. Hình ảnh đầu tiên đến dưới ngòi bút
tác giả, chảy ra tự nhiên thành mạch truyện mênh mang là một rừng xà nu hùng
vĩ. Nếu không có sự từng trải, không được sống trong không khí tráng ca của thời
đại chống Mỹ, chắc chắn Nguyễn Trung Thành không có “Rừng xà nu”. Nhan đề
tác phẩm ghi lại cái ngọn nguồn của ý đồ nghệ thuật.
Nhan đề còn phản ánh ý thức trách nhiệm, sự trăn trở về lẽ sống,
đặc biệt là hứng thú thẩm mỹ của người cầm bút. Còn nhớ, khoảng
cuối năm 1947, Chính Hữu bị ốm, lúc đó nhà thơ nghĩ: Chỉ có đồng đội mới giúp
mình làm tròn trách nhiệm, tình đồng đội gần như là chỗ dựa duy nhất để tồn tại,
để chiến đấu. Ý thức công dân ở Người thơ chuyển hoá
thành ý thức sáng tạo nghệ thuật: “làm thơ cao xa quá là vô trách nhiệm với
những người cùng chiến đấu và hi sinh với mình”. Đấy là cảm hứng thôi thúc nhà
thơ sáng tác và đặt thi đề một cách giản dị, chân thật: “Đồng chí”. “Văn
bản mang đầu đề khiến bạn đọc chú ý đến những sự kiện báo trước” ví dụ: Thầy
cáu (Nguyễn Công Hoan), Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ)
và “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (Phạm Đình Hổ)…
Khi bắt đầu cấu trúc văn bản, nhà thơ nghiêng về tư
duy hình tượng, còn khi đặt nhan đề, thì tư duy lôgíc, tư duy khái
quát tổng hợp được sử dụng, nhà thơ lúc này tỉnh táo hơn. Nhan đề tựa như cái
khung của thế giới nghệ thuật. Có nhà thơ, lấy một câu thơ trong bài để làm
nhan đề, thậm chí một từ nào đó trong câu có khả năng gọi được hồn cốt của
thi phẩm ấy. Có nhà văn lấy sự kiện trung tâm, hoặc tình huống nhân sinh làm
nhan đề... Đặt nhan đề là một nghệ thuật, đòi hỏi sự lao động nghiêm túc,
nhiều khi tiêu tốn lượng thời gian không nhỏ. Nếu nghệ sĩ thận trọng trong từng
khâu sáng tác, thì anh ta thường sáng tạo được nhan đề độc đáo, hấp dẫn độc giả.
Nhan đề luôn gợi ra những câu chuyện thú vị, bất ngờ nếu
chúng ta khảo kĩ xuất xứ của nó. Còn nhớ dạo nọ, Hoàng Cầm đặt tên
cho tác phẩm của mình là “Lá Diêu Bông”. Thật ra trong đời làm gì có loại
lá Diêu Bông nào. Đó là sản phẩm của trí tưởng tượng đấy thôi! Sáng tạo
ra chiếc lá, Hoàng Cầm muốn diễn tả suy cảm của mình về những gì xa xôi không
bao giờ trở thành hiện thực được. Nhan đề ấy đã kín đáo bộc lộ cảm
quan bi kịch về tình yêu lứa đôi. Tôi lại nhớ đến truyện ngắn “Chí Phèo” của
Nam Cao. Lúc đầu có tên “Cái lò gạch cũ”, khi in thành sách nhà xuất bản tự ý đổi
tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Việc đặt nhan đề không bao giờ nằm
ngoài tầm nhìn cuộc sống và con người của tác giả. Việc đặt nhan
đề có liên hệ với thị hiếu thẩm mỹ của độc giả. Theo PGS. Nguyễn
Đăng Na, nhìn vào nhan đề sẽ “hiểu nỗi lòng người sinh thành ra nó, hiểu nội
dung chủ yếu của tác phẩm và hiểu khát vọng sáng tạo của tác giả”(2). Đôi khi
nhan đề thực hiện chức năng khu biệt thế giới nghệ thuật này với thế giới nghệ
thuật kia; từ nhan đề người tiếp nhận đã có thể bước đầu hình dung ra đặc điểm
lời văn, và cấu trúc tác phẩm.
Nhan đề gắn chặt với tìm tòi của tác giả, ở một vài
trường hợp như bằng chứng về những đóng góp cụ thể của nhà văn trong lao động
nghệ thuật. Độc giả không biết đến nhan đề, hoặc không xuất phát từ nhan đề -
hiệu quả giao tiếp có thể giảm đi khá nhiều. Dĩ nhiên, không phải nhan đề nào
cũng thâu tóm đầy đủ tư tưởng chủ đề tác phẩm, biểu hiện nội dung chính văn một
cách độc đáo. Nhưng nó thường giữ vị trí quan trọng như những tín
hiệu chỉ dẫn con đường đi vào nghệ thuật của tác phẩm .
Nhan đề, thảy đều góp phần tạo tâm thế tiếp nhận. Thi thoảng
nhan đề gợi nhắc về một “hiện tượng văn học” đặc biệt (Tướng về hưu, Cánh đồng
bất tận...). Nếu nhan đề nêu trước vấn đề sẽ được thể hiện trong tác phẩm
thì nghĩa là nó đã tạo ra tâm thế tiếp nhận ban đầu thuận lợi. Nhan đề tác phẩm
là cửa sổ nhìn thế giới do nghệ sĩ mở ra, là “chìa khoá nghệ thuật”
giúp người đọc mở ra cánh cửa chìm của tác phẩm. Nhiều khi nó được dùng làm “cái
báo hiệu để tạo nên ở độc giả tâm trạng cần thiết” (A.X.LiKhastep). Ví
như: “Chữ người tử tù”. Từ “chữ”nhấn mạnh nét chữ tươi tắn chứa
đựng hoài bão tung hoành đẹp đẽ của một đời con người, gợi nhắc người đọc liên
tưởng tới thú chơi chữ thanh cao. Hai chữ “tử tù” thông báo cảnh ngộ của người
viết chữ. Gắn “chữ” với “tử tù” ta thấy quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn
Tuân: Cái đẹp có thể nảy sinh ở chốn tù ngục; thiên lương cao cả có thể xuất hiện
trong môi trường tội ác.
Đặt nhan đề như đặt tên đứa con tinh thần. Trong nhân gian,
các bậc cha mẹ đặt tên con phong phú thế nào, thì đặt nhan đề tác phẩm văn
chương cũng đa dạng nhường ấy…
(1) B.L.Riptin. Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn
học trung cổ của phương Đông theo phương pháp loại hình. Tạp chí Văn học số
2,1974, tr.114.
(2): Nguyễn Đăng Na. Con đường giải mã văn học trung đại
Việt Nam. Nxb Giáo Dục, 2006. Tr. 261.







Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét