Đảo hoang 1
Ông Trần Thế Pháp đời Trần viết Lĩnh Nam Chích quái - tập
truyện ngắn đặc sắc của văn học cổ Việt Nam.
Truyện dưa hấu là một truyện trong Lĩnh Nam Chích quái. Truyện như sau: Đời
Hùng Vương có người bầy tôi, khi bảy tuổi, vua mua được của thuyền buôn đem về
làm đầy tớ, sau lớn lên, diện mạo đoan chính, nhớ thuộc các sự vật, vua đặt tên
là Mai Yển hiệu An Tiêm, lại lấy vợ cho, sinh một trai một gái. Vua yêu, dùng
làm quan, lễ lạt đầy nhà, không thiếu thức gì. An Tiêm sinh ra kiêu mạn, thường
nói:
“Cái gì cũng là vật tiền thân của tôi cả", không nghĩ đến ơn vua. Vua nghe
thấy, giận lắm mà rằng:
“Mày là kẻ thần tử sinh kiêu mạn, không nhớ ơn vua, cái gì cũng bảo là của tiền
thân, bây giờ bỏ mày ra nơi không có người ngoài bể xem mày có còn của tiền
thân nữa không!". Bèn đày ra ngoài cửa bể Nga Sơn, bốn bề toàn cát và nước,
không vết chân người, chỉ để cho một số lương đủ ăn ít lâu, định cho ăn hết thì
chết đói. Vợ An Tiêm than khóc. An Tiêm cười mà rằng:
“Trời sinh ta, tất trời nuôi ta, sống chết ở trời, ta có lo gì". An Tiêm ở
đảo được bốn tháng, bỗng thấy con chim trắng từ phía tây bay lại, đậu đầu núi,
kêu lên ba bốn tiếng, sáu bảy hạt quả theo tiếng kêu mà rơi xuống bãi cát. ít
lâu sau, những hạt ấy mọc lên cây xanh rì, rồi thành quả. An Tiêm mừng rỡ:
“Cái này không phải vật lạ, chính là cái trời cho để nuôi ta". Bèn bổ ra
mà ăn, thấy vị ngọt và mát, tinh thần sảng khoái. Về sau, mỗi năm trồng nhiều
thêm ra, ăn không hết, gặp thuyền buôn đến, đem đổi lấy gạo. Nhân vì chim trắng
ngậm hạt từ phía tây bay tới nên gọi là tây qua. Phường chài, phường buôn đều
thích thứ dưa ấy: làng xóm xa gần thì đến lấy giống. Lâu rồi, vua nhớ tới An
Tiêm, cho người ra chỗ đảo hoang xem còn sống hay chết. Sứ giả về tâu vua, vua
than rằng:
“Thế ra cái gì cũng là vật tiền thân, không sai". Bèn triệu An Tiêm về, phục
chức cũ, lại cấp cho nô tỳ. Đặt tên nơi ấy là châu An Tiêm, chỗ xóm ở gọi là
Mai thôn... trạng Vũ Quỳnh (1453- 1516) soạn lại tập Lĩnh Nam Chích quái Tưởng
như chỉ một câu trong lời tựa của ông cũng đã viết nên niềm tự hào của dân tộc
ta: Nước ta khởi đầu từ Hùng Vương, đã thật văn minh, qua Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần
đến nay... Tôi hiểu nền văn minh ấy và câu chuyện dưa hấu là tinh thần sức mạnh
lớn lao của dân tộc, là truyền thống chiến đấu chống thiên nhiên, chống ngoại
xâm, giành quyền sống và phát triển qua tất cả các đời. Đất nước và con người
Việt Nam
- Một bản hùng ca sôi nổi từ nghìn năm dựng nước tới nay trên bờ biển Đông. Năm
1925, Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật viết Truyện dưa hấu thành phiêu lưu tiểu
thuyết Quả dưa đỏ. Thủa bé, tôi đọc Quả dưa đỏ của Đồ Nam Tử, giấc mơ kỳ ảo còn
phấp phới đến tận bây giờ. Từ lâu, tôi có cái thích, và tôi ước làm được bài
thơ về cái đảo hoang ấy một lần nữa.
Hang Phai Vệ (Lạng Sơn) tháng năm 1969
Phần một
1
Bi... ly... bi... ly... Tiếng chiêng âm vào núi, dội lại; tiếng
trống từ mặt nước vang lên. ạng trăng ngoài rằm thảnh thơi tỏa ánh sáng nhạt xuống,
như mỗi chiều ai chợt nhớ, lại thấy ông trăng trở lại chơi nhởn trong lùm cây
và trên con đường cát mịn ngoài ngõ. Mon reo:
- ạ, tiếng chiêng tập vật nổi rồi đấy. Gái nghé nghiêng:
- Chiêng thổi cơm thì cũng thế. Hai anh em nhìn ra, buột miệng:
- Trăng lên rồi. Giữa lúc ấy, mẹ bước đến. Gái nói:
- Mẹ đi thổi cơm thi à? Nàng Hoa cười. Gái thưa với mẹ:
- Cho con đi với.
Rồi hai mẹ con cùng đi. Mon chạy tọt vào trong nhà, đi theo bố. An Tiêm và con
ra sới vật.
Tiếng chiêng... bi... ly... bi... ly... cùng tiếng người hí, người reo xôn xao
suốt đêm trên bờ sông. Hàng tháng nay, vùng Bãi Lở rộn rịch lên. Càng gần ngày
về hội đầu năm ở kinh đô, lại càng náo nức. Năm nay, năm đầu tiên Bãi Lở được về
hội kinh đô. Các xóm đua nhau tập luyện, cho đến những ngày sau cùng thì cả hai
bên sông tấp nập sáng đêm. Hơn mười năm trước, An Tiêm được nhà vua cho ra mở đất
ven sông Cái. Nhớ lại những khó khăn ngập đầu lúc ấy, chồng chất không biết bao
nhiêu mà đếm xuể! Xưa nay, các đời vua đều cắt cử quan văn quan võ ra trấn bốn
cõi, người đi mở đất khẩn hoang đến ở đông đúc, trùm lớp, rộng mãi ra thành
phên giậu mới. Vì thế, trải hơn mười triều vua Hùng, đất nước đã rộng ra tới mười
lăm bộ. Năm ấy, nước sông Cái đỏ ngầu, lên to. Con sông đương xói nghiêng về một
phía, lở ầm ầm, cứ đến mùa nước lại khủng khiếp đổi dòng. Vốn là con sông dữ,
nó như con trăn vùng lên, cuốn vào lòng những làng xóm, những đồi nương, những
cánh rừng, cả trâu, cả người. Và dòng nước chướng cứ mỗi năm một hung hăng quẫy
về hướng kinh đô. Nhà vua hỏi các quan thế là điềm gì. Mưu sĩ tâu:
- Bỗng dưng loài trâu nước bồn lên, húc lở bờ cõi là điềm gở. Phải yểm cho nó
chết đi mới được!
- Ai hộ ta? Trăm quan chen nhau vào xin đi. Nhiều quan ở xa, nghe tin vua triệu
người ra ngoài cõi đánh trâu nước phá đất, chen chân kéo vào kinh đô. Chẳng
khác hội các cõi về trình việc nước. Trống đồng bắc dóng lên các ngã ba, thúc
liên miên theo bước quân trẩy. Suốt đêm, đuốc đốt không đứt quãng. Nhà vua còn
ngần ngừ, không biết chọn ai. Bấy giờ miền nào cũng đương mở mang, việc bận như
mắc cửi. An Tiêm bước tới.
- Tôi xin đi.
Nhà vua trông ra. Mai An Tiêm. Nhớ lại chuyện An Tiêm ngày trước từng sống ở đất
kẻ bể. Sông nước, bể khơi, coi như đồng bãi bằng phẳng. Mình lẳn mình trắm. Đôi
mày dựng ngược. Con mắt sắc. Nước da đỏ lịm như đồng hun. Một trang quắc thước,
hiên ngang lạ lùng. ừ, An Tiêm có thể gánh vác được việc quan trọng này đây.
Nhà vua gật đầu. Các quan đòi đi đánh trâu thần còn dùng dằng, còn xin đi nữa,
cho đến hôm An Tiêm lên đường mới chịu lui. Thế là An Tiêm ngược nước lên Bãi Lở.
Con sông lớn vẫn đương vùng lên đổi dòng. Đất lở đất bồi lớp lớp đỏ rực như những
vạt máu trên chiến trường. Nước thúc đất xuống ầm ầm vang động suốt mùa nắng,
không lúc nào ngớt. Người ở xa hàng trăm dặm cũng nháo nhác chạy hết. An Tiêm
cho người đi gọi dân lại, cùng nhau kéo ra bờ sông.
- Các người trông kìa... Những cụ già thở dài:
- Đã bao năm nay chúng tôi chỉ biết chạy đi cho đàn trâu điên lên húc hết nhà cửa,
cánh đồng xuống sông mà thôi. An Tiêm nói:
- Thế thì sợ a? Các cụ lại nói:
- Con nước sắp quật chết cả mình đến nơi, ai mà chẳng sợ! Rõ ràng mắt chúng tôi
đã trông thấy nửa đêm trăng vằng vặc sáng, đàn trâu thần dưới nước nhô lên, xô
nhau phá vào bờ, cách mấy dặm còn nghe tiếng trâu thở, còn nghe sừng trâu ùm
oàm đánh vào nhau... Cho đến gà gáy thì lặn hết, đến sáng ngày trông ra chỉ còn
thấy tan hoang. Công của hàng đời lăn hết xuống nước. Bởi thế, chúng tôi mới phải
bỏ đi. An Tiêm nói:
- Nay tôi đến đây để cùng các người quyết một còn một mất với đàn trâu nước
kia. Mọi người ngơ ngác hỏi:
- Chủ tướng bảo làm thế nào bây giờ?
- Phải đánh những con đầu đàn!
An Tiêm quả quyết. Lòng quả quyết của An Tiêm dấn lên trên cái rụt rè của mọi
người. Ngay sau đấy, An Tiêm cùng dân làng vào núi, đến chân núi Tản Viên bên
kia và sang núi Tam Đảo bên này, vác đá ra. Cứ chỗ khúc sông nào lở nhiều nhất
thì ném đá xuống. Dòng sông cuộn nước như nghìn vạn con thú nhe nanh vuốt lên dọa.
Nhưng những người ném đá không sợ. Những hòn đá tảng rào rào lăn xuống quãng
sông đương giận dữ sùi bọt mép. Lấy đá trong núi, lấy mãi rỗng cả núi, trước
còn đi gần một ngày đường sau phải đi tới ba bốn ngày, vào tận trong vùng rừng
sâu. Những tảng đá to tướng, đem đục lỗ, bện dây xỏ vào, hàng chục người xúm lại,
kéo ra. Suốt năm ném đá chặn nước. Rồi mùa nước lại tới. Những con thủy quái
trâu nước lại lồng lên, vượt qua những mô đá mà hàng nghìn người đã công phu đắp
suốt năm, tràn ra các cánh đồng, đuổi mọi người khiếp sợ bạt lên tận lưng núi.
Những cái nhà sàn lại ngập chơi vơi trong nước. Cả đến người không mau chân chạy
cũng chết đuối. Suốt mùa nước, nước cứ rướn lên đánh nhau với người, đuổi người
đi. Nhưng mùa nước qua, An Tiêm lại gọi dân làng từ trong núi xông ra vác đá lấp
những đoạn sông lở. Lại lăn đá thật gấp để chặn tận cổ nước, ngăn những con lũ
tới. Năm nào, người và nước cũng vật lộn quyết liệt chìm xuống nổi lên như thế.
Ba năm qua, hầu như sức người đã chuyển cả một dãy núi quanh rìa các triền Tam
Đảo và Tản Viên ra đứng cao chênh vênh bên bờ sông. Thế là dòng sông bị những
bàn tay đá ngáng mạnh, đã phải đổi tính nết, đổi chiều. Bây giờ, khi mùa mưa tới,
con sông Cái chỉ còn sức vùng vẫy vơ vẩn ở đâu bên kia núi đá một quãng rồi lại
lừ đừ xuôi và đàn trâu nước cũng không ai thấy tăm hơi. Những con sóng dịu dàng
đưa phù sa đắp vào chân đá, bồi thêm làn cát đỏ mịn, nổi thành bãi mới. Mỗi
năm, bãi mới lấn ra cho người đến trồng mía và dâu tằm. Làng xóm mọc lên ven
sông, xa trông chen như vảy cá, đông vui san sát. Người ta vẫn giữ cái tên lúc
gian khổ, gọi đấy là vùng Bãi Lở. Sông dữ đã chịu khuất phục tay người, trở nên
hiền hậu, đáng yêu, hồn nhiên đem về cho hai bên bờ một đời sống trù phú. Tiếng
tốt theo dòng loang đi. Con sông Cái dài rộng mênh mang chảy ngang qua đất nước,
đâu đâu cũng nức lời đồn quan lạc tướng An Tiêm tài giỏi trị được trâu nước,
trâu thần, lập nên cõi Bãi Lở. Đất lành chim đậu, người các nơi kéo đến lập
nghiệp mỗi ngày một đông và mỗi năm Bãi Lở một khang trang, tốt tươi hơn. Chẳng
bao lâu, cả một vùng dài hàng trăm dặm ven sông Cái xưa hoang vu, trắng nước,
con cày con cáo không biết rúc mũi đâu cho sống, cả đến con chuồn chuồn bay lạc
qua đấy cũng đến phải mỏi rã cánh rơi xuống nước mà chết, bây giờ nhà cửa như
bát úp. Làng xóm an cư, người ở yên tâm trồng cau, trồng mít, đắp nền nhà, tính
chuyện lâu dài. Năm nào mùa màng cũng rờ rỡ, trên đồng đầy tiếng hát và tiếng
sáo. Trong làng, khói bếp suốt ngày đến canh khuya.
Vào dịp cơm mới tháng mười hay ra giêng thong thả, người các cõi dập dìu đi
chơi đông như trảy hội. Năm nay, Bãi Lở được nhà vua cho về kinh đô dự hội. Bãi
Lở đã được ngang hàng với các cõi trong mười lăm bộ trên đất nước. Mọi việc sửa
soạn đã đến mức tất bật hết sức. Hàng trăm đô các lò vật lên sới tập suốt đêm.
Từng làng mở hội thổi cơm thi, làm cỗ cơm nén để kén người tài cơm thi, cỗ nén.
Đô vật và người thổi cơm, người làm cỗ giỏi mỗi làng đua tài nhau, chen nhau
cho tới khi cả Bãi Lở chỉ còn chọn lấy có một đội vật, một toán cơm thi, một
toán cơm nén giỏi nhất về kinh đô. An Tiêm gọi tất cả các làng đến và nói:
- Ta vốn người tứ chiếng đến đây, chỉ vì cùng lòng mở đất lập nghiệp. Bấy lâu
nghìn người như một ý chí, sống chết không rời nhau, thế mới nên cơ ngơi ngày
nay. Bây giờ lại được ơn vua gọi về dự hội, thế là cả nước đã biết công khó nhọc
người Bãi Lở. Chúng ta phải cố gắng làm cho tiếng thơm càng thơm xa.
Ai nấy vui sướng không kể xiết. Đã đến ngày trảy hội. Mỗi làng chỉ có vài người
được chọn đi mà đám trảy hội của người Bãi Lở đông vui hàng dặm đường, đám đầu
đã khuất mà quãng cuối còn tụ ở đầu cõi. Các lão trượng cũng trảy hội. Đây là
các cụ một đời giỏi cày, tài vác đá chắn sóng, chịu khó đến con cháu cũng không
bì kịp, được cả làng kính trọng. Các cụ ông, râu tóc bạc trắng, mặt đỏ bồ quân,
tay cầm chiếc quạt mo tre, bước phăng phăng, nhanh hơn cả những cỗ xe trâu tải
người và mọi thức ăn vật dụng. Đoàn người và xe cộ đi theo bờ sông Cái. Trong
lòng con sông quê hương rực rỡ bóng người và sống áo màu nâu vỏ só, quan lục, hồng
điều lỏa tỏa trong dải nắng nhẹ đầu xuân. Dòng sông hóa tấm the màu trải dài
theo chân đám trảy hội. Gái và mẹ ngồi trên chiếc xe trâu đi giữa đám trai gái
làng trong đội cơm thi cơm nén. Đầu tiên còn nom thấy nhau, rồi người người gồng
gánh bề bộn tuốn theo, chen lấn lên, tất cả đi đã xa, bụi cuốn mù mịt. Mon
trông theo không thấy mẹ và em đâu nữa. Bấy giờ mới đến lượt các đô vật. An
Tiêm và Mon đi với đám tay đô. Mon ngồi gọn lỏn đằng sau xe, bên cạnh cái bồ cỏ,
đương nghển cổ nhìn lại. Chiếc xe lắc lư qua các làng, người ra đưa đứng chen
chân bên đường. Mon ta cũng lây cái sung sướng và hãnh diện như một tay đô được
tuyển đi hội, suốt dọc sông nghe tiếng chiêng và tiếng trống, tiếng hò reo cổ
vũ. Các cụ lão bà cũng trảy kinh xem hội. Và chỉ có các cụ lão bà ngồi kiệu vì
đường xa. Thế nhưng, xưa nay cày cấy thì các lão bà chẳng chịu ai, một tay đã bảo
ban con cháu mấy đời cấy hái. Có những lão bà thọ hàng trăm tuổi, không nhớ tuổi
mình nữa. Các cụ mặc váy sồi, thắt lưng sồi mộc, đầu trọc, chít khăn vuông điều
ngồi ngay ngắn trên cái ghế đòn bốn người khiêng. Đám Bãi Lở đi đã được một chợ.
Dần dần, gặp ngang đường đám trảy hội người các bộ khác, ở Ninh Hải, ở Dương
Tuyền, và cả đến các bộ xa từ Hoài Hoan, Lục Hải đã tới, càng ngày càng tấp nập.
Biết là sắp đến vùng Phong Châu.
2
Bi... ly... bi... ly... Bùng... bi... Những cây muỗm lùn đội
đầu một mâm hoa như đơm xôi đương vào giữa cuộc tiến hương tiến hoa. Hoa cau,
hoa móng rồng tỏa thơm dìu dịu khắp. Kinh đô rung động náo nức trong tiếng
chiêng, tiếng cồng, tiếng trống thúc giục. Những cuộc thổi cơm thi, những đám vật
của các cõi về đua tài. Ngày nào cũng từ sớm đến chiều, có hôm mê mải đốt đình
liệu sáng rực để thổi cơm và đánh vật thi tuyển cả đêm. Từ bến sông Cái lên,
các phường liên tiếp dựng những cột trụ, những cây tre cao treo đèn phất giấy lệnh.
ở mỗi góc đường, ở giữa chợ chất những đống củi cao như gò, những cây đình liệu
cháy suốt đêm chưa hết. Tưởng như trời kinh đô lơ lửng hàng nghìn hàng vạn ông
trăng tròn cho người chơi thâu đêm. Rồi mới sáng sớm bãi cỏ rộng dưới chân
thành đã đông ghế người. Cả đất nước cơm nắm cơm đùm kéo nhau về hội xem các
cõi tranh tài. Hôm nay, toán cơm thi cõi ất bộ Hoài Hoan đọ tài với toán cơm
thi Bãi Lở. Toán cõi ất nổi tiếng mười lăm bộ, giữ giải cơm thi đã nhiều năm. Đến
nỗi có những người hàng năm đánh cược ăn giải, ai kiên gan đoán cõi ất được,
năm nào hết hội cũng được giắt về nhà mình hàng đàn trâu, đàn ngựa. Nhiều toán
các cõi cố gắng ganh nhau, toán này đè được toán khác thật quyết liệt, nhưng
chưa ai vượt toán cõi ất. Năm nay toán cõi ất vào thi trận sau cùng với Bãi Lở.
Không ai ngờ sự xuất hiện chói lọi của Bãi Lở. Chỉ vì Bãi Lở mới về hội lần đầu,
thế mà Bãi Lở đã lần lần đánh ngã được hết các cõi rồi ra đọ tài với cõi ất. Lệ
thường, đội thắng năm trước ăn một điều lợi là được ra bãi sửa soạn trước. Người
trùm toán cơm thi cõi ất là cháu gái quan lạc tướng đất Hoài Hoan. ả có tiếng
tai ác, người ta nói cô ả này nhiều mánh khóe xảo quyệt đã khiến toán cõi ất giữ
được giải lâu, chứ cũng không phải vì cõi ất tài giỏi đặc biệt gì. Có điều là
những mưu chước mờ ám và ma mãnh của toán cõi ất, ai cũng đồn dăng dăng, mà
không biết thế nào đối phó hoặc kêu lên nhà vua được. Nhiều toán đã cất công
rình
- có khi công phu rình trước hàng tháng, xem toán cõi ất chiếm bãi trước như thế
nào. Nhưng cũng không thấy gì. Mà chỉ ấm ức, bởi vì khi vào cuộc, thường thường
địch thủ của toán cõi ất, nếu không bị tai nạn thì cũng gặp lúng túng. Chết uất
đi được mà đành than:
“Bao giờ toán cõi ất mất quyền ra bãi trước thì may mới đến lượt cõi ta giật giải".
Làm sao biết được năm nay toán cơm thi cõi ất đem mánh khóe gì hại toán Bãi Lở.
Cái bãi thổi cơm thi rộng, từ giếng nước đến chỗ đặt đá đánh bùi nhùi, đến chỗ
đặt ba ông đầu rau, nơi nọ xa nơi kia, phải chạy nhanh hàng mấy trăm bước. Chỉ
một cái lạt gàu tụt, chiếc gáo mo cau xộc xệch hay hòn đá chậm ra lửa, hay bùi
nhùi chưa nỏ, bắt lửa kém, hay chỗ đám cỏ kê nồi còn ẩm chút sương mưa đêm qua,
cũng đủ thua cuộc. Nhưng không ai biết đấy là cái sơ ý của toán thổi cơm thi
hay họ đã bị kẻ đua tài ganh ghét ngầm hại. Thật ra, toán cõi ất đã có ý coi
thường đứt đuôi dân Bãi Lở rồi. Bởi vậy, họ chỉ làm có một cái ác vặt. Nửa đêm
trước, cho người bới lũm mấy quãng đất giữa lối đi lấy nước rồi lại trải cỏ lên
như thường. Chẳng cần vấp ngã, chỉ hụt vài bước chân, đến sau người ta một nháy
mắt, mọi việc chậm hơn người một thoáng, cũng đủ thua trông thấy. Tùng... bi...
ly... Người xem đã xúm đen xúm đỏ quanh bãi đợi từ gà gáy. Thoạt đầu, bên nam
vào thi có hai người. Bãi Lở là một chàng trẻ tuổi và bé Mon. Hôm nay thì bốn đợt
liên tiếp. Anh trai cao lớn lực lưỡng. Bé Mon loắt choắt, nhưng cũng gọn gàng
khố bao trong chiếc thắt lưng điều bỏ giọt, như người lớn... Trông thật lạ. Bởi
vì trên bãi cơm thi này, chưa bao giờ có cậu bé mười tuổi ra chạy giúp người lớn
như thế. Người đứng xem quanh bãi vừa cười vừa chép miệng:
“Hết người hay sao mà phải cho trẻ thò lò mũi ra thế kia! Cánh Bãi Lở phen này
đến trôi ra sông Cái về Bãi Lở mất thôi". Người Bãi Lở, các lão bà, các chị
ngồi xúm đằng cuối bãi. Họ đốt từng đống trầm, từng bó hương đen, lại mổ gà xem
bói tỏi gà, chân gà và kể vè những bài kể công An Tiêm với sự tích đánh trâu nước
lập nên Bãi Lở. Bùng... bi... ly... Mon bước sát theo anh lớn. Trước tiên, nghe
trống thúc nhịp một, hai bên hai người cùng ra hai giếng. Mỗi giếng cách nhau
trăm bước. Không nhìn nhau, không ai bảo ai mà hai cái gàu mo cau thả đều, kéo
đều từ mặt giếng lên. Tiếng reo như sóng quanh bãi. Rồi anh lớn, tay cầm niêu
nước giếng, vai đeo túi gạo. Mon bưng lon nước để vo gạo, lại kẹp thêm dưới tay
cái rá nhỏ. Anh trai bước nhanh. Mon chạy theo về phía những ống giang. Anh
trai nhặt một ống. Mon cúi lấy hòn cuội. Tay cắp thêm mấy thứ mà không cần đặt
niêu, anh với đỡ cái rá ở tay Mon. Mon bưng lon nước. Hai người vừa đi như chạy
vừa vo gạo, kịp đến chỗ bắc bếp thì gạo cũng đã vo xong. Bên toán cõi ất cũng
làm thế. Chỗ thổi cơm hai toán cũng cách nhau hàng trăm sải chân. Họ đến đều
nhau như in bước. Vừa dứt ba tiếng cồng, anh trai Bãi Lở đã bắc xong bếp rồi
quay ra, cầm mảnh đá sắc cạo lòng ống giang cho thành lùm lùm từng đống bùi
nhùi rồi đem ủ kịp giữa hai hòn cuội, rắc mồi tro lên, đập một cái. Đá tóe lửa,
bắt bùng vào đám bùi nhùi. Thế là cả ống giang chứa lửa làm nòm cùng chui tọt
vào bếp. Lúc ấy, gạo vo đã ráo nước. Lệ thổi cơm thi thổi khéo không được đảo,
không ghế, không vần, phải giữ đượm lửa để lúc nước sôi tra gạo thế nào thì cả
niêu cơm đến lúc chín đều vẫn nguyên thế. Hôm ấy trời khô quang, nhưng làn gió
bấc tai ác mùa lạnh còn sót lại, chốc chốc bỗng lướt qua mặt cỏ. Lệ thổi cơm
thi không được che gió. Anh trai phải cúi nhanh xuống, tay nhấc thanh giang, vừa
chặn chiếc que cơi giữ than khỏi vạc, vừa chuyển thanh giang chia đều lửa dưới
trôn niêu khi có gió tạt. Dứt hai hồi cồng, cơm vừa chín. Mà chưa chín thì cũng
phải dừng lại đấy. Hai bên cùng đặt niêu cơm vào cái rế nhỏ, bưng chạy lại chỗ
dựng đài có các quan chấm giải ngồi. Anh trai Bãi Lở ung dung đi, không nhanh,
không chậm. Mon nghiêm trang ngẩng mặt, khuỳnh tay, lon ton bước theo.
Tiếng trống thúc giục người đua tài vẫn giọt nhịp một xuống. Bọn cõi ất cũng bước
đi, nhưng đã mấy lần giương trố mắt, hồi hộp. Hai đứa Bãi Lở mấy lần bước đúng
chỗ hũm cỏ. Nhưng, ô hay, sao chúng nó dường như chẳng lần nào bị hẫng, mặt
chúng nó vẫn tươi tỉnh như kia! Bi... ly... bi... ly... Chấm hồi chiêng, cả hai
niêu cơm đã được bày lên hai chiếc mâm bồng phủ vuông lụa điều. Mỗi bên có một
người đứng cạnh mâm bồng để canh cho niêu cơm khỏi lẫn. Bé Mon đứng lại. Trong
khi hai bên lao vào đợt thổi cơm thi nữa thì các quan chấm giải đến nếm cơm, xướng
danh cho cả bãi biết cơm ai thổi khéo, được cuộc. Lại một cuộc thi mới tiếp
luôn. Mỗi bên một người chạy thoắt đến, nhảy xuống chiếc thuyền thúng cắm ở lạch
nước cạnh bãi. Bấy giờ anh trai Bãi Lở ấy lại bước ra, đọ tài khéo lần nữa. Mọi
thứ để thổi cơm đã để sẵn trong khoang thuyền bé: ba hòn đá kê niêu, ống giang,
đá cuội đánh lửa, gạo, lon nước vo. Tất cả lủng củng dưới chân. Không khéo thì
chỉ lúng túng giẫm lỉnh kỉnh cũng vỡ cả. Từ trong lạch, người trai Bãi Lở thò
tay xuống nước làm bê chèo, bơi mải miết ra đầm nước. Người cõi ất cũng đương
ngồi trong một cái thúng như thế, bơi sóng đôi ra. Giữa đầm nước có một gò cỏ.
Hai bên đã đặt niêu thổi cơm trên bờ gò. Tới nơi chỉ việc bắc bếp, bởi vì mọi
việc lo thổi nấu đã phải làm ngay trong khi bơi thuyền, cả vo gạo, cả đánh đá lửa.
Vừa làm thế mà hai tay lại phải thò xuống nước thay bê chèo.
Cái thúng con con chỉ rình xoay ngang, quay tít. Mà thuyền của bên cõi ất lại
đương chen ra ve vé lướt vượt qua bên trái, cố ý đánh sóng cho thuyền này ụp
hay ít nhất thì cũng tròng trành, chẳng đánh lửa hay vo gạo được. Người trai
Bãi Lở không thèm đòn trả miếng hiểm ấy mà cũng không chút luống cuống. Mấy
tháng đã ròng rã luyện thổi cơm nhiều lần trên dòng sông Cái nước lên cuồn cuộn.
Bây giờ chỉ như làm lại, đã quen, lại được nước đầm phẳng lặng, dễ hơn. Bước xuống
thuyền, anh ném phăng cái áo và thắt lưng lên bờ. Anh cởi trần, khố điều đóng gọn,
không vướng mảy may. Anh cắm cúi chèo. Chiếc thúng nhấc cong mũi, vượt bật lên
trước thuyền cõi ất. Hai bàn tay lia lịa cắt nước. Bàn tay gạt nước gạt thật
nhanh, thật gọn, bàn tay chỉ ướt một phía, còn lòng tay vẫn ráo khô, nhấc lên vẫn
đánh đá vào bùi nhùi lửa ngay. Rồi một tay chèo, một tay vo gạo, vừa đến bờ gò.
Cái thúng áp mạn, các thứ đánh mồi lửa, vo gạo đã xong. Theo lệ, người chỉ được
ở dưới thuyền, thổi cơm với lên bờ. Anh ném ba hòn đá vào kê niêu. Niêu cơm vừa
đặt, mớ bùi nhùi và thanh giang bỏ ra, lập tức trong bếp đã rừng rực lửa. Thế rồi,
bếp thì trên bờ, người ngồi trong lòng chảo thuyền với lên thổi lửa. Cái thúng
nhẹ như lá tre, chốc lại tròng trành quay ngang, lại phải chèo khít vào, rồi
tay ướt ấy lại cầm mồi lửa. Có lúc thuyền tuột ra, nhưng sợ tay ướt, không dám
thò tay bơi, cứ cố nhoài lưng bíu bờ, phải uốn lấy đà mới khỏi ngã sấp xuống nước.
Tiếng chiêng tiếng cồng nổi bốn phía, rối cả ruột. Các quan chấm giải đặt án
thư ngồi coi thổi cơm thi ngay giữa gò. Còn bao nhiêu bùi nhùi, quấn vội lên đốt
niêu như đốt rơm. Lửa vừa vạc, coi như cơm cũng vừa chín. Anh chàng Bãi Lở nhún
chân nhảy nhẹ lên bờ, mời các quan ra chứng kiến. Lúc ấy, người thổi cơm toán
cõi ất mới đương quềnh quàng quấn bùi nhùi đốt niêu cơm. Chợt cơn gió chúi đến,
đẩy thuyền ra. Người thổi cơm cong lưng luýnh quýnh nghiêng vào. Chẳng may, với
xa quá, cả người rơi tõm xuống nước, mất giải. Quanh đầm, quanh bãi ầm vang tiếng
reo hò chen trong tiếng hô báo tin toán Bãi Lở đoạt giải nhất thổi cơm bên nam.
Mọi người lại chạy dồn quanh bãi. Bắt đầu cuộc thi thổi cơm bên nữ. Không ai
còn để mắt đến cái người cõi ất vừa ngã xuống nước bị thua cuộc, đương lóp ngóp
đẩy chiếc thuyền bơ vơ ra giữa đầm. Toán nữ Bãi Lở ra quân. Nàng Hoa và bé Gái.
Bé Gái, váy áo tròn xoe, hệt mẹ, như cái bóng mẹ, bước sau mẹ con cón, bé xinh
tí tẹo. Nhưng từ lúc nãy, thấy Mon nhanh nhẹn, xốc vác giúp bên nam được, không
ai dám coi thường trẻ con Bãi Lở nữa. Bên cõi ất thì ả cháu gái quan lạc tướng
bộ Hoài Hoan ra đối địch. Khốn thay, từ lúc không may xảy cái anh ngã lộn cổ xuống
nước thì thế thua hình như đã hằn rõ trên nét mặt ngơ ngác của những người toán
cõi ất. Nhưng mà chưa biết thế nào. Trận đấu nữ này thật rắc rối. Mỗi người phải
địu trên lưng một đứa trẻ lạ chưa đầy tuổi tôi mà không quen hơi. Bên cạnh để một
chiếc rổ sảo, trong có hơn chục con ếch to. Đàn ếch nhốn nháo nhảy nhô nhốp
tròng trành cái rổ. Chỉ nhỡ cái rổ trành quá, nghiêng đi, ếch sẽ chồm ra hết.
Mà lệ cấm người phụ không được làm hộ. Ai thổi cơm thì người ấy phải vừa chăm bếp,
vừa dỗ đứa trẻ trên lưng, vừa giữ cho cái rổ sảo đựng ếch không có mẹt đậy khỏi
nghiêng. Tiếng cồng dài hai hồi báo hiệu cơm phải chín tới. Lại không đợi đưa
cơm vào trình, các quan chấm giải nghe hiệu cồng thứ hai còn đương ngân ngư đã
tiến vào xét cả hai bên. Quan chủ khảo đến bếp Nàng Hoa. Nhấc cái rổ, lũ ếch giở
chứng, bỗng nhiên ngoan ngoãn kia vẫn ngồi chồm chỗm, trô trố nhô lên đủ mười bốn
cái đầu đen trũi, bóng nhẫy. Bé con địu trên lưng thì đương giụi mắt muốn ngủ.
Nàng Hoa hơi cúi, chân đứng chéo nhún gối tựa đưa võng ru em bé. Tưởng được
võng đưa, em bé thiu thiu vào giấc ngủ. Cơm ai chín mà trẻ không khóc, ếch
không nhảy ra mất con nào thì quan chủ khảo cho nổi trống lên. Tiếng trống chấm
giải trước nhất tưng bừng vang đi từ bếp Bãi Lở. Lập tức, khắp bãi người xem lại
rền tiếng reo hòa vào như sấm. Cháu gái quan lạc tướng bộ Hoài Hoan ở bếp đằng
kia nghiêng tai nghe. Tiếng trống mới nổi đằng bếp ấy, ả đã quỵ xuống, ngất đi.
Đổ cả niêu cơm. Đứa bé bị vập đầu, khóc ré trong địu trên lưng. Thế là đàn ếch
nhảy tứ tung. Quanh bãi còn đương nhốn nháo, đám này còn hò reo, đám kia còn
lao xao khen tài kỳ lạ của Nàng Hoa thì trận thổi cơm thi sau cùng đã lại mở ra
giữa hai hồi cồng hiệu. Bây giờ hàng loạt trống đồng mới lên tiếng cùng một lúc
trong cuộc thổi cơm thi quan trọng sau cùng. Cạnh án thư chủ khảo, hai dãy trống
đồng bắc gióng song song. Những chiếc dùi trống gỗ mít dài bằng cái đòn ống, đầu
đập giập mềm xơ như bông, đầu bọc da báo da hổ cứ nhấp nhô đều đặn, uy nghi đâm
xuống mặt trống.
Những hồi trống đồng trang nghiêm nổi lên, bắt đầu cuộc đấu khó khăn nhất. Cái
hơi trống đầm đầm, rền lạ lùng báo cho mọi người biết cuộc sau cùng của giải thổi
cơm thi. Người xem nhộn nhạo hẳn. Chiêng và cồng theo nhau đổ hồi dồn dập,
không thong thả nhịp một như lúc nãy. Thinh không lúc nào cũng ầm vang. Cõi ất
và Bãi Lở, mỗi bên bước ra đủ một cỗ mười cô gái. Sắp hàng ngang, mười cô mày
ngài mắt phượng long lanh, dáng dấp khoan thai, váy xắn quai cồng, tóc búi ngược.
Mỗi cô, sau thắt lưng buộc một chiếc cần trúc dài vút lên đầu, có sợi dây đay
thòng lọng xuống kéo miếng phên dài làm bàn bếp treo trước mặt. Cái niêu đặt
trên tấm phên. Người thổi cơm cầm đũa cả, lại cầm thanh giang cháy hơ trôn
niêu. Mười cô gái ấy vừa đi vừa vo gạo, đánh bùi nhùi, bắc đầu rau, nhóm bếp thổi
cơm trên cái phên tre. Lúc bước hụt, cái phên đảo đi, giựt lên ngang mặt. Lúc ấy
phải khéo uốn người sao cho khỏi đổ. Rồi lại rảo chân lên kịp đều hàng. Cả mười
cô cùng đi về phía cuối bãi, xa tít. Người quanh bãi hồi hộp đến mê người, đợi
xem lát nữa toán nào từ đằng kia đi trở lại mà giật giải. Không biết mười cô
gái nào qua rừng, lên gò, xuống ngòi, rồi trở lại đến được trước án thư quan
giám khảo vừa lúc dứt hồi cồng, lúc ấy niêu cơm trên mảnh phên cũng vừa chín tới.
Toán nào giựt giải đây? Lòng mong ngóng của mọi người đã đổ sự tin cậy vào toán
Bãi Lở, có thể vượt nốt lèo này nữa thì...
Tiếng cồng, tiếng chiêng dồn dập giữa tiếng trống đồng vẫn đương trầm hùng nổi
lên. Người ở Bãi Lở tụ một góc bãi, vẫn đốt trầm và xem bói chân gà cùng hát kể
sự tích đất nước. Trời xuân giêng hai bỗng thơm trong trẻo một mùi hoa cau vừa
nứt bẹ. Mọi người hồi hộp nghển nhìn phía rừng thưa. Toán nào về trước? Kia kìa
đoàn người đương nhô ra khỏi rừng, cả mười cô bước thẳng hàng ngang suốt như kẻ
chiếc đòn ống. Váy áo nâu non tươi và khăn vuông điều - màu nâu màu điều chân
chỉ quen thuộc trên các cánh đồng, các bến nước. Thoạt trông ai cũng nhận ra
ngay đấy là mười cô gái Bãi Lở. Mười cô gái Bãi Lở hớn hở bước về tới đâu, người
xem ở đấy cồn lên như sóng dồn theo. Không ai còn ngõi đến mười cô gái cõi ất lủi
thủi đi sau. Người ta chen lấn lấp cả đi, dù mười cô cõi ất chỉ đi cách một
quãng. Mười cô Bãi Lở về nhất. Như đoàn quân hùng dũng, nhanh như cánh cắt,
ngay giữa nơi trận mạc xung sát mà vẫn đưa được cơm chín ngon lành ra chiến trường
cho ba quân. Cả vùng Phong Châu sôi nổi mừng Bãi Lở. Lúc ấy, ả cháu gái quan lạc
tướng bộ Hoài Hoan vừa hồi tỉnh, mặt hãy còn xanh lét, lại lăn ra, ngất đi lần
nữa. Liền hôm sau, đến kỳ tranh giải vật. Bùng... bi... bi... bùng...
3
Những lò vật tài giỏi bậc nhất vào giật giải. Từ mấy hôm mới
bắt đầu hội, đội vật các cõi lên kinh đã có đấu rờn, đấu bỏ. Người ta náo nức đồn
năm nay có lò vật Bãi Lở mới về hội mà đã nổi lắm. Vì là lò mới, phải vật thử sức
từ đầu, Bãi Lở đi khắp các sới, chạm trán với đủ các lò, cho nên, lời đồn ấy,
ngay lập tức, được chứng nhận. Lò vật Bãi Lở có hai mươi đô, hôm nào cũng đấu
liền liền, thế mà tới hôm nay, cả hai mươi người cứ trơ như cột đá. Đô tài giỏi
các lò, chỉ mới đụng đến đô Bãi Lở, cùng lắm cũng chỉ chịu được hai lần tỳ cổ tỳ
vai và một miếng quét đã phải lăn ra, không ai đứng được trước mặt họ. Tiếng
tăm Bãi Lở càng dội lên. Từ gà gáy, sới vật đã ồn người như mở chợ. Sới vật
trên đài cao, có đến hàng vạn người chen lấn như những đợt sóng bao quanh. Lầu
xem vật của nhà vua choán một góc bãi. Tất cả các tay đô bện khố lục đứng dàn
trên đài. Mặt vuông, cằm bạnh, vai nổi, ngực bè, lưng và lườn, chân tay chàm vằn
vèo hình thủy quái, cả trên những bắp vế quặn chão. An Tiêm đóng khố bao điều.
Điểm mặt cả mười đô vật các lò lên sới đấu với lò Bãi Lở không thấy còn lại một
ông quan võ nào. Chỉ có một mình đô An Tiêm làm quan trấn cõi ngoài. An Tiêm đã
đấu tám trận. Tiến đến trận này, An Tiêm đã bốc bổng đối thủ lên rồi vỗ đôm đốp
vào rốn cả tám người thua ngã ngửa chỏng cẳng. Các ông quan võ thay nhau ra cầm
chịch. Các ông quan võ đứng trên lầu xem vật. Không phải các quan võ không lên
tranh tài. Xướng danh thật nghiêm ra thì có quan cũng là đô vật, nhưng đã thua
ngay từ những keo đầu. Chỉ còn lại những tay đô là lính, là thủ túc hoặc con
cháu, quanh năm ăn lộc vua để luyện vật, chứ không phải những tay đô được kén từ
các lò trong làng như Bãi Lở. Lý thú nhất, khi đứng dàn trên đài, bên cạnh đô
An Tiêm, lại có cả thằng đô cu Mon. Mon ta cũng cởi trần, cũng đóng khố điều,
nòi như bố.
Chỉ khác: tóc Mon còn cun cún và Mon mới chỉ đứng cao ngang sườn bố. Tuy vậy,
nét mặt nghiêm nghị cũng oai chắm chắm như tay đô chính cống. Bùng... bùng...
bi... Tiếng trống nổi liên tiếp. Cả vạn người xem đầy tinh thần thượng võ, cứ
nhảy lên, hí vang, rầm rầm múa sức khỏe, như trên đài vật. Cả nước Văn Lang đua
tài. Tiếng trống thúc rền. Người xem từng lúc lại hí, lại reo như sấm, mỗi khi
có tay đô chèn được miếng hay hoặc một đô nào đuối tay quai, ngã ngửa chềnh ềnh
giữa đài. Năm cuộc liền, chưa đô nào vật ngã được đô lò Bãi Lở. Trận cuối cùng,
An Tiêm ra với đô lò cõi Bính năm ngoái giữ giải. Chàng đô trẻ tuổi cõi Bính là
con trai quan lạc tướng bộ Vũ Ninh. Trống đồng nhịp đôi trầm hùng lên. Lò Bãi Lở
bước vào trận ăn thua này, cái thắng đã cầm trong tay, nhưng người xem lại càng
hồi hộp đợi keo vật cuối cùng, chắc phải ác liệt. Thế mà chớp nhoáng quá. Có
người còn đương ngơ ngác, chưa kịp trông, hoặc tưởng mình trông nhầm hay sao ấy.
Lạ không, rõ ràng hai đô vừa vào sới, vươn cái lưng to bè như cánh phản, đương
vờn lượn mình, cùng móc tay rồi múa lên đình. Bài múa lên đình trang trọng,
ngón tay vui mừng xoắn vào nhau như hái hoa. Vừa xong, đôi bên lùi lại quờ rộng
thành vai ra bái nhau, thế mà chỉ một chớp mắt vừa chớm vào vật, còn đương lừa
tay vít vai, chưa tỳ, chưa chèn, bỗng vụt một cái, đô lò cõi Bính đã ngã quay.
Thảm hại, người bị đột ngột ngã mất đà băng đi, lẫy mãi không dậy được, như con
cá rô rạch cạn, trong khi ấy cánh tay quai của An Tiêm còn giơ lên chưa hết tầm.
An Tiêm đứng thẳng lên, cũng quên không đập vào rốn địch thủ để giao hẹn được
cuộc nữa. Các quan cầm chịch, các quan xem vật còn đương giật mình, đã nghe tiếng
hô xướng danh chõ ra bốn phía bãi báo tin lò vật Bãi Lở giật giải năm nay. Đến
lúc ấy, chàng đô trẻ tuổi cõi Bính vẫn còn nằm giãy giữa đài. Đến lúc ấy, An
Tiêm mới chợt nhớ và cúi xuống lật ngửa chàng ta lên, vỗ tay đét một cái vào giữa
rốn anh chàng, đánh cái dấu thắng trận chắc chắn vào đấy cho thiên hạ bốn
phương trông tỏ tường. Không hiểu An Tiêm hạ miếng hiểm đến thế nào mà khủng
khiếp thế! Quan lạc tướng Vũ Ninh, vừa ngượng, vừa lo, xám hẳn mặt. ạng nhảy từ
trên lầu xuống, hét to:
- Không phải mày đấu vật. Mày cầm dao đâm trộm con tao, mày giết con tao rồi!
Lúc bấy giờ An Tiêm đã lùi xuống chân đài. Quan lạc tướng bộ Vũ Ninh chồm thẳng
ngay vào đầu bố con An Tiêm. An Tiêm tránh một bên, Mon bắt chước bố cũng né
người, nhưng rồi Mon lại nhảy thoắt lên đài. Xem vẻ thằng bé thật táo tợn. Dưới
kia, quan lạc tướng Vũ Ninh mất đà, ngã chúi xuống. Trên đài, con quan lạc tướng
đã ngóc lên được, nhưng đau xương sườn, còn ngồi nghẹo ngọ. Khắp bãi xôn xao,
tiếng cười như sấm động cờn ra xa. An Tiêm vẫy con xuống. Hai bố con trở về chỗ
địa phận lò vật Bãi Lở. Người xem ùa tới, như một làn sóng kéo theo. Những đêm
hội, kinh đô tưng bừng sáng như trải lụa. Đuốc và đình liệu trong ngoài nội đỏ
ngọn suốt đêm. Ngờ chừng cả tháng nay, kinh thành hóa ra cả tháng những đêm
trăng. Tin cõi Bãi Lở đã giật giải cơm thi lại giật giải vật, làm cho khắp nơi
càng rộn rịch hơn. Người ta hể hả thấy cõi ất và cõi Bính xấu hổ không dám thò
mặt nghênh ngang đi đâu. Bấy lâu, những cõi này cậy thế, lại nhiều khéo gian để
giữ giải. Ai cũng biết, nhưng không dám nói. Người kinh đô lại vui sướng và lạ
lùng nữa. Chưa bao giờ một cõi mà lĩnh được cả giải vật và giải cơm thi, như
vinh quang của người Bãi Lở được lần này. Đất nước ta nhiều người tài giỏi. Ai
cũng mừng đất nước bây giờ ở tận cõi Bãi Lở xa xôi mà dân có sức, có gan to,
đàn ông và đàn bà đều xốc vác, mưu lược, đánh vật thì địch thủ chỉ còn biết ngã
như chuối đổ, thổi cơm thi thì vừa đi vừa nhóm bếp đuổi theo quân trẩy mà cơm vẫn
dẻo. Có những người ấy thì chẳng còn lo phên giậu cõi xa bị giặc giã quấy nhiễu
nữa.
Khắp kinh thành, nhà nào, ngõ nào cũng truyền tai nhau dăng dăng những chuyện
Bãi Lở. Danh tiếng An Tiêm lừng lẫy, thổi nhanh như gió đưa. Đèn đuốc kinh đô đương
vào những ngày hội sau cùng. Còn thi cỗ nén nữa thì giã đám. Đây là cuộc thi
khoe của và khéo tay của các bộ. Nguyên vì ngày trước có một lần vua cha cầm
quân đi đánh giặc, nửa đêm, người các cõi ở Chu Diên đem thức ăn đến dâng tiễn.
Toàn thức ăn nguội mà thật ngon. Người cõi Chu Diên tâu rằng: quân trẩy từ đây
lên Lục Hải hay lên Vũ Định đều phải trèo đèo lội suối, mấy ngày đường không kiếm
được cái ăn là thường, của ngọc thực này chúng tôi đã nấu nướng theo lề lối từ
đời xưa, để dành ăn dần hàng tháng được. Quan quân nghe lời các bô lão, ăn rồi
còn mang theo làm lương khô. Quả nhiên, hàng tháng mở gói ra ăn vẫn ngon lành
như nguyên. Từ đấy, nhà vua đặt lệ thi cơm nén vào hội đầu năm. Nhớ ghi lần ra
quân cõi xa ấy, lại học được cách của người bộ Chu Diên luyện tích trữ binh
lương được phong phú, phòng khi trận mạc. Đấu vật để luyện quân và thổi cơm thi
cũng là việc phòng vệ sắp sẵn như thế, lâu dần thành phong tục. Nhưng rồi trong
lúc thái bình, hội thi cơm nén, thường các cõi nhiều của đông người ở cánh đồng
hay ven sông, lắm thóc, lắm trâu, lắm cá, lắm mía, nấu nướng khéo, dễ được giải.
Dần dần, chẳng cõi nào ăn đứt được các phường chuyên nấu cỗ. Mấy đời rồi, chỉ
phường nọ thay chân phường kia nơi kinh đô và các bộ gần được giải. Chưa hề các
cõi ven nội chịu mất giải cho cõi ngoài, vốn chỉ được coi là dân nơi hoang dã,
thức ăn cái uống thô lậu. Bao giờ cũng vậy, cả đến trong một đám hội làng thì cứ
đến trước ngày giã đám, những đám hội thường nhộn nhịp hơn. Người người muốn
chơi cho đã. Cả kinh đô mở cửa, nhà nào cũng bày biện, mời mọc và rủ nhau ăn uống
linh đình thâu đêm. Tiếng sáo, tiếng khèn réo rắt tứ phía. Chiêng, cồng với trống
giọt không ngớt. Đấy cũng là hiệu lệnh cho khắp nơi, khắp nhà làm cỗ ăn mừng,
chất thêm củi ngoài đường, dựng nốt những cây đình liệu lên đốt phóng suốt
sáng. Hôm nay, ngày nhà vua ra chấm cỗ cho các cõi vào hội. Mỗi cõi đóng một
phía quanh tám góc vườn ngự. Vua và cả nhà cùng các quan văn quan võ lần lượt
đi ngắm cỗ, nếm cỗ từng bọn. Như hội đêm năm mới ở kinh đô mỗi năm, đây lại là
dịp cho các cõi tha hồ khoe mọi thứ quý trên rừng, dưới bể của đất mình. Nhưng
nhiều năm về gần đây, và càng gần đây, những cuộc thi cơm nén không giữ được ý
nghĩa như xưa.
Chỉ vì các cõi đua đòi ganh nhau tìm của lạ. Có khi cướp đoạt của nhau, giết
nhau cũng vì thế. Rồi các đời vua cũng cứ theo cái cầu kỳ ấy mà đặt giải. Thói
quen đã lấp mất cái nền nếp tốt đẹp ban đầu của cuộc thi cỗ nén từ lúc nào,
không ai biết. Các cõi đuổi nhau tìm chuốc cái mới, cái lạ không phải của đất
mình. Thức ăn đem vào giải thì bây giờ không còn là của mình đem nấu nướng ra
mà nhiều thứ phải đi tìm mãi tận cõi ngoài về để khoe hơn, khoe của. Lều các
cõi rải rác quanh vườn ngự. Những đống gỗ trầm cuộn khói lên xanh cả ngàn cây,
ngào ngạt, kín góc tây thành. Làn khói thơm đặc bốc lên rồi quyện xuống, khiến
cho mặt sông Cái cũng ủ đầy hương. Người ở cuối sông có cảm tưởng nước mùa hoa
bưởi chảy qua đám hội kinh đô cũng đượm mùi thơm đưa về tận đấy. Nhà vua và các
quan lần lượt đi xem, nếm. Không có đâu khác mọi năm. Cái hợm khoe của đã khiến
người ta lú lấp cả sự thật nhãn tiền là thức ăn uống lạ không bao giờ đem lại
được cái thích ngon miệng, chỉ lạ miệng mà không ngon cơm. Miếng ăn ngon không
phải chỉ vì no đói, mà còn vì nỗi cảm thương nghìn đời đối với đất quê chôn rau
cắt rốn của mình. Mỗi năm mỗi cõi đua nhau làm món mới, nào tê giác khô, nào
giao long sấy, thịt tê tê vảy đỏ, nào tỏi chim trĩ ướp, nào gan cá nhà táng,
nào chả phượng đuôi trắng...
Mọi sơn hào hải vị đều được chuốc từ biển bắc hoặc đem về từ các rừng cõi
ngoài, trông thì lạ, nhưng mùi vị cũng thật khác thường, không có cái ngon lành
quen thuộc. Lúc ấy, góc nam vườn xôn xao tiếng dao thớt, tiếng chày giã, tiếng
hát ví, tiếng sáo, tiếng cười. Như cả làng đương có cỗ to. ầm ĩ nô cười như đám
người cấy, người gặt giữa buổi đem mo cơm ra ăn ngay ngoài ruộng bãi. Vua hỏi:
- Cái gì ồn ào vậy? Các quan thưa:
- Đấy là lều cỗ nén của các cõi ở Bãi Lở. Vua truyền đến thẳng đấy. Thì thấy
quang cảnh lều Bãi Lở đương nhộn nhịp, khác hẳn vẻ sang trọng mà lại khép nép
gượng gạo chỗ mấy lều nhà vua vừa đến. Như ở những quán rượu đương giữa buổi chợ
đông! Như quang cảnh chợ bến đò sung túc ngoài thành đem vào đây. Những nhộn nhịp
tấp nập chợ búa đò giang ai cũng quen mà bao giờ thấy lại cũng vui thích, như
nơi làng quê đã biết từ thuở bé mà bao giờ cũng nhớ. Hàng trăm người Bãi Lở,
trai gái vừa làm vừa hát- hát ví ăn giải đấy. Đằng kia, các cụ lão bà đương dỡ
ra những nồi đại cơm gạo ré thơm phức. Lá chuối ngự đã hơ sẵn xếp lên những chiếc
mo cau mỏng vàng căng như khăn lá mộc. Rồi từng nắm cơm mịn bọc lá chuối mở ra
đặt lên mâm bồng chen cạnh một chồng bánh dày trắng mỡ, bên những chiếc bánh
chưng vuông chăm chắm cao đều bốn thành góc buộc cặp lại một. Hàng chục cái cối
gỗ mít lớn còn đương bì bạch giã thêm bột bánh. Bánh dày ăn với chè kho mật mía
ráo như ngói, phảng phất mùi thảo quả.
Cái ngon riêng của bánh dày chè kho rắc vừng của Bãi Lở còn ở chỗ để dành đến
hàng tháng sau, bánh vẫn dẻo, chè vẫn vàng óng, nổi cát, sờ không ướt tay. Chè
kho quấy xong đổ ra để nguội trên những chiếc nia lớn bây giờ đương cắt khúc.
Phía cuối lều, xế ngoài gốc cây chò lớn, những chiếc chày giã giò của các chàng
đô vật lực lưỡng hôm trước, xem chừng đã bị bết quánh, sắp được. Cối giò hoa,
giò lụa, giò mỡ, gói thành chiếc, kẹp hai thanh tre nẹp, treo như lợn con lủng
liểng đều một chuỗi dài từng trăm chiếc. Chỉ trông màu lạt tươi lạt chín mới
phân biệt được giò luộc rồi hay chưa. Còn chả ướp quế thì đặc biệt không rán.
Miếng chả quế đắp vòng quanh cái ống bương to như cột. Bếp xếp từng thanh củi
núi đá than hoa đượm cả buổi đương rực hồng. Cái ống đắp miếng chả quế cứ quay
đều trên lửa cho đến khi màu vàng hoa sẫm rộp lên, tỏa thơm ngọt mùi quế ngậy
sánh như mật ong. Không uống chè sấy như thói quen bắt chước, khách đến chơi
Bãi Lở được mời uống chè tươi vò nấu nước giếng đất, như người đồng bãi cõi
nam. Cái chè xanh nhấm đầu cành cũng ngọt đậm lưỡi, mới trồng ba năm trên bãi bồi
mà đã bỡi vổng như cây chè lưu niên. Hàng thúng cam, loại cam đường trồng vườn
ven sông Cái, đã được chiết hãm cho chín theo vụ và khi hái lại đem vùi trong
cát, giữ tươi được đến mấy tháng. Nhấp múi cam ngọt lịm, người đi đường nhịn nước
hằng ngày vẫn bước khỏe như không. Những chàng trai hôm trước tranh giải trên sới
vật và thổi cơm thi khéo không nhường tài ai, bây giờ giã giò, quấy chè kho, thổi
cơm, nướng chả quế. Các cụ gói bánh, nắm cơm, gói giò, xem nồi nước, đứng sai bảo
cắt đặt cho con cháu mỗi đứa mỗi việc.
Những chiếc cảnh rượu gạo nếp cẩm mở sẵn nút lá chuối khô đứng lù lù trong bốn
góc lều, cả dưới gốc cây chò, ai mỗi lúc qua lại cũng uống một bát. Mùi rượu
thơm nồng ấm cả dãy lều Bãi Lở nhộn tiếng cười hát. Cũng bày biện như trước lều
cõi khác, nhưng người Bãi Lở đem mâm kiệu cỗ nén án ngữ gọn gàng phía ngoài,
như đem kho lương đặt ra giữa đường quân trẩy. Nhà vua tới, mọi việc bếp núc vừa
xong đâu đấy. Mâm ngũ quả đỏ ối cam. Chè xanh đặc khói thơm ngọt. Rồi cơm nén,
giò chả, thứ thì bày lên mâm để nếm ngay, có thứ đã xếp từng khăn gói một để biếu
khách, như sắp sẵn cho người lên đường, cho quân kéo qua lấy lương ăn. An Tiêm
và Nàng Hoa cùng các lão ông xúng xính áo điều, khăn lam đầu rìu, lão bà áo dài
nhuộm vỏ só mới, ra đón vua. Vua, vợ vua- cả mẹ vua cũng vừa đến, con trai con
gái vua, quan văn quan võ các cõi đều xô nhau ra nếm cơm nén và giò chả Bãi Lở.
Vừa quen miệng lại vừa bùi miệng, cơm và thức ăn, thật ngon. Lại thêm, ai cũng
cạn luôn mấy tuần rượu tăm nổi tiếng đất bãi, đều ngà ngà cả. Các bà, các cô
thì nhấp rượu nếp cẩm. Thật hay. Thế mà chỉ là thức ăn thức uống hàng ngày được
làm cho tinh, cho khéo hơn. Ai cũng sửng sốt thấy ra cái ăn bình thường mà quý
và nhận thấy chỉ có thưởng thức cái ăn cái uống của đất nước mình mới thấm thía
hết miếng ngon từ tấm bé được. Vua tấm tắc khen rồi ở lại luôn đấy cùng các
quan nhắm rượu cho đến chiều. Mấy khi đã ngồi xem dân Bãi Lở giã bánh, nén cơm,
đổ chè kho, thật nhanh thật thạo. Thế là các cõi, các phường chuyên cỗ bát cầu
kỳ năm nay đâm ra ế, vua không vời đến. Cay nhất là bọn chuộng lạ, nem công chả
phượng đến thế mà phải thua mọi thứ bánh trái bình thường ở đâu cũng có. Đến
hôm tan hội, nhà vua mở đại tiệc thết các quan trong ngoài và các cõi về hội được
giải. Hội đầu năm nay cũng khác mọi năm. Chưa bao giờ, kể cả mười lăm bộ trong
nước, chưa cõi nào vào dự hội kinh đô mà giật cả ba giải nhất đám. Các cụ lão
trong phường đông lân nói:
- Già này đã được xem hội kinh đô từ lúc còn trẻ, thật không bao giờ thấy người
ngoài cõi tài đến như ông An Tiêm. Nghe các cụ kể lại thì cả đời trước cũng
chưa cõi nào giật được ba giải một hội. Thế mà cõi Bãi Lở năm nay giật giải cả
ba! Nhà vua hỏi An Tiêm:
- Người dạy dân thế nào mà giỏi vậy? An Tiêm nói:
- Lúc còn bé theo nhà vua về, tôi thường được nghe người già kể cho biết gốc
tích từ khi có đất nước. Đấy là lúc mẹ đưa năm mươi con lên ở từ vùng chân Tam
Đảo vắt qua sông Cái sang Tản Viên, anh cả làm vua đầu rồi về sau cha truyền
con nối, cùng ở một nhà, đời nào cũng hòa thuận, thiên tử và thần dân tắm cùng
sông, cày một ruộng, vua tôi chịu khó chịu khổ mới dựng nên được mười lăm bộ nước
Văn Lang ta ngày nay. Kịp đến khi tôi vâng lời nhà vua ra trấn Bãi Lở, ngày đêm
nghĩ đến công lao lập ra đất nước của các vua cha, lo sợ mà cố gắng noi theo,
quyết làm cho đất Bãi Lở chìm rồi phải sống lại, có được thế mới khỏi phụ lòng
tin của nhà vua. Vì vậy mà hơn mười năm nay, người Bãi Lở chúng tôi mải mê
không biết thế nào là khó nhọc, ở núi cũng như ở nhà, đi đường đá gập ghềnh,
cũng như đi chỗ phẳng. Đến nỗi bọn cõi ất định mưu ác để tranh giải, đào hố giữa
bãi thổi cơm thi, nhưng dân tôi hằng ngày đã quen coi bước hũm cũng giống bước
nơi bằng, không thể ngã được. Người Bãi Lở chúng tôi quanh năm vác đá đi đánh
nhau với trâu nước, chặn cổ đuổi được trâu nước, cho nên không thể đô nào lay nổi
những cánh tay đã khiêng đá, dù cho đô cõi Bính đã định xỉa đòn ngầm vào huyệt
bắp thịt, rốt cuộc những kẻ thâm thiểm cũng đành chịu ngã ngửa bụng trước đô
Bãi Lở chúng tôi mà không giở trò ác được. Người Bãi Lở chúng tôi từ đi mở đất
đến nay chưa lúc nào biết đến cái thong thả, ăn không kịp ngồi mâm, đêm không
biết có gà gáy tan canh, cho nên, ăn đứng thì phải biết thổi cơm nhanh, lam làm
vất vả đêm ngày ròng rã trên đường thì phải biết nén cơm thạo. Ngày nay, Bãi Lở
có hạt thóc, có cây mía, có con lợn, con trâu, lúc khổ cũng như lúc sướng,
chúng tôi đều nhớ lời vua cha, khi ngài là công tử Lang Liêu, còn hàn vi, nghĩ
ra cách làm bánh chưng, bánh dày, có nói:
“Vật trên trời đất và mọi của quý không gì bằng gạo", cho nên chúng tôi
càng cố gắng khéo tay làm đấy thôi. Chỉ có một lòng tin và hai chữ kiên tâm mà
Bãi Lở mở mang lên được, nay được cùng các cõi đem sức, đem của mình làm ra, mừng
rỡ về hội... Nhà vua nghe An Tiêm nói chưa hết lời, đã đùng đùng nổi giận, sai
đi bắt ả trùm toán cơm thi cõi ất và người trưởng lò vật cõi Bính. Nhà vua
quát:
- Chém! Nhiều người trong hàng quan đứng dậy, ngăn rằng đương tiệc vui, không
nên chém người. Nhà vua lại quát:
- Đem bỏ ngục! Lính dẫn ả cõi ất và bọn lò vật cõi Bính ra.
4
Nhà vua bảo mưu sĩ:
- An Tiêm có công to, cần trọng thưởng. Mưu sĩ tâu:
- An Tiêm có tội, phải khép nó vào tội chết mới được. Nhà vua ngạc nhiên hỏi cớ
sao. Mưu sĩ lại tâu:
- Hơn mười năm nay, An Tiêm toàn mưu đồ những chuyện phạm thượng và phản trắc.
Đất lở, sóng tràn, nhưng nhờ oai đức nhà vua, đất đã bồi, sông đã lặng, cớ sao
nó vẫn đặt tên là Bãi Lở, nó mong cho đất nước long lở à? Ngăn sông lở làm sao
nó dám đắp lên ba ngôi núi đá. Đất nước ta mở ra trên sông Cái, có núi Tản Viên
và núi Tam Đảo trấn hai hướng trời, nay nó dám đắp núi lên đọ với hướng trời,
thế là nó muốn thế nào? ở kinh đô này và trên cả mười lăm bộ nước Văn Lang nhà
vua cũng chưa đắp núi đá, chưa đặt bài vè tụng công đức, mà nó dám bắt dân hát
kể công, nó dám đắp núi đá cao hơn cả kinh đô, thế là có ý gì? Đất phía ấy có
thế chín mươi chín núi, bây giờ nó muốn thêm một ngọn núi nữa để vua tôi phải
quay mặt chầu về phía ấy. Nó thật có ý hiểm đến nơi rồi. Ngày nay, ơn nhà vua,
nó được về kinh dự hội, lại càng càn rỡ quá lắm. Xưa nay, không cõi nào dám để
đứa con trẻ vào đứng trước mặt các quan chấm giải, chẳng những thế, nó còn dám
xui trẻ lên đài, làm nhục quan lạc tướng bộ Vũ Ninh ngay trước mặt nhà vua,
không còn ra thể thống nữa. Lại như hôm qua, giữa đại tiệc vua ban, nó dám nói
ngông, bịa tạc, gây tao loạn trong các hàng quan. Xưa rày, đã nhiều người kể nó
vẫn thường khoe rằng làm người ở đời chỉ có mình làm nên mình, không biết trên
dưới có ai. Không thể còn kẻ cuồng loạn nào đến như thế nữa! Bây giờ cái thế nó
đang lấn tới, được cả ba giải hội, càng ngông cuồng hơn, nếu không tức khắc
ngăn chặn đi thì họa về sau không biết đâu mà lường. Chi bằng, nhân nó còn
đương ở trong tay ta, như hổ lìa rừng, chim cúp cánh, xin nhà vua hãy kịp thời
xử trí. Nhà vua thất kinh:
- Bây giờ ta mới nghĩ ra. Rồi bối rối:
- Làm thế nào bây giờ? Mưu sĩ tâu:
- Ngoài bể Đông có dải đất chưa ai đến bao giờ, nó xấc xược như thế thì bắt nó
phải chung thân biệt xứ ra đảo hoang giữa bể để xem nó có phép biến chết thành
sống, để xem nó có thân lập nổi thân như nó thường khoác lác hay không. Vả
chăng, như thế cũng để dứt mối lo về sau. Nhà vua gật đầu. Thế là cả nhà An
Tiêm bị bắt bỏ ngục. Mịt mù ngày đêm. Hai buổi, cai ngục mở hé khe cửa đưa cơm.
Ngoài cửa nhà ngục xám ngắt mấy lớp tường đá. Mỗi ngày người tù chỉ còn biết
trông lên cái khe đầu tường để đoán lờ mờ lúc ấy là lúc nào. Trong nhà ngục gồ
ghề, ngồi nằm trên đá, bốn phía tường đá tảng. Phải khi trời nồm, mồ hôi đá
toát nhầy nhụa, lạnh như xăm vào người. Thế mà thỉnh thoảng, trong vòm đá ẩm ướt,
nghe vẳng tiếng cười khúc khích, lại có khi tiếng thút thít khóc. Mon và cái
Gái đấy. Trẻ con thì cứ vui đấy, buồn đấy, như mưa như nắng. Mon hỏi bố:
- Bố ơi! Nhà ta phải ở đây mãi à? An Tiêm đáp:
- Chưa biết. Gái hỏi bố:
- Bố ơi! Nhà ta có về Bãi Lở nữa không? An Tiêm vuốt đuôi tóc con gái. Mon lại
hỏi:
- Bố ơi! Không ở đây thì rồi nhà ta đi đâu. An Tiêm đáp:
- Đợi xem, con ạ. Trong bóng tối đầy hơi đá nhớp nháp. Gái nằm vào lòng mẹ, tiu
nghỉu. Mon im lặng, vẻ tấm tức. Nhiều lúc, chẳng cười chẳng khóc, hai đứa cứ buồn
thiu như thế. Vì không thể hiểu đầu đuôi ra sao, đương ở ngoài nhà trạm, người
Bãi Lở quây quần sửa soạn trở về thì đột nhiên có lính đến gọi đi, rồi đuổi cả
nhà phải chui vào hầm đá này. Cái gì không rõ thì tức không chịu được! Lát sau,
An Tiêm nói:
- Các con ơi, ngồi nhích lại đây bố kể các con nghe chuyện ngày trước. Các con
lớn lên chỉ trông thấy Bãi Lở đã thành làng xóm, các con không biết những ngày
đầu ra Bãi Lở gian nan chẳng khác mấy hôm nay ở trong nhà đá này đâu...
Chuyện Bãi Lở ngày xưa... Những câu chuyện tung hoành ngày trước của An Tiêm được
đem kể lại trong cái hầm đá bức bối, ẩm ướt. Ngoài tường, cái vui ấm giêng hai
còn đương giỡn qua. Mon và Gái thấy mình ngồi ướp trong mùi thơm hoa đại. Anh
em nó đoán ngoài bờ tường đá có cây đại, mùi hoa thì không biết đâu tòa ngang
dãy dọc, đâu là ngục tối, mùi hoa cứ ngọt ngào đưa khắp nơi, đến cho tất cả mọi
người. Một tiếng chim hót anh ánh trên khe đá. Rồi bóng chiếc lá đại hơi xô động,
vờn lên tường một chút nắng nhạt. Một con chim bạc má nho nhỏ vừa nhún chân nhảy
qua. Quả nhiên là mùa nảy lộc còn đương hớn hở thấp thoáng ngoài kia. Câu chuyện
kỳ thú bố kể càng mê mải, chờn vờn như bông hoa lấp ló trên vách đá. Ngày ấy,
sông Cái chưa hiền như bây giờ. Mùa nước đến, sông cứ réo ầm ầm, thúc lên thúc
xuống từng tảng nước, tảng đất. Chỉ một thoáng mà những con nước đã hùng hục
ngoạm xuống được cả một cánh bãi. Đất và nước vào trận giáp lá cà. Người cứu đất
rầm rầm kéo đi vác đá ném xuống đánh nhau với nước. Có lúc nước thúc dữ, quét sạch
đá, đuổi mọi người phải bạt vào núi. Nước vẫn đuổi theo ùa lên, ngập tràn lan.
Nhưng con người càng tỏ ra kiên gan. Nước không thể dâng mãi. Đến một lúc nước
cũng phải mỏi, nước rút xuống, thế là người lại lũ lượt hò nhau vác đá xô ra,
ném xuống chặn sông. Cứ thế, dằng dai năm này sang năm khác, giữ từng sải đất,
phải, từng sải đất, mới nên được cái Bãi Lở trù phú bên sông ngày nay. Mon nằm
gối lên đầu gối bố. Câu chuyện hay đã xua không cho cơn buồn ngủ đậu xuống. Đôi
mắt cứ thao láo. Gái thì thao thức hỏi mẹ: nếu ngày ấy con mà được đi ném đá chặn
nước lũ thì hòn đá con vác có to bằng tảng đá vách hầm này không? An Tiêm nói:
- Các con ạ, khổ thế nhưng vẫn sống. Bởi vì con người có lá gan. Mon định hỏi,
lại thôi. Cho đến lúc đi ngủ, Mon mới hỏi câu ấy:
- Làm thế nào bố có được cái gan? An Tiêm nói:
- Con ạ, bố sẽ kể chuyện bố ngày xưa cho các con nghe. Lại đến những đêm nghe bố
kể chuyện thuở bé của bố. Tiếng trống đồng ập ình xa xa. Đến lúc đã buồn ngủ
díp hai mắt lại mà còn nghe tiếng trống và tiếng sóng trong câu chuyện trào
lên. ...
Cho đến bây giờ, khi nhớ lại thuở ấy, bên tai An Tiêm cũng còn vang tiếng nước
vỗ. Mới sinh ra, An Tiêm ở bờ biển. Những đợt sóng cao lù lù từ ngoài khơi chạy
vào, vừa chạy vừa gào, ập xuống, muốn lôi ngay thằng bé ra khơi. Nhưng thằng bé
vẫn bám được vào đất. Thằng bé vẫn lang thang sống trên dọc biển Đông. An Tiêm
lớn lên, cha mẹ mất từ lúc ẵm ngửa, không biết mình là ai. Những chòm xóm ven
biển đã chuyền tay nhau nuôi thằng bé. Mới đầu thì ai cũng có lòng thương.
Nhưng sau vì mỗi người đều phải đêm ngày mải miết đi đâm cá, đi gõ hà, gõ ngao
kiếm miếng ăn, thế là thằng bé cứ bò đi vơ vẩn, người phải đổi tay nuôi, người
này vứt cho người khác. Có người không muốn nuôi, đem bỏ nó ra bãi cho sóng liếm
đi. Có người thương, lại ra ẵm về. Bồng bềnh giữa cái sống cái chết như thế, thằng
bé trải gian truân từng ngày, vừa lớn lên, vừa lưu lạc, đi nhiều quá đến nỗi
trí nhớ mỏng manh của nó không còn nhớ được hôm qua, năm qua ở đâu nữa. Quãng
mười tuổi, trạc như Mon, như Gỵi - như tuổi các con bây giờ, bằng tuổi ấy, bé
An Tiêm đã dày dạn lắm, khắp mình đã trổ chàm vằn vèo, xám xịt, để hằng ngày xuống
mò cái ăn dưới nước thì cá mập, cá trình khó nhìn thấy mà đuổi bắt ăn thịt. Có
một lần, bé An Tiêm cắp xĩa ra biển đâm cá. An Tiêm bơi một hơi ra ngoài khơi,
rồi lặn xuống. Muốn được cá to phải tìm chỗ nước sâu. Dưới nước, mở mắt tìm cá
trong ánh sáng vàng chóe. Một đàn cá mập ngửi thấy hơi người, xộc đến. Những
cái miệng cá mập hoác ra bằng cái chiêng, đỏ như máu, răng xít lủa tủa nhọn hoắt,
có thể cắn đôi, có thể nuốt chửng người. An Tiêm quẫy như con cá măng bé nhỏ,
giữa cơn gầm gào của đàn sói nước. Bình tĩnh, An Tiêm vừa bơi lùi, vừa giơ xĩa
lên chống đỡ. Một cái miệng cá mập đỏ lừ ngoạp tới, chĩa răng, bị luôn một xĩa.
Con cá nghiêng người, nhảo ra. Mấy cái mồm máu khác nhâu nhâu đến. Vừa đâm con
này trước mặt, con khác đã xông đến đớp đằng chân. An Tiêm thoắt co chân, quay
xĩa lại, đâm suốt... Cứ vùng vẫy tơi bời thế, dần dần, An Tiêm lùi vào được chỗ
cạn. Đuổi theo mùi máu, bọn cá mập lồi mắt tròn xoe, càng say máu. Nhưng đã vào
tới nơi nước nông nổi gờ lưng lên rồi, đàn cá mập không dám theo nữa, cứ đánh
sóng ầm ầm té nước lên.
An Tiêm lóp ngóp bò vào bờ. Bị những cái đuôi cá mập tát vào, bấy giờ An Tiêm mới
nhìn thấy khắp người bật máu, chảy ròng ròng, đỏ xám. Nhưng tay vẫn cầm cái
xĩa. An Tiêm lớn lên giữa những hiểm nghèo ấy. Trong cái chết mà không chết,
thì cái sống phải mạnh. Mon và Gái cứ nín hơi, nhịn thở, dán mắt lên nhìn bố,
lòng đầy kính trọng, khâm phục. Bây giờ thì quên hẳn mình đương ngồi trong nhà
đá. Hai đứa trẻ thả mình vào những tưởng tượng mênh mông tuổi thơ của bố đương
kể, có cá mập, có xĩa mũi đồng sắc như nước, có đêm trăng ngủ trên tảng đá mát
rợi, có bóng sao như những cái hoa đèn rơi xuống chân trời, có miếng cá tươi ngọt
thơm, có bước chân len lỏi đi trên bờ cát mãi đến tận cuối trời. Hết ngày sang
đêm, bố vẫn kể chuyện. Tiếng con chim mê ngủ bỗng hót trên vách đá đọng lại
trong ánh trăng. Rồi một con chim gáy nào, tưởng trời sáng, tiếng cúc cu của nó
vui hẳn lên. Đến một ngày kia, vua cha xuống bộ Ninh Hải mở hội thi cày. Nhà
vua cũng cày thi với dân các cõi mới đến đấy phá đất. An Tiêm chỉ đứng cao
ngang ngực người lớn, đã đến hội. Chẳng những thế, An Tiêm cày vừa nhanh vừa chắc,
được nhà vua thưởng lụa, cho đứng ngang hàng những người cày giỏi. Sau đó, nhà
vua gọi An Tiêm đến, rồi cho theo về kinh đô. ... Chợt nghe gà nhà ai le te gáy
sang canh ngoài đầu tường đá, Mon hỏi bố:
- Về kinh đô rồi sao nữa, hả bố?
- Vài năm sau, đi đắp núi trị thủy ở Bãi Lở.
- à đi đánh nhau với trâu thần ở sông Cái...
- Bố chỉ ở bể Đông đến năm ấy nhưng nghĩa câu chuyện gian truân ấy thì còn dài
suốt đời, các con ạ. Cái nghĩa làm người, có chí thì nên. Gái ngẫm nghĩ, buông
một câu không đầu đuôi:
- Bây giờ, bố ạ. An Tiêm cười, quen tay xoa mớ tóc đuôi bò nhỏ mướt, lưa thưa
trên đầu con gái. An Tiêm nói như ăn ý với câu nói đứt quãng của con gái:
- Phải, như bây giờ. Trong bốn bức tường đá, mà không buồn, vẫn có tiếng cười,
các con vẫn cười. Tường đá có dày mấy cũng không giữ nổi chân con người đâu.
Gái bảo mẹ:
- Thế thì mẹ đừng buồn, mẹ ạ. Nàng Hoa cũng phải cười:
- Mới thật bố nào con ấy! Mon nói:
- Bây giờ đến lượt mẹ kể chuyện! Nàng Hoa lại kể chuyện cổ tích trầu cau cho
các con nghe. Chuyện kể đến chỗ người em hóa hòn đá, người anh hóa cây cau, vợ
người anh thành dây trầu không leo cây cau, thì Mon và Gái đều bùi ngùi thương.
Gái rơm rớm nước mắt. Cũng từ lúc ấy, cảm thấy anh em càng quý mến nhau hơn.
Tảng sáng hôm ấy, nghe ngoài tường có tiếng ầm ầm, rồi tiếng kêu khóc râm ran
lúc xa lúc gần. An Tiêm đứng dậy, áp tai ra phía khe hở. Cũng không hiểu chuyện
gì đương xảy ra ngoài kia. Khi đó, ngoài các phường dân càng ngày càng xôn xao
từ lúc loang cái tin cả nhà ông An Tiêm bị bắt bỏ ngục. Người thật thà như đếm
cũng phải nghĩ ra đây là thủ đoạn của bọn độc ác, mà thế nào cũng có bàn tay
quan lạc tướng bộ Vũ Ninh và bộ Hoài Hoan, hai ông quan này còn đương cay đắng
vì nỗi mất mặt trong chuyện giật giải vừa rồi. Chẳng bao lâu, tiếng đồn cả nhà
An Tiêm bị bỏ ngục đã dậy khắp. Lại thêm, những người Bãi Lở tự dưng mất chủ,
hàng trăm người ngày nào cũng lang thang đi nghe ngóng. Họ đi ngơ ngác, tiu nghỉu
như người có tội, như gà con lạc mẹ. Càng làm cho cả trong thành ngoài nội động
lòng thương và thêm tức những kẻ hại người. Cơn giận của mọi người mỗi lúc một
tăng. Câu chuyện kín không còn ai ghé tai thì thào và không chờ đợi được nữa.
Những tiếng ồn ào đôi lúc vẳng vào tận khe đá chính là tiếng hò hét, kêu khóc của
người kinh đô căm uất vì nỗi oan của An Tiêm. Tưởng như nếu cứ cả hàng nghìn
người tụ lại thì chắc không thể mũi mác hay tường đá nào cản nổi. Bọn mưu sĩ
bàn nhau:
- Hay là...
- Tâu nhà vua cho đày ngay nó đi.
- Phải.
- Cứ phao tin ngày ấy... ngày ấy... nhà vua cho quan lạc tướng An Tiêm đi nhậm
chức ở Cửu Chân.
- ...
5
Một sớm kia, Phong Châu còn ngủ im trong làn sương dày. Những
người đi mò hến và bắt ốc, hớt tôm sớm trong bờ sông Cái nhìn ra còn thấy từng
đoàn thuyền rúc mũi vào nhau, đỗ san sát. Thấp thoáng ánh lửa nấu nước uống sớm
ở đầu khoang nào đó vừa chợt ló ánh lên lại bị vùi ngay vào mù sương trắng xóa
vừa xuống tận mặt nước, làm cho cái bến sớm càng hiu hắt hơn. Giữa lúc ấy, có
sáu chiếc thuyền to lần lượt rời bến, êm như biến đi. Thuyền nào cũng đốc sào đẩy
lẳng lặng xuôi ra đến giữa dòng mù sương mới động chèo. Đấy là đoàn thuyền áp
giải cả nhà An Tiêm đi biệt xứ. Vợ chồng An Tiêm và hai con ló đầu lên khoang
thuyền nhìn lại cái bến vẫn đang còn ngủ trong làn sương thấp bọc hai bên bờ nước,
chỉ thấy nhấp nhô người lầm lũi mò hến và những con vạc đi ăn đêm về. An Tiêm cảm
thấy bùi ngùi, khi nhớ rằng cũng cứ ngược con sông Cái, chèo độ tháng ròng thì
tới vùng Bãi Lở. Ba Vì núi nhọn hoắt trên đỉnh Tản Viên đối nhau với bên kia ba
gờ núi Tam Đảo xanh thẫm, trông cũng đoán biết cứ theo dòng sông Cái này lên sẽ
qua Bãi Lở, dưới chỗ xanh xanh ấy là đất Bãi Lở. An Tiêm cười, nói:
- Mình ạ, hơn mười năm trước, vợ chồng ta lên ngược đi mở đất, bây giờ thì xuống
xuôi, cũng đi mở đất... An Tiêm trỏ tay bảo hai con:
- Nhà ta trước ở đằng sau làn sương kia. Trong tâm trí hai người lớn, Bãi Lở hiện
ra, lẫn lộn những nét buồn. Mon và Gái đương thích chí. Trẻ con ở cạn, mỗi khi
được cưỡi lên nước, bao giờ cũng vui. Chỉ một bơi chèo đẩy con thuyền xa vài sải,
đã ra vẻ phong cảnh đổi khác rồi. Bấy giờ, đỉnh cao trời trong, mặt nước còn mờ
sương. Mon nói:
- Mọi khi con trông thấy khói thổi cơm sớm Bãi Lở bay xuống sông cũng thành
sương dày thế này.
Gái lạ lùng nhìn những đàn vạc đi ăn về bay lẻ tẻ trên dòng sông tan sương,
phút chốc đôi cánh vỗ nhịp nhàng đã loang loáng chấp chới đầy ánh nắng, càng
bay càng xa. Chẳng bao lâu, sáu chiếc thuyền giương buồm băng băng xuôi trên
dòng cứ mỗi lúc một lớn, hai bên bờ càng tít tắp. Bỗng đằng đuôi, hiện ra một
chiếc đò dọc nhỏ như chiếc lá tre, vun vút đuổi theo. Đã sang ngày thứ hai rời
bến. Đúng ngày mà người kinh đô đã nghe đồn hôm ấy quan lạc tướng An Tiêm đi nhậm
chức. Người tiễn quan lạc tướng kéo ùn ùn ra bến sông Cái. Đến sáng đã đông đặc
khắp ven sông. Nhưng chờ đến trưa, rồi chiều cũng không thấy gì. Bến quan thuyền
bè xuôi ngược và ra vào áp mạn chen chúc kín mặt nước. Người ra tiễn cứ đi hỏi
thăm mãi, cũng không ai biết thuyền quan lạc tướng An Tiêm đi nhậm chức ở Cửu
Chân đậu đâu. Các cụ già Bãi Lở lo lắng:
- Có khi chủ tướng đi rồi. Một cụ nói:
- Tôi dò thấy một người lái đò ngang nói tinh mơ hai hôm trước có đoàn sáu thuyền
xuôi, nghe đồn thuyền quan trảy ra cửa bể.
- Thế thì đúng rồi. Một cụ thở dài:
- Chuyến này chủ tướng đi, lành ít dữ nhiều. Nhưng mới đi hai hôm, chắc không
xa.
Thế rồi, một chiếc thuyền nhỏ rời bến, vụt đi như tên bắn. Trên thuyền, một cụ
già và một người trai trẻ, có đủ đồ nghề lưới gõ như chiếc thúng câu được con nước
đương xuôi mạnh. Chẳng bao lâu đã bắt kịp được đuôi đoàn thuyền chở An Tiêm.
Cái thuyền nhỏ khôn ngoan không áp vào hàng thuyền trên đầu, cũng không đến bên
thuyền cuối, mà họ chèo ghé tới chiếc thuyền thứ năm, kề ngay dưới đuôi lái. Bấy
giờ nước đương cữ lớn, lại được gió, những cánh buồm cói căng hết góc, còn người
chèo thuyền thì được lúc thong thả thả tay, nằm dài cả ra ngủ trên mui. Chỉ có
mỗi người lái phải thức, đương gà gưỡng đưa đẩy cái cán lái to tướng. ạng già
dưới mặt nước gọi vọng lên:
- Chú lính ơi! Người lính choàng trông ra:
- Gì thế, cụ? ạng già nói:
- Già hỏi không phải thì chú bỏ đi cho, có phải ông An Tiêm trên thuyền này?
Người lính trợn mắt, đảo nhìn vội lên mặt sông phía trước. Đoàn thuyền vẫn xuôi
thẳng băng giữa cơn gió bấc nhạt nhẽo còn sót lại của những ngày cuối mùa hoa
bưởi đương lồng lộng trong nắng nhẹ, làm cho con nước cứ truồi đi đâm lại, xôn
xao lên một cách kỳ lạ. Người lính hỏi khẽ xuống:
- Cụ già ở đâu?
- Già người Bãi Lở.
- ...
- Già ra đến bờ sông thì nghe tin chủ tướng đi rồi. Già này đã gần kề miệng lỗ,
không biết có còn được gặp chủ tướng lần nào nữa không, chú lính thương già.
Người lính nghe ông già nói thế thì mủi lòng. Vả chăng, ai người đã xem hội
kinh đô vừa rồi mà không mến yêu người Bãi Lở! Bèn quăng cái chão néo xuống cho
chiếc thúng con buộc núp vào đuôi lái, rồi đỡ ông già và người trẻ leo lên.
- Tôi đi mời quan lạc tướng lại đây. Này, đừng ai lên mui, thuyền quan tuần qua
mà biết thì chết cả.
- Dạ dạ... ạng già vừa trông thấy An Tiêm, đã rơi nước mắt. An Tiêm chỉ cười:
- ạng lão chớ lo cho tôi. Gian nan đến như khi Bãi Lở, thì cũng đến thế mà
thôi. Chân cứng đá mềm, ông lão ạ. ạng già đưa biếu An Tiêm một đôi giày cỏ và
một chiếc nón lá cọ.
- Đây không phải của riêng lão mà là của người Bãi Lở tiễn chân chủ tướng. Vật
thì thường, nhưng quý ở lòng, xin chủ tướng giữ cẩn thận, có khi cần đến. An
Tiêm toan nói:
“Khi xuống thuyền, đến lúc gà gáy sắp đi, bọn quan quân còn khám gắt khám kỹ từng
nẹp áo, không cho mang gì theo, cốt hãm ta vào chỗ chết", nhưng An Tiêm lại
không nói như thế. An Tiêm bảo ông lão:
- Những người ấy không hiểu được ta. Khám thì khám, phỏng thử đem đi một mảy
thóc, một mảy hạt vừng thì có khó nỗi gì! Nhưng ta không mang, ta nhất quyết
không khuất tất, không mang. Con người nương tựa ở bàn chân bàn tay này chứ còn
ở đâu. Ta chẳng cần một mảy may gì. ạng lão khẩn khoản:
- Vật thì thường, nhưng quý ở tấm lòng người Bãi Lở chúng tôi, xin chủ tướng biết
cho... Nói mãi, An Tiêm phải nhận. Rồi lại cứ tự nhiên và sôi nổi bàn bạc, dặn
dò mọi chuyện làm ăn ở Bãi Lở. Trước sau, An Tiêm nói đi nói lại:
- Phải trông con nước mà chặn lại thì mới có đất sống được, bảo nhau thế.
- Chủ tướng đừng lo, bao nhiêu năm nay người Bãi Lở ta đã biết ngăn lũ lấy đất
sống. Nhưng An Tiêm vẫn khắc khoải. Buồn như chim lìa đàn, như tổ ong vỡ, ong mất
chúa. Mặt trời đã gác núi. Chiều mờ mờ trên sông. An Tiêm và ông già cùng người
trẻ Bãi Lở vẫn ngồi trò chuyện, chưa nỡ chia tay.
Bỗng có tiếng quát dưới lòng sông vang lên:
- Thuyền nào đây? Lúc ấy đương buổi tuần chiều. Thấy có cái thúng lạ buộc vào
thuyền lớn, bọn lính tuần quát hỏi. Người lính lái thuyền vội bảo An Tiêm lui
vào trong khoang. Rồi người lính cầm hai cái giỏ to, nhúng nước, ném lên vai
cho người trai trẻ và ông già. Sau đó, hai người trèo xuống. Như người đánh cá
trên sông. Người lính nọ ngồi lái thuyền, thò đầu ra ngoài cửa, đủng đỉnh, tay
gạt lái miệng nói vọng ra, trả lời bọn lính tuần:
- Gọi phường chài lên đổi cá để ăn lấy sức chèo đêm đấy!
- Đã bẩm quan chưa?
- Chỉ đổi cá ăn thôi, việc gì phải bẩm.
- Không được, không được. Chiếc thuyền canh chèo lướt lên, đi báo quan.
Thấy thế, người lính buông ngay tay lái rồi hấp tấp nhảy theo xuống chiếc thuyền
của hai người Bãi Lở. Người lính ấy sợ quan đến khám thì có khi phải tội, đã bỏ
trốn. Chiếc thuyền nhỏ được cởi dây trôi băng ra giữa dòng, cả ba người cùng
chèo lẩn nhanh vào sương mù đã bắt đầu giăng trên mặt sông rộng. Lát sau, ở
đoàn thuyền, mấy cái thúng chở lính đã ập tới. Họ lên thuyền thấy vợ chồng con
cái An Tiêm vẫn bình thường ngồi trong khoang cái. Nhưng hỏi đến người lái lúc
nãy vừa đối đáp thì không thấy. Bốn phía mặt nước mù mịt rồi. Cả toán chèo thuyền
ấy phải đóng gông vào cổ, lập tức bị điệu sang tù giam trong gian đáy thuyền
khác. Đoàn thuyền xuôi ròng rã hơn mười ngày thì ra đến cửa biển. Nhìn ngược lại,
không còn biết núi Tản Viên, núi Tam Đảo ở đâu. Rồi có đến mấy ngày nữa, vẫn chỉ
thấy nước đỏ xuộm như đi trong sông. Đấy là vì phù sa ở cửa sông Cái tuôn ra
ngày đêm bồi biển thành những sườn cát non lênh láng màu đỏ son. Xa xa, những
vùng nấm đá đỏ hắt như ánh hoàng hôn. Những bãi hầu lởm chởm giống những bông
hoa đá vừa nở vừa chuyển động. Cửa sông đã lùi lại, man mác dần dần, rồi có một
lúc, trông lại, chẳng thấy đất quê đâu, đến khi ngước ra trước mặt thì chỉ còn
một trời một nước với từng đợt sóng nguồn dài như những con trăn quăng mình, và
từng đợt con mòng, con sếu bay thành đàn trên trời cao. Bấy giờ đã vào mùa nắng,
những đàn mòng, đàn sếu đi tránh rét bay rợp vùng biển trở về phương bắc. Lần đầu
tiên, anh em Mon trông thấy biển. Còn đương ngơ ngác, những cơn gió mạnh đã thổi
tới, muốn làm bay người xuống nước. Từ lúc ấy, nỗi nhớ đất cứ bâng khuâng day dứt
hai anh em. Những dấu vết sau cùng của mùa hoa còn sót lại cũng đã lặng lẽ qua.
Mọi hôm, còn ở trong sông, cứ đến chặp tối, khi những cánh lính đổi bọn chèo
thì những tiếng hò lại rộn mặt sóng. Phách nhất chèo mở mái ra Phách nhì chân dặm
Phách ba reo hò Phách tư bớt dặm khoan chèo Dô ta Dô tà...
Bây giờ, chặp tối im bặt. Những người lính chèo thuyền ra biển sợ không dám cất
tiếng hò nữa. Trên mặt biển, ngày đêm chuyển động những cơn gió lớn báo hiệu trận
bão đầu mùa có thể thổi đến, làm vật vã mệt nhọc cả người và thuyền. Vừa một tuần
trăng. Đã sang vùng biển xanh như lá và từ đây, chỉ còn những thăm thẳm buồn bã
thế. Một hôm, thấy bóng chim rập rờn đầu thuyền, rồi bay trở lại. An Tiêm nói:
- Thế là ta ra đã xa lắm.
- Sao bố biết?
- Chim đã bay trở lại đất trong bờ rồi. Suốt đêm, đoàn thuyền vào vùng biển phẳng
lặng. Giàn sao lấp lánh cả trên trời dưới nước và tiếng nước óc ách gõ nhịp
quanh người. Đột nhiên, gần sáng, Mon đương ngủ say, bỗng mê thấy mình ngã vật
mạnh vào bên mạn. Đến khi thật sự thấy đau điếng hẳn bên vai, mới biết ngã thật.
Lúc ấy, Mon nhìn ra, cả nhà đã nhốn nháo xô giạt về một phía. Chiếc đèn bấc
quang treo trên vách khoang xoay tròn. Rồi vụt tắt. Tiếng thình thình đập vào mạn
thuyền, như vồ nện. Ngay trên đầu, chân người chạy liên tiếp xô lên xô xuống
ngoài mui. Tiếng hú, tiếng xô của những người chèo báo hiệu đẩy thuyền cho nhau
kéo dài rồi mất hút vào tiếng gió, tiếng sóng và bóng tối gào thét. An Tiêm
nói:
- Bão rồi. Vợ chồng con cái ngồi quây một chỗ trong chiếc thuyền đương nhấp nhô
nhảy nhót. Có lúc mất đà, thuyền trượt tuột theo chân sóng, người như bị ngã
cây, ruột gan hẵng lên. Rồi tự dưng sóng lại ào ào trở lại, quay cuồng, xoay
con thuyền chong chóng. Cơn say sóng mấy hôm vừa bớt, bây giờ lại nôn nao.
Nàng Hoa gục một góc khoang. Gái nằm lả. Chỉ còn mình An Tiêm ngồi nguyên, có
Mon bám hai tay lên vai bố. Như không biết cả bốn phía sóng đương điên đảo đập
chiếc thuyền. Một chiếc thuyền đằng sau bị sóng độn nhô vút lên, rồi lao xuống,
không thấy ngoi lên nữa. Những cơn sóng ngầm đã lắc vỡ tan cái thuyền, ngay trước
mắt. An Tiêm bình tĩnh nói:
- Các con ạ, lúc nào trông ra bể, các con cứ nhớ câu chuyện Bãi Lở bố kể hôm nọ
nhé. Các con cứ nhớ chuyện bố khi bố còn bé, bố ở bờ bể, ngày nào cũng thấy
sóng gió thế này, đến khi lên Bãi Lở, ngày nào trời đất cũng thử thách thế này.
Đây cũng lại thế, hàng nghìn hàng vạn con trăn bể, con rắn bể, con trâu bể đến
húc, đến quấn, đến thử lá gan các con đấy. Mon ngẩng đầu, rắn rỏi hỏi bố:
- Bây giờ lấy đá ở đâu ném nó? An Tiêm cười:
- à, giỏi lắm! Nhưng lúc này chúng ta đương ở trong thuyền. Bình tĩnh, nó không
thể làm gì được. Nó không thể hung hăng mãi thế đâu.
- Tại sao vậy?
- Sóng to không thể to mãi. Có lúc sóng cũng phải mỏi, phải rút chạy mà ta thì
vẫn như thường. Con cứ chú ý mà xem. Trời đã mờ sáng, Mon trông ra ngoài mặt biển,
thấy hàng nghìn vạn con thủy quái xám sì hung hăng dựng đứng lên, nanh vuốt trắng
xóa. Cái thuyền càng bị đe dọa, cứ phút chốc bị nhấc bổng, phút chốc bị ném sâu
xuống. Mon khiếp quá, nhắm mắt. Nhưng Mon lại nhớ chuyện bố kể. Những ngày đầu
bố mẹ đến Bãi Lở. Những ngày thuở bé trôi nổi của bố. Mặt biển và con sóng ngày
ấy cũng hung tợn thế này... mà bố mình vẫn mạnh khỏe. Thế là Mon bảo Gái:
- Đừng nhắm mắt, đừng sợ, em ạ!
Mon cứ mở mắt trân trân nhìn qua cái lỗ ống tre cửa khoang bằng bàn tay. Mỗi lần
thuyền bị vùi trong sóng, sóng ngầm lắc thuyền kêu răng rắc, nước ào qua mui, lại
phun ộc vào như mở cống. Mon không sợ, Mon cứ nhìn. Mon không sợ! Như bố ngày
trước. Không sợ! Quả nhiên, đến chiều, những làn sóng dữ dần dần thu mình lại,
biến đâu mất. Biển lại bâng khuâng, hiền hậu. ồ, sóng cũng phải có lúc mỏi, thế
thật. Một hôm, An Tiêm nói:
- Sắp đến đảo.
- Sao bố biết?
- Sóng cứ lăn tăn lúc nhỏ lúc to, sóng vướng bờ đằng kia rồi mà. Đến chiều, thấy
nổi lên ngang mặt một vệt đen lởm chởm dài. Mon hỏi bố:
- Đảo này a?
- Có nhẽ thế. Mon bỗng thấy cái đảo này cũng thường thôi. Đằng xa, Mon thấy
mình đứng lên, cao hơn cả hòn đảo lúc ấy chỉ dẹt đét bằng sợi chỉ trên mặt nước.
Mon hỏi bố:
- Đảo này có người ở không ạ? An Tiêm nhìn con, ngần ngừ, rồi nói:
- Bố chưa biết. An Tiêm không ngơ ngác, cũng không thơ thới như các con. An
Tiêm trầm ngâm. Thế là cuộc đời sắp sang khúc khác. An Tiêm lặng nhìn bờ đảo
xám dài, lạnh lẽo dầm chân trong nước và sương mù. Mặt biển đùn lên những cơn
gió đột ngột, đẩy đoàn thuyền lướt nhanh vào bóng tối run rẩy, bạt về phía cái
đảo hoang.
Phần hai
1
Chạng vạng tối, đoàn thuyền đến sát bờ đảo
- vách đá trố ra như tường dựng. Còn ở ngoài mênh mông, Mon đứng trên mui, thấy
bóng đảo chỉ đến ngang ống chân. Bây giờ, ngồi dưới thuyền ngửa cổ nhìn lên,
không trông hết được một tảng đá. Rồi, núi đương sẫm tím thoắt đổi màu. Núi vừa
gần kề trên sống mũi bỗng mù mịt tận đâu. Hoàng hôn vàng ệch dựng cả một rặng
núi cắm chân xuống nước, xa trước mặt. Đằng sau, mây cuồn cuộn lan đầy mặt biển
như khói hun. Viên quan coi thuyền ra đứng ngoài mũi, nhìn ngang đảo, cơ chừng
muốn xem chỗ nào áp mạn được rồi gọi các thuyền lại. Mặt tái ngắt như còn hoảng
cơn bão, viên quan dằn giọng:
- Từ giờ đến tối, phải tìm cách bỏ cho được người ta lên trên kia. Rồi quay ra
luôn. Một người lính nói:
- Trời im ắng lắm. Chỉ sợ sắp có gió bốc thôi. Mùa này mà gặp gió cạn còn sợ
hơn bão nữa! Viên quan cau mặt, trỏ tay lên đảo, nói:
- Biết thế nào mà nằm đêm trên núi ma kia! Muốn tao tống một mình mày lên a?
Không ai dám cãi một lời. Tất cả đoàn thuyền đỗ lại ngoài vùng nước ráng đỏ.
Viên quan tránh mặt không gặp An Tiêm mà chỉ có một cái thuyền đưa vợ chồng con
cái An Tiêm từ từ lướt vào mặt nước lẫn đá và bóng tối. An Tiêm trông lại, chép
miệng:
- Bọn nhát sợ đã rúm khoeo lại ngoài kia cả rồi!
Nàng Hoa cúi mặt, lặng im. Thấy bố bảo bọn hèn nhát như thế, lúc đầu Mon và Gái
cũng có ý sờ sợ. Thuyền vào gần. Bóng đảo đổ sụp xuống trước mặt, mù mịt cả hai
phía. Nhưng thấy bố nhìn thẳng vào núi, hai mắt đăm đăm, cằm bạnh suy nghĩ,
không nói gì nữa, hai anh em cũng vững bụng hơn. Thuyền đã kề gờ đá. Nhưng
không cách nào bám. Những đợt sóng lại đẩy thuyền rập rềnh đập vào thành đá rồi
thuyền lại trôi ra. Cố trèo men một quãng nữa, lại phải quay lại. Chẳng tìm ra
chỗ nào bám được. Cứ dò dẫm mãi thì tối trên vực mất. Bỗng thấy một vấu đá lừng
lững chĩa ra. Mấy người lính xuống cái thúng, loay hoay bơi liều vào, giắt theo
chiếc chạc lớn. Cái chạc được kéo theo, quàng trên vấu đá. Người đứng trên, lôi
thuyền áp khít vào rồi chìa một khúc gỗ ra làm cầu. Cầu tròng trành như cầu noi.
Dưới vực sâu im lặng không một tiếng động nước. Người bước cứ bước, không biết
thế nào, không dám trông xuống. An Tiêm, lưng cõng Mon, tay dắt Nàng Hoa. Nàng
Hoa cõng Gái. Khúc gỗ rung rẩy bàn chân. Một người lính kêu ồi ồi rồi xốc nhanh
cái Gái lên trước, thế là cả Nàng Hoa cũng bíu người lính theo lên được. An
Tiêm còn quay lại, định khiêng hai tay nải bánh dày, nhưng mấy người lính đã
nhanh tay cắp đỡ. Tất cả lên đảo chỉ có thế. Họ ngồi lại chon von ngay trên mỏm
đá. Chưa tìm được lối nào trèo lên nữa. Trời đã tối thui. Trên đỉnh núi, mây thấp
vùn vụt đổi màu đỏ đậm như những lá cờ điều phất qua. Đám người chụm lại, bật hồng.
Có người tìm quanh, quơ được mấy mảng rêu khô, nhen thành đám lửa. Chưa phải
mùa lạnh, nhưng hơi núi gây gây toát ra bóng tối, đã lạnh thít người lại rồi. Đống
lửa nhỏ lom đom, run rẩy. Những người lính lại móc ở đâu được mấy nắm rêu nữa,
buộc thành cái nòm dài như chiếc đòn vác lên vai. Họ làm đuốc để dò đường trở
xuống thuyền. Một người nói:
- Bây giờ chúng tôi theo lệnh quan phải trở lại. Xin chủ tướng biết cho lòng
thành của chúng tôi. Có mệnh hệ thế nào đừng oán chúng tôi. An Tiêm cười, nói:
- Không, không, thế là các người đã tốt với chúng tôi quá. Các người cõng giùm
các cháu lên, lại để cho lương ăn.
Lại đốt cho đống lửa. ở chỗ cùng trời cuối đất này, tôi không bao giờ quên được.
Tối rồi, hãy trở lại thôi. Bó đuốc rêu trên vai người lính đã cháy đỏ. Bóng những
người trở xuống thuyền lẫn vào bóng tối mờ, còn trông thấy mảnh ván nhấp
nhoáng. Họ đã sang thuyền được. Phút chốc, tiếng rút soạt mảnh gỗ rồi mái chèo
khua oàm oạp trên nước, nghe một lát, thuyền đã ra xa, ra xa, rồi im. Chỉ còn
trông cái nòm đuốc đỏ mờ mờ trong sương trên đầu thuyền, biết dưới ấy có người
và những người ấy đương rời đảo ra khơi. Hốt nhiên, từ các đỉnh núi, như cùng một
lúc, khạc ra một tiếng gầm chuyển động. ấy là một cơn giông cạn xoáy tới, tràn
luồn qua các khe đá. Những đầu gió va vào nhau, vập vào núi, phát ra những tiếng
kinh rợn. Đống lửa trước mặt vợ chồng An Tiêm bốc lên, xoáy đi mất. Xung quanh
tối bưng. Dưới kia, cái nòm đuốc của đám lính trên thuyền cũng đương tan rữa
vào bóng tối. Bắt đầu có tiếng sóng hú. Rồi sóng dâng cao lên trên đầu, hình
như trông thấy cái thuyền dềnh lên, một bóng đen như núi đổ lao qua rồi chìm xuống,
giữa tiếng gầm sóng có tiếng người kêu thét như từ nơi âm ty nào lọt tới. Đoàn
thuyền, đoàn người ngoài kia, mới nãy còn thấy thấp thoáng ánh lửa, bây giờ chỉ
còn bóng tối và tiếng biển gào. Có lẽ cũng ngụp cả rồi. An Tiêm thét to:
- Bíu lấy đá, bíu lấy đá, mình ơi, các con ơi! An Tiêm đã nằm rạp rồi lại chồm
ngay lên, gạt Mon và Gái và Nàng Hoa lăn vào trong giữa gờ đá. Những cơn gió lại
ầm ầm giựt lên, đánh cả những tảng đá to đổ rào rào xuống biển. Trông ra thấy
những con sóng trắng xóa bóng đêm. Con sóng khủng khiếp gieo xuống ngay chỗ lúc
nãy thuyền mới đặt chân lên. Nếu không bíu kịp vào khe đá, cả người chắc bị
quăng theo. An Tiêm bảo Nàng Hoa:
- Con sóng này mà lên đến đây nữa thì... Phải cố trèo lên cao nữa mới được. Cứ
thế, bò chạy trốn sóng. Những con sóng lên cao lưng chừng trời, ngã vào nhau, vỡ
ra xung quanh. Nhưng may, chưa một đợt sóng gieo xuống núi ấy...
- Mình xem thế nào, nghỉ lại đây được chưa.
Cái Gái mỏi lắm rồi, tay nó lạnh, đầu nó nóng quá, khéo mà sốt... An Tiêm bíu
đá, nhón chân bước ra. Lần thêm mấy bước nữa, rồi đứng lại. Chỗ ấy, có một khoảng
rộng, nhưng quanh vẫn chỉ lồi lõm đá. Tiếng sóng đã ở dưới sườn. Nhưng con sóng
dữ nhất, xô lên, nghe như sóng chỉ ghè đầu đập vách ngoài. Tiếng gió xiết quanh
rồi cuống cuồng leo lên cao. An Tiêm giơ tay. Cánh tay bị gió hất loạng quạng
vào đá. Nhưng chỉ đứng thẳng lên mới bị gió tạt, ngồi xuống, đã khuất hẳn.
"Có thể núp đây được. Hãy tạm cho qua đêm nay!"
An Tiêm nghĩ thế rồi toan quay lại chỗ Nàng Hoa và hai con. Nhưng chợt nhớ, cả
hai cái tay nải bánh dày đã quên dưới ghềnh đá. Lúc nãy, cơn gió đột ngột đến,
chỉ biết bối rối chạy. Làm sao bây giờ? Phải xuống tìm cái tay nải bánh dày mới
được, phải xuống ngay. Sóng còn đánh to nữa. Có thể trôi mất. Mà có khi trôi mất
rồi. Phải xuống tìm ngay. An Tiêm có trí nhớ lạ lùng, giỏi như con ngựa đi đêm.
Chỉ hai bàn tay bíu đá, hai chân bước mò. Thế mà, tay chân như có mắt, cứ chăm
chắm thẳng vào tảng đá đã bíu, cứ thế, lần xuống. Một lưỡi sóng đùng đùng đột
lên, tưởng sắp úp xuống kín núi ngay trên đầu. An Tiêm vội nằm xuống. Nhưng những
con sóng đâm vào nhau trên cao rồi cùng ngã vật xuống, tiếng nước xiết ghê hai
mang tai. An Tiêm đã lần tới mỏm đá lúc nãy. Đây rồi. Bãi đá ướt nham nhở nhưng
sóng chưa cuốn tới. An Tiêm vớ được cả hai cái tay nải. Lập tức, An Tiêm vác bổng
lên một bên vai, bao đằng trước, bao đằng sau. Bấy giờ đã mệt lắm. Nhưng cũng
không thể trù trừ đứng lại. An Tiêm ré chân trèo thốc lên. Một cơn gió khác lại
giựt người xuống. An Tiêm nắm hai cái tay nải. Bấy giờ mới chợt nhớ cái nón lá
cọ vẫn buộc úp trên cái tay nải sau lưng. An Tiêm sờ xem nút buộc có chắc
không. Nghe có tiếng lăn lọc cọc trong nón, An Tiêm nắn thấy hai hòn cuội to cộm,
lại thấy gồ một cục, An Tiêm biết ngay đấy là cái sừng trâu. Đá cuội và sừng
trâu để đánh lấy lửa. Bất giác, An Tiêm thở dài, nghĩ:
“Ta chỉ biết khinh ghét bọn tầm thường mà không biết lo xa. Người Bãi Lở biết
lo xa hơn ta". Rồi móc trong nón ra hai hòn cuội và mẩu sừng trâu, giắt
vào cạp khố, cho chắc chắn. Bỗng giữa tiếng sóng, tiếng gió có tiếng người kêu.
An Tiêm vừa hú vừa nhô khỏi gờ đá đã nghe tiếng hú ập vào trước mặt. Thì ra, đã
trở lại được chỗ cũ rồi, nhưng vách đá cản tiếng xa đi. Ngay ở trước mặt, Mon
hét lớn:
- Bố về à... Mon chạy ra, choàng vào người bố, thật bố. Mon lại hỏi reo lên:
- Cái gì đây?
- Bánh dày. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:
- Sao đi đâu lâu quá?
- Bỏ quên cái nải dưới kia.
- ại chao! Trong bóng tối cơn bão, không trông thấy nhau, tiếng nói cứ vời vợi.
An Tiêm bảo:
- Tìm được nơi kín gió, chắc chắn hơn, sóng không đến. Thế là lại lần ra gờ đá.
Bốn phía có đá chắn cao. An Tiêm xếp cho mẹ con Gái vào trong cùng, kê cái tay
nải chắc chắn bên cạnh. An Tiêm và Mon ngồi ngoài. Mọi người lặng im. Vừa lúc
chiều còn trong thuyền, bây giờ đã trên đỉnh núi, không biết ở đâu, giữa tiếng
sóng, tiếng gió quay cuồng. Nhưng vẫn đủ mặt mọi người trong nhà. Mon cũng
không lấy gì làm lo lắng. Bố con ngẩng đầu lên nhìn trời. Chẳng biết còn sớm
hay đã khuya. Trời cũng đen như đá. An Tiêm bảo các con:
- Bão cạn thì không có cơn trận gì đâu. ở những vùng núi đá hay thình lình có
bão cạn. Gió lùa vào ngóc ngách núi, quẩn không ra được, xoáy mãi lên thành
bão. Nhưng đến lúc thoát ra được thì chỉ một lúc tan cơn. An Tiêm dỗ các con:
- Các con nằm xuống, ghếch đầu lên cái nải này. Gió chỉ ở ngoài kia thôi, sóng
chỉ xô đến dưới kia thôi, không sợ. Ngủ đi, ngủ yên, Gái ạ. Gái thiêm thiếp sốt
giật, nằm trong lòng mẹ, nghe không rõ lời bố.
Nhưng Mon nghe mỗi câu nói của bố, tin cậy, vững chắc. Mon muốn ngủ mà không ngủ
được. Không phải vì lo, mà Mon đương mải nhìn lên xem mảng trời trên đầu. Bốn
phía đá tối đen, hở một mảng trời lúc mờ lúc sẫm, ào ào chuyển động. Dù sao
cũng còn có một mảng trời đụng đậy, còn có cái để xem. Mon ngắm lên mãi. Mắt
Mon hoa chăng. Mon vừa thấy lóa một đốm sáng. Không, rõ một đốm sáng. Mon lại
nhìn. Nhưng không thấy nữa. Mình hoa mắt rồi. Một lát sau, lại thấy, lần này thấy
một đốm, hai đốm, ba đốm rồi một lúc, những đốm sáng lại biến mất. Lạ lùng, Mon
hỏi bố:
- Bố ơi! Cái gì sang sáng trên trời... An Tiêm nhìn lên rồi nói to:
- Sao! Sao đấy! ạng sao đấy! Từ chặp tối, nền trời chỉ có đen sũng, khiến Mon
quên rằng trên trời còn có những ông sao. An Tiêm đứng dậy, vươn vai, nói:
- Thế thì bão đương tan. Mây đen đã mỏng lắm, lác đác thấy sao rồi. Hai bố con
không ngủ, cứ chong chóng nhìn lên trời, xem bão tan. Những vì sao loáng thoáng
sáng rồi lại tối, có lúc còn sẫm hơn, rồi lại thoáng bóng sao. Cứ thế, cho đến
một lúc cả bầu trời, như ai vừa cụp cái quạt thóc, các ông sao được rắc lên,
lóng lánh, ngời ngợi. Sao mai nghiêng về phía ấy, đất quê ở đây kia. Mon lại đếm
đủ các thứ sao như đã thấy những đêm mùa nắng còn ở sông Cái, bố trỏ xem sao, đếm
sao. Mon thấy trời sao trên núi này chẳng khác trời sao ven sông Cái. Sao lưỡi
cày, sao gàu nước, sao gông cỏ... Cả trời sao rời rợi. Sau cơn bão, ánh sáng
sao rợn hơn đêm bình thường. Khắp trời bao la, những ánh sao sắc ngọt, những
ánh sao đứng im, những ánh sao lung lay, đương rơi. An Tiêm nói:
- Lặng gió rồi, con thấy không? Những ngọn gió cuối cùng nhẹ nhàng rút đi lúc
nào cũng không ai biết. Tiếng sóng nào là tiếng sóng cuối cùng vật vã lên ngọn
đá, cũng không nghe nữa. Bây giờ, trông đến tận mù mịt cuối trời, chỉ thấy lay
láy những ánh sao. Rồi cả nhà bỡ ngỡ nhìn ra một buổi sáng trên lưng núi. Trận
bão cạn đêm qua còn phảng phất như một cơn mê hoảng. Bấy giờ mới nhận ra nơi
này chênh vênh ở sườn một dãy núi, hút mắt nhìn sang hai bên cũng chỉ toàn một
giống đá tảng đen sẫm lởm chởm xuống tận mặt biển. An Tiêm để tay lên trán, dõi
mắt một lúc, rồi nói:
- Không thấy cái thuyền nào. Mon nói:
- Thuyền đắm rồi còn gì.
- Sao con biết? Mon đăm đăm nhìn xuống nước, nói:
- Thấy cái cột buồm, bố ạ. Trên mép nước dưới kia, rõ những cái cột và những mảnh
buồm cói. Những con sóng hiền lành làm lăn lên lăn xuống những miếng ván gãy.
Những người trở về ấy không bao giờ về nữa. Chỉ thương mấy người lính tốt bụng.
An Tiêm còn đương bâng khuâng, đã nghe tiếng Nàng Hoa ở trong hốc đá nói ra:
- Mình ạ, con nó đòi uống nước... Bấy giờ, An Tiêm mới nghĩ tới điều cần kíp.
Nước uống. Giữa nơi trơ trọi những núi đá, An Tiêm có cảm tưởng không có nước.
Tuy lo, nhưng An Tiêm bình tĩnh bảo vợ:
- Tôi ra ngoài kia kiếm nước cho con. Mình hãy xem những gì ta còn mang theo
đây. Một tay nải, trong đựng bốn buộc bánh dày, mỗi buộc được chục chiếc, đã
khô quắt, sau một tháng thuyền lênh đênh. Một tay nải mấy cái váy áo. An Tiêm lấy
trong tay nải ra đôi dép cỏ của ông lão Bãi Lở đưa hôm trước. Của đất quê cho
ta có nón cọ và giày cỏ này đây. An Tiêm cởi mảnh mo buộc đôi giày cỏ, thấy giữa
hai chiếc giày, ngả ra một con dao, dọng dao dày bằng nửa đốt tay. An Tiêm nói
với Nàng Hoa:
- Người Bãi Lở biết ta phải đến chỗ hiểm nghèo nên cho lửa, lại cho dao, những
của quý này không gì so với được. Ta không thể chết là nhờ tấm lòng này đây. Rồi
An Tiêm đưa cho Nàng Hoa xem và giữ cái sừng trâu và hòn cuội đánh lửa. An Tiêm
cầm con dao và nói:
- Mình đánh lửa nướng bánh cho cái Gái ăn. Tôi lên núi tìm nước cho con uống.
Mon ơi, mày đi với bố. Hai bố con ra khỏi khe núi.
An Tiêm nhìn cả hai cánh núi. Không thấy đâu một bóng cây. Trèo lên đỉnh cao nữa,
nhìn sang bên kia, đầu tiên, ùa đến một nỗi bàng hoàng. Cả hai bên cánh núi chỉ
thấy dài một màu đá xám, nhìn đến rợn mắt. Như đứng giữa miệng con hổ, con báo,
con gấu khổng lồ đương nhe hàm răng lởm chởm ra. An Tiêm trỏ tay về một phía:
- Núi đằng kia thấp xuống rồi, có thể đằng ấy có rừng. Mon hỏi:
- Bây giờ ta xuống đấy a? An Tiêm nói:
- Rồi hôm nào bố con mình sẽ đi. Giờ hãy tìm quanh đây lấy nước uống đã. Lời An
Tiêm nói đem hy vọng lại cho con trẻ, nhưng cái việc "lấy nước uống
đã" tưởng như dễ dàng ấy cũng chưa biết trông vào đâu có. Núi đá trọc
không bao giờ có nguồn nước. Mà chỉ từ giờ đến trưa, nếu không nước uống thì
người lử lả rồi. Cái Gái lại sốt cả đêm, đương khát. Không thể chùng chình đứng
lo ở đây. An Tiêm bảo con:
- Trèo xuống chỗ này! Trên núi cao, mỗi tảng đá như một cái tường. Có khi đứng
chỗ này kín bưng, nhưng chỉ dịch sang tảng đá bên cạnh, đã trông ra một phong cảnh
khác mà ngay sát đấy, không thấy. Hai bố con vừa đặt chân được đến một mỏm đá,
đột nhiên trông thấy một đốm xanh xanh cuối ghềnh đá đằng kia. Mon nói to:
- Đằng kia có cây, bố ạ. An Tiêm gật đầu:
- May ra thì phải. Phỏng thử vết xanh xanh xa dưới kia chỉ là một lớp rêu đá
thì sao. Đá bờ biển thường có rêu thế. Xa nhìn đỏ khé như rặng cây nở hoa, đến
gần chỉ là bờ đá rêu đỏ.
Nhưng cũng có thể bụi tre, bụi trúc đấy. Song, tre trúc vào mùa này trong ống
cũng không còn nước. Chỉ đến khi trời mưa hết sấm, mới có nước trong ống. Giờ
đã sang tiết giêng hai, nước đọng ở ống các giống cây có đốt, đã ứa lên ngọn ngậm
vào măng vào lá rồi. Cả đến thân chuối rừng mùa này cũng cạn nước. Thảng hoặc,
có còn thì nước chuối cũng đắng lắm. Bây giờ thấy cái đốm xanh đằng ấy. Dù phân
vân, nhưng đấy cũng là hy vọng và chỉ có một cách xuống đấy. Mon bíu đá, xuống
thoăn thoắt. Chân tay nó nhẹ như vượn. An Tiêm trông con, nửa buồn nửa mừng. Buồn
nỗi con mới dúm tuổi đầu phải vì bố mẹ mà chịu lăn lộn, khổ cực. Nhưng cũng mừng
nó nhanh nhẹn thế kia, rồi những ngày sắp tới, còn bao nhiêu gian nan chưa biết
như thế nào... phải nhanh nhẹn thế mới được... Hai bố con đã xuống tới. Đây có
những tảng đá lớn cao vòi vọi, đứng ken khít lấp bóng mặt trời. Giữa những khe,
mủn đá đọng lại, ẩm ướt, mọc lên mấy cây cọ rừng. An Tiêm đứng ngắm, chịu không
đoán ra cây cọ hay cây móc diều. Chỉ nghĩ:
“Lá này có thể lấy về lợp nhà. Nó là giống cọ rừng. Thế là có được một thứ
dùng". An Tiêm cúi xuống, xem xét chỗ đất cọ mọc. Không thể hy vọng trong
đá có mạch nước. Cọ mọc như chui từ khe đá ra, rễ chùm xòe quanh đá đã khô xác.
Trong rừng có những loài cây tính nết trái nhau, giống cọ này xem chừng cũng giống
ương ngạnh. Bây giờ đương mùa hanh khô thì cọ rừng lại lên tốt, tụm lá già bọc
dưới xanh sẫm. Trong ngọn cọ, lá nõn nhú thành búp và trổ cả bẹ hoa, như cái
măng. Trông cây tốt tươi, thấy mát hẳn. Lúc ấy, Mon nói:
- Con khát nước rát cả cổ, bố ạ.
An Tiêm ngẩng lên nhìn những cây cọ. Màu xanh tốt thế kia! Lá nõn như tơ thế
kia! Tưởng như mía, nhá cũng ra nước được. Nghĩ thế, An Tiêm giắt chặt con dao
vào lưng, tót lên một cây rậm và cao nhất. Như con nhái bén, chỉ ba bước chân
bám, An Tiêm đã đến lưng cây. Mon nói:
- Con lên với! Rồi Mon cũng trèo thoắt lên theo bố. Hai bố con rúc cả vào trong
đám lá ngọn cọ. An Tiêm vạch từng kẽ lá cọ non, xem. Cọ mùa này đương trổ lá mới.
Trong mỗi khe, ụ lên những tràng hoa nõn. Bẹ cọ non trắng ngà như cái ruột măng
tre. An Tiêm cầm dao, vạch vào giữa bẹ cọ. Một làn nước bềnh bệch đột ngột phụt
ra. An Tiêm gọi reo lên:
- Mon! Mon! An Tiêm vốc tay hứng nước cho Mon uống rồi lại ghé miệng vào ngọn cỏ.
Làn nước ngọt mát đùn ra, uống một hơi thỏa thuê. Đến lúc rút con dao thì mạch
nước cọ cũng vừa cạn, chỉ còn ri rỉ xuống thân cây. An Tiêm nhớ lại, có cõi người
ta đã lấy nước trong cây móc diều và lấy thân cây báng giã thành bột để ủ rượu.
Giống cọ rừng này cũng có nước như thế
- mà thế là có nước quanh năm, cả những khi đương ra lá. Cái cây cứu được người
rồi. An Tiêm bảo con:
- Cây này là cái suối đứng giữa trời. Không còn lo nữa. Rồi An Tiêm lại trèo
lên ngọn. An Tiêm đâm dao liền hai nhát vào nõn cọ. An Tiêm ngửa nón ra hứng.
Nước cọ chảy đầy lòng nón. An Tiêm bưng ngược cái nón rồi hai bố con leo nhanh
về. Nước cọ thấm xuống, đầy giàn tay cầm. An Tiêm cởi phăng áo, ấp vào chỗ nước
chảy. Bên kia núi, Nàng Hoa chốc lại đứng ra ngoài, nghển nhìn quanh. Bố con đi
mãi đâu mà lâu! Gái đã thức từ nãy. Mẹ hỏi:
- Con ăn bánh dày nhé? Trẻ con sốt, bao giờ cũng ngoan hơn thường ngày. Gái lắc
đầu.
- Con khát nước, mẹ ạ. Mẹ nói:
- Bố đương tìm nước về cho. Gái nằm yên, thiêm thiếp, hai má vẫn nóng ửng. Lát
sau, Gái gọi:
- Mẹ ơi!
- Con gọi gì mẹ?
- Con ăn bánh dày vậy. Mẹ nướng bánh dày cho con.
- Con nằm yên nhé. Mẹ ra kiếm củi vào nướng bánh. Rồi Nàng Hoa bước ra ngoài.
Ra mãi ngoài mấy tảng đá, nhưng không thấy một cành củi nhỏ. Hết đá tảng, lại đến
đá tảng. Nàng Hoa không dám đi xa hơn. Nàng Hoa trở về, bảo Gái:
- Con chịu khó vậy. Bố kiếm củi về nướng bánh cho. Gái ngoan lắm. Gái lại him mắt,
nằm lặng lẽ. Chỉ thỉnh thoảng, chiêm chiếp hai vành môi. Nhưng dáng Gái đã mệt
lắm rồi. Tưởng nếu không chiếp như thế thì hai cái môi khát nước sẽ khô kiệt đến
dính vào nhau mất. Nàng Hoa nhìn con, nước mắt lã chã rơi. Rồi lại nghển nhìn
ngoài kia. Vẫn chẳng thấy gì. Gái mở mắt, gọi:
- Mẹ ơi!
- Con gọi gì mẹ?
- Bố về chưa? Mẹ không biết trả lời con thế nào. Chốc chốc, Gái lại hỏi lại.
Nhưng hỏi mấy câu rồi Gái không nói ra tiếng được nữa, Gái nằm cúi ngoẹo đầu.
Miệng Gái đã khô hẳn, chỉ nghe tiếng phao phảo vào tảng đá. Nàng Hoa òa khóc.
Nàng Hoa tưởng Gái ngáp hấp hối sắp nhuôi ra. An Tiêm và Mon từ ngoài xộc vào.
Tay An Tiêm bưng cái nón. An Tiêm nói to:
- Con ơi! Nước đây! Rồi đưa cả cái nón vào trước mặt Gái. Gái đương nằm lử lả
thế mà Gái ngồi dậy, đỡ nón, cúi uống nốt vành nước còn sóng sánh lại. An Tiêm
cầm cái áo ướt sũng, đưa cho Nàng Hoa.
- Mình vắt nước áo này ra mà uống. Nàng Hoa kề cái áo vào miệng Gái. Nhưng Gái
lắc đầu:
- Mẹ uống đi! Nàng Hoa vặn cái áo, làn nước phòi ra. Chỉ nhấp một chút nước.
Nàng Hoa đã thấy tỉnh. Nàng Hoa lại đưa áo, vắt vào miệng Gái vẫn còn chóp
chép. Gái đẩy tay mẹ, không uống. An Tiêm cầm áo vắt thật kiệt, cho Gái và Nàng
Hoa uống nốt cái nước sệt mồ hôi khét. Thế là cả nhà được hơi nước rồi. Cái u
ám nặng nề xung quanh suốt từ sáng, giờ đã tan. An Tiêm hỏi Nàng Hoa:
- Nướng bánh dày cho con ăn chưa?
Nàng Hoa đáp:
- Chưa tìm được củi. An Tiêm nói:
- Có nguồn nước rồi, không sợ khát nữa. Bây giờ Mon đi kiếm củi nướng bánh. Bố
xuống rừng cọ, mang nước về, cả nhà cùng ăn bánh uống nước. Mặt trời nghiêng
trước mặt, đã chiều. Bóng núi in đậm đen trên mặt biển. Những đám mây tụ lại, vàng
xuộm trên đầu núi đứng gió, như chiều hôm qua. An Tiêm nhìn quanh, nói:
- Khéo không đêm nay lại có bão nữa. Ráng vàng đương ùn lên kia kìa. Ta phải nướng
bánh ăn sớm thôi.
Lúc ấy, cả những mỏm đá cũng ánh vàng chóe rồi. Nhưng không ai có vẻ lo sợ. Người
đã về đủ. Gió to thì cũng đến như hôm qua, đã có hốc đá kín. Sóng biển có đến đổ
cây nước cũng không ập được lên đây. Sửa soạn nướng bánh. Đói ngấu nghiến cả rồi.
Cạnh tảng đá, đống củi đã chất cao. Gái đã khỏi sốt. Có lẽ đêm qua sợ quá mà
thành sốt thôi. Bây giờ Gái đương cùng Mon khuân củi vào xếp chồng bên tảng đá.
Rồi Gái lấy cái sừng trâu cọ lửa ra. Gái kiếm đâu được bùi nhùi bằng một nắm
rêu khô, nhồi vào trong sừng trâu. Nhưng lúc ấy lại kéo ra được nắm bùi nhùi nỏ
trong sừng trâu. ạng lão Bãi Lở cẩn thận đã nhét sẵn bùi nhùi vào đấy. Thế là
Gái kéo mạnh hai hòn đá mấy cái, trong mặt sừng trâu bật xẹt một tia sáng xanh,
bắt vào bùi nhùi thành đốm lửa vàng như mọi ngọn lửa thường ngày ở các nơi. Gái
cầm ra, nhóm vào đống củi. ánh lửa nhảy nhót trên vách đá. Những ánh lửa đầu
tiên của con người nhóm lên ở đây, rực rỡ hắt trên mặt đá, đẩy bóng tối đã xạm
hẳn lại, lui ra ngoài kia. Nàng Hoa lấy chiếc bánh dày trong tay nải ra. Chiếc
bánh dày đã khô cứng, nhưng trắng mịn. Nàng Hoa cắt từng miếng rồi xếp quanh
vành ngoài đống lửa. Mon và Gái được chén trước mỗi đứa một miếng. Vợ chồng An
Tiêm cầm miếng bánh dày nướng, ngửi mùi nếp thơm mà nhớ Bãi Lở. †n miếng đầu
tiên ở chỗ trơ trọi này, vẫn công của ở nơi đã sinh sống, bồi hồi nhớ về đất nước
- còn thấy gần gũi như mới hôm nào trảy hội.
Ngoài kia, trời xuộm vàng rồi đỏ khé, đặc sệt. Cả một vùng suốt từ dưới mặt biển
đến chân trời, như vũng máu đỏ lòe. Hốt nhiên, nghe một tiếng hú. Tiếng gió hú
đã cất lên, kéo dài thành vạn vạn tiếng từ trong các khe đá ùa ra kêu xé trên đầu.
Như trời nứt toác, sắp sập xuống. Hai đứa trẻ ngơ ngác đứng lên. An Tiêm thong
thả nói:
- Lại bão như đêm qua. Tiếng sóng cồn lên, như sét đánh mặt nước. Trên cao, gió
vẫn đùng đùng khủng khiếp. Những cái thuyền quan quân đêm qua có sống sót, chắc
đêm nay cũng đến chìm nghỉm tất rồi. Nhưng trong khe đá này có đống lửa cháy.
Góc bên kia, Nàng Hoa và Gái còn lúi húi hơ từng miếng bánh vào mặt than hồng.
An Tiêm đương tìm một mảnh đá ghép chỗ dựa để dựng ống nước. Không ai cảm thấy
lo lắng bên cạnh đám ánh sáng bập bùng đương vun cả nhà lại quanh lửa. An Tiêm
nói:
- Ta đã tạm có lửa có nước, không sợ nữa. Ngày mai sang ở bên kia núi, chỗ gần
đám cây cọ. Mình ạ, lúc trưa tôi lâu về vì tôi mải dọn cái hang ở ngay đấy. Ta
sang ở tạm, rồi liệu sau.
2
Cũng phải đi từ sáng sớm đến quá trưa mới sang được sườn núi
bên này, khuất biển. Lên tới đỉnh cao nhất, An Tiêm quay lại, nhìn trái núi tun
hút xuống mặt nước. Trông lại biển, đằng sau cái ngấn chân trời, có đất quê và
con sông Cái. Lát nữa, xuống núi bên này, không còn thấy như thế, có bao giờ trở
lại? An Tiêm và Nàng Hoa mỗi người thoáng một vẻ ngao ngán khác nhau. Rồi trèo
xuống, cả nhà lúi húi lấp dần xuống khe. Đến chỗ cách đám cọ rừng một quãng, có
một hang đá phẳng, phía trên tự nhiên nhô ra như mái nhà. Đấy là chỗ An Tiêm đã
đánh dấu làm nơi trú chân. Thế là mỗi người mỗi việc. Mon biết đường ra đám cây
cọ, Mon đưa mẹ đi kiếm củi. Rồi An Tiêm và Mon, bố con khuân đá lên, lát nền và
lấp hai bên vách kín. Thành một vuông nhà tường đá, trông ra những hòn đá tảng
bậc bậc xuống phía có ánh sáng xanh những tàu lá cọ. Nàng Hoa và Gái vác về được
hai bó củi cọ, đánh lửa lên. Ngọn khói xanh xanh cuốn vào vòm đá, vừa cay mắt,
vừa thơm. Người ở đâu đun bếp cũng được khói lùa vào cay mắt, và ở đây, lần đầu
cái hang đá thấy có người đến, người ở và người đốt lửa. Buổi tối, Mon và Gái
ăn bánh xong, ngồi khơi lửa chơi một tý, rồi ngủ ngay bên cái tay nải. Mẹ kê
tay nải vào sườn che lạnh bên ngoài. An Tiêm và Nàng Hoa, hai vợ chồng ngồi bàn
tính công việc. An Tiêm nói:
- Trời này còn rét vài cơn nữa mới thôi. Giêng hai rét đài, rét lộc, núi còn lạnh,
ta ở đây cho đến khi ấm trời có mưa xuống hãy đi tìm nơi khác.
- Cứ ở đây mà đi kiếm cái ăn về có được không?
- Không được. Đẵn hết đám cọ kia thì hết nước uống.
- ờ nhỉ, vài cây cọ khô cũng chỉ đốt sưởi mấy đêm thì hết thôi. Cái rét trên
núi cao luồn vào khe đá, phả quanh người, cứ thấm dần, nửa đêm về sáng, buốt
như châm gai. Chợt có lúc đợi mãi không nghe một tiếng gà eo óc, một tiếng chó
sủa, tưởng những tiếng ấy đâu xa từ kiếp trước rồi. Càng buốt lạnh hơn. Đá được
lấp thêm kín phía trước mặt, bây giờ vòm thành cái cửa hang tò vò một lỗ vừa
người chui. Mỗi đêm, từ chặp tối, đống lửa càng cao hơn mọi khi. Nhưng ban ngày
phải hà tiện. Thế mà cũng không đủ. Bởi những cây cọ thân mủn, lửa ăn ngoem
ngoém, chỉ mới nửa đêm, đã vạc hết. Cái lạnh bò vào và lạnh từ trong đá toát
ra, cứng chân tay, không nằm, không ngồi được. Cả nhà rúc quanh cái tay nải, đợi
sáng. Sáng sớm, An Tiêm xách dao đi. Mon hỏi bố:
- Bố đi đâu? An Tiêm đáp:
- Ra rừng cọ. Đi lấy củi, Mon nghĩ thế. Nàng Hoa bảo chồng:
- Đợi chốc nữa tan sương hãy đi có hơn không? An Tiêm đáp:
- Đi sớm mới kịp được. Không hiểu kịp cái gì, Mon chỉ lúi húi đi với bố. Đến
đám cọ, trông những cây cọ khô phờ phạc, mấy hôm đã chặt vãn, chẳng còn mấy. An
Tiêm bảo Mon: 99 100
- Con vơ những tàu cọ kia rồi buộc lại. Bố đẵn cây cọ này.
- Bỗ đẵn làm củi à?
- Không, làm giường, làm vách, cho ấm hơn.
Mon không hiểu bố làm giường, làm vách thế nào. Nhưng Mon không hỏi thêm, mà chỉ
cắm cúi nhặt, vơ lại, rồi lên gối buộc thành một bó. An Tiêm đẵn một lúc ba cây
cọ đã chọc nước. Rồi xả ra từng mảnh, chỉ còn cái thân dài, nhẵn cả hai mặt.
Loay hoay gõ, tước cộc cộc, đến lúc thấy sương xuống lạnh buốt hai mang tai, biết
đã chiều. Cũng vừa xong, bố con ra về, vác theo củi, cả những mảnh thân lá cọ. ở
hang, trong khi Nàng Hoa thổi lửa nướng bánh, An Tiêm và Mon lục cục lát những
mảnh cọ xuống mặt đá. An Tiêm đặt lá xuống trước, rồi phủ lên từng thanh cọ một.
ở cả ba phía vách đá ngoài lại kê ván dựng, trông vào đống lửa ở giữa, thành
hình tươm tất một mặt ván như mặt nhà sàn, có vách tựa. Lửa vừa to ngọn, mọi
người ngồi xuống. Mon và Gái thử đặt lưng vào cái giường mới. Nằm lên thanh cọ
phẳng thấy ấm, khác hẳn cái lạnh mặt đá. Những tàu lá cọ ở dưới làm bồng bềnh mảnh
cọ, không khấp khểnh được. Thế là trong hang đá có sàn tử tế, như ở nhà, cũng đỡ
lạnh. An Tiêm nói:
- Dù ở hang thì mình cũng là con người, phải có chỗ ăn chỗ nằm tử tế. Ngọn lửa
đương đượm. Khói nghi ngút đầy hang. Những thân cọ đỏ hỏn. Nàng Hoa nói:
- Cái củi ọp ẹp này chỉ một lúc thì tàn. Ngủ sớm đi, còn ấm. Mon nằm trên những
mảnh cọ cạnh đống lửa nhìn vẩn vơ lên vách đá. Vách đá có nước hay sao mà thấy
cứ nhấp nhánh. ánh lửa càng cao thì đá càng nhấp nhánh vòng rộng ra. Rồi trông
thấy nước chảy loang loáng cả đến chỗ đầu ngọn lửa đương bốc lên. Nhưng, không
hiểu sao, không thấy giọt nước nào rơi xuống. Mon bảo bố:
- Trên vách đá có nước, bố ạ. An Tiêm nhìn quanh rồi nói:
- Hang này không có nhũ, phải có nhũ mới có nước.
- Nước kia kìa. An Tiêm ngẩng lên nhìn, rồi cười, nói:
- Rắn đấy.
Cả Mon và Gái sửng sốt đứng dậy. Nhưng đứng cao, gần đụng chỗ nhấp nhánh ở mái
đá, lại ngồi thụp xuống. Bây giờ mới trông thấy những con rắn đương bò vằn vèo
trong khe đá mà mình rắn nhấp nhánh, thoạt nhìn cứ tưởng nước chảy. Những con rắn
ở các phía vách đá luồn dồn cả đến trên ngọn lửa, chốc, những cái đuôi lại thò
xuống, như đuôi chuột. Gái bưng tay lên mặt, không dám nhìn. Rắn đậu tụ thành một
mảng to như cả mặt vách đá nhấp nhánh. Mon rút mảnh cọ dưới chân, muốn chọc lên
cho nó rơi xuống. Phải đánh rắn. Không đánh, có lúc nó cắn mình. Nhưng An Tiêm
đã nói:
- Con trăn, con rắn mùa rét thì hiền lành, chẳng làm hại ai đâu. Suốt mùa này
nó cuộn tròn ngủ khì trong hốc đá. Thấy lửa ấm thì mò đến. Nó cũng rét, muốn sưởi
ấm như mình thôi.
Nghe bố nói thế, Mon và Gái ngồi lặng lẽ nhìn đàn rắn bò trên vách đá. Những
con rắn đến cả phía trên ngọn lửa rồi nằm im, vết nhấp nhánh bây giờ như những
cái mắt đá. Không ai nghĩ đến có rắn ở cạnh mình nữa. Mon buồn ngủ, rồi ngủ thẳng
một giấc đến sáng. Khi thức, đã thấy bố ngồi nướng bánh. Nhưng đầu tiên Mon
trông ngay lên vách đá. Những con rắn được chỗ có hơi lửa ấm, nằm yên, có lẽ những
vết nhấp nhánh đã thôi lung lay từ đêm qua. Ngày lại ngày, không còn ai ngó
ngàng đến lũ rắn nằm sưởi nhờ người trên vách đá. Bởi vì, người ta còn những nỗi
lo khác, lo hơn. Nàng Hoa nói:
- †n hết chiếc bánh này thì chỉ còn ba cặp bánh nữa thôi. Tuy nghe mẹ nói thế,
nhưng trẻ con cũng chưa biết lo. Chỉ có An Tiêm và Nàng Hoa, từ hôm trước, đã
thường bàn bạc, lo lắng. Cái lo khi chưa đến thì còn nhẹ nhàng nhưng bây giờ cứ
mỗi hôm một xiết lại. Nếu ở rừng, có thể tìm ra nơi đất thịt hun làm bánh ngói
ăn tạm được. Nhưng trên khe núi, một nắm đất mủn cũng không có, ngày kia, ngày
kìa không còn gì ăn, sống bằng cách nào? Mấy lần, An Tiêm bảo Nàng Hoa:
- Hết cái rét này, ta sẽ vào phía trong đảo, tìm đến nơi có rừng thì mới có thể
kiếm ra cái ăn được.
Nàng Hoa cũng hy vọng thế. Sự tin tưởng của Nàng Hoa vào những tính đếm của chồng
cũng làm nỗi lo vơi đi. Nhưng bao giờ mới đến ngày nắng ráo? ở trên núi quanh
năm mù mịt trong gió hú, ngày và đêm cuốn đi, nếu ngày nào không có một lúc hửng
sáng trong làn sương đục vào lúc xế trưa thì không ai biết có ngày nữa. Mỗi
ngày nỗi lo lại ló ra. Lương cạn rồi mà ngày nào cũng âm thầm thế này. Nhưng có
một cái lo hơn lại đến trước. Hết nước. Mon xuống lưng núi, chặt cọ. Chặt đến
hai cây cọ mà nước chỉ ra nham nháp. Mấy hôm trước, nước cây cọ phun như vòi.
Bây giờ không lên nổi một giọt. Không hiểu tại sao. Mon chạy ngay về, bảo bố thế.
An Tiêm xuống, trèo lên chặt luôn mấy cây. Chặt đến cả ngọn, cả bẹ, cũng chỉ có
nước nham nháp. An Tiêm nhớ ra bao giờ cũng đến cuối năm khi mùa khô tới, nước
ngược từ trong đất lên nuôi cây. Nhưng đến khi bắt đầu măng mọc, chớm có mưa mới
và có sấm, nước trong thân cây cũng vừa cạn. Ai xưa nay đi rừng kiếm cái ăn cái
uống làm miếng sống đều biết như vậy. Bọn cây cọ này cũng như thế chăng? Nhưng,
nếu thế thì điềm cạn nước trong ống cây cũng là lúc trời sắp mưa? Trong cái khó
khăn nhất, sẽ thấy được chỗ nút cởi. Hết nước trên mặt đất và trong cây thì trời
sắp mưa. Phải thế chăng? Đêm núi hoang dại, không một tiếng động - cả tiếng dế,
tiếng kiến cũng không nghe thấy ở núi đá. Con kiến, con dế cũng chưa dám đến, ở
đây đêm cứ thăm thẳm thế này. Mọi khi cũng biết thế, nhưng đêm nay, đêm không
còn nước uống, đêm càng sâu hơn, rợn hơn, khiếp hơn. Quanh trên đầu, những cơn
gió ở đâu lại chồm đến, đuổi nhau, chạy phần phật bốn phía rồi gào lên, tuốn
đi, hòa với trăm nghìn vạn tiếng gió khác, như kéo cả triền núi bay theo.
Đang ầm ầm, lại bỗng nín im, chùng xuống, nặng chịch. Rét cong sống lưng. Rét lắm.
Bao nhiêu đêm thế rồi. An Tiêm nhìn ra cửa hang, vẫn tối bưng mắt như mọi đêm.
Không một đốm sao. An Tiêm ra lấy củi. Đốt nữa, đốt cho trông thấy ánh lửa dập
dờn lên, đỡ hiu hắt. Nàng Hoa hỏi An Tiêm:
- Mình vẫn thức à? Nàng Hoa nói to:
- Đá sao mà đổ mồ hôi, ướt nham nháp cả, mình ạ. An Tiêm quờ tay ra. Mọi khi đá
khô khốc, lạnh tê, bây giờ đá ướt nhầy nhụa dưới tay. Trở trời rồi. An Tiêm lắng
nghe vách đá trên đầu có tiếng rào rạo như tay ai cầm một nắm sạn cọ vào nhau.
Đấy là tiếng trăn, tiếng rắn đang bò. ánh lửa hắt lên, thấy trong khe những
mình rắn nhấp nhánh đuỗi dài, không cuộn tròn im phắc như mọi khi. An Tiêm bảo:
- Đá đổ mồ hôi, thế là trở trời rồi. Mọi khi, những con rắn có lửa sưởi ấm thì
im thít, bây giờ vừa nồm một cái, lửa lên đã cựa quậy, không chịu được nóng, muốn
bò đi nơi khác. Mình trông lại mà xem. Nàng Hoa không nhìn đám rắn trên đầu, mà
chỉ hỏi:
- Trở trời mà rắn bò xuống đây thì thế nào?
- Không sao. Nàng Hoa cũng chưa đỡ lo, nhưng An Tiêm đã nói câu khác, như mong
mỏi, như dè dặt:
- May ra thì có mưa. May ra... Nàng Hoa chợt nhớ ngày trước:
- Kể ra còn ở Bãi Lở thì dạo này cũng đến cữ mưa mới rồi. Không ai nói rõ hơn nữa,
mà cùng nghĩ: mưa xuống thì có nước uống. Từ đấy đến sáng, thức và lặng im. Mọi
ý nghĩ của hai người đều ngóng ra ngoài trời đêm. Nhưng cửa hang như cái miệng
giếng, chỉ thấy đen dày, mù mịt. Một lúc, chợt mờ mờ qua cửa hang như một làn bụi
sương. Mon nhỏm dậy, hỏi bố:
- Sáng rồi, hả bố? An Tiêm đặt tay lên vai con, ngước mặt và hỏi:
- Con nghe tiếng gì đấy không?
- Không.
- Tiếng gió đấy.
- Gió mọi khi hú to lắm mà.
- Không, gió đông, gió đông khác gió bão. Gió đông chỉ vờn khe khẽ, nghe kỹ mới
thấy. Có gió đông về thì ấm rồi. Mon lắng tai nghe xem gió đông thổi khác gió
đêm qua thế nào. Nhưng Mon lại nghe những tiếng ùng ục nổi từ đằng xa. Mon reo:
- Gió đông đương kêu ùng ục, phải không bố? An Tiêm đứng lên, cười như reo và
nói:
- Không! Sấm đấy! Sấm! Sấm mới rền ở bên kia núi. Thế là đương mưa ngoài bể.
Đương mưa ngoài bể rồi. An Tiêm bước ra cửa hang rồi lại quay vào ngay.
- Mưa sắp đến đây. Cả cái Gái cũng đã thức. Gái nói:
- Mưa thì có nước uống, mẹ nhỉ! Nghe câu Gái hỏi, ai đương khát nước cũng động
lòng, cả nhà xôn xao lên. Bên ánh lửa nhấp nhóa trong hang, người bộn rộn, cứ
ngồi đứng lố nhố trông ra. Một làn sương mỏng vẫn phủ cửa hang, nhưng bây giờ
nghe và nhìn trong thinh không, cảm thấy từ bên kia núi đưa sang một đám mây
mòng mọng, tưởng như có những ông sấm đương ầm ầm chạy quanh. Đám mây nước đã
tràn qua hết ngọn núi sang bên này. Mọi người đều cảm thấy một cơn gió vừa mát
vừa ấm hây hẩy vào hang, khác hẳn cái gió hanh hao mọi khi. Rồi còn những ông sấm
đằng xa, mỗi ông lại rền một tiếng ở một góc trời, các ông sấm cũng mừng sắp có
mưa mới đầu năm. Tiếng ào ào xa xa gần gần! Mưa rồi, mưa tới rồi, mưa tới ngay
cửa hang rồi. Những hạt mưa to lúc đầu rơi chan chát xuống đá bỗng ào ào xối một
chặp liền. Nàng Hoa và Gái, cả Mon xô ra cửa hang, tíu tít, luống cuống giơ hai
bàn tay hứng mưa, vốc lấy mưa. Những hạt mưa lẹt đẹt trên bàn tay, ai cũng mút
tay chùn chụt. An Tiêm ra sau, đặt cái ống cọ hứng nước, lại cầm theo cái tay nải
không ném xuống bờ đá. Mưa lộp bộp trên cái nải. Mon hỏi bố:
- Bố giặt tay nải à?
- Không, để tay nải thế cho nước thấm, lấy cái mà trữ nước uống tạm.
Hai anh em Mon không có cái lo ấy mà cứ tưởng tượng được mưa to và có lẽ từ giờ
ở trên núi cứ mưa to mãi, lúc nào khát chỉ việc chìa tay ra hứng. Mưa mới, mưa
to lắm, mưa lâu thật. Tiếng rào rào liên miên đan khít hai bên tai. Cửa hang
không tối nữa, mà bây giờ mù trắng bóng nước. Tạnh mưa, ngoài hang lộ ra một miếng
trời còn mọng nước lóng lánh. Trời đã sáng từ bao giờ không biết. Bước ra, thấy
trời và 109 110 núi hơn hớn như chú bọ ngựa xanh rờn vừa lột xác, khác hẳn con
bọ ngựa già hôm qua. Trời quang rồi, phía nào cũng trông thấy núi đen sẫm, chạy
dài hai bên đuôi mắt. Nhưng không còn cảm nỗi ghê rợn như những hôm trước.
Trong tiếng gió đông giỡn qua, mặt trời chói lọi chiếu vào lớp lớp núi đá vừa tắm
mưa xong, lấp lánh muôn ngàn vết sáng kỳ lạ. Những ngọn gió đông từ những vùng
trời xa xôi nào đến, giỡn trên những khe đá, những hang, những vực, tiếng vờn,
tiếng vui, khiến con người bỗng nhiên không còn cảm thấy ngập trong nỗi lo sợ
tuyệt vọng nữa, mà thấy như đâu đây, thiên hạ đâu đâu cũng có người, tiếng vang
tiếng ấm của con người từ trong bờ quê, sông quê đem đến trong tiếng gió những
hy vọng khác thường. An Tiêm bước ra đứng trên một tảng đá lớn nhô ngay dưới
mái hang. Nàng Hoa nhìn theo, thấy An Tiêm đương vẫy tay. Nàng Hoa và Gái với
Mon cùng ra trèo lên. Một niềm vui lạ lùng đến trước mắt: mặt đá hũm chỗ chân đứng
đã thành cái vũng đầy nước, lấp loáng ánh mặt trời. Không ai bảo ai, cả nhà cúi
uống ngụm nước mưa mát lạnh. An Tiêm trỏ tay lên bốn phía, nói:
- Chỗ nào có tảng đá to sang sáng là có hũm nước trên nóc. Trời cho ta những
cái giếng nước kia đấy.
Mon nhìn mấy tảng đá gần thấy trên nóc đều đọng nước, bóng mặt trời sáng chói.
Có hũm sâu như hang, trong có rêu. Đã lâu, rêu khô xác, bây giờ nước xuống, những
nạm rêu khô lại xõa ra, mềm lụa xám mờ dưới đáy nước. Mon và Gái chạy chuyền
các mỏm đá ra xa, còn thấy nhiều cái giếng trời như thế. Mon về bảo bố:
- Nhiều giếng đá lắm. Chẳng cần cái tay nải thấm được vài ngụm nước của bố đâu.
Chiều hôm ấy, An Tiêm bàn với Nàng Hoa:
- Nhiều nước mưa thế này, lại còn mưa suốt mùa hè nữa, ta khéo giữ thì ta có nước
uống quanh năm. Không sợ chết khô trên núi đá như bọn nhà nhái bén nữa. Có cái
uống, nhưng ở núi đá thì chẳng kiếm được cái ăn. Ta cũng không thể ở mãi chỗ
núi đá trọc thế này. Bây giờ đã sang mùa ấm, có nắng, ta tìm ra trước mặt xem
chỗ nào có rừng. Phải thấy rừng mới kiếm được cái nuôi sống người.
3
Thế là, một ngày kia, cả nhà An Tiêm rời đỉnh núi đá, đi tìm
rừng. Tan sương sớm đã ra khỏi hang đá - như khi mùa lạnh đã qua, đàn rắn bỏ
nơi tránh rét, bò ra kiếm ăn đàn rồi. Ra đi, tràn đầy hy vọng. Nhưng thật là chỉ
cầu may. Vì đi người không.
Chỉ còn lại góc bánh dày đã lên mốc xanh. Bánh đã hết từ lâu, nhưng vẫn cố giữ
mấy miếng. An Tiêm đi trước, lưng giắt con dao. Mon theo bên bố. Gái bước cạnh
Mon và Nàng Hoa, vắt cái tay nải nhẹ nhàng trên vai. Mỗi bước lại phải chuyền
qua một vong đá. Nhưng Nàng Hoa và Gái muốn đi dấn mau nữa. Trong cảnh khốn
cùng, mọi người cứ muốn tưởng tượng như có ở đằng kia những cảnh làm ăn, có đám
trảy hội. ấy bởi từ lúc xuống đến lưng núi, đã trông thấy một lằn viền rừng
xanh đằng xa. Bao nhiêu ngày ròng rã rét mướt ở hang, nằm trong mây mù u ám như
dán liền lên trời! Bây giờ, trong nắng hẩng, những cánh rừng sáng xanh lờ lững
dưới kia, nghĩ như trong ấy được nghe thánh thót tiếng chim. Nhưng mẹ con Gái
không thể chuyền như sóc chạy trên đá, mới xuống đến lưng núi, bụng chân đã tức
anh ách. Rồi mặt trời ngả phía chân rừng, cái lạnh nhuốm vào hai vai áo, mà rừng
còn xa, hãy còn lửng lơ giữa dốc. Chỗ ấy không có cây tiện trèo tìm nơi ngủ kín
đáo. Cả nhà đi kiếm rêu đá, chất đống cao như gò rơm. Rồi nhen bùi nhùi, đốt
lên, rực một vùng ánh sáng, khiến người quên cả bụng đói trong veo. Nàng Hoa bảo
các con:
“Mọi khi ở hang, mẹ thấy đá sắp sập xuống, hôm nay ngủ được thấy có trời cao
trên đầu, dễ chịu hẳn". Sáng sớm, lại đi từ lúc còn sương mù. Gái bảo Mon:
- Có mùi thơm thơm trong sương. Mon nói:
- Như mùi hoa tầm xuân. Gái cười:
- ở đây có hoa tầm xuân à?
Mon cũng cười, không trả lời được. Một lúc, trông ngang mắt, thấy đỏ hồng như một
rừng đào. Nhớ ngày nào, thuyền ra cửa sông, thấy rêu đá đỏ hắt chân trời. Đến gần,
không phải rừng đào, cũng không phải rêu đá. Quả nhiên đấy là những bụi tầm
xuân mọc liền thành rừng. Bụi tầm xuân từ bao giờ mọc lên, những khúc dây quấn
quít cuồn cuộn cao như tường. Đương vào mùa hoa tầm xuân, khắp nơi, ửng màu hồng
nhạt. Hoa tầm xuân, hoa hồng dại, các cõi đất quê ta, đâu cũng có, từ triền Tam
Đảo xuống qua vùng đồng bãi hai bên sông Cái sang đến vườn Tản Viên, ngoài rừng
tre rừng mía, những bờ bụi tầm xuân nở đầy. Thế ra ở đảo hoang đây cũng có tầm
xuân đến trước người, như ở bờ sông Cái. An Tiêm nhìn Mon, rồi nói:
- Con nhớ được mùi hoa tầm xuân này ở Bãi Lở, giỏi đấy. Phải, nơi này cũng như
quê mình, cũng có hoa tầm xuân. Hoa tầm xuân nở thì hết mùa lạnh. ở Bãi Lở, thế
là lại sắp đến mùa nước, lại lo đấy. Các con ạ, sau này ta sẽ đưa người ra đảo
mở đất, rồi đây cũng thành như Bãi Lở ở sông Cái. ừ, có khi sau này... Mon góp
chuyện với bố:
- Khi ấy con đã lớn bằng những người theo bố mẹ lên ngược lập làng đánh trâu nước
lấy bãi, lấy đất ở sông Cái, con cũng theo bố mẹ... An Tiêm cười:
- Khi ấy thì một mình con đem dân ra đảo được rồi. Từ chỗ gặp cây, đường đỡ quạnh
quẽ hẳn.
Những bụi tầm xuân rồi lác đác những bụi cây có hoa không biết tên, cái đỏ cái
vàng cái tím cái trắng xôn xao chen quanh bước đi và trong tầm mắt. Đã qua những
rừng tầm xuân, một lúc sau lại đến trước những cây lớn chen gốc nhau, cành lá
và dây leo kín mặt đất. Những tòa cây kỳ lạ, xanh đen, xòa lá như ngồi xổm mà
ngửa mặt lên cao xanh, như những cây bứa cành ngang thân thẳng đứng, trông lên
đến hết ngọn vẫn chỉ thấy thăm thẳm im lặng. Cây ngồi, cây đứng ken liền. Cả
nhà phải đi lên lưng chừng cây. Nàng Hoa và Gái bấm chân bám bíu từng cành rồi
mới dám men sang cành khác. Vướng. Váy áo mẹ con rách lướp tướp. Sang đến bên
kia, xuống được mặt đất, ai cũng lem luốc nhọ cả đến tròng mắt. Hai đầu gối xuống
dốc dồn muốn khuỵu.Nàng Hoa đứng vịn tảng đá run lẩy bẩy, một chốc mới gượng lại
được. Trời tối ngay ở chân dốc. Trông thấy cảnh rừng thưa trước mặt. Đêm nay đốt
nhiều lửa hơn. Những đống lửa chồng đống. Khói cuồn cuộn, những ông sao cũng lấp
láy muốn trôi theo khói. Nàng Hoa và Gái mệt nằm lả. An Tiêm ngồi đốt củi, nghĩ
thương vợ con, cứ chuyện cho khuây.
- Mình nghe tiếng gì không? Nàng Hoa hé mắt, lặng im.
- Tiếng suối chảy trong rừng trước mặt. Ta gặp suối rồi. Mai ta sẽ đến suối, lấy
nước suối uống. Ta sẽ làm nhà ở ngay đầu con suối. Nàng Hoa mỉm cười, An Tiêm lại
nói:
- Mình ạ, lúc nãy đi lấy củi, tôi nghe có tiếng hươu kêu. Mon nói:
- Con cũng nghe tiếng, gần lắm. Mon hí hửng tưởng bây giờ có tiếng hươu, có thể
đi bắt ngay. ở rừng bắt hươu như thò tay vào xó cửa bắt con gà, làm sao có thể
chết bên cạnh miếng thịt được. An Tiêm và Mon còn kể chuyện vui một lúc nữa.
Chuyện ngày trước ở Bãi Lở, khi mới đến. An Tiêm dang tay bá cổ hươu mà hươu
cũng không chạy. Chuyện ấy, hôm nọ kể đã nhiều lần, thế mà lần nào kể lại, lần
nào cũng thấy lý thú. Nhưng Nàng Hoa và Gái chỉ còn gượng vui trên nét mặt,
không thể đáp chuyện. Đống lửa vẫn rừng rực, đến khuya không còn nghe tiếng người
nói nữa. Những cơn ngủ thiếp, lử lả bên đống lửa. Sớm hôm sau, An Tiêm bảo Nàng
Hoa:
- Tôi đốt lửa thêm cho mình nằm đây sưởi. Mình ở đây với con Gái, tôi với thằng
Mon đi tìm cái ăn và đem nước về, gần thôi. Trong những đốm cỏ xanh đằng xa có
cái gì đụng đậy, nhấp nhô. Mon chớp chớp mắt. Những cái bóng vẫn nhô nhốp trên
tảng đá.
- Bố ơi!
- ...
- Đằng bãi cỏ... An Tiêm chăm chú nhìn rồi nói:
“Xuống gần nữa mới rõ. Con gì thì hay quá". Rồi bố con leo xuống. Mon reo:
- Hươu! Hươu! An Tiêm cũng nói to:
- Trời ơi! Của rừng đây rồi.
Trong búi cỏ có một đàn hươu đang giỡn. Con hươu đực đốm sao, cặp sừng kềnh
càng trên đầu, hếch mũi nghe ngóng. Mon rón rén. Đàn hươu vẫn vừa giỡn vừa gặm
cỏ. Trong đám, rộ lên những tiếng kít kít nho nhỏ mỗi khi hươu chen nhau nhảy
quanh tảng đá. Mon đã đến gần lắm. Mùi hươu tỏa ra ấm sực nức. Rồi Mon đứng
lên, dang hai tay, đi vào. Mấy con hươu đương đùa nhau bỗng đứng lại. Thoắt một
cái, hươu rút chân, chạy như gió cuốn. Cả đàn hươu chạy theo. Mon tưng hửng, đứng
trơ. Hai bố con nhìn nhau. Đột nhiên, không để đâu hết lo. Mẹ và em đương đói lử
lả đằng kia, hôm nay nữa mà không được miếng ăn thì... Cả mình nữa, mắt nhìn đã
vàng lóe... Bố con tạt sang rừng khác. Tưởng như trong các cánh rừng, những con
hươu đã biết tin có người đến bắt hươu - vô khối dấu chân chạy mới chồng lên
nhau, dấu chân nặng vết ngắn, sâu hằn, thoạt trông cũng biết nhiều đàn hươu vừa
chạy qua đây. Nhưng không thể đuổi được. Mon đã thấy nhược lắm. Bố vẫn cắm cúi
đi. Mon cố theo. Biết Mon mệt, đói, chốc An Tiêm lại đứng lại, đợi con. Mon biết
ý bố, nhưng Mon chỉ nhìn bố, rồi lại cố đi. Hai bàn chân dần dần, lải rải...
Mon đứng lại. Mon gọi:
- Bố ơi! An Tiêm đứng, cúi xuống.
- Bố trông cây này... cây gì... An Tiêm reo:
- Cây ngót! Mon nói:
- Cây ngót như ở bờ sông Cái ấy a?
- ừ, cây rau ngót như ở bờ sông, nhà mình vẫn nhặt ăn. Trong rừng thưa, đất ẩm
kín mủn lá. Những cây lá ngót mọc thành vạt dài, thấp củn, ken dày, thoạt trông
tựa lá han, lá ké, không nhận ra
- nhưng trông kỹ, những cây ngót thật khác. Cây ngót rừng, thân lẳng khẳng, lá
xanh mờ, mới nhìn đã ngon mắt, biết là ăn được, khác hẳn những lá thuốc hay lá
độc. An Tiêm nói:
- Thế là sống rồi! Lấy lá ngót về ăn tạm, con ạ. Hai bố con hái được hai ôm to
rau ngót. Lại ngắt lá dong rải ra, lấy dây buộc lại, mỗi người đeo một ôm về.
Nàng Hoa và Gái vẫn nằm thiếp cạnh đống lửa đã vạc. Nhưng nghe tiếng người,
Nàng Hoa mở mắt, khẽ hỏi Mon:
- Bố đâu? Mon đáp:
- Bố còn ra suối lấy nước.
- Suối gần hay suối xa?
- Tiếng suối nghe róc rách từ đêm qua ấy. Nàng Hoa nhớ đêm qua có nghe như tiếng
gió thổi trên ngọn cây. Mon nói:
- Được cái này ăn rồi. Mon mở gói lá. Nàng Hoa nhìn, nhưng mắt mờ, không trông
rõ. Nàng Hoa khe khẽ hỏi:
- Cái gì thế? Mon nói:
- Lá ngót, mẹ ạ. Mon buộc cả ôm lá ngót bọc mấy lần lá dong, lại quấn dây vào.
Mon khều lửa, vùi cả bọc vào giữa đám than đương còn đỏ. Mon hầm lá ngót. Một
lát, Mon lôi bọc lá dong đã cháy thui trong đống than ra. Mon gọi mẹ, gọi em:
- Dậy nào! Dậy nào! Mon xốc Gái lên. Trông mặt em thiểu não quá. Nhưng có lẽ bởi
Mon là anh, Mon phải cố thế thôi, chứ Mon cũng đói rét cả bụng đây. Mon mở gói
ra. Mon hầm rau khéo quá. Đám lá dong bọc ngoài cháy đen vừa bén đến lá ngót.
Cái lá hầm chín nục, bấm ngón tay đã đứt đôi, bốc khói thơm nghi ngút. Nàng Hoa
ngồi dậy, tay vén làn tóc xõa và khẽ hỏi con:
- Bố vẫn chưa về à? Vừa lúc ấy, An Tiêm đang bước tới trước tảng đá. An Tiêm quảy
trên vai một bó cây trúc, hai đầu buộc hai túm lá dong
- đựng nước suối. Từng giọt nước nhỏ theo bước đi. An Tiêm mở một miệng gói lá
như cái gàu nước, đến trước mặt Gái:
- Con uống hớp nước cho tỉnh. Hai mẹ con Gái uống. Nước suối trong mát ngọt như
được ăn đẵn mía. Uống rồi mà còn tóp tép miệng. An Tiêm nói:
- A, nướng rau ngót rồi à? Thơm quá. Rau ngót nướng ăn ngon lắm đấy. Nướng nốt
bọc ngót này nữa.
Bữa xuống rừng đầu tiên ăn toàn rau ngót. Thế cũng hay, đi một quãng nữa thì đến
đầu con suối, chỗ mình định làm nhà, gần thôi. Khói lá ngót nóng nhừ, bốc lên
mùi bùi bùi. Đói quá cũng không ăn được. Nàng Hoa và Gái chỉ nhấm từng chiếc lá
chín. Mon khác, Mon thấy đói ghê, Mon bỏ vào miệng từng nắm to, gần như nuốt chửng.
An Tiêm nói:
- †n xong rồi chốc nữa ta về nơi ta ở. Chiều hôm nay Gái vào rừng với anh mà kiếm
rau, chỗ gần suối nhiều ngót lắm, bố trông thấy rồi. An Tiêm lại cầm bó trúc
lên:
- Chỗ ấy có cả rừng trúc này. Thế là có cái làm nhà rồi. Có trúc thì thế nào
cũng tìm ra tre. Rồi có mai, có nứa, có vầu. Được những thứ ấy thì nhà mình có
đủ tất, đủ cả nồi thổi nấu, chẳng khác nhà ở Bãi Lở. †n hết lá ngót, Nàng Hoa
và Gái thấy khoẻ khoắn lại. Thế là cả nhà lại đi. Đã sang rừng phẳng, không phải
leo như những hôm trước. Thoạt trông thấy mặt suối óng ánh. Nàng Hoa và Gái ùa
đến. Chẳng khác lúc bố con An Tiêm thấy cái suối, chạy vội lại, như bao nhiêu
năm mới thấy. Hai mẹ con rối rít vục tay, hắt nước lên mặt một thôi một hồi.
Cho mát lạnh đến cả hai tròng mắt, bấy giờ mới ngẩng nhìn xung quanh. Mon đứng
im, chăm chú nghe, rồi hớn hở hỏi:
- Cả nhà có nghe tiếng gì không? Gái nói:
- Tiếng suối đấy.
- Không phải.
- Chịu.
- Tiếng ve! Tiếng ve kêu! Nghe thấy chưa? Tiếng ve! Mọi người lắng tai, nghe lẫn
trong tiếng suối róc rách, nếu không để ý kỹ không biết được, từ nguồn nước xa
đưa lại tiếng con ve núi giọng kim kêu lanh lảnh. Tiếng ve núi giọng kim trong
vắt, thường núi nào cũng có ve kêu lúc xẩm tối dưới gốc cây, ve kêu nửa đêm
trên lưng cây. Nhưng bao nhiêu lâu nay, Nàng Hoa và Gái với An Tiêm và Mon nữa,
mới lại được uống ngụm nước suối, mới lại nghe tiếng mõ con ve. Bỗng thấy lạ
quá, sửng sốt, thế rồi lại tưởng vẫn như ở Bãi Lở ven sông Cái ngày nào. Dù
sao, cũng thấy sống rồi. An Tiêm điềm nhiên nói, như mọi việc hằng ngày vẫn thế:
- Con ve kêu có buổi. Bây giờ ve kêu vậy là chiều rồi. An Tiêm lại trỏ tay:
- Nhà ta sẽ cất trên lưng chừng cây kia. ở đây không phải chỉ có vết chân hươu
thôi, mà cả vết hổ, vết gấu, vết trâu. Phải ở cao thế mới được. Ta sẽ cất một
cái nhà cẩn thận, mà đẹp. Khác gì ở Bãi Lở nào!
Nắm lá ngót đem cái khỏe lại cho người và cũng làm cho buổi chiều ấy khác hẳn tối
hôm qua. An Tiêm vác về, ném đùng xuống những cây gỗ lớn. Nàng Hoa bắt đầu nhóm
lửa. Mon và Gái mỗi đứa kiếm một ôm lá ngót nữa. Lúi húi nhặt, đem bọc vào mấy
lần lá dong rồi vùi lửa. Trong khi ấy, An Tiêm hơ lửa thui những đốt trúc. Cây
trúc già, cứng đặc ruột, chẳng khác gỗ lim. An Tiêm hun cẩn thận từng đốt rồi
vót nhọn một đầu. Cái đầu trúc nhọn hoắt, lại có ngạnh như lưỡi câu.
- Từ mai đi đâu mỗi người có cây trúc cầm tay. Nó là đòn càn, lại làm dao, làm
giáo giữ mình và kiếm cái ăn.
†n xong, thì trời vừa tối. Miếng lá ngót nướng còn ngọt miệng, vẫn bùi và thơm
lạ. Bọn lá dong thừa bây giờ đem trải ra quanh lửa làm chiếu nằm. Đống lửa lại
phần phật reo. Đêm nay vẫn trời trong và lắm sao như đêm trước. Canh khuya,
nghe tiếng suối nỉ non ngay trong bóng tối bên cạnh và thỉnh thoảng tiếng ve
kim đằng xa lại nổi từng lúc, như tiếng khèn. Mọi người thấy êm ấm lại vui vui.
Không còn những đêm lặng ngắt, chỉ có tiếng gió hú như ở núi đá mọi khi. Mon mơ
màng nhìn khói cuốn tàn lửa lên trời, lẫn lộn không biết đâu đốm lửa đâu đốm
sao. Những đốm lửa tàn giữa trời, lả tả rơi xuống xung quanh rồi tắt. Để ý nữa,
sao lại có những đốm lửa rơi đằng kia tắt rồi lại nhấp nháy sáng. Lại thêm những
đốm khác xa gần hiện ra. Bóng nước suối a? Không phải. Cứ nhấp nháy đôi một.
Bóng sao đổi ngôi đọng lại đấy a? Có thấy sao đổi ngôi xuống đâu! Cũng không phải.
- Cái gì đo đỏ đằng kia, bố à? An Tiêm bỗng khẽ kêu:
- Mắt hươu! Mắt con hươu đấy! Mắt hươu ban đêm bắt vào lửa thành hai chấm đỏ. Mắt
hổ thì xanh hơn, to hơn, sáng hơn. Mắt cáo, mắt cầy, mắt gấu xanh mờ. Hươu đây.
Chắc hươu thấy lửa, tò mò men đến. Cứ ngồi yên cả nhé, yên nhé. An Tiêm cầm một
cái lao trúc vừa vót xong, cúi rạp người, bước ra. Bây giờ càng rõ nhiều đốm đỏ,
giỡn chập chờn. Mon tưởng có lẽ đàn hươu đã gặp ban ngày. Đàn hươu đương đi vẩn
vơ quanh, nhìn những ngọn lửa kỳ dị chưa bao giờ hươu được thấy. Tất cả im phắc
- người và rừng đều im. Chỉ có tiếng củi lép bép và những đôi mắt hươu thoang
thoáng. Bóng An Tiêm từ từ rướn cao. Ngọn lao phóng vút vào bóng tối. Đằng kia,
nghe một tiếng "toác" như tiếng ống nứa nứt đêm mùa hanh. Rồi tiếng
ràn rạt trên cỏ. Những đốm sáng biến mất. An Tiêm quơ một chiếc củi lửa, chạy
ra. Mon và Gái, cả Nàng Hoa, cùng đứng dậy. An Tiêm đã trở lại. ánh lửa rừng rực,
An Tiêm bước vào, kéo theo một con hươu, cái lao trúc còn cắm xuyên chéo trên đầu
hươu. An Tiêm cười, nói:
- Khéo quá. Mai khởi công nhà mới, được con hươu ăn mừng. An Tiêm bảo Mon soi
đuốc ra ngoài bới một túm cỏ tranh. Cỏ ấy đốt lấy tro ăn với thịt hươu nướng. ở
Bãi Lở, người ta thường ăn thịt với than cỏ tranh. Các vùng ven sông không có
muối ăn như cách thức của người đường bể. Mon vừa bới nhổ cỏ vừa nghĩ đến cái
nhà sắp làm và nhớ hôm trước, ở sườn núi xuống, An Tiêm trỏ tay trước mặt, bảo
Mon:
- Con trông kìa. Một màu xanh đen cánh rừng bạt ngàn. An Tiêm bảo Mon:
- Con ạ, đứng đây nhìn xuống khác nào ở triền Tam Đảo trông ra bờ sông Cái. Các
cụ nói ngày trước rừng Tam Đảo liền từ bờ sông vào chân núi. Đến khi có người đặt
chân tới, như đất Bãi Lở mình đấy, rừng phải giạt vào núi, nước dữ phải trở về
dòng, rừng núi sông nước kia phải biết kiềng tay kiềng sức người ta đấy. Không
biết bây giờ ở Bãi Lở thế nào, lại đương mùa nước lên, mùa này đương mùa nước.
Rồi An Tiêm và Mon đến một khoảng trống có đá lẫn vạt cỏ cạnh nguồn nước bên rừng.
- Ta sẽ làm nhà ở ngọn nước này.
Nhưng cái nhà mới của An Tiêm không giống cái nhà nào ở ven sông Cái ngày trước.
Nhà ven sông bằng lau sậy, bằng rơm, bằng tre, bằng đất. Nhà ở rừng sâu thì chỉ
có gỗ và đá, ở đâu lại nghĩ ra cách làm nhà theo đấy. Chỗ ấy có mấy cây nghiến
mọc chụm quanh tảng đá. Những thân cây, những tảng đá nhỏ, đá vụn lấp chặn cả bốn
phía, đá liền với thân cây, thành một nền lửng trên có sàn gỗ. Ba phía, lấy
thân cây về ken trúc dựng đứng làm vách. Mái phủ tạm lá dong xanh óng. Một phía
trổ lỗ cửa xuống. Một cây gỗ cao, đẽo từng bậc, làm thang lên. Người vào cả rồi,
kéo dựng cái thang lên, thế là túp nhà một mình trú giữa cây, như cái tổ chim
to. Chỉ còn con gấu có thể leo cây nghiến lên được. Nhưng cả bốn phía đều có
thân cây để nấp. Đứng trong nhà mà xỉa lao xuống, con gấu chỉ có đường chết. Giữa
sàn nhà trồi lên một khoảng mặt đá, đấy là bếp. Suốt ngày đêm trên bếp được giữ
có lửa. Củi cây rừng chắc không bộp như củi cọ. Những cây củi kiếm về dựng bốn
phía, cứ việc thò tay rút. Đống lửa rấm lúc nào cũng lên khói trước mặt. Thế là
từ đây lại có nhà ở và đống lửa, được làm người như thường. Trên cột đầu nhà
treo sợi dây dài, mỗi ngày buộc một nút, đánh dấu cho biết ngày tháng. Lại bắt
được một con rùa ngoài khe đá về, đào lỗ cho rùa ở ngay bên chân cột. Cả nhà ai
cũng biết xem điềm rùa, cứ rùa thò đầu ra hay rùa nằm quay vào, biết được sắp
mưa hay sắp nắng. Con người ta phải biết tính đếm như thế. Rồi trong vườn nhà,
ít lâu sau, các đầu cột đều có lạt buộc thòng lòng xuống dài ngoẵng từng miếng
thịt hươu. Những miếng thịt hươu ướp tro rễ cỏ tranh. Ngày đêm, khói bếp dày đặc,
miếng thịt đỏ hắt rồi đen xạm, khô quắt. Thịt ấy, trữ quanh năm. Khi cạn thức
ăn, lại xẻo một miếng xuống. Bắt mỗi con thú, được thịt ăn, đem cái xương đầu
treo lên vách. Dần dần, trên cột vách lố nhố những bộ xương đầu hươu có sừng bè
ngang bè dọc, những đầu con dê núi, sừng một nhánh cong vắt như đội mũ. Chẳng
bao lâu, lại đã vào mùa lạnh. Cái rét về sớm trong rừng. Có khi mấy hôm không
ra khỏi nhà, bếp đỏ suốt ngày giữa sàn ở lưng cây. Trong khi làm nhà, tìm thêm
được mấy thứ nữa. Gái đi kiếm lá ngót ở một khoảng rừng xa. Chỗ ấy khuất, chỉ
thấy tàu lá đen sì trên những thân cây cao vút. Gái đoán cây cao thế thì dưới gốc
thoáng, chắc có rừng ngót. Gái lần vào. Đúng như vậy, những đám ngót ken kín mặt
đất.
Chỉ có cái lạ: chỗ quanh mỗi gốc cây, đất nhẵn thín, hình như có những quả như
quả trám lăn lóc. Xem kỹ, đúng quả trám. Những quả trám trắng già lổ đổ vàng,
bên cạnh vết chân hươu và phân hươu. Phải rồi, con hươu nghiện ăn trám. Ngày
trước, ở ven sông Cái thành làng đã lâu mà từng đàn hươu còn về tìm trám quanh
nhà. Vào cuối mùa mưa, cứ nghe chó cắn động gốc trám, cả xóm lại đem lưới ra
chăng kín các lối vào rừng. Có lần bắt được một lúc hàng chục con hươu. Gái nhặt
trám, bọc thành từng gói lá rồi bẻ cái gậy, quảy về nhà và kể chuyện thấy vết
chân hươu như thế. Cả mấy tháng ăn vã rau ngót và trám trắng vùi lửa với thịt
hươu nướng cũng chán miệng và sít răng. An Tiêm nghĩ cách đào lấy đất nặn bát,
nặn nồi rồi đốt củi làm than nung. Nhưng những chiếc bát đàn và nồi niêu đều vỡ
sụp, lăn ra như hòn cuội. Đất rừng ẩm, sâu ngập quá đầu người mà vẫn chỉ một thứ
mùn lẫn cuội. Không phải đất thó, đất nặn không ăn, không làm nồi, cũng không
nung bánh ngói được. Lại vẫn rau ngót và trám trắng chén tràn với thịt hươu nướng.
Khi những rặng tầm xuân bắt đầu nở trong mưa bay như mưa ra bụi hồng, mới biết
cái Tết đã qua. Đầu năm cuối năm bây giờ lại có những thói quen và dấu hiệu mới.
An Tiêm từ ngoài rừng về. Vai vác cái gì dài, xa trông như khoác ngòng ngoèo
trên cổ một con trăn. Về gần đến bên suối nước, mới nom rõ cây vầu.
- Tìm được một rừng vầu! Nhiều lắm! Đã bảo mà, có trúc thì phải có tre, có vầu,
có mai...
Cây vầu của quý này làm được hai việc mà từ khi đến đây không có. Chặt bốn đốt
vầu dài liền nhau, lấy cái lao trúc tống đá xuống lòng ống, phá thủng ba mắt ống,
chỉ để một mắt sau cùng, thế là Gái được ống vầu vác ra suối lấy nước. Kề hứng
một lát cạnh mỏm đá, đã được đầy ống, vác về dựng bên chân cầu thang. Như thế,
đêm hôm khỏi nỗi lục cục trèo xuống, mò ra tận suối lấy nước. Bây giờ chỉ việc
với tay ra ngoài vách, lôi cái ống vào, thế là khối nước uống. Nhưng được ống vầu
đựng nước chưa thích bằng ống vầu làm nồi nấu canh, nồi kho thịt. Mọi khi, đành
ăn lá ngót nướng, lá ngót hầm, quả trám và lá ngót lùi. Bây giờ, một khúc vầu,
mỗi đầu một mắt, thế là được hai ống để nấu canh. ống vầu tươi đặt nghiêng giữa
bếp. Lửa đượm than lên ngọn cả cái vỏ vầu đã ám khói, cháy xèo xèo. Cháy hết lượt
vỏ vầu, canh ngót cũng vừa sôi, nhấc liền ống ra. Canh rau ngót thơm mát lạ
lùng, trời ôi, cái nước canh ngót. Nước canh ngót này mà có cua, có hến sông
Cái... Nửa ống vầu kia để làm nồi kho thịt với trám. Có ống vầu cũng như có nồi,
bếp núc làm gì cũng tiện. Rồi thanh vầu vót làm đũa, mắt vầu làm bát, làm muôi.
Giá có gạo thì ống vầu còn làm cái lam cơm. Nhưng bây giờ thì làm thế nào có hạt
gạo, bao lâu nay không trông thấy một hạt cơm.
Mùa lạnh nữa lại tới. Đến độ rét mướt ấy thì xống áo vợ chồng con cái bạc và
rách như xơ mướp. Người đi cách một quãng, trông đã lẫn cả vào bóng đá. Chỉ cái
váy sồi nâu của Nàng Hoa và của Gái còn hơi tinh tươm. Năm trước, Nàng Hoa đã
nói:
- Mình ạ, làm sao giữ được xống áo nên hồn.
Cho khi nào trở về được còn có cái mà mặc. An Tiêm cũng vẫn có ý như thế. Cái
thắt lưng điều của bố và của con trai với hai cái khăn chàm, không mấy khi dùng
đến. Nhưng tai ác cái giống vải, chỉ để không mà cũng tã dần ra. Biết làm thế
nào! Gió núi thổi hun hút xoáy vào từng lỗ áo rách, xé thêm ra, cái rét càng
như gai châm, người đi cong gập lại, không lê bước nổi. Mới mấy hôm rét mà đã
không ai ló được khỏi lỗ cửa, chỉ quanh suốt ngày trong lều với lửa ở lưng chừng
cây. An Tiêm nói:
- Mình còn nhớ cái năm ta mới lên Bãi Lở, chưa ai trồng bông, trồng dâu được, cả
làng phải tước sợi bẹ cọ ra làm váy áo đụp thêm cho khỏi rét.
- ừ, cái sợi ở bẹ cọ rừng, nhưng còn cái kim...
- Có thể nghĩ cách làm được kim. Nhưng cọ thì ở cánh rừng này không có. Thôi,
mai nắng đi tìm thêm. ối thứ khác làm được cái mặc... Mình để ý mà xem, có phải
khi mới ra đây, tưởng không bới đâu được thức gì, thế mà rồi vẫn có. Cả mấy
ngày ấy, ai cũng vơ vẩn đi tìm. Một hôm, ở rừng về. An Tiêm mừng rỡ, chưa chui
vào cửa, đã nói to:
- Tìm được rồi.
- Cái gì, hả mình?
- Vỏ cây sui.
- à vỏ sui, đây cũng có cây sui à? Vỏ cây sui để làm xống áo cũng không lạ đối
với người đã ở Bãi Lở.
Mới đến Bãi Lở, người ven sông còn thưa thớt lắm, đàn ông chỉ độc một cái khố,
trẻ con thì trần truồng quanh năm. Đến mùa lạnh, các chòm xóm xô vào rừng lấy vỏ
cây sui đắp vào người, mùa lạnh nào cũng thế. Khi An Tiêm lên mở đất Bãi Lở,
Nàng Hoa đem theo nghề trồng dâu chăn tằm, kéo kén, dệt sợi rồi lại trồng bông.
Từ đấy, người Bãi Lở có vải, có sợi gốc, biết nhuộm nâu, nhuộm chàm, biết dấn
bùn cho thâm xống áo. Bây giờ, lại như ở Bãi Lở ngày nào, vào rừng tìm vỏ cây
sui. Không ngờ cuộc đời lại có khi ngược nước như thế. Cây gỗ sui mọc hóc hiểm
trong khe ẩm hơi đá tối hốc sâu. Cây sui ấy cao mấy đầu người, lá rợp mặt đá.
Không trông thấy gốc, đến gần vẫn tưởng đấy là bụi cây dại. Vì thế, đã có khi
trông thấy nhưng chẳng ai hơi đâu mò vào để cho con rắn, con trăn tưởng vào
trêu nó. Lại có khi lá han xát ngứa móc thịt ra. Thế mà An Tiêm đã lần mò tìm
được. Lấy dao khía vỏ cây sui, bóc ra, đem về. Mẹ con Nàng Hoa, mỗi người quảy
một gánh nặng. Vỏ sui phơi trên mỏm đá, những ngày nắng, khô rắn như mo nang.
Lúc ấy, lấy đá ghè kỹ như người đập vải. Vỏ sui mềm dần, rụng lần vỏ ngoài, còn
lại một lớp sợi tơ ra như sợi bông, bết thành nạm trắng xám, càng phơi, nạm tơ
sui càng kết lại. Được mấy nắng. Nàng Hoa đem vào, xé cho cả nhà, mỗi người một
mảnh. Xé rồi buộc, Nàng Hoa buộc thật khéo. Miếng nách buộc lên vai, lại khoanh
lưng mấy nạm, vắt lại, vạt trước vạt sau không còn một chỗ hở. Riêng vạt trước
xòe xuống có miếng vỏ sui dày phủ kín đầu gối. Thừa bao nhiêu, buộc từng mảnh,
thế là mỗi người còn được cái chăn đắp. Váy áo vỏ sui trắng bệch, trắng xám, ai
trông cũng lúi húi, lọm khọm như nhà gấu trắng ở núi. Tuy vậy, ấm như khoác cái
sưởi trên người, chỉ một lúc đã quen như mặc xống áo thật. Nhưng, Nàng Hoa nhìn
chồng, nghĩ mà thương. Dễ thường người già đi rồi hóa gấu thật. Bao lâu rồi,
tóc An Tiêm dài quá lưng, kín tai, chỉ còn hai con mắt lay láy giữa bộ râu quai
nón lốm đốm bạc mọc trùm lên cả đuôi mắt. An Tiêm cũng thấy vợ thật đáng thương
hại. Mẹ con nhà nó vất vả quá, lam lũ quá. ở Bãi Lở cũng chỉ gian nan có thoảng
có thì. Bây giờ vì mình mà mẹ con phải chịu đi đày đến chốn bơ vơ thế này. Thằng
Mon đụp cái áo sui đến đầu gối, lụ khụ như ông cụ. Nhưng nó phóng lao trúc khỏe
lắm đấy. Mon cứ ra rừng là y như phải kéo theo về, có khi cầy hương, có khi
nai, có lần Mon chạy về gọi cả nhà ra khiêng con nai to quá. Khỏi cái lo rét, lại
tìm được củ mài. Khi trở nồm có đá đổ mồ hôi, con rắn, con trăn, con gấu đã bỏ
hang hốc tránh rét bò ra kiếm ăn, những cánh rừng đại ngàn không còn làm u ám rầu
rĩ hai con mắt nữa, rừng đã nở lá non thơm mát mũi, phía nào lá rừng cũng cuồn
cuộn xanh lên như khói. Đến một quãng rừng thoáng, An Tiêm ngẩng đầu, thấy một
dây nở hoa tím bò ngọn cây. Chiếc hoa tím, cánh cụp thì đậm, cánh nở thì phai,
đầu tiên, tưởng hoa của cây ấy, nhưng trông lại, biết hoa trong những dây leo
dưới đệp lá chằng chịt. An Tiêm bảo Mon:
- Hượm đã, con ạ.
- Cái gì thế? Mon rút chiếc lao trúc, cầm sẵn tay, nhìn ra. Chưa biết sao, hãy
phòng sẵn, đấy cũng là biết cách đi rừng. Nhưng An Tiêm lại nói:
- Lên xem cái dây kia.
- Chỗ hoa tim tím ấy à? An Tiêm trèo lên, chặt quang mấy bụi cây ngoài, len vào
tận nơi. Cái lá to như lá mảnh bát, không phải dây bìm lá nhỏ lẩn mẩn, nhận ra
đấy dây củ mài. An Tiêm quay lại, nói to xuống:
- Củ mài! Củ mài! Mon leo vào tận nơi. Hai bố con hí húi phát quang hết các dây
dợ xung quanh, còn trơ lại một gốc dây mài bằng cổ tay người lớn.
- Củ mài này to lắm. Kể ra, phải đến tháng tám ăn mài mới khỏi sượng. Nhưng mấy
năm nay chẳng được miếng mài, cứ đào về, để ráo nhựa một tý thôi. Đào theo dây
xuống, được lưng chừng, đã quá trưa, phải bỏ, mai đào nốt.
Nàng Hoa và Gái thấy nói tìm được củ mài, ai cũng mừng. Miếng củ mài khác nào
miếng cơm. Người ở đâu, khi thiếu đói, đều phải lùng rừng nương nhờ củ mài.
Ngày tấm bé, An Tiêm còn ở bờ biển ngoài cõi Ninh Hải hay khi vợ chồng lên phá
đất ven sông Cái thì miếng mài, miếng cơm chẳng để ý. Bây giờ bảo sắp có củ
mài, bỗng thấy rau ngót, thấy trám, thấy thịt trộn tro cỏ tranh, tưởng như ăn đều
xót ruột cả. Bao lâu nay thèm một miếng cơm, một mùi cơm, mùi thơm bùi bột mài
cũng đương thèm. Cả nhà cùng vào rừng đào nốt củ mài. Củ mài ấy to bằng bắp
chân, dài nửa sải tay, tõe bốn nhánh thành bốn củ. Hai anh em Mon khiêng một củ
mài. Củ mài to không biết đã già bao nhiêu năm! Về đến nhà, phải đổi vai mấy lần.
An Tiêm cắt cái núm đầu củ đem trồng bên hòn đá cạnh ngọn suối. Tối ấy đỏ lửa đến
khuya. Cả nhà ngồi quanh cái ống vầu luộc củ mài. Mùi mài tỏa thơm ngậy khắp
nhà, hệt mùi xôi nếp cái mới. Tự nhiên, ai cũng nhớ cõi Bãi Lở, nhớ đến làng
xóm ven sông Cái. An Tiêm nói:
- Hôm nay tìm được củ mài, càng nghĩ càng thấy không ai đóng cửa cái sống của
mình được.
Chặp tối hôm ấy, thuyền quan quân đổ cả nhà ta lên núi, tưởng cái chết đến nơi,
thế mà rồi lại thấy ra miếng nước ở cây cọ, biết không thể chết. Con cua con
cáy bấy thế mà còn biết bò kiếm ăn, con hà phải đóng vỏ vào tảng đá suốt đời đứng
một chỗ mà vẫn sống, huống chi con người đầy đủ tai mắt chân tay thế này.
"Không thể chết, nhưng cũng không thể chịu khổ mãi, cứ mãi chịu chui rừng
thế này, cứ lay lắt thế này. Bàn tay vợ chồng mình đã từng làm cho đất Bãi Lở
nên cái ăn, bây giờ chúng mình cũng sẽ làm cho cái đảo này thành cái ăn, sẽ
thành nơi có người đến ở đông vui, như đất Bãi Lở. "Mình ạ, ta ở trong rừng
cũng được, không còn khốn khổ như ở hang đá núi trọc, nhưng không, ta phải tìm
cách mở mang ra. Bây giờ thấy được mài ăn, chắc các rừng quanh đây cũng có mài.
Đợi đến qua mùa mưa, ta sẽ đi tìm thêm mài, tích cái ăn chắc bụng đã. Rồi ta lại
đi tìm đất mới phen nữa. Cái khi ở núi trọc xuống rừng này tôi đã trông hướng
nhiều lần. Sau lưng ta, núi dựng đứng. Không lẽ cả đảo chỉ có núi đứng như thế.
Chắc đằng trước mặt, phía gió mát thổi tới phải có bãi, có sông. Không biết đi
bao lâu mới tới được bờ đảo đằng trước mặt, nhưng ta trữ được lương ăn rồi, ta
lại đi phen nữa. Ta quyết mở mang lên, quyết không chịu sống rúc ráy như con tê
tê trong lòng đất đâu. Mình ơi, một ngày kia, có bao giờ nhà vua còn nhớ tìm lại
vợ chồng con cái An Tiêm trên đảo, lúc ấy An Tiêm sẽ nói rằng: vợ chồng con cái
An Tiêm vẫn sống và đương gây dựng chốn đảo hoang thành cõi bờ đồng đất quê ta.
Đấy là sở nguyện của tôi". Tiếng củi nổ vui tai trên bếp rực than. †n mài
no, Mon và Gái mỗi đứa nằm một góc, cọ quậy trong mảnh chăn vỏ sui. Nhưng không
phải đã ngủ. Mắt tỉnh như sáo sậu. Còn mải hỏi bố các thứ chuyện. Cũng lây cái
vui của bố mẹ. Gái nói:
- Bây giờ mẹ kể sự tích trầu cau. Mon nói:
- Nghe bố kể chuyện ông Gióng, ba năm nằm chõng đá... Mon tưởng tượng bố con
mình cũng to lớn như ông Gióng. ừ một hôm nào, cả nhà lại đi, sẽ tới một cánh
bãi như Bãi Lở, sẽ tới một con sông như sông Cái. Ta cưỡi ngựa sắt, vùn vụt bay
như ông Gióng. Không phải leo rừng, chỉ một chốc đã tới nơi. ở bãi sông ấy, đến
mùa nước xuống, bắc cầu noi đưa một dãy trống đồng ra mặt nước giữa sông, tiếng
đồng rền ra gọi các cõi về xem hội. Rồi lò vật mở, các sới vật nhộn nhịp suốt
giêng hai... Giấc mơ thú vị theo chuyện ông Gióng đi tìm đất ở ven sông chập chờn
đến trên hai mí mắt buồn ngủ của Mon. Trong cánh rừng đêm đen thẫm, gió nổi rào
rào rồi im. Phút chốc, lại lặng lẽ ghê. Con ve núi thôi kêu từ nãy. Đã khuya lắm.
Dần dần, rừng xa rừng gần im phăng phắc. Một tiếng hươu đột ngột giác, nghe bảng
lảng thật xa. Rồi lại vắng, vắng thăm thẳm. Vắng ơi là vắng!.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét