Ký ức phiên lãng 3
Thành phố Lê-nin
BUỔI SÁNG ẤY, tôi từ vùng ngoại ô Lê-nin-grát, ở phía bể Ban
Tích, đi trở vào thành phố. Luôn mấy hôm này tôi mê mải đi xem những thành phố
lâu đài, những trang lầu cung điện, có nhiều công trình kiến trúc mang những sắc
thái kiến trúc của cả châu Âu do nhiều đời các vua chúa Nga đã xây dựng nên mà
ngót nửa thế kỷ nay cách mạng vẫn giữ gìn nguyên đẹp như ngày xưa.
Bây giờ đương là mùa đông. Từ quê nhà mà đi, tôi cũng không hề
lúc nào có ý tính trước rằng đến đây tôi sẽ được làm quen với mùa đông - một thứ
mùa đông phương bắc của trái đất rất xa lạ không bao giờ có thể thấy ở nước
tôi. Trước kia, đọc sách, tôi mê những đêm trắng Lê-nin-grát lạ lùng trong truyện
của Đôt-tôi-ep-sky. Tôi cũng nghe rằng những đêm trắng ấy là những đêm tuyệt đẹp
của Lê-nin-grát vốn dĩ đã trang nghiêm mà cũng lại cực kì tình tứ. Ngày tháng
năm, tháng sáu ở đây qua rất nhanh, chỉ trong khoảnh khắc hoàng hôn đã xuống rồi
đêm tới, đêm không trăng sao, mà đêm cứ lồng lộng như trong trăng, đêm bằng
chiêm bao đẹp nhất, không thể nào tả được. Thế nhưng tôi đến Lê-nin-grát cũng
không phải chỉ ao ước xem đêm trắng, như thường người ta mong. Mà tôi lại tưởng
như được đến Lê-nin-grát vào mùa đông này, nó còn gợi trong lòng ta xiết bao cảm
nghĩ, chẳng phải chỉ do những thấy viết vì ngày đông tháng giá ở đây xa lạ với
mùa đông ở quê nhà tôi, mà chính vì những ngày mùa đông ở đây đã từng mang nhiều
ý nghĩa rất lịch sử mà mỗi khi nhắc tới những sự kiện ấy, dù ai chẳng hề đặt
chân đến Lê-nin-grát bao giờ cũng hình dung ra được một kinh thành trắng xóa mà
ở đấy lịch sử nước Nga đã mở những trang vĩ đại. Đó là ý nghĩa lớn lao của một
mùa đông trong Cách mạng tháng Mười và ý nghĩa lớn lao của những mùa đông trong
cuộc chiến tranh ái quốc chống phát xít của nhân dân Lê-nin-grát vừa qua. Thành
phố vô cùng tráng lệ hôm nay đã hiện lên từ những đám mây mù của thời tiết và
thời thế vô cùng khủng khiếp. Người ta đến đây không thể nào chỉ thấy những
ngày hoa mộng hôm nay mà không nghĩ đến những ngày đã qua. Tôi là một người Việt
Nam từ cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ đến đây mà cuộc gian khổ trường kỳ
này dân tộc tôi vẫn còn đương trăm cay nghìn đắng trải qua ở nửa nước miền Nam
chúng tôi ngày nay. Sao tôi đi bên những tường thành lịch sử cao vòi vọi này,
tôi và Lê-nin-grát xiết bao gần gụi!
Trong rừng thưa, vùng di tích lịch sử Pê-trô-vô-ret nguy nga
trên bờ vịnh Phần Lan. Nơi đây, vua Pi-e thứ nhất đã cho xây lâu đài kỉ niệm
chiến thắng khi quân Nga tới được bờ bể Ban Tích, nước Nga từ đấy đã trổ được cửa
ra biển phía bắc nối liền đường nước với châu Âu. Tôi đi trong những vùng ngoại
ô Lê-nin-grát, một buổi sớm mùa đông lạnh đột ngột. Không một người du lịch nào
ra khỏi thành phố vào giờ này. Chân tôi đặt trên bờ cát mỏng ven biển Ban Tích
hoang vắng. Mùa đông đã bắt đầu, thông thường, vào mùa này thì người du lịch
không mấy ai còn đi những cuộc đường trường. Con đường ngược lên hồ La-đô-ga,
tuyết bắt đầu đóng băng, các thứ xe du lịch kiểu cách không thể trườn trên những
dặm đường trơn băng được. Trong gió, cuồn cuộn lẫn từng mảng trời xám đương
đùng đùng nổi. Trên mặt bể, mây và nước vần vũ một màu đen xỉn, màu xám thôi đồng
lăn tăn những gợn sóng nho nhỏ lớp nhớp bên bờ, lăn lóc, tơi tả, quanh mấy hòn
đá chơ vơ. Trên cây sồi, mà những chiếc lá sồi cuối cùng thì gió tuyết đã táp
xuống từ lâu rồi, chỉ còn chơ ra những cành cây đen thủi, khẳng khiu. Nhưng trước
những tiêu sơ lúc chuyển mùa ấy, tôi đã thấy trên những tàn phá, biết bao sự sống
mà con người và thiên nhiên đương chiến đấu để bảo vệ, để phát triển. Kìa những
con chim nho nhỏ bảng lảng bay trong gió tuyết. Trước gió tuyết tơi bời của một
mùa đông dữ dội sắp ập đến, những con chim én và những loài chim lớn thì đã trốn
về phương nam cả. Người ở đây nói rằng những loài chim đó, năm nào cũng vậy, hễ
mùa ấm thì tìm lên phương bắc kiếm ăn, hễ mùa lạnh tới phương bắc thì chim lại
xuống đậu quanh Địa Trung Hải, quanh vùng Ai Cập và sông Nin có mặt trời. Thế
nhưng, còn có những con chim nhỏ, cánh mỏng không đủ sức xoải bay nghìn dặm như
thế. Nếu vậy thì mai kia, mưa tuyết xuống đóng băng sâu hàng thước trên mặt đất,
những con chim nhỏ bé khốn khổ sẽ bị vùi vào trong đất, như những chiếc lá khô.
Không, những con chim nhỏ không chết. Người ta ở đây đã thương những con chim
nhỏ. Tôi đã trông, không phải chỉ có ở đây mà ở nhiều nơi, ở U-cờ-ren cũng như
lên tới những cánh rừng thưa phương bắc này, cũng như ở các vùng đồng hoang
Xi-bê-ri, trước cửa nhà người ở, trên cành cây đầu vườn, trong rừng thông vắng
đều thường thấy có treo những chiếc thùng gỗ, xinh như chiếc thùng bỏ thư. Đấy
là những cái tổ mà người ta đã làm hộ những con chim yếu đuối, cho chúng cứ tự
nhiên, tự do mà đến ở. Sức của chúng thì không thể làm được một cái tổ trên
cành có thể chịu nổi mưa tuyết. Người ta đã làm cho chim những cái nhà con con
để chim tránh rét. Dường như chim cũng biết cái lòng yêu ấy và thường vào nương
náu ở những căn nhà gỗ vững chãi nọ. Vì thế những con chim nhỏ có thể vượt qua
mùa đông ghê gớm, những con chim nhỏ mà người Xô Viết chuộng đẹp rất cần cho nó
vui chân nhảy nhót, rất muốn nghe những tiếng chiêm chiếp rơn rớn thân yêu,
không biết nghe để làm gì, không cần nghe để làm gì, nhưng rất cần nghe. Người
Xô Viết và xã hội Xô Viết là những người trong một xã hội có lòng yêu và tôn trọng
những cái đẹp cao quí và thơ mộng. Đúng như thế. Sớm nay, dạo trên bờ bể khuất
vắng, cái chỗ thừa lương mà lúc này không một ai dạo mát, tôi không thấy những
con chim tuyết bù xù nho nhỏ trắng như một nắm tuyết mới, những con chim xanh
cánh vàng bụng trắng, thoăn thoắt như những con chim bạc má, con chim vành
khuyên ở vườn cây nước ta. Chim nhảy vui trong cành cây trụi, bên những tổ hộp
xinh xinh. Con chim cũng biết yên tâm!
Tôi ngước lên những cành cây trụi, đen, trơ khâng khấc. Mới mấy
hôm trước đây, có một buổi sáng, tôi theo đường bờ kênh Rửa Mặt ra sông Nê-va.
Ngay từ hôm ấy, mùa đông đã bắt đầu về cả trên dọc hàng cây sến nghiêng mình xuống
bờ nước. Kể ra thì cả đến cái vỏ cây dày cộp ở thành phố phương bắc này cũng rất
khác với cái vỏ cây cát-stan mỏng mảnh ở thành Ô-đét-xa phía nam xa xôi kia.
Các cây xứ lạnh ở đây cũng phải khoác một lần da chống rét. Ấy thế mà những trận
tuyết và gió đầu đông cũng đã làm da cây sến nứt từng mảng dài như có vệt dao
chém toác ra. Tôi thương những chòm lá sến già còn sót lại trên cành cao. Những
cành lá sến cứng cáp không chịu rụng, hôm qua vẫn còn phơi màu xanh già. Vậy mà
chỉ một cơn tuyết xuống hồi hôm đã làm cho những chòm lá nọ chết tươi ngay. Gió
tuyết mù mịt đã quét lên đầy trời, thổi luồng hơi buốt ướp nốt những chiếc lá
già, bắt chết rụi ngay trên cành cây. Vỏ cây sến nứt nẻ, lá sến khô quăn ngay đầu
cành, như một cái cây chết đứng giữa trời tuyết sa. Hôm nay, trên bờ biển, cùng
sóng bước với tôi, cũng là những hàng cây nứt nẻ như thế, cũng những chiếc lá sến
như cánh lá cải cúc đương chiếc rụng chiếc rơi âu sầu trên bờ sông Nê-va. Tôi với
tay vít một cành nhỏ là là xuống trên đầu một chiếc ghế xanh kề bên biển. Chiếc
ghế tình tứ ở nơi thanh vắng mà những đêm trắng cuối xuân, gợi cho đôi người
yêu ngồi ngả người xuống mà đắm đuối hôn nhau, đã có lá sến lót êm một nạm ngay
trên đầu đấy. Tôi đã tưởng cành sến vít trong tay là một cành sến khô, một cành
sến của một mùa xuân đã qua rồi. Không phải, trong nách cành cây nhỏ tưởng đã
chết đen thui, nách cành nào cũng nhô một chiếc mầm nhu nhú. Trông khắp trong
cây, cành nào cũng thế. Những cành cây tưởng chết, thực ra vẫn sống, mà sống
sinh sôi, mầm nụ đương giương ra đợi tháng ba sang xuân. Tôi đã tìm ra ý nghĩa
một sức sống quật khởi của thiên nhiên trong mùa băng tuyết. Phải, tôi thấy được
rằng, kể cả cỏ cây ở đây, nếu cỏ cây không biết dữ dội chống lại, thì đến màu sắc
thiên nhiên cũng sẽ tiêu tan hết. Không, chẳng những sự sống vẫn còn mà còn tiềm
tàng mạnh hơn nữa. Biết rồi, mùa đông khủng khiếp không phải là mùa chết, nhánh
cỏ cũng biết giữ mình cho khỏi chết, con người giúp cho con chim biết chống đỡ
cho khỏi chết. Người đương tạo ra những sức quật cường. Trông ra trước mặt, tôi
kính cẩn chào những người công nhân làm vườn đương dỡ trên xe vận tải xuống từng
tấm ván mỏng đã đánh số, chỉ còn việc lắp thành những cái hộp như những tòa nhà
tí tẹo cho những luống hoa hồng, hoa cúc và trăm thứ hoa lạ khác, và cho những
pho tượng đá trắng tạm biệt ngày đêm vào đứng náu mình trong cái nhà gỗ kín đáo
đó suốt mùa đông sắp tới. Khắp vườn, mấy trăm pho tượng đá trắng đương lần lượt
được người ta cho đứng vào trong hộp tránh rét. Tôi chào những người rất yêu đời
mới biết có lòng thương mà làm cái tổ cho con chim nhỏ ở, và những người công
nhân đã làm những việc tôn trọng, quí báu giữ gìn từng li từng tí mọi công
trình nghệ thuật. Tôi chào những bà công nhân già, tay xách thùng nước vôi và hắc
ín, mỗi buổi sáng lại đi xem xét từng cái cây, động thấy, cây có một vết da nứt
nẻ, bà ta lại nhanh nhẹn bôi “thuốc” cho nó, động thấy một cành khô, bà lại cưa
xuống, rồi gọt tròn chỗ thịt cây thối và đóng một miếng sắt mỏng lên, như ta
ngăn cho xương thịt cái cây khỏi thối mòn thêm. Tôi kính chào những người có sức
mạnh và rất yêu đời mới biết yêu quí mình, yêu quí những công trình của đời sống
và thiên nhiên quanh mình.
Nhưng không phải những công trình ta đến ngắm nghía hôm nay
là từ bao năm xưa vẫn thế. Nếu không có Cách mạng tháng Mười, không thể một ai
khác bọn vua chúa được đem làm của riêng chơi những công trình tuyệt xảo của
người kỹ sư và người thợ Nga. Và nếu không có Cách mạng tháng Mười, những báu
ngọc này cũng không thể còn. Trong trận bao vây Lê-nin-grát, tới trước khi phải
rút lui, quân phát xít Đức đã phá hết, lấy hết. Lâu đài cung điện lớn của nữ
hoàng Ca-tê-rin thứ hai đã phải làm lại ròng rã sáu năm nay thế mà phải đến hai
năm nữa mới xong. Ngay bên đường vào thành phố Pus-kin - trước kia là vườn chơi
của nhà vua, tòa lâu đài đồ sộ Thành Trắng vẫn đỏ rực màu gạch nằm trơ trụi
trong cỏ, chưa cất lên được. Đến một cái cầu sắt nhỏ bắc qua dòng nước cũng bị
phá. Quân phát xít phá tất cả 129 cái vòi và suối nước, phá tất cả các pho tượng
và nhà cửa. Đến một cái cây cũng bị chặt đổ. Chúng đã chặt đổ trên 10 vạn cây cổ
thụ. Người ta chẳng thế tưởng tượng ra được một cơn hung ác điên cuồng đến như
vậy, khi cơn khát máu của phát xít nổi lên đến thèm hạ thủ cả một cái cây, một
khu vườn. Vườn trên ở thành phố cung điện của vua Pi-e thứ nhất, giờ chỉ còn
mênh mang những thân cây chết mà người ta vẫn chỉ biết rào lại đấy, chưa khôi
phục lại được. Chỉ một khu vườn dưới này còn sống sót. Chúng không kịp phá. Hôm
nay, bước vào khu vườn vắng mà chân ta nhè nhẹ bước, tưởng như ở nơi vắng vẻ ấy
không còn gì nữa, nhưng rồi ta lại gặp trí tuệ của con người đã đặt vào nơi tịch
mịch một pho tượng đương trầm ngâm đứng. Trí thông minh của con người yêu đẹp,
yêu đời cứ đứng suy nghĩ khắp mọi nơi. Khách đi sâu vào sau cánh rừng thưa, xuống
hết một bậc đá trắng tinh, nhìn hai bên trụ lớn thấy hai pho tượng đồng cực to,
đó là bức tượng của thần Đất và tượng thần Ec-quyn. Đáng lẽ hôm nay thì những
pho tượng khổng lồ này không thể còn đây. Khi Hồng quân tiến vào đất Đức, giải
phóng tới thành Gut-tăng-be, thì gặp lại được thần Đất và thần Éc-quyn này, đã
đem về đây nằm trong cái kho đồng kho sắt với rất nhiều pho tượng mà quân phát
xít đã đánh cắp, khuân về từ khắp các nước trên châu Âu, chúng sắp đem quẳng cả
vào lò nấu để làm vỏ đạn! Hồng quân Liên Xô đã cứu được thần Đất và thần Ec-
quyn, lại đem hai thần cho về ngồi suy nghĩ trên hai bên thành đá này. Chúng ta
đã không thể tưởng tượng trước ra được những sự man rợ của quân phát xít, cũng
như trông những nguy nga rực rỡ hôm nay của các vườn chơi, người ta khó lòng mà
đoán được rằng cả cái thành phố đẹp này vừa mới chìm qua một cơn bão táp chiến
tranh khủng khiếp.
Thành phố Lê-nin-grát bị quân phát xít Đức vây hãm từ tháng
mười một 1941 cho tới tháng giêng 1943. Suốt chín trăm ngày đêm bị vây đánh,
hơn hai năm trời đói rét! Đại bác và bom phát xít Đức đã phá hủy mất hơn năm
triệu thước vuông diện tích nhà ở và dinh thự. Ấy là, đã ngừa trước sự phá
phách, người ta đã đem hết tất cả các pho tượng ở các công viên trong thành phố
chôn vào trong lòng đất và những nóc mái vàng của các tòa lầu và cái kim vàng
trên nóc tháp nhà Hải quân phải bọc lại, khiến bọn phát xít mất phương hướng
ném bom. Thế nhưng các nhà máy thì vẫn hoạt động. Súng đạn của Lê-nin-grát vẫn
có thể tự túc được. Ở các nhà máy phía bắc thành phố, nơi mà bọn phát xít Đức tỏa
vòng vây vào ngay sát cửa ô, công nhân đi làm đều phải đeo súng. Suốt hơn hai
năm trời, lương thực phải phân phối theo quyết định của ban chỉ huy mặt trận.
Quân đội và công nhân mỗi ngày được chia 250 gram bánh, cán bộ, nhân viên các
cơ quan và nhân dân, mỗi người mỗi ngày được 125 gram. Ai ốm hoặc bị thương thì
chỉ cần có 75 gram. Người Lê-nin-grát nói: Bấy giờ chúng tôi ăn bánh như chim
nhặt ruột bánh ăn!
Tôi thường hỏi và có được nghe kể nhiều, nhiều chuyện của
Lê-nin-grát trong hơn hai năm trời bị bao vây. Mỗi người Lê-nin-grát bây giờ,
dù là tôi gặp người ấy lên công tác trên nông trường khai hoang ở vùng Trung Á,
dù là tôi gặp người ấy sang làm chuyên gia các nước anh em trên đường đi Trung
Quốc, Triều Tiên, Việt Nam..., mỗi người đều có và đều muốn nói rất thiết tha về
những kỉ niệm và vinh dự của cuộc chiến đấu Lê-nin-grát của mình.
Kể tình cờ một vài câu chuyện chị Pê-rên-man Jêc-na là một
cán bộ nghiên cứu hóa chất. Chị đã đứng tuổi, người gầy khô. Chị ở một mình
cũng không một lần nào tôi đã hỏi - dù là hỏi xa xôi, bóng gió vì sao chị lại ở
một mình. Tôi không hỏi, bởi vì chỉ một việc tưởng lại thấy cái quãng tuổi hơn
hai mươi của chị Jêc-na cũng là quãng thời gian Lê-nin-grát đương bị bao vây,
thì biết rằng mùa xuân chín của đời người con gái ấy đã thui đi trong cuộc chiến
tranh tàn khốc rồi. Chính một thời xuân đã qua trong cái thành phố bị bao vây,
đã là một nguyên nhân sinh ra những đau khổ tình cảm mà có khi không bao giờ có
thể chữa khỏi được. Tôi không hỏi, nhưng tôi cứ nghĩ như thế. Và tôi đã biết
như thế, ở chị Jêc-na, ở nhiều chị khác, mà tôi gặp ở nhiều nơi, rất nhiều
nơi...
Chị Jêc-na kể rằng: Trong chiến tranh, hầu như khắp thành phố
không bóng người qua lại. Đại lộ Nin-ki vắng tanh, giữa đường phố chết đứng ngổn
ngang những chiếc tàu điện, những ô tô vận tải bị trúng bom mà mảnh đạn thì bừa
bãi khắp mặt đường như mảnh thủy tinh. Chiếc tháp nhọn bằng vàng trên nóc lầu Hải
quân đã phải đắp rêu lên, thế mà khu lầu Hải quân cũng bị tới 18 quả bom và 58
phát đại bác. Quảng trường Cung điện Mùa Đông, cỏ mọc như rừng, nơi lui tới của
cầy cáo. Không bao giờ người ta có thể tưởng trong thành phố lại có cái quang cảnh
trái ngược ấy. Quảng trường Mác-xơ và tất cả các quảng trường khác đã biến
thành những ruộng trồng khoai tây. Phần khoai tây thỉnh thoảng có được cho mình
ăn đúng là nhờ phần tăng gia sản xuất ngay trong thành phố. Có khi tới ba ngày
năm ngày không có một miếng ăn, mà luôn như thế. Có người đói quá, đến khi được
một miếng bánh, chưa ăn buông miệng đã ngã lăn ra. Không có lò sưởi, đêm mù mịt
không một vụn ánh sáng. Cứ từng ngõ, từng phố, lâu lâu người ta lại rủ nhau đi
kiếm được một buổi lửa đốt sưởi công cộng. Thấy lửa như thấy sự sống, để rồi lại
đi làm việc! Người Lê-nin-grát chống giữ vững các mặt trận quanh thành trong
hơn hai năm trời và nghĩ rằng vẫn có thể chống giữ được nữa. Bởi vì, lòng tin của
những con người trong cái thành phố anh hùng ấy vẫn là cao cả hơn hết thảy.
Nhân dân còn lại ở các khu phố làm đủ mọi việc, từ việc đi đào hầm hố đến việc
khuân vác tất cả các pho tượng đem chôn giấu vào vườn hoa A-nit-kô để tránh
bom... Tuy nhiên những buổi đốt sưởi công cộng như vậy cũng là rất hiếm. Quanh
những đám lửa sưởi ấy, mỗi lần người ta có dịp trông thấy nhau, bộ đội cũng như
người thợ, người dân, bấy giờ mới biết nhau lại hãy còn sống, rồi người ta hát,
người ta cười, cho quên tất cả. Nhưng cũng ở những đám lửa sưởi ấy có khi xảy
ra những cuộc xô xát kịch liệt. Người ta mắng chửi, có khi xúm lại đánh đến chết
một người nào đã nói những điều chán nản. Thật là đau đớn. Suốt ngày đêm, đại
bác của quân phát xít Đức cứ từ bốn phía nã vào. Cái mà làm khủng khiếp tinh thần
người ta, ấy là những quả đại bác mà bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống đầu.
Người Lê-nin-grát đặc biệt căm thù đại bác của phát xít Đức. Có lẽ vì vậy mà
khi Hồng quân phản công, khi hàng nghìn hàng vạn đại bác của Hồng quân kéo đến
nện xuống quân phát xít, cũng trước nhất là nện vào những cỗ đại bác của quân
phát xít Đức. Rồi cũng trước nhất, quân và dân Lê-nin-grát mở đợt phản công đầu
tiên đã diệt tan tành tất cả những đơn vị pháo binh của địch.
Chị Jêc-Na mỉm cười:
- Bấy giờ chúng tôi thật hăng hái, nhưng chúng tôi cũng gầy yếu
quá. Giờ nghĩ lại, không biết vì sao có thể chịu đựng được đến như vậy? Ừ, vì
sao...
Không phải là không hiểu vì sao. Nhưng ở đời, có những việc,
có những cảm xúc, rõ ràng thấy đấy, biết đấy, nhưng người ta cứ thông cảm những
ý nghĩa lớn mà không bao giờ muốn và cần hiểu, cần biết cho rõ hơn. Có phải
không, thưa chị Jêc-Na?
Tôi đã gặp trên một chuyến tàu quốc tế liên vận một người kỹ
sư cùng với vợ và hai con gái đã đổi công tác từ Ki-ep đi sang Cáp Nhĩ Tân. Đó
là một người kỹ sư điện đem gia đình sang nước bạn ở làm việc. Người ấy, trong
chiến tranh, là một chiến sĩ đã chiến đấu ở Lê-nin-grát trong đội du kích trên
hồ La-đô-ga - “con đường sống” duy nhất của cái thành phố bị vây, con đường qua
mặt băng hồ La-đô-ga suốt những mùa đông đã là mạch máu tiếp tế cho nội thành
các thứ súng đạn, lương thực, thư từ, tin tức từ khắp nơi trong toàn quốc gửi tới
và lại từ trong thành phố đưa ra những người bị thương nặng, những người già yếu.
Mặt hồ La-đô-ga dài trên năm mươi cây số. Hôm nọ, tôi rất nóng ruột đến hồ
La-đô-ga. Tôi muốn tận mắt trông thấy “con đường sống” nổi tiếng của người
Lê-nin-grát, con đường đã cứu cả thành phố, cứu sống tất cả những công trình
nguy nga hùng vĩ của Lê-nin-grát hôm nay và tôi cũng muốn trông thấy tận mắt
nơi đã xảy ra những cảnh khủng khiếp mà Kuyếc-di-ô Ma-la-pac đã miêu tả trong
tiểu thuyết phóng sự Kapput nổi tiếng 1 . Nhưng những chiếc xe du lịch mỹ miều mà
đẹp đẽ đài các của khách sạn At-tô-ri-a đã không tài nào chiều tôi đem tôi đi tới
bờ hồ La-đô-ga những ngày như thế này được. Bởi lẽ giản dị: đường mùa đông đã bắt
đầu đóng băng. Tuyết đã bắt đầu đóng băng, xe nhẹ không đi nổi, mà đành chỉ trượt
trên mặt băng trơn. Mặc dầu, đồng chí lái xe cho tôi, vốn là một chiến sĩ lái
xe đã từng lăn lộn trên mặt hồ La-đô-ga, đồng chí ấy rất muốn đưa tôi đi ngay đến
La-đô-ga giữa cơn mưa tuyết. Nhưng cũng đồng chí ấy đã lại cười mà nói rằng:
“Bây giờ không phải là lúc chiến tranh, mà thời hòa bình thì xưa nay không một
người du lịch nào lại đi chơi hồ La-đô-ga về mùa đông cả”.
Đồng chí lái xe Vôn-cốp kể chuyện:
- Từ Sa-kit cứ băng qua mặt hồ trên cả năm mươi cây số thì đến
thị trấn La-gô-đa. Mỗi năm, thời gian từ cuối tháng chạp cho tới hết tháng tư
là những tháng đi lại được nhiều nhất, còn gian khổ thì gian khổ nhất vào những
lúc băng mới đóng và những lúc băng tan. Những lúc ấy cả trên mặt hồ và mặt
băng đều có nước, không thể biết đâu là đường băng, đâu chỉ là nước. Xe thụt và
người chết, có ngày chết đuối đến hàng nghìn người! Trên suốt mặt băng dọc đường
đều có trạm cứu thương hoặc tải thương. Mùa đông năm 1942 là một mùa đông dữ nhất
trong suốt cuộc bao vây; đến khi băng đóng và băng tan, bọn phát xít đã nắm được
qui luật thiên nhiên ấy, đại bác và máy bay chúng cứ dồn dập xuống mặt hồ.
Không phải chúng đi tìm ném bom xe chúng tôi, dù xe chúng tôi bò trên tuyết rất
dễ thấy, vì chúng đã có cách phá chúng tôi dã man một cách dễ dàng hiệu nghiệm
mà lặng lẽ hơn, đó là chúng chỉ cứ việc ném bom và bắn đại bác dọc dài cả ngày
cả đêm xuống đường băng, phá ra hàng nghìn hàng vạn lỗ thủng thành những cái giếng
ngầm dưới mặt nước. Rồi tuyết lại phủ lên, xe và người, đi không tài nào trông
thấy, mà nếu bị lọt xuống đấy thì chỉ còn có chết chìm nghỉm. Bao nhiêu người
và xe của chúng tôi đã phải chết đuối hàng ngày như thế. Lại nữa, lúc bấy giờ
thiếu thốn, xe vận tải rách hết lốp. Chúng tôi phải đem nhồi rơm vào lốp rồi cứ
lốp nhồi rơm như thế, những chiếc xe vận tải năm tấn, tám tấn liên tiếp ba mùa
đông trong hơn hai năm trời bò suốt ngày đêm qua mặt băng hồ La-đô-ga, cái thì
sa hố chết chìm dưới nước, cái thì bò qua được, và không lúc nào ngừng...
Những chuyện cũ của Lê-nin-grát thấm thía ý nghĩa, và khích lệ
lòng người, làm cho tôi cứ tưởng như ở mỗi di tích lịch sử, mỗi pho tượng cánh
tiên, mỗi chiếc ngựa đều là những chứng cứ vẫn sống vẫn đứng trên tường, bên đường
phố thành Lê-nin-grát đứng để nhìn xuống người đi, âm thầm hỏi người đi đường
xem đến đấy có biết gì, có nghĩ ngợi gì khi qua thành phố anh hùng 2 này của đất nước Xô Viết chăng?
Tôi vẫn từ ngoại ô đi trở vào Lê-nin-grát. Nói ngoại ô theo
thói quen, thực ra, đã từ lâu thành phố Lê-nin-grát không còn có ngoại ô. Mà
ngoại ô cũng nguy nga những tòa ngang dãy dọc dính liền với rừng cỏ, rừng thông
và hồ nước ngoài kia. Sức xâm lấn của thành phố đã đuổi dần những cảnh thiên
nhiên này xa đi. Không kể những thành phố, những thị trấn không ngoại ô hoàn
toàn mới dựng ở Liên Xô đột ngột nổi lên giữa các vùng khai hoang hay trên miền
Bắc và ở Trung Á, còn thì người ta vẫn thấy, thông thường mỗi khi vào một thành
phố, bất cứ thành phố nào trên thế giới này, ta vẫn phải qua những vùng nhà cửa
thưa thớt hoặc tồi tàn rồi mới dần dần tới những khu đông đúc đẹp đẽ hơn.
Nhưng, Lê-nin-grát, một thành phố cổ kính mà lại đã biến mất cái thường lệ ấy từ
lâu. Phải vì ngoại ô Lê-nin-grát huy hoàng như những đóa hoa cúc rất hiếm nở giữa
mùa đông ở đây. Tôi đi từ phía bắc trở lại, qua một đường phố tên là
Mát-xcơ-va. Đại lộ Mát-xcơ-va ở Lê-nin-grát dài mười cây số, bề ngang, rất rộng,
có chỗ tới hơn 60 thước. Lại khi nói đến một con đường dài rộng như thế ở vùng
ngoại ô, chúng ta dễ tưởng nó có thể na ná đường phố ngoại ô của Hà Nội, Sài
Gòn chẳng hạn. Nghĩa nó là những con đường cứ dài thườn ra cho những người
thành phố ở chật đất thì cứ bám lầu, bám lầu leo ra ở hai bên mép đường, còn
sau lưng phố, thôi thì đủ thứ rãnh, cống, ao, ruộng ngổn ngang. Không, ở đây,
phố chạy dài, xòe liên tiếp ra hai bên đường những tòa nhà đồ sộ, sau lưng nhà
là những nhà máy lớn, sau lưng những nhà máy lớn lại là công trường. Nhà máy lẫn
với những công trường lớn, những công trường lớn từ bốn phía, tám phía ngoại ô
cứ mở rộng mãi ra, như những cánh hoa quỳnh nở, rồi tới lúc nào đó, những cánh
hoa đó sát liền nhau, và cái thành phố lại to lớn lên một độ nữa, ngoại ô lại
lan ra xa nữa, dài nữa - điều mà tôi đã trông thấy ở khắp đất nước Liên Xô, từ ở
những thành phố lớn như Mát-xcơ-va, Ki-ep hay Ô-đét-xa cho đến những thị trấn
nho nhỏ giữa cánh đồng khai hoang ở Ca-dắc-xtan cũng đều thấy rực rỡ phát triển
theo một nhịp độ nhanh như vậy.
Đường Mát-xcơ-va dài vút như một mũi tên bắn vào thành phố.
Đoạn đầu đường của nó bắt đầu từ vùng chợ Sa-nai-a - bây giờ là quảng trường
Hòa Bình, khi thành phố bị bao vây, quân phát xít Đức đã đóng vào tận đấy. Vùng
chợ Sa-nai-a đã có từ trên hai thế kỷ trước. Muốn dễ hiểu, bạn đọc cứ tưởng tượng
những phong cảnh và cuộc sống tối tăm, tiều tụy, thê thảm của phố phường
Pê-trô-gờ-rat trong tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt của
Đôt-tôi-ep-sky chính là những sự thật quanh chợ Sa-nai-a mà nhà văn đã đưa vào
sáng tác. Nhưng bây giờ đây là một quảng trường thênh thang. Con đường
Mát-xcơ-va bắt đầu ở đấy, hai bên đường kéo lên những chiếc cột đội từng chùm
đèn bóng mọng, đường Mát-xcơ-va đẹp như một đại lộ giữa thành phố với những cây
đèn bóng tròn liên tiếp như chuỗi búp hoa lan với từng dãy nhà mới viền thẳng tắp.
Trong nhà đầy đủ tiện nghi: ánh sáng, sưởi hơi và cứ vài bước ta lại gặp một bến
xe “buýt”, không kể xe “tắc xi” thì suốt đến cả đêm lượn lờ đón khách chạy nối
đuôi nhau. Làm cho người ta không sao phân biệt được cái cảm tưởng phố này là
phố ngoại ô và không thể biết được là ta đương đi từ ngoài vào lòng thành phố nữa.
Ở đây, cũng như khu đồi Lê-nin ở Mát-xcơ-va, tôi đã vào thăm
những khu nhà mới mọc. Mới trông vào đã rối cả mắt, nhưng dần dần cũng nhận ra
được từng ngôi nhà, mỗi cái dài chừng vài trăm thước, cao tám hoặc mười tầng. Mỗi
tòa nhà thường ngồi giữa một vườn hoa có bóng cây xòe che quanh chân. Mỗi ngôi
nhà, ngôi chị kề ngôi em, cứ nối nhau như thế kéo vào đến tận trong thành phố.
Lê-nin-grát không xây những nhà chọc trời, không có nhà chọc trời. Tôi thú vị
nhất điều đó. Bởi vì chẳng những những tòa nhà vài chục tầng ấy không thích hợp
với khung cảnh thành phố cố đô Lê-nin-grát, mà riêng cái cảm tính của tôi, tôi
chẳng ưa gì những công trình khoe xi măng cốt sắt ấy. Bấy giờ ở các thành phố lớn
Liên Xô, người ta cũng không xây dựng lối hơi hướng nhà chọc trời nữa, nhất là
trong các khu xây dựng nhà ở thì các kiến trúc bây giờ rất thích nghi và khác hẳn.
Bây giờ, các khu xây dựng nhà ở là những ngôi chị ngôi em tám chín tầng liên tiếp.
Mỗi ngôi nhà vừa gọn trong một cái phố nhỏ, một cái làng nhỏ. Ở đấy ai cũng thấy
đều đặn, đầy đủ như nhau, ở bất cứ ngôi nhà nào. Sáu, bảy tầng trên là nhà ở.
Hai tầng dưới là nơi làm những công việc của một làng; đó là cửa hàng thực phẩm,
bách hóa, là hiệu ăn uống, tiệm cà phê có khiêu vũ, là nhà hát và nhà chiếu
bóng. Tất cả thỏa mãn sự cần dùng cho một làng, một xóm, mà người ta đã tính ra
sẵn từ trước. Rồi cứ cách quãng vài tòa nhà, lại thấy một trường học, một nhà
thương. Ở đây, và ở nhiều nơi đương xây dựng khác, từng khu phố, đầy đủ kiểu mới
nhất như thế đương được dựng lên hàng loạt.
Lê-nin-grát to lớn, đồ sộ, nhưng gọn, không mênh mông, miên
man như Mát-xcơ-va. Lê-nin-grát, bằng phong cảnh và bóng dáng của nó, người du
lịch thật dễ dàng quen chỉ vài lần dạo chơi sẽ nhận ra như vậy. Đã nhiều lần,
chúng tôi - Ma-rích với tôi và Bô-rít, một anh bạn mới của Ma-rích, là một nhà
nghiên cứu vật lý nguyên tử rất trẻ, thường đi bộ trong thành phố. Thủng thỉnh
đi chân mới nhận ra rất rõ là hễ ngẩng lên, nhìn vào chỗ nào cũng thấy những
lâu đài và tượng. Những tảng đá xám và những tượng người đội đá khắc khổ trầm
ngâm soi bóng xuống đầu người đi, soi bóng xuống dòng sông Nê-va và những kênh
lạch của nó chi chít đan lưới khắp thành phố. Những tượng đá, những thành đá uy
nghiêm, cổ kính, bí mật và mênh mang một màu xám ngắt đương thì thầm những gì
ghê gớm và dữ dội của những công trình sáng tạo đó, của lịch sử, của sức mạnh
dân tộc Nga. Gô-gôn đã đặt tên cho những lâu đài dinh thự ở Lê-nin-grát là những
niên hiệu lịch sử bằng đá. Thật vậy, mỗi thành phố, mỗi công trường, mỗi tòa
nhà ở Lê-nin-grát đều có thể là những người làm chứng im lặng của những sự kiện
lịch sử lớn lao của nước Nga.
Kỳ lạ thay người kỵ mã trong sương
Bao sức mạnh của tinh thần tư tưởng
Bao nghị lực tiềm tàng trong ấy
Trong ngựa kia bao vẻ say hăng
Chồm đến đâu hỡi con tuấn mã
Đặt xuống đâu đôi vó nhịp nhàng
Ôi người nắm trong tay số mệnh
Như thế kia trên vực thẳm bao la
Bàn tay sắt ghì cương chắc chắn
Người làm cho lồng dậy nước Nga 3
Trong đường phố, lịch sử thâm thúy như dạy tôi bắt chước và học
đòi suy nghĩ. Đã nhiều bước chân tôi cứ thong thả trầm ngâm đi dưới những bóng
thành đá, những bóng tượng. Cái không khí thành kính đã tạo cho tôi cái cảm tưởng
ấy chẳng phải chỉ mình tôi có. Không phải một mình tôi, mà tôi đã gặp những người
ở khắp nước Nga, cứ hằng năm, vài năm, thế nào cũng lại đến chơi và xem
Lê-nin-grát một lần, như thành một cái lệ quen trong đời sống của người Xô Viết.
Và mấy hôm nay còn gặp nhiều người du lịch trên thế giới đến Lê-nin-grát. Tuần
này, ở Lê-nin-grát đương chiếu một Tuần lễ phim Anh , những người du
lịch Ăng-lê đã sang chơi rất nhiều. Buổi tối, trong khách sạn Át-tô-ri-a và
khách sạn Châu Âu tiếng nhạc khiêu vũ còn rầm rập quá 12 giờ đêm, khuya hơn thường
lệ. Vâng, không phải chỉ mình tôi đã có cái sáng kiến đi lắng tai suy nghĩ về
cái thành phố xanh đen cổ kính trên phương bắc này, mà đó cũng là lòng thành
kính tự nhiên đứng trước di tích lịch sử và cách mạng vĩ đại của người Nga, của
nhiều dân tộc trên các lục địa ở trái đất này, đã hằng có.
Những di vật, những trang lịch sử, những chuyện kỉ niệm ở
Lê-nin-grát. Thành phố vàng đeo ngọc dát, mang biết bao của báu trên đời. Đã sống
ở đây những nhà văn nổi tiếng của dân tộc Nga, của Liên Xô, như Pus-kin,
Gô-gôn, như Đôt-tôi-ep-sky, Goóc-ky, Mai-a-kôp-sky... Ở góc phố Gô-gôn, phía
đông bắc quảng trường nhà thờ thánh I-sắc, tại nhà số 23, là nơi Đôt-tôi-ep-sky
từng ở và chính ở đấy Đốt đã viết truyện ngắn Đêm trắng và nhiều truyện
ngắn khác. Cái phố lớn tên là đại lộ Goóc-ky bây giờ là nơi mà Goóc-ky đã ngụ ở
đấy từ năm 1914 tới 1921 ở nhà số 23. Tại nhà số 12, đầu kênh Môi-ka là nhà ở của
Pus-kin. Nhiều khi, tôi đã cứ đi đi lại lại nhiều lần quanh quẩn trên cao vùng
từ quảng trường thánh I-sắc về kênh Rửa Mặt, đi mà nhìn, tưởng như đương thấy lại
những nơi, những việc, những hình dáng mà Pus-kin, mà Đôt-tôi-ep-sky đã từng
nhìn, từng nghĩ...trong lòng chan chứa, mênh mang cảm kích...
Lê-nin-grát đã mang trong mình cả thảy 67 nhà bảo tàng và triển
lãm - con số kỷ lục quốc tế! Không một thành phố nào trên thế giới có thể có được
nhiều bảo tàng quí báu hơn mà tôi không thể kể hết ở đây. Làm sao mà kể hết được!
Có một bà bác sĩ quê ở Ô-đét-xa, cứ vài năm lại “phải” lên chơi Lê-nin-grát xem
nhà bảo tàng Ở ẩn một lần, bà bác sĩ ấy đã đi chơi Lê-nin-grát từ thuở
trẻ đã hơn ba mươi năm nay, bây giờ đã già và năm ngoái, chồng bà mất, năm nay
đến lệ chơi Lê-nin-grát, bà đi một mình, vào xem bảo tàng Ở ẩn , bà
phàn nàn với chúng tôi rằng: năm nay đi xem một mình, cứ hay lạc đường. Mỗi một
nhà bảo tàng Ở ẩn mà đã phong phú như vậy!
Đi nhà bảo tàng Ở ẩn , tôi chỉ đi lướt, mà đã xem bốn
ngày liền. Nhà bảo tàng Ở ẩn có hơn hai triệu hiện vật trưng bày
trong 322 gian phòng lớn mà người ta ước lượng rằng tính theo bước chân thì đi
cho hết sẽ dài hơn bốn mươi cây số... Từng ngày, tôi tha thẩn miên man trong
tòa nhà bảo tàng vĩ đại, tôi chỉ như một con kiến bò giữa rừng. Con kiến bò
trong rừng thì làm sao mà thấy cho thấu đáo được tinh hoa bao nền văn hóa cổ
kim đông tây, của nước Nga ngày trước cũng như của Liên Xô ngày nay, từ hội họa
của nước Pháp thế kỷ mười ba cho tới những bức tranh mới nhất của Pa-blô
Pi-cat-xô bây giờ, từ những hiện vật của thời cổ La-Hy trên bờ Địa Trung Hải
cho tới một bức thêu, một cái đốc kiếm của Trung Quốc tận phía Thái Bình Dương.
Mỗi bước đi, ngước mắt đã đem lại cho người xem một suy nghĩ,
một học tập...
Cái xác người Ai Cập Pê-tê-xa trên ba nghìn năm vẫn nằm
nguyên, khô đét, một tay để trên bụng, một tay duỗi. Người của thời ba nghìn
năm trước đã biết cách giữ xác không thối giỏi đến như thế là cùng.
Những chiếc áo quan của người Ai Cập, người Hy Lạp, cái thì bằng
gỗ, cái bằng đá, áo quan của nhà vua, của thày tu thì to, áo quan của lái buôn
thì nhỏ. Dù to hay nhỏ, cái áo quan nào người ta cũng làm cho chắc chắn không hỏng
và ở cái nào cũng khắc chữ kể tiểu sử người chết. Thì ra từ ba nghìn năm trước
và cả đến từ khi có loài người, người ta đều không ai muốn chết, nếu có phải chết
thì cũng phải lưu lại một cái gì. Cái nhân tính đó là muôn thuở, mà cái tính giết
người của bọn phát xít mới ở Mỹ ngày nay sao mà nó hủ lậu già nua đến như vậy!
Từ thời cổ Hy Lạp, ba nghìn năm trước, người ta đã nghĩ nhiều
lắm rồi. Những pho tượng tuyệt mỹ kia đã làm cho tôi tự ti như vậy. Ông thần Rượu
cầm cái bát và cành nho; thần Tình Yêu tình tứ bước ra, tay che trên tay che dưới
và biết bao nhiêu thứ thần Gió, thần Rừng... Những pho tượng đá tuyệt vời ấy
đúng là đã biểu hiện được một đỉnh cao nhất của suy tưởng, đã đem thời gian từ
ba nghìn năm trước trở lại mới mẻ, gần gũi như ngày nay.
Và mỗi bước đi cứ đem lại một suy nghĩ, một học tập... Kia là
một mảng tím kỳ lạ trên bức tranh sơn dầu của Tây Ban Nha thế kỷ mười tám. Những
nét mờ biến thành ảo của hội họa Hà Lan trong bút Răm-bờ-lăng. Cả một nền văn
minh châu Âu đã được Cách mạng tháng Mười bảo vệ và giữ hình giữ bóng nó lại ở
đây. Xem từng hiện vật của bảo tàng Ở ẩn , lòng ta chan chứa biết ơn
người, khi ta nhớ lại rằng cách đây bốn mươi hai năm, đúng hai giờ sáng ngày 26
tháng mười năm 1917, bọn chính phủ phản động Kê-ren-xki vừa tan vỡ, ngay ở
trong tòa lầu bên kia, thì lập tức theo lệnh của Lê-nin, những đội tự vệ đỏ tỏa
chặt ngay quanh cả Cung điện Mùa Đông, trước nhất để bảo vệ cái kho tàng văn
minh này cho cách mạng, cho nhân dân, cho thế giới. Lại khi ta nhớ rằng hơn hai
mươi năm sau Cách mạng tháng Mười, thành phố của Lê-nin bị bọn phát xít Đức vây
hãm và cố tình xông vào đập phá tất cả. Nhưng Lê-nin-grát đã hơn hai năm trời
ròng rã chặn chân bọn giết người lại ở ngoài kia. Và cái kho tàng báu ngọc của
văn minh thế giới này, Cách mạng vẫn giữ cho loài người được hưởng.
Tôi vẫn như con kiến giữa rừng, mới chỉ lướt xem vài bảo tàng
trong số 67 cái bảo tàng và triển lãm kỳ thú của Lê-nin-grát!
Chúng tôi đương đi ngoài phố. Che trên đầu chúng tôi vẫn là
những bóng tượng và bóng tường đá xanh đặc biệt của thành phố quê hương cách mạng.
Tuyết xuống nhẹ nhẹ... Rạp xi-nê Ban-ti-ca bên kia bờ sông Nê-va hôm nay chiếu
một phim Anh, người chen vào lấy vé đông chật cả ra đường cái. Trong một công
viên gần đấy, tuyết mới xuống trắng xóa, trẻ con đi học về qua đã giỡn chơi lăn
trên tuyết, nhai từng vốc tuyết mới rồi vừa ném tuyết vừa cười giòn trông như
những ánh tuyết mỏng.
Chúng tôi đi tìm một tiệm ăn. “Đi tìm” - bởi vì chọn hàng ăn
cũng là một thú vị đặc biệt ở các thành phố Liên Xô.
Cao lâu Xa-kat-ki mà chúng tôi tới là một cao lâu chuyên các
món ăn vùng Cô-ca. Lên tận phương bắc giá lạnh này, người ta vẫn được thưởng thức
món thịt cừu nướng ngon lành của phương nam ấm áp. Tôi muốn nói cái thú vị sâu
sắc ấy mà không phải là những so sánh lặt vặt. Mặc dầu tôi bỉ nó coi là lặt vặt,
nhưng cũng chưa hề được thấy những cái thú vị bình dị khi vào hàng ăn uống ở nước
ta, nó chưa thật đúng với nghĩa của việc đi ăn là một việc vui, việc thoải mái.
Còn gì thảnh thơi bằng khi trong túi có tiền thì ung dung vào một tiệm ăn, chiếm
một cái bàn, người phục vụ bàn ấy đưa thực đơn tới, chúng ta gọi thức ăn, thức
uống thỏa thuê cho tới khi tà tà thì đứng dậy, trả tiền, khách và người nhà
hàng chào nhau rồi đi ra. Cái thói quen của việc đi ăn bình thường ấy tôi đã được
gặp dễ dàng ở đây. Không, đó quả là những việc lặt vặt tối thiểu nhưng vô cùng
ý vị mà trong các quán ăn ở Liên Xô, đâu cũng thế khiến người đi ăn vừa bước
vào đã cảm thấy thân mật ngay. Khó lòng mà ví được, khi trông thấy những chị phục
vụ bưng những khay thức ăn cả những chai, cốc trắng tinh chạy lướt trong phòng
ăn rất đông, chỉ còn cách ví đó là những đóa hoa bay. Đây thực không phải là điều
nhỏ nhặt, mà là một nghệ thuật điêu luyện và người ta chỉ có thể làm được những
công việc điêu luyện ấy khi việc phục vụ ăn uống đã thành nghề đối với những
người làm công tác ấy.
Trong các thành phố lớn ở Liên Xô, từ Mát-xcơ-va, Lê-nin-grát
tới Ô-đét-xa, đều rất chú trọng làm công tác tuyên truyền giới thiệu đất nước bằng
các hàng ăn uống; thật là một nghệ thuật tuyên truyền tuyệt diệu. Đúng như thế,
bây giờ khách đến Mát-xcơ-va, ngoài những khách sạn và cao lâu lớn, rất lớn,
như khách sạn U-cờ-ren, khách sạn Quốc-gia hay khách sạn Mát-xcơ-va, ta còn có
thể ra vào nhiều hiệu cao lâu, tiệm cà phê và khiêu vũ của các nước cộng hòa
trong Liên bang Xô Viết mở ngay ở Mát-xcơ-va. Các nước cộng hòa đứng ra quản lý
các nơi ăn uống vui chơi ấy. Làm cho người ta chỉ vào mỗi hiệu cao lâu cũng có
cái cảm tưởng như được đến chơi một nước cộng hòa, ngay ở giữa Thủ đô. Đến cao
lâu A-ra-cat thì có bếp Ac-mê-ni, bạn có thể gọi những thức đặc biệt thổ sản
Ac-mê-ni như uống vang và cô-nhắc nổi tiếng của đồng nho Ac-mê-ni, cao lâu
A-ra-ghi có nhà bếp làm các món Giê-ooc-gi... Hàng loạt cao lâu nữa:
Si-nan-đa-li, Mou-ku-gia-ni, Ti-bi-a-ni, Khơ-van Ka-ra, Vi-chi… Rồi cao lâu
“Ba-ku” nấu nướng theo các món A-dec-bai-gan, cao lâu Ki-ep làm lối U-cờ-ren,
cao lâu U-dơ-bê-ki-xtan, trong thực đơn bao giờ cũng ghi lên chỗ nổi nhất món
thịt cừu nướng đã có tiếng thế giới. Và ngoài những hàng ăn của các nước cộng
hòa trong liên bang Xô Viết, khách còn vào những hiệu ăn đặc biệt của những nước
có món ăn nổi tiếng. Mời bạn vào khách sạn và cao lâu “Bá-linh”, cao lâu
“Pra-ha” đã lừng tên vì món dồi thịt Tiệp Khắc, khách sạn và cao lâu “Bắc Kinh”
có vịt quay và rượu Mao Đài, những thú ăn uống đã làm vinh dự cho Trung Quốc,
chẳng phải đến Bắc Kinh mà ở ngay Mát-xcơ-va cũng khá dồi dào.
Thật là những cái triển lãm thú vị toàn bằng tiệm ăn và nhất
định bao giờ cũng làm cho khách vào phải mê ly. Hôm ấy, ở Mát-xcơ-va, tôi đến
cao lâu của nước cộng hòa U-dơ-bê-ki-xtan. Chưa bao giờ tôi đã tới
U-dơ-bê-ki-xtan. Nhưng ở đây tôi uống rượu vang và ăn thịt cừu nướng, uống nước
chè bằng những cái ấm màu nâu như ấm đất của đồng ruộng U-dơ-bếch; trước mặt
tôi, những trang trí lối dân tộc, tai tôi nghe âm nhạc dân tộc, những người phục
vụ, những khách ăn - các cụ già cũng như người trẻ, mắt hơi xếch, da ngăm đỏ, đội
mũ thêu - mà khi họ khiêu vũ, tôi tưởng như nghe tiếng vỗ của thanh kiếm dài
đeo bên hông. Màu sắc, người và vật phẩm của đất nước U-dơ-bê-ki-xtan đương tô
một bức tranh sinh hoạt cực kỳ sinh động trước mắt tôi. Tôi chạnh nghĩ ở thủ đô
Hà Nội của nước Việt Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa chúng ta đương ngày một dồi
dào phồn vinh rồi tất phải học thêm, học nhanh lấy cái lối gây không khí cho có
được phong vị đáng yêu đó. Hà Nội đã có và sẽ có càng ngày càng nhiều những
khách sạn những cao lâu quốc doanh, công tư hợp doanh nấu món ăn theo lối Âu, lối
Á, lại cũng có những hiệu phở toàn quốc! - những hiệu thịt bò bảy món Sài Gòn,
những hiệu nem nướng Sông Hương, những hiệu chả cá, chả rán, bún chả, bún riêu
Hà Nội... - tất cả những tiệm ăn sang trọng, lịch sử tốt đẹp mà ở đấy rượu uống
là những thứ rượu tăm cất theo công thức cổ truyền của các vùng Hà Đông, Bắc
Ninh, của Quảng Nam và của Đồng Tháp Mười quê ta. Có những hiệu ăn phong phú
màu sắc ấy, đất nước như tụ hội cả ở Hà Nội. Cho người cán bộ hướng dẫn của
công ty du lịch Việt Nam có thể tóm tắt giới thiệu đất nước ta giàu đẹp, xinh
tươi bằng cách đưa khách nước ngoài đi chơi thêm vài hiệu cao lâu ở Hà Nội!
Trong hàng ăn Ka-kat-ki ở Lê-nin-grát. Món ăn đặc biệt của hiệu
này là thịt cừu nướng theo lối nướng thịt cừu tươi vùng Cô-ca nổi tiếng. Người
ăn rất đông, khách vào đây đều gọi những xiên thịt cừu nướng làm đầu vị. Những
người phục vụ đã già, giản dị mà trịnh trọng, dường như họ chuyên môn dọn ăn ở
những kiểu cao lâu quen thuộc cho những người khách từ phương nam lên chơi
Lê-nin-grát, đã hàng mấy chục năm nay rồi.
Chiều đã xế xế thì chúng tôi cũng đánh chén xong, ngà ngà ra
đường. Trên thinh không, một mảng trời nhỏ, mây cuồn cuộn bay nhanh. Vừa ngớt
tuyết mà trời đã hửng ngay. Nhưng, trước mặt tôi vẫn là những tường đá xanh trầm
mặc, vẫn là bóng những pho tượng đội đá lực lưỡng mà cứ mỗi khi trông lên, bao
giờ cũng trông thấy, chỗ nào cũng thấy. Bất giác, tôi nhớ những chuyện đã qua.
Bao giờ cũng vậy, lúc vui thì người ta hay chạnh nhớ chuyện đã qua. Trong thành
phố ánh sáng Lê-nin-grát bây giờ không còn đâu chút bụi của dấu vết chiến tranh
tàn phá, nhưng ta cứ tưởng tượng như nếu không có Cách mạng tháng Mười và nếu
trong cuộc chiến tranh chống phát xít vừa qua, nhân dân Lê-nin-grát không anh
dũng chiến đấu giữ được thành phố lịch sử này thì hôm nay, ở đây sẽ như thế
nào...
Lê-nin-grát vào một khoảnh khắc hoàng hôn đầu đông này đẹp một
vẻ lạ kỳ. Trên sông Nê-va lặng lẽ và trang nghiêm trôi từng mảng ráng trời đỏ ửng,
lẫn lộn giữa những mảng sương mù cũng cứ vùn vụt qua.
Tôi vào thăm ngôi nhà của nhà thơ Pus-kin. Nơi ở của nhà thơ
lớn đã giữ nguyên thành một bảo tàng. Cái điếu hút thuốc bên chiếc ghế nằm mà
Pus-kin đã tắt thở ở đấy, trên thành ghế còn vắt chiếc ghi-lê trắng mà nhà thơ
đã mặc hôm đi đấu kiếm bị tử thương. Chiếc đồng hồ treo trong phòng vẫn chạy đều
từ năm 1837 tới giờ, và trên bàn đọc sách của nhà thơ, vẫn ngọn nến cháy dở tắt
từ đêm hôm ấy. Lúc tôi vào nhà đã gần tối, mà người vẫn đến xem đông. Người ta
kính cẩn thì thầm. Tôi trông người xem, không thể đoán được những lớp người nào
yêu Pus-kin: một sĩ quan hải quân, một bà nạ dòng, một cô bé học sinh và nhiều
người khác nhau. Tôi không thể đoán được lớp người nào yêu Pus-kin, bởi vì tôi
đã không biết rằng tất cả mọi người, mọi lớp người, mọi lứa tuổi - như những
người đương tỉ mỉ xem xét từng li từng tí mọi di tích của Pus-kin trước mặt tôi
đây, đều đã kính yêu nhà thơ của cố đô và của cả dân tộc Nga.
Ra khỏi nhà Pus-kin, Lê-nin-grát đã bừng sáng trong ánh đèn.
Bờ kênh Rửa Mặt ngay trước cửa trông ra sông Nê-va nổi hình lên một hàng sầu
đông đen sì, dài vút. Xa kia, chói lọi cái kim vàng trên tháp lầu Hải quân.
Cũng như ở mọi phương trời bình yên khác, đêm nay đột nhiên trời Lê-nin-grát tạnh
tuyết, mọc sao li ti. Trong trời đêm vút lên những chiếc kim vàng, những tháp
vàng, những mái vàng rực rỡ của các lâu đài, cung điện - những cảnh đặc sắc
riêng của Lê-nin-grát, đã thấy thì không bao giờ quên được. Và những cánh cầu
khổng lồ, nửa đêm mở cất cao trên trời sông Nê-va cũng làm cho người ta nếu một
lần đã thấy thì không bao giờ quên Lê-nin-grát. Buổi sáng bên sông Nê-va đẹp,
chiều Lê-nin-grát ráng đỏ, đêm Lê-nin-grát vẫn biểu hiện lịch sử trong ánh
sáng, đầm ấm: từng hòn đá dài viền bờ Nê-va, những tảng đá lớn sù sì xanh đen
trên những tường nhà trong phố, đêm đêm trông thấy ở đâu cũng những bóng tượng
đứng trầm ngâm. Lê-nin-grát khác hẳn lịch sử rực rỡ, Lê-nin-grát trầm ngâm trong
kỉ niệm, hãnh diện trong kỉ niệm. Bao nhiêu kỉ niệm của lịch sử dân tộc Nga và
nhiều lịch sử thế giới, Lê-nin-grát đương ôm ấp cả trong lòng.
Thơ Pus-kin đương rắc bay trong những hoa tuyết vẫn còn lơ
thơ và hoa ánh sáng dài như những “chiếc kim vàng” tỏa khắp kinh thành:
Ta yêu thành phố công trình Pi-e đại đế
Nguy nga trang nhã tuyệt vời
Sông Nê-va một dòng đường bệ
Đá hoa cương phủ khắp hai bờ
Con tiện hoa đường triệu uốn muôn vòng
Trong vắt ánh tà dương
Của những đêm thơ mộng không trăng
Mỗi lần ta cầm bút
Phòng văn không dong đèn
Mà trông ra vẫn hiển hiện
Những phố lầu thênh thang và lấp lánh
Đài Hải quân vút ngọn tháp 4
Dọc theo bờ sông Nê-va, vào giờ đây đã vắng. Rồi tuyết lại xuống.
Tuyết lại xối xuống với những cơn gió đột ngột quét ở đâu đến. Tuyết xuống đã
thu gọn những người chơi đêm vào trong các phố ấm. Nhưng bước tôi vẫn đếm trên
bờ sông, đi ngược lên phía nhà bảo tàng Sit-môn-ny. Vâng, tôi không tiếc gì những
đêm trắng của Lê-nin-grát mà thế giới biết tiếng, hằng nô nức đến thưởng thức.
Mà tôi còn cảm ơn một sự tình cờ - quả là một sự tình cờ, đã cho tôi đến thành
phố của Lê-nin vào những ngày, dù bây giờ đã là mấy chục năm qua, nhưng thời tiết
và đất trời vẫn đầu mùa đông ấy, vẫn thay đổi, chuyển động dữ dội như khi Cách
mạng tháng Mười, như những ngày Lê-nin-grát gian khổ còn bị vây hãm.
Tôi đến trước nhà bảo tàng Sit-môn-ny. Ở đấy, Lê-nin đã chỉ
huy Cách mạng tháng Mười. Bốn mươi hai năm đã qua rồi mà đứng đây trước đại bản
doanh của cách mạng, tôi thấy một trang phóng sự Mười ngày chấn động thế
giới của Giôn Rit vẫn mở ra cảnh đêm đầu tiên của những ngày đêm sôi sục
Cách mạng tháng Mười:
Trên những bậc thềm Sit-môn-ny, trong bóng đêm mát lạnh, lần
đầu tiên tôi trông thấy những chiến sĩ tự vệ đỏ, họ là những người rất trẻ, mặc
quần áo công nhân, đeo súng, lưỡi lê cắm đầu súng, đương đứng xúm xít và tranh
luận với nhau rất hăng.
Qua mái nhà trông về phía tây, bỗng vang tiếng súng nổ: đó là
tiếng súng của những chiến sĩ thủy quân đương muốn đóng liền cái cầu sông Nê-va
mà bọn bạch quân đã mở cầu lên để ngăn đường không cho những toán công nhân và
quân đội từ phía Vi-bo tiến sang phối hợp chiến đấu với những lực lượng cách mạng
ở giữa thành phố.
Sau lưng tôi, những tòa nhà Sit-môn-ny đương rực sáng, ầm
vang như một tổ ong khổng lồ...
Lê-nin có trong đó.
Sit-môn-ny đã rực sáng từ đêm ấy cho tới đêm nay và mãi mãi,
như thấy Lê-nin vẫn còn trong đó. Và trong bóng đêm huyền ảo, những chiếc cầu mở
trên sông Nê-va đêm nay đã mở dựng lên cho tàu thủy qua lại, dựng ngược hai
cánh tay khổng lồ vào nền sáng điện đỏ rực của thành phố. Tôi tưởng đấy là những
cánh tay mãnh liệt, những cánh tay của cách mạng đã vươn lên bảo vệ lịch sử, bảo
vệ đời sống - như tôi đã thấy trong những ngày Lê-nin-grát này.
--------------------------------
Nhà văn tiến bộ Ý (1898 - 1958) trong Cuộc chiến tranh Thế
giới, có viết nhiều phóng sự giá trị về các mặt trận phía trong châu Âu. |
|
Trong cuộc chiến tranh ái quốc chống phát xít Đức,
Lê-nin-grát là một trong năm thành phố ở Liên Xô được phong tặng danh hiệu
thành phố anh hùng Lê-nin-grát. |
|
Thơ của Pus-kin - Tế Hanh dịch. |
|
Thơ của Pus-kin - Nguyễn Tuân dịch. |
Ba bức thư
I.
TU-LA, 11 tháng mười
Tôi vừa từ Dát-nai-a Pô-li-a-na trở lại Mát-xcơ-va. Rừng
phong lúc vào đông đã nhuộm những lưng đồi, những lớp tường nhà máy và thị trấn,
phong cảnh tỉnh Tu-la gội một màu vàng thắm.
Dát-nai-a Pô-li-a-na, làng quê văn hào Lê-ông Tôn-stôi. Nghe
tiếng thân thiết êm ái ấy, ít ai không biết đến. Ở đấy, cách đây ngót thế kỷ,
Lê-ông Tôn-stôi đã viết ra những tác phẩm rung động tâm tư thế giới
Nơi ở thật vĩ đại (tất nhiên, vĩ đại theo nghĩa của công việc
và tâm hồn nhà văn). Hàng chương sách (cũng tất nhiên là chương sách hay chứ
không phải chương sách dài) vị tất đã viết cho đã được về nơi này! Mà đây chỉ
là một nơi ở của nhà văn đem giữ lại thành bảo tàng. Nhà bảo tàng về Lê-ông
Tôn-stôi thì trên thủ đô Mát-xcơ-va còn bốn cái lớn hơn nhiều.
Không phải tôi sẽ kể với anh tỉ mỉ mọi điều mắt thấy tai nghe
ở Dát-nai-a Pô-li-a-na. Như thế sẽ miên man không biết đến thế nào là hết. Đây
chỉ là nơi ở và phòng làm việc ở làng quê, thế mà trong thư viện riêng của
Tôn-stôi cũng có tới hai vạn ba nghìn quyển sách. Trên ngăn tủ giữa đứng một
dãy từ điển bách khoa của nhiều thứ tiếng, bên cạnh một giá sách đương đọc. Những
sách về Hồi Giáo, Phật Giáo, những sách nghiên cứu luật lệ hôn nhân của người
da đỏ châu Mỹ... Và biết bao thứ nghiên cứu phức tạp nữa! Tôn-stôi đọc được mười
bảy thứ tiếng và đấy chỉ là những sách của mười bảy thứ tiếng mà nhà văn thường
dùng. Tôi trông thấy nơi bàn làm việc của Tôn-stôi có một quyển sách mở. Cái thẻ
gài sách để ngang trang sách đương đọc dở. Tiểu thuyết Anh em Ca-ra-ma-dốp của
Đôt-tôi-ep-sky. Tôn-stôi còn đọc Đôt, trước hôm quyết định bỏ nhà. Và khi ra
đi, quyển sách vẫn mở trên bàn đấy. Cho đến bây giờ.
Cũng không phải tôi sẽ nói tới cái ham thích lao động chân
tay của Tôn-stôi. Trong phòng viết Tôn-stôi còn treo những liềm, hái, một cái
cào cỏ và bức ảnh chụp Tôn-stôi đương cày ruộng. Trong ảnh, Tôn-stôi già lụ khụ,
râu dài xùm xòe ngang thắt lưng. Người ta kể rằng: Khi về già, Tôn-stôi vẫn rất
khỏe, cày được cả một buổi sáu giờ liền. Tôi đã dạo qua những khu vườn táo lớn
quanh nhà. Người ta cũng nói lại rằng Tôn-stôi đã trồng từng gốc táo cho thành
những vườn lớn như thế. Mỗi lần Tôn-stôi về ở quê nhà, những lúc không viết,
Tôn-stôi lại trồng táo, trồng nho và đi cày. Trước cửa nhà, dưới gốc một cây sến
lớn, còn có những chiếc ghế ngồi. Đấy là nơi, buổi sáng, Tôn-stôi thường cùng
ngồi chơi chốc lát với những nông dân đi làm đồng qua đấy. Và hầu như sáng nào
Tôn-stôi cũng có trò chuyện như vậy.
Tôi rất muốn kể những đồ vật tôi trông thấy ở trong nhà,
trong phòng ăn, trong buồng ngủ. Có cái thau rửa mặt mà mỗi khi các bạn thân của
Tôn-stôi từ thành phố đến chơi, như nhà văn Sê-khốp, Goóc-ky, họ sẽ ngủ trong
buồng ấy, trên giường ấy và rửa mặt trong cái thau ấy.
Tôi cũng muốn tả anh thấy ngôi mộ Tôn-stôi. Nhà văn danh tiếng
lừng thế giới, mà nơi ở cuối cùng chỉ là một nấm đất cỏn con dưới chân cây
phong giữa rừng. Trước khi mất, Lê-ông Tôn-stôi đã dặn lại: chỉ được chôn ông
như thế, đừng xây cất lăng mộ chi hết.
Tôi còn muốn kể nhiều, rất nhiều về Dát-nai-a Pô-li-a-na vàng
rượi rừng phong và man mác tuyết trắng dưới một trời Tu-la yêu kiều, xinh đẹp
kia.
Nhưng tôi chỉ định nói dài với anh những điều tôi đã ghi nhớ
nhất trong lần đi thăm Dát-nai-a Pô-li-a-na này, về đức tính làm việc của nhà
văn Lê-ông Tôn-stôi. Không, trước kia cũng như hôm nay, vốn biết của tôi về
Tôn-stôi không được mấy tí. Tôi đã chẳng có thể nhân đến đây mà rút ra được những
suy tưởng riêng gì trong sự nghiệp tư tưởng hoặc lao động sáng tác của
Tôn-stôi. Đây chỉ là những việc tủn mủn mà trong khi xem xét khiến tôi nhớ lại
đôi lúc chúng ta thường trò chuyện về vấn đề công sức lao động trong nghệ thuật
của người viết văn. Những việc kể đây để bổ sung vào những chuyện đã nói.
Chúng ta đều biết nghị lực làm việc cực kỳ bền bỉ, mạnh mẽ của
nhà văn lớn ấy. Lê-ông Tôn-stôi từng viết đi viết lại một bản thảo hàng chục,
hàng mấy chục lần. Ngày nào Tôn-stôi cũng ngồi vào bàn và bắt mình phải làm.
Lao động nghệ thuật của Lê-ông Tôn-stôi là một công việc vừa bình thường lại vừa
gian khổ gay go. Điều ấy, xưa nay thế giới đã từng khâm phục. Hầu như, ở khắp
nhà và cả ngoài vườn, tôi đều thấy có bàn viết, chỗ ngồi viết của nhà văn. Tầng
nhà dưới, sau cánh cửa một phòng, là bàn viết. Ở phòng này, Lê-ông Tôn-stôi đã
viết xong bộ tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình . Trong một phòng
khác trên gác, người ta cũng biết ở đấy Lê-ông Tôn-stôi đã ngồi viết bộ tiểu
thuyết An-na Ka-rê-nin . Nhiều chỗ trong phòng ấy đã phảng phất vào
tiểu thuyết. Phòng làm việc của nhân vật Lê-vin cũng tương tự buồng này. Cửa
phòng Lê-vin treo cặp sừng hươu, mỗi khi bước vào lại trông thấy trước nhất thì
ở cửa phòng này cũng có cặp sừng hươu, vừa bước vào đã trông thấy. Lê-ông
Tôn-stôi có nhiều nơi viết và phòng viết trong nhà. Ở buồng ngủ, ngay đầu giường
cũng kê một bàn viết nhỏ. Trên bàn, đủ nến, mực. Đêm hôm thức giấc trở dậy, muốn
viết có thể viết được ngay. Những năm về già, Tôn-stôi thường ngồi trầm ngâm
trên một chiếc xe nhỏ ngựa kéo dạo chơi trong làng. Ngay bên cạnh tay xe cũng
có một tấm gỗ. Đó là cái bàn viết con con. Tôn-stôi có thể đặt giấy xuống đấy,
và đương đi chơi cũng viết luôn được. Ta thấy, ở đâu, Tôn-stôi cũng viết, và ở
chỗ nào, Tôn-stôi cũng viết.
Nhưng, anh ạ, chẳng phải những tấm gương chiến đấu trong lao
động nghệ thuật chỉ có ở Tôn-stôi và chẳng phải chỉ có những điều trong dĩ vãng
đem kể lại thì bao giờ cũng tốt đẹp hơn việc bây giờ. Dù cho sự tìm hiểu của
tôi chỉ lặt vặt, chắp nhặt về đời sống người viết văn ở Liên Xô, nhưng trước
tiên tôi đã thấy ngay sự liên hệ giữa đức tính của Tôn-stôi và các nhà văn Xô
Viết ngày nay. Mà rõ nhất là truyền thống cần cù lao động tốt đẹp, lâu đời của
những người viết văn qua các thế kỷ ở đất nước này. Vấn đề quí báu chúng ta cần
chú trọng là chuyện đó.
Ngày nay, ở đâu tôi cũng chỉ gặp các nhà văn Liên Xô đương đi
và đương viết. Rất ít thấy họ trong thành phố. Không hiểu trước kia, câu nói giễu
của Sô-lô-khốp rằng có nhiều bạn của ông đã mắc thứ bệnh kinh niên kỳ lạ cứ
quanh năm suốt tháng chỉ luẩn quẩn trong cái khung tam giác từ gia đình nối đến
câu lạc bộ, đến nhà sáng tác rồi lại quay lại. Tôi không hiểu tình hình làng
văn Xô Viết lúc đó ra sao. Nhưng, dù quả có một số nhà văn Xô Viết xưa kia đã mắc
nặng cái bệnh “tam giác luẩn quẩn” thì bệnh kinh niên ấy đã thuyên giảm từ lâu
rồi. Bây giờ tôi chỉ thấy các nhà văn Liên Xô đi và viết, sôi nổi bàn bạc chuyện
đi và viết. Ở đâu cũng vậy.
Trước nhất, tôi kể anh nghe một điều khá đặc biệt. Đặc biệt với
ta, nhưng với bạn thì lại là một vấn đề phổ biến, không có gì lạ (Rất dễ hiểu:
tình hình và lực lượng văn học ở Liên Xô khác ta). Có lẽ vì cả lực lượng lẫn
phong trào văn học Việt Nam đều còn non. Hơn nữa, dù thời kháng chiến đã qua
nhưng nước ta lại bị chia cắt, cho nên đời sống văn học của chúng ta vẫn phải
tiếp tục những công việc và thói quen thời kháng chiến. Ví như, ta khó lòng
phân biệt được trong lực lượng văn học, đâu là chuyên nghiệp, đâu là lực lượng
trẻ. Bởi vì, cả hai đều là một bộ phận và được nuôi nấng săn sóc như nhau. Ở
Liên Xô, lực lượng văn học trẻ, những cây bút có triển vọng, họ đều rải rác
trong mọi hoạt động xã hội - rất ít (hầu như không) sinh sống bằng sáng tác và
công tác văn học. Thường thường, một người hoạt động trong một ngành xã hội nào
đó, họ là kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, nhà giáo, công nhân nông trường, phóng viên
báo, cán bộ Đảng... Nghĩa là tất cả mọi nghề, nếu thật họ có khả năng viết hoặc
đã viết giỏi, thì cứ vào quãng tuổi đời đã đứng - ba bốn mươi tuổi họ mới chịu
ra khỏi nghề cũ để làm một người viết văn nhà nghề. Thảng hoặc, có người suốt đời
không bỏ nghề cũ, mà trái lại, coi đó là một cuộc đi thực tế sâu sắc trong đời
viết văn của mình. Hội Nhà văn có trách nhiệm giúp đỡ cho những người đương làm
nghề khác mà có khả năng viết để họ được điều kiện học tập nghiệp vụ, đi thực tế
rộng ra và sáng tác được dễ dàng. Vẫn làm nghề ấy, nhưng tất cả tạo điều kiện
chuẩn bị cho sau này thành nhà văn chuyên nghiệp. Lực lượng trẻ ở Liên Xô là
như vậy. Bởi thế, cái việc gọi là sống trong thực tế của những người viết trẻ của
lực lượng văn học Xô Viết đã đặt ra và được giải quyết từ gốc. Việc bồi dưỡng từng
“chuyến đi” chỉ là công việc tiếp tục mà thôi. Mặt khác, đối với những nhà văn
chuyên nghiệp thì, do cuộc sống, họ đã lặn ngụp trong thực tế xã hội rất phong
phú từ khi chưa là nhà văn nhà nghề. Bây giờ họ vẫn đi, càng đi nhiều hơn,
nhưng cách đi bây giờ có khác. Họ đã chú trọng đi nhiều và đi rộng.
Tôi có dịp gặp và biết một số nhà văn Liên Xô. Luôn luôn, họ
đi và viết. Dường như ở bất cứ ai, cái kho thực tế thu lượm trong cả một phần đời
của mình đã làm cho bây giờ họ đi được thông thạo, nhẹ nhàng, xiết bao nhanh nhẹn.
Những đi và đi. Đi nhiều và cách đi rất linh hoạt. Như Pao-tôp-sky đã có lần
nói: “Mỗi nhà văn có một lối sống và viết. Lối sống của tôi là cần phải đi và
tìm hiểu đất nước. Mỗi sáng tác của tôi đều do kết quả của một lần đi”.
Tới Ô-đét-xa, miền Nam Liên Xô tôi vừa gặp dịp vui, đón nhà
văn Gông-sa và các bạn nhà văn U-cờ-ren đi du lịch vòng quanh Địa Trung Hải về.
Lại nghe các bạn ấy kể chuyện rất thú vị về một số nhà văn U-cờ-ren khác vừa
theo đoàn tàu đánh cá voi xuống Nam cực. Nhà văn phụ nữ viết kịch Li-đi-a
Sê-lu-ti-na của Hắc hải vừa làm một cuộc đi tuyệt đẹp dọc sông Đi-ni-ep. Chị ấy
mới viết xong một vở kịch về đời sống người đánh cá trên con sông Đi-ni-ep thơ
mộng nhất đất U-cờ-ren. Vở kịch sẽ được diễn trong mùa đông này. Cũng ở
Ô-đét-xa, cứ ba tháng một lần, báo hàng ngày Những người cộng sản Hắc Hải của
Đảng bộ Đảng Cộng sản thành phố Ô-đét-xa lại mời các nhà văn đến họp. Tòa báo
trình bày những yêu cầu của Đảng trong ba tháng tới và khuyến khích các nhà văn
đi viết bài cho báo. Ở đâu cũng cổ động và quyến rũ, thúc đẩy nhà văn hăng hái
đi.
Ở Mát-xcơ-va. chẳng có mấy bạn tôi muốn gặp mà có thể dễ dàng
gặp ngay được. Các bạn ấy đều đi xa hoặc đương ở viết ngoài thành phố. Đã mấy
năm nay Si-mô-nôp lăn lộn trên những công trường Cộng sản Chủ nghĩa ở nước Cộng
hòa U-dơ-bê-ki-xtan. Sô-lô-khốp vừa cùng đi với chủ tịch Khơ-rút-sốp ở Mỹ về lại
lên ngay một vùng đầu sông Đông, tiếp tục những tìm hiểu đã làm. Nữ văn sĩ
Ni-cô-lai-va đương sáng tác ở nhà riêng ngoài thành phố. Nhà thơ lão thành
An-tôn-côt-sky đã từng sang Việt Nam, đương ở ngoài thành Mát-xcơ-va viết nốt
chương ký sự cuối cùng về cuộc du lịch Việt Nam. Biết tin chúng tôi tới. Rất
vui sướng có dịp gặp lại các bạn Việt Nam, nhưng nhà thơ cũng phải hẹn trước một
tuần lễ rồi mới trở về gặp nhau một buổi ở cao lâu của câu lạc bộ Hội Nhà văn.
Tôi vô cùng kính trọng tất cả những người say sưa đi và sáng tác ấy.
Một lần, tôi đến thăm nhà văn nổi tiếng Mắc-sắc, một nhà văn
lão thành chuyên viết cho thiếu nhi. Mắc-sắc năm nay đã 72 tuổi, hiền hậu, tiên
ông như một ông già Nô-en. Nhất là, hôm ấy chúng tôi ngồi trò chuyện trong
phòng làm việc trang nhã, thơm ấm của nhà văn. Ngoài cửa kính kia, trời
Mát-xcơ-va cứ mơ hồ, bàng bạc như có ai đã cất công đều đặn rắc tuyết xuống.
Tuyết ngấn lần lần cao trên chân kính, đẹp, lặng lẽ như cổ tích. Nhưng không phải
là cụ già 72 tuổi đáng kính ấy bây giờ ngày ngày chỉ ngồi làm việc hoặc nghỉ
ngơi trong căn phòng ấm áp của mình ở tầng hai một tòa nhà phố Ka-lôp hay tại
nhà sáng tác riêng ngoài Mát-xcơ-va. Nhà văn Mắc-sắc vừa từ Luân Đôn về. Mỗi
năm lại thường sang thăm nước Anh. Thuở trẻ. Mắc-sắc đã ở lâu tại nước Anh. Hoặc
nếu không sang nước Anh thì mỗi năm Mắc-sắc cũng ra nước ngoài một lần. Năm
nay, Mắc-sắc vừa đi Anh và đi Thụy Điển. Câu chuyện đầm ấm của chúng tôi còn đượm
khói thơm ngọt của những điếu thuốc lá Ăng-lê. Nhà văn Mắc-sắc lụ khụ đứng dậy,
râu tóc óng ánh bạc như ngấn tuyết trên cửa kính. Rất thiết tha, khi từ biệt,
nhà văn Mắc-sắc ôm hôn chúng tôi, thương yêu như cha hôn con, rồi nói: “Lúc nào
tôi cũng cần đi và cần hiểu thực tế mới. Nếu không thể thì cầm bút làm sao nổi.
Đừng ngại tôi già yếu. Nếu Hội Nhà văn Việt Nam muốn tôi tới Việt Nam, tôi sẽ tới
ngay đất nước xa xôi rất đáng mến yêu của các bạn.”
Tôi không đủ mấu cứ để nói: Đức tính nhẫn nại làm việc của
các nhà văn Xô Viết hiện nay cũng do nguồn những đức tính của Lê-ông Tôn-stôi,
mà cuộc thăm Dát-nai-a Pô-li-a-na đã khiến tôi tưởng tượng ra như thế. Tuy
nhiên, một điều có thể khẳng định được rằng: lao động nghệ thuật, kể cả đi cũng
như viết của các nhà văn Xô Viết đương là mẫu mực cho chúng ta về
phương châm viết và sống của người viết văn chân chính.
Tôi muốn viết về cho anh trước nhất điều ấy. Tôi chẳng muốn
so sánh: một đời Lê-ông Tôn-stôi đã viết xong 150 tác phẩm - quyển nào cũng rất
giá trị, không so sánh, nhưng hôm nay, đứng bên những cây phong trước nhà của
văn hào Lê-ông Tôn-stôi, trong gió, tuyết và lá vàng, bên cạnh biết bao công
trình sáng tác của Tôn-stôi tôi cứ phải thẹn thùng chạnh thấy như sức lực sáng
tạo của mình còn còm cõi lắm. Dường như nó chưa biết nỗ lực mà đã suy nhược. Ta
làm việc còn quá ít, có phải không anh?
II.
Lê-nin-grát, tháng mười một
Anh hỏi tôi có xem những phim nước ngoài chiếu ở Liên Xô? Có,
tôi đã xem một số phim của Ý, Pháp, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ...
Phải, anh nói rất đúng. Điện ảnh nước nào có thể phơi bày
ngay được mặt mũi nước ấy. Môn nghệ thuật này mang cái đặc tính rất nhậy thế đấy.
Điện ảnh quả là một môn nghệ thuật có tài vẽ lên khá nhanh được diện mạo tự
nhiên của một nước, một dân tộc, một chế độ. Tôi, cho rằng trong khi anh phải đọc
hàng loạt sách mới biết sơ sơ được về một mặt nào đó của nước Ý, thì anh chỉ cần
xem vài ba phim - hay hoặc dở cũng được, anh đã nhanh chóng phác ra được hình
thù nước Ý (Tôi không so sánh việc đọc sách và việc xem phim và cũng không dám
quả quyết những hình thù nhân vật trên phim ấy đậm hay nhạt. Tôi chỉ muốn nói:
xem phim chóng thấy).
Xem phim mỗi nước, tôi càng hiểu thêm câu nói chí lý của anh.
Xem một số phim ấy, tôi có cảm tưởng như tôi đứng trên boong tàu Liên Xô ngắm
sang thấy lô nhô các nước tư sản bên phía châu Mỹ, bên Tây Âu, Bắc Âu kia. Đứng
tựa lan can con tàu xã hội chủ nghĩa nhìn ra sương mù trên thế giới tư bản. Tuyệt
quá!
Tôi có xem hai bộ phim Mỹ. Phim Chiến tranh và hòa bình (Theo
tiểu thuyết Lê-ông Tôn-stôi). Và một phim về đề tài mới. Tôi sẽ kể với anh về
cái phim đề tài mới, có lẽ thú hơn. Thưa, nó rất Mỹ - theo nghĩa vừa đứng đắn,
vừa hài hước. Phim Người ế vợ của Mỹ làm năm 1959, thuộc loại phim xuất
sắc mà Mỹ đã để làm phim đầu tiên trao đổi văn hóa với Liên Xô. Bộ Văn hóa Mỹ
đã đánh đổi cho phim Người ế vợ chiếu ở Liên Xô lấy phim Đàn sếu
bay của Liên Xô về chiếu ở Mỹ. Chúng mình đã cùng nhau nhiều lần đi
xem Đàn sếu bay , và mỗi lần xem lại đều xúc động như lần xem đầu.
Cho nên, khi xem phim Người ế vợ , nghĩ tới Đàn sếu bay tôi
muốn kêu lên: không một mỉa mai nào so sánh bằng! Tôi nghĩ mãi chưa hiểu vì sao
mà người Mỹ làm một cái phim tồi đến như thế lại dám đem trao đổi lần đầu tiên
với nước ngoài. Sở dĩ tôi có những băn khoăn ngây ngô như thế chỉ là vì tôi còn
nghĩ phim Mỹ có thể hay hơn. Nhưng về sau, tôi hiểu rằng vậy là tôi đã không hiểu
mà đánh giá cao nền điện ảnh Mỹ, chứ thật ra ngày nay, trước thế giới, thì phim
Mỹ nào cũng chỉ một lứa nhàng nhàng thế thôi. Có vậy thật: Đế quốc Mỹ nổi tiếng
hoàn cầu trước nhất là vì những thói càn rỡ của một tên công tử nhà giàu, không
phải vì ánh sáng của nền văn hóa phát triển.
Người ế vợ là chuyện một người đàn ông vừa nghèo vừa vụng
về, đã luống tuổi, không có bạn gái, không lấy được vợ. Một hôm, người ấy gặp
trong tiệm nhảy một cô cùng lứa tuổi, cũng vô duyên, vụng về và ít tiền. Cô đến
ngồi hóng bạn ở tiệm nhảy. Nhưng không ai mời cô nhảy. Mối tình người già tình
trẻ ấy cứ nhõng nhẽo kéo dài. Chẳng biết sau họ có lấy nhau không hay là lại cứ
vô duyên, cứ vụng về mãi.
Câu chuyện chỉ có thế. Câu chuyện vẩn vơ không nói gì, cũng
không thể nhặt ra được một mẩu suy nghĩ, tư tưởng. Nói thế, nhưng tôi đã không
nệ vào hình thức và nội dung phim để miệt thị nó. Hãy thử tách riêng cái phần
mà họ thường tự hào, là mặt kỹ thuật của phim. Cả đến cái phần ấy cũng đành vứt
đi. Những người làm phim Người ế vợ muốn làm cho phim lạ, thật lạ. Nếu
như xưa rày loài người vẫn đi bằng hai chân thì những người làm phim Người
ế vợ muốn cho loài người đi bằng hai tay. Ấy vậy là thật lạ, thật khác.
Tôi muốn cắt nghĩa cái quan niệm nghệ thuật kiểu Mỹ kia đã được thể hiện trong
hai nhân vật chính. Họ đã dùng hai người mặt mũi quá xấu xí cho đóng hai nhân vật
chính, với một lối biểu hiện hoàn toàn hình thức. Tôi không hề mảy may có ý chế
giễu hai tài tử xấu xí nọ. Trò chơi lạ của người Mỹ muốn dùng người xấu để cho
khác với người vừa phải, người có cá tính, người đẹp. Không may, lại xấu thật.
Xem cứ phát ngán. Chẳng phải chỉ riêng tôi, nhiều người xem hôm ấy cũng xì xào,
tắc lưỡi, nhún vai ngán quá.
Nhưng không phải điện ảnh của “thế giới tự do” bây giờ chỉ rặt
những giống rẻ tiền kiểu Người ế vợ . Bởi vì chúng ta đã biết rằng nền
điện ảnh huênh hoang Mỹ xưa nay chỉ chuyên có đeo đèn đỏ đi sau rốt mà thôi.
Tôi đã xem một số phim giá trị của một số hãng phim độc lập
Ý, Pháp, Anh, Hy Lạp. Mà cũng không phải chỉ riêng tôi thích, những phim này đã
để lại nhiều rung cảm sâu sắc cho người xem ở Liên Xô.
Tôi kể anh nghe hai phim Anh và phim Pháp.
Tuần lễ phim Anh ở Lê-nin-grát có chiếu một phim tên là Con
vật kỳ lạ. Trong phòng chiếu rạp Ban-ti-ca hôm ấy, khi hết phim, đèn bật
lên, tôi trông thấy nhiều chị đứng dậy, nước mắt ràn rụa.
Đây là chuyện Con vật kỳ lạ :
“Tại một phố nhỏ kia ở Luân Đôn. Từ sau Chiến tranh Thế giới
lần thứ hai, càng những năm gần đây thì quang cảnh cái phố nhỏ này càng thay đổi
nhanh chóng. Các nhà buôn to ở các phố ngoài dần dần lấn vào đây mở hiệu át cả
những cửa hàng bé nhỏ, ít vốn. Những hiệu thợ giặt, những hiệu thợ khâu, hàng đời
nay họ vẫn làm ăn tưởng như cuộc sống đến đây thì đọng lại, không bao giờ khác
nữa. Nhưng bây giờ thì khác rồi. Bao nhiêu khách hàng đều hút cả vào những cửa
hiệu đồ sộ, sang trọng. Đám hiệu nhỏ đâm ra vỡ nợ, đóng cửa, cứ tàn rụi đi.
Một ông già chủ hiệu thợ may có hai người con trai. Năm trước,
cửa hàng ế khách, người con trai lớn phải bỏ nhà tìm đường sang làm ăn bên châu
Phi. Anh ta để lại nhờ bố nuôi hộ một đứa con bảy tuổi. Thằng bé rất ngoan và
thông minh. Lúc nào bé cũng nhớ bố. Ông thì hay buồn và giàu óc tưởng tượng, cứ
vừa làm quần áo của khách hàng vừa ngước kính lên kể cho cháu nghe rằng châu
Phi xa lắm, cách Luân Đôn nhiều ngày đường đến nỗi đếm không nhớ được, không
bao giờ người thường có thể đi tới. Phải khi nào may mắn gặp được một con vật kỳ
lạ đưa đi thì người ta mới có thể tới châu Phi được. Ai ngờ cháu cứ gặng hỏi
ông xem mặt mũi con vật kỳ lạ ấy thế nào. Chẳng qua là ông nói chơi như vậy.
Nhưng thằng bé nhớ bố, cứ gặng mãi “Con vật kỳ lạ thế nào? Con vật kỳ lạ sẽ đưa
cháu đi châu Phi với bố, ông ạ”. Ông lại phải tiếp tục tưởng tượng: “Con vật kỳ
lạ này rất kỳ lạ. Nó chỉ có một mỏm sừng trên đầu”.
Một hôm, bé đi ngoài phố, gặp một người đương kéo một nhách
dê con ra chợ bán. Bé đứng lại xem. Úi chao, làm sao con vật nọ có cái sừng nhu
nhú trên đầu như thế kia. “Con vật kỳ lạ” của ta đây rồi. Bé về xin ông tiền,
đuổi theo mua cho được “con vật kỳ lạ” ấy. Từ đấy, ngày ngày bé ngắm nghía, bé
mong cho “con vật kỳ lạ” chóng lớn, để đến ngày tốt đẹp - rồi ông sẽ bảo ngày
đó con vật kỳ lạ sẽ đưa bé sang châu Phi với cha của bé.
Cụ thợ may già ấy còn một người con trai thứ hai ở nhà làm.
Nhưng, công việc càng ngày càng chán. Ngoài đường, người đi kẻ lại vẫn đông
vui. Nhưng khách mua chỉ vào những hàng rực rỡ sáng đèn. Cửa hàng của hai bố
con thì mỗi hôm một vắng. Người con trai thứ hai này chưa có vợ. Anh có một người
yêu. Hai người yêu nhau đã lâu. Nhưng chưa thể lấy nhau, bởi chưa biết tìm đâu
ra tiền cưới. Mỗi khi đi chơi, họ hay dẫn nhau vào hiệu bán đồ gỗ. Xem cái tủ,
cái giường, ước sẽ sắm cái bàn này, ước sẽ nằm với nhau ở cái giường nhún nhẩy
như thế này. Nhưng, lần nào cũng vẫn chỉ là ước thế thôi... Anh là thợ may, và
cũng là một tay giỏi quyền Anh. Anh rất hi vọng nếu anh đấu được một trận có thưởng
thì anh sẽ có tiền cưới. Trận nào anh đấu cũng có người yêu đi xem. Cô ta cứ ngồi
run rẩy khấn cho anh thắng. Rủi, anh đều thua, có khi còn bị thương rất đau. Khỏi
đau, lại tập luyện, lại đi đấu. Món tiền thưởng thúc giục anh đi đấu. Nhưng vẫn
chưa lần nào thắng. Tuy nhiên, chưa bao giờ anh nản chí. Dù sao thì cũng chỉ có
độc cách ấy có thể kiếm được tiền cưới. Lần kia, anh dự một trận quyền Anh long
trọng. Trận này có giải thưởng to. Tất nhiên, lại có người yêu đi xem. Cả bé
cũng đi xem. Và cả ông bố cũng thỉnh thoảng đến nhòm vào. Ai nấy hết sức hồi hộp.
Trận đấu thật căng. Anh bị đối thủ đánh ngã quật xuống nhiều lần, hộc cả máu
mũi máu mồm. Nhưng lần nào anh cũng cố gượng dậy, trước khi người trọng tài
tuyên bố anh thua. Lần ngã cuối cùng, trọng tài đếm gần hết số anh vẫn chưa
ngóc được đầu lên. Nhưng, trong khi đối thủ của anh yên chí anh chỉ còn thoi
thóp trên sàn thì anh bỗng vùng lên, đánh một đấm. Gã kia ngã sóng soài, không
dậy được nữa. Anh thắng trận và lảo đảo ngất đi, giữa lúc người yêu và cháu anh
xô tới. Lát sau, anh mở mắt, sung sướng, đôi môi còn đầy máu mỉm cười trong
cánh tay người yêu. Phen này tất họ lấy được nhau.
Trong lúc ở sân quyền đương rối rít như thế, thì “con vật kỳ
lạ” của bé ở nhà đã ốm khặc khừ từ mấy hôm, bây giờ nó chết. Bé còn mải xem
đánh bốc. Ông cụ thấy con dê chết. Ông không muốn để bé biết, bé buồn. Ông đem
chôn con dê. Ôm xác con vật trong tay, ông lão vừa đi vừa lẩm bẩm nói, tưởng
như đây là con vật có phép kỳ lạ thật, chứ không phải là một con dê con đã chết:
“Con vật kỳ lạ! Con vật kỳ lạ! Mày cũng không ở được đất này ư?”.
“Ngoài kia, kinh thành Luân Đôn long lanh trong ánh đèn phù
hoa giả dối. Ông cụ chầm chậm bước đi đón con trai. Anh ta vẫn còn đau quá, bước
khập khiễng, người yêu đương dìu về. Thằng cháu chạy lon ton đằng sau, hoan hô
chú em thắng trận. Nhưng nụ cười nhợt nhạt trên môi người con trai vụt tắt, khi
anh trông thấy ông bố ra đón. Bởi vì anh nhớ: cửa hàng nhà anh đương cần có một
cái máy là. Nếu không sắm được máy là thì cửa hàng mất hết khách. Như thế, tất
nhiên, bố con ông cháu anh sẽ còn đói khổ nữa. Làm thế nào bây giờ? Thế là người
yêu anh cứ vừa khóc vừa cười mà bàn rằng: “Thôi thì cái tiền được thưởng lần
này để sắm cái máy là mới”. Còn tiền cưới thì đợi một trận đánh bốc khác. Phải,
đợi một trận đánh bốc khác. Trong xã hội nước Anh ngày nay tất còn có nhiều trận
đánh bốc. Vậy lại đợi một trận đánh bốc ác liệt và long trọng, có thể được giải
thưởng, có thể có tiền cưới. Hai người yêu nhau có một tấm lòng và những hi vọng
hồn nhiên như của em bé. Cũng như bé về đến nhà, bé đi tìm “con vật kỳ lạ” để kể
chuyện vừa xem đánh bốc cho “con vật kỳ lạ” nghe. Nhưng ông cụ bảo cháu rằng
lúc cả nhà đi xem đánh bốc thì “con vật kỳ lạ” đã trốn lên trời rồi. Ông cháu
ta sẽ tìm một con vật kỳ lạ khác. Từ đấy, hàng ngày bé ta lại mơ ước tìm đâu được
một con vật kỳ lạ. “Con vật kỳ lạ” này sẽ biết đường đưa bé sang châu Phi với bố
bé...”
Tôi đã xem một phim của hai hãng phim cộng tác Pháp và Ý.
Đây là phim Đã có năm người bạn :
“Khi Cuộc chiến tranh Thế giới lần thứ hai vừa tạnh tiếng
súng trên châu Âu thì năm người bạn ấy đương đóng quân ở nước Áo. Họ đều là
lính Pháp trong một trung đoàn Pháp đương tiến ra mặt trận. Tin kết thúc chiến
tranh tới, sướng quá, họ ôm nhau nhảy và cười đến rơi nước mắt rồi cùng nhau uống
nốt chai rượu cuối cùng họ vẫn để dành được, để chúc mừng cho nhau. Họ là những
tuổi trẻ tốt đẹp của thời đại. Một lứa thanh xuân ấy, nếu không vướng vào cuộc
chém giết khủng khiếp này, chắc rằng còn tỏa cánh thênh thang phương trời. Ấy
là niềm hi vọng và ước mơ của họ. Bây giờ. Chẳng phải họ mừng chiến thắng cho
ai cả, mà họ mừng cho chính họ. Hết chiến tranh, họ sắp được giải ngũ. Họ chạm
cốc rượu, tha thiết hẹn “Vẫn là năm người bạn thân suốt đời của nhau”. Tối sau
đó, họ đã được trả về cuộc đời bình thường như hồi trước chiến tranh. Mỗi người
một hi vọng. Cả năm người đều nghĩ rằng họ sẽ làm được công việc gì lớn lao. Có
lẽ thế.
Trước chiến tranh, một người là công chức bưu điện. Một người
là võ sĩ quyền Anh. Một người là một nhà thơ trẻ. Hai người còn lại là sinh
viên.
Họ chia tay nhau, vui sướng như chim sổ lồng.
Họ sẽ như thế nào? Bởi vì, cuộc đời tiếp tục sau chiến tranh,
ở nhiều nước châu Âu bây giờ không còn bình thường nữa. Chiến tranh tàn phá và
thay đổi hết.
Họ đã phải thất điên bát đảo trong cuộc đảo lộn tàn nhẫn ấy.
Hoàn cảnh từng người như sau:
Chàng võ sĩ quyền Anh trở lại võ đài. Nhưng mấy năm lao lực
trận mạc đã làm cho một cánh tay anh không còn sức như trước nữa. Bây giờ anh đấu
chỉ toàn bị thua. Không ông bầu nào dám bỏ tiền ra dùng anh nữa, anh bị loại.
Nhà thơ trẻ về tìm chị ở một tỉnh nhỏ kia. Anh gặp lại chị
anh đương kéo cuộc đời thảm hại của một gái giang hồ. Nhà thơ buồn quá, bỏ đi.
Nhưng biết đi đâu? Rồi chị tìm cho em được một chỗ ngâm thơ kiếm ăn ở tiệm rượu.
Tiệm rượu nào ở nước Pháp bây giờ cũng chật ních những lính Mỹ. Họ chỉ say và
nhảy, không thiết nghe ngâm thơ. Cả buổi cũng chẳng được ai cho đồng nào. Có đứa
còn sinh sự, đuổi đánh anh. Chán nản và đói khổ, tuyệt vọng. Nhưng vẫn phải có
ăn để sống và anh lại phải lủi thủi về nhờ vả người chị làm nghề mại dâm. Rồi lại
nhờ có chị quen biết, dắt mối, nhà thơ trẻ tuổi đã trở thành một tay chạy hàng
lậu với lính Mỹ, rất cảm tử. Một chuyến đi lấy hàng, bị lính đoan đuổi. Anh
phóng chạy. Ô tô đâm xuống vực. Anh chết ngay trong xe.
Một anh sinh viên về tìm việc làm không có, đi lang thang.
Anh đến nương nhờ người bạn công chức bưu điện. Một lần, anh bạn công chức đi vắng.
Ở nhà, anh ta ngủ với vợ bạn. Bạn thình lình về, tặng anh ta một cái tát, rồi
đuổi đi. Từ đấy, anh đi đâu, không ai biết.
Một anh sinh viên khác cũng không tìm đâu ra việc làm. Cuối
cùng, anh đăng vào đội lính lê dương, rồi bị điều sang đánh nhau bên Đông
Dương. Khi anh nhà thơ còn đương làm ở tiệm nhảy thì có người cho biết tin bạn
sang Đông Dương đã chết ở chiến trường ấy rồi. Nhà thơ trẻ buồn quá, hát rằng:
Chúng ta hết cả mùa xuân
Nào có gì thay đổi
Câu hát buồn ấy cứ láy đi láy lại.»
Thế là tan đời cả năm thanh niên người Pháp hăng hái, xưa kia
đã rất yêu đời.
Tôi còn xem nhiều phim. Như Ngoại ô Pa-ri, phim Ý
và Pháp cộng tác; Người phù thủy, phim Ý; Trưởng giả học làm
sang, phim Pháp, theo kịch Mô-li-e; Cái máy hút bụi, phim
Pháp; Người trên xe hỏa xuống , phim Hy Lạp. Và phim Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, nhiều phim nữa.
Nhưng, cũng chỉ những phim cùng loại với các đề tài trên là
hay, người Liên Xô rất ham xem. Có gì đâu, cái hay ở đây chính là những bộ phim
ấy đã vẽ ra được đúng diện mạo của những chế độ ở các nước ấy bây giờ.
Có những buổi tối đi xem phim Con vật kỳ lạ, Cái máy hút
bụi hoặc Đã có năm người bạn. Trở về, tôi đi miên man trên đường
phố. Cái phim hay bây giờ mới ngấm. Sông Nê-va to và những cánh tay sông Nê-va
nhỏ.
Lê-nin-grát ướp trong một làn ánh sáng và tuyết mỏng, vừa dịu
dàng vừa kiêu hãnh, ngắm mình trên sóng nước và tháp vàng.
Những xã hội tư bản như xã hội Pháp thật đau khổ. Cái thực chất
của “thế giới tự do” là như thế đấy. Đây mới chỉ là một phần nhỏ hình ảnh những
thối nát, tan rã, tơi bời…
Tôi tưởng như tôi đương đứng trên lan can Lê-nin-grát, con
tàu xã hội chủ nghĩa hạnh phúc của loài người, nhìn qua cửa sổ, trông xuống mặt
sóng thấy chìm nổi đảo điên những xã hội nước Pháp, nước Anh, nước Ý... Thấy những
thương tâm ấy, càng thấm thía cái vĩ đại và trong sáng của chế độ chúng ta.
III.
Mát-xcơ-va, 8 tháng mười một
Anh đã nói với em rằng từng lời anh viết trong tập bút ký này
là nói về Cách mạng tháng Mười, là những thành tích vang động thế giới của Cách
mạng tháng Mười do Đảng Cộng sản Liên Xô có Lê-nin vĩ đại lãnh đạo. Nhưng, thế
nào thì anh cũng phải kể em nghe riêng những chuyện của ngày kỉ niệm Cách mạng
tháng Mười ở Liên Xô. Anh đã không trốn sự vòi vĩnh của em. Thư này anh sẽ tỉ mỉ
viết về ngày thiêng liêng và vui sướng ấy ở Mát-xcơ-va.
Mới hôm qua, anh được dự.
Tuy nhiên không phải anh chỉ thấy cuộc kỉ niệm lớn đó ở thủ
đô Mát-xcơ-va. Anh đã gặp trước ở nhiều nơi khác.
Ở Lê-nin-grát, một hôm, đứng xem tranh trên gác nhà bảo
tàng Ở ẩn , anh tình cờ nhìn xuống quảng trường trước Cung điện Mùa
Đông, thấy từng đoàn bộ đội đương tập. Trên cao nhìn xuống, bộ đội đi ngang dọc
như bàn cờ mà rất đều rất xinh, sắp tới ngày kỉ niệm lớn, bộ đội Lê-nin-grát
đương tập đi diễu binh qua quảng trường.
Khi xuống Ô-đét-xa, thăm nhà máy đúc cày “Tháng Mười” anh đã
thấy giữa máy và người và công việc tới tấp, chỗ nào cũng nhô lên những khẩu hiệu
kêu gọi nỗ lực thi đua hoàn thành kế hoạch trước ngày kỉ niệm.
Rồi khi anh đến nước Cộng hòa Ca-dắc-xtan thăm nông trang tập
thể “Lực sĩ núi”, thấy nông dân và thanh niên đương nô nức dựng cho xong cái
câu lạc bộ mới có rạp hát và sân khiêu vũ mới để kịp dùng trong dịp kỉ niệm lớn.
Nghĩa là, từ Bắc xuống Nam và vào sâu cả các vùng trong lục địa
Trung Á, đâu đâu cũng tưng bừng kỉ niệm Cách mạng tháng Mười. Càng những ngày gần
tới càng dồn dập.
Anh đã thấy trên các đường phố ở thủ đô An-ma A-ta mọc thêm
nhiều cửa hàng mới. Và các hàng lưu động thì cứ chạy như thoi dệt vải từ phố
này sang phố khác. Ở đây mỗi khi có dịp lễ lớn, cửa hàng cứ nhan nhản thêm ra
như thế. Ai cũng biết trong những ngày ấy thì chẳng một cửa hàng, chẳng một cửa
hiệu nào có thể chứa nổi cơ man là khách hàng cứ túa đến như ong vỡ tổ. Cho
nên, các nơi bán hàng cấp tốc được mở thêm. Như những quang cảnh chợ Tết linh
đình nhất của ta. Thôi thì trong cửa hàng, ngoài đường, trên công viên, chỗ nào
cũng có hàng bán. Khách tha hồ mua đâu cũng được. Hàng mua ở đâu cũng tốt, cũng
rẻ như nhau. Thịt vịt, gan lợn, thịt cừu bán sống, bán chín... các thứ rượu, rồi
thì các thứ rau tươi và hoa quả, các thứ quần áo, nước hoa, đồ trang sức, các vật
kỉ niệm và hàng nghìn mặt hàng nữa, anh không thể biết, không thể nhớ tên được.
Buổi tối đến, đèn điện chăng thêm từng dãy dài ra các vỉa hè làm cho những cái
“chợ Tết” càng muôn vàn nhộn nhịp. Hàng gì bán cũng chạy, cũng hết veo. Các xe,
các tủ hàng vơi lại đầy, suốt ngày suốt đêm. Anh tò mò và thú vị nhất lúc đứng
đầu đường xem những hàng bán giấy hoa cắt để lau bát đĩa và lót cốc uống rượu
trên bàn. Người mua đông quá, cứ chốc chốc lại có một xe chở hàng qua ném xuống
từng kiện giấy hoa cắt. Rồi chỉ một loáng lại hết bay hết biến. Phải rồi, có
vui chơi ăn uống nhiều thì mới cần đến các thứ trang trí lau đĩa, lót cốc này.
Chỉ trông người ta xô nhau vào mua giấy hoa cũng đoán được những bữa ăn, bữa tiệc
thịnh soạn đến thế nào, trong dịp vui lớn sắp tới.
Không phải chỉ người lớn được vui hội, mà các em còn có những
thú đặc biệt hơn nữa. Trước nhất, chỗ nào cũng đầy rẫy đồ chơi. Vào một hiệu đồ
chơi như vào một vườn bách thú. Chim kêu, vượn hót, kèn thổi ỏm tỏi. Một đám
các em đứng xem những con quay kêu, cười ríu rít. Tiếng khóc tu tu của một em
bé vừa bước vào cửa hàng, trông thấy cái gì cũng nằng nặc bắt mẹ mua. Nhưng chẳng
cần vào cửa hiệu, các em có thể muốn mua đồ chơi đâu cũng được. Dọc đường cái
đã được kê thêm những chiếc hòm đứng bán sách vở và đồ chơi. Đây là cửa hàng
không người bán hàng. Nó giống một cái tủ to tướng. Cái tủ ấy thật là một cái
máy bán hàng vô tư và nghiêm khắc. Trước tủ, vẽ những thứ hàng có chứa ở trong
với giá tiền mỗi thứ. Em hãy đứng xem, em chọn mua thứ nào. Em muốn mua một hộp
bút chì màu ư? Giá hộp bút chì màu là mười lăm xu. Em hãy lấy mười lăm xu bỏ
vào miệng cái khe tủ. Nếu thứ hàng ấy hết thì tiền em bật ra. Nếu không, em sẽ
nghe tiếng những đồng xu róc rách rơi xuống trong bụng tủ. Tiếng những đồng tiền
kêu vừa ngưng, thì ô hay! Cái nắp nhỏ dưới tủ bỗng mở, một hộp hút chì màu xinh
xắn, bọc giấy bóng đẹp cẩn thận, nhảy ra, nằm gọn trên cái khay. Của em đấy, em
cứ việc cầm lấy. Em lại muốn mua thêm quyển vở năm mươi trang ư? Giá vở năm
mươi trang là hai xu. Có hai đồng xu bỏ vào khe trên, tiếng róc rách như tiếng
người bán hàng nói với người giữ kho ở trong bụng tủ. Rồi lại thấy một quyển
sách năm mươi trang chui ra. Trong thành phố, phố nào cũng có những cái tủ
thông minh biết đứng bán hàng cho các em như vậy. Chưa hết lại có những cái tủ
phun nước hoa tự động nữa. Muốn làm cho đầu tóc mình thơm sạch một chút. Em đến
đứng trước một cái tủ xinh xinh kia. Bỏ một xu vào cái khe trên mặt tủ. Rồi đứng
ngay trước tủ. Thế là cái loa trên mặt tủ phun nước hoa ra như một làn mưa phùn
thơm phức vào đầu em. Nhưng em phải đứng cho khéo đấy. Nếu không thì loa sẽ
phun trệch vào miệng, vào cổ. Như thế, lại phải mất một xu nữa thì cái tủ khôn
ngoan mới lại chịu phun cho em lượt nước hoa khác. Trên đường phố, các em thích
đứng xúm xít chơi quanh cái tủ tự động phun nước hoa rất vui ấy.
Đó là vài quang cảnh sửa soạn kỉ niệm Cách mạng tháng Mười ở
Ca-dắc-xtan, một nước cộng hòa rất xa. Anh chỉ tình cờ thấy. Mà đã vui thế đấy.
Cũng như ở khắp mọi nơi, đều một quang cảnh vui tươi ấy. Những ngày này anh
không có ở Mát-xcơ-va. Nhưng, chúng ta thử tưởng tượng: nơi xa xôi giữa sa mạc
còn nhộn nhạo linh đình thế, ắt Mát-xcơ-va phải gấp trăm nghìn lần vui thú thế
nào.
Nhưng may mắn anh đã trở lại Mát-xcơ-va đúng một đêm trước ngày
lễ lớn.
Anh đã thấy Mát-xcơ-va hiện ra đột ngột và huy hoàng như
trong giấc mơ. Trên trời đêm, gió cuốn mù mịt. Nhưng khi máy bay hạ xuống dưới
hai nghìn thước thì thinh không bỗng quang tạnh lạ thường. Đã trông thấy dưới
kia Mát-xcơ-va chi chít ánh sáng, càng xa càng dầy đặc. Những đốm sáng li ti hạt
vừng trên đường, trên sông Mát-xcơ-va cứ chuyển động cuồn cuộn như những dòng lửa.
Đêm Mát-xcơ-va rỡ ràng ánh điện, ánh tuyết, ánh cờ đỏ. Trên không trung, những
ô cửa xanh đỏ, vàng tím kỳ lạ như một thành phố dán trang kim, thần tiên lạ
lùng.
Nhưng, kỳ lạ nữa, ấy là buổi sáng kỉ niệm Cách mạng tháng Mười
ở thủ đô. Anh có cảm tưởng như anh là hai em bé trong kịch Chim xanh của
Ma-tec-linh, một đêm Nô-en đứng trong cửa sổ trông ra thấy xanh biếc một màu những
cảnh và người và các loài vật chưa bao giờ các em được thấy. Buổi sáng ấy nhẹ hẳn
đi rất lạ. Có phải vì sáng nay tạnh tuyết mà buổi sáng nhẹ hẫng hẳn đi như thế?
Không anh đã nhớ ra. Chỉ vì sáng nay vắng hẳn những tiếng động của các loài xe.
Anh nói không ngoa rằng suốt ngày, các thứ xe, các thứ ô tô đủ kiểu đủ cỡ,
không một lúc dứt hơi, cứ lao nối nhau chằng chằng, tiếng ré lên như xé vải,
như máy bay rít lúc nghiêng mình. Xe chạy nhiều ghê gớm đến nỗi Mát-xcơ-va phải
có lệnh bắt ô tô không được bóp còi. Bởi, nếu ô tô Mát-xcơ-va chạy bóp còi thì
cả thành phố chỉ còn nghe có tiếng còi réo chứ không thể nghe được tiếng gì
khác nữa. Cứ kể ô tô chạy đông không bóp còi thì trông cũng khá lạ mắt. Nó cứ lẳng
lặng túa ra hàng đàn trên đường cái, lổm ngổm như cua bò.
Sớm nay đặc biệt vắng hẳn những tiếng dữ dội quen thuộc đó.
Mát-xcơ-va trở dậy. Ngoài đường chỉ thấy toàn người ăn mặc đẹp, tay cầm hoa, nô
nức về phía Hồng Trường. Tất cả Mát-xcơ-va dồn về Hồng Trường. Cuộc vui lớn của
ngày kỉ niệm đã bắt đầu từ lúc biểu dương lực lượng khổng lồ của quân đội và
nhân dân. Cuộc biểu tình vĩ đại đã hết sức trang trọng lại cũng rất vui nhộn,
đã bắt đầu ồ ạt qua. Trước Hồng Trường, trên tầng nóc cao nhất tòa lâu đài của
nhà bách hóa “Gum” đặt máy vô tuyến truyền hình, làm cho cùng một lúc, tất cả mọi
nơi trên khắp đất nước mênh mông đều thấy và nghe tiếng từ trái tim Tổ quốc Xô
Viết phát lệnh ra cuộc kỉ niệm và cuộc chơi lớn.
Hùng vĩ! Sôi nổi! Vui tươi! Là quang cảnh Hồng Trường sáng
hôm ấy. Trên lễ đài, hàng vạn khách nước ngoài đến xem lễ. Người của đủ màu da
từ các lục địa trên trái đất hàng năm lại thành kính về đây để được tận mắt
trông thấy mỗi ngày mỗi rạng rỡ hơn những thành tích của ngót nửa thế kỷ Cách mạng
tháng Mười. Nhưng, vui nhất là các anh hùng chiến sĩ, các nhà hoạt động có công
trong mọi ngành mọi giới ở toàn Liên Xô được mời tới lễ đài đã mang theo nhiều
hoa và cả trẻ em. Nhiều người đã mang trẻ em tới lễ đài. Đất nước Xô Viết vô
cùng yêu quý thiếu nhi. Các em đã được tới đây, các em sẽ được thấm thía ngay từ
tấm bé những hình ảnh cảm động và vinh quang nhất của Tổ quốc. Những em bé, cả
khuôn mặt và quần áo phúng phính, xúng xính, hồng như một trái táo pô-pôp. Em
ngồi vắt vẻo trên vai bố, cứ cười và vẫy tay, vẫy hoa hoan hô bộ đội duyệt binh
và nhân dân tuần hành ngoài kia. Lễ đài, từ tầng cao đứng các vị lãnh đạo Đảng
và Chính phủ tỏa sang hai bên đại biểu và khách, như một vành đai hoa rực rỡ, đồ
sộ ôm viền lấy cuộc tuần hành. Và thật là một cuộc náo động cực kỳ vui. Trong
khi, người trong đội ngũ tuần hành dưới đường cứ ồn ào cười nói vẫy hoa chào Đảng
và Chính phủ, các khách, các anh hùng chiến sĩ với cả rất nhiều trẻ em - những
chủ nhân sau này của đất nước, thì kìa trên trời, hàng vạn hàng vạn chim bồ câu
ngày thường vẫn nhởn nhơ trên các mái nhà và sân Hồng Trường quanh đấy, chắc
các hắn đã thấy hôm nay đông vui quá, ồn ào kỳ lạ quá, cũng kéo cả vạn con ra
bay múa liệng trên trời.
Cuộc mít tinh tuần hành đã mở đầu cho cuộc vui trong thành phố
suốt ngày đêm. Hoa rất hiếm, như tìm trời nắng giữa mùa đông, nhưng cả
Mát-xcơ-va đã thành một thành phố hoa. Cho đến cả đêm, đường quanh Hồng Trường
và những quảng trường lớn đều cấm ô tô vào. Chẳng mấy khi mà người hoàn toàn được
làm chủ đường. Người đi bộ kéo đi không biết cơ man nào. Đường vắng xe cộ, trẻ
em ở đâu ra nhiều thế. Trẻ em và người lớn tha hồ tung hoành trên đường. Chỗ
nào cũng từng đám người xúm xít kéo đàn phong cầm, người vừa đi vừa kéo phong cầm,
và những đám khiêu vũ. Thành phố hoa và người Mát-xcơ-va phút chốc hóa thành một
sân khiêu vũ vĩ đại ngoài trời. Ban đêm, pháo hoa sáng trưng nối ánh sáng thành
phố lên vòm trời, tưởng như Mát-xcơ-va bây giờ không còn bóng đêm nữa. Người
người đi trong đêm trắng rực rỡ. Trong nhà, tất cả các cửa sổ trên từng dãy nhà
ở, trên các lâu đài khách sạn, các câu lạc bộ, hàng cà phê và khiêu vũ, bóng
người chen tiếng hát, tiếng nhạc rầm rộ. Những khách Đức, khách Ba Lan, khách
Pháp. Và Mỹ, và Mễ-tây-cơ, và Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a và Việt Nam. Và hàng
trăm nước khác nữa. Khách từ các tỉnh, từ các nước cộng hòa về. Những khách sạn,
những con đường, những sàn khiêu vũ, những hàng ăn... đêm nay thức trắng đêm.
Đêm nay Mát-xcơ-va tạnh tuyết, đứng im, khô đẹp tuyệt trần. Từ trên cửa sổ những
tòa nhà mấy chục tầng, tiếng cười tiếng hát tiếng nhạc vẫn đổ xuống ồn ào như
sóng. Anh đi, tiếng vui chan hòa thành phố, trời trong vắt màu pha lê Bô-hêm.
Khuya lắm, anh vẫn chen chân đi ngoài đường.
Trong quảng trường trước khách sạn Bắc Kinh, tượng nhà thờ
Mai-a sừng sững đứng nhìn dòng người và tiếng hát tiếng đàn cuồn cuộn quanh chân.
Một ông già dắt một em bé bước lại. Chắc là hai ông cháu đi
chơi. Ông cụ cơ chừng hơi say. Thật ra thì trong buổi tối hội lớn này trông ai
cũng say, say vui say sướng, không uống rượu cũng say. Cụ nhìn tôi rồi hỏi:
- Ông là người nước ngoài đến chơi với chúng tôi đêm nay à?
- Tôi từ nước Việt Nam tới đây.
- Cháu ơi đây là Việt Nam...
Cụ cứ lẩm nhẩm “Việt Nam... Việt Nam...” rồi đưa thuốc lá cho
tôi hút. Lại vẫn như đương mải nghĩ gì đó, ông cụ nói, chắp nối:
- Tôi làm nghề chăn ngựa. Tôi chăn ngựa nhưng tôi rất để ý tới
chính trị... Trung ương Đảng của chúng tôi giỏi như thế nào... Đồng chí
Khơ-rút-sốp của chúng tôi... Tôi già rồi, chưa bao giờ thấy vui như bây giờ...
Rồi cụ già sung sướng làm nghề chăn ngựa ấy lại lững thững dắt
cháu đi vào đám đông.
Đêm Mát-xcơ-va vẫn tưng bừng cười nói, đàn hát. Từ trên gác
cao đổ xuống đường cái, chan hòa cuộc vui khổng lồ của một thành phố hơn chín
triệu người. Đêm nay, Mát-xcơ-va và khắp Liên Xô ăn mừng những thành công và
vinh quang của chế độ xã hội chủ nghĩa đương tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản. Em ạ,
Tổ quốc Việt Nam ta cũng đương bước đi trên con đường ấy. Tâm hồn ta cũng nhuốm
cái vui tuyệt vời ấy. Như thấy những thành công và vinh quang chúng ta sẽ có được.
Mát-xcơ-va kỉ niệm Cách mạng tháng Mười, anh đã kể xong.
Hẹn với Mát-xcơ-va
I.
ĐẾN MỘT NƠI NÀO mà chưa viết hay không viết được, cái thiếu cố
gắng ấy làm cho mình có nợ, cứ băn khoăn như đã lỗi lời lỗi hẹn. Nơi ấy là Hang
Bla ở Phù Yên, là làng Chu Phan bên sông Hồng, hay thành phố ở bờ biển Nha
Trang, hay Đa Ét Salam tận Đông Phi xa xôi…
Ấy vậy mà chưa khi nào tôi viết về Mát-xcơ-va. Ở đấy, tôi có
nhiều bạn. Có người quen nhau từ thuở trẻ đến bây giờ đã già, có người đã mất.
Cái tình đối với Mát-xcơ-va lặng lẽ và sâu đến thế. Ngót ba mươi năm nay - gần
nửa đời người rồi, chỉ nhớ đã đến Mát-xcơ-va từ hồi tàu hỏa liên vận mười hai
ngày đêm và chiếc máy bay IL 18 bốn cánh quạt chứa vài chục hành khách. Bây giờ,
mỗi chuyến IL 86 đáp xuống Nội Bài, được hơn ba trăm người, không kể đoàn phi
hành. Hồi ấy mới lác đác người đi công tác và cán bộ, học sinh đi học. Nay đến
các cô các cậu con cái lớp người ấy cũng đã tốt nghiệp trở về, cười nói liến
láu, ngồi đông chật cả chuyến bay. Có phải thói quen thân tình của người ta thường
thế. Nhà bạn mình hay đến lại không để ý số nhà. Người ta thân yêu, bỗng dưng một
hôm nhìn thấy ở khóe mắt cười đuôi mắt gấp mấy nếp nhăn, mới chợt thương cảm
nhau biết ngần nào.
Tấm lòng đối với Mát-xcơ-va của tôi tự nhiên là dường ấy. Có
buổi chiều tha thẩn ở Hồng Trường, khách tham quan đã vãn, nhìn xuống, vắng những
nô nức chen chân, mới nhận thấy ở góc gần tường thành, quanh viên đá đen lát đường,
trong khe, xanh dịu một thoáng rêu, một ánh cỏ, như lá rau má, như đuôi hoa mã
đề, vừa lọt dưới chân người bước qua. Gặp bất ngờ mà không ngạc nhiên, giữa những
bờ đá, thềm đá đồ sộ lịch sử có những cây thông tuyết trắng xanh, bàn tay khéo
léo ý nhị của người thợ vườn hoa cho khách kỹ tính ngắm một đốm xanh li ti
thoáng bóng ruộng đồi mênh mông ngoài kia, một nét tình cỏ cây đồng nội.
Đã chập tối, dòng người trên đường hút vào ánh sáng điện các
đại lộ xung quanh, tự dưng quảng trường mà suốt ngày đông nghịt khách thập
phương, như doãng ra. Những chiếc bóng bồ câu bay vào dưới mái lều chạng vạng
sáng đèn, vừa còn thấy hàng trăm bồ câu dưới mặt đường đá phiến.
Nhìn lên cao cao, lại thấy cả đàn chi chít. Thoạt trông, tưởng
những con dơi bay ra hoàng hôn Hà Nội. Nhưng làn cánh nghiêng thoắt qua thoắt lại,
đấy là nhạn bay. Con nhạn tỏa vào những ngày đổi trời, cây hoa tuyết mùa hè rắc
những sợi bông vương vào cửa sổ như mạng nhện. Nhớ bông quả gạo nở bay nhởn nhơ
bên hồ Gươm.
Đây với Hà Nội so le sáu tiếng, thế mà cái nhớ cứ chan hòa. Bởi
vì, đã ngót nửa thế kỷ nay, mỗi người chúng ta đặt chân đến Liên Xô vẫn tưởng
như không mảy may xa cách, bao giờ cũng đầm ấm như tới ngõ nhà mình. Cảm thông ấy
đã xóa đi mọi cách trở quan san.
Thấy nhạn bay đầy hoàng hôn Mát-xcơ-va mà tôi lại nhớ thành
phố Hồ Chí Minh, chiều chiều cũng bao nhiêu là nhạn nối đàn từ ngoài sông Sài
Gòn vào lượn cao trên hàng me cổ thụ, rồi chặp tối, tíu tít vào các tổ đầu hồi
mái nhà. Thế là sắp trở trời. Vào thu miền Nam không có heo may, chỉ thấy mưa
buổi chiều. Những con nhạn cảm thấy hơi thu rành rõ hơn người. Trên hồ Gươm,
ngoài Hà Nội sớm sớm nhạn chao cánh lẫn sương mù mặt hồ. Những con nhạn bay thấp
đến độ trẻ con nghịch móc mảnh lưới bóng bàn giữa hai gốc cây ngả bên hồ, nhạn
mải bay đã đụng vào, sa xuống nước. Ven hồ, tiếng trẻ reo ánh ỏi. Không biết tại
nhạn lướt đi vi rút đến tối mắt hay sương suống mặt hồ mù mịt hơn, trong khi
ngày đã rạng rồi. Chỉ những thành phố ven sông mới có được cảnh sương khói lạ ấy.
Sương như tỏa lẫn trong đàn nhạn ra càng nhiều. Ngày mai trời
trở cơn giông đây. Mát-xcơ-va hệt thời tiết Hà Nội vào thu. Đó là cái sương mù
hiếm thấy của những thành phố có con sông chảy qua. Những ngày vào thu muôn thuở,
hơi nước rưng rưng mặt sông, vừa tảng sáng thì cất dần lên, như hơi thở con
sông. Không phải mù mịt khói sóng, cũng không phải sóng lúa mờ mịt như sương
ngày trong đồng sánh vào làm xanh xám chân tre kéo ngắn buổi chiều lại. Đấy là
hơi thở của dòng sông. Ai sớm mai qua cầu Thăng Long, thấy con sông Hồng thức
giấc, dòng nước oằn mình như thật, như không, thấy đấy mà lại xa xa đấy, làn
sương bay lên như tấm choàng tưởng tượng mở ra trên mặt nước trong óng trắng ngần
và trời Hà Nội thì phút chốc bỗng mờ đi. Thế rồi mưa xuống chốc lát, mưa thưa
như đếm được từng hạt. Sương mặt sông đã dâng lên thành cái mưa kỳ lạ ấy.
Sông Mát-xcơ-va ngửa mặt đương thở lên trời sương, nhìn xa bến
cảng bên tường Kremli mờ mờ bóng sương yểu điệu.
Quả là sáng sớm, trời Mát-xcơ-va bọc một làn hơi nước mỏng
manh, thành phố nhộn nhịp hơn hẳn mọi ngày, người đổ ra đường đi trong hơi thu.
Như người ta cố vớt vát ít ngày còn nắng ráo.
Mát-xcơ-va chớm thu đã lạnh - ít nhất, đối với những người gốc
gác vùng nhiệt đới thì cái mát đầu thu ở đây cũng đã khá lạnh rồi. Đôi ba khó
khăn vặt vãnh cho người ở đỗ giữa những chặng đường đến nhiều đất nước thời tiết
khác nhau. Tôi chỉ ở lại Mát-xcơ-va một đôi ngày, đợi đi Trung Đông. Từ khi cuộc
sống đất nước ta bước vào quỹ đạo thế giới, nhiều người ra nước ngoài, đi công
việc hay đi học, thật bình thường mà khác thường, cũng là đặc điểm của tình
hình và thời đại. Chúng tôi trọ khách sạn khác nhau, tùy công việc chuyến đi,
nhưng thường ở những nơi sang trọng, “Ô ten” ba sao, năm sao, khách sạn “Nước
Nga”, khách sạn “Mát-xcơ-va”, khách sạn “Xêviếtcaia”… Khách sạn Tháng Mười, nhà
khách Đỏ của Đảng, của Xô Viết tối cao. Làm việc, đi họp, những công tác xung
quanh bàn và ở hội trường. Có khi trọ cả tháng một khách sạn, đi vắng vẫn giữ
buồng, hách hơn những nhà giầu chơi đâu cũng ghé vội vã để còn đi được nhiều
nơi và khi trả buồng, đưa chìa khóa thật khít giờ cho khỏi thiệt. Chúng tôi ung
dung ngày rộng tháng dài. Chúng tôi không biết cái vui, cái tính đếm của các tay
buôn, giao hàng làm áp phe quốc tế, những triệu phú đi du lịch và những ông già
bà cả nước Anh, nước Nhật rong chơi dối già, ốm yếu đến độ phải gọi xe đẩy vào
cả thang máy mà vẫn hổn hển đi. Những ông hoàng bà chúa, những nhà quyền quý ở
châu Á, châu Phi, vác theo một bị tiền và séc, và bầu đoàn thê tử có đến chục mống,
cả trẻ mới sinh còn ẵm ngửa. Không, chúng tôi đi công việc của đất nước chúng
tôi.
Vài ngày nữa tôi đã đến những nơi không biết lạnh bao giờ,
thường có vùng châu Phi mấy năm mới có mưa. Hành lý người đi công tác chẳng mấy
khi đủ được áo quần giầy dép phòng cho cả ba bốn mùa cứ chốc lát đến. Đôi giầy
công tử mỏng manh của tôi chỉ chớm gặp cái thu Mát-xcơ-va đã hóa vô duyên rồi.
Tất nhiên, chẳng mấy ai mang hai ba đôi giầy da trong va li.
Gần khách sạn có một phố nhỏ. Đấy là cái ngõ ngách thông phố
lớn này sang phố lớn khác. Thủ đô Mát-xcơ-va cổ kính và hiện đại nhiều phố ngõ
trổ hai bên đại lộ như thế. Chỉ vài bước vào ngõ, bao nhiêu suy tư bộn rộn đã
được nhàn nhã thư rỗi. Giờ tan tầm, các thang máy xuống ga xe điện ngầm guồng rầm
rập, người đi như nước cuốn, tấp nập hối hả, thế mà chỉ tạt vào một phố nhỏ
ngay bên kia đường, đã khác hẳn. Trong ngõ, tàn hoa tuyết mùa hè còn trắng mặt
lá hồng bụt. Người đi thưa thớt. Nghe được tiếng vòi nước lách chách bếp nhà ai
cạnh cửa sổ đầu tường.
Xế ngõ, có một quán vách gỗ của ông chữa giầy. Lần đầu tiên
tôi đến với ông ấy không phải là đem chữa giầy mà chỉ vì quen giầy dép phong
phanh ở Hà Nội, đến Mát-xcơ-va mới để ý đôi giầy da lợn của mình lâu không được
ăn xi, mũi nó nổi da cóc lên. Ông chữa giầy không kiêm đánh giầy. Nhưng ông có
hộp xi cho khách mượn. Bao nhiêu dịch vụ tỉ mỉ phức tạp của thành phố triệu người,
ở trung tâm cũng như những nơi khuất nẻo ngoại thành vừa mở rộng. Đứt một chiếc
dây giầy. Đương đi, tảng băng cứng đánh bật mất miếng gót ủng ra. Có việc gấp,
vào Bitstrô ăn nhanh, bưng bê lấy, góc phố nào cũng có. Cái búa bắn đinh vào tường,
khăn tắm, cái dây, cái thừng, quai va li, xin mời đến “Cửa hàng 100 thứ lặt vặt”,
tỉ mẩn đến đâu ở đấy đều có cả. Ngấy gà ướp rồi, đi chợ mua con gà mái tơ ở
nông trang mang ra, thổi phù phù xem ức gà già hay non. Hai bông hoa lay ơn đến
chơi nhà bạn. Hay bốn bông để lên tàu chín giờ đêm đi, vượt hơn chín trăm cây số,
sáu giờ sớm hôm sau đã tới Lê-nin-grát, người đến tặng hoa người đón, bởi trên ấy
hoa hiếm hơn Mát-xcơ-va. Tất cả, đâu cũng có, có ngay.
Lại phải đến ông thợ giầy này xem sao. Cách nào lão giúp cho
mình được ấm, đêm tuyết xuống cũng ra đường được. Ba thợ giầy cộng thành Khổng
Minh kia mà. Tôi nhớ hài hước câu ngạn ngữ ba lơn, lúc bước vào phố nhỏ yên
tĩnh.
- Chào ông Nichêtốp!
Mắt kính ông lão trễ xuống.
- À chào đồng chí Việt Nam.
Thật cũng không biết có phải vẫn ông thợ giầy mọi lần khoác tấm
tạp dề vải bò quấn tấm da lá đáp bạc phếch, bộ ria ghi đông nghểnh lên, đôi ủng
cao ngang mặt bàn bầy đồ nghề, ông cũng giống như những tranh vẽ lão thợ giầy
đi guốc gỗ cao lênh khênh trong các truyện cổ tích châu Âu. Trí nhớ tôi vốn
kém, ông ấy mà cạo bộ ria, hay để râu khác kiểu, có thể tôi đã bối rối ngay. Chỉ
nghe “đồng chí Việt Nam” tôi đoán được ông ta mà thôi. Hai chữ Việt Nam là tấm
hộ chiếu thiêng liêng, không hộ chiếu đỏ, hộ chiếu xanh nào sánh được. Việt
Nam, cái tên không chỉ riêng ai, mà là tất cả - một thành ngữ của thế kỷ. Đến
nhiều đất nước khác nhau trên trái đất, ta thường được gặp câu chào hỏi tin cậy
ấy. Đồng chí Việt Nam, ở Cu Ba, ở Nicaragoa, ở Áp-ga-ni-xtan.
Ông ấy đứng lên lôi trong gầm quầy gỗ ra hai chai bia. Trông
thấy chiếc nạng kẹp dưới nách áo bảo hộ lao động lụng thụng, tôi mới thật sự nhận
ra ông thợ giầy quen.
Tôi bước vào, ôm hôn bạn già, trong khi tay ông vẫn giơ cả
hai chai bia và nói:
- Bia Mát-xcơ-va chai nhỏ đây.
Bia chai nhỏ nhãn vàng Mát-xcơ-va đậm ngon như bia Tiệp
Pinsen. Loại này hiếm, có ở cửa hàng người ta mua hết ngay.
Chúng tôi tu cả hai chai, không cần cốc. Chùi mép rồi, ông hỏi.
- Cần gì nào?
- Ở Hà Nội mùa thu không lạnh thế này.
- Lạnh chân phải không?
- Vâng, gió hút vào chân.
Ông thợ giầy quay lại ngăn kéo sau lưng, rút cái xơ mướp đệm
giầy và miếng lông thỏ xám nõn nà, nhác trông không biết thật hay giả da.
- Cái này chống lạnh gan bàn chân. Còn hai miếng lông thỏ bọc
vào cổ giầy. Không sợ ai cười hết. Chúng ta có thời có mốt của chúng ta. Người
có tuổi không mất thì giờ bàn bạc xấu đẹp như bọn trẻ. Cốt nhất giữ ấm đi đêm,
càng khuya chân càng ấm, cái giống lông thỏ lạ thế.
Ông thợ giầy cởi dây ấp miếng da thú vào cổ chân tôi. Ông lão
lại chê chân tôi nhỏ quá. - “Hôm nào đi nhà hàng trẻ em mà mua giầy. Đồng chí
biết không, ở Mát-xcơ-va, mọi thứ trẻ con cần dùng đều giá rẻ như cho không, thế
đấy”. Ông lão không lấy tiền, không bán miếng lông thỏ. Chỉ nói hôm nào đi, nhớ
đem trả và “có sang Tiệp thì khuân bia Tiệp về”. Tôi còn ngồi một lúc nữa với
ông thợ giầy mà tôi hay quấn quả và dần dần tôi mới nhớ lại bộ ria đỏ bẻm, mu
bàn tay xăm hàng chữ số 1942 và ở đầu cái mạng khắc chữ Stalingrát mà đã mấy lần
tôi trông thấy rồi. Người Nga, thoạt quen, vẻ như chóng già. Nhưng người già
thì cứ thế, năm này năm khác gặp lại, cũng vẫn dáng dấp như vậy, tưởng như
không bao giờ già hơn nữa. Ông thợ giầy của tôi cũng vậy. Có thể ông đã tám
chín mươi tuổi mà từ năm nào, mấy năm mới gặp lại thấy ông vẫn râu tóc bạc gần
kín mặt như thế, ngồi cắm cúi làm, trên bàn trước mặt bề bộn lằng nhằng dây dợ,
cục sáp, con dao, cái búa, hộp đinh.
Trước hôm đi, tôi đem trả ông miếng da lông thỏ. Lại xách đến
mấy chai bia cho ông bạn lấy cái chúc tôi lên đường. Chưa bao giờ tôi hỏi xem tổ
chữa giầy đã phân công ông làm quán đây, ông còn ăn lương hay đã nghỉ hưu, đi
làm thêm cho vui chân vui tay. Ông bị thương ở Vôngagrát như thế nào. Tôi kính
trọng người công nhân thương binh già mà không hỏi. Tôi không muốn hỏi. Tôi thường
hà tiện những câu lục vấn người ngồi trước mặt, cả những khi làm việc cho một
bài báo. Cứ trò chuyện, khi nào trò chuyện được tự nhiên thì mỗi câu thổ lộ chẳng
khác tâm sự nói ra với bạn.
Đến hôm ở Đa-mát trở lại, qua Li Băng. Sân bay quốc tế
Bây-rút vừa được mở cửa lại. Đây chỉ cách Mát-xcơ-va vài giờ bay, đã vào thế giới
khác, quanh mình rình rập những bất trắc và cái chết thình lình. Trên tường nhà
đợi, một phát rốckét thuốn vào, mảng vôi vữa gạch vỡ rơi xuống chân tường, còn
nguyên đấy. Đường băng dài như liền ra mặt biển, lốm đốm vết lỗ đạn trên xi
măng, mới thoạt, tôi không nhận ra cái ga trời của thành phố tôi đã có dịp đến.
Chúng tôi thông thường thấy thành phố các nước anh em như ở Mát-xcơ-va, bộ mặt
đổi mới nhanh đến tưởng tượng cũng không theo kịp. Như nhà cửa, lâu đài trong
truyện cổ tích Grim. Mới năm nào, một quãng lại gặp xe ủi hùng hục húc dãy nhà
cũ. Lần khác qua, đã thấy những dãy nhà tám tầng mới tinh như vừa bóc giấy
bóng. Nhớ mãi mới nhớ ra hồi nào ở đây còn có cái nhà vách mái gỗ cũ kỹ.
Những cảm tưởng so sánh. Bây-rút yêu kiều xưa trước mặt tôi
đây đương tàn tạ. Vẫn dẫy nhà trại lính một tầng. Một chiếc xe vận tải nhỏ
phóng vòng vèo như điên trên đường vào thành phố vắng teo. Biết đâu, cái xe chẳng
là mục tiêu của khẩu đại liên, khẩu súng cối nào trên dãy núi thấp quanh
Bây-rút. Qua địa phận của bọn theo đạo Gia Tô núp bên kia lằn ranh giới xanh xé
đôi xé ba thành phố. Hôm trước, đại bác đã nã mấy ngày liền, sân bay phải đóng
cửa, mới mở lại. Chỉ có độc một cái TU 128 lăn bánh theo quạt hiệu thủ công của
nhân viên hàng không phất lên rối rít. Vắng đến rợn người.
Tôi bùi ngùi nhớ cuộc tiễn đưa năm ấy, các cô các cậu sinh
viên Li Băng làm phiên dịch cho hội nghị còn quyến luyến mãi khách xa rời chân.
Ai cũng muốn được đến Việt Nam đánh Mỹ. Thế rồi loạn lạc đã đem tan nát đến tận
đây. Được tin ông bạn nhà văn già Giumblat bị quân Gia Tô bắn chết. Ngỡ như còn
cầm tay, đoán cái tạng gầy gầy mà nhanh nhẹn thế kia, hẳn sống lâu, hôm đến
thăm trang trại của ông trong vùng núi người Đờru ngoại ô thành phố.
Thành phố Bây-rút trên bờ biển sừng sững xám ngắt như cái xác
chết mở mắt. Cả nước Li Băng chen chúc những trại tị nạn tường đất mái bạt - đã
ba bốn mươi năm người Palextin sống tạm bợ như thế, quanh các chợ giời. Cái chợ
giời ở cảng Siđông người ta kể có bán cả súng liên thanh và máy bay lên thẳng.
Đất nước nhỏ bé bị giày xéo triền miên trong những thủ đoạn lắt léo thâm độc của
đế quốc Mỹ và bọn I-xra-en. Đến bao giờ mới tan cơn khủng khiếp, được thảnh
thơi trong bóng vườn ô liu, vườn cam và Bây-rút đẫm mình vào những đêm vui suốt
sáng bên Địa Trung Hải.
Hãy nhìn Bây-rút tang thương một lần nữa. Từng đống đổ nát cạnh
những tòa nhà cao tầng rạc đi trong nắng quái vàng ệch.
Bay thêm một đỗi đã về đến Ô-đét-xa quanh đường băng xanh rờn,
không phân biệt được thảm cỏ trồng với cánh đồng lúa mì mênh mông tít tắp.
Thành phố cảng Ô-đét-xa viền những đường cây cát-stan mùa thu một rừng vàng tuyền,
thuyền khách thăm bến, uống bia xé ăn cá khô Scumbria. Tàu du lịch trắng phau
như những con ngỗng bạch khổng lồ bơi quanh Bắc Hải, từ Địa Trung Hải đến đậu cạnh
tàu chở hàng nối đuôi vào. Trong vòm sương sớm, còi tàu rối rít rúc tránh nhau.
Chốc lát, những đau thương Bây-rút đã lùi xa, mà lúc nhớ lại bây giờ cho tôi
cái cảm tưởng đương về đến nhà.
Những cảm tưởng ấy bắt đầu từ kỷ niệm. Ai đến Ô-đét-xa, nếu gặp
anh thủy thủ viết văn Gay-đa-ên-cô bạn tôi, thế nào Gay-đa-ên-cô cũng nhắn tôi
một câu vừa thân thiết vừa trách - nhiều bạn đã kể với tôi tương tự thế. Đồng
chí có quen nó không, chẳng biết nó có nhớ tôi không. Nó đã đến Ô-đét-xa với vợ
chồng tôi mùa thu năm ấy. Gay-đa-ên-cô, làm sao tôi quên được anh, con người của
biển và tất cả những con người của biển phía nam ấy, ở đấy, mọi người đàn ông
được gọi là đàn ông đều phải đã từng đi biển và thật sự, người Ô-đét-xa ai ai
cũng lênh đênh hầu khắp cửa biển các đại dương. Vẻ mặt và tính nết những người
kẻ bể này có khác với những người ở sâu trong đất liền. Họ đi đứng ăn nói
khoáng đạt, tính nết như từ các phương trời gộp lại, mà lý thú nhất, những chuyện
tiếu lâm người Ô-đét-xa kể, những chuyện cười vỡ bụng ấy chọc trời khuấy nước
chẳng chịu thua. Tiếu lâm cửa bể Mạc-xây mà thế giới đâu cũng biết.
Gay-đa-ên-cô, anh kể anh đã hai lần vào cảng Nhà Rồng, khi ấy anh còn trẻ và nước
tôi còn mang cái tên ngẩn ngơ là xứ Đông Pháp. Làm sao quên được Gay-đa-ên-cô!
Cái hôm Eptusenkô qua sông Hồng rời Hà Nội - hồi ấy đêm ngày phấp phỏng báo động,
bom Mỹ đương ném thành phố chúng tôi. Khi sang cầu Long Biên, nhà thơ hùng biện
của chúng ta đã ném một đồng tiền xuống nước và bảo rằng bỏ đồng tiền ở lòng
sông này, thế nào, rồi tôi cũng trở lại, theo phong tục Nga. Tôi cũng đã thả đồng
tiền xuống cửa biển và hứa với Gay-đa-ên-cô thế, anh nhỉ. Tôi chưa được dịp nào
trở lại Ô-đét-xa, nhưng có phải bao nhiêu mong nhớ bấy lâu vẫn sum họp chúng ta
lại?
Và Luxia Maccôna! Luxia Maccôna thương yêu! Chiến tranh Thế
giới đã qua được ngoài mười năm, lần đầu tôi đến Liên Xô. Vết tích đau thương của
chiến tranh vẫn còn ngổn ngang ở Lê-nin-grát, ở Ki-ép, ở Ô-đét-xa và ở mọi nơi
có đến cả triệu con gái nhỡ nhàng. Những người yêu thương của các cô chẳng bao
giờ về, những đời người dang dở, Luxia là người con gái xấu số ấy. Luxia làm
công nhân nhà máy cá hộp thành phố. Nửa đêm, tan cuộc chơi với các bạn rồi chợp
mắt ngay ở ghế tựa. Buồn quá. Năm ấy, nghe tin nhà máy tổ chức nghỉ cho công
nhân. Luxia mùa hè đi chơi nước Đức. Cái gì làm khuây khỏa được người buồn, tôi
cũng thấy vui lòng.
Đôi khi, Luxia lên Mát-xcơ-va chơi với cháu. Mỗi năm mỗi khác
rồi. Người ta ở tuổi bốn năm mươi trở lên, ngày tháng cứ vùn vụt chạy trốn, còn
mình thì hớt hải đuổi theo. Trời Mát-xcơ-va cao cao trong veo. Rừng cây công
viên đương ngả vàng. Vài sợi bông hoa tuyết mùa hè còn sót lại, lơ lửng bay.
Tôi nói tôi thích bông hoa tuyết. Marich lại bảo chịu làm sao được, bông giắt cả
vào mũi, đến mùa hè hoa này bay, cả thành phố hắt hơi. Cái lần chuyện với Ina,
tôi bảo: Tuyết đẹp quá. Ina nói: Làm sao mà yêu được tuyết, nó chỉ gợi người ta
nhớ tiếc thời trẻ con, vả lại có bao giờ anh phải lầm lội nửa năm tuyết và băng
như chúng tôi đâu. Tôi lại im. Cái thích của mỗi người ở mỗi lúc, ai mà giống
nhau, dầu cho thân thiết đến thế nào.
Lên đến tầng, trước khi bấm chuông, Marich bảo:
- Tôi dành cho anh một điều bí mật. Cửa mở thì thấy.
Ra mở cửa, Luxia. Tôi nói đùa:
- Tôi cứ máy mắt bên trái và máy bay bay nhanh hơn hẳn mọi
khi. Thì ra bà Luxia đến Mát-xcơ-va.
Đối với người gần gũi ta thường thấy mà đôi khi chẳng thấy gì
cả. Dường như hôm nay tôi mới nhìn Luxia kỹ hơn. Tóc bạc quá. Chắc đã lâu cũng
trễ tràng chẳng còn thói quen cầu kỳ tích trữ các thứ thuốc nhuộm. Những nét
nhăn quanh cằm vạc xuống, lồi lõm cả khuôn mặt. Người đàn bà lỡ thì, hơn hai
mươi năm trước. Luxia cao lớn, chắc chắn, đôn hậu, âu yếm. Bây giờ đọng lại một
vẻ ơ hờ. Làn môi trễ, hai con mắt già lão cứ nghĩ đi đâu chứ chẳng còn vờn vỡ
quanh mình.
Ăn xong, đã quá trưa. Chúng tôi bảo bà Luxia đi nghỉ. Chúng
tôi ra nghĩa trang viếng mộ Êmin - bạn chúng tôi, diễn viên kịch đóng vai
Đôngkysốt tuyệt hay. Êmin mất năm ngoái. Bà Luxia thong thả nói:
- Ở bên Đức, người ta đến nghĩa trang muộn hơn, gần chặp tối.
“Ở bên Đức người ta thế… người ta thế… ở bên Đức…” từ sau
chuyến công đoàn nhà máy tổ chức đi nghỉ hè bên Đức, hầu như mỗi câu chuyện, bà
Luxia đều nói kèm câu “ở bên Đức người ta…”. Chúng tôi ra đường rồi còn nói
chuyện mấy năm nay, từ khi bà chị mất, Luxia già nhanh quá.
Những câu chuyện lỉnh kỉnh, vụn vặt, mà thân hình, chỉ có được
trong đời sống bè bạn.
Ông lão thợ giầy Nichêtốp trong ngõ và Gay-đa-ên-cô, và
Luxia, và tôi, những người bước ra từ trong chiến tranh. Nếu câu chuyện hàng
ngày êm ả và nhạt nhẽo của chúng tôi phải do tình bạn lâu năm mới có được thì
những điều đơn giản ấy không phải là đơn giản. Ở mỗi con người này mọi ăn làm,
suy nghĩ, tiếng xe điện xuyên lòng đất, ào ạt túi bụi như cơn lốc cuộc sống,
hay trong công viên nắng ấm, các cụ ông ngồi ghếch ba toong trầm ngâm, cụ bà và
các cháu bé lại có cái vui rắc vụn bánh mỳ cho bồ câu chen đến nhặt. Trong
quang cảnh nhàn tản ấy vẫn không thể quên, vẫn thấy như biểu hiện ở mọi công việc,
mọi lo toan vẫn đều mang sâu hình bóng chiếc xe nạng gỗ của chiến sĩ Ivan
Nichêtốp và nét mặt tuổi tác tàn úa đáng kính của bà Phain Luxia Maccôna.
Khách từ sân bay Sêrêmêtiêvô vào đến quãng ấy chỉ cách vùng Hồng
Trường trung tâm chưa đầy hai mươi cây số. Rừng thông, rừng bạch dương bạt ngàn
theo chân người đến đây dừng lại. Trong kia, đường phố mỗi năm một mở rộng, những
tường nhà cao tầng vươn ra. Giữa thành phố và thiên nhiên có một quãng để trống
lạ lùng. Một lằn nước mỏng manh, sông Jauza lượn theo bờ đường như dải lụa quấn
bó hoa đồng rực rỡ. Bên trái, trên gò cỏ cao như chiến lũy, lủa tủa lên trời những
thanh xi măng lớn đan chéo nhau…
Đấy là đài kỉ niệm chiến thắng trên chiến trường cũ. Hơn bốn
mươi năm trước, phát xít Đức bao vây Mát-xcơ-va đã thọc sâu vào đến chỗ ấy. Chỗ
ấy, chiến lũy của người Mát-xcơ-va và của con em các dân tộc khắp Liên bang Xô
Viết làm nhiệm vụ thiêng liêng: bảo vệ thủ đô Mát-xcơ-va. Người Uran, Viễn
Đông, Xi-bê-ri, Trung Á, tất cả vùng Mát-xcơ-va, già trẻ trai gái ra đào hầm, dựng
chiến lũy. Xe tăng vừa xuất xưởng tướng Giucốp cho đứng từng tuyến chằng chịt
pháo đài thép. Trận đánh khốc liệt đã liên miên từ mùa xuân sang mùa thu. Phát
xít Đức bị ngã lật ngửa tan vào mùa đông Nga.
Tôi về qua đài Chiến Lũy sáng sớm ngày chớm thu. Sương hơi nước
hờ hững như không, bốc lên từ những lòng sông vào thành phố. Tôi đứng lại tựa
lưng vào thanh xi măng chiến lũy. Dưới chân, nước mùa thu trong leo đẻo. Bụi sậy
đứng yên, con le le lặn xuống, trông rõ hai bàn chân hắt nước. Một chiếc ô tô
nhà đỗ bên hồ. Cả gia đình có một cụ bà, đôi vợ chồng và ba đứa trẻ. Bọn trẻ
con mặc sẵn quần áo tắm đỏ chói đương tíu tít cởi dây trên nóc xe dỡ xuống lều
bạt, đệm và gối, bếp đun, các bọc thức ăn, ghế ngồi. Hôm nay, thứ bảy bắt đầu
ngày nghỉ trong tuần, người Mát-xcơ-va còn rốn chơi hồ, trong khi mùa thu đến.
Tôi lại vào thành phố đầu mùa hạ năm ấy. Đêm trắng Mát-xcơ-va
đánh thức thành phố từ ba bốn giờ sáng. Cơ man nào những học sinh - các cô gái
váy trắng áo trắng, các cậu sơ-mi trắng một loạt, học sinh vui hội từ giã năm học.
Năm nào cũng những cuộc chơi chia tay như thế suốt đêm trên Hồng Trường, phong
tục đẹp ấy không biết có từ bao giờ.
Trời tảng sáng. Những cụm đèn chiếu quanh đài Chiến Lũy còn hắt
bóng xuống đám tuổi trẻ qua dưới, vừa nhảy múa, vừa đàn hát và cười vang.
Mỗi ngày qua đây lại gặp một người trong cuộc sống yên bình
khác nhau. Những chiến lũy trên chiến trường cũ khắc sâu ý nghĩa một triết lý,
một chân lý trên quang cảnh thường ngày.
II.
Một quãng, dưới chân núi, thế là qua cửa Baiđa, bên kia đã
mênh mông rừng đến tận thành phố pháo đài anh hùng Xê-bát-tô-pôn. Cửa ải xưa
còn y nguyên. Tường đá, trạm gác, lỗ châu mai. Tưởng như vẫn quang cảnh ấy trong
những truyện ký về Xê-bát-tô-pôn của Lép Tônstôi. Trên bán đảo Crimê mùa thu lá
vàng, mà hoa vẫn nở cả vào đông, mào gà, cúc dại, viôlét loang lổ mùa hoa đồng.
Chưa quen thời tiết phương nam, không thể nhận ra đương đứng cuối thu hay đã
sang đầu xuân rồi. Một con sáo mỏ ngà từ đâu bay đến đậu trên chiếc đèn củ ấu
treo ngoài tường tháp canh. Khách ngồi uống tách cà phê ấm áp trong quán trên ải,
trông ra thanh vắng.
Không hiểu sao, mỗi lần lên cửa Baiđa, tôi lại nhớ câu hát cũ
trên bến Đoan Hùng:
Kéo quân ra cửa Hùng Quan
Chim muôn tiếng hát hoa ngàn hương đưa
Chẳng liên quan đến nhau, mà cứ nhớ. Có lẽ bởi ở ta quang cảnh
lịch sử chỉ còn thường nghe trong câu đồng dao, mà ngỡ như đến đây mới trông thấy
cửa Hùng Quan.
Bờ biển Crimê, nơi nghỉ mùa hạ. Và cả mùa đông, mùa đông ấm
áp, họa hoằn mới có một hai ngày tuyết. Khi ấy, khắp nước Nga, đâu cũng lầy lội
và băng giá, người kéo về trú đông trong một vùng sáng hồng bờ biển. Ở Gápra có
biệt thự của đại văn hào Lép Tônstôi. Ở thị trấn Mikho, Mắc-xim Goóc-ky có nhà
nghỉ Niara, bây giờ trên nền cũ, thành phố dựng bức tượng ông. Nhà của Sê-khốp
nay là bảo tàng Sê-khốp, chỗ đầu ô vào Ianta. Năm 1898, Sê-khốp tậu đất, bạn kiến
trúc sư Sapôvalốp vẽ kiểu ngôi nhà hai tầng ấy chênh chếch giữa dốc. Vùng này
giờ là quận Sê-khốp. Nhà văn ốm bệnh phổi này còn một ngôi nhà nhỏ ở Guốcđúp
sát biển. Phố Sê-khốp ngày nay vẫn rợp bóng thông, sau bức tường đá, nhô lên một
mái nhà xinh. Những năm cuối đời, Sê-khốp ở đấy, Sê-khốp đã viết cho bạn: “Tuyệt
vời, lúc nào cũng nhìn thấy biển xanh dịu dàng, như mái tóc một cô gái hồn
nhiên. Ở đây, ở cả nghìn năm không một chút sầu muộn”.
Chúng tôi đáp tàu hỏa đi Ianta. Suốt hai ngày đêm chéo qua
các cánh đồng U-krai-na. Tôi muốn tìm một ít sách mang theo.
Vlát bảo:
- Về nhà tôi lấy.
Tôi chỉ biết Vlát thạo tìm quầy rượu, đến đâu anh cũng quen
những tay pha cốc-tai có cỡ, mà chưa biết nhà anh ở đâu.
Nhà Vlát ngay giữa Mát-xcơ-va. Một phố nhỏ, tương tự ngõ phố
ông thợ giầy Ivan Nichêtốp. Phố ngắn ngủi, yên tĩnh, những đường máng nối các đại
lộ thường mang những tên cũ. Phố Vácsanốpsky, đến nỗi Vlát đã được sinh ra ở phố
ấy mà cũng không biết đấy là tên ai. Cạnh một phố hẻm khác, phố Lò Rèn. Trông
ra đầu đường lớn, người qua lại lung linh sặc sỡ như bình hoa lung lay trước
gió, và bên kia “Cửa hàng thiếu nhi” lớn nhất, suốt ngày đầy tiếng cười và tiếng
khóc của các khách hàng tí nhau trông thấy cái gì cũng đòi mẹ mua. Tiếng ồn ào
các đại lộ ngoài cửa kính, nghe mơ hồ đâu đâu. Mưa ướt bóng đường phố cổ lát
đá. Những nhà gác nối nhau, tầng hầm thấp dưới mặt đất. Mặt gạch thang gác in vết
chân người bước đã hơi hõm giữa.
Nhà Vlát tầng hai, thoảng xa mùi giấy, như ở thư viện. Cửa sổ
đóng chốt cả trên dưới, ngăn giữa giắt những miếng bông chống rét, như từ mùa
đông trước vẫn thế, đã vàng ố. Vlát nhặt mấy quyển truyện trên giá và chúng tôi
bước ra, trong khi bà hàng xóm sang chào, lưng quần tạp dề nhà bếp, tay còn cầm
khăn lau. Dáng hẳn nghe tiếng khóa, bà lật đật ra. “Bà ấy trông nhà hộ tôi. Bà
hỏi chúng ta có ở lại ăn trưa không?” - Vlát kể như thế và chúng tôi cám ơn bà
rồi đi ra ga Kuốc.
Chín ga xe lửa chạy điện từ Mát-xcơ-va tỏa đi khắp nước. Ga
Lê-nin-grát qua Lê-nin-grát lên Muôcmăng cực bắc. Ga Iarôla xuyên Xi-bê-ri sang
Vlađivôtôc. Gadan đi Vôngagrát đến các nước cộng hòa Trung Á. Ga Kuốc xuống
Ađecbaiđan, Gruđia, vào Crimê. Những đường bay, đường ô tô, xe lửa dọc ngang tới
những nơi xa xôi, mà kỳ lạ tuyệt diệu, lại có thể đưa ta về thấy cả mười ba nước
cộng hòa ngay tại Mát-xcơ-va gần gũi. Ở cao lâu Ararat ra, tai còn lưu luyến tiếng
nhạc Ácmêni. Trong quán ăn Aravi, trên tường vẽ người ngồi xếp bằng, tay cầm cốc
sừng trâu trước cái bong bóng rượu, chẳng khác quán thịt nướng Tibilitsi, ở chợ
Tacken, khói thơm tuôn nghi ngút ra cửa sổ.
Tàu chạy vào cánh đồng U-krai-na bao la, đi suốt đêm mà sáng
ra vẫn thấy phong cảnh từa tựa chiều hôm qua.
- Chúng ta bắt đầu đến vòng cung Kuốc, “vòng cung”, một danh
từ quân sự hồi ấy.
- Cũng như “chiến lũy” ở Mát-xcơ-va.
- Phải vòng cung Kuốc, chiến lũy Mát-xcơ-va, Lê-nin-grát anh
hùng, những chữ thiêng liêng sống mãi theo nghĩa riêng của nó.
Rồi tự dưng Vlát nói:
- Nhà tôi ở Vácsanốpsky từ trước chiến tranh. Mẹ tôi và hai
anh em tôi.
Các nhà ga lướt qua, loáng thoáng như trong phim. Những cánh
đồng đứng yên rồi chuyển động quay từ từ theo cửa sổ toa tàu. Đồng mùa thu đã bắt
đầu được ủ rơm. Mai kia, tuyết xuống, hạt thóc giống nằm trong băng suốt mùa
đông cho đến sang xuân, cây lúa nhú lên khi băng tan, cùng với những đóa hoa chọc
tuyết nở, mặt đất còn loang lổ băng vỡ và những mảng nước chảy rả rích. Những cảnh
ấy, cảnh làm ăn trên vựa thóc U-krai-na rộng nhất, phì nhiêu nhất từ Trung Âu đến
đây. Bức tranh yên tĩnh: cánh đồng, hàng bạch dương đầu thị trấn, dưới gốc cây
kê chiếc ghế bằng khúc gỗ và những cụ già ngồi nhìn theo con tàu.
Không còn thấy đâu vết tích chiến tranh và tàn phá của chiến
dịch Kuốc trên đồng bằng xoải cánh đến ngợp mắt này. Trận Kuốc đứng ngang các
trận bảo vệ Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va, Xê-bát-tô-pôn với Stalingrát anh hùng.
Nhưng chiến tuyến Kuốc dài nhất, cả nghìn cây số đồng bằng, đến tận Gian Côi và
bãi lầy bờ biển Cátpiên.
Suốt đêm chập chờn, cửa sổ loáng ánh điện các ga nhỏ - nghĩ
như con tàu vũ trụ bay thoáng qua các vì sao. Trời vừa rạng sương, lại vẫn chỉ
thấy cánh đồng và làng mạc thị trấn giống hôm qua. Hai ngày tàu ròng rã mà chưa
tới được đuôi đồng.
Vẫn chưa đến Gian Côi. Chúng tôi vẫn đi giữa chiến trường của
ngót năm mươi năm trước. Trên đất nước Liên Xô giàu có, hùng cường và bình yên
hôm nay phảng phất hình bóng cuộc chiến đấu khốc liệt đã qua - những nét mở chồng
gắn bó không bao giờ phai mờ.
Gian Côi, Gian Côi đây. Cái ga nhỏ ở Gian Côi, quê cô
Galinga, nhân viên trông coi toa tàu số 3 của chúng tôi. Một cái ga nhỏ, giống
bất cứ ở đâu, những lằn cột đen trắng, đen xanh, đen vàng dưới làn dây tải điện
trên nóc đầu máy, trước mặt bà gác barie giơ cờ đường cho đoàn tàu chạy thông
luôn. Về đến ga quê, cô Galina đội mũ, đeo phù hiệu hỏa xa chỉnh tề, đứng nhìn
xuống thị trấn và cô kể hôm nào tàu trở lại, cô sẽ được về nhà nghỉ ba ngày, mỗi
sau chuyến Mát-xcơ-va - Simphêrôpôn. Chắc là cô bé Galina hai mươi tuổi xinh
tươi, không thể hiểu cảm tưởng của tôi qua Gian Côi. Tôi đương nghĩ đến ga xép
Gian Côi đầu mút mặt trận Kuốc long trời lở đất và, không chịu nổi trận đọ sức
quyết định sau chót ấy, phát xít Đức tan vỡ chạy khỏi nước Nga, quân đội Xô Viết
đã thừa thắng đánh đuổi chúng vào tận hang ổ cuối cùng ở Béc-lin.
Dư vang những ngày cũ, không trông thấy, mà thấy. Chẳng bao
lâu chúng tôi đã đến bờ Bắc Hải. Thành phố cảng Ianta kia rồi.
Côngxtăngtin Pautốpxky đã viết:
“Vẻ đẹp phương nam của bán đảo Crimê thấm vào, đọng lại trong
ta rồi ở lại mãi. Ai đã đến Crimê đều giữ trong tim mình một bâng khuâng như
khi ta nhớ lại tuổi thơ…”
Bảy mươi cây số thành phố dọc biển, cả vùng Crimê thu nhỏ lại
tập trung vào Ianta. Từ trong các thung lũng lên sườn núi, xanh bao la những
cánh đồng nho và mùa hạ đến, rực rỡ hoa hồng hoa anh đào rồi trở lại gặp chớm
thu vàng hây, thế là mùa hái nho lại tới. Núi cũng chạy ra tới bờ biển, chen
nhau với những đại lộ dưới bóng cây thông, cây sến, cây bách lụ khụ thường gặp
ngoài bờ Địa Trung Hải. Ở đây, cây sến nào cũng nghiêng về phía nam, như nhớ
mình quê biển khác. Rồi núi lội cả xuống bể, đứng sững trong nước ven những
thành phố vệ tinh của Ianta.
Từ sự tích nguyên sơ đất này đã là hình ảnh của yên lành.
Chuyện xưa kể có một đoàn tàu đánh cá Hy Lạp ra khơi bị bão. Bao nhiêu ngày
sóng gió cạn kiệt thức ăn nước uống, những người sống sót lênh đênh chết dần
trên mảnh ván thuyền vỡ. Bỗng một người cố ngóc đầu dậy rồi kêu lên: Yalô!
Yalô! (Bờ biển! Bờ biển - tiếng Hy Lạp).
Thế rồi thành tên Ianta, tiếng của sự sống - thành phố của niềm
hi vọng sau cùng gặp được.
Quả nhiên, vẻ đẹp Crimê đến mỗi người mỗi khác, nhưng tự
nhiên như không, cứ liễm vào lúc nào không biết. Chưa gặp bao giờ, mà trong chốc
lát đã cảm thấy như gần gũi. Người nhàn tản dọc dài mép nước, đôi khi ngọn sóng
hắt lên cả chân. Xuống tắm hay ra ngồi câu cá, hay vào quán ăn, hay bởi vội đi
chỉ đứng nhá một miếng “ Săng uých”, thế nào cũng được. Ở bãi cát, trên mỏm đá,
bên cầu cảng, Hắc Hải xanh bát ngát cả buổi chiều, những ngày giữa đông cũng y
nguyên màu xanh biển kỳ lạ ấy. Bởi vậy, cũng như mọi thành phố bờ biển, ở Angiê
hay ở Nha Trang, người Ianta có phong tục sáng sớm tắm biển, cả trong những
ngày tuyết xuống.
Và biển đấy, núi đấy. Lên núi Karagun, gặp suối Nước Bay lưng
chừng thác gieo một trăm thước xuống đá thành trận mưa bụi quanh năm. Chỗ cây số
10 rẽ vào hồ Đen giữa rừng thông. Quán ăn vách gỗ, chuyên món thịt nai. Mùa hè
năm ấy, vợ chồng Côngxtăngtin Simônốp và chúng tôi đã đến đây. Bắt chước những
người thợ săn, dừng chân bên hồ nước cạnh rừng nướng thịt con thú mình vừa hạ
được.
Chỉ vài bước lên phố dốc đã vào rừng cạnh đường, ngồi nghe rõ
tiếng sóng lượn dưới kia và tiếng gà gáy, chó sủa lưng núi. Những nếp nhà núp
dưới vườn táo. Trên một đống gỗ, mấy chú mèo con đương giỡn nhau. Mèo mẹ nằm dưới,
trên đệm cỏ. Bất chợt, một làn mây vướng vào đỉnh rừng chóp núi Magali, thế là
mưa bóng mây loáng thoáng lưa thưa xuống, lũ mèo con trong đống gỗ tụt vào nhô
ra, như rỡn với hạt mưa…
Đứng ở chỗ nào trông ra biển cũng thấy núi Mèo, núi Gấu trước
mặt. Núi Gấu sừng sững giữa sương mù, cạnh trại hè thiếu nhi quốc tế Arơtếch thị
trấn Guốcdúp. Con gấu cúi đầu uống nước. Ai đã khéo nghĩ ra câu chuyện tình thơ
mộng và đau khổ về trái núi Gấu này. Xưa có chiếc thuyền bị bão đắm, chỉ sống
sót mỗi một người con gái dạt vào bờ. Người con gái đã ở lại với đàn gấu. Rồi một
ngày kia, có một chàng trai tới. Người con gái xuống thuyền ra đi với chàng.
Cả đàn gấu nhìn theo. Một con gấu không biết đâu bờ đâu nước,
đuổi theo. Đến lúc nước ngập ngang mặt, gấu há miệng hớp nước. Gấu quyết uống cạn
nước Hắc Hải, để chạy ra được tới thuyền, để chiếc thuyền dừng lại. Con gấu si
tình đứng uống nước mãi mãi, đời đời.
Câu chuyện tưởng tượng đẹp và buồn đến thế! Năm 1820,
A-lêch-xăng Pus-kin đã ở thị trấn Guốcdúp. Pus-kin viết bài thơ “ Suối Nước
Mắt Bachisaru ” và nhà thơ lớn ấy đã bắt đầu chuyện thơ “ Êpghênhi
Ônêghin ” ở đấy. Pus-kin viết cho Antôn Đơvi, một nhà thơ bạn:
“Ở Guốcdúp, tôi tưởng như trong mộng, suốt ngày ngâm mình
trong biển và ăn nho. Tôi đã quen ngay, yêu thích thiên nhiên và thời tiết
phương nam. Nửa đêm thức giấc, nghe sóng biển, lắng nghe sóng biển từng giờ. Cạnh
nhà, có một cây bách cổ thụ. Mỗi buổi sáng, tôi ra thăm cây bách, như một người
bạn thân”.
Cây bách cổ thụ ấy bây giờ hãy còn xanh tươi, thân cây cằn cỗi
như ông lão không có tuổi. Thế mà cây cũng bị hút chết. Cái năm phát xít Đức đến
Crimê, đã đặt mìn phá đổ nhà bảo tàng Pus-kin. Chúng định hạ nốt cây bách trên
lưng có tấm biển đồng “Cây bách Pus-kin”. Nhưng ông lão làm vườn nhanh trí đã
bí mật gỡ tấm biển, đóng sang một cây thông khác. Phát xít Đức đã chặt cây
thông Lê Lai cứu chúa ấy để lấy củi sưởi!
Không phải chiến trường Kuốc dừng lại ở phía Gian Côi. Những
câu chuyện về sự tích nơi yên lành thế này cũng ngập trong hình thù tội ác. Dấu
vết thương đau vẫn hiển hiện không bao giờ được quên.
Di tích lâu đài Bachisarai ở bên kia núi. Thế kỷ thứ 16
các khan Hung Nô thống trị bán đảo. Kiến trúc sư thiên tài Ôme người
Iran đã xây lâu đài và sáng tạo ra con suối, đặt tên là suối Nước Mắt để cho bạo
chúa Krim Gira trông thấy mà nhớ người vợ đã chết. Một dòng suối được bắt vào
giữa sân điện, nước len qua đá, rồi nhỏ xuống từng giọt, làm nước mắt rơi.
Chỗ đỉnh núi đá tai mèo Epêtri sang lâu đài Bachisarai có một
nhóm tượng đài kỉ niệm. Tháng Chạp 1941, một trận đánh lớn của quân du kích bán
đảo Crimê đã xảy ra ở đấy. Cả đến bài thơ “ Suối Nước Mắt ” và cây
bách bạn bè của Pus-kin hai trăm năm trước, cũng vẫn có trong những trang lịch
sử và quang vinh cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô.
Tiếng gà eo óc lưng núi và tiếng sóng thì thầm trong đêm đã
khiến tôi nảy ý nghĩ trở lại nhà lưu niệm Sê-khốp, xem hai bức tranh bờ cỏ và
suối phong cảnh Nga của Lêvitan, treo trong phòng làm việc của Sê-khốp. Nhưng
không hiểu sao, đến sáng ra, tôi lại xuống bờ biển, tới gian phòng xanh trong
lâu đài Livađin. Cái ghế tổng thống Mỹ Ruđơven ngồi với chiếc xe đẩy vẫn đặt cạnh
ghế của nguyên soái Stalin đối diện với thủ tướng Anh Sơcsin.
Một căn buồng trong lâu đài di tích, biết bao nhiêu nơi tương
tự thế trên bờ biển bán đảo Crimê. Nhưng ý nghĩa lịch sử trọng đại đã bao trùm
tất cả. Lịch sử cuộc chiến đấu giằng co từ bấy tới nay giữa ánh sáng và bóng tối
trên trái đất. Ý nghĩa to lớn đến từng bước, từng người thong thả ngồi câu bên
sườn con tàu du lịch đỗ đợi khách ngoài cảng, đến tận chiếc thuyền buồm trên
bãi cát của xưởng phim Mát-xcơ-va đang quay cảnh thủy chiến ngày xưa, ở một người
đi nghỉ mát thư thái ngồi trông ra biển.
Trở lại Mát-xcơ-va, nửa đêm qua dưới đài Chiến Lũy. Đèn pha bốn
phía hắt như những luồng sáng điện năm xưa săn máy bay địch, quét lên trời.
Nhưng không, ánh sáng chạm vào những thanh bê tông sáng trắng như bọc tuyết.
Chiến lũy lặng im trong sương mù.
Vlát kể:
- Hồi ấy, nhà tôi ở phố Vasanốpxky…
- Hôm nọ về nhà anh lấy sách, tôi có cảm tưởng nhà anh bỏ
không.
- Thỉnh thoáng tôi mới về.
- Sao thế?
- Em tôi năm ấy đương học hóa. Cả thành phố ra đào chiến lũy
bảo vệ Mát-xcơ-va, cả các trường đại học. Nó đã hi sinh ngay ở chiến lũy. Mẹ
tôi cũng mất rồi… Một mình tôi… tôi không muốn trở lại nơi có những kỷ niệm ấy.
Ánh điện đêm đêm rọi lên những thanh xi măng đôi chốc lóe lên
màu xanh rợn. Nhưng mà kỉ niệm vẫn cứ trở lại. Những ý nghĩ về cuộc chiến đấu sống
còn bảo vệ Mát-xcơ-va làm cho tôi có ý muốn hôm nào tôi sẽ hỏi ông thợ giầy
Ivan Nichêtốp về cái nạng và sự tích một bên chân ông đã để lại Stalingrát.
Cái phố nhỏ giữa bề bộn những chiếc xe húc dữ tợn quây quanh.
Ai qua lại Mát-xcơ-va tất đã quen thuộc với những giàn giáo lắp ghép, những cần
cẩu xoay bốn phía ngày ngày kéo lên những tòa nhà tám tầng và đầu tiên là việc
đám xe húc xử sự với những dãy nhà, những ngôi nhà hàng trăm năm trước để lại.
Những cụ già không biết từ đâu lặng lẽ kéo đến nhìn cảnh ấy.
Cụ ông đội mũ phớt, mặc áo tăng-quát xanh nhạt, ống quần
lơ-vê gấu và đôi giầy cổ móc dây - kiểu ăn mặc thời các cụ. Cụ bà choàng khăn
vuông len mỏng dài rộng bằng cả cái chăn trùm lên đầu. Các cụ tha thẩn không
nói, đăm đăm nhìn những bức tường quỵ xuống. Một cụ bà đưa khăn tay lên chấm mắt.
Những người ấy xưa kia ở phố này, đã có kỉ niệm với những
ngôi nhà. Các cụ nhìn lại lần sau cùng những ngôi nhà cũ. Thời gian không bao
giờ còn trở lại, người ta thường lơ đễnh trước sự thật, mà chỉ đến lúc nhìn thấy
cái xe húc hạ xuống những mảng tường, những cầu thang, những hốc mái cho chim bồ
câu ẩn, mới thình lình nhận ra tiếng xích xe dửng dưng nhai ngấu nghiến, thời
gian lạnh lẽo đến rùng mình biến vào cái ngoàm ấy.
Bên gốc cây hoa tuyết mùa hè trong kia, ông Ivan ngồi ở trạm
chữa giầy. Một hôm nào, xe húc chắc sẽ ngoạm đến chỗ ấy. Ông vẫn ngồi cắm cúi,
mải miết kéo chỉ, cắt, giội búa. Những tòa nhà nhiều tầng đương mọc lên quanh
ông. Biết bao nhiêu phố phường, cả một quận mới của Mát-xcơ-va đã thay đổi như
thế, dường như ông đã quen mắt đến không để ý nữa.
Tôi hỏi:
- Ông người ở đâu về Mát-xcơ-va?
- Không, nhà tôi đến Mát-xcơ-va làm công nhân đã mấy đời rồi.
Thuở bé, ngày nào đi mua bánh mì cũng qua ngõ này. Tôi thuộc từng cái cửa sổ thấp
dưới đất. Trẻ con hay chơi nấp ở đấy.
- Thế mà ông chẳng nghỉ tay mà ra chào những ngôi nhà cũ một
lần cuối. Có cụ khóc đấy.
- Tôi cũng khóc chứ. Những giọt nước mắt vui của tôi. Cái phố
đổi đời rồi.
- Tôi không hiểu.
Ông Ivan trỏ tay:
- Đồng chí hãy trông ngôi nhà cuối ngõ kia.
Một ngôi nhà một tầng đứng một mình. Không biết nhà ấy ngày
trước là nhà ở hay một công quán, một cửa hiệu - cái nhà cổ kiến trúc Nga. Ở
các làng xóm xa xôi, đâu cũng thấy hình dáng ngôi nhà này. Những cây gỗ to một
ôm xếp ngang lên làm vách. Cửa sổ sâu hoắm. Những phiến gỗ mái như đá đen.
Ông thợ giầy cười, ánh mắt lên:
- Nhà mới bốn bên cứ việc tám tầng, hai mươi tầng và cao hơn
nữa, nhưng cái nhà gỗ kia, thành phố vẫn giữ như thế và nó sẽ là quán cà phê
“tuyếc”, theo lối uống của người phương nam. Thế mới đúng Mát-xcơ-va!
Tâm sự và kỉ niệm của người già. Khoảnh khắc và không cùng…
Những phố nhỏ trổ xa hai bên đại lộ, con đường yên tĩnh đến công viên, đến
nghĩa trang vẫn thanh thả như từ bao giờ, không hề biết đến hai bên dưới đương
sinh sôi những đường hầm xe điện chằng chịt ra trên hai trăm cây số trong lòng
đất - mà sáu giờ cao điểm mỗi ngày có ngoài tám triệu người đi lại, một nửa con
số trên đường Mát-xcơ-va. Những đường xe điện ngầm tối tân cửa trổ xuống 126 ga
trang trí ốp lát đá hoa cương Uran trắng bạch xám sáng, đá Grudia đỏ hồng, đá
Crimê vàng nhạt, đá đỏ từ hồ Ônêga, các ga Mát-xcơ-va đẹp nhất các ga xe điện
ngầm trên thế giới.
Những dòng sông ở Mát-xcơ-va lại rưng rưng xanh mờ lên rồi.
Làn sương mỏng mảnh, lóng lánh như ủ bóng, như soi gương. Hiện đại và quá khứ
Mát-xcơ-va đan vào nhau, khác nào sông Mát-xcơ-va, dòng nước không phải chỉ một
con sông bốc hơi muôn thuở. Không, bến cảng xinh xinh bên chân thành Kremli
cũng từ một nhánh sông đào - công sức của bàn tay và khoa học. Trên các nhánh
sông đào, sông máng của sông cái Mát-xcơ-va chi chít hơn hai trăm công trình đập
nước, bơm nước, thủy điện, hệ thống đèn pha, các bến cảng, những cánh rừng
thông, rừng bạch dương, những đồng lúa mì, đồng hoa mặt trời vàng rực, tất cả đổ
vào hồ chứa nước dài trên trăm cây số được gọi bằng cái tên tự hào là “biển
Mát-xcơ-va”. Hơi thu ẩn hiện trên thành phố mát rượi thiên nhiên hòa kỷ niệm với
bao nhiêu huy hoàng bấy giờ.
Tô Hoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét