Chim chích lạc rừng 2
Đôi ri đá
Ít lâu nay, có một loài lạ lạc vào vườn. Anh chim sẻ xưa nay
vẫn to hó đứng trong đầu nhà, kêu tẹc tẹc không được điềm tĩnh và đều đặn như mọi
khi. Ra vẻ thảng thốt. Như thể lo rằng có những kẻ lạ nào đương dò dẫm, tìm kiếm
nơi ăn chốn ở trong vườn nhà mình.
Quả đúng như nỗi lo của sẻ.
Có hai con chim ri đá, mấy bữa rày thường lai vãng đến vườn. Chúng
nhấm nhoắt chuyền từ cây bưởi sang cây khế, đến cành hồng bì. Sẻ ta đứng băn
khoăn trên nóc đầu hồi, nhớn nhác nhìn, ra điệu ghét lắm.
Bấy giờ là đầu mùa đông. Ngoài ruộng, lúa chín vàng hây. Những
bông thóc nếp mập và tươi ong óng, trĩu gù lưng xuống. Màu vàng san sát giải từ
cánh đồng làng Nghĩa Đô mênh mông đến tận bờ tre làng Phú Gia.
Theo với mùa lúa, từng đàn chim ri bay về mọi cánh đồng. Và
hai con ri đá kia thẩn thơ vào trong vườn này.
Đó là một đôi vợ chồng. Chàng và nàng. Có lẽ là đôi vợ chồng
mới cưới nhau mùa thu vừa rồi cũng nên.
Nếu nói so sánh, ta có thể nói so sánh rằng đôi ri đá ấy tựa
như một cặp vợ chồng quê mùa mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ - nghĩa
là đặc nhà quê! Họ thuộc loài ri đá chính tông. Và có hiệu là ri rừng. Người loắt
choắt, bé chưa bằng ri cam, mà lại bé hơn cả chim sẻ. Trông một ri đá chỉ bằng
nửa chim sẻ. Vừa như chiếc hạt mít mập mạp, có dính chút đuôi. Đôi mắt nâu lờ đờ.
Cặp mỏ ngắn, cục mịch thây lẩy trước đôi mắt như một viên cuội xam xám. Lông
màu nâu, mượt, trơn và mịn. Đôi chân cũng xám như mỏ. Ở con chim ri, có bóng
hình một người cù rù nhưng nhẫn nại, lam lũ và luôn luôn chân lấm tay bùn - người
cần lao của đồng ruộng.
° ° °
Một buổi sáng, vợ chồng ri đá ở đâu sà đến cây bưởi. Chúng
kêu kéc kéc nho nhỏ. Thế là, trên nóc nhà, chim sẻ lắng tai nghe tiếng bỗng tẹc
tẹc ầm ĩ. Dáng hẳn chàng ta chửi đứa nào dám vào nhà mình. Nhưng sẻ chỉ nỏ mỏ
công kích suông thế thôi, không dám xuống tận nơi.
Vợ chồng ri đá điềm nhiên, chẳng để ý đến sự lèm bèm đó.
Chàng nghiêng má nhìn cây hồng bì rồi rún cẳng nhảy sang. Nhẹ như một chiếc lá
rơi, và cũng lẩn ngay vào lá, không động tĩnh gì hết. Nàng bay theo chàng, dáng
bay hơi nặng nề, đôi cánh vỗ sè sè, bởi người nàng có đẫy đà chút đỉnh. Không
hiểu nàng ri đá đã có con lần nào chưa, chứ thực trông nàng chẳng được gọn mấy.
Đầu bơ phờ. Lông bụng bạc phếch. Cườm ngực, cườm cổ không đen nhánh và bóng mượt
như của chàng. Có cái lối của những người đàn bà xười xĩnh từ khi còn con gái
đã ăn mặc xốc xếch, bây giờ chẳng thiết điểm trang gì nữa.
Chàng xáo xác trong cây hồng bì. Cây hồng bì thấp nhưng dày
lá. Vả lại, với một anh ri bé bỏng, thế đã là khá cao rồi. Nàng cũng sục sạo
trong cây, như kiếm chác một cái gì. Chẳng có lẽ. Họ tìm chi trong tụm lá hồng
bì đó? Loài ri đá không biết ăn sâu. Mà đâu có bông lúa vàng ở đây. Kìa, đôi vợ
chồng lại bay ra đậu ở một cành cây cụt. Họ nghiêng má nhìn trời. Trời cao và
xanh, không cùng. Vụt một cái, bốn cánh bay đi loang loáng.
Người ta thấy ở ngoài đầu xóm, hai vợ chồng ri đá đến đậu
trên một mái rạ cũ. Rạ đã bạc trắng và nát mủn. Chị chim ri hé mỏ mổ vào cuộng
rạ. Anh cong đuôi lên để lôi cuộng rạ đứt ra. Khi đã lôi được, anh quắp lấy và
bay vụt đi. Cô ả cũng bay liền ngay theo. Họ bay về cây hồng bì. Cây hồng bì ở
ngay trước sân, bên cạnh một bể nước. Những lá mùa đông rụng xuống, vàng úa
trên giại nứa. Chàng đặt cuống rạ vào một cành hồng bì kín và cao nhất. Rồi họ
lại bay đi, vợ theo đuôi chồng, đến lấy rạ ở lớp mái nhà nát nọ, chị mổ và anh
kéo. Dù được mẩu dài hay mẩu ngắn, anh không phiền hà, quắp ngay lấy, mang về
cây. Công việc như thế, đều đều suốt ngày, như người ta mắc cửi.
Được chừng ba hôm, bác chim sẻ hay qua cây hồng bì, đã thấy
trong có lù lù một nắm rạ lòng thòng, bẩn thỉu như một mớ rơm rửa bát. À, ra
hai vợ chồng con ri đá đến ngụ cư ở nơi này. Họ đương làm nhà.
Bao nhiêu công việc xây dựng, người chồng phải đương lấy cả.
Chàng tha rác liền liền về cây. Chàng xếp đặt cho thực khéo, thực gọn. Trong
khi ấy, nàng chỉ biết có việc mổ đứt cuống rạ và việc bay nhởn nhơ theo chồng.
Thỉnh thoảng nàng lại khẽ hát kéc kéc, như để khuyến khích hoặc nói bông cho
chàng được buồn cười. Chẳng hiểu chàng có thấy vui không, nhưng chàng vẫn hậm hụi,
cắm cúi làm như thường.
Chàng đặt móng cho lớp nhà mới bây giờ một lớp rạ. Rồi chàng
đi tìm ở những bẹ cau và bẹ dừa lấy những sợi dây rất nhỏ. Việc tha những sợi
dây này vẫn là việc của anh chồng chịu khó. Chàng đem về, đánh đai rất xinh,
vòng trong những cuộng rạ dựng thành một khung tròn hình lòng tổ.
Cái lòng tổ êm ái đã hoàn thành, sau ba ngày chịu khó.
Bây giờ chàng đi tìm lá khô. Chẳng biết chàng mò mẫm thế nào
mà tha về được từng nạm lá duối, đem chất lù lù cả lên xung quanh thành tổ. Mỗi
chuyến chàng mang về chừng đôi ba tờ lá nhỏ.
Một chuyến kia, vợ chồng ri đá song song bay từ ngoài bờ giậu
vào vườn. Vừa sà xuống cây hồng bì, anh ri đá đã hoảng hốt buông rời mấy chiếc
lá, cuống cuồng nhào lên, bay tít tắp ra tận ngoài đồng. Chị vợ cũng nhớn nhác
ruổi theo.
Có gì đâu! Dưới gốc cây hồng bì lộn xộn bao nhiêu là người.
Khắp sân, đầy đống những lượm lúa vàng rượi. Người ta kê một chiếc cối đá hổng
đáy ra đấy. Lượm lúa chắc nịch được cặp vào hai thanh tre rồi người ta đập lên
cối đá từng hồi, cho thóc rơi vung vãi ra bốn phía. Họ vừa làm vừa cười cười,
nói nói ồm ồm, cả đàn ông lẫn đàn bà. Thấy thế, vợ chồng nhà ri đá sợ hết vía.
Không dám bén mảng về nữa. Nói của đáng tội, chiều hôm đó cậu mợ cũng về. Nhưng
ở sân vẫn còn tíu tít ồn ã những người, nên lại vội vàng bay đi. Sáng hôm sau,
chàng lại về. Mỏ ngậm rác cẩn thận. Song người ta vẫn thi nhau đập lúa thình thịch.
Chàng lại bỏ đi, để rơi mấy chiếc lá khô xuống đất.
Người đập lúa trong sân, bác sẻ mon men xuống kiếm chác, nhặt
những hạt thóc rơi rụng. Không thấy bóng vợ chồng anh ri đá đâu, ý chừng sẻ ta
hả hê lắm.
° ° °
Gió may dạt dào, đánh lúc lắc những cành hồng bì mảnh khảnh.
Cái tổ hoang kia, không chim nào ngó đến, những ruộng rạ ở xung quanh đã ải sẵn,
cứ trệ xuống dần. Rồi nó chỉ còn là một nắm rác, một nắm bùi nhùi của một đứa trẻ
nào gài vu vơ lên đấy Hai con chim sợ người đã bỏ phí mất một cái nhà đương dựng.
Nó sắp rơi hoài xuống cỏ mất.
Công việc gặt hái đã xong. Sân vườn lại trở về hiu quạnh như
thường ngày. Chỉ còn tiếng chim sẻ rền rĩ trên đầu hồi. Cây hồng bì không phải
mùa quả, hoang vắng lạnh lùng như một cây rừng. Đôi chim ri chẳng trở về nữa
hay sao?
Không, họ lại trở về. Một hôm, từ lúc mới vừa rạng sáng, đã
nghe có tiếng lạt xạt trong cây. Bấy giờ bác sẻ chưa trở dậy. Đến khi trở dậy,
ra đứng ngoài đầu ống, thì bác đã thấy vợ chồng ri đá đương nối đuôi nhau tha
rác về cây hồng bì. Bác lại trông xuống mà hé cái mỏ, bắt đầu kêu khan kêu vã.
Họ tha về những cuộng rạ nát. Lại những cuộng rạ nát nhũn! Bởi vì họ lại bắt đầu.
Nghĩa là vợ chồng chim ri lại kì cục xây lên trên cái tổ dở dang kia, một cái tổ
khác, mới nguyên. Lại những cuống rạ mục, lại những dây dợ ở những bẹ dừa, bẹ
cau. Lại những chiếc lá duối khô, lá quăn quăn. Và lại vẫn anh chồng còm cọm
tha rác suốt ngày để cho chị vợ thẩn thơ bay theo. Có khi, chàng bắt được ở đâu
cả một mảng mạng nhện nhăng nhít, cũng lôi thôi tha về.
Chẳng bao lâu, cái tổ đã có lòng trũng xuống, và những chiếc
lá khô thì làm thành một vòng tường cao. Ở trên trông vào, tựa hình một cái tổ
bé tí tẹo của trẻ con chơi. Giá ở nhiều loài chim khác, như bọn chào mào, sáo sậu
ắt hẳn cái tổ kia đã được khánh thành. Nhưng với ri đá, chưa thể gọi thế là
xong được. Họ còn tạo tác thêm. Nói là họ, cho ra vẻ có vợ có chồng mà thôi, kỳ
thực công việc xây dựng đều do mỏ và chân của chồng. Chàng nựng vợ đủ điều.
Chàng đi kiếm ở các xó vườn lạ về những cẳng lá xoan, cẳng lá
khế đã khô đét. Chàng xếp thành từng lượt ngang dọc trên nóc tổ. A! Anh chàng lợp
một cái mái. Cái mái nhà để che mưa che nắng. Chàng lại đi khuân lá duối, khuân
cẳng rạ về và xếp một lượt dày lợp lên trên những lượt cẳng. Xong xuôi đâu đấy
cả rồi, chàng loay hoay khoét một cái lỗ. Khi đục xong lỗ, ấy là lúc công cuộc
làm tổ đã hoàn thành. Chàng chui vào trong tổ cất lên mấy tiếng ke ke. Ở ngoài,
vợ chàng cũng đáp lại như thế. Chàng liền bay ra, đứng cạnh nàng, tỏ vẻ như âu
yếm. Chàng xích lại một chút, chị vợ cũng rún rún đôi chân và rung rung đôi
cánh. Hai cái mỏ chíu vào nhau, chịn đuôi vào nhau. Đôi chim hoan hỉ nhìn nhau
và cùng xù lông ra giũ phành phạch. Chàng khoan khoái bay tung tăng đi vu vơ
đâu một lúc, rồi lại trở về, cùng chui tọt vào tổ. Cái tổ kín và riêng tây như
một nếp nhà của người ta.
Thế là tổ đã làm xong. Trông nó xù xì tựa như một mớ rác lộn.
Song đó chỉ là cái bề ngoài không quan trọng thôi. Này, ta hãy đến gần, ló đầu
vào một tí xem. Đường cửa tổ tròn, xung quanh nhẵn thín, chui ra chui vào rất gọn,
không vướng víu mảy may. Cái lòng tổ thì êm và mịn, vừa chỗ cho nàng ri cái nằm.
Ri đực chỉ rón rén nằm ghếch bên cạnh. Hai cái mỏ cùng chìa ra phía cửa.
Từ hôm ấy, sớm mờ mờ đã nghe tiếng ri động lạt xạt trong cây
hồng bì. Họ đùa nhau chắc? Chị vợ thì nằm xù xù trong tổ cả ngày. Nàng nằm ấp dọn
cho những ngày sắp sinh trứng. Đến khi hoàng hôn xuống, thì cả hai vợ chồng
cùng chui vào tổ, lại cùng nằm chầu mỏ ra ngoài cửa.
Họ chờ đến ngày đẻ trứng.
° ° °
Những con chim hét đen chậm chụi mỏ vàng bệch, đã từ phương
xa bay về. Những dấu hiệu mùa lạnh sắp đến.
Gió may trở về đã từ lâu, hiu hiu và hiền lành. Nhưng chiều ấy,
gió may bỗng đột nhiên nổi cơn đùng đùng. Trời đất âm u sẫm lại. Từng làn mây
nước lớn xám xịt, chuyển vận theo gió bay xuôi hỗn độn, tới tấp như ở trong một
cuộc thay đổi kỳ lạ của trời đất. Sáng hôm sau, trời đổ mưa xuống đều đều nhưng
không to lắm, vòm không mù trắng những nước. Và trời cứ mưa đều đều, lai rai,
nhỏ nhẻ như thế, hết ngày ấy sang ngày khác. Ông mặt trời đã đi đâu mất để cho
nơi nơi thi nhau khóc ra mưa ra gió. Người ta đều phải ở trong nhà. Đường cái
làng lầy lội, bùn xám ngập cao tới lưng ống chân.
Đôi chim ri cũng phải ở trong nhà. Chúng nằm ro ró mà nhìn ra
xem mưa. Chao ôi! Cái thứ trời gì mà cứ xối mãi nước xuống, xối mãi nước xuống.
Mưa vài hôm, đôi chim đã bắt đầu thấy buồn buồn. Mưa được bốn ngày thì lành lạnh.
Những hạt nước đọng ở trên mái tổ rích vào, thấm xuống, ướt hết cả xung quanh.
Nhưng sự lạnh và sự thấm nước đó chưa đáng để ý bởi đôi chim mặc bộ lông dày và
họ có hơi ấm của nhau. Song chúng không dám bay ra ngoài. Nằm nhịn đói cũng đã
thường quen, không hề chi. Trời vẫn mưa. Bây giờ lại có những giọt nước mới dột
đến, lá và cành khô không chịu thấm được hơn. Hạt nước lăn trên mái tổ rồi rỏ tạch
tạch xuống đầu vợ chồng gã chim ri. Lại có thêm gió. Gió đu đưa cành cây hồng
bì. Từng loạt nước rơi xuống rào rào, liên tiếp. Vợ chồng ri đá xù lông ra lắc
bụi nước. Nhưng rồi bụi nước, tuy đã lắc mãi, cũng bám được vào lông chim. Hai
cái đầu thấm nước, bết lông vào với nhau, bé tọp hẳn lại. Trông thảm như hai
người ốm liệt giường mà bị cạo trọc đầu. Lúc này là lúc mà vợ chồng chim ri
không thể nén được nữa. Nếu họ không đi tránh mưa, nước cứ rỏ tạch tạch luôn
vào đầu thì đến chết rét mất. Bởi trời lạnh. Buổi sáng, người ta mó tay vào
trong nước thấy buốt thon thót. Mưa thì liên miên. Giọt tranh chảy rinh rích xuống
bốn bên xung quanh.
Một hôm, hai vợ chồng chim ri đành lòng rời cái tổ ẩm ướt, đi
tìm một mái nhà nào để tạm ẩn. Chúng bay đi trong bụi mưa, bốn cánh ướt vỗ nặng
nề. Bấy giờ mới xế trưa, nhưng trời đầy mây xám và trắng những nước, tưởng như
trời đã sắp tối. Vợ chồng chim ri rời tổ, bác sẻ già kia không biết. Mấy bữa
nay mưa gió, bác ta rúc tránh vào trong ống tre.
° ° °
Nhưng cũng còn cuộc trở về của đôi chim. Ấy là một ngày mùa
đông có nắng, sau trận mưa dai dẳng liên miên đến nửa tháng. Mọi vật vẫn chưa
khỏi hẳn ẩm ướt, nước ẩm nhiều quá. Bức tường ngoài ngõ, thảm rêu xanh om. Tuy
nắng, nhưng nắng chưa đủ gây ấm. Không khí vẫn phảng phất hơi giá.
Đôi chim ri lìa tổ ngơ ngác ở đâu về đậu bên cây bưởi. Bác sẻ
ở dưới sân, đứng trong ánh nắng để hong lông, hong cánh, trông thấy đôi chim
đáng ghét liền bay vù lên nóc nhà và kêu choe chóe như bị ai bóp cổ. Chàng ri đực
liệng vào trong chòm lá hồng bì. Chàng vào thăm lại tổ. Trận mưa cũng có làm hư
hại mất đôi chút. Mấy chú nhện lạc lõng nơi nào tới đã chăng mạng kín cả cửa
ngõ. Ri ta mới tức làm sao. Ri mổ luôn cho mấy mỏ tan hoang cả khung cửi nhện.
Vào trong tổ, chàng dùng mỏ và cẳng, bới xếp, dọn lại một lát thì giường nệm lại
phẳng phiu và gần được như cũ. Chàng chui ra, nhường chỗ cho vợ vào. Chị vợ lại
nằm xềm xệp thò chiếc mỏ ngắn ngủn ra cửa.
Và hai vợ chồng lại thay nhau ấp tổ. Mươi hôm, ri cái đã đẻ
ra một chiếc trứng nhỏ xíu. Trước sau chị đẻ ra được bốn chiếc trứng. Bốn chiếc
trứng chỉ nhỉnh hơn bốn củ lạc lớn, màu trắng đục, lốm đốm nâu, nằm đều đặn, gọn
thon lỏn trong lòng tổ. Chị ri phải xoè lông bụng ra mới đủ che kín được cho cả
bốn trứng.
Trong cái tiểu gia đình này, cứ nửa mừng và nửa lo. Sáng ngày
ra, hai vợ chồng hát nho nhỏ. Họ hát ra sao? Chỉ có mỗi một điệu hót ke ke. Và
riêng khi nào vui lắm, âu yếm nhau lắm, họ mới rung hai cánh mà làm điệu mỏ ri
ri ri… Họ ăn ở dè lén, bình lặng, chịu khó, ít ồn ã. Cuộc đời trôi chảy âm thầm
dưới khe lá xanh, y như cuộc đời của những người Nghĩa Đô, cần cù và nghèo khó
trên cái khung cửi, trong bốn lũy tre già. Họ ít nói năng, trái hẳn với loài sẻ
láu táu, luôn kêu lải nhải.
Bốn trứng đã tới kỳ nở. Những cái mỏ non nớt tự mổ rạn bốn vỏ
trứng để thoát ra. Thế là bốn con ri nhỏ vào ánh sáng. Mẹ chúng nhảy ra cửa, đứng
doạng chân, ngó bố của chúng đứng gần đấy. Bốn con mắt nâu đục nhìn nhau lơ
láo.
Bây giờ cái tổ là chiếc giường của người đàn bà con mọn. Bừa
bãi đầy những vỏ trứng vỡ, nhớp nháp như mấy cái tã. Nhớp nháp bốn nhách chim đỏ
hỏn. Mụ ri cái lại càng phờ phạc, đờ đẫn tợn. Anh chồng cũng ra vẻ lo lắng
thay. Song giờ đương là đầu tháng chạp. Không còn mưa rớt của tháng bảy như trận
mưa tầm tã hôm xưa nữa. Thời tiết lạnh, nhưng hanh và khô cứng.
Bốn con ri cũng đã nhớn nhao. Bố mẹ chúng rạc cả người về nỗi
kiếm mồi nuôi con. Chúng lớn dần dần cùng với tết Nguyên đán cũng lần lần
nghiêng đến với mọi người.
° ° °
Năm nay, ở Nghĩa Đô, người ta ăn một cái tết Nguyên Đán không
vui. Bởi vì làng có mỗi nghề làm lĩnh. Lĩnh, lụa lại ế. Hàng dệt ra không bán
đi được. Chẳng có ai mua. Nhiều khung cửi phải xếp lại. Những vày tơ bỏ trống.
Vắng tiếng lóc cóc ran rỉ của cái vày tơ. Ngày phiên không có những bác thợ cửi
say rượu, mặt đỏ gay đi chệnh choạng trên đường cái làng. Công việc chẳng có,
bao nhiêu dấn vốn đếu hết cả, người ta đã phải đi quảy đất thuê, đi làm thợ nề
và đi lên tỉnh kéo xe. Có những kẻ liều lĩnh đã ký giấy "mộ phu" sang
bên "Tân thế giới".
Cái tết hờ hững đến với mọi sự lạnh nhạt. Giá gạo cao tới ba
đồng rưỡi một chục đấu nhỏ. Xưa nay chưa cao thế bao giờ! Túng quẫn quá, người
ta không cần và không thể nghĩ đến lo tết lắm nữa. Hàng lá rong vào làng rao ơi
ới, rồi lại ê hề quảy ra. Làng mạc buồn teo.
Chiều hôm ba mươi, cả làng vắng lạnh. Ấy là một buổi chiều bồn
chồn và khó chịu. Người ta ở cái hoàng hôn u uất đó để đợi một năm mới vẫn hằng
mong ước sắp đến. Một năm mới đầy những bí mật của hy vọng còn khuất ở bên kia
một lần lặn mặt trời và một đêm đen thẫm, nặng trịch nữa. "Nhờ phép tổ"
mà nghề nghiệp có được khá khẩm chăng!
Gia đình tôi cũng không còn phong lưu như xưa. Ngày mồng một,
không có pháo để đốt. Tôi mặc tấm áo vải chéo go cũ, đi đôi guốc sơn bóng
nhoáng, đầu vuốt nước lã lên để rẽ cho được mượt. Tôi thơ thẩn trong cổng, hai
tay thủ túi, buồn ngẩn ngơ. Cả làng, chỉ có vài nhà đốt pháo. Nghe lẹt đẹt như
gõ mẹt vậy.
Nhưng sáng ngày mồng hai, nhà tôi được có một người đến lễ tết,
khách đem theo một bánh pháo. Bác quyền Vực, người bên làng Phú Gia, một học
trò "tam tự kinh" ngày xưa của ông ngoại tôi. Bác Vực đi lính, tết được
nghỉ phép về chơi quê.
Bác ăn vận rất ngộ. Đầu bác đội chiếc mũ Tây lợp vải vàng và
mặc quần áo cũng màu vàng, xù ra. Bắp chân quấn xà cạp chặt chẽ lên tận đầu gối.
Bác dận một đôi giày có cổ rất to, da mốc thếch như da cóc. Đi giày nện gót
trên sân gạch, nghe kêu kệt kệt, đến ghê.
Lặc cầm bánh pháo của bác Vực, đem ra sân. Bánh pháo dài chưa
đủ một gang tay. Hắn treo lên trên cây hồng bì. Rồi hắn cầm một cái sào dài, đầu
có mồi lửa, một tay bịt tai, một tay run run châm. Pháo bén lửa nổ xì toạch, xì
toạch toang toang. Mươi cái xác pháo toàn hồng, rắc ra sân như những cánh hoa
đào bích.
Con Đực đương luẩn quẩn dưới bếp, đột nhiên nghe tiếng pháo,
hốt hoảng chúi cổ cúp đuôi chạy biến ra ngoài đồng. Nó sợ, Lặc phải đi tìm và
lôi nó, nó mới dám về.
Nhưng cái gia đình chim ri ở trên cây hồng bì thì không bao
giờ về nữa. Sớm ấy, bỗng nghe tiếng pháo kinh khủng nổ vang động trong cây, cả
nhà chim ri cuống cuồng bay đi. Những con chim nhỏ ngã xuống, cố vỗ cánh bay
ngoi ngóp. Tan tác mỗi con về một phía. Ai cũng lạc lõng. Tội nghiệp, bốn con
chim nhỏ mới ra ràng. Ngày nào chúng cũng đứng chen chân ở cửa tổ để ngơ ngác
nhìn ra xung quanh và nhìn lên trời. Bố mẹ chúng thì lượn xập xoè như muốn bay
cho các con bắt chước.
Sớm ngày mồng hai tết Nguyên đán ấy, sợ những tiếng pháo nổ một
cách rất vô tình ở dưới gốc hồng bì, đôi vợ chồng ri đá chịu khó và nhẫn nại
kia, cùng một đàn bốn đứa con thơ dại, tan tác bay đi, không bao giờ còn trở về
cây nữa. Chẳng ai biết được cái bầu đoàn khốn khổ long đong bạt đi đâu và về
sau ra làm sao.
Đến độ tháng ba năm đó, đương mùa hoa bưởi nở, cũng có một
đôi chim ri lảng vảng về vườn - biết có phải những con chim cũ? - song chúng chỉ
đậu trong cây hồng bì một lát. Bác sẻ già đứng đầu hồi, ngó cổ xuống, trông thấy,
liền kêu tẹc tẹc rộn rã như muốn khơi chuyện cãi nhau.
1940
Con mèo lười
My (Mèo đen)
- Đốm (Chó trắng đốm vàng)
- Bẻ - Dê nhỏ (tiếng Tày: tu bẻ là con dê)
- Bẻ em (Em của Bẻ)
- Bốn Bê (Bốn bò con)
- Ông Giăng
- Ông Ké (Tiếng Tày: ông già)
- Bù nhìn điếc
- Vài con ỉn (lợn)
- Vài con gà, ngỗng, vịt
I
Một vườn cỏ vàng úa giữa vườn, bên một hòn đá tảng, có một ổ
rơm khô. Lui vào trong, phía tay phải, nhô ra nửa mái nhà sàn. Sau nhà, một bờ
rào thưa. Xa xa nổi lên một trái núi xanh.
Vườn vắng. Tiếng nước lần, nước chảy trên núi xuống, ở một
cái máng đâu đấy, rỏ lách tách. Buổi trưa trong góc vườn này càng vắng vẻ hơn.
1
My, một con mèo đói. Lông đen mượt, nhưng gầy lộ một vẻ buồn
thảm, tuy vậy, đôi mắt xanh lè tinh quái, láu lỉnh, rình mò. My trèo lên tảng
đá, rướn chân, nghển đâu, trông, nghe bốn phía, như chờ đợi gì. Cuối cùng,
không có gi cả thì gào lên mày tiếng buồn, rồi rón rén trở vào. Vườn lại vắng.
Tiếng nước lần rơi lách tách. Chim bìm bịp rúc từng hồi, khiến cho người ta biết
đã xế trưa.
My lại trở ra, quanh quẩn đánh hơi tìm ăn như lúc nãy My
đương đứng trên tảng đá, trông, nghe, chờ đợi.
Bẻ em ra.
2
Bẻ em - (đon đả) My đứng làm gì đấy? My đứng đợi anh Bẻ
tôi phải không? Anh Bẻ tô'J đi lâu về quá nhỉ? Tôi cũng đợi anh Bẻ đây.
My - Không, tôi chỉ đợi ai đến cho tôi một ít xương cá,
một bát cơm. Anh Bẻ có gì cho tôi ăn không? Anh ấy thì có quái gì mà cho tôi!
Tôi đói quá. Ba hôm nay, từ lúc ông Ké đi lên nương, tôi chẳng được một miếng
vào bụng. Anh có gì cho tôi ăn ngay bây giờ không?
Bẻ em - Trông thấy người là thấy đói, thây xin ăn. Sao
lười thế, hèn thế, lúc nào cũng phải dựa vào ai khác mới sống nổi!
My - Anh mắng thì tôi chịu, chứ tôi biết làm sao. Từ thuở
bé, tôi gầy còm ốm yếu, lạ mắc bệnh ho kinh niên, lúc nào cũng rên gừ gừ, cho
nên tôi phải ăn cơm với cá, tôi phải nằm bếp tro ấm, chứ đổ cho tôi cái tiếng
lười, thì oan đấy.
Bẻ em - Sao đằng ấy không ra suối bắt lấy cá mà ăn?
My - Chân tôi mắc chứng tê thấp, quanh năm phải đi bít tất
sù sù thế này, tôi lội nước sao được.
Bẻ em - Sao đằng ấy không đi lên nương bắt chuột, đuổi
chuột cho ông Ké?
My - Tớ là giống mèo mũi đỏ, không biết bắt chuột, chỉ
biết ăn vụng.
Bẻ em - Này, thế thì cố đi lên nương với ông Ké, nghe
nói trên nương giữa rừng sẵn thức ăn, thức chơi lắm. Hôm qua anh Bẻ tớ theo ông
Ké lên nương đấy. Hôm nay tớ đợi anh ấy về xem thế nào. Có gì thú thì chúng tớ
sẽ cùng đi.
My - Tôi chẳng đi đâu. Tôi chỉ đi quanh trong nhà được
thôi.
Bẻ em - Nói như đằng ấy thì chỉ còn có cách đợi ông Ké về;
ông cho ăn cơm với cá rồi nằm ngủ bếp ấm, thế là xong chuyện.
My - Thế thì tôi thích lắm. (Vẻ lo lắng). Này anh, những
ai định đi lên nương? Không ở nhà nữa à? Bỏ nhà này à?
Bẻ em - Chúng ta sẽ đi hết. Đằng ấy tính xem mùa thu
này, ở đây cỏ sẽ úa, cỏ úa ăn đắng lắm. Mà trên nương thì có cỏ tốt, chúng ta cần
ăn cho chóng lớn để còn đi theo đàn làm việc được. Các anh Ỉn lên đấy cũng gần
cây chuối hơn. Bạn Gà, bạn Ngỗng thì muốn đi tìm chỗ có nhiều con giun, cái dế.
Cả anh Đốm cũng bảo: "Sẽ lên nương, vì nương mới phá, ông Ké chưa làm được
bờ rào, phải canh giữ nhiều. Chúng ta lên giúp ông Ké. Nhiều lắm, nhiều bạn muốn
lên nương lắm".
My - Thế thì các anh đi hết á?
Bẻ em - Có lẽ thế.
My - Không còn ai ở nhà với tôi? Không còn ai cho tôi
quà bánh nữa à? Bỏ tôi chết đói à?
Bẻ em - Chỉ còn mình đằng ấy ở nhà thôi. Để đằng ấy tập
làm lây cái ăn dần đi chứ. Hay là cùng đi với chúng mình. Thì ở đây đợi anh Bẻ
về xem tin tức trên nương ra sao. Lát nữa, bọn các anh Ỉn, anh Đốm cũng đến đây
đợi anh Bẻ đấy.
My - Để tôi nghĩ đã. (Im lặng). Này, anh có thấy anh em
nhà Gà, nhà Ngỗng ra đây không?
Bẻ em - Cánh ấy hôm nay sang kiếm ăn bên vườn ngô.
My - (Rối rít). Ấy ấy, tôi phải sang xem có xin họ được
cái gì ăn tạm cho khỏi nhạt miệng. Đói quá, đói quá.
Bẻ em - (Tức giận). Đồ tồi. Thôi cút đi.
My lủi thủi ra. Bẻ em đứng lên hòn đá tảng nghển nhìn về phía
núi xanh. Như ngứa chân, Bẻ nhảy lóc cóc trên hòn đá, rồi lại xuống xếp lại ô cỏ
khô, nằm nghỉ.
Bỗng có bốn chú Bê ồn ào từ bên trái chạy thốc ra. Trên múi mỗi
chú đeo chéo hai cái gạc tre nhọn hoắt.
3
Tiếng bê kêu lộn xộn, bốn Bê cứ chạy quanh.
Bẻ em - (Đứng dậy). Khổ chưa? Sao thế kia?
Bốn Bê - (Kêu). Mò... Cứu tôi với...
Cứu tôi với... mò... mò.
Bẻ em - Làm sao khổ thế kia, hử?
Bốn Bê - (Cùng kêu một lượt). Cứu tôi với...
Bẻ em - Đói hả?
Bốn Bê - (Cùng nói). Đói lắm.
Bẻ em - Đói thì ăn cỏ. cỏ kia kia. Ai cấm các cậu.
Một Bê - Cỏ đắng quá, không ăn được cỏ đắng.
Bốn Bê - Mẹ ơi! Mò... mò...
Bẻ em - Ông Ké đóng cái gạc này lên đầu à?
Một Bê - Ông lão Ké độc ác ấy đóng cái gạc này lên mũi
em. Không hiểu sao, từ hôm ấy thì mẹ em sợ em lắm. Mỗi lần em nghiêng đầu đòi
bú thì mẹ lại chạy. Em đói quá. Mà cỏ thì đắng, không ăn được. Em đành nhịn đói
dài. Từ hôm em không được bú, em gầy quá. Bụng em chẳng còn một giọt sữa, bụng
em tóp lại, cả ngày cứ sôi bụng ầm ầm. Em lại khóc. Mẹ em thương em, đến liếm
sườn cho em. Nhưng không hiểu sao, hễ em đòi bú thì mẹ em lại chạy thật xa. Anh
có hiểu tại sao không?
Bẻ em - Cũng dễ hiểu thôi. Tại cái gạc này nó đâm vào bụng
mẹ em (Cười, sờ bộ gạc của từng Bê). Ông Ké buộc chắc lắm. Đánh đai xung quanh,
chật nứt đầu ra, còn gì!
Bốn Bê - Thế hả giời ơi? Anh gỡ xuống cho em đi.
Bẻ em - Chắc lắm. Không gỡ được. Nhưng mà kể ra to xác bằng
các cậu mà chưa rời được vú mẹ thì cũng cần phải đóng hai cái gạc như thế vào đầu
để được tiến bộ, còn than thở nỗi gì!
Một Bê - Anh không cứu em ư...
Một Bê - Không ai cứu tôi ư, hả giời?
Một Bê - Ối giời ơi, người ta đóng gông vào mũi tôi. Tôi
phải chết đói mà cái gông cứ đeo trên mũi thế này ư?
Một Bê - Mẹ ơi, đói quá. Vú mẹ đâu?
Bốn Bê - Anh ơi! Tại sao lão Ké độc ác lại đóng gông lên
mũi em? Lão thù gì em thế?
Bẻ em - Im cả đi. Tôi kể cho mà nghe chuyện này. Ngày
trước, mẹ chúng tôi ở tận bên kia sông xa lắm. Chúng tôi vừa sinh ra được ít
ngày, đã phải đeo gác lên mũi rồi ông Ké sang đem về bên này nuôi, ông Ké bảo:
"Cỏ thì ăn không ngon như bú sữa, nhưng ăn cỏ thì sẽ chóng cứng xương,
chóng lớn". Từ đấy, hai anh em chịu khó đi tìm cỏ ăn, có khi leo mấy ngọn
núi mới gặp cỏ tốt, rất khó nhọc, nhưng chúng tôi chịu khó, không phàn nàn. Giường
cỏ này, vách đá này, đêm ngủ có ông Giăng xuống kể chuyện cổ tích cho nghe vui
lắm. Khi mới ở bên sông sang, chúng tôi cũng khóc, cũng oán ông Ké. Nhưng sau
nghĩ lại mới biết ông Ké tử tế. Ồng ấy không cho bú sữa mẹ, mà bảo ăn cỏ, là vì
ta sắp lớn rồi, ta không ỷ lại, ta phải đi kiếm lấy mà ăn.
Bốn Bê - (Nói lần lượt). Nhưng mà cỏ đắng lắm, không ăn
được cỏ đắng.
Bẻ em - (Reo lên). Thế thì tôi giúp các cậu cách này. Cỏ
sẽ không đắng, mà cỏ ngọt như đường phèn.
Bốn Bê - Ở đâu đấy?
Bẻ em - Ở trên nương mới của ông Ké. Ở trên nương thì đất
mát gần rừng, nhiều cỏ tươi lắm, hôm qua anh tôi theo ông Ké lên thăm nương đấy.
Tôi đương ngồi đợi anh ấy. ở đây nhiều bạn muốn đi nương lắm. Các cậu cũng nên
đi thôi. Trên nương mới nhà ông Ké, cỏ ngọt như đường phèn. Đợi anh tôi về thì
biết tin.
Một Bê - (Nói với cả bọn). Ta đứng đây đợi anh Bẻ.
Một Bê - Thế ngày trước, làm thế nào anh bỏ được cái gạc
trên đầu?
Bẻ em - Ăn cỏ tốt, đầu nó to ra, tự dưng cái gạc gãy,
rơi xuống.
Một Bê - Nếu vậy, chúng ta đứng đây đợi anh Bẻ để lên
nương ăn cỏ tốt.
(Bẻ vào).
4
Cả Đốm cũng chạy theo. Đốm vừa gặp Bẻ giữa đường. Đốm tăng tả,
rối rít chạy quanh Bẻ. Bẻ thì vui sướng tưng bừng từ dáng đi cái vẩy đầu, vẩy
tai, giơ chân.
Bẻ em - (Reo). Anh tôi kìa! Anh.
Đốm - (Hấp tấp). Anh Bẻ đấy. Nhiều chuyện vui lắm, vui lắm.
(Cả bọn xúm quanh Bẻ, bốn chú Bê đứng ngây nhìn. Trong câu
chuyện nghe Bẻ kể, nhiều khi cả bọn cùng nhảy, reo lên).
Bẻ - Các cậu có biết vợ chồng bác Gấu ở trên rừng không?
Đốm - Tôi chưa trông thấy các bác Gấu lần nào.
Bẻ em - Về mùa xuân, em nghe tiếng gấu gọi nhau trên
núi.
Bẻ - Phải đấy, vợ chồng bác Gấu và lũ Gấu con. Cả nhà Gấu
ở trong rừng thẳm. Mùa xuân, Gấu kéo nhau đi bẻ măng và uống mật ong. Mùa thu,
Gấu đi nhặt quả hạt dẻ. Gấu bố, Gấu mẹ, Gấu con cùng béo rung rinh, chân nặng
những mỡ, bước đi lặc lè, lặc lè. Béo đến nỗi mà khi mùa đông tới, suốt ba
tháng rét, cả nhà Gấu đứng tránh gió trong gốc cây không đi kiếm ăn, chỉ mút
hai bàn chân mỡ cũng đủ no. Sang xuân ấm áp, cả nhà Gấu lại kéo đi bẻ măng và uống
mật ong, mùa thu lại nhặt ăn quả hạt dẻ, qua hai mùa ãn măng, hạt dẻ và uống mật
ong thì Gấu bố, Gấu mẹ, Gấu con lại béo rung rinh, chân nặng những mỡ, bước đi
lặc lè, lặc lè... Đấy, cái nương của chúng ta ở trong vùng nhà bác Gấu.
Đốm, Bẻ em - Chúng ta cũng sẽ béo lặc lè, lặc lè như vợ
chổng bác Gấu.
Bẻ - Có ai biết anh Hươu không?
Đốm - Có, Hươu thì tôi quen. Hươu thì sao?
Bẻ em - Tôi biết anh Hươu thích ăn quả trám trắng.
Bẻ - Ở trên rừng thì hươu nhiều như lá cây và hươu sung
sướng vô cùng. Hươu uống nước ở những ngọn nước nguồn trong nhất núi. Hươu ăn
những quả trám trắng rất ngon vừa rụng xuống. Hươu làm chủ những sườn cỏ mượt,
cỏ ngọt, trời xanh rộng thế nào thì những cánh đồng cỏ của hươu bát ngát như thế.
Bẻ em - Ấy đấy. (Quay lại bốn Bê). Những sườn cỏ mượt, cỏ
ngọt, rộng bát ngát như trời xanh.
Bẻ - Cái nương của nhà ông Ké chúng ta ở trên sườn đồi,
giữa những đất Gấu, đất Hươu sung sướng. Hôm qua tôi gặp, mấy anh Hươu đến chơi
nhà ông Ké. Quần áo các anh ấy cũng vàng như của các chú Bê này, nhưng mượt mà
óng ả, và các anh béo tốt bằng trăm chú Bê. Mắt cứ sáng như hai ông sao mai,
tai Hươu cao dỏng, lá cỏ nở ngoài mười bước còn nghe tiếng, chân Hươu rướn lên
như gió. Tôi chưa gặp ai đẹp trai bằng những anh Hươu tôi gặp hôm qua. Trong những
cánh rừng thần tiên kia, họ sống, lao động, đói tìm ăn, khát tìm uống, đêm nào
cũng vui hát với ông Giăng, ông Sao, mãi tới khuya mới ngủ.
Bẻ em - Ở nương cũng có ông Giăng à?
Bẻ - Ông Giăng ở đâu cũng có. Ở nương cao, lên chơi nhà
ông Giăng lại càng gần nữa.
Một Bê - Có thật ở nương cỏ ngọt như đường phèn không, hả
anh?
Bẻ - Đúng, cỏ non ở trên nương ngọt như đường phèn.
Bốn Bê - Anh cho chúng tôi lên nương với.
Bẻ em - Lúc nào thì đi? Hay là ta đi ngay.
Bẻ - Đi ngay càng hay. Nếu ông Ké trông thấy cả bọn lên
nương, hẳn ông Ké ngạc nhiên và thích lắm. Ta đi ngay chiều nay thôi, đi vào
lúc có ông Giăng cho mát.
Đốm - Để tôi về tìm cơm ăn cho chắc dạ đã.
Bẻ em - Đi rủ bọn Ngỗng, bọn Gà, cả nhà bác Ỉn nữa.
(Bốn chú Bê cùng cuống quýt)
Bẻ - Tất cả chúng ta đều đi rủ thêm các bạn cùng lên
nương. Hẹn gặp lại nhau ở đây, lúc ông Giăng lên.
Đốm - Ông Giăng lên thì bắt đầu đi.
Bẻ em - Phải, ông Giăng lên thì bắt đầu đi. (Cả bọn toan
đi, mỗi người một ngả. Bốn Bê càng luống cuống).
Bốn Bê - Chúng em thì thế nào?
Bẻ em - Các bạn cứ nằm đây chờ ông Giăng lên.
Đốm - (Hốt hoảng). Khoan, khoan đã. Tôi nhớ rồi. Còn lão
bù nhìn Điếc thì thế nào. Đường lên nương sẽ đi qua vườn ngô, thế nào bù nhìn
Điếc cũng biết, thế nào lão cũng cản trở. Chúng ta phải tính lại đi.
Bẻ - Không nên quá lo. Tôi cũng vừa đi qua vườn ngô đấy.
Lão chỉ là bù nhìn canh ruộng ngô, người ta quên vẽ cho lão cái tai thế là lão
hóa ra điếc; bọn chim sẻ, chim ri khinh lão điếc thường sà xuống tận lưng lão
mà bẻ trộm ngô, chúng ta đã thương lão mà ngày ngày cắt canh gác chim hộ. Bây
giờ thì lão phải đi đòi lấy tai về mà nghe lây, chứ lão ỷ lại, lão ràng buộc thế
nào được ta, cản trở thế nào được ta.
Đốm - Nhưng mà hai cái tay lão ấy dài lắm, hai cái roi của
lão dài lắm, lão quất tất cả những ai muốn qua ruộng ngô. Chúng ta đi qua, lại
đi đông, thế nào lão cũng trông thấy, lão sẽ đánh chúng ta.
Bẻ - Không sợ.
Đốm - Nhưng mà lão đánh đau lắm.
Bẻ - Tôi hỏi lại: có ai muốn lên nương không?
(Tất cả nhao nhao "có, có").
Bẻ - Thế là được rồi. Cương quyết chiều nay đi. Chúng ta
sẽ tìm cách đối phó với bù nhìn Điếc.
Bẻ em - Đối phó thế nào?
Bẻ - Trước nhất, cần chúng ta nhất định đi. Đã nhất định,
thế nào cũng đi được. Thôi, mau mau đi rủ các bạn. Đúng lúc ông Giăng lên thì
đi đấy.
(Bốn Bê luống cuống).
Một Bê - Chúng em thì thế nào?
Bẻ - Các bạn có quyết tâm đi không?
Bốn Bê - Quyết. Có, có, quyết tâm...
Bẻ - Vậy thì các bạn cứ đợi đây. Đến lúc anh em tới đủ,
mát trời ông Giăng lên thì ta cùng đi.
Tất cả đi ra, còn lại bốn Bê. Bê nằm, Bê ngồi quanh tảng đá.
Có Bê buồn mõm, ra quơ vài cái cỏ nhai, rồi lại nhả ra, lại vào nằm bên tảng
đá. Vẻ chờ đợi, buồn buồn, đói đói, sốt ruột. Lát sau My rón rén vào.
5
My - Đi đâu mà cả lũ nằm đây thế này?
Một Bê - Nằm đợi lên nương đây.
Một Bê - Anh có biết nhà bác Gấu không. Bác Gấu uống mật
ong, ăn hạt dẻ quanh năm, cứ béo lặc lè, lặc lè...
My - (Tinh nghịch). Thế hả, còn gì hay, kể nghe nốt nào!
Một Bê - Có biết anh Hươu không? Ở trên rừng, Hươu chỉ
ăn quả trám trắng và ăn toàn cỏ non ngọt như đường phèn, ngọt hơn cả sữa mẹ em,
vì thế mà anh Hươu rất khỏe, rất xinh trai. Anh Hươu ở gần nương nhà ông Ké,
hôm qua anh ấy đến chơi, anh Bẻ cũng gặp...
My - Thế hả? Còn chuyện gì hay, kể nốt nghe nào?
Một Bê - Cái nương nhà ông Ké bây giờ rất vui; cấy lúa,
lại gieo vừng, trồng mấy trăm gốc sắn. Nhiều người ở trên ấy với ông Ké làm
nương cả ngày. Tối đến, đêm nào ông Giăng cũng thắp đèn sáng trưng ở ngay trên
đầu, trèo lên chơi nhà ông Giăng gần lắm, lúc nào cũng được.
My - Thế hả? Còn gì nữa?
Một Bê - Ở đây nhiều bạn sắp lên trên nương đấy. Bốn
chúng tôi cũng sắp đi.
My - Bao giờ đi?
Một Bê - Chốc nữa, lúc ông Giăng lên.
Một Bê - Trên rừng nhiều cỏ, cỏ rừng mùa đông không chết
rét như cỏ đồng, cỏ rừng không đắng như cỏ đồng, cỏ rừng ngọt như sữa mẹ tôi.
Chốc nữa anh hỏi anh Bẻ mà xem, sướng lắm.
My - (Cười), Ừ, sướng. Này các chú Bê khờ dại, lặng yên
tôi kể chuyện thằng Cuội cho mà nghe, chuyện thằng Cuội ngày xưa đánh lừa ông Hổ.
Một hôm Cuội đem ở đâu về một miếng thịt. Cuội ngồi nướng ăn, thịt nướng thơm bốc
lên, làm cho ông Hổ đi qua mà không đi được, cứ đứng thèm rớt rãi ròng ròng. Cuội
bèn chia cho ông Hổ một miếng. Ông Hổ vừa nhai vừa khen, hỏi thịt gì mà ngon thế?
Cuội đáp rằng thịt rốn tôi cắt ra đấy, thịt rốn ngon nhất trần gian. Ông Hổ tưởng
thật, bèn mượn Cuội con dao, cúi xuống xẻo một mảng thịt rốn bỏ vào lửa nướng...
Một Bê - Người ta bảo ông Hổ khôn nhất, khỏe nhất rừng
mà, sao ông Hổ lại dại thế. Ông ấy có chết không?
My - Sống thì cũng thành tật. Nhưng thế cũng chưa phải
là dại, có những đứa còn dại hơn ông Hổ nhiều.
Một Bê - Ai mà lại đi cắt rốn ăn, ai còn dại hơn thế nữa.
My - Thế mà có đứa còn dại hơn đấy. Chẳng nói đâu xa, những
đứa dại ấy là các chú chứ chẳng ai đâu.
Bốn Bê - Sao anh lại bảo chúng tôi dại?
My - Thế ra bọn này chết đến đít mà không biết. Này nhé
lão Ké là người độc ác nên lão mới đóng cùm lên đầu các chú, để các chú không
được bú mẹ, các chú phải ăn cỏ và phải học cày bừa. Trên nương cao, làm gì có cỏ
tốt. Chẳng qua là trên ấy đương vỡ đất mới, lão Ké sai bọn thằng Bẻ về lừa các
chú lên, lên để kéo cày kéo bừa đấy thôi.
Một Bê - Mẹ tôi dặn tôi: "Lớn lên thì con đi
cày", tôi sợ gì cày đâu.
My - Chú mày muốn khó nhọc vào thân thì cũng mặc xác
chú. Nhưng mà các chú cũng chẳng đi qua được vườn ngô. Cái gậy lão bù nhìn Điếc
dài như thế, nó giáng cho một cái thì chết mất ngáp.
Một Bê - Thế anh không đi? Anh Bẻ không đến rủ anh hả?
My - Không ai động dại lên rừng như bọn các người. Tao đến
để cứu các chú đây, biết điều thì tỉnh ngay đi.
Một Bê - Anh cứu em với.
My - Một chú muốn cứu. Chú nào nữa?
Một Bê - Anh cứu em với.
My - Hai chú. Chú nào nữa. (Im lặng). Được, ta sẽ cứu
cho. Có gì là khó đâu. Chỉ việc là không đi thì đừng đến đây nữa. Mặc cho chúng
đi, các chú ở nhà, đến mùa xuân này, có bác thợ đúc cày người Mèo ở trên núi xuống,
bác thợ đúc sẽ lấy búa gõ những cái cùm trên đầu các chú xuống, thì lại tha hồ
mà bú mẹ. Như tôi đây, chẳng phải làm gì. Suốt ngày chỉ chơi, đói thì đi lây
cơm, lấy cá nướng mà ăn. Rồi tao ăn trộm, tao chia cho chúng mày, chúng mày ăn
trộm cũng chia cho tao. Như thế, chúng ta chỉ còn có việc ăn, ngủ, chơi thôi,
thế mới thật thích. Đã nghe ra chưa?
Hai Bê - Chúng em nghe ra rồi.
My - Thế thì đi đâu mà chơi, đừng nằm đây nữa. Tao còn
phải đi cứu nốt những đứa khờ dại như chúng mày.
(My ra).
II
Một Bê - Đi chơi thôi.
Một Bê - Không.
Một Bê - Mày còn muốn lên nương à.
Một Bê - Ta không lên nương nữa. Nhưng phải ngồi đây đợi
anh Bẻ để trả lời anh ấy rằng ta không lên nương nữa.
Một Bê - Dốt quá. Cứ đi, cần gì phải đợi.
Một Bê - Mẹ đã dạy ta ở đời phải ngay thẳng, ta chưa biết
nói dối, ta chưa sai hẹn với ai bao giờ. Mày quên lời mẹ dặn rồi a?
Một Bê - Đi chơi thôi.
Một Bê ra, một Bê ra theo. Còn hai Bê đứng ngẩn ngơ quanh tảng
đá.
Một Bê - Chúng ta trả lời anh Bẻ rằng sợ lắm không đi nữa.
(Nhìn về phía sau). Ông Giăng lên rồi kia.
III
<Vẫn ở vườn cỏ ấy. Bấy giờ là chập choạng tối, những tụm cỏ,
bóng mái nhà, bóng núi có tối hơn. Nhưng đằng sau núi thì trời dần dần sáng như
lụa, chưa trông thấy ông Giăng, nhưng mà ánh trăng đã hắt xuống mọi vật một ánh
sáng nõn, êm đềm.
Hai Bê, bên tảng đá, một đứng, một nằm nghe Bẻ đương nói thì
Đốm, rồi Bẻ em lần lượt ra.
1
Đốm - (Hấp tấp). Tôi vừa đánh thằng My, tôi đánh nó một
trận nên thân. Nó xui bọn nhà Ỉn đừng đi, tôi tức quá, tôi cho nó một trận bò
lê kéo càng.
Một Bê - Thế thì ít bạn đi quá.
Bẻ em - (Đi ra). Không ít đâu. Họ đương sắp tới. Hàng
đoàn hàng lũ đây. Đông lắm. Đêm nay ta vừa đi vừa hát, không biết mỏi chân!
Bẻ - Tốt quá, tốt quá. Hãy đứng lại đây. Tôi đã đi hỏi
các người già trong xóm, nghe nói thì tôi hiểu thằng My, tôi hiểu bù nhìn Điếc
rồi.
Đốm - Thế thằng My thế nào.
Bẻ - Các ông già trong xóm bảo My là một đứa lười. Người
ta bảo nó phải đuổi bọn Chuột trộm cắp đi thì nó nói: "Tôi là mèo đỏ mũi,
không biết bắt chuột, chỉ ăn vụng thôi". Và nó chỉ toàn đi ăn vụng. Đã hèn
làm, lại chỉ muốn ăn ngon. Cơm không cá không ăn, ngủ không có bếp tro ấm, có
chăn bông thì không ngủ được. Suốt đời chỉ giả vờ ốm, rúc quanh ống quần người
ta. Nhưng mà cả xóm này đều biết nó là thằng lười, không ai tin nó. Bây giờ nó
sợ chúng ta lên nương hết, ông Ké cũng lên nương thì không ai ở nhà cho nó ăn,
để nó ăn bám, nên nó không cho chúng ta đi.
Đốm - Nếu vậy, lôi cả nó đi nữa. Bắt nó phải bắt chuột,
bắt nó phải làm việc. Để đấy tôi đi bắt nó cho.
Một Bê - Còn bù nhìn Điếc thì thế nào?
Bẻ - Lão cũng là một người lười. Lão chỉ tránh việc. Lão
không có tai mà lão cứ đứng đấy kêu, không biết đi đòi người ta làm tai cho, lại
còn nhờ chúng ta đuổi chim. Chúng ta sẽ mặc lão từ nay, để lão phải đi đòi lấy
hai cái tai của lão.
Đốm - Thế thì chẳng sợ bù nhìn Điếc. Không bao giờ chúng
ta sợ kẻ lười biếng.
Hai Bê - Không sợ bù nhìn Điếc nữa.
Bẻ - Các bạn đi gọi nốt những ai đi chậm thì nhanh lên.
Đốm - Tôi về bắt thằng My đi.
Hai Bê - Chúng ta đi tìm Bê.
2
Bẻ em - Làm thế nào qua được vườn ngô. Cái gậy bù nhìn
Điếc dài lắm, lão quật xuống được khắp vườn.
Bẻ - Chúng ta sẽ hỏi ông Giăng. Ông Giăng đương lên kia.
Ông Giăng từ từ nhô lên bên núi. Ông Giăng hiền từ như một nụ
cười. Trời trong. Đôi lúc thoáng qua một đám mây.
Bẻ em - Ông Giăng, ông Giăng đẹp lão lắm.
Bẻ - Ông Ké bảo rằng ở trên nương núi cao mà, những đêm
rằm thì ông Giăng xuống đúng ngay đỉnh đầu chúng ta thế này, tha hồ trèo lên nhảy
múa, hò hát.
Bẻ em - Thích nhỉ, em ở nương thì em sẽ lên chơi ông
Giăng luôn, ông Giăng vui lắm, cứ thấy mặt là thấy cười.
Trăng sáng óng ánh. Bóng núi bóng cây in thẫm nét. Nước lần ở
máng rỏ lách tách. Bài hát "Trăng sáng trên cao" 1 nghe khi xa khi gân, không biết tiếng hát
trong làng hay trên ông Giăng.
Ông Giăng - Các em đứng làm gì đấy?
Bẻ - Chúng tôi đợi bạn đê đi lên nương.
Ông Giăng - Đi lên với ông Ké trên nương à? Hoan nghênh
lắm. Mấy lâu nay, người các làng lũ lượt lên núi vỡ đất phá nương. Hôm qua, hôm
kia, hàng đàn trâu, đàn bò với người đeo vai cầy lên nương. Lại nhiều người đi
đêm, đêm nào ta cũng soi đường cho người đi. Họ vừa đi, vừa hát. Chốc nữa, các
em cũng cứ theo ánh trăng của ta mà đi.
Bẻ em - Nhưng mà lão bù nhìn Điếc đánh chúng tôi.
Ông Giăng - Sợ gì!
Bẻ em - Nhưng chúng tôi qua vườn ngô, thế nào lão cũng
giơ roi ra chặn đường, cái tay lão dài, cái roi lão dài, lão không có tai,
không nghe tiêng chúng tôi đi, nhưng mà gậy lão nện xuống thì vỡ đầu mất. Làm
thế nào, hả ông Giăng?
Ông Giăng - Này nhé. Lão trông thấy các em, nhưng lão
không nghe thấy các em đi. Thế thì lúc ấy ông Giăng gọi đám mây bay xuống bịt mắt
lão lại, lão sẽ không trông thấy gì nữa. Tha hồ đi qua.
Bẻ - Thế nào nhỉ? Bao giờ thì ông Giăng bịt măt bù nhìn
Điếc cho chúng tôi đi qua vườn ngô?
Ông Giăng - Để xem lão đương làm gì nào.
Bẻ em - Lão đương làm gì đây?
Bẻ - Đừng đi vội. Ông Giăng nhìn xa hộ xem các bạn tôi
đã đến chưa?
Bẻ em - Nhất định phải tìm bạn Đốm. Tôi không sợ. Đã là
anh em thì không được bỏ nhau. Biết đâu cái thằng My độc ác lại không lập mưu
đánh chết Đốm rồi. Tôi trở lại tìm bạn Đốm.
Bẻ em, toan chạy ra, giữa lúc Đốm dắt My vào.
3
Đốm - Không đánh nhau nữa. Chúng tôi đoàn kết rồi (Cả bọn
reo lên).
Tất cả - Thế nào thế này...
Đốm - Tôi với bạn ấy đã toan choảng nhau. Nhưng vừa gặp
lúc ông Giăng lên. Ông ấy phân xử. Ông ấy bảo: "Đốm không được nóng tính.
Đánh nhau không thể làm cho My hiểu Đốm, mà lại càng ghét nhau hơn. Bây giờ phải
nói với nhau dịu dàng". Ông Giăng lại bảo My: "My nghe lời ông Giăng
đây. Tại sao My đói? Là vì em không chịu làm. Em bảo tại mũi em đỏ nên em không
biết bắt chuột, em hãy thử bắt chuột đi đã, xem sao". Bạn My cãi:
"Nhưng mà chúng nó lên nương hết cả rồi. Tôi cũng muốn bắt chuột, tôi cũng
muốn giữ nhà, nhưng không còn ai ở nhà". Ông Giăng cười: "Nếu em muốn
chữa bệnh lười của em thì có nhiều cách. Em đừng coi thường Bê, mà em phải bắt
chước Bê. Em đi theo các bạn lên nương, các bạn giúp em cùng canh giữ vườn tược,
nhà cửa, mà trước nhất là bạn Đốm đây. Các bạn lên nương giúp ông Ké vỡ nương
đó là một việc làm có ích". Nghe ông Giăng nói thế, My bèn bắt tay tôi.
Chúng tôi cùng nghĩ rằng: "Tại sao chúng tôi cùng ở một nhà lại không làm
lành với nhau. Ai nói câu cãi nhau như chó với mèo, từ nay câu ấy không đúng,
chúng tôi phải làm cho từ nay ai cũng phải khen ngợi: thương nhau như chó với
mèo".
My - Anh Đốm nói đúng. Tục ngữ từ nay có câu: Thương
nhau như chó với mèo!
Bẻ em - Chân bạn có bệnh tê thấp phải đi bít tất quanh
năm thế kia thì lội nước sao được.
My - Xin đừng chế giễu em! Em sẽ bắt cá bắt chuột được.
Bẻ em - Tai bạn không chịu được gió, đi đường xa gió thổi
thì lộng óc lắm.
My - Xin đừng chế giễu em. Không bao giờ em kêu đói nữa.
Chúng em vừa qua vườn ngô, lão bù nhìn Điếc đuổi đánh chúng em không được đấy.
Đốm - Đấy là ông Giăng ông ấy thử quyết tâm của chúng
tôi, ông ấy hỏi My: "Các bạn em lên nương đã đi lâu rồi, em có nhất định
theo các bạn không? Đi qua vườn ngô một mình em có dám không?". My đáp:
"Em không sợ bù nhìn Điếc nữa, em quyết tâm rồi". Chúng tôi đi qua vườn
ngô, sáng trăng vằng vặc, lão Điếc quất roi xuống như mưa. My can đảm lắm,
trúng mấy roi của lão, bật cả từng mảng lông, mà không khóc vẫn chạy vượt lên tới
đây.
Ông Giăng - Đốm và My là những bạn can đảm.
Tất cả hoan hô, hoa chân múa tay chạy quanh hai bạn.
My - Nhưng mà em còn lạc hậu. Em lười từ thuở bé tới giờ
rồi. Lên nương thì các bạn phải giúp em.
Bẻ em - Xin lỗi bạn, vừa rồi tôi nói đùa, tôi không ghét
bạn mà tôi sẽ giúp bạn.
Một Ỉn lùi lũi đi ra: "Tôi mới là lạc hậu".
Ỉn - (Vừa thở vừa nói). Tôi mới là lạc hậu. Tôi chỉ đi
chậm có vài bước mà không theo kịp các bạn.
Bốn Ỉn - Thảo nào, cứ thấy thiếu một...
Tất cả - Hoan hô! Hoan hô!
Bẻ - Thưa các bạn, gió mát đương thổi, trăng rằm đương
trong leo lẻo, chúng ta đương phấn khởi, chúng ta hãy lên đường cho khỏe chân.
Ông Giăng - Các em cứ đi, vừa đi vừa hát cho thật vui.
Ông Giăng sẽ soi đường thật sáng cho các em đi lên đến tận nương.
Tất cả - Ông Giăng soi đường cho chúng ta lên đến tận
nương!
Bẻ - Vâng chúng tôi lên đường. Chúng tôi lên đường đi tới
quê hương mật ong của bác Gấu rất béo, chúng tôi đến những cánh đồng cỏ ngọt của
anh Hươu đẹp trai, chúng tôi tới những đồi nương mới khai phá của ông Ké hiền từ,
rất kính yêu của chúng tôi. Chúng tôi giúp ông Ké trông nhà cửa vườn ruộng.
Chúng tôi làm việc, mỗi đứa một việc rất chăm, không bao giờ biết mỏi, không
bao giờ còn lười. Chúng tôi đương đi tới vùng đồi nương yêu quý và giàu có,
lòng vui sướng xiết bao. Ông Giăng ơi! Ông Giăng, ông cùng đi cùng hát với
chúng tôi.
Tiếng hát đồng thanh tưng bừng nổi lên. Tất cả bọn, dắt nhau,
vừa đi, vừa nhảy, vừa hát, quanh một vòng rồi xa dần vào chân núi. Tiếng hát
chan hòa. Ánh trăng lung linh. Ông Giăng cũng rún rẩy. Cây núi rập rờn. Tiếng
hát xa, dắt cả ông Giăng theo.
4/1956
--------------------------------
Trăng sáng trên cao: Một bài hát tiếng Tày, bài hát phổ biến
ở Cao - Bắc - Lạng từ năm 1940 khi mới ra đời đội Tuyên truyền Việt Nam giải
phóng quân. |
Ngày xưa có câu giễu: "Ngớ ngẩn như chim chích lạc rừng". Câu chế giễu chim chích ấy thế mà đến ngày nay vẫn còn đúng.
Các bạn hãy nghe tôi kể câu chuyện vừa rồi có anh Chích Bông đã lạc rừng như thế nào.
° ° °
Ở vùng ngoại ô một thành phố miền Bắc nước ta, có một nơi phong cảnh đồng ruộng và làng mạc thật là đẹp. Một làng nhỏ, rất nhỏ, rất xinh. Bạn hãy vào làng chơi. Trong mỗi khu vườn, um tùm những cây hồng bì, mùa đến thì phủ đầy từng chùm quả vàng. Lại có những rặng xoan cao hoa tim tím man mát. Bên ngoài che dài một bờ giậu hồng bụt, hoa nở, đứng thật xa trông vẫn rực rỡ như có một trăm người mặc áo hoa đỏ. Xa kia cánh đồng bằng phẳng liền bên một đầm nước im lặng, làm cho trong làng và trong vườn càng tĩnh vắng. Các đàn chim và trẻ em thường mê chơi ở khoảng vườn xinh đẹp này.
Nhưng nơi vui chơi êm đềm ấy không phải quanh năm lúc nào cũng một màu hớn hở. Bởi vì một năm có những bốn mùa. Có những mùa đáng yêu. Cũng có mùa không thích mấy. Đó là khi mùa lạnh về. Các bạn nhỏ sợ lạnh, ở trong nhà, đi guốc, rồi đứng thập thò nhìn ra cửa. Không thấy cây, cũng không thây cánh đồng. Chỉ thấy mù mịt sương mù. Chỉ nghe tiếng mưa rơi lộp độp. Và gió rét buốt lùa vào, làm đỏ cả mũi, làm cóng tay và khiến cho hai hàm răng đánh bài đàn lập cập. Rét mướt càng khiến ai cũng mong mùa xuân ấm trời trở lại.
Lại chán nữa là đến mùa đông giá lạnh thì những đàn chim, những bạn thân thiết của trẻ em không còn dám ở lại nhởn nhơ vườn này. Đã thành một lệ quen, mỗi khi mua phùn, gió bấc về thì những chú chim quanh năm chỉ mặc độc một tấm áo đều phải tìm đi tránh rét, đến những vùng ấm áp hơn. Mùa đông tới, chim bay đi hết, ở đây chỉ còn lại có một mình Bé. Cho nên, mùa rét thì Bé buồn, Bé tha thẩn đợi mùa xuân trở lại.
° ° °
Bé hay bấm đốt ngón tay tính. Tính như thế thì hình như thấy sự chờ đợi càng lâu. Nhưng hễ không nghĩ tới, thì ngày giờ lại qua đi nhanh chóng. Bé có nhận xét như vậy.
Thê rồi mùa xuân mong ước đã đến.
Đầu tiên, từ trong vườn, mùi hoa hồng sực nức lên. Không khí còn hơi nước lạnh lẽo. Trong vườn bây giờ đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng bì đã cởi bỏ hết những cái áo lá già đen thủi. Trên cành lấm tấm mọc mầm xanh. Những cành xoan khẳng khiu đương muốn trổ lá. Những cành xoan gầy gùa sắp buông tỏa ra những tàn hoa sang sáng, tim tím. Ngoài kia, rặng hồng bụt đã có nụ. Nhiều bạn hàn xóm đa đến rình đợi ngắt nụ hoa hồng bụt đỏ về bày chơi.
Mùa xuân tươi đẹp đã về. Mà sao các bạn chim vẫn chưa về.
Ô hay, mùa xuân năm nay về cùng với nhiều cái lạ, Bé chưa từng thấy.
Trên cánh đồng trước mặt, mọi khi, hễ có gió rét thì sương phủ mù mịt. Năm nay, mùa đông qua đi, cánh đồng vừa tan sương, Bé nhìn thây cái lò gạch đỏ ối. Buổi sáng, mấy cái lò gạch thi nhau nhả khói lên trời. Bé hỏi bố thì bố bảo đấy là lò gạch của các công trường. Công trường là cái gì. Bé chưa biết.
Cuối cánh đồng, không còn trông thấy nhiều bụi tre xanh mờ mờ như mọi khi. Những bức tường vàng rực dần dần nghển lên. Bố bảo tường ấy là tường nhà máy trạm bơm thủy điện. Bé cũng chưa bao giờ biết những trạm bơm.
Thế rồi, dày điện chăng qua cánh đồng chi chít như mắc võng. Những đàn chim ri có tính hay hoảng hốt nháo nhào đâm cả vào dây thép. Các cu cậu tưởng mắc lưới, cuống cuồng bay vổng lên.
Vẫn chưa hết chuyện lạ.
Một hôm từ đằng xa kia có hai cánh tay sắt dài phóng tới vươn thẳng vút qua đầu làng. Rồi từ khi có hai cánh tay đường sắt vắt qua thì ngày ngày rầm rộ từng chuyến tau hỏa kéo hàng chục, hàng trăm cái toa đi. Tàu vừa chạy, vừa hét, vừa hồng hộc thả khói. Trên tàu thật đông người ngồi. Lại cả từng toa tre gỗ, máy, thóc, ngô, cả trâu, bò, ngựa cũng được đứng trên mặt toa tàu.
Hàng đoàn tàu và toa rộn râ miên man nôi đuôi nhau đi, không biết đến tận những đâu. Có khi đoàn tàu đi đã xa mà tiếng còi tàu và làn khói tỏa, và những tiếng hát còn vẳng lại. Bé hồi hộp như mình cũng đương được ngồi trong đoàn tàu đi phăng phăng đến những nơi xa.
Bố bảo Bé: "Trên miền Bắc nước ta bây giờ ở đâu cũng xây dựng nhiều các nhà máy. Bao giờ con lớn, con sẽ được đi xem nhiều nơi".
Nghe bố nói thế, Bé thích lắm.
Bé mong đợi các bạn chim về để kể chuyện.
Mùa xuân đầm ấm về. Những đàn chim đã trở lại. Bé càng mừng. Thích nhất các bạn về lần này sẽ được xem những cái mới lạ trên cánh đồng nhà.
Xa xa, tiếng chim ríu rít, líu lo. Bè bạn của Bé đã trở về khu vườn vàng nắng.
Mùa xuân đã về. Mùa xuân đã về, ngày ngày có biết bao các con chim bay trên vòm trời rồi xuống các cành cây, tíu tít thoăn thoắt như đan lưới, như dệt cửi.
Bé nghe tiếng chim trên trời, nghe được cả tiếng lá nở trong cỏ, Bé long tong đi guốc ra đứng trước sân. Bé nhìn lên cây.
Trong các bạn, thân nhất với Bé là Chích Bông.
° ° °
Bé đứng đợi Chích Bông.
Bé đã vẫy chào Bướm, chào anh Chào Mào, anh Sáo Sậu, với Bồ Các, cả Cò và Vạc nữa. Nhiều chim về quá, bay rợp bôn phía, đếm không xiết nữa.
Nhưng vẫn chưa thấy Chích Bông. Lại cũng chưa thấy những chàng Sêu cao kều về mò tìm ăn trong các vùng bùn nước.
Bé có ý nóng ruột đợi Chích Bông. Bé mong là phải, như ai cũng đã biết đấy, Chích Bông là bạn thân, Chích Bông cũng bé bỏng, mà ngoan, như Bé.
Chích Bông là con chim xinh đẹp nhất thế giới loài chim. Hai chân bằng hai chiếc tăm. Tuy nhiên, cái chân tăm ấy nhanh nhẹn, nhảy liên liến. Hai cánh nhỏ xíu, cánh nhỏ mà xoải vun vút. Cặp mỏ Chích Bông tí tẹo bằng hai cái vỏ trâu chắp lại. Thê mà cặp mỏ tí hon gắp sâu trên lá rất nhanh. Nó khéo biết moi những con sâu đục lá nằm ẩn trong thân cây vừng ôm yếu. Chích Bông năng nhặt sâu, bắt mối phá mùa màng và cây cối. Cho nên Chích Bông cũng là bạn của bà con làm vườn làm ruộng.
Chích Bông đã có hẹn về sớm để nhặt sâu ruộng rau với mẹ, với chị Bé và Bé. Mỗi ngày, Bé ở lớp học về, Bé tha thẩn ngoài vườn rau vói mẹ, với chị. Những ngày đầu xuân chơi ngoài ruộng màu rất vui. Lại giúp được việc người lớn được. Trên trời có chim bay, bướm bay. Cả những con chó nghịch ngợm cũng tong tả theo người ra ruộng, chó sủa oang các bờ bụi. Trẻ con thì cùng người lớn đi làm, lúc nhặt cỏ, vun gốc, bắt sâu, lúc đi chơi.
Phải rồi, bé đã hẹn Chích Bông chóng về những ngày đầu xuân.
Thế mà bây giờ chưa thấy.
Bé ngóng ra đằng xa. Một cô Bướm bay tới. Bé hỏi :
- Bướm ơi! Bướm có gặp Chích Bông đâu không?
Bướm có tính hớt lẻo. Bướm láu táu nói :
- Chích Bông à? Khéo nguy mất. Tôi vừa vùng vẫy mãi mới thoát qua được một cơn gió to lắm. Cánh tôi rách toang cả đây này.
- Thế thì Chích Bông thế nào?
- Bão vùi chết rồi chứ còn thế nào!
Một đàn chim Bồ Các bay qua. Bé hỏi :
- Các anh Bồ Các! Các anh có gặp Chích Bông về không?
Bồ Các lắm điều, kể lể một thôi một hồi :
- Úi cha cha! Không biết ở mặt đất bây giờ loạn lạc thế nào mà cứ bụi mù bụi mịt. Cái này mới khiếp, có cành cây khổng lồ, cứ khua khoắng lên trời. Đụng vào những cái cành ấy thì tan xác mất. Bọn tớ sợ quá, phải bay tít cao lên lưng chừng trời. Hú vía!
- Tôi hỏi Chích Bông cơ, có gặp Chích Bông không?
- Chích Bông chỉ bay thấp lè tè không biết bay cao như chúng tớ thì có khi toi rồi.
Bé lại trông thấy một anh Vạc đương xoải cánh nhịp nhàng từ từ qua. Vạc nghiêng mắt nhìn xuống hồ nước, bay về cuối cánh đồng.
Bé gọi :
- Anh Vạc ơi anh Vạc!
- Gì thế?
- Anh có trông thấy Chích Bông ờ ngoài hồ không?
- Giời ơi, Bé đã biết chưa, khắp mặt đất bây giờ đỏ rực lên cả đêm, tôi chẳng bắt được con cá nào. Bé trông tôi đây, tôi phải bay thật cao mà vẫn còn nóng quăn cả lông cánh lên thế này!
Bé lắc đầu không hiểu. Có những cái gì ở các nơi mà khủng khiếp thế?
Bé buồn. Ai cũng toàn nói những nguy hiểm. Có thể Chích Bông đã gặp tai nạn dọc đường rồi. Con đường bay về đây năm nay khó khăn quá. Cả những cậu sếu cao lớn ngụ ở ngoài đầm nước mà cũng không thấy về. Thế thì Chích Bông bé nhỏ, Chích Bông làm thế nào vượt nổ? hàng trăm cái tai nạn dọc đường.
Bé muốn hỏi thăm nhiều nữa. Nhưng cũng không còn chim nào về qua để Bé hỏi.
° ° °
Mùa xuân càng ngày càng đẹp. Nắng ấm rực rỡ làm hồng hào mặt người. Chim đã về tha rác làm tổ, chim hót vang trời.
Một hôm, còn sớm, Bé vừa thức dậy. Trong nhà im lặng, bà đương nhóm lửa dưới bếp. Đàn gà dậy sớm, lao xao trò chuyện đằng vườn sau. Một mảnh nắng sớm đã nhảy vào cửa sổ, giục Bé ngồi dậy. Mắt Bé đùa với mảnh nắng. Bé chưa đoán được ra đấy là ánh nắng lung lay hay bóng lá lung lay. Có gì đâu. Bởi vì, Bé chưa ngước lên, Bé chưa trông thây một chú chim loắt choắt vừa đậu xuống cành trúc đã làm rung cả bóng nắng, bóng lá trong cửa sổ.
Bé nghe tiếng :
- Chiếp! Chiếp! Bé ơi!
Ồ tiếng rất quen. Bé ngẩng lên, thoắt một cái, Chích Bông đã sà vào bậu trên cửa sổ. Ôi chao, sung sướng ơi.
Nhưng Bé hỏi, có ý dỗi :
- Sao bây giờ mới về?
- Thế là nhanh đấy. Nếu Bé mà đi thì hết mùa này chưa chắc đã về được!
- Thế là thế nào?
- Úi chao, một kho chuyện mang về đây.
Thế là Bé cười.
Chỉ vì, nhớ Chích Bông mà hờn dỗi, cơn giận của Bé cũng nhạt ngay. Bé trèo ra đầu giường. Bé vừa cười, vừa bắt Chích Bông kể chuyện cho nghe.
Chích Bông đậu vắt vẻo trên bậc cửa sổ, cong mỏ xuống chuyện. Chích Bông kể chuyện dọc đường.
Thì ra, Chích Bông bay lạc đường. Chích Bông lạc xa quá, rắc rối quá.
Mùa đông vừa rồi, cũng như mọi mùa đông trước, Chích Bông bay đi tránh lạnh ở vùng ấm áp đông đúc nhà cửa.
Đường ấy năm nào cũng bay qua, năm nào cũng vẫn thế, Chích Bông đã thuộc làu. Này nhé, bắt đầu thì bay qua cánh đồng phang lặng, trên một quãng rừng thưa đốm xanh đốm vàng, qua một dãy đồi đất đỏ, rồi lại một cánh đồng, rồi đến đây nghỉ cánh bên này bờ để lấy hơi rồi cố sức vượt một lèo qua mặt hồ. Thế là sắp tới nơi làng mạc đông người rồi.
Câu chuyện rắc rối đã xảy ra từ lúc trở về đến chỗ cái đầm nước ấy.
Khi Chích Bông ở trong làng trông ra thấy mùa xuân đã thổi hơi ấm và ánh nắng về thì Chích Bông nhớ lời bạn dặn trở lại.
Chích Bông trở về. Ngày xuân trong sáng, đất trời đẹp như tranh vẽ. Chích Bông vừa bay vừa nhìn xuống đồng ruộng, xóm làng, rừng thưa, quên cả mỏi cánh.
Chích Bông nhìn ra trước mỏ, đã thây ánh bóng sáng dưới đầm nước. Nghĩ nhẩm: "À đã tới cái đầm mọi năm vẫn bay qua rồi!"
Nhưng, ô hay! Càng xoải tới thì thấy dưới kia mặt nước cứ mở ra mênh mang trắng xóa. Cái hồ nước này to ghê, khác hồ nước mọi năm. Lẽ nào lạc đường? Năm nào chẳng đi qua đây. Tuy nhiên, Chích Bông do dự. Bởi vì thật là có những sự lạ khác mọi năm.
Mọi năm, đứng đây cũng trông thấy rõ cả từ ngọn cỏ phơ phất bên bờ kia. Bây giờ chỉ thấy bên kia mờ mờ xanh xanh. Cánh ngắn như Chích Bông, bay qua thì bị ngã tõm xuống nước mất. Biết làm thế nào bây giờ?
Nhưng rồi Chích Bông nghĩ ra một mẹo. Chích Bông sẽ bay men hồ nước sang. Ai ngờ càng bay càng thăm thẳm. Đỗ nghỉ cánh đã hai ba lần rồi mà vẫn chỉ một bờ nước trăng trắng kéo dài trước mặt.
Thế là Chích Bông men theo bờ nước cho mãi đến chiều. Cánh đồng và mặt nước vẫn phẳng lặng, chẳng nói năng gì. Mà chẳng gặp được ai để hỏi thăm. Chích Bông bối rối. Rơi Chích Bông bình tĩnh nhớ ra ở các bụi cây lau bờ nước thường trú ngụ họ nhà Chích Chòe. Nhà Chích Chòe không đi tránh lạnh bao giờ. Ta tìm đến hỏi thăm đường mới được.
Nghĩ thế, Chích Bông liền sà xuống, chui vào một bụi lau, gặp chị Chích Chòe đương đứng run rẩy soi gương trên mặt nước.
- Chị ơi, cái đầm nước mọi khi ở đây đâu?
- Vẫn đầm nước mọi khi đây.
- Dạo trước, tôi qua đây không thấy nhiều nước thế này.
- Dạo trước với bây giờ, cái gì cũng đổi khác rồi. Tháng trước, đây là đám đầm lầy. Bây giờ tôi đã đứng soi gương nước trước nhà tôi được. Người trong làng đã đào một con mương nối ra sông, bắt dòng sông đem nước vào. Con mương dần nước vào làm cho hồ nước phình ra to thế này. Như vậy có thể quanh năm lấy nước vào ruộng làm hai mùa ba mùa được.
- À ra thế! Thế thì đi khó quá.
- Chú muốn đi đường nào?
- Tôi sang bên kia.
- Cứ bay một quãng nữa gặp một con mương. Ở đây, trông thấy mặt trời thì bay theo sang được bờ bên kia.
Chích Bông vội vã bay đi.
Mặt trời đã lên trên ngọn đồi.
Chích Bông quên rằng từ sáng đã đi quanh sang hướng khác lối bay ngày trước.
Chích Bông đã qua đồi một đỗi thật xa. Trông thấy có những cái lò gạch ở trước mặt. Tưởng là lò gạch mọi khi ở cánh đồng làng. Mừng quá.
Nhưng đến gần thì không phải. Mới nhận ra trong cánh đồng có hàng trăm lò gạch đỏ ối, chứ không phải chỉ một cái lò gạch như ở cánh đồng quê. Đằng sau những dãy lò gạch ấy thì, ôi thôi, miên man trập trùng không biết bao nhiêu là tường vàng, là mái đỏ, là người, là máy. Chàng Chích Bông chỉ quen ở nơi thanh vắng, tĩnh mịch, bây giờ trông thấy lạ lùng thế, cứ hoa cả hai tròng mắt bé nhỏ. Ngày xưa, "chim chích lạc rừng" ngơ ngẩn không biết đằng nào mà ra, bây giờ chim chích lạc qua công trường thì biết đằng nào mà bay! Câu chế giễu chim chích đến ngày nay vẫn đúng như thế.
Những bức tường cao dài vàng vàng choáng mắt càng bay càng choáng mắt. Những mái nhà đã cao, thế mà trên nóc nhà còn mọc lên những cánh tay cần trục lêu đêu như những cành cây cổ thụ bằng sắt. Chẳng có bão gió gì, mà cần trục cứ múa lên, quay cuồng bốc gạch, ngói, các thứ từ mặt đất lên xây tường, lắp mái dựng thành nhà, từng dãy nhà. Chỗ nào cũng những người, những máy, những xe tải máy. Anh chàng Chích Bông đi lạc cứ quáng cả mắt, ngỡ trên mặt đất bây giờ không có đêm nữa, đèn điện chói lòa xóa bỏ đêm rồi. Lại không có cây, không có hoa lá thì Chích Bông không chịu được. Càng lo tợn.
Nhưng Chích Bông nhỏ người mà nhanh trí, Chích Bông nghĩ: "Các bạn chim sẻ có thể giúp ta qua được cơn bối rối này". Chích Bông đã nhớ ra bấy lâu họ nhà sẻ sinh sống, tụ tập, làm tổ quanh các mái nhà tranh, nhà ngói.
Chích Bông nhảy, bay nhẹ nhẹ, để ý, lắng nghe. Một lúc, loáng thoáng có tiếng "tẹc tẹc... tẹc tẹc..." rõ tiếng đùa cười của các bạn sẻ quen thuộc. Chích Bông mừng quá, dò vào một khe tường. Dưới bóng tường, ba bốn chim Sẻ đương đứng rỉa lông, chải chuốt, nô giỡn, chuyện gẫu. Chim Sẻ tính hay vui chuyện.
Chích Bông cất lời :
- Các bạn làm ơn chỉ đường giúp tôi đi qua đây. Bên kia hồ nước là quê tôi có cánh đồng.
- Việc ấy không phải dễ, chúng tôi không giúp được đâu.
- Tại sao thế?
- Bạn đương đứng giữa mười cái nhà máy liền nhau đấy. Nhà máy đường... Nhà máy giấy... Nhà máy cao su... Nhà máy sắt tráng men... Nhà mát xay thóc này... Nhà máy điện này... Chúng tôi ở đây cũng chưa thuộc hết tên làm sao có thể mách đường cho bạn đi được.
- Thế thì làm thế nào bây giờ?
Một Sẻ nói :
- Chích Bông ơi! Tớ có thể đưa đằng ấy đi một quãng.
- Rồi phải đi một mình à?
- Không sợ. Bọn ở các nhà khác sẽ đưa đằng ấy đi tiếp.
- Ý kiến hay!
Chích Bông đánh bạo bay theo một anh Sẻ có sáng kiến. Anh Sẻ ấy đã nói đúng. Chẳng chim Sẻ nào có thể thuộc đường đi qua hết các nhà máy được.
Chích Bông phải đi lối bay truyền. Chích Bông như quả bóng, các bạn Sẻ đá truyền cho nhau. Cứ từng quãng đường, tính ra có đến ngót một chục bạn Sẻ đã thay nhau đưa Chích Bông đi như thế. Mà vẫn chưa vượt khỏi được các công trường, các nhà máy. Phải ngủ đêm lại giữa đường.
Đêm công trường sáng trưng như ban ngày. Gọi là ngủ, mà ánh đèn điện mọi nơi cứ chói lói, hai mắt Chích Bông mở thao láo. Tuy nhiên, Chích Bông thú vị được xem nhiều cái vừa lạ vừa đẹp, thấy người ta vừa làm vừa hát.
Chích Bông kể tiếp :
- Rồi sau cùng, một anh sẻ dẫn tôi bay tới một công trường. Tôi trông thấy dưới đất có một cái thang dài vút tít tắp bắc ngang cánh đồng. A, cánh đồng xanh xanh quen quen kia rồi. Sẻ nói: "Anh cứ theo cái thang này, thang bắc qua nhiều cánh đồng lắm. Chắc có thể đến được cánh đồng quê anh". Tôi cám ơn anh Sẻ cuối cùng đưa đường, rồi tôi một mình bay theo cái thang dài ghê gớm và kỳ lạ nọ. Một lúc, nhận ra mấy quả đồi nhấp nhô quen quen. Bay nữa thì về đến đầu xóm. Này, đến tận đầu xóm rồi mà còn suýt lạc. Năm ngoái, ngoài cánh đồng đã làm gì có nhiều lò gạch, nhiều tường cao như bây giờ.
Câu chuyện đã hết. Chích Bông còn băn khoăn hỏi Bé :
- Quái, dạo trước tôi không trông thấy ở đầu xóm có cái thang dài này bắc vào.
Bé cười ngặt nghẽo. Bé cười mai mới nói được :
- Ngốc quá! Cái thang à?
- Thế thì cái gì?
- Đấy là đường sắt xe lửa!
Bé cũng khoe rằng Bé đã biết mặt mũi công trường thế nào rồi. Bởi vì công trường và nhà máy, đèn điện đã về đến tận đây. Rồi Bé cắt nghĩa cho Chích Bông, như bố đã giảng cho Bé biết xe lửa đi trên đường sắt, chở đến các thành phố, các làng mạc, các công trường mọi thứ hàng hóa, máy móc và chở người từ nơi này đi nơi khác. Đường sắt và tàu hỏa là như thế. Thế là Chích Bông cũng ngặt nghẽo cười. Chích Bông đã hiểu thế nào là đường sắt và tàu hỏa. Nhưng Chích Bông vẫn cãi :
- Thì nó cũng là cái thang cho xe lửa leo!
- Ừ, thì cái thang.
Rồi hai bên hòa nhau, không cãi nữa.
Mùa xuân năm ấy còn nhiều các bạn chim Khuyên, Sáo Đá đã bay lạc đường. Họ lạc đường, vừa lo lại vừa vui, tương tự Chích Bông. Rồi ai cũng về được.
Ai cũng kể đã lạc qua những hồ đầy nước, những đê nông giang, những công trường đồ sộ chưa bao giờ thấy. Thế là các bạn chim đã về đủ trong vườn, ngoài đồng. Ai nấy đều hớn hở. Bọn Bướm và Bồ Các, thì có ý tránh mặt Chích Bông, ít khi vào trong vườn cây. Chắc họ ngượng. Họ ngượng vì sao, chúng ta đã biết cả rồi.
Duy ở ngoài đầm nước vẫn chưa thấy bọn Sếu cao kều về.
Bé tuy bé người, lại tính tỉ mỉ, cứ muốn hỏi rõ ràng cho ra chuyện. Tại sao họ đã nói sai như thế?
Một hôm, Bé trông thấy Bướm. Bướm vội vã lượn vòng, Bướm lảng. Bé đuổi theo :
- Này Bướm, Bướm đã gặp Chích Bông về chưa?
Bướm nói tránh :
- Chích Bông giỏi thật!
Bướm lại lượn một vòng rồi Bướm bay đi. Bé cười, không đuổi theo chế giễu kẻ đã biết xấu hổ nữa.
Bé gặp Bồ Các.
- Tại sao Bồ Các bảo là Chích Bông chết rồi?
Bồ Các nói huyên thuyên :
- Tôi bay tít tận trên cao mà còn sợ hoáng cả mắt đấy! Không biết cái gì ở dưới đất khua lên mà ghê gớm làm vậy?
- Công trường, nhà máy... Các cánh tay cần trục giơ lên trời để khuân các thứ xây nhà. Chích Bông đi qua đã trông thấy cả.
- Thế thì Chích Bông giỏi thật!
Một buổi chiều, Bé gặp Vạc bay qua ngọn tre. Bé gọi :
- Anh Vạc đã thấy Chích Bông chưa?
Vạc ngượng nghịu, nói :
- Nói thật thì ngày ấy tớ cũng chẳng trông thấy Chích Bông. Chỉ bay ban đêm cao tít lưng trời thấy dưới đất đỏ ối. Thì tưởng ai mà còn sống trong lò lửa thế được.
- Không phải. Đèn công trường làm việc suốt đêm. Chích Bông đã đi qua tất cả các công trường về đến đây.
- Thế thì Chích Bông giỏi thật.
Bé về kể lại cho bà nghe chuyện những bạn chim đã xấu hổ. Bà nói :
- Kẻ có tính hốt hoảng thì chẳng bao giờ làm việc gì nên việc.
° ° °
Rồi đến mùa đông năm sau.
Khác mọi năm, mùa đông về từ hôm nào, không ai biết. Chỉ biết rõ ràng nghe trên trời, gió đùng đùng nổi, chim bay lên cao thì chim bạt cả cánh. Có những buổi sáng sương mịt mù, không nhìn thấy gì, thế mà chưa lạnh mấy.
Mọi khi như thế thì lạnh lắm rồi. Chích Bông gầy bé phong phanh một áo mà vẫn tung tăng nhảy nhót như thường. Bé chưa thấy Chích Bông đi tránh rét, như mọi năm.
Bé bảo Chích Bông :
- Có đi tránh rét thì đi khéo, cho khỏi lạc nhé.
Chích Bông cười :
- Năm nay không đi tránh rét nữa.
- Sao vậy?
Chích Bông cười rồi nói :
- Bé ra đây mà xem.
Bé rủ Chích Bông lên trên bờ đê cao đầu làng, nhìn ra khắp cánh đồng.
Đằng xa, những đoàn tàu hỏa nối đuôi nhau chở theo gạch, gỗ, máy và các anh các chị công nhân xây dựng. Đoàn tàu dài máy chục toa ầm ầm vừa lao chạy, vừa thở khói, vừa hát trên cái thang dài không bao giờ hết, như Chích Bông nói. Trong cánh đồng mọc lên từng lớp, từng dãy mái cao, tường cao, nhà cao, che khuất cả đầm nước đằng xa, che kín cả viền cây xanh xanh.
Bé đã hiểu: trên cao ù ù gió, mà dưới đất ấm áp không còn lạnh nữa. Nhà máy và người đã che khuất cả gió rét.
Chích Bông nói :
- Nhà máy, công trường đã về đến giữa cánh đồng ta, xua hết cái lạnh đi rồi. Tôi không phải tránh rét nữa đâu.
Bé cười :
- Ừ, mà các nhà máy về nhiều thế này, giá Chích Bông có đi thì lại lạc thôi.
- Bé đi thì cũng lạc nốt!
Bé nói :
- Ta thích đi lạc một chuyến để được trông thấy khắp nơi.
Cả hai cùng cười.
Các bạn đều biết chỉ có bọn nhà Sếu ngoài đầm nước vẫn chưa về, mà lại mùa đông qua rồi.
Chim Sếu chân cao, cánh dài, bay hàng nghìn cây số không mỏi. Hàng năm, Sếu thường đi tránh rét rất xa, xuống miền Nam. Bởi vì miền Nam nước ta không bao giờ có mùa đông.
Nhưng miền Nam nước ta hiện nay đương có đế quốc Mỹ đến thả bom đánh phá.
Không biết đàn chim Sếu bay vào miền Nam tránh rét gặp tai nạn thế nào mà bây giờ chưa về?
Chèo bẻo đánh quạ
Lời nói đầu - Trong quyển "Sưu tầm khảo sát văn hóa truyền thống Liễu Đôi" của Bùi văn Cường và Nguyễn Tế Nhị, nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội 1981, có bài vè "Chèo Bẻo đánh Quạ" dài 333 câu. Cụ Đoàn văn Tưởng 85 tuổi, người thôn Đông Sâu, xã Liêm Túc đã kể lại cho các bạn đi sưu tầm ghi câu chuyện thật lý thú và ý nghĩa đã được đời đời truyền lại không biết từ bao giờ.
Thường ngày, trong khoảng trời trên cánh đồng, trên sông, đôi khi trông thấy chim chèo bẻo đánh nhau với diều hâu, với quạ. Con chèo bẻo bé nhỏ cứ xông lên, như đeo mình vào chân con diều hâu, con quạ to tướng mà mổ, mà rỉa. Không mảy may sợ hãi. Thế mới lạ lùng, câu chuyện lạ lùng mà có thực. (T.H).
I
Ở các vùng quê xa xôi, có nhiều chim, nhiều lắm. Trên cây ngoài vườn, đầu nhà... Ríu ran tiếng chim chuyện, chim hát, chim gọi nhau.
Con chim hét đen sì lừ lừ bay qua bờ đê, kêu: hét... hét... Chim hét báo tin mùa lạnh đã trở về, chim hét xuống đậu lưng trâu bò, nhặt con ve, con ruồi. Nhờ thế, trâu bò đở ghẻ ngứa. Các cô bò, cậu trâu cứ thong thả ve vẩy cái đuôi cảm ơn.
Nghe đâu đây tiếng tu hú... tu hú... Thế là mùa nắng đương tới... Quả vải chín đỏ. Con tu hú báo mùa hạ tới, quả vải chín đỏ rực bãi.
Lại nghe những đám sáo sậu, sáo đá cãi nhau chí chóe trên cành đa từ tinh mơ. Đến mùa hạ thì con chim dậy sớm hơn cả mặt trời. Đâu đâu cũng vang tiếng chim. Chim với người bè bạn thân nhau. Đến đỗi cái câu mắng chú sáo sậu đoảng tính hay buông quăng bỏ vãi cũng như hệt câu mắng người ăn bơ làm biếng.
Con chim sáo sậu
Ăn cơm nhà cậu
Uống nước nhà cô
Đánh vỡ bát ngô
Bà cô phải đền
Lặng yên nghe tôi kể chuyện các cụ ở Liễu Đôi làm vè sự tích chim Chèo Bẻo đánh Quạ.
° ° °
Cứ kể muôn loài sinh sống trên mặt đất, chỉ có con chim biết chọn ở những chỗ cao cao đẹp hết ý. Chòm xóm nhà chim nơi nào cũng như thêu hoa từ mặt đất lên.
Quanh ao, rệ cỏ tóc tiên xanh đen buông những chùm rễ trắng muốt vào làn nước trong leo lẻo. Chiếc lá trang mở con mắt biếc tròn xoe cạnh đóa hoa như quả bông trắng muốt vừa nứt khỏi mặt nước.
Vườn tre là làng xóm chim. Trong bụi tre chi chít nhà cửa của chim. Ở cây tre chết dóc kia một đốt nghiêng như mái hiên. Trong đốt tre thể nào cũng có nhà chích chòe làm tổ. Trẽn các ngọn tre là đà, đấy là sân chơi của đàn cò vừa xuống. Vào hoàng hôn, cò bợ, cò xanh, cò lửa ngoài sông bay về nhún nhảy đứng đánh đu.
Chèo Bẻo bay vào vòm tre. Mình nhỏ thon, tấm áo xanh mướt, xanh thẫm. Chèo Bẻo rập rờn trên cây bóng nước xuổng làn cỏ tóc tiên. Những hoa những cỏ, cơn gió thổi và những chiếc lá trang càng mở tròn con mắt ngạc nhiên.
Tất cả reo lên :
- A Chèo Bẻo! A Chèo Bẻo!
Chèo Bẻo đã về. Mùa hạ tới, nhà Chèo Bẻo lại trở về vòm tre. Mỏ Chèo Bẻo ngậm một sợi dây vừa tước ở bẹ cây móc diều ngoài kia. Chèo Bẻo vào bụi tre tìm nơi làm tổ. Chèo Bẻo làm tổ thường bay đôi. Sao Chèo Bẻo này đi một mình?
Chèo Bẻo đậu xuống một nhánh tre. Chèo Bẻo nghỉ chân, ngắm nghĩa chỗ cành cây tha rác tới. Ả Chèo Bẻo đi tận đâu mà xa thế, mà đi lâu thế. Anh chàng nghiêng mặt, liếc hai bên mắt. Kia rồi, chị chàng đã về kia.
Chèo Bẻo vợ đi kiếm thức ăn xa hơn chồng chị đã cất cánh từ cuối cánh đồng bay vào bờ tre. Mỏ ngậm một sợi tơ trắng như khói vương dưới đôi cánh xoải nhẹ nhàng.
Thoạt trông Chèo Bẻo vợ đã ra vẻ đảm đang. Đôi mắt lóng lánh. Vạt áo dài đen mượt chùm xuống đôi chân mảnh dẻ, nhanh thoăn thoắt.
Chèo Bẻo vợ đậu xuống cành tre ngoài. Chèo Bẻo chồng bay tới, xòa cánh lượn qua đầu, chao xuống chân, vòng đi vòng lại, cuống quýt cất tiếng :
- Sốt ruột quá... Xa thế à, xa thế à...
Chèo Bẻo vợ nghiêng mỏ giơ sợi tơ nhện lòng thòng đương bay phất lên. Ả đã tìm đến tận rặng dứa đằng kia mới thấy một ổ nhện bỏ hoang. Giờ đang mùa làm tổ, dây khâu hiếm lắm.
Chèo Bẻo vợ hỏi :
- Làm nhà mới ở đâu?
Chèo Bẻo chồng nói :
- Ngay nơi đương đứng đấy. Chỗ này được mắt lắm.
Chèo Bẻo vợ ngắm xung quanh. Bên vấu tre trổ ra một cành lá xanh om. Như mái nhà, như đan lót tự nhiên. Khuất mắt mà trông ra được bốn phía khe lá lưa thưa. Ai vào nom cũng thấy được từ đằng xa. Vừa kín đáo, vừa thoáng.
- Ừ chỗ này được đấy.
Thế là, chồng Chèo Bẻo đặt sợi dây móng xuống. Vợ nhanh nhẹn quệt mỏ dán sợi tơ nhện, đính cái kèo, cái cột, cái phên đầu tiên cho căn nhà xuống mặt lá.
Rồi suốt ngày, vợ chồng Chèo Bẻo mê mải làm nhà. Chồng tha thẩn qua các cánh đồng đã gặt, tìm cọng rạ. Những cái rơm trong óng. Những mảnh rác tàu lá móc diều mềm êm. Cũng cái rạ, cái rơm, nhưng mỗi lúc Chèo Bẻo chồng chọn tha về một cái khác nhau. Cái cứng làm vách, cái nõn đan phên...
Chèo Bẻo vợ sục sạo vào các búi lá rậm, tim ổ nhện đã bỏ, còn mạng chăng lại. Ả dỡ tơ nhện bay về. Mỏ ngậm sợi tơ lượt thượt. Ổ đã lót xong, đến khâu vách. Những sợi dài khoanh quanh tổ, miết kỹ các khe. Cho kín khỏi mưa hắt, mưa dột, lại ấm.
Chèo Bẻo vợ nhả bọt dính, khâu khép, cứ thoăn thoắt lên xuống, nghiêng mỏ, gãi móng chân rào rào, quấn tơ, kéo tơ. Những sợi tơ nhện dài. Mỗi hôm, lại kiếm được sợi tơ dài hơn.
Vợ chồng cắm cúi đan lát lòng tổ. Chồng đặt mảnh rác vỏ bào giữa ổ. Rồi ra đứng nghiêng trên thành, ngắm nghía. Vợ thả một vòng tròn tơ. Chồng đẩy cọng rơm đính vào rồi bậu xuống theo.
Chèo Bẻo chồng bay lượn quanh cành tre, cất tiếng hát huýt huy chiu chiu. Có lúc xô cánh xuống như xòe ô che nắng cho vợ cắm cúi mải khâu.
Lát sau, đôi Chèo Bẻo bay ra.
Vợ chồng xuống một ruộng khoai sọ. Ở một cây khoai đầu luống nhô lên tàu lá tròn trắng ngần vừa nở. Trong nõn, giọt sương đêm còn long lanh. Sương đọng khe lá và trong canh hoa, nước uống ngon nhất của chim.
Chèo Bẻo vợ cúi hút giọt sương mát rượi. Vừa nhả bọt, vừa khâu, ả khát nước, khô cả cổ.
Rồi hai vợ chồng lại mỗi ngả kiếm các thứ về làm nhà. Chồng xuống cánh đồng. Vợ kéo mạng nhện trong khe dứa.
Từ sáng sớm đến lúc mặt trời le lói, rồi bóng chiều vàng hoe, vẫn đi về mải miết. Cọng rơm, sợi tơ tới tấp.
Một ngày kia vợ chồng Chèo Bẻo bay về chợt đậu ngoài cành tre trông vào. Ngày nào cũng xây tổ, mà sao đứng nhìn mải mê thế. Có gì đâu, ngắm công phu sức lực của mình bỏ ra mà, ai chả vậy. Cái tổ đã xinh xinh gọn gàng như cái mai rùa gác ngược. Như chiếc thuyền con có mái gài đu đưa trên cành tre.
- Nhà mới của ta đây.
Sau lưng, bỗng có những tiếng lao xao. Chèo Bẻo vợ ngạc nhiên quay ngoắt lại.
Xung quanh bờ tre vẫn như mọi khi. Hoa bóng nước đỏ hồng mặt nước.
Nhưng Chèo Bẻo chồng đã tươi cười vồ cánh, xoay tròn, reo lên :
- Kia kìa, cả xóm đương đến xem nhà mới của ta.
Đúng đấy. Cả xóm đương đến xem, đến mừng. Nhanh nhảu nhất, là bác Tu Hú.
Tu Hú ấy a? Chỗ nào cũng nghe da diết gióng giả tiếng tu hú... tu hú... Có việc gì Tu Hú cũng đến trước ngay. Mà đố ai biết nhà Tu Hú ở đâu. Không ai biết thật. Tu Hú quen tật ăn tạm ở bợ. Cả đến khi vợ sinh nở... mà cũng đi đẻ gửi trứng tổ sáo sậu, tổ dẻ cùi... rồi con nở ra thì đến nuôi chung. Rõ chúa đoảng!
Nhưng được cái chàng Tu Hú tốt nết. Việc nhà có nhác, việc chú bác thì siêng. Mới bảnh mắt, Tu Hú đã khua loạn xóm :
- Cô chú Chèo Bẻo lợp xong nhà mới rồi. Đứng đây cũng trông thấy.
- Ồ thế à... thế mà không biết.
Chim Sâu nói ngay. Bởi vì chim Sâu đi kiếm ăn cả ngày, về đến tổ đã tối mịt. Chốc nữa, tảng sáng chim Sâu đã lại ra đồng rồi. Ngày mùa, sâu bọ nhiều, bắt không xuể. Lại đương khi nước lên, cả chim Trả kiếm ăn ngoài sông nước cũng bận. xẩm tối mới thấy chú mò về ngồi nhòm nhõm cửa hang, hai đầu cánh gầy gò nhô lên ngang mặt.
Tu Hú lại nói bô bô :
- Lên mừng nhà mới.
Chèo Bẻo chồng đã ra nóc tổ đứng từ lúc nào. Trông thấy Tu Hú, Chèo Bẻo cất tiếng chào trước.
Lại phải kể thêm về cái bác Tu Hú. Tu Hú tinh ăn xổi ở thì thế mà ở đâu ai cũng mến. Bởi vì, khi nghe Tu Hú kêu, như trông thấy mùa màng cày cây, gặt hái. Tu Hú kêu làm cho ai nấy làm ăn bộn rộn. Tháng ba, tháng tư, vào mùa, tiếng Tu Hú kêu gọi ra từng việc.
Tu hú... Tu hú... Hái cà... Gieo đỗ... Tu hú... Làm mạ... Tu hú... Vải chín... Vải chín...
Đồng áng tấp nập, người người việc việc. Tát nước, làm mạ. Bãi vải ven sông chín đỏ vồng lên như mâm xôi, mâm hoa đầy.
Đấy, Tu Hú đấy, Tu Hú đã lên. Xóm làng nghĩ về Tu Hú như một sự mong đợi tốt lành.
Chèo Bẻo đon đả :
- Được ông anh đến, được cả xóm đến mừng nhà thế là đón ngõ gặp may rồi.
Có tiếng líu ríu phía dưới. Cô cậu chim Sâu líu ríu bay lên. Chòm xóm nhà chim Sâu ở trong đám cây ngái cạnh bờ nước. Lá ngái to như lá vả. Chim Sâu cuốn lá khâu tổ. Tổ chim Sâu lác đác, lủng lẳng treo trong cây ngái như những quả vả xanh.
Đám chim Sâu bay lơ lửng.
- Xuống chơi đã nào.
- Thôi thôi, để khi khác. Chúng em còn bận.
Rồi cả đàn bay vù đi. Chim Sâu lúc nào cũng vội vã thế. Hết bắt sâu ở ruộng, lại vào vườn. Tên tục chim Sâu là Chích Bông, nhưng ai cũng thường gọi là chim Sâu. Chi vì Chích Bông chăm chỉ bắt sâu.
Mùa làm mạ, mùa cấy đương tíu tít. Những ruộng mạ đã bén chân. Thế là lại xô bồ đến bao nhiêu việc. Chim Sâu bắt sâu mạ. Rồi chim Sâu vào vườn rau diếp, từng đàn thoăn thoắt, leo lên leo xuống, mắt đăm đăm chăm chú, mỏ lôi từng con sâu trong khe lá ra.
Chim Sâu bay rồi, chú Cun Cút bước ra. Đến gần mới nhận được Cun Cút phờ phạc, đỉnh đầu trắng mờ. Suốt ngày, Cun Cút biền biệt. "Béo như con Cun Cút", câu ví của thiên hạ độc miệng. Nhưng suốt đời, Cun Cút tìm hạt cỏ ràng ràng, chỉ ăn đạm bạc có thế thôi. Vậy mà vẫn béo thật.
Cun Cút chào vợ chồng Chèo Bẻo rồi bay đi. Đến lượt chú chim Trả lên hỏi mừng. Cái chú chim Trả này cũng lặn lội đầu tắt mặt tối lắm. Suốt ngày mò ngoài sông, chập tối mới lần về hang. Chim Trả thích nhà cửa đẹp mắt, cả đêm thu dọn hang ở, đêm nào cũng lục đục đến khuya.
Chim Trả nhìn quanh rồi khen :
- Nhà này đẹp đấy.
Vợ chồng Chèo Bẻo nói :
- Nhà vách đất như nhà chú mới đẹp, nhà sàn chẳng ví bằng.
Chim Trả cười :
- Nhà nào mà biết giữ sạch cũng đẹp như nhau. Thôi, tớ còn vội, lúc khác nhé.
Rồi vụt đi.
Chèo Bẻo chồng nói :
- Hôm nay mình ở nhà, tôi đi kiếm mồi.
Chèo Bẻo vợ hiểu ý chồng. Tổ đã làm xong, chị bắt đầu nằm ổ, đợi đẻ trứng.
Chèo Bẻo vợ bước vào tổ. Chị doạng ngón chân, dọn lại những cọng rác. Rồi nhẹ nhàng nằm xuống. Hai bên lông bụng xù ra, như trải cái chăn.
Chèo Bẻo vợ nằm ổ.
Cả xóm biết việc quan trọng, Chèo Bẻo vợ nằm ổ. Cả cái xóm chim trong bờ tre mỗi cánh cánh bay qua đều nhẹ nhẹ, nhìn lên. Giữ yên tĩnh cho Chèo Bẻo sắp tới kỳ sinh nở.
Hoa bóng nước ánh xuống đỏ hây cả mặt nước. Giống như cái chiếu hồng trải rực rỡ dưói tổ chim. Những chiếc lá tre xanh xanh đan thành những cái ô nho nhỏ che trên đầu. Ngoài kia, làn sương mỏng mơ màng.
Chèo Bẻo vợ nằm ghếch hờ mỏ lên thành cửa nhìn ra. Đôi mắt đăm đắm, hiêng hiếc. Chị đương nghĩ gì. Chị ngắm xuống màu hồng hoa bóng nước. Chị ngước đầu lên. Giọt nắng đậu trên chiếc ô lá tre lung lay. Chị nhìn xa xa, chăm chú. Có lẽ vợ đương ngóng chồng đi cho chóng về. Chẳng biết có phải thế không. Chỉ biết nàng Chèo Bẻo đương vui.
Chèo Bẻo chồng lượn vào khoảng không, liệng nghiêng. Đôi cánh chéo xuống. Anh múa. Vừa bay múa vừa hót từng nhịp. Huy... huy... Anh vui vì nhà đã làm xong. Vui vì vợ đương nằm ổ. Anh vui...
Giữa trời trong xanh, Chèo Bẻo chao lượn. Dưới kia, cánh đồng mênh mông. Người qua lại tấp nập. Đương ngày mùa. Tiếng giục, tiếng gọi, tiếng người, tiếng trâu, tiếng máy cày...
Bao nhiêu chim về làm lụng quanh công việc với mọi người. Chàng Cò Trắng mỏ vàng chạy theo đường cày vừa lật má đất, tìm con giun quằn quại nhô ra. Con trâu cắm cúi kéo cày, trên lưng trâu những chú Sáo Sậu, Sáo Mỏ Ngà chăm chú bắt ve, bắt con mòng cho trâu khỏi ngứa, cày được thong dong. Những con chim choi choi nhảy lăng xăng, nhô nhốp...
Đầu bờ, trên chiếc chõng tre, ngổn ngang nồi cơm, chồng bát, chiếc điếu cày. Người ra làm đồng cả buổi sáng rồi lên ngả ra ăn trưa ngay bờ ruộng. Ai cũng đương vội ngày mùa.
Mấy chú nghé mải gặm cỏ bỗng nhảy cỡn, nghé ngọ... nghé ngọ... tru tréo lên. Chỉ vì đàn nghé bông nghé hoa ấy vừa trông thấy anh chàng "trâu đỏ" ầm ầm xông tới. Guồng xích sắt quật đất bùn bằn lên như mưa. Bác công nhân máy cày đội mũ lưỡi trai ngồi trong buồn lái chăm chú ngó ra.
Mọi việc trong cánh đồng đương vội, đương vui. Chèo Bẻo chồng cũng đương vui. Đôi cánh chấp chới, liệng lên liệng xuống. Hai giẻ lông đuôi tõe nghiêng ngả, đường bay vi vút xuống thấp lên cao.
Nhưng không phải Chèo Bẻo múa chơi cho khoái mắt các bạn đâu. Anh đương làm. Anh bắt mồi, bắt muỗi, bắt kiến cánh. Chèo Bẻo vốn có tài bay chộp mồi.
Những con kiến cánh nhạy cảm với trời mưa, trời nắng. Đám mây nước xa xa phía chân trời. Chẳng có dấu hiệu gì đưa mưa tới, ma họ hàng nhà mối đã cảm thấy hơi mưa. Thế là, từ những động mối sâu tun hút trong lòng đất, những con mối ngày đêm đùn ổ phá đê, phá bờ lũ lượt ngoi ra. Mụ mối già bay loạn trời. Đàn mối cánh bay lẫn với kiến cánh. Người trong làng trông lên thấy mối cánh, kiến cánh bay, biết sắp mưa bão đến nơi. Đồng đất tấp nập, lại càng làm nhanh trước cơn giông...
Lượn quanh mấy vòng. Chèo Bẻo chồng đã quơ được mấy con mối bay hớ hênh.
Cái mồi mới đem về đã được bữa sáng. Chèo Bẻo chồng đặt xuống trước cửa. Vợ nằm ổ chỉ việc nghiêng mỏ mổ ăn. Chồng đứng trông vợ chén mối ngon lành, mà cảm thấy mình cũng no bụng rồi.
Một ngày kia Chèo Bẻo tha mồi đậu xuống tổ. Chèo Bẻo vợ ngước nhìn chồng, mắt long lanh óng ánh khác thường.
Chị nhích cườm ngực. Anh thoáng trông thấy quả trứng màu hồng nhạt lốm đốm nâu dưới ổ.
Ngay hôm ấy, Chèo Bẻo vợ đẻ được hai trứng nữa. Chồng vừa tha mồi về, nhưng chị không khoe cho anh thấy quả trứng như lúc nãy. Chị sợ gió lùa. Những cái trứng được mẹ ấp cả đêm cả ngày. Trứng đượm hơi mẹ, trứng chóng nở.
Rồi trời mưa ập xuống. Những trận mưa rào đầu mùa hạ. Gió đùng đùng vít ngọn tre xuống. Hạt mưa to thô lố tíu tít tạt vào bốn phía.
Chèo Bẻo vợ vẫn nằm yên. Lông cườm, lông bụng xù ra, ủ trứng. Chèo Bẻo chồng đứng chẹn cửa tổ, một bên cánh ướt thẫm. Nhưng không một giọt nước mưa lọt được vào ổ nằm.
Chèo Bẻo vợ đẻ ba trứng.
Tin vui mới vang động khắp nơi.
Chim nào qua đây, lại càng nhẹ nhàng không xô mạnh cánh, bay qua rồi còn ngoảnh lại.
Và cổ làng chim trong vùng đều đã biết. Họ bảo nhau: đương ấp, đừng ai thò đến tận tổ xem nhé. Kiêng đấy.
Chẳng nhòm ngó thế mà những chuyện rỉ tai mỗi lúc kể càng tỉ mỉ hơn. Nào nhà Chèo Bẻo ở ngáng tre thứ mấy. Nào chỗ ấy cao ráo mát nhất cây tre.
Tổ Chèo Bẻo, vách ngoài toàn bằng sợi móc lẫn rạ, chắc lắm, mịn lắm. Hai trận mưa rào đã qua rồi, nhà không dột. Những quả trứng vẫn ấm yên dưới cườm bụng mẹ. Vài hôm nữa, trứng nở. Trời nắng, trứng sẽ nở nhanh.
Hoa bóng nước lung lay, mặt nước hồng lên, những chiếc lá trang tròn xoe, những cánh hoa trang trắng muốt, cả làn gió cũng đưa tin Chèo Bẻo nằm ấp trứng. Cả đất trời đương đợi những con chim non ra đời.
Một ngày kia, thoạt đầu tưởng tiếng đụng đậy ở đâu rồi mới nhận ra tiếng ró ráy ấy ở trong tổ. Những chiếc trứng ngọ ngoạy dưới bụng mẹ. Mẹ nghe, mẹ nghe. Mỏ Chèo Bẻo niẹ nghiêng xuống, hong hóng. Mẹ hóng cho biết thật đích con đương đạp vỏ chỗ nào Tiếng mỏ cựa, tiếng chân nhúc nhích. Mặt vỏ trứng anh ánh. Mẹ đợi. Tiếng lung lay mơ hồ chỉ có mẹ lo lắng mới nghe mới biết được. Đấy, đấy...
Mẹ cất mỏ, bập xuống một nhát. Cái vỏ trứng tách gọn một miếng. Chiếc mỏ Chèo Bẻo con con trắng hau như cái núm măng nứa vừa nhú, nhô bật lên. Thế rồi, trong khi đầu mỏ con chim non nhoai khỏi vỏ, hai chân như cái tăm tập tững đạp tuông ra. Chiếc vỏ xẹp lại, dẹp sang một bên.
Con đạp ra. Mẹ mổ trứng giúp con đạp, con nhoi. Chèo Bẻo con vừa lọt trứng, mình trần trùng trục dưới bụng mẹ, đã ngóc cổ ngoác mỏ đòi ăn. Mẹ cúi, mớm hơi mẹ vào miệng con. Hơi mẹ mớm cho con, hơi mẹ cho con. Đứa con vừa ra đời được hơi của mẹ đẻ. Mẹ đã cho con sự sống như thế.
Một nhóc là anh cả, một nhóc là chị hai, mẹ đã cho ra đời. Ồ, chiếc trứng thứ ba bắt đầu đụng đậy. Mẹ đương mớm hơi cho hai con, mẹ lại lặng yên. Mẹ chăm chú nhìn quả trứng chuyển động. Mẹ lại nghe. Đích xem đứa con út muốn ra khỏi vỏ chỗ nào, phía mỏ hay phía chân. Để mẹ mổ vỏ đỡ cho con ra. Mẹ nghe...
Chèo Bẻo, Chèo Bẻo chồng kìa.
Anh chàng nhớn nhác nhìn vào cửa tổ. Nghiêng mắt, nghe nghe nhìn. Đây, đấy, con nó sắp đạp chỗ ấy, chỗ kia, chỗ kia...
Chèo Bẻo mẹ lại mổ một nhát. Cái vỏ trứng toác một khía. Chân con thập thò. Rồi chân đạp toác mảnh vỏ. Thoắt một cái, Chèo Bẻo con chui trong trứng ra. Mình trần trụi, nhầy nhụa, đôi mắt mở to, ngơ ngác. Con mắt nhìn ánh sáng, run rẩy. Nhưng cả cườm bụng mẹ đã như cái chăn ấm trùm lên. Mẹ cúi xuống, mớm hơi nóng hổi vào mỏ đứa con út vừa há.
Chèo Bẻo bố trố mắt nhìn. Bố cứ cuống quýt, quanh quanh. Rồi bay bổng ra ngoài trời.
Chim Trả đứng cửa hang bờ ao nhìn lên.
- Gì mà vui thế?
- Huýt huy, huýt huy...
- Thằng út, đến thằng út rồi.
Chim Trả quát :
- Thế thì đi kiếm mồi ngay đi. Nhà nó mệt lắm, đói lắm đấy.
Chèo Bẻo chồng bay đi, múa cánh lên bắt mồi. Chốc lát, đã cặp được một nạm ruồi và cả con chuồn chuồn tương bốn cánh.
Cặp mỏ nặng trĩu mồi ngon, tha về tổ.
Thế là cái xóm hoa bóng nước bên bờ tre từ nay được vào sổ khai sinh thêm ba khẩu.
Nỗi vui mừng lại sôi nổi khắp nơi. Chim Cút, chim Trả gặp ai cũng báo tin mới. Tu Hú, tận trên vách núi cũng nghe được. Đàn chim Sâu len lỏi đem chuyện đi khắp nơi. Chèo Bẻo sinh nở được mẹ tròn con vuông.
Ri Đá, Ri Cam, Ri Sừng về thăm hỏi, bay hàng đàn trăm con, như cơn gió vụt qua cánh đồng.
Mà chim Ri cũng biết những láng giếng vất vả. Ri nào cũng bé quắt, thế mà lòng tốt thì lo lớn, chắt chiu được mấy hạt gạo cũng đem đến. Nghèo khó mà bụng dạ thơm thảo.
Như câu hát trong bài vè ở Liễu Đôi đã khen nhà Ri từ xưa rằng:
Vợ chồng nhà Ri đến chơi.
Có một thúng gạo vơi vơi đặt vào 1.
Nhưng nhà Ri cũng chẳng la cà hỏi han trò chuyện được lâu. Lại nhảo đi kiếm ăn ngay. Suốt năm, chim Ri đói móp bụng, đến mùa gặt mới kiếm được hạt thóc rơi vãi.
Vị khách vừa đến ấy là chú Chào Mào. Chào Mào, dáng ăn chơi bạt mạng thế mà lại tử tế. Mới biết chẳng nên chỉ trông bề ngoài mà đặt tính nết. Chào Mào đỏm dáng và có phần lố lăng đấy. Hai má phấn đỏ hắt. Lại đính một túm lông điều sau đít (người hay chế giễu đặt tên là Chào Mào đỏ đít). Mắt mỏ lúc nào cũng phởn phơ. Đứng đầu cũng nhún nhảy làm điệu. Đã thế, đỉnh đầu lại đội lệch cái mũ nhung đen nháy - cũng vì chiếc mũ làm đỏm lạ kiểu ấy mà Chào Mào lại được bè bạn cho cái tên chế giểu: Công tử Chào Mào.
Chào Mào ở vườn ổi ra, mép còn dính mấy hạt ổi.
Nhưng Chào Mào chợt nhớ nhà Chèo Bẻo không thích ăn quả chín. Chào Mào lập tức ghé xuống bờ cỏ, quơ mỏ túm được một con Bọ Muỗm. Chèo Bẻo xách ngược cả bốn cánh xanh cánh trắng của Bọ Muỗm, bay re re vào bờ tre. Như người trong làng ỏm con gà trống thiến đi mừng Tết.
Chào Mào đậu vắt vẻo ngoài đẩu cành tre :
- Chích chi, chích chi... Hoan hô... Hoan hô...
Chèo Bẻo chồng đứng trên nóc tổ - như đợi đón khách, hân hoan nói to :
- Mời chú lên chơi. Gớm, sáng sớm đã bẫy đâu được con mồi to thế.
- Mừng vợ chồng anh đây. Một con sâu cấn lúa này bằng một thang thuốc bổ đấy.
Suốt ngày, dập dìu khách. Nhưng hôm nay cũng chẳng cần đi kiếm mồi. Ai cũng đem theo đến các thức. Vừa cùng chén, lại vừa biếu.
Mặt trời đã gác núi bên kia. Trông ra, vẫn còn bóng chim bay vào vườn thăm hỏi qua ánh mặt trời hắt nghiêng lên ngọn tre.
Chèo Bẻo vợ trông ra :
- Anh Hét đây! Anh Hét! Anh bây giờ mới về.
Quả thật, Hét vừa tận cánh đồng trên xuống. Đồng gần đã ngập nước cày mùa. Các loài chim kiếm ăn theo đường cày phải đi tìm những ruộng còn xếp ải, còn cày vỡ. Nhưng được con ve, con ruồi, con bọ mạt trên lưng bò cũng thật là khó. Hết buổi cày, trâu bò về trong xóm. Chẳng phải mùa nhàn hạ, trâu bò lang thang gặm cỏ ngoài đồng. Không kiếm được con mòng, con nhặng trên lưng trâu, chim Hét cũng vơi bụng cả ngày.
Chiều muộn rồi mà Hét vẫn nhớ thăm Chèo Bẻo. Lại còn quắp theo quà biếu: con châu chấu ma đen xỉn như cục đất. Quý quá! Quý hóa quá!
Chim Hét đặt miếng mồi xuống, rướn cổ thở khượt một cái.
Lát sau, Hét mới lại hơi, nói luôn :
- Để khi khác ở chơi lâu. Khi khác nhé.
Rồi cái bóng đen sì bay đi. Thế mà cũng chưa phải là khách sau cùng trong ngày. Thấp thoáng ai múa lượn đến ngoài kia.
Chèo Bẻo chổng reo :
- A cậu Đuôi Cờ!
Đúng, Chèo Bẻo Đuôi Cờ - một chi họ nhà Chèo Bẻo. Hai chiếc lông đuôi Chèo Bẻo Đuôi Cờ dài lê thê, dáng bay yểu điệu, vừa bay vừa tung cờ. Chèo Bẻo Đuôi Cờ lịch sự hào nhoáng, thế mà nhà nghèo. Đã bao đời đi làm ăn tận trên vách núi đá. Quê rừng xuống quê đồng, phất phới đuôi cờ nhịp nhàng qua bao nhiêu đồng đất. Cũng phải dứt việc mà đi.
Ánh trăng lung linh bóng lá tre. Câu chuyện nhà Chèo Bẻo râm ran đến tận gà gáy. Trong lòng tổ, ba Chèo Bẻo con, lúc lúc lại kêu ngoe ngoe - không biết chúng nó hờn hay chúng nó đương đùa rúc rích quanh bụng mẹ.
Chẳng mấy lâu, ba Chèo Bẻo con đã biết mon men ngấp nghé cửa tổ. Trên lưng lơ thơ mấy sợi lông tơ.
Thật chưa nghĩ ra được câu gì hay hơn những câu vè Liễu Đôi nói về mấy chú chim non lần đầu tiên ra đứng cửa tổ.
Lũ con bé bỏng nớt non
Cái mồm vừa đỏ, vừa tròn há ra
Cái đầu vừa bằng quả cà
Cái cổ lẳng ngẳng kéo da tận đầu
Cái ngực thoi thóp lộ hầu
Cái cánh cun cún, cái mỏ ngang đầu rộng đến mang tai.
Suốt ngày, Chèo Bẻo mẹ quấn quýt với các con. Suốt ngày, Chèo Bẻo bố đi tha mồi, rạc cả người. Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn...
Hơi mẹ bổ như sữa. Ba nhách con lớn phổng. Nhưng bụng chưa vỡ bọng, con nào cũng béo phình như ba củ khoai lang. Được hơi chóng lớn, nhưng phải ăn mồi mới mau cứng khoeo, cứng cánh được.
Ba con cứ dóng cổ lên đòi ăn suốt ngày. Hai cánh nhô ra. Cái đầu thô lô to bằng hòn bi, nghển lên nghe ngóng. Một tiếng ró ráy ở đâu. Cơn gió động đậy chiếc lá. Cả ba chiếc loa miệng đỏ chót há ra một lượt. Mẹ ơi, ăn. .. mẹ ơi! Cho con miếng... mẹ ơi! Cho con miếng... mẹ ơi!
Từ hôm chim nở, hôm nay mẹ mới đi kiếm mồi.
Xung quanh tổ, lặng im. Những cái cổ run rẩy vêu vao lại rụt xuống. Ba cái đầu lắc lư dựa vào nhau, ngủ gà... Chốc lại ú ớ lảm nhảm nói mê. Nhưng mẹ chưa về. Chẳng ngửi thấy mùi thơm mồi ở đâu. Một lúc, cô lại nghển, lắc lắc nuốt giả vờ, hai mắt nhắm nghiền. Thèm ăn quá, đói quá.
Một bọn Ruồi bay qua. Những cái đầu ngóc lên, ngoác mỏ kêu: Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con miếng... con miếng...
Ruồi bay qua. Bỗng đánh hơi thấy mùi trong tổ chim, nồng nồng ấm ấm. Ruồi lượn vòng quanh lại. Những cái đầu Chèo Bẻo con lại ngóc lên, ngước quanh theo tiếng động cánh.
Ruồi đậu xuống lưng con chim non trần trụi. Rồi thò vòi nhâm nhấm. Ruồi táo tợn thế. Nếu có mẹ chúng nó ở nhà, hẳn Ruồi đã thành miếng mồi ngon của Chèo Bẻo. Nhưng những con chim con không biết Ruồi đậu đấy. Cứ tưởng cái cọng rơm gãi vào lưng.
Cả bọn Ruồi đến vo ve trên lưng những con Chèo Bẻo cởi trần.
Nhưng những Chèo Bẻo con mỗi hôm mỗi nhón nhao. Bây giờ tai nghe được cánh Ruồi bay, lại trông thấy bóng Ruồi lượn qua rồi đậu xuống.
Ruồi đậu xuống, leo ra mỏm cánh một chú Chèo Bẻo. Chèo Bẻo chị bên cạnh dật dờ nghiêng mỏ sang. Tình cờ, bập một cái. Lần đầu tiên, cặp mỏ bấy biết bắt Ruồi.
Chốc lại chộp được một thằng Ruồi. Đàn Ruồi sợ, bay tan tác. Riêng Chèo Bẻo út chậm chạp, chẳng vớ được mồi nào.
Ngoài kia, nắng hoe vàng. Những Ruồi Muỗi chốc lại vù vù tới. Có cả bọn Kiến lang thang vơ vẩn. Đám này tưởng những Chèo Bẻo con như cái bị thịt, chẳng biết gì, bò vào kiếm chác. Nhưng... Bập, bập... Những con mồi cứ dẫn xác đến cho anh em nhà Chèo Bẻo chén.
Mẹ và bố đã tha mồi về, đông thức ăn bề bộn trước cửa tổ. Vợ chồng Chèo Bẻo cong đuôi, nhún chân, huy, huy... giục giã các con ra ăn.
Lũ con xô quanh chân mẹ. Nhưng lạ không, chưa con nào nhảy vào đám mồi xốc lấy xốc để như mọi khi. Bố mẹ ngạc nhiên.
Mẹ nhìn các con, hỏi :
- Sao có cánh con ruồi dính mép thế kia?
Bố nói :
- Các con biết bắt Ruồi rồi à?
Cả ba Chèo Bẻo cùng đáp :
- Vâng ạ.
Bố nói :
- Thế là các con đã ra giàng. Hôm nào bố mẹ cho các con theo. Rồi cả nhà ta cùng đi kiếm mồi.
Chẳng mấy lúc, những cái mình gồ ghề đã trổ lông. Ngộ nghĩnh như trẻ con mới được mặc tấm áo có khuy bấm. Ống lông cánh, ống lông đuôi nhu nhú trắng mỡ, rồi lốm đốm đen tuyền.
Ba anh em đã leo lên, nóc tổ chim bằng phẳng thành cái sân chơi. Suốt ngày ba đứa trẻ chơi nhởi trên ấy.
Tha hồ mà ngắm ra xung quanh. Xa xa, những ruộng lúa không còn lốm đốm vàng úa như mọi hôm. Lúa đã bén chân liền màu xanh rờn. Bên bờ, hàng cây bóng nước mới nở thêm lớp hoa đỏ hây.
- Bao giờ biết lượn ra ngoài trời xanh kia thì thích quá!
- Mặt nước sao đỏ thế? Hay trong nước cũng có hoa?
- Bóng hoa trong ao. Có cá quẫy mà.
- Không, hoa, có hoa.
- Không...
- Đừng cãi nhau nữa. Lúc nào được xuống đấy chơi thì biết.
- Hôm nào cứng cánh, ta bay theo bố mẹ.
- Cánh đồng ngoài kia còn nhiều nơi đẹp nữa.
Một chú nghển cổ, nói :
- Có mùi hoa thơm thơm.
- Mùi hoa bóng nước.
- Không phải. Hoa bóng nước mọi khi vẫn thấy mà không có mùi. Bây giờ mới ngửi được mùi hoa mà.
- Ừ, có khi mùi hoa khác.
- Chốc nữa hỏi mẹ xem.
- Phải đây.
- A, a, bố mẹ đã về.
Lũ trẻ con vươn cổ reo lên. Đằng xa, Chèo Bẻo bố, Chèo Bẻo mẹ đương mải miết bay qua cánh đồng. Trên trời những đám mây trắng thong thả trôi. Những đứa con háu đói đã trông thấy trên vành mỏ bố mẹ ngậm một xâu con mồi - những mẩu cánh kiến, cánh mồi thò nhấp nhánh.
Vợ chồng Chèo Bẻo vừa chớm vào vòm tre, đã nghe tiếng lao xao trên nóc tổ.
- Chào bố! Chào mẹ!
Cả nhà quây quần. Bây giờ, cái sân nóc tổ chim lại thành nhà ăn. Nhà ăn giữa trời thật hay. Trên đầu, những chiếc ô lá tre xanh mát điểm những chấm nắng vàng. Dưới chân, hoa bóng nước rợp xuống mặt nước. Tâm chiếu hồng trải rộng hơn mọi khi.
Những con chim chưa ra giàng vục đầu xuống, vổng cái đuôi cun cún lên tranh nhau giằng mồi. Mẹ không phải mớm, cả chú út nữa. Út ta đã bập được mồi, bập khỏe.
Vợ chồng Chèo Bẻo đứng im nhìn các con ăn. Con ăn cũng như mình được ăn, không nhớ bụng đương đói. Nuôi con khó nhọc, ai chẳng thế.
Chèo Bẻo tay bế tay bồng
Lũ con thơ dại vợ chồng rén chân
Mai ba buổi, tối vài lần
Tìm mồi rồi lại chuyên cần mớm con
Loáng một cái, những cái điều con đã lặc lè phồng lên bằng quả cau. No kềnh rồi. Ba anh em nghiêng ngả gối lên nhau há mỏ thở dốc, no quá. Hai mắt hiu hiu nhắm. Ăn nhanh, ngon miệng mà chưa biết đã no, no rồi buồn ngủ.
Chú Chèo Bẻo út chợt nhớ câu chuyện lúc nãy. Chú mở mắt, hỏi mẹ :
- Mẹ ơi mẹ, mùi hoa gì thơm thế?
Mẹ nhìn quanh, rồi nói :
- Hoa mộc, con ạ.
- Hoa mộc có phải hoa bóng nước không?
- Không, hoa mộc tận trong đầu làng, chỗ vườn cây cửa đình ấy. Hoa mộc bé tí tẹo bằng hạt gạo nếp, thế mà hoa mộc thơm xa lắm.
- Mẹ ơi! Mẹ cho con đi xem hoa mộc.
- Hôm nào mát trời, bố mẹ đưa các con đi xem cây hoa mộc.
Chèo Bẻo bố nói tiếp, như kể chuyện :
- Rồi mai kia các con sẽ bay đi khắp nơi. Ở đâu cũng có vườn, có cánh đồng, có dòng sông.
có đền chùa. Đâu cung nhiều cây, nhiều hoa, tha hồ xem phong cảnh đẹp.
II
Lại kể đến chim ác Diều Hâu. Diều Hâu hay bắt gà con. Ai cũng ghét Diều Hâu.
Một ngày đẹp trời, mùa thu trong xanh.
Có nghe tiếng gì đây không. Tiếng tí o... văng vẳng trên không trung. Bóng con chim thong thả lượn tròn như bồ câu. Nhưng không phải, chim bồ câu không kêu tí o... tí o... Cũng không phải tiếng sáo đẩu sáo chiêng của cánh diều. Trời yên, không có gió trên, gió dưới, không ai thả diều.
Thoạt nghe, hơi lạ tai, chưa nhận ra ngay. Bởi chỉ có đến mùa này, Diều Hâu mới từ xa về nơi ấm áp trú đông. ít ai biết mặt Diều Hâu.
Tí o... tí o... chẳng biết là nó ca hát hay nó kêu gào trên thinh không. Đây là Diều Htâu lượn tròn, Diều Hâu kêu đói, mắt hau háu đảo xuống tìm bắt gà con.
Tí o... Tiếng kêu lanh lảnh sắc như lưỡi dao vút ra. Dưới vườn nháo nhác cả lên. Như đã trông thấy cặp mỏ khoằm của Diều Hâu Những chiếc vuốt chân giơ như bàn chông nhọn hoắt sắp úp lên người... Lũ sẻ chui tít vào ống. Chim Bạc Má trốn nép mình dưới quả na sắp mở mắt. Đâu đấy lặng tờ.
Diều Hâu xuống cắp gà đi, cắp gà đi. Tí o... tí o... tí o...
Bọn gà con đương túc tích nhặt ăn đằng cuối vườn, bỗng cuống quýt nhảo đi tìm mẹ. Mái mẹ bước ra, xòe cánh, quát toác toác... Đứa nào bắt nạt con tao... Đứa nào bắt con tao... Toác toác... Mái mẹ đã nghe tiếng tí o... trên cao. Mái mẹ sững lại. Lông bụng mẹ lập tức xòe ra như cái chăn mở. Cả bọn gà con ùa đến chui ngay vào. Mái mẹ ngồi xuống, ủ kín các con dưới bụng. Mắt mẹ hiếc lên, chăm chắm, canh chừng. Miệng la: tác... tác... đánh, đánh...
Diều Hâu bổ xuống. Diều Hâu đã ngửi thấy mùi thịt gà con rồi, thơm quá. Diều Hâu lao tới. Mái mẹ nghiêng mỏ lên... Nào, đánh nhau... Tác tác... đánh, đánh...
Giữa lúc ấy, kéo ra một đám trẻ con. Bọn ựẻ trong xóm đã nghe tiếng tí o... tí o... trên trời. Bọn trẻ đã trông thấy đàn gà con tớn tác. Diều Hâu sắp xuống quặt gà con. Thế là lũ trẻ vỗ tay rộp rộp, rồi gõ gậy vào gốc tre tác tác rầm rĩ.
Diều Hâu hốt hoảng nhảo lên.
Ai nấy ngửa mặt cười nắc nẻ, rồi hát trêu tức:
Diều Hâu xây giếng cho tròn
Mai kia ta gả gà con cho mày
Một bọn khác hét lên, đuổi theo:
Gà con ta để ta nuôi
Ta gả con chó cộc đuôi cho mày.
Rồi vỗ tay cười râm ran.
Diều Hâu vút lên cao, lảng xa. Tiếng hát vẫn vang động. Bóng Diều Hâu đã mất hút. Có khi Diều Hâu lại bay đi rình bắt gà con ở chỗ vườn khác.
Chưa phải trên đời này đã hết đứa ác đâu!
Bây giờ kể về lão Quạ, lão Quạ Khoang cũng là một kẻ ác. Chẳng khác Diều Hâu.
Hình dạng, mặt mũi với tính nết nham hiểm của Quạ Khoang thì câu vè làng Liễu Đôi đã vẽ ra:
Kia ai mũ áo ngoài kia
Là khà lạ khạ râu ria bờm xờm
Cổ quàng khăn trắng, mình mặc áo thâm
Rõ ràng ông Quạ, ai nhầm được đâu
Ăn thì của ấy nhất chầu
Ở thì của ấy đâu đâu cũng lường
Vừa ăn một xác chết trương
Lại gặp cơm trứng giữa đường tha ma
Ăn đến lòi rốn tù và
Mà còn tắc lẻm những là khổ kham
Thịt ôi, cá thối nhàm nhàm
Gà con, trứng cuốc thì làm bữa tươi.
Lão Quạ thế đấy. Chỉ thiếu bài vè chưa nói về cái tổ quạ. Tổ quạ lấy toàn cành cây, rễ cây bù xù, lộn xộn. Cho nên mới có câu chế cậu học trò nào ở bẩn, đầu bù tóc rối rằng cái đầu anh kia như cái tổ quạ.
Bây giờ Diều Hâu đã bay khỏi từ lâu. Tròi vẫn xanh trong. Bọn trẻ con đã lại trở vào trong sân.
Những nhách gà con rón rén chui dưới bụng mẹ ra. Mẹ con chỉ rủ rỉ quanh quẩn đáy. Hãy còn trợn, lũ gà con chưa dám đi kiếm ăn ngoài vườn.
Có một lão Quạ bay ngang rồi vào đậu trong vòm tre. Cũng tình cờ lão Quạ đi qua đấy. Lão Quạ nghé nghiêng nhìn bóng hoa bóng nước rập rờn dưới nước. Ngắm nghía cảnh, nhưng lão Quạ chẳng mảy may để ý. Tai Quạ đương chăm chú nghe tiếng gà chuyện túc tắc, túc tắc trong vườn. Thịt gà con xé mềm đáo để. Lão Quạ hệt lão Diều Hâu, khoái chén cóc nhái, gà vịt con, chim non... Nhưng nghe tiếng Mái mẹ tục tục tác tác, lão Quạ ngần ngừ. Cái mỏ con mẹ ấy ghê lắm. Nó bổ toác đầu như chơi. Chẳng dại! Nhưng cứ đợi. Ngộ mẹ nó bỏ đi đâu, có đứa con nào lạc lại đây chăng...
Quạ lắng nghe. Những con Sâu, con Bạc Má, từ lúc dứt tiếng Diều Hâu, cũng chưa thấy về.
Nhưng trong bụi tre vẫn còn những con chim khác.
Vàng Anh đương soi gương ngắm vuốt, hát khe khẽ. Trông ra, thấy bóng lão Quạ đen ngòm, Vàng Anh núp vào giữa tụm lá. Lá tre chiếc vàng chiếc xanh. Lưng Vàng Anh cũng hệt đám tre lốm đốm vàng mùa thu. Quạ chẳng thịt nổi Vàng Anh, nhưng Vàng Anh ghét đứa ác. Vàng Anh tránh vào trong lá mà thôi.
Sẻ chỉ quanh quẩn cửa tổ. Trông thấy Quạ, Sẻ im thít, chui vào lỗ hổng đầu đốt tre. Sẻ thì sợ Quạ thật.
Thoạt đầu, lão Quạ ngoẹo vai, bẻ khục cở cho khỏi mỏi. Rồi há mỏ à một tiếng:
"Từ sáng, chưa được miếng nào vào bụng. Có gì ăn nào. Đâu có gì ăn nào". Lão này bị tính hay quên như cụ già người ta. Lắm khi vừa ăn no xong, lão cũng nói: đâu có gì ăn nào...
Nghe Quạ lẩm bẩm, Sẻ sởn dựng lông gáy. Vàng Anh thì xù lông, lúc lắc cổ, khó chịu.
Lão Quạ hiếc má lên. Lão nghe. Lão đánh hơi. Hình như ngửi thấy mùi lạ lạ. Mùi hoi hoi. À mùi trẻ con. Mùi thịt trẻ con. Lão Quạ chỉ mới ngửi thấy mà đã xù khoang cổ trắng, mép tứa dãi.
Lão Quạ đảo mắt lên cây tre. Lão nhìn thấy ngay tổ Chèo Bẻo.
Quạ thúc cánh bay lên.
Ba anh em đương chơi trên nóc tổ. Các Chèo Bẻo con chưa biết mặt Quạ bao giờ. Nhưng thấy một lão to lớn lực lưỡng đen tuyền, cổ quấn cái phu la trắng, hai cánh cứ quạt phành phạch, mắt nhâng nháo. Thế là chúng nó chui tọt vào tổ.
Lão Quạ đã trông thấy cả ba. Lão sướng rơn trong bụng. Nhưng không xông ngay tới, lão vẫy cánh khe khẽ. Làm như lão cũng đương bay chơi.
Lão lấy giọng ngọt ngào :
- Bố mẹ đi chơi đâu à?
Im lặng.
- Ông đến chơi nhà các cháu. Ra đây, ra chơi với ông...
Chèo Bẻo con đã mạnh dạn hơn. Nhưng vẫn đứng trong tổ :
- Chúng cháu chưa biết ông là ai.
- À, ông là ông Khoang. Ông mắc chứng ho, phải quàng chiếc khăn khoang trăng này Nói với bố mẹ có ông Quạ Khoang đến chơi.
- Bố mẹ cháu đi vắng.
- Thế hả. Thế thì ông chơi với các cháu cũng được. Ông chỉ đứng đây một tẹo thôi. Còn phải đi tìm bữa chứ, không thì đói chết. Các cháu có mấy anh em?
- Ba đứa ạ.
- Ngoan lắm. Đã biết bay chưa?
- Chưa ạ.
- Thế thì ra đây ông dạy. Ông chỉ nhấc khoeo mỗi cháu mấy cái là bay được ngay. Biết bay thì tha hồ đi chơi.
Lão Quạ đã gãi vào đúng những ao ước của Chèo Bẻo. A, thế thì thích quá. Cả ba đã lần lượt lên đứng sân chơi trên nóc tổ. Học bay, hay ghê. Mẹ đã bảo tập bay chuyền mấy hôm nay. Xem ông này dạy thế nào. Chỉ nhấc chân một cái đã bay được a?
Lão Quạ cười hì hi bước lại. Lão giương mỏ quắp ngay cổ một con. Nhanh như chớp, hai chân lào dìm hai con kia xuống. Tiếng kêu oai oái rồi im bặt. Máu chảy lõa lợi, giỏ xuống như hạt mưa máu.
Ăn thịt hết lẻm cả ba con chim no rồi, lão Quạ bay la đà xuống cánh đồng. Lão tìm đến một mô đất trơ trọi. Lão ngả mình xõe một bên cánh, nằm phơi nắng, thiu thiu ngủ.
Huýt huy... huýt huy...
Tiếng hót chim đàn vang lừng khắp nơi. Vợ chồng Chèo Bẻo qua vùng xanh bầu trời, về xóm bờ tre, trên mỏ ngậm nặng mồi. Mấy hôm nay càng khó nhọc. Ba cái miệng bé bỏng lúc nào cũng đói, há toang hoác như ba cái phễu. Các con tập bay, đương cần tẩm bổ cho chân cứng, cho lông cánh trổ nhanh. Vợ chồng Chèo Bẻo gầy tóp. Nhưng hai con mắt long lanh, hớn hở. Thấy con khôn lớn, ai chẳng mừng.
... Huýt huy... Huýt huy...
Đã về tới vòm tre. Cành tre lướt thướt vờn quanh trước mặt, gió đưa đẩy.
Cái mái tổ quen mắt chìa ra ngoài mấy nhánh tre xanh rờn. Ô hay, không thấy những chỏm đầu các con nhấp nhô như mọi khi. Mỗi lần bố mẹ đi kiếm mồi về, lũ con chơi tha thẩn trên nóc tổ, từ xa trông thấy đã ríu rít reo lên.
Đến lúc đậu xuống nhòm vào cái tổ trống không. Những vết máu lẫn lộn nùm rác bề bộn. Vệt máu như hạt sương đỏ rực. Mới hôi hổi đây thôi. Máu nào thế này?
Các con tôi đâu?
Miếng mồi trên mỏ bỗng rơi ra, bay lả tả. Cả hai vợ chồng há hốc mỏ. Chèo Bẻo vợ chúi xuống. Chèo Bẻo chồng ngơ ngác. Xung quanh lặng ngắt. Cả xóm vắng tanh. Đứa nào giết các con tôi? Đứa nào? Con tôi đâu?
Chèo Bẻo vợ ngóc đầu. Trên mình vướng lướp tướp những rác dây máu. Như máu trong người đổ ra.
Chèo Bẻo gào lên :
- Các con đi đâu?
Tiếng kêu khóc vang từ vòm tre xuống mặt nước. Xung quanh vẫn lặng lẽ như tờ. Bờ tre êm đềm bóng lá bóng nắng, xưa nay như chưa bao giờ chết lặng đến như thế. Hơi chết lạnh đến rùng rợn. Ngoài kia, nắng vẫn vàng như thêu hoa.
Không phải cái xóm vắng cả. Đằng kia, chú Sẻ vẫn nằm ngất lịm trong ống tre. Cô Vàng Anh nhắm nghiền mắt, từ lúc nghe tiếng kêu của lũ trẻ, tiếng xương gãy rau ráu, tiếng nuốt ừng ực. Vàng Anh tưởng sắp đến lượt mình, mỏ quạ như cái liềm sắt quờ vào cặp cổ. Vàng Anh nhắm mắt.
Nhắm mắt mà vẫn chưa tan cơn sợ. Vàng Anh bàng hoàng. Vàng Anh không ngụ ở đây. Hàng năm, tháng tám bắt đầu mùa thu, Vàng Anh từ trên núi xuống cánh đồng tránh gió bấc giá lạnh trên núi cao. Vàng Anh ở trong bụi tre cho tới sang xuân ấm áp, đợi theo gió mùa vào phương nam. Nhưng mới sáng sớm đã thấy giết chóc đổ máu, trời ơi!
Thế rồi Vàng Anh hốt hoảng bay vụt đi.
Chỉ còn có chú Sẻ. Sẻ vốn cả đời ở các mái nhà quanh quẩn trong làng. Giờ sắp đến mùa lúa. Vài hôm nữa, Sẻ dời ra ngoài hộc tre gần lối xuống đồng để mót thóc rụng.
Sẻ chui vào ống mà cũng mất vía từ lúc lão Quạ nuốt chửng ba Chèo Bẻo con. Sẻ đã sợ Quạ từ lâu. Sẻ không nhơn nhơn như cô Vàng Anh ban đầu. Nhưng Sẻ cũng không đến nỗi bị bạt vía như cô Vàng Anh.
Sẻ bay lên tổ Chèo Bẻo.
Vợ chồng Chèo Bẻo sững sờ :
- Chú có biết các con tôi đâu?
Sẻ nói :
- Lão Quạ Khoang ăn thịt cả rồi.
Sẻ kể tình đầu.
Chèo Bẻo vợ ngã khuy xuống.
Tiếng Sẻ kể vẫn thổn thức, rì rào. Rồi xung quanh lại lặng im, lặng im thảm quá. Xưa nay, lúc nào trên cành tre cũng rộn rã. Nhất là từ dạo đám Chèo Bẻo non nhớn nhao, kháu khỉnh, càng ríu ra ríu rít cả ngày.
Chèo Bẻo vợ, hai cánh sà xuống, rả rời như con chim phải đạn, hấp hối. Chèo Bẻo chồng nói :
- Thôi, khóc thì các con cũng không sống lại được.
Chèo Bẻo vợ nức nở.
- Làm thế nào?
Chèo Bẻo chồng quả quyết :
- Phải đi báo thù cho các con.
Lời nói của Chèo Bẻo như mũi tên bắn đi.
Nhưng đâu phải dễ. Bọn quạ ác, Quạ Đen, Quạ Khoang, những đứa uống máu không tanh, cả vùng đều biết. Chúng nó sức lực như con voi, con gấu lồng lộn. Ai cũng ghét mặt đứa ác, lại sợ. Quân tàn bạo ấy mà nổi cơn thèm thịt, hàng xóm láng giềng cũng mất mạng với chúng nó như chơi.
Nhưng không, một khi đã có lòng căm thù thì mọi tính toán so đo đều không ví được.
Trước mắt, vợ chồng Chèo Bẻo chỉ còn vũng máu các con chết. Và đứng đâu, phía nào cũng trông thấy bóng ác lão Quạ Khoang. Thù này quyết phải trả.
Nghe chồng nó, Chèo Bẻo vợ bình tĩnh lại.
Rồi bồn chồn giục :
- Đi ngay bây giờ, đi...
Sẻ đứng đây, khe khẽ, rụt rè :
- Anh Chèo Bẻo ơi!
Chèo Bẻo nhìn Sẻ. Sẻ chuyên cần bắt sâu nhặt hạt cơm vãi, nuốt được cả con bọ nẹt mình đầy gai mà không ngứa họng.
Chú Sẻ loắt choắt, giơ cặp mỏ đen bóng. Sẻ nói to :
- Cho tôi đi với.
Sẻ thấy Sẻ có thể đâm vào cổ, vào bụng, thủng bụng Quạ. Quái, sao cái lúc lão Quạ xẻ thịt ba đứa trẻ, Sẻ lại nhát sợ đến thế. Có lẽ tại đột ngột, tại bất ngờ. Bây giờ Sẻ khác. Sẻ muốn cùng Chèo Bẻo đi báo thù cho ba đứa trẻ. Nhất định Sẻ đi.
Thế là những cánh chim vụt ra. Qua nóc nhà và bụi cây nào, đến đâu Sẻ cũng gọi bạn theo. Những đàn chim Sẻ à à bay tìm đánh Quạ.
Trên đồng, lúa bắt đầu bén chân, rập rờn trong gió. Ngày mùa, đâu cũng tấp nập người làm và đâu cũng có người làm, ở đấy tíu tít chim bay, chim đậu. Kìa trông, giữa đồng lúa lên xanh, loang loáng ánh nước trắng bạc. Từng đám người thong thả cào cỏ. Ở xứ đồng cao bên lũy tre quanh làng viền thửa ruộng màu như vá những mảnh loang lổ vải khác nhau. Luống cà bát, quả to bằng chiếc bát ăn cơm trắng toát. Ruộng tỏi xanh mởn. Dưa leo và bí phấn vươn lên giàn rợp hẳn một góc. Đông quá, đàn chim Bạc Má, chim Khuyên chiu chít bắt sâu. Những con Sáo Đá, Sáo Đen vắt vẻo đứng hót trên lưng trâu, lưng bò giữa vạt cỏ xanh. Họ hàng nhà sáo vừa hát vừa bắt bọ, bắt ruồi đến quấy làm ngứa lưng trâu bò.
Ríu rít tiếng chim, quanh công việc đồng áng.
Mọi khi, vợ chồng Chèo Bẻo cũng vui ăn, vui làm như thế trên cánh đồng. Nhưng lúc này Chèo Bẻo nghe tiếng con cà cưỡng non ra tập bay ở đầu cành gạo, ngã bộp bộp xuống bãi cỏ, kêu e é, gọi mẹ, mẹ. Chèo Bẻo ứa nước mắt, lại bay gấp.
Đàn Sẻ sải cánh, cao thấp từng đợt. Sẻ dõi mắt tìm Quạ ở bờ ruộng bờ đìa dưới kia. Chèo Bẻo ngẩng lên cành đa, cành gạo, cành đề.
Cây đa cổ thụ ở đầu làng đã chi chít quà chín. Quả đa vàng mọng như quả duối. Bao nhiêu Chào Mào, chim Yểng về rúc rích ăn. Quả đa rụng chín quá, chú Vẹt bổ nhào đuổi theo, quắp lên, vừa ria ăn vừa bay.
Chẳng thấy lão Quạ đâu.
Lại tìm sang cánh đồng khác.
Vợ chồng Chèo Bẻo và đàn Sẻ bay quanh mấy cánh đồng. Mặt trời đã lơ lửng xuống bên kia núi. Bóng tối ở các chân tre bò lan ra mờ mờ.
Sẻ nói :
- Tối rồi, hãy về nghỉ.
Nhưng vợ chồng Chèo Bẻo vẫn loang loáng vỗ cánh không nghe tiếng.
Sẻ nói to :
- Ta về thôi.
Chèo Bẻo lắc đầu :
- Không về, không về.
Sẻ hiểu. Chèo Bẻo không muốn trở về tổ mọi khi ở trong vòm tre. Không bao giờ còn muốn trông lại chỗ ấy. Thế là chỉ có đàn Sẻ bay trở lại.
Sẻ kể chuyện nhà Chèo Bẻo đi tìm Quạ cho cả xóm ai cũng thương, đêm hôm rồi, nhà Chèo Bẻo bơ vơ đậu vạ vật chỗ nao...
Vợ chồng Chèo Bẻo bay đến lúc mỏi quá ngã xuống bờ cỏ giữa cánh đồng. Rồi cứ quặp chân, đứng rũ rượi. Đồng làng đã tối hẳn, Chèo Bẻo vợ thút thít khóc.
Mọi khi, vào lúc này, các con đã ăn xong. Các con đã đứng trên nóc tổ nhìn cho đến lúc mặt đất vàng mờ rồi tối hẳn mới trèo xuống. Chưa ngủ ngay, còn ríu rít chen nhau rồi mới díp mắt lại. Bây giờ các con tôi đâu? Xung quanh, chỉ có bóng tối bao phủ. Đôi cánh sã xuống, rỗng không.
Chèo Bẻo vợ thức một đêm như thế. Đến lúc Chèo Bẻo vợ rầu rĩ trông ra chân trời đã dần dần sáng.
Hai mắt Chèo Bẻo đầm đìa nước mắt. Mọi hôm, trời rạng sáng thế kia, vợ chồng sửa soạn đi kiếm mồi. Ba cái đầu ngóc lên chào bố mẹ. Những con mắt hó háy nhìn theo bố mẹ. Rồi cùng nhau trèo lên nóc tổ chơi ngóng bố mẹ tha mồi về.
Chèo Bẻo vợ gọi to như gào lên :
- Các con ơi!
Rồi vợ chồng lại hốt hoảng bay đi.
Nghe rào rào trên đầu ngọn lúa khắp mặt ruộng. Nhưng không phải gió thổi, đấy là đàn Sẻ đương lao tới.
Từ sáng sớm, Sẻ đã khua khoắng khắp nơi: Làng nước ơi, dậy! Dậy! Đi hỏi tội thằng Quạ! Đi hỏi tội thằng Quạ.
Trong các ống tre đầu hồi, trên ngách tường, ai cũng nghe tiếng. Cũng chẳng phải đợi chú Sẻ ấy chiềng làng mới thức giấc. Câu chuyện thương tâm, cả vùng đã thì thào suốt đêm qua.
Những cô, những chú chim bé bỏng, khi đã nổi cơn giận lên, cũng dữ dằn lắm. Sẻ bước ra, xù lông lên, mắt đỏ đọc. Cặp mỏ sừng đen nhánh, mỏ ấy mà thúc, có đứa phải thủng bụng.
Sẻ ra tới bờ ao, gặp chim Sâu đương sắp sửa xuống nhặt sâu dưới ruộng cà, ruộng dưa leo.
- Các bạn đi đâu đông thế?
Sẻ ồn ồn :
- Chưa biết à?
Chim Sâu chưa biết chuyện gì thật. Nhà chim Sâu ở cuốn tròn trên những chiếc lá ngái rải rác treo lơ lửng sát mặt đất khuất nẻo chẳng mấy ai tới. Sẻ nói :
- Lão Quạ ăn thịt hết con nhà Chèo Bẻo rồi.
Cả bọn chim Sâu kêu the thé :
- A... a...
Sẻ lại nói :
- Chúng tôi đi tìm hỏi tội Quạ.
Cả lũ Chim Sâu cùng nói :
- Cho chúng em đi với.
Giữa lúc ấy, trong một hốc cành cây gạo trên cao, cái đầu Quạ đen xì từ từ nhô ra. Chả là Quạ đã nghe tiếng léo nhéo dưới gốc cây, Quạ thức dậy. Hai con mắt hấp háy, đảo quanh. Lão đã nghe tiếng tất cả.
Lão Quạ cười khậc khậc.
- Chẳng phải đi tìm đâu. Tớ đây mà.
Quạ nhảy ra. Không biết động cỡn hay muốn giương oai, lão Quạ dang cánh ra, vồ xoay quanh, quạt bốn phía gió nổi lên vù vù.
Lũ chim Sâu còn đương giật mình vì tiếng cười khậc khậc rùng rợn, ma quái của lão Quạ, bỗng thình lình bị gió cánh Quạ tạt mạnh đến ngạt hai lỗ mũi, không thở được cả lũ loạng choạng ngã. Đứng lên, gió cánh quạt vẫn như bão, lại líu chân giúi xuống. Thế là bọn chim Sâu tán loạn, bối rối.
Chú Sẻ đã rõ ràng trông thấy Quạ.
Sẻ vội vã đi tìm Chèo Bẻo.
Sẻ ra giữa cánh đồng, gọi to :
- Chèo Bẻo! Chèo Bẻo!
Vợ chồng Chèo Bẻo đương lủi thủi đầu bờ ruộng. Còn đứng ngơ ngác chưa biết đi phía nào, nghe tiếng Sẻ :
- Lão Quạ trên cây gạo kia kìa.
Chèo Bẻo giật giọng, hỏi lại :
- Đâu? Đâu?
Đàn Sẻ với vợ chồng Chèo Bẻo nhào lên cây gạo. Những đám chim Sâu còn say gió nhưng đã tụ lại được đương ngơ ngác nhìn lên.
Đàn Sẻ lao ngay vào lão Quạ. Những con Sẻ thật hăng. Cặp mỏ như những hòn đá ném đồm độp vào mặt, vào ngực lão ngái ngủ. Từ nãy gió đùng đùng lên như thế mới chỉ là lão Quạ múa cánh, vươn vai. Lão chưa hết cơn ngái ngủ.
Lão Quạ thảng thốt bị bọn Sẻ oắt đánh đòn thình lình. Nhưng lão chẳng coi vào đâu, lão vừa cười khậc khậc, vừa lè nhè. Thật lão vẫn còn đói ngủ. Đáng lẽ còn ngủ tới trưa, nếu không loáng thoáng nghe tiếng Sẻ, tiếng Sâu léo nhéo phía ngoài.
Lão Quạ bị cả lũ Sẻ bất chợt đấm vào ngực. Lão lảo đảo, lắc lư. Nhưng những móng chân thô lố của lão vẫn quặp chặt vào thân cây gạo, không đến nỗi bị ngã ngửa. Rồi lão Quạ chớp chớp mắt nhìn ra.
Lão hét to :
- A, lũ ôn con, ôn con...
Lão Quạ hét chưa dứt tiếng, bọn Sẻ đã lại đâm sầm vào mắt, vào cổ lão. Nhưng lão Quạ đã bình tĩnh lại. Lão rũ lông, lấy thế chân đứng thẳng, nhâng nháo, vênh mỏ.
Sẻ lao tới.
Lão Quạ "này" một tiếng, lắc cổ, mỗi tiếng "này" lại một chú Sẻ lăn cù xuống tít xa. Sẻ lại xông vào. Sẻ hăng, nhưng chẳng được mấy hột sức. Như hòn đất ném vào tảng đá. Chỉ mấy lần lao vào, các chú Sẻ đã sã cánh, rơi xuống gốc gạo, nằm la liệt.
Đàn Sẻ ngã lổng chổng dưới bãi cỏ. Vẫn còn vài chú kiên nhẫn chờn vờn tìm cách đánh đòn bất ngờ. Lão Quạ lại cười khậc khậc :
- Vào đây... Vào đây...
Chèo Bẻo chồng bước ra.
Lão Quạ ngước nhìn, hỏi giỡn :
- Nhà mày đi đâu sớm thế?
Chèo Bẻo nói :
- Tao đi đòi mạng con tao.
Lão Quạ him him mắt, gật gù. Trông rõ cái đứa ác đã thành thói quen gớm ghiếc. Rồi lão nói một câu nghe rùng mình :
- Á, thịt trẻ con ngon quá. Vẫn còn thòm thèm.
Vợ chồng Chèo Bẻo rít lên :
- Tội mày... tội mày...
Lão Quạ đùa cợt, lạnh lùng :
- Hỏi tội thì tao phải đền cái gì?
Chèo Bẻo hét lên :
- Cái mạng mày! Cái mạng mày!
Lão Quạ vẫn giỡn :
- Cái mạng tôi a? Tôi đây này, mổ bụng lột xác tôi đi.
Chèo Bẻo xông vào. Những chú Sẻ ngóc dậy lại vào theo. Nhưng lão Quạ đã vỗ cánh rối mắt lên.
Lão Quạ kêu :
- Mày gầy lắm, xương thịt mùi mẽ gì đâu. Con vợ mày đẫy đà hơn, tao ăn thịt trước.
Vợ chồng Chèo Bẻo đùng đùng nhào tới. Trên cây gạo, giữa buổi sáng chan hòa nắng, nhà Chèo Bẻo xông vào đánh Quạ. Những đôi cánh tới tấp liệng như đâm thoi. Đầu cánh chao nghiêng, đâm vào ức vào bụng, rồi vút lên. Chèo Bẻo mạnh mẽ, cứng cáp, lại thêm lòng căm uất đến tột độ. Một cánh đánh vào cổ Quạ, cặp mỏ rứt lông Quạ. Lại một đầu cánh khác thúc lão đau điếng. Không thể coi thường, lão Quạ chăm chăm đỡ đòn.
Lão Quạ cứ đứng chịu trận. Không phải lão sợ, mà đấy là cái mẹo lão mới nghĩ ra. Lát sau, lão Quạ bỗng khùng lên. Vợ chồng Chèo Bẻo vừa xông tới, lão giương bốn ngón chân. Như cả cái bàn chông cắm vào. Chèo Bẻo vợ bị móng chân Quạ quào xước gần đứt cổ. Chèo Bẻo vợ ngã rơi xuống gốc cây gạo.
Chèo Bẻo vợ chết rồi.
Chèo Bẻo chồng đâm vào giữa mỏ lão đương há. Nhưng lão Quạ đã cụp mỏ lại, đập một phát. Nhát búa tạ giáng trúng đầu Chèo Bẻo. Chèo Bẻo chồng rơi xuống bãi cỏ, ngất đi.
Không biết bao nhiêu lâu, Chèo Bẻo chồng mới tỉnh. Xung quanh đã vắng lặng cả. Chèo Bẻo chống hai đầu cánh xuống đỡ, mới đứng lên được. Chèo Bẻo nhìn quanh. Có phải sự thật thế này. Bốn bên vắng vẻ như không. Chỗ chị Chèo Bẻo bị lão Quạ quật ngã xuống, chỉ còn một vũng máu. Máu ai đây? Lão Quạ đã ăn thịt sạch sành sanh cả con, cả mẹ rồi. Chèo Bẻo bàng hoàng như mê.
Mới hôm nào... mới hôm nào..
Mới hôm nào vợ chồng bay vào vòm tre, tìm nơi làm tổ...
Mới hôm nào, vợ chồng bàn nhau cho các con tập bay. Rồi sẽ đưa các con sang chơi bên kia sông.
Nhưng rồi lại tưởng tượng vẩn vơ. Ôi, những ngày vui. Ba con nằm nhô đầu ra cửa tổ. Ba cái đầu trọc tếu. Ba mỏ mọng sữa. Những con mắt thao láo. Mới nghe thoáng vu vơ tiếng động đâu đây - con chuồn chuồn rửa chân dưới mặt nước, con cóc tặc lưỡi, cặp mỏ đã lại há hoác. Nhưng bố mẹ chưa tha mồi về. Chẳng thấy động tĩnh đến cạnh mình, bọn nhóc lại thiu thiu ngủ.
- Mẹ ơi! Mùi hoa thơm thơm. Có phải mùi hoa bóng nước dưới kia.
- Không phải.
- Thế hoa ở đâu?
- Đây là mùi hoa mộc. Hoa mộc bé li ti bằng hạt gạo mà thơm xa lắm, hoa mộc ở bên cửa đền...
- Mẹ ơi, cho con đi xem hoa mộc.
Chèo Bẻo cúi nhìn vũng máu chỗ vợ ngã xuống còn vẳng nghe tiếng kêu "quạ... quạ..." cùng rợn xa xa. Chèo Bẻo vùng bay đi.
III
Rhông phải Chèo Bẻo đã quá căm hờn rồi đâm liều lĩnh. Chèo Bẻo nghĩ: Chẳng may kẻ thù gớm ghê đến như thế. Phải tìm cách nào...
Chèo Bẻo nói một mình :
- Tội ác tầy trời của lão Quạ, đâu đâu cũng biết. Ta đi tìm bạn. Những ai giúp ta...
Chèo Bẻo đi ngay.
Trên cây đề lao xao, không biết tiếng gió hay tiếng những con Bồ Cu Bồ Các vừa tíu tít chuyện, vừa cãi nhau tranh nhau quả đề. Cái bọn Bồ Các đến đâu loạn xạ đấy. Nhưng cũng chưa biết nhà Bồ Các hay nhà Liếu Điếu trên cây đề. Liếu Điếu cũng lắm lời như Bồ Các. Liếu Điếu làm tổ chỗ nào, ở đây như vỡ chợ. Nhưng chắc đây không phải Liếu Điếu. Liếu Điếu hay luồn lỏi đi từng bọn trong bờ bụi chân lũy tre. Và Liếu Điếu chỉ hay lan man chuyện vào chặp tối. Nào xem hôm nay kiếm được gì. Nào mai đi kiếm ăn đâu. Đây là Bồ Các, Bồ Cu.
Trong cây đề đương có một đàn Bồ Các. Giữa mùa, quả để, quả đa chín vàng. Bồ Các ăn béo núc ních. Lưng Bồ Các mượt mà xanh đen. Đậu trên cành rỉa quả, đàn chim chốc lại hoa cánh nhìn nhau, ngắm nhau. Khoe những miếng vá đẹp như mảnh lụa trắng hai bên vai.
Chèo Bẻo vào cây đề. Chèo Bẻo không ăn quả đề bao giờ. Thấy lạ, Bồ Các xúm lại, tranh nhau hỏi :
- Chú đi đâu sớm thế? Sao lại đi một mình?
Chèo Bẻo thở dài kể.
Bồ Các xót xa, ai cũng rơi nước mắt.
Chèo Bẻo nói :
- Các bạn, ai thương tôi cùng tôi đi đánh Quạ?
Bồ Cốc chép chép mỏ tỏ vẻ ái ngại. Nhưng lại dường như không nghe tiếng câu Chèo Bẻo vừa hỏi.
- Thương quá.
Chèo Bẻo lại hỏi :
- Ai đi với tôi?
Bồ Các thở dài :
- Nhưng mà, anh Chèo Bẻo ạ, ở đời cốt cái yên lành...
Rồi lảng ra rỉa quả đề... Lại léo nhéo không biết là nói chuyện hay lại cãi nhau đằng kia. Bực mình Chèo Bẻo cất cánh đi thẳng.
Cánh đồng lúa chín vàng rực. Đàn chim Ngói bay đỏ trời, vụt xuống, vụt lên. Không biết bao nhiêu mà kể. Vun vút như mưa đá.
Chèo Bẻo nghĩ: Đàn Ngói đông thế kia, gọi Ngói đi giúp, chẳng đánh được.
Chèo Bẻo vào chân tre tìm Ngói. Ngói ăn thóc no rồi vào nghỉ ngơi trong ấy cho vơi diều, chốc lại ra kiếm nữa.
Chèo Bẻo tính hay lam hay làm, ngày nào cũng mải miết đi kiếm thế mà cũng hôm no hôm đói. Đã lâu mới tới một nơi giàu có nhàn nhã như nhà chim Ngói thế này.
Trong bờ tre, chất đầy thóc. Đụn thóc cao ngập đầu. Trông mãi mới nhận ra Ngói nằm lẫn giữa đống thóc. Màu lông, màu mỏ, màu chân Ngói mỡ màng vàng hây như màu hạt thóc. Thiên hạ nói phải: ngày mùa, con cháu nhà Ngói đều trơn lông đỏ da.
Buồn mỏ, lại nằm nhằn thóc. Lười đến đỗi chẳng chịu đứng lên mà ăn.
Ngói ngoảnh ra, cất tiếng :
- Chào anh Chèo Bẻo! Đi đâu thế?
Chèo Bẻo chưa đáp, Ngói đã suy bụng ta nói thêm :
- Đương mùa màng thế này, nỗi nào mà đi vay ăn sớm thế?
Ồ, Ngói tưởng Chèo Bẻo đến vay thóc. Mùa này, mùa sinh nở, nhà Chèo Bẻo chả đông miệng ăn mà. Quân bần tiện đã nghĩ thế đấy. Cất lời rủ nó giúp cũng đến toi công.
Chèo Bẻo quay ra ngay.
Chèo Bẻo qua một bờ lau. Trong ngọn lau, râm ran tiếng hót. Nghe biết tiếng Khướu, tiếng Họa Mi.
Khướu và Họa Mi đương vi vút hát thi hát đố.
Khướu chê Họa Mi:
Nhà anh một mái nửa gian
Nửa định làm bếp, nửa toan làm bè
Họa Mi khích lại:
Song le ai khéo kén đôi
Chồng thì mồm ếch, vợ môi cá mè.
Thế là đôi bên cãi nhau um lên.
Chèo Bẻo than :
- Lũ này cả đời chỉ chơi nhởn hò hát dông dài. Thôi ta đi tìm chỗ khác.
Chèo Bẻo bay xuống đồng sâu.
Cái cò cái vạc cái nông
Cùng ăn một đồng, nói chuyện giăng ca.
Ngước mắt trông ra cánh đồng chiêm bốn bề nước trắng mênh mông. Ở đồng chiêm ngập nước, chỗ nào cũng một cảnh làm lụng chân lấm tay bùn. Con chim bới cái ăn trên nước phải gieo neo tận đồng sâu. Mà mò cho được một miếng cũng chẳng dễ dàng.
Bởi vậy, họ Cò và họ Vạc cùng kiếm ăn một cánh đồng mà phải ký văn tự chia nhau đứa mò ban ngày, đứa đi ban đêm. Quan xử nhà Cò được đi ban ngày. Nhà Vạc mặc áo nhuộm chàm nhạt, khư khư cắp trong nách tờ giấy trắng văn tự chia đồng. Lúc nào cũng sợ rơi mất tờ văn tự.
Nhà Vạc phải lặn lội đêm hôm, đến chặp tối, nhà Vạc mới từ trong bờ tre lủi thủi ra. Mải miết thâu đêm, khi nghe tiếng gà gáy trong làng mới chợt nhớ sắp hết hạn giao kèo chỉ được đi ăn đêm. Vạc cất đôi cánh ướt thướt dưới đồng bay về. Qua bụi tre, uể oải rời rạc, mệt mỏi kêu vạc vạc mấy tiếng. Cò ngủ trên ngọn tre, biết hiệu Vạc đã về, mới bừng mắt nghển cổ. Trời sắp sáng. Đến lượt nhà Cò xuống tìm cái ăn trên cánh đồng sâu.
Cái cò là cái cò con
Mẹ đi xúc tép để con ở nhà.
Chèo Bẻo đón Vạc ở đầu đồng nước.
- Anh Vạc ơi anh Vạc!
Vạc hỏi :
- Đói à?
- Không phải.
Đến khi nghe Chèo Bẻo kể, Vạc nói :
- Mỗi cảnh mỗi nỗi, nhưng mà khổ nhất bây giờ phải kể là tôi.
- Thế anh có cùng em đi đánh Quạ không?
Vạc nói :
- Hẹn với Chèo Bẻo đến mùa nước cả, cá ăn kiếm được dễ hơn. Khi ấy dành dụm được, sẽ rủ nhà Cò đi với Chèo Bẻo đánh cho chết lão Quạ.
Vạc nói rủ tỉ. Chèo Bẻo cúi chào :
- Vâng, đến mùa nước cả...
Chèo Bẻo bay đi.
Một hôm, Chèo Bẻo trông thấy bác Lềnh Đềnh giữa đồng nước. Chèo Bẻo mừng lắm. Bác Lềnh Đềnh trông thật oai phong, hùng dũng. Lềnh Đềnh còn cao to hơn cả Ngỗng! Lão Quạ đứng nghển đầu lên chưa chắc đã tới nách bác Lềnh Đềnh. Lềnh Đềnh đẹp mã trắng toát đồng nước, như cái tàu thủy du lịch màu thiếc phau phau nổi giữa biển khơi. Lềnh Đềnh đương bơi. Lềnh Đềnh bơi từ từ.
Chèo Bẻo nghĩ bụng hai cái cánh bác Lềnh Đềnh dài thế kia chỉ quạt thốc một cái, lão Quạ phải đứt hơi rồi.
Chèo Bẻo bay tới.
Lềnh Đềnh ngẩng lên, hai con mắt lừ đừ ý như hỏi: chú mày đi đâu mà ra tận chỗ đồng trắng nước trong xa xôi thế này.
Chèo Bẻo nói :
- Em có việc hỏi bác.
Lềnh Đềnh chẹp mỏ, hai mỏ va vào nhau kêu cộp cộp. Ồ, lão Quạ mà bị kẹp vào cái mỏ dữ thế, phải vỡ đầu như chơi.
- Em nhờ bác một việc.
Lềnh Đềnh lắc đầu :
- Tôi không biết việc gì cả. Tôi chỉ biết bơi đi tìm cái tôm cái tép nhét vào diều tôi thôi.
Rồi Lềnh Đềnh lặng lẽ từ từ bơi đi. Chẳng cần biết Chèo Bẻo vẫn băn khoăn bay theo.
Lúc nãy trông Lềnh Đềnh oai nghi thế, bây giờ vẫn bác Lềnh Đềnh cao lớn, Chèo Bẻo thấy Lềnh Đềnh ỉu xìu xìu. To xác mà không có hồn, chẳng được tích sự.
Chèo Bẻo thất thểu cánh thấp cánh cao rời đầm nước vào làng.
Ở một cây gạo, nghe tiếng ríu rít một đàn Sáo Sậu. Không rõ đấy là tiếng ríu rít hay tiếng khóc thút thít. Đương lúc thảng thốt. Chèo Bẻo nghe chẳng ra tai lành tai điếc thế nào.
Sáo Sậu, đúng Sáo Sậu. Sáo Sậu hay trò chuyện ríu ran, có đứng yên bao giờ đâu. Nhưng hình như không phải tiếng cười cợt. Nghe rõ tiếng thút thít nức nở vẳng ra.
Sáo Sậu tới ghé tai Chèo Bẻo :
- Lão Quạ vừa đến đây phá tổ, ăn thịt mất bao nhiêu trẻ con!
Chèo Bẻo nói to :
- Tôi đang đi tìm đánh Quạ.
Đàn Sáo Sậu tới tấp, nhao nhao :
- Đi đánh lão Quạ.
Tiếng hò hét râm ran cả một vùng.
Sáo Sậu bay rợp một quãng đồng. Thế là được một bọn đi đánh Quạ. Nhưng chưa đủ. Phải nhiều nữa, nhiều nữa. Bay đến đâu lại gọi thêm đây. Mùa hạ đã qua, trời đất lại bắt đầu vào thu. Dòng sông, cánh đồng và đường làng, đường phố sáng trong như gương.
Những cánh đồng lúa chín. Trẻ con đứng bên ruộng lúa trỗ ngập đầu. Phải kiễng chân lên mới chui trong lúa ra được. Cánh đồng chín màu vàng dâng lên, làm cho bụi tre thấp xuống, làng xóm lùn đi, mái nhà chỉ nhô hơn mặt lúa có gang tay thế thôi.
Mặt trời vừa ló ra. Nghe tiếng trẻ reo inh ỏi. Làn sương trắng ngần sợ mặt trời, cứ lảng dần, rồi biến mất.
Một chú Choi Choi tới. Mỗi đợt vỗ cánh, Choi Choi bổng mình lên vụt mình xuống, chập chờn qua mặt lúa. Tiếng trẻ lại hò reo kéo dài. Vào mùa gặt, trẻ con dậy sớm, ra đứng chực ngoài ngõ xóm. Đợi tan sương thì ra cánh đồng chơi.
Tiếng reo a a. Tiếng chim ríu rít. Trẻ con với chim lẫn tiếng như nhau. Bao nhiêu chim ở đâu bay đi chơi ngày mùa. Chim Dẽ Giun, chim Hét, đàn Sẻ, đàn Ri Sừng... Tất cả cùng ra đồng. Cánh đồng đương gặt.
Giữa mặt lúa phẳng lì, cỗ máy gặt đập như ông Voi. Ông Voi đỏ rực lừ lừ tới đâu, nuốt từng nạm lúa to vào bụng. Voi sắt to kềnh mà nhai rất khéo. Bỗng chốc, đằng đuôi Voi bĩnh ra từng nạm rạ. Và bên sườn, cái vòi cất lên, suối thóc phun rào rào xuống lưng chiếc xe cải tiến đã quây cót kín bốn phía. Chẳng một hạt thóc lọt được ra ngoài thùng. Voi sắt vừa gặt đập vừa rống ầm ầm, rung cả mặt lúa. Tới tấp vòi thóc phun, đuôi máy nhả rạ...
Nhưng đến những góc ruộng ngoắt ngoéo, voi máy không xoay ngang vào được. Thì những cô thợ gặt ra tấp nập làm thi với máy. Lưỡi liềm nghênh lên, lia xoèn xoẹt. Đuôi lúa ngoắt nhanh nhanh rồi rạp xuống như cá quấy. Tay người nắm cổ lúa, chốc đã ôm một lượm. Người và lưỡi liềm thoăn thoắt. Ông voi sắt gầm thét ngoài kia. Như tức tối không làm khéo tay được như các cô thợ gặt.
Bọn trẻ xách rá, xách mẹt chạy trên khoảng ruộng trống, nhặt lúa rơi. Đàn chim tỏa xuống mặt ruộng ẩm ướt vừa quang lúa. Có chỗ mạng nhện chăng như đất mốc trắng, còn ngậm sương. Chân đất cỡm bóng lúa từ mùa hạ, giờ mới trông thấy mặt. Con bướm ma, con bướm đất cập quạng bay ra. Con nhện lăng quăng. Đàn kiến đã lâu núp trong bóng lúa, đâm sợ sáng, bò tất tả, rối rít. Thế là Sáo Mỏ Ngà, chim Hét, Chích Chòe xô vào...
Như mọi khi, Chèo Bẻo đã xuống cùng các bạn nhặt con sâu, cái kiến. Lúc ấy Chèo Bẻo chỉ thẫn thờ đứng trên bờ. Các bạn đương trong ruộng nói với ra :
- Chèo Bẻo ơi! Chú Sẻ đã kể hết rồi. Lúc nào đi đánh Quạ, bọn này đi ngay với Chèo Bẻo.
Chèo Bẻo lại mải miết bay.
Chèo Bẻo vẫn đi tìm bạn. Tìm cho được nhiều bạn. Nhưng mà thật khó. Có sức dài vai rộng như Lềnh Đềnh thì lại nhát như cáy. Các bạn Sẻ bé loắt choắt đã bị lão Quạ đánh đau thế, vẫn nhất quyết đi nữa. Phải rủ cho được nhiều bạn can đảm thế.
Chẳng bao lâu, tới các vườn ven sông. Xa xa, những bờ tre xanh đen mơ màng ngả trên mặt nước trong veo. Cam đã bắt đầu chín. Những khoảng vườn rực rỡ từng đốm như đèn nhà ai thắp ban ngày dọc hai bên sông. Chốc chốc, một chiếc thuyền qua, chở đầy khoang bưởi vàng, bưởi đỏ vừa trảy trên vườn xuống. Bóng người và tay chèo thong thả rờn bóng nước.
Đàn Vành Khuyên vút qua, sà xuống. Mùa quả chín, vườn tược chẳng còn mấy sâu bọ. Vành Khuyên vẫn sục sạo tìm kỹ lưỡng từng cành.
Vườn ổi đã xơ xác rồi. Mỗi cơn heo may lướt qua, gió bứt lá lả tả rơi. Cây bàng úa đỏ từng chiếc lá. Những cành xoan khẳng khiu. Vành Khuyên ở vườn cam ra lại đậu xuống. Đôi cánh bé bỏng len lỏi cành nọ sang cành kia. Con mắt tinh nhanh giữa hai vòng khuyên trắng.
Vành Khuyên hỏi :
- Anh Chèo Bẻo đi đâu?
- Vành Khuyên có đi đánh lão Quạ.
- Chúng em nghe Sáo Sậu kể rồi. Cho chúng em đi với.
Chèo Bẻo gặp Chích Chòe cạnh bờ đát đầu bụi tre. Chích Chòe cong đuôi, cất tiếng hót. Mặt trời đã lơ lửng xuống ngọn cau, Chích Chòe hót báo hiệu chiều, chiều đã về rồi.
Chích Chòe bảo :
- Anh Chèo Bẻo nghỉ lại đây. Rồi đi đánh Quạ, cả xóm cùng đi.
Sương dăng mờ mờ ngang cánh đồng.
Chèo Bẻo bảo còn đi rủ nhiều bạn nữa. Chèo Bẻo vào bãi vải. Cây vải rậm lá xanh đen. Mùa vải chín qua đã lâu. Bây giờ mỗi cây đều hoang vắng.
Mặt trời đã lặn xuống phía bên kia. Mỗi bóng cây lù lù lên như những đống đất xù xì, ảm đạm. Thế mà trong bóng tối nhá nhem vẫn còn những con chim lúi húi, đây là mấy chú Chìa Vôi.
Chìa Vôi mảnh dẻ, mỗi lúc cúi đầu tìm con sâu, cái đuôi dài đen trắng nõn nà lại vổng lên. Nom vui mắt như bà cụ móm ngoáy vôi têm trầu. Vậy mà thành tên là Chìa Vôi chăng.
Mọi việc cấy hái đồng áng đã xong, chẳng còn cái án ngoài đồng. Chìa Vôi mê mải suốt ngày tìm vào các búi cỏ. Nhưng bới mỏi đến rơi gối cũng chẳng kiếm ra miếng nào. Tới rệ sông dưới bãi vải, cũng chỉ có mấy đám cỏ bơ phờ. Con trâu vừa gặm, con bò đến gặm lại, bật cả rễ lên. Chìa Vôi gãi đất mấy cái chẳng được gì, lại sang chỗ khác.
Chìa Vôi ngẩng nhìn ra :
- Chèo Bẻo đến chơi tối thế?
Chèo Bẻo đáp :
- Mỏi quá, vào nghỉ chân thôi.
Rồi cả hai cùng lặng im. Câu chuyện đau khổ của Chèo Bẻo ai cũng biết cả rồi.
Đằng kia, tiếng nhịp nhịp âm âm... Bíp... bíp... bíp... bíp... Bìm Bịp đương gióng giả. Bìm Bịp đã trở về cây vải. Ai ở đâu, cứ xê chiều, nghe tiếng bìm bịp, biết là trời sắp tối. Cũng như con Chích Chòe hót chiều, như cái đồng hồ báo thức. Tiếng Bìm Bịp, xa xa, ảm đạm, buồn âm u. Nhưng Bìm Bịp không buồn thế đâu. Cả những hôm kiếm được no bụng vẫn nghe tiếng xa xôi thế. Chỉ tại cái giọng buồn buồn mà thôi.
Bìm Bịp đã về tới dưới gốc vải tối om.
Mắt Bìm Bịp tinh lắm, đã trông thấy đám Chìa Vôi, Chèo Bẻo lố nhố.
Bìm Bịp hỏi to :
- Được gì ăn hôm nay nào?
Chìa Vôi khép nép :
- Chẳng được gì.
Bìm Bịp chìa trong móng chân ra một mồi châu chấu :
- Cho đây này!
Chìa Vôi rối rít cảm ơn.
Bìm Bịp hỏi Chèo Bẻo :
- Ơ hay, mùa này nhà Chèo Bẻo đương chơi nhởn tận đâu cơ mà?
Bỗng thoáng một bóng lù lù ngoài bãi cỏ luồn vào.
- Cậu Cuốc đấy hả?
Cuốc đen đứng lẫn bóng tối.
Bìm Bịp nói ngay :
- Lại hỏi ăn chứ gì?
Cuốc tần ngần.
Bìm Bịp giơ bàn chân. Một con mồi bọ muỗm giắt dưới móng.
Bìm Bịp lại hỏi :
- Nhà Chèo Bẻo có đói không?
- Không.
- Sao mặt mũi vêu vao thế?
Chèo Bẻo cúi đầu :
- Đáng nhẽ bây giờ mọi năm chúng em đương chơi xa tận đâu đâu...
Bìm Bịp nói :
- Chị cũng biết chuyện tai nạn này rồi. Chị còn trữ được miếng mồi nữa. Ăn đi, cố ăn cho có sức. Khỏe thì làm gì cũng nên. Bãi vải này dài suốt dọc sông, còn đông anh em lắm. Ta sẽ tính chuyện cùng nhau đi đánh lão Quạ thế nào...
Đêm ấy, xóm bãi vải không ai chợp mắt. Những tiếng thì thào to nhỏ. Ai cũng nói: Nhưng mà lão Quạ không phải tay vừa. Làm thế nào...
Tiếng Bìm Bịp kêu sớm. Tận làng xa cũng nghe tiếng Bìm Bịp gọi trở dậy. Sáng sớm, thổi cơm ra đồng, đi chợ.
Bìm Bịp kêu, Bìm Bịp gọi cả xóm đến với Chèo Bẻo. Tất cả xúm quanh Chèo Bẻo như chập tối hôm qua. Mấy anh chim Trả trong hàng cùng kiệt cuối bãi cũng lên rồi.
Bìm Bịp nói :
- Cả xóm này cùng Chèo Bẻo đi đánh Quạ.
Lúc ấy, Gõ Kiến ở đâu bay vút tới. Chim Gõ Kiến không phải dân ngụ bãi vải. Gõ Kiến quanh năm nay đây mai đó, tài nhảy đã nổi tiếng.
Tất cả reo lên :
- A Gõ Kiến! Gõ Kiến! Võ sĩ Gõ Kiến cứ vác cái bộ mỏ bằng búa tạ kia bổ xuống thì có đến mấy đầu lão Quạ cũng phải vỡ toang.
Mỏ Gõ Kiến to tròn đúng bằng cái kìm đen xì, nhờn bóng như lấm láp dầu máy. Cách kiếm ăn của chim Gõ Kiễn cũng khác đời. Gõ Kiến tìm một thân cây mục. Trong cây mục có kiến làm tổ. Gõ Kiến bổ mỏ côộc côộc từng nhát. Mỗi nhát rung rinh cả lớp vỏ cây mục. Bọn kiến trong hốc nghe tưởng ngoài kia trời mưa sét đánh vào cây, thế là nháo nhác chạy ra.
Gõ Kiến nói :
- Các bạn chớ khen tôi. Mỏ tôi chỉ biết dọa kiến thôi. Có việc gì mà xúm đông xúm đỏ thế?
Một lát, Gõ Kiến nghe thủng chuyện.
- Bìm Bịp nói phải. Ta nên đi tìm bạn nhiều nữa, thật nhiều nữa. Nhưng không phải chỉ quanh quẩn vùng này. Mặt đất bao la, cùng nhau lên rừng xuống bể...
Tất cả nói :
- Đúng đấy.
Gõ Kiến tiếp :
- Có câu hát rằng: Trên rừng ba mươi sáu thứ chim. Nhưng trên rừng có hàng vạn thứ chim nhiều hơn câu hát. Chim đại bàng, chim phượng hoàng mỏ sắc, móng sắc, còn to khỏe gấp trăm lão Quạ.
Bìm Bịp vẻ lo lắng :
- Ai lên được rừng?
Gõ Kiến nói :
- Tôi chứ còn ai. Tôi quê gốc trên rừng.
Từ nãy, Chèo Bẻo đứng yên, giờ mới nói khẽ :
- Khi nào anh lên rừng có qua vách đá gặp bác Chèo Bẻo Đuôi Cờ, xin anh kể chuyện nhà tôi cho các bác cháu biết.
Bìm Bịp lại nói :
- Ai biết đường xuống bể?
Các loài chim trong bãi vải, giống chim cánh ngắn, chưa đi đâu xa ra ngoài cánh đồng. Chẳng ai trông thấy mặt biển, không biết biển ở đâu. Ừ, rủ được cả bọn ở biển nữa càng đông. Nhưng làm thế nào?
Anh Vẹt vẫn khoặm mỏ, nghiến lợi ngẫm nghĩ từ sáng tới giờ.
- Đến mùa gió bấc thổi, có các họ nhà Giang, nhà Sếu trên phương bắc xuống tránh rét ở các vùng cửa bể phương nam. Đợi khi nào nghe tiếng Giang, tiếng Sếu về ta nhờ các bạn ra bể nhắn các bạn chim vào giúp Chèo Bẻo.
- Hay đấy! Vẹt nghĩ hay đấy.
Trước kia, ai chỉ biết bắt chước mà lại hay láu táu, thường bị chế giễu: nói như vẹt.
Nhưng câu nói thông minh của Vẹt đã khiến những cười cợt kia không đúng nữa.
Ai cũng quyết giúp Chèo Bẻo. Bè bạn đổ đến mỗi lúc một đông.
Trên cành gạo tíu tít những Sáo Đen, Sáo Đá, Sáo Mỏ Ngà... Có tiếng kêu. Cả tiếng khóc nỉ non sướt mướt đi tới. Thì ra hôm qua, lão Quạ lại mò vào tổ Sáo Sậu, ngoạm đi mất hai con Sáo non...
Vợ chồng Sáo Sậu rên rỉ :
- Giời đánh thằng Quạ! Giời đánh thằng Quạ. Giời ơi!
Chim Chìa Vôi đi ăn đàn mới về. Cả trăm con ngủ đứng chật chưỡng trên đám lá khô lót luống trong ruộng mía. Suốt đêm, phía nào cũng bàn chuyện đi đánh Quạ.
Sáng ra, Chìa Vôi nói :
- Chúng tôi chỉ quanh quẩn đây thôi. Lúc nào đi đánh Quạ, nhớ rủ nhau cùng đi...
Rồi vút đuôi, bay bổng.
Xa xa, tiếng Bìm Bịp lại kêu giờ. Người thổi cơm, người đi làm đồng, trẻ em đến trường đều nghe giờ Bìm Bịp. Gà trống, chim gáy cũng là cái đồng hồ, nhưng chị Bìm Bịp đánh chuông nhiều giờ trong ngày hơn. Trời tang tảng sáng, Bìm Bịp gọi. Cơm sáng xong, Bìm Bịp giục người đi làm, nhắc chim đi kiếm mồi. Giữa trưa, đến chiều, đến tối, lại gióng giả từng lúc. Bảo người thổi cơm, nhắc trẻ con đi ngủ, các bạn ơi, khuya rồi.
Tiếng Bìm Bịp thấp cao vi vút. Khi xa, khi gần. Trong tiếng Bìm Bịp buổi sớm có câu nhắc đi nhắc lại: Ai đây, ai ơi, đuổi lão Quạ đi. Lão Quạ hay giết trẻ con, đuổi lão Quạ
Bìm Bịp kêu đâu đâu cũng nghe tiếng, cùng với tiếng chim Cuốc ở bờ ao, bờ chuôm, đầm nước, suốt ngày, suốt đêm.
- Cuốc! Cuốc! Lão Quạ trộm cướp uống máu trẻ con! Làng nước ở yên sao! Làng nước ở yên sao! Cuốc! Cuốc!
Cả đến những xóm xa xôi cũng đã sôi lên rồi. Nhất là khi biết lão Quạ lại mới ăn mất hai con nhà Sáo Sậu. Thôi thì nó bẩn thỉu có nuốt thịt thối, cá ươn cũng mặc xác nó, nhưng lại để nó giết hết con cái mình thế a? Không được, không được.
Chim Chích Chòe, chim Sẻ hay mách lẻo, đưa chuyện. Thế mà không đến nỗi nhanh nhảu đoảng đâu.
Chích sang vườn bọn Khướu. Mùi hoa bưởi thơm trong tiếng hót ríu ran. Khướu Mun, Khướu Bạc Má, Khướu Lửa đã tụ hội trong vườn.
Chả trách, có câu nửa chê, nửa đùa: hót như khướu.
Khướu đang líu lo, thi nhau trổ các giọng.
- Các bạn làm gì đây?
- Chúng tôi hót.
- Hót to không sợ người ta nghe tiếng, đem lưới đến bẫy à?
- Chúng tôi thích được người ta bẫy.
- Lạ nhỉ.
- Có gì lạ. Người ta bẫy đem về nuôi thì khỏi phải đi kiếm ăn khó nhọc.
- Quạ mà nuôi rồi Quạ đòi ăn thịt thì sao?
- Không sợ Quạ.
- Đi đánh Quạ nhé.
- Đi đánh Quạ!
Chả biết đến lúc đi, bọn Khướu có đi, hay còn mải chơi. Nhưng, thế là cả những xóm hẻo lánh, cũng xôn xao bàn đi đánh Quạ.
Kể ra, Chích đã chịu khó và khéo léo. Nhưng cũng chưa giỏi bằng Sẻ. Bởi Sẻ đã tận mắt thấy tội ác lão Quạ. Sẻ đã đánh nhau với Quạ. Mỗi lần nghĩ đến, Sẻ lại hốt hoảng, uất ức nghẹn lên cổ. Sẻ bay đi gọi các bạn.
Có ba cái lồng chim tròn cao đặt giáp nhau. Một đám đông người xúm quanh.
Đấy là những lổng chim Họa Mi. Ở một lồng đặt cạnh lồng một Họa Mi mái. Cô Họa Mi cất tiếng huýt xùy... xùy... giục giã hai anh kia... Đánh nhau đi... Đánh nhau đi... Xùy xùy... Đánh nhau đi... Xùy xùy... Đánh nhau đi... Hai chàng Họa Mi nhảy lên, xông lên. Đôi mắt vệt vôi xếch ngược. Móng chân cạo rào rào vào nan lồng. Cái mỏ nhọn như lưỡi dao xỉa xói sang nhau. Phải đánh gãy cổ thằng kia mới hả.
Ả Họa Mi càng xùy xùy thúc tợn. Hai chàng càng hăng máu, đến lúc thật thèm choảng nhau quá, người chơi chim mới rút nan cửa lồng. Hai cậu chim ưa phỉnh thò mỏ, thò móng sang xé nhau, đâm nhau. Có cậu ngã quay, lõa lợi máu mép. Có cậu chạy cuống. Xung quanh vỗ tay reo hò. A Họa Mi vẫn xùy... xùy... Đánh nhau đi...
Người xem càng đông. Chàng chim ngã dậy được rồi. Người chơi chim sắp rút thêm nan lồng cửa xáp nhau. A Họa Mi lại khích: xùy... xùy... đánh nhau đi... đánh nhau đi... Cái cô tai ác này vì thế mà thành tên là Mái Xùy.
Sẻ đứng trên mái nhà nhìn xuống cất giọng :
- Các anh có thuộc câu hát: Khôn ngoan đá đáp người ngoài.
- Biết chứ! Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Sẻ cười :
- Thế mà vẫn đá nhau a?
- Nhưng cáu không chịu được.
Sẻ nói :
- Này này, khắp nơi đương đồn là lão Quạ sắp đi chén thịt tuốt các loài chim. Mà mắt tôi đã trông thấy lão ấy giết ba Chèo Bẻo con. Hãy để sức choảng lão Quạ.
Hai Họa Mi cũng kêu :
- Cho chúng tôi đi đánh Quạ.
- Đương phải nhốt trong lồng, đi thế nào?
- Tớ bẻ nan... Tớ chui ra...
Cũng không rõ rồi Họa Mi có thoát lồng được không.
Nhưng thế là cả đến những con chim bị nhốt trong lồng cũng đã biết thù lão Quạ rồi.
Chèo Bẻo nhớ :
- Còn bác Đuôi Cờ nhà tôi. Chẳng biết Gõ Kiến đã gặp Chèo Bẻo Đuôi Cờ chưa. Hay là tôi đi...
Chèo Bẻo chưa kịp lên núi đã thấy ngoài kia những chiếc lông đuôi lượn phất lên phất xuống như đàn công múa, rực rõ cả mặt nước.
- Ồ kìa các bác! Các bác biết tin nhà em bị nạn rồi à? Thế là đông đủ. Ai cũng một lòng cứu giúp em...
Nhiều kẻ trước kia nhút nhát bây giờ cũng đổi tính. Chim Sâu, chim Bạc Má, chim Giẻ Quạt chẳng có mấy hột sức cũng nghĩ cách nào đánh được lão Quạ một cái.
IV
Mùa xuân trở về lúc nào, làn gió ấm nhẹ cả người thổi đến đuổi cái rét mướt sang bên kia núi.
Mặt nước tự dưng trong veo. Một chiếc thuyền đủng đỉnh qua. Nhà chài đi lưới đơm hay vớt đó cá, không biết.
Đã trông rõ chiếc thuyền thúng đi vớt rong. Ở rừng thông, từng đàn bướm bay ra. Bướm vàng, bướm trắng rập rờn quanh các gốc. Những con ngài được hơi nắng ấm, vừa nở thành bướm cánh. Không biết nữa, cánh bướm non chấp chới hay là làn gió rón rén đến rung cho bướm học bay.
Những con Sẻ nhảy chuyền trên cành thông. Mấy lâu, Sẻ tránh rét trong hốc cột. Sẻ ra hỏi thăm ngoài hồ xem các anh Bồ Nông có còn ở đấy không, hay đã trở về phương ấm áp rồi. Hôm trước, Sẻ xuống nhặt thóc rơi trên mạn thuyền, đậu nhầm cả xuống lưng Bồ Nông đứng rình mồi ven nước. Mà anh Bồ Nông hiền, Sẻ đứng nặng trĩu lưng mà vẫn yên lặng, không rũ mình. Từ đấy, Bồ Nông và Sẻ thành bạn.
Những chiếc thuyền lủa tủa thấp thoáng mặt nước như lá tre rơi. Tiếng bơi chèo đập mạn thuyền gỗ, tiếng gõ cá quăng lưới. Bên kia vang tiếng hát, tiếng trẻ ra chơi. Không phải chỉ có những chiếc thuyền vớt rong cho lợn ăn như lúc nãy.
Những con tôm, con cá trong lòng hồ, bơi lấp lánh. Lũ Thờn Bơn, cá Thiểu đón các bạn mới lên ngóp môi thở hớp quanh thuyền.
Góc hồ đằng kia, những bồ nông, những giang, những sếu đương sớn sác bước lên bãi. Tiếng gọi nhau râm ran, lạc đạc, ời ợi. Đàn chim trú đông, nghe làn gió ấm thổi lại, đương bay về phương bắc.
Mùa xuân đến, quanh mình tấp nập, rộn rả. Chèo Bẻo cũng biết như thế. Nhưng Chèo Bẻo âm thầm. Mùa xuân này, Chèo Bẻo chỉ có một mình.
Giữa khoảng trời, Chèo Bẻo nghe quanh mình có tiếng gọi: Chèo Bẻo! Chèo Bẻo! Đấy là tiếng mùa xuân. Mùa xuân thông cảm nỗi đau.
Cả vùng đã quả quyết đi tìm hỏi tội lão Quạ. Các bụi, các cây trong vườn, ngoài bờ tre vắng hẳn. Hãy để mùa xuân tươi đẹp đây, các bạn vỗ cánh bay rợp trời quanh Chèo Bẻo - có cả Chèo Bẻo Đuôi Cờ.
Bài vè Chèo Bẻo đánh Quạ ở làng Liễu Đôi đã nói về khí thế lạ lùng ấy.
Tất cả nước mắt đâm đâm
Run run đứng dậy mà cầm gươm đao
Thù thằng Quạ độc chất cao.
Oan này chỉ quyết phải lao dáo này
Cả đàn, cả lũ, cả bầy
Gặp thằng Quạ độc đánh ngay giữa vườn
Ao ào cánh liệng mỏ vươn
Xông vào đánh Quạ như tuôn thác đồng
Trưa ấy nắng ấm rực rỡ từ trong vườn ra cánh đồng.
Trời có nắng, lão Quạ xòe cánh đắp kín chân, phơi mình trên tảng đá. Lão lim dim ngủ. Lão mới đớp được miếng mồi, no say rồi, mắt dip lại. Vừa nửa thức nửa ngủ, đã ngáy o o.
Thường ngày, cái lão chúa lười này vẫn nằm gật gưỡng thế, cho đến chiều nắng vàng hoe mới lò dò lên tổ trên hốc cây muỗm. Cũng chẳng bao giờ lão cất công làm cái tổ tử tế. Lão chỉ vơ mấy cây que, gác lên hang, thế là thành nhà. Mà chỗ ấy cũng là cái tổ Bồ Các bỏ đi, sẵn mấy que kèo cột. Lắm hôm lão cũng chẳng buồn về tổ. Lão vạ vật chỗ nào cũng được. Lão Quạ đương hấp hiu mắt. Mơ mơ màng màng vi vu...
Bao nhiêu đàn chim bay rợp trời trên đầu lão, giữa cánh đồng. Liếu Điếu trông thấy trước tiên, Liếu Điếu hét :
- Lão Quạ! Lão Quạ!
Thế là lao ngay xuống. Cả bọn chim Ri lao theo. Nhà ri, Ri Đá, Ri Cam, Ri Sừng, cặp mỏ khoằm khoặm như hòn sỏi xám ném vào Quạ. Quạ bị luôn mấy chục quả thụi vào đầu, vào lưng.
Quạ còn đương sửng sốt, bọn Rẽ Giun đã đùng đùng đến. Bẩm sinh, lúc nào các cậu Rẽ Giun cũng run rẩy, lên cơn sốt. Thế mà khi ấy thật táo tợn - mặc dầu so với Lão Quạ, Rẽ Giun chỉ như quả trứng chọi hòn đá. Rẽ Giun thấp lũn cũn, lắc mỏ rứt đám lông quanh bắp chân Quạ, lôi ra được một nạm lông cổ chân Quạ, Rẽ Giun mất đà, ngã ngửa. Lại lóp ngóp xông vào.
Quạ còn đương đỡ đòn bọn Ri.
Liếu Điếu, Rẽ Giun vần túi bụi tới tấp đánh.
Quạ đã bình tĩnh lại, lão bập cái mỏ một cái. Cả nắm lông cánh Rẽ Giun bật máu bung ra. Rẽ Giun choáng váng, lăn xuống lùm cây. Đàn Ri vẫn lao tới như ném chấu. Quạ nghiêng mình, Ri đánh hụt, đâm vào tảng đá, đầu lõa lợi máu. Hãi quá, Liếu Điếu vụt bay tránh lên cao.
Những đàn chim khác vẫn rầm rộ, hầm hầm tới. Lão Quạ thấy không thể coi thường đám đông này. Quạ đứng hẳn dậy, xòe cánh, quắc mắt. Bồ Các vừa hét vừa lao. Những chàng Bồ Các đã không "mũ ni che tai" nữa. Quạ giơ thẳng mỏ. Bồ Các đâm vào mỏ Quạ. Chao ôi, bằng đâm vào bàn chông. Bồ Các rách xoạc miếng lông bụng, gáy một bên cánh. Bị lạng đi, không một Bồ Các nào đủ sức quay lại. Con ngã. Con bắn đi một quầng. Lại Vẹt, lại Bói Cá nhảy đến. Anh Vẹt vác cái mỏ to như chiếc búa. Quạ giơ đầu cánh lên đỡ. Cặp mỏ Vẹt, mỏ Bói Cá to tướng nhưng chỉ là những thứ dùng thường ngày bắt con tép. Và khoét quả ổi, quả na. Va vào đầu cánh Quạ, mỏ bật ra như đụng cối đá.
Lão Quạ cười khậc khậc :
- Vào làm miếng nữa, vào đi!
Tuy vậy, lão Quạ cũng thấy đã thách lỡ lời. Còn đông nghịt bao nhiêu chim đương lăm le. Quạ lẩm bẩm không hiểu chúng nó hóa rồ hay thế nào, mà tự dưng chúng nó kéo đến gây sự.
Trông thấy Sáo Sậu và Chèo Bẻo lão Quạ mới biết là chúng nó thù.
Hiệp sĩ Cú đen sẫm như nhọ chảo dưới trôn nồi nhô lên. Cú chuyên đi đêm, không ai ngờ Cú ra ban ngày. Thương Chèo Bẻo, Cú quên cả ban ngày ban đêm. Cú xòe cánh như quăng lưới.
Lão Quạ vẫn nhơn nhơn. Lão Quạ đã biết hiệp sĩ Cú, to con thế, nhưng mắt có bệnh quáng gà, ban ngày không trông rõ đâu.
Cú hùng hổ tới. Mắt cú lóng lánh tròn bi ve. Hai chân móng giơ ra. Mỏ há nhọn hoắt. Như những con dao mở sẵn. Cú bay như gieo mình xuống. Nhưng quả thực mắt Cú hau háu - hau háu như mắt cú, mắt cú vọ, thế mà ban ngày thì quáng gà, chẳng tinh tường chút nào. Quạ đã tránh sang bên mà Cú không biết. Cú đâm đầu vào tảng đá như Ri Đá lúc nãy. Cú ngã văng xuống.
Lão Quạ cũng chẳng kịp để mắt. Lão còn phải đối phó với một đám đông hơn nữa ập đến. Le Le, Cốc, cả Vạc, cả Diệc... Những cụm móng, những cẳng mò nước, dài như sào gậy. Cái anh Vạc chặp tối mới ra, cũng có mặt. Họ nhà Vạc đi ban ngày - lại cũng như Cú, vừa chui bóng đêm ra cứ ngơ ngác, mà tợn tạo, vì căm thù, vì thương Chèo Bẻo.
Đám Le Le, Cốc, Vạc hoa chân giơ mỏ lủa tủa trên đầu lão Quạ. Lão Quạ đã tỉnh hẳn, chẳng bối rối chút nào. Hai cánh Quạ như hai cái quạt sắt. Đám chân chim gầy guộc lêu nghêu kia mà vướng vào, tựa nắm đũa bị gãy răng rắc. Cả bọn ngã lộp bộp như sung rụng quanh bãi cỏ.
Những đám họ cò, Cò Bợ, Cò Lửa, Cò Xanh, Cò Bạch, Cò Mỏ Vàng - trông cũng mảnh mai thế mà nhanh lắm. Cò tranh nhau chen vào giơ mỏ rứt lông Quạ, ở cổ, ở cánh, ở lưng...
Chim Hét nhảy vào một mình. Chim Hét đen trùi trũi. Mỏ Hét chuyên đào giun dế, to bè như cái bàn cuốc. Lão Quạ xù lông nghênh lên đánh Hét. Hai chiếc mỏ Hét, mỏ Quạ đâm vào nhau rộp rộp. Mỏ Hét cứng ra trò. Rộp... Rộp... Nhưng cũng chẳng thể đối địch được lão Quạ. Hét ngã nghoẹo đầu. Mấy tay Hét tới cứu bạn, lão Quạ tống văng cả bọn ra.
Rồi còn vô số đàn chim các nơi đến đánh trả thù cho nhà Chèo Bẻo, quần với lão Quạ suốt ngày đến tối mịt. Nhưng chẳng ai rứt được thêm cái chân lông Quạ.
Tội nghiệp, vợ chồng nhà Sáo Sậu vừa đánh, vừa hét, vừa khóc. Mỏi rồi, ra nằm thở một lúc, lại lao vào. Không sợ chết, chỉ quyết đòi nợ máu cho con.
Lão Quạ chợt thấy cái tổ tự nhiên lúc lắc quay quay như sắp đứt. Lão Quạ luống cuống hốt hoảng. Lão không trông thấy Chèo Bẻo thoắt tới, đâm thẳng vào cổ lão một phát. Lão Quạ giật thót mình. Cái đầu ngật đi. Lão Quạ chột dạ. Bấy giờ mới nhận ra Chèo Bẻo. Thằng này gan liền. Không thể coi nó dưới mắt được.
Các bạn chạy, các bạn ngã, xác xơ, tan tác. Chèo Bẻo vẫn chao lên chao xuống đánh lão Quạ.
Chèo Bẻo xiên vào nách. Chèo Bẻo đâm thẳng mặt. Chèo Bẻo rúc dưới khoeo chân lên. Mỗi lần Chèo Bẻo liệng, Quạ lại loay hoay đỡ. Chèo Bẻo bám luôn, đánh dồn dập cả bốn phía. Quạ đỡ, Quạ đỡ.
Nhưng lão Quạ chống đỡ cả ngày, lử rồi. Có lúc lão bị Chèo Bẻo húc vào đuôi, đội người lên. Lão Quạ mặc kệ. Mệt quá. Ngồi trên đầu Chèo Bẻo, Chèo Bẻo tưởng Quạ lăn quèo xuống nhưng rồi lão Quạ bay thẳng. Chèo Bẻo đuổi theo lão Quạ bay lắc lư. Chốc chốc lão quặc mỏ lại đánh đòn gió. Rồi lại dướn lên, bay biến. Chèo Bẻo vẫn đuổi, cho đến lúc cả hai bóng chim mờ vào làn sương chiều.
Thế mà dạo ấy chỗ nào cũng vắng chim. Trong làng, ngoài đồng lặng lặng như không. Cò gãy chân, phải đi bó bột. Vẹt bị lật cả mảng mỏ đương bó lá náng. Chim sẻ thì sã cánh. Buồn quá! Đánh nhau với mỗi một lão Quạ mà tai hại thế.
Chỉ mong muốn thôi, chưa đủ. Sức yếu thì chẳng làm gì nổi lão Quạ.
Thế nào bây giờ? Thế nào thì thế, Chèo Bẻo vẫn tìm đánh lão Quạ. Chèo Bẻo Đuôi Cờ đi thám thính bay múa giữa trời. Thình lình, thấy lão Quạ. Thế là ào xuống đánh. Một mình cũng đánh.
Pắp, pắp. Vút như một mũi tên, lão Quạ tránh lên. Nhưng lại phải đương đầu với Chèo Bẻo Đuôi Cờ chặn trên ấy.
Cái đuôi cờ của Chèo Bẻo Đuôi Cờ chỉ đẹp mắt, chẳng được mảy việc nào. Quần thảo một lúc, mấy chiếc lông đuôi nuột nà đã bị lão Quạ cắn cụt lủn. Chèo Bẻo Đuôi Cờ mất đuôi, không lái được, cứ loạng choạng quay tròn, rồi phải đỗ xuống đậu bệt trên cỏ.
Chèo Bẻo nói :
- Bác đã hết lòng với em, không bao giờ em dám quên. Bác ạ, cái đuôi cũng như đôi cánh, mất đuôi rồi bác phải nghỉ thôi.
- Anh sẽ về núi thuốc thang ít lâu. Khi nào lông đuôi mọc như cũ, anh lại về giúp chú. Anh đã nghĩ cách giết được thằng Quạ rồi. Anh sẽ mổ thẳng vào mắt nó. Nó phải mù, nó phải chết.
Chèo Bẻo Đuôi Cờ tha thủi bay về rừng.
Một mình Chèo Bẻo. Chèo Bẻo vẫn tìm đánh Quạ.
Chèo Bẻo mò thám biết lão Quạ, hay nằm phơi nắng giữa cánh đồng. Lão đương thiu thiu ngủ, bất thần Chèo Bẻo lao đến.
Chèo Bẻo nhắm từ trên cao, quyết đâm thủng mắt lão. Nhưng lão Quạ nằm trên tảng đá, chỉ thấy một đám đen ngòm. Không nhận ra chỗ nào đầu, chỗ nào đuôi. Thế là Chèo Bẻo cứ quạng bừa. Lão Quạ giật nẩy mình. Lão thấy trên ức bị cái gì đâm đau chói lên tận óc.
A! Lại thằng Chèo Bẻo. Lão không sợ. Nhưng cũng khiếp. Mỏ nó mà trúng mắt thì mù rồi chứ còn à. Lão không dám coi thường như mọi khi cứ ngồi trên tảng đá hất mỏ, hất cánh, lão phải bay lên đỡ đòn.
Chèo Bẻo bám riết đuôi lão Quạ. Chèo Bẻo và lão Quạ đánh nhau loạn xạ giữa trời. Lão Quạ to béo như cái cối xay lăn ù ù. Chèo Bẻo mỏng mảnh, như chiếc lá, ngọn đuôi nhọn hoắt lái bên phải, quay bên trái.
Lão Quạ thở hộc lên. Hai mắt đỏ đòng đọc. Chèo Bẻo lao tới. Lão Quạ lẳng một cái. Mỏ Quạ giáng đúng đầu Chèo Bẻo. Chèo Bẻo choáng váng, cánh rúm lại, rơi bộp xuống. Như ai ném toạch cục đất.
Lão Quạ kêu to :
- A ha! A ha!
Lão Quạ toan lao xuống bổ thêm Chèo Bẻo mấy phát. Nhưng giữa xóm đông, Quạ ngại có bẫy, có người ra đuổi đánh. Vả lại, rơi xuống thế cũng đủ chết, mày chết rồi. Thế là lão đủng đỉnh bay. Mắt lão nhớn nhác tìm tảng đá ở một chỗ vắng. Lúc nãy, chưa chợp mắt được, thằng Chèo Bẻo đã đến sinh sự.
Lão đã trông thấy tảng đá xa xa và bóng nắng. Lão là là xuống. Đôi cánh xòe rộng, trên bóng nắng tảng đá, lão ngả mình, lim dim mắt. Thình lình, một bóng đen đến sau lưng thoắt cái đâm xuyên dưới bụng lên. Lão cụp nhanh cánh. Khiếp quá, cái gì, cái gì... Lão trông lại. Thằng Chèo Bẻo. Ô hay, nó vẫn còn sống.
Phải, Chèo Bẻo không chết, Chèo Bẻo mở mắt ngơ ngác nhìn quanh. Nhớ ra vừa bị lão Quạ choảng vào đầu. Nhưng ta không thể chết. Chèo Bẻo ngó quanh quất.
Trên vòm trời, bóng Quạ nhỏ dần. Chèo Bẻo vươn hai cánh. Hai cánh Chèo Bẻo vẫn cứng cáp, chẳng sao. Thế là Chèo Bẻo cất mình lên, lại bay đi tìm Quạ.
Lão Quạ lộn tiết lên rồi. Lão Quạ nhỏm đầu đâm thẳng vào Chèo Bẻo. Nhưng Chèo Bẻo vừa hút chết đã biết đỡ đòn. Lão Quạ khỏe mà không nhanh bằng Chèo Bẻo. Lão Quạ đâm tới, Chèo Bẻo thoắt tránh. Quạ hụt đà chúi xuống. Lập tức, Chèo Bẻo bặp đám lông đuôi Quạ, rứt rứt. Lão Quạ buốt lên suốt sống lưng. Lão Quạ chịu đứt chiếc lông đuôi, nhưng quay lại được. Lão Quạ nhảy bổ vào. Chèo Bẻo rơi mình xuống, lách được.
Cứ thế, Quạ và Chèo Bẻo quần nhau giữa trời. Lão Quạ nghĩ bụng: "Đánh nhau cò cưa với nó thế này, nhọc quá. Mà lại thấy đói rồi". Thế là, Quạ bay thẳng. Chèo Bẻo hấp tấp đuổi theo. Các xóm chim ở bờ nước và trên bụi tre trông thấy Chèo Bẻo đuổi Quạ, cứ ngóng lên hoan hô.
Từ đấy Chèo Bẻo gặp Quạ đâu, Chèo Bẻo xông vào đánh luôn. Có chim bạn, cùng nhau đánh. Có một mình cũng đánh. Đòn như bị bông, cũng không sao tìm được miếng hiểm đánh chết lão Quạ được.
Có dạo trời mưa dầm. Quạ nằm tổ mấy hôm rồi đói bụng, phải lò dò xuống bờ mương rình cá. Chèo Bẻo vẫn đợi sẵn ở đâu đã lao tới. Lão Quạ phải bỏ mồi cá vừa lượn tới.
Mùa đông tới, Quạ tránh gió rét, nằm ro ró trong hốc cây gạo. Thế mà vừa có nắng, lão thò ra, đã bị bốp một cái. Như hòn đá ném trúng sọ. Lão Quạ hoảng hốt dựng người lên. Gió ù ù thổi bạt cánh. Chèo Bẻo đã thúc đầu vào giữa ngực Quạ. Lão Quạ lộn tùng phèo mấy vòng. Nhưng lão gượng ngay, thẳng chân, gầm ghè xù lông, lao vào Chèo Bẻo.
Chèo Bẻo bay quanh, xỉa lung tung lên lưng lão. Cứ đánh nhau liên miên. Có khi lão Quạ mổ vào đầu Chèo Bẻo. Chèo Bẻo ngã ngất, rơi xuống. Rồi lại tỉnh. Chèo Bẻo lại bay lên, lăn vào. Có khi Chèo Bẻo rứt được cả mảng lông bụng Quạ. Nhưng Quạ vẫn chẳng sao.
Năm này qua năm khác.
Thường trông thấy về mùa tre mọc măng, những chiếc măng nảy lộc lủa tủa vút lên nền trời. Chèo Bẻo hay đậu những nhánh măng cao cao ấy. Rồi nhún lên nhún xuống.
Không phải Chèo Bẻo rỗi rãi đánh đu chơi. Bụng dạ đâu mà chơi nhởn. Cây tre non vút lên, vút lên, đứng một chỗ mà nhìn được xa. Chèo Bẻo trông sang tít bên kia. Xem phía nào thấy lão Quạ...
Chèo Bẻo rình Quạ. Lúc nào Chèo Bẻo cũng tìm đánh Quạ. Trên đời, bây giờ Chèo Bẻo chỉ có việc đuổi đánh Quạ, trả thù. Lão Quạ Khoang, mày phải chết.
Mới hôm trước, trời xanh trong, Chèo Bẻo đánh Quạ ở núi Tam Đảo. Trời đẹp thế này, Quạ hay đi tìm mồi gà con lắm đây. Triền núi Tam Đảo mơ màng xanh xanh. Quả nhiên, lão Quạ Khoang lừ đừ bay qua. Bóng lão đen ngòm. Như có người tinh nghịch vẩy một vệt mực xám xịt lên nền trời xanh núi xanh.
Vụt một cái, Chèo Bẻo ở đâu đến đã đuổi tới, thúc thẳng vào bụng Quạ. Quạ bị đội bổng lên như ai xách cổ. Lão chới với đập cánh. Mãi mới quay đầu lại được. Chèo Bẻo lại lao đòn nữa. Nhưng lão Quạ đã kịp giơ mỏ đỡ, hất Chèo Bẻo vẹo người. Chèo Bẻo rối cánh lộn tùng phèo mấy vòng xuống một quãng rồi lại ngóc lên, lại đuổi.
Lão Quạ bay tít vào trong núi. Chèo Bẻo như cái thoi, thúc lên thúc xuống, như đòn gánh đòn càn phang lia lịa. Chèo Bẻo lúc lẩn đi, lúc lại áp vào. Lão Quạ không cách nào dứt ra được. Không biết Chèo Bẻo còn đuổi lão Quạ đến tận đâu.
Lúc ấy, lại một đám đông những Bồ Các, những Vẹt, những Gõ Kiến, cả họ hàng Chèo Bẻo đã nấp sẵn trong khe núi. Trong núi Tam Đảo có bao nhiêu chim, thì hình như bấy nhiêu chim đã xô ra.
Câu vè làng Liễu Đôi kể về trận đánh dữ dội ấy:
Chèo Bẻo kết lại một tầng
Lao vào ngực Quạ như vừng đá to
Quạ kia xông lại muốn vồ
Chèo Bẻo túm lại đánh xơ mặt mày
Quạ kia dùng một dao phay
Xông vào toan chặt cả bầy tan xương
Bẻo càng lao tới như thường
Nhằm hầu mà nện, thái dương mà ghè
Quạ kia dong đôi cánh xè
Ầm ầm chắn lối đánh đè trước sau
Chèo Bẻo kêu thét bảo nhau
Lao vào bụng Quạ thốc đầu ngược lên
Quạ gầm như bị trăm tên
Đập đôi cánh dữ vọt liền lên cao
Chèo Bẻo tới tấp phóng nhào
Quạ càng luống cuống vút vào mây xanh
Tội ác vẫn bay lượn trêu ngươi, trêu tức. Mà lão Quạ cũng uất đến sắp hộc máu. Bởi vì lão to khỏe, nhưng cũng chẳng xé xác được thằng Chèo Bẻo nhanh như chớp được. Đành chịu. Mỗi khi rời tổ, lại cứ đảo điên hai con mắt nhìn quanh quất xem có thấy bóng Chèo Bẻo đâu.
Chèo Bẻo dạo chơi khắp nơi. Chèo Bẻo thăm hỏi những ai đã khỏi đau, những ai đã liền vết thương. Chèo Bẻo bàn bạc. Lão Quạ vẫn nhâng nháo thế đấy. Ta phải tính thế nào.
Mỗi nơi mỗi cảnh khác nhau. Cũng có bọn chột rồi, sợ rồi, như bọn Ngói chỉ biết ăn cho béo và bác Lềnh Đềnh to xác ngày trước. Chim Sâu, chim Sẻ lần nào giáp chiến cũng bị ngã trời giáng mà các cô các cậu ấy không biết sợ. Nhưng đôi chân bằng cái tăm hương chẳng chọi được với Quạ. Chàng Bồ Các và chim Ri vẫn hăng. Nhưng cũng chẳng phải là tay đương đầu với lão Quạ.
Chèo Bẻo đã qua bao nhiêu con sông con hồ, bao nhiêu cánh đồng, bao nhiêu cánh rừng. Chèo Bẻo đã bay suốt cả mùa xuân sang mùa thu vàng đất trời. Có khi bay cả ngày nhìn xuống vẫn chỉ thấy mặt nước.
Hôm sau, vẫn bay, lại vẫn bay tìm bạn. Gặp bóng lão Quạ trên mép nước, đánh liền.
Chèo Bẻo vẫn sạo sục khắp nơi.
Chèo Bẻo tìm đến nhà Phượng Hoàng Đất. Phượng Hoàng Đất sồ sề, to bằng chị gà mái nạ dòng. Bộ mã xuống màu xám lông cú. Phượng Hoàng Đất lúc nào cũng đứng một chỗ, ban ngày không ai nhìn ra. Chỉ vì bộ mả Phượng Hoàng Đất lẫn với đất và lá khô.
- Chào Phượng Hoàng Đất. Có thấy lão Quạ đến đây không?
- Có, lão vẫn đi ngoài cửa vườn kia. Ngày trước, đi buổi sáng. Hồi này lão lại đi chặp tối. Chẳng hiểu tại sao.
- A! Tôi đương tìm đánh lão đây.
- Mách nhé. Lên tận tổ lão mà đánh. Đâm một mỏ trúng vào mắt, lão không biết đằng nào đỡ được. Lão cũng mắc bệnh quáng gà đấy.
Chèo Bẻo mừng quá.
- Anh đưa tôi đi tìm tổ Quạ.
Phượng Hoàng Đất cười buồn.
- Chẳng may, tôi cũng quáng gà. Mặt trời lặn, mắt tôi cũng lặn theo, đêm tối mắt hóa thong manh có nhìn thấy gì đâu. Nhưng tôi sẽ chỉ đường anh tìm tổ Quạ.
Rồi Chèo Bẻo đi một mình. Rất hăng. Mọi khi đi đón lõng, bây giờ đã biết đích xác.
Cái tổ Quạ ở cây gạo. Thần cây đa, ma cây gạo, Quạ ác ở cây gạo cũng phải, hợp với lời thiên hạ rủa sả.
Chặp tối ấy sáng trăng. Chèo Bẻo trông thấy lù lù cái tổ quạ. Bóng cây que lô nhô thụt ra thụt vào.
Chèo Bẻo ngắm thật kỹ. Chèo Bẻo quyết đánh đòn bất chợt. Lên tận nơi, cánh bay không động, Chèo Bẻo lao thẳng, cả mỏ cả móng Chèo Bẻo xòe ra đâm vào cái tổ. Này này... Mày không kịp trở mình, mày không kịp mở mắt. Chèo Bẻo húc một cái. Nhưng chỉ là cái tổ không. Những cành khô gãy răng rắc, rơi xuống.
Chèo Bẻo đương lơ láo, ngơ ngác. Bỗng nghe tiếng bặp mỏ cười khành khạch trong bóng tối. Rồi lão Quạ cất tiếng lè nhè :
- Tìm thấy lão Quạ chưa?
Chèo Bẻo tức điên. Thì ra cái lão Quạ quái quỷ đã phòng xa. Chẳng biết lúc ấy lão đi ăn về, thấy động, không vào, hay lão vẫn đứng đấy, ngủ đứng ở cành cây. Thế là Chèo Bẻo mắc lừa. Đêm hôm, bóng trăng bóng cây, bóng lá lẫn lộn. Biết lão đứng chỗ nào. Không cẩn thận, lão lại phóng cho một đòn thì chết.
Chèo Bẻo đành bay ra. Lại đón lõng.
Một ngày kia, thấy từ chân trời, xôn xao hớn hở màu đỏ, màu vàng. Không nhận rõ đấy là đàn bướm bay hay đấy là hoa nở. Nghe xung quanh, trên lũy tre, mái nhà, trong vườn, tiếng chim ríu rít mới nhớ ra. Mùa xuân lại đến rồi. Đàn bướm hay những thảm đỏ, thảm lúa đầy đồng cũng thế, khi mùa xuân về cả rừng hoa nở, cả đàn bướm bay ra.
Nhớ cái xóm trong chân tre ngày trước. Bụi tre hồi này đương lên măng. Mặt nước phẳng lặng in bóng hoa bóng nước đỏ hây. Vợ chồng chẳng quản nắng nóng, ngày ngày tha rác làm tổ, niềm vui đến quên cả nỗi khó nhọc.
Nghĩ thế, ruột gan lại đau quặn. Ở đâu, những tiếng chim non kêu róc rách như tiếng suối chảy. Chèo Bẻo muốn khóc hay sao. Không, không khóc. Không bao giờ khóc.
Chèo Bẻo nhảy lên đậu trên ngọn măng tre. Gió đưa ngọn măng uốn cong cánh cung, bật lên vi vút. Chèo Bẻo nghiêng đầu, nhô lên, nhìn xa.
Chợt Phượng Hoàng Đất bay qua.
Phượng Hoàng Đất hỏi :
- Thế nào, đã hả lòng chưa?
Chèo Bẻo kể lại tình đầu cái ma quái tối hôm ấy của lão Quạ. Phượng Hoàng Đất thở dài :
- Tôi cũng đến chịu. Tôi chỉ biết thế, chỉ giúp được anh có vậy. Anh thử đi hỏi Phượng Hoàng xem. Phượng Hoàng thật, không phải Phượng Hoàng Đất tôi đâu. Phượng Hoàng Đất tôi chỉ quanh quẩn xó nhà, còn Phượng Hoàng thật mới thật tung hoành khắp nơi khắp chốn.
Chèo Bẻo đi tìm Phượng Hoàng. Phượng Hoàng có phong tục mỗi mùa đi ăn theo một con sông. Cứ đi dọc dòng nước ra đến cửa biển rồi quay trở lại chuyển sang sông khác. Mùa năm nay, chẳng biết Phượng Hoàng đương rong choi theo sông nào.
Nhưng khi ta đã chuyên tâm, thế nào cũng có khi tới được. Chèo Bẻo lần lần qua các dòng sông, từ ngọn nguồn xuống.
Một năm, đi từ đầu mùa xuân đến cuối mùa hạ thì gặp Phượng Hoàng.
Buổi sáng nắng đẹp. Trên bãi cát trắng mịn, một đàn Phượng Hoàng đương múa. Chim phượng đi đàn, chim tụ lại múa hát. Đã thành lệ vui chơi thế.
Chèo Bẻo gọi to :
- Phượng! Phượng!
Phượng Hoàng ngẩng đầu, mắt long lanh :
- Việc lão Quạ a?
- Ai có thể đi giết lão Quạ?
Phượng Hoàng đáp :
- Có chim Cắt.
- Bây giờ Cắt ở đâu?
Phượng Hoàng trông ra :
- Ngoài cánh đồng kia.
Chèo Bẻo đi ngay.
Cắt đương bay lượn tròn thật cao giữa trời trong xanh.
- Anh Cắt ơi!
- Cái gì thế?
- Lão Quạ...
Cắt nói :
- Tôi biết rồi. Nhưng tháng ba sắp tới, tôi trở về phương Bắc quê tôi có nắng ấm. Đầu mùa thu sang năm, Chèo Bẻo đợi tôi ở cánh đồng này.
Thế rồi chẳng bao lâu mùa thu đã trở lại. Những cây bàng đầu xóm, từng chiếc lá đỏ áy rơi xuống. Từ chân trời dạt dào về làn gió giải đồng. Chèo Bẻo nhớ lời cắt đã hẹn: đợi tôi, đợi tôi, đầu mùa thu...
Chèo Bẻo chẳng phải chờ lâu. Một buổi sáng xanh trong, chim cắt bay từ phía tây tới. Cả đàn Cắt đỗ xuống quanh Chèo Bẻo.
Chèo Bẻo cảm động, cắt nhanh nhẹn, vừa trải nỗi khó nhọc đường xa, mình cắt đanh lại. Như chiếc búa, con dao, thanh gươm. Mỗi hiệp sĩ Cắt có thể ra cho kẻ thù một đòn thí mạng.
Cắt nhanh nhẹn nói ngay :
- Nào chúng ta đi!
Câu nói như lời hô, ai nấy hăng hái cất cánh.
Cắt và Chèo Bẻo bay qua các xóm chim trong lũy tre, bên bờ đầm nước và vườn cây ven đê. Những Vàng Anh, Sáo, Bìm Bịp, Cuốc... trong các xóm đều ngước mắt, reo lên: Có thế! Có thế! Chào các bạn! Chào các hiệp sĩ!
Nhưng mà tìm gặp được lão Quạ cũng chẳng phải dễ. Hình như lão Quạ cũng đã biết có cả Cắt, Quạ lẩn không đâu biết.
Một ngày kia thình lình thấy lão Quạ. Đương giữa thu, lão đứng trong cây đa. Chèo Bẻo kêu toáng. Lập tức, nhanh như chớp, cả đàn Cắt vù vù tủa xuống.
Bất thần, Quạ bay vút đi. Cắt và Chèo Bẻo dồn dập đuổi.
Đến một quãng cây rậm rạp dưới kia, lão Quạ đột nhiên cúp cánh. Lão để rơi mình xuống như hòn gạch. Lão Quạ biến mất vào vườn.
Lại đi tìm, tìm nữa.
Xế chiều gặp lão Quạ lò dò ra bờ sông rình bắt cá. Nhưng lão Quạ lại bay biến. Đàn Cắt đã đuổi kịp sau lưng. Lão Quạ lại giở mẹo. Đương bay, lão lại đột ngột để rơi mình xuống. Vừa chặp tối, mặt đất xám mờ. Không biết lão chui vào vườn cây hay vào cái lỗ chim Bói Cá trên thành đê. Cắt và Chèo Bẻo sục sạo. Nhưng bóng tối nhập nhoạng đã bao phủ tất cả.
Chẳng bao lâu, chim Tu Hú đã về đậu trong cây vải, kêu "Tháng ba! Tu Hú! Tháng ba! Tu Hú...", Cắt bảo Chèo Bẻo :
- Tháng ba thì vùng biển quê tôi ấm áp rồi, tôi trở về. Mùa thu sang năm, nhớ đợi tôi ở cánh đồng này. Chúng ta đi tìm đánh lão Quạ.
Chèo Bẻo bay tiễn đàn Cắt một quãng đường. Rồi Chèo Bẻo nghĩ: ừ, sang năm Cắt lại về giúp ta. Nhưng ta thì không thể cho lão Quạ được thong thả sống trong một cái chớp mắt.
Chèo Bẻo lên vách đá hỏi thăm Chèo Bẻo Đuôi Cờ xem chân bác đã khỏi đau chưa. Lông cánh, lông đuôi thế nào.
- Cảm ơn chú, khỏi cả rồi, vừa bay, đuôi tôi vừa lái được rồi. Chúng anh lại cùng với chú đi đánh lão Quạ.
Nghe Chèo Bẻo kể chuyện chim cắt, Chèo Bẻo Đuôi Cờ nói :
- Hay lắm, Cắt đánh Quạ, đánh Diều Hâu phải sợ, xưa nay ai cũng biết rồi. Nhưng Cắt chỉ về đây có mùa đông. Trên rừng còn nhiều tay giỏi thử đi hỏi xem.
Chèo Bẻo Đuôi Cờ ở rừng đã có kinh nghiệm mách bảo. Phượng Hoàng Đất bảo Phượng Hoàng, Phượng Hoàng mách chim Cắt. Nhiều các bạn chỉ vẽ, thế nào cũng ra điều hay.
- Bác bảo bây giờ đi tìm ai?
Chèo Bẻo Đuôi Cờ nói :
- Ta đi hỏi anh Bắt Tép Kho Cà.
Chèo Bẻo lên nương. Buổi trưa nắng, những chùm sim tím lịm phoi trên lá. Tiếng kêu thánh thót "bắt tép kho cà" rộn rã. Con chim đứng trong bụi sim kêu đến rạc cả tiếng. Chèo Bẻo Đuôi Cờ nói vọng vào :
- Chào chú Bắt Tép Kho Cà!
Bắt Tép Kho Cà đứng ngay đây, chỉ nhích ra khỏi túm lá sim, mà không ai nhìn thấy. Giỏi náu mình thế.
- Chú có mẹo nào đánh được Quạ không?
Bắt Tép Kho Cà dịu dàng trả lời :
- Các anh nghe tiếng em cũng đoán được em chẳng biết trò trống gì đâu. Chỉ mong được "bắt tép kho cà" mà đã được miếng tép, miếng cà nào đâu.
- Chán nhỉ!
- Anh đến hỏi Khó Khắc Phục. Các anh không để ý à. Con chim páng có biệt hiệu là Khó Khắc Phục thế cũng đủ thiên hạ biết tài. Khó khăn thế nào cũng khắc phục. Khó khăn khắc phục. Các anh đến hỏi xem...
Ừ phải, trên rừng có chim táng páng. Táng páng xưa nay chuyên cần kiếm ăn, tha rác làm tổ. Mọi việc làm không biết khó khăn. Thế đây.
Thế đấy, cho nên mỗi khi nghe táng páng hót huýt huy huýt huỵch, người ta nghe ra bốn tiếng gọi Khó Khăn Khắc Phục... Khó Khăn Khắc phục...
Nhà táng páng ở lỗ cao tít trên cây gỗ chò.
- Chào anh. Xin anh bảo cho cách đánh lão Quạ.
Táng páng đã biết cả mọi chuyện.
- Ừ, đến mùa thu thì Cắt trở lại, nhưng khi ấy thì lão Quạ đã lại hồi sức rồi. Lại phải đánh cho nó ốm dần ốm mòn, nhưng đến lúc nó sắp chết, thì các hiệp sĩ Cắt lại trở về quê. Thế thì mất công đến bao giờ mới chết tiệt được cái ác? Phải choảng cho lão Quạ một phát chết lăn quay ngay ra.
Chèo Bẻo nhìn xa.
- Ai làm được thế? Anh làm được không?
Chim mơ màng :
- Tôi không làm được. Nhưng tôi nghe kể ở thành cổ Bukhara, một vùng đất nước giữa châu Á có chim Đại Bàng mãnh liệt đuổi bắt sống được cả hổ, cả gấu. Một ngày kia, Đại Bàng cùng thợ săn, cưỡi ngựa vào rừng. Đại Bàng đậu trên vai thợ săn, xòe cánh làm ô che nắng cho người thợ săn. Thấy con gấu, Đại Bàng bay tới cất mỏ mổ một cái. Con gấu chảy máu đầu đứng sững lại. Người thợ săn ruổi ngựa tới chỉ việc trói lại. Gặp con hổ, Đại Bàng cũng bay đến mổ một cái vào đầu. Hổ lăn quay ra. Cặp mỏ Đại Bàng ấy mà giã lão Quạ thì chỉ một nhát đã toác đôi đầu lão Quạ.
Chèo Bẻo xuýt xoa:
- Biết đâu rồi chẳng có ngày ta được gặp Đại Bàng như đã gặp Cắt.
Không biết đến bao giờ Chèo Bẻo gặp tráng sĩ Đại Bàng ở thành cổ Bukhara.
Nhưng cho tới ngày nay, quanh năm vẫn thấy Chèo Bẻo đánh Quạ. Con quạ to tướng, mà sợ Chèo Bẻo tí hon. Đến mùa thu tới, lại thấy Chèo Bẻo và Cắt vụt lên vút xuống đuổi đánh Quạ giữa trời.Chú thích:
1 |
Các câu vè trong truyện này đều lấy trong "Sưu tầm khảo sát văn hóa truyền thống Liễu Đôi" của Bùi văn Cường và Nguyễn Tế Nhị sưu tầm và biên soạn (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 1981). |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét