Bó hoa Bắc Việt 2
CHUNG QUANH ĐẦM VẠC
Nếu chúng ta có dịp đứng trên núi Tam Đảo nhìn xuống Vĩnh
Yên, chúng ta sẽ thấy sát ngay tỉnh lũ Vĩnh Yên một làn nước trắng bao la, giống
hình một chiếc vạc ba chân: đấy là đầm Vạc.
Đầm Vạc là một chiếc đầm lớn rộng, ở liền kế ngay tỉnh lũ
Vĩnh Yên, hình giống một chiếc vạc ba chân, ăn vùng qua chín làng thuộc hai huyện
Tam Dương và Bình Xuyên đi từ xã Vĩnh Thịnh, Tịch Sơn, Đông Đạo, Vị Thanh, Vị
Trù, Khai Quang thuộc huyện Tam Dương,
suốt đến mấy xã Quất Lưu, Ngọc Canh, Hương Canh và Tiên Hương
thuộc huyện Bình Xuyên, ăn thông với hai con sông Cà Lồ và Tiểu Đáy. Nước sông
Cà Lồ trước kia chảy vào đầm Vạc và trút ra sông Tiểu Đáy do một nhánh sông đào
nhỏ, nhưng ngày nay nước sông Cà Lồ chảy thẳng qua sông Đuống, và nơi ăn thông
với đầm Vạc cũ đã bị ngăn lấp.
Nước đầm Vạc trong và mát; cá đầm Vạc béo và ngon, và những
dân làng sống quanh đầm Vạc chỉ cần chịu khó đôi chút là được hưởng tất cả những
nguồn lợi thiên nhiên của tạo hóa chứa đựng trong đầm này.
Thật vậy, đầm Vạc rộng và sâu, nước lên xuống tùy theo mùa
mưa mùa nắng, khiến đàn cá ở sông Đáy, khi nước lên, theo dòng nước vào đầm, và
lúc nước ra, ở lại đầm, biến thành một nguồn lợi cho chín làng ở quanh đấy.
Ngoài ra, đất ở đáy đầm là một thứ đất sét quánh, dùng để nung lon nặn nồi rất
tốt người ta vẫn thường lấy để mang bán cho các nơi làm đồ gốm như Thổ Hà ở Bắc
Giang, Bát Tràng ở Bắc Ninh, Định Trung ở Vĩnh Yên v.v...
Ven bờ đầm, những đám rong xanh dùng cho lợn ăn rất lợi, có
thể thay bèo và rau được.
Sống ở chung quanh đầm Vạc, lẽ tất nhiên người dân biết khai
thác phải được hưởng những nguồn lợi vô tận của đầm này. Người ta đánh cá, người
ta nuôi lợn, người ta đào rạch để lấy nước trong những năm hạn hán, người ta lặn
xuống đáy đầm để lấy đất sét dùng cho nghề nặn. Và cỏ mọc ở bờ đầm rất xanh tốt,
trẻ con trong các làng vẫn cho trâu ra gặm cỏ, và các cô gái cùng nhau cắt cỏ
nơi đây.
Sáng sáng, từ lúc tinh sương, trên mặt đầm đã có người, nhất
là ở khu giáp mấy làng Vị Thanh, và Vị Trù. Dân mấy làng này ra đầm đánh cá,
trai có, gái có, trẻ có, già có. Đánh cá ở đầm cũng vất vả như đánh cá ở sông
và cũng cần đủ những dụng cụ như vậy: phải có chài, có lưới, có thuyền. Ngoài
ra còn cần đặt thêm đó, thêm lờ ở những chỗ nước chảy vào đầm hoặc từ đầm chảy
ra ruộng để đón cá.
Đầm Vạc tuy rộng và sâu, nhưng khu sâu nhất là ở ven xã Vị
Thanh, mé bên kia tỉnh lũ Vĩnh Yên, và các cá lớn vẫn tập trung ở khu này.
Mỗi buổi sáng dân xã Vị Thanh đánh được rất nhiều cá. Cá ở
đây có tiếng là ngon và sạch, nên phường buôn thường tranh nhau mua.
Cảnh đánh cá trên mặt đầm hoạt động và vui vẻ lắm.
Sáng tinh sương, ánh bình minh vừa hé ở phuơng đông, những
người dân chài đã có mặt ở ngoài đầm. Mặt trời tự phương đông chiếu đỏ xuống mặt
đầm. Gió sớm làm làn nước bạc rung rinh, gây nên những con sóng nhỏ gợn hồng dưới
dương quang. Những con thuyền đi ngang đi dọc trên mặt nước. Bơi chèo khua xuống
nước, nước bắn lên mạn thuyền tóe trắng như bạc. Thuyền từ từ đi, người thuyền
chài chiếc lưới gai đen tỏa ra rơi xuống mặt nước, chùm một bề mặt khá lớn rộng,
rồi khép dần lại ở dưới nước theo sức nặng của những thỏi chì, khiến những đàn
cá ở trong vòng lưới đành chịu mắc nghẹt để chờ lôi lên khỏi mặt nước. Có những
chiếc thuyền chài lội hẳn dưới nước chăng ra quây hẳn lấy một vùng đầm. Trong
khi đó thì có những thiếu nữ, những ông già chở những chiếc thuyền nan đi đuổi
cá về phía chăng lưới. Thuyền nan bơi nhè nhẹ, thiếu nữ hoặc ông già dùng hai
miếng gỗ gõ mạnh vào nhau tạo nên những tiếng động xua cá về cả một hướng. Chiếc
lưới chăng dần dần khép lại. Đàn cá bị đuổi, bơi mắc vào mắt lưới.
Mỗi lần một chiếc lưới kéo lên, những con cá bạc quẫy như muốn
trốn. Chiếc lưới kéo dần dần, đàn cá mắc lưới nhoi dần lên khỏi mặt nước, được
các người trên thuyền gỡ dần ra ném vào khoang. Cá to có, cá nhỏ có. Có cá
chép, có cá trắm, có cá mè là những loại cá to, nhưng lại có cả cá mương, cá diếc,
cá bống, cá mại là những con cá nhỏ. Người ta sẽ chọn để riêng từng loại cá để
tiện bán cho những hàng buôn đang chờ đợi trên bờ đầm.
Vừa đánh cá người ta vừa trò chuyện nói cười với nhau. Mặt trời
dần dần lên cao, cuộc đánh cá hàng ngày cũng xong dần. Những chiếc thuyền được
đưa vào bờ. Mặt đầm vẫn nhuộm hồng ánh tía của mặt trời.
Cá được các hàng buôn mua ngay tại bờ, hoặc có khi vợ con các
nhà chài tự mang bán tại chợ Vĩnh Yên.
Sau buổi đánh cá sớm ngày, đầm Vạc trở nên hoang vắng, tuy
nhiên vẫn còn một đôi người đơm cá hoặc úp cá ở ven bờ, nhất là ở các thửa ruộng
sát liền với đầm, và mấp mé mặt nước đầm. Một vài ngư ông có tuổi, với chiếc cần
câu, thủng thỉnh buông câu, dưới nắng sớm một cách thật là nhàn nhã. Chiếc thuyền
nan bềnh bồng theo sóng nhẹ, mặt nước đầm lăn tăn. Đầu đội chiếc nón mê che nắng,
ngư ông ung dung mắc mồi, thả câu mặc cho thời gian đi, tuởng chừng như không
biết tới đời là gì nữa. Thỉnh thoảng chiếc phao nổi dập dềnh, nhấp nháy, ngư
ông giật cần câu lên, thường thường là một con cá bạc đã cắn câu, đương vùng vẫy
ở đầu sợi dây để tìm lối thoát thân.
Trong lúc một vài ngư ông già còn buông câu một cách thanh
bình như vậy, thì những người đánh cá ban sáng đã người nào việc ấy rồi. Các bà
nội trợ, các cô gái mang cá đi bán tại chợ tỉnh Vĩnh Yên; các thanh niên sau
khi kéo thuyền vào một chỗ trên bờ, đang xem lại thuyền, đang sửa lại lưới để
dùng ngày hôm sau. Những người đàn ông có lẽ đã đi thăm đồng, có lẽ đang đôn đốc
công việc trong nhà, hoặc có khi đang nghĩ đến việc khơi mương cho cá theo nước
chảy vào ruộng.
Cũng như tất cả dân quê miền Bắc người dân ở đây rất siêng
năng chịu khó, ham công ham việc. Có việc tại dân số miền Bắc quá đông, cuộc sống
quá chật vật nên người ta phải vất vả chăm làm.
Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ mang phần tới cho.
Những người dân ở đây, sáng dậy từ tinh sương, làm lụng suốt
ngày, mãi thật khuya mới đi nghỉ. Ai có việc nào lo việc ấy, và việc nọ vừa làm
xong, họ làm ngay tới việc khác.
Những người đánh cá ban sáng, sau buổi chài, lại săn sóc ngay
tới công việc cày cấy của mình, nào tát nước, nào làm cỏ, nào phát bờ. Có nhiều
gia đình lại lợi dụng đất gần đầm tiện việc tưới bón để trồng rau. Các thiếu nữ
những gia đình này, trừ những buổi chợ, thường ngày luôn luôn ở ruộng rau. Các
cô bắt sâu, các cô tưới nước, các cô bón phân, và khi rau ăn được, lại cũng
chính các cô cắt rau mang bán. Các cô không nề hà công việc tỉ mỉ hay nặng nhọc.
Quần xắn cao, các
cô gánh nước đầm lên tuới rau, rồi các cô lại vén tay áo bắt
từng con sâu, bón rau từng gốc.
Ruộng cau chia làm nhiều luống, màu rau xanh xanh nổi lên màu
đất nâu nâu. Những cây rau ngày một tốt, màu xanh xanh biến dần sang màu xanh đậm.
Rồi rau trổ hoa. Những luống rau để bán đã được cắt dần, còn những luống rau để
giống thì có hoa rồi có hạt. Các cô gái quê tươi tỉnh, vui vẻ nhanh nhẹn săn
sóc những luống rau.
Ngoài công việc trông nom các vườn rau, các cô cũng cần để ý
tới công việc đồng ruộng nữa, vì nguồn lợi chính của gia đình các cô hàng năm
là hai vụ gặt.
Các cô cũng như người nhà, theo từng tháng trong năm phải làm
công việc ngoài đồng. Nào gieo mạ, cấy lúa, bón phân trồng màu, gặt hái v.v...
Chiều chiều những ngày mùa xuân, sau khi công việc khác đã
vãn, các cô thường cùng lũ trẻ dắt trâu cho gậm cỏ ở bờ đầm. Với mưa bụi của
ngày xuân, những ngọn cỏ non vươn mình mơn mởn. Đường bờ đầm quanh co, mươi con
trâu thủng thỉnh đi bước một hoặc đang cúi đầu gậm những đám cỏ non tươi. Lũ trẻ
có đứa đang thổi ống sáo theo một bài hát cổ tự bao giờ; có đứa dắt trâu lững
thững và thỉnh thoảng lại kêu một tiếng “họ” rất dài trước một bãi cỏ non. Các
cô gái quê cũng chăn trâu, các cô cũng theo, sự vui sướng hồn nhiên của các em
bé nói cười với chúng. Các cô cũng ngồi trên mình trâu hoặc cũng đang bước một
theo con trâu của mình.
Chăn trâu cũng lắm cái thú. Nhìn con trâu ăn cỏ một cách ngon
lành, dưới bầu trời rộng rãi, bên làn nước trắng trong, cạnh những cánh đồng
bát ngát, làm sao lòng người ta không rộn ràng say sưa được. Gió nhẹ như đùa
mái tóc mây, mùi lúa xanh bốc lên ở cánh đồng chiều ngào ngạt. Ánh mặt trời
xuân tía úa ở non Đoài chiếu lan trên đồng rộng tô điểm cho lúa xanh nuớc trắng.
Xa xa chuông chùa thu không, thong thả buông từng tiếng êm và dài. Đàn chim chiều
bay về tổ hiện rõ trên không trung nổi bật lên nền trời xám đục. Tiếng ca của
em bé vẳng lên:
Ngày xưa Nịnh Thích chăn trâu.
Mà rồi đeo ấn công hầu trâu ơi!
Ngày này lưng nghé ta ngồi
Mai sau ta có một thời hiển vinh?
Bên đám trẻ và các thiếu nữ chăn trâu, có những cô khác đi cắt
cỏ. Lưỡi liềm sắc bén cứa vào cỏ soèn soẹt. Tay trái các cô nắm ngọn cỏ, tay phải
các cô đưa liềm đều đều. Các cô xếp cỏ vào đôi quang gánh, lớp nọ trên lớp kia.
Các cô lom khom bên bãi cỏ xanh, in bóng đen xuống nền cỏ. Có khi các cô hát
vài câu.
Và không xa đấy, bên những thửa ruộng, có những chàng nông
phu đang xẻ mương lấy nước, đang phát bờ hoặc đang cuốc ruộng màu.
Mặt trời dần khuất. Chàng nông phu ngừng tay, nhìn đàn chim
bay về tổ. Chàng thở ra khoan khoái vì kết quả của một ngày vất vả. Bỗng tầm mắt
chàng bắt gặp cô cắt cỏ bên đầy bên vơi ở trên bờ đầm. Chàng hỏi đùa vài câu
chuyện, và cũng có khi chàng hát ghẹo các cô:
Mặt trời đã xế về Tây,
Hỡi cô cắt cỏ bên đầy bên vơi,
Cô còn cắt nữa hay thôi,
Để tôi cắt với làm đôi vợ chồng?
Nghe chàng nông phu hát cô gái có khi mỉm cười, có khi nguýt
dài chàng một cái. Cô bảo:
- Sao nhà bác nói dễ nghe thế! Này tôi bảo cho nhà bác
nhé:
Giầu vàng còn để trong cơi
Anh kia đũa mốc chớ trèo mâm son!
Bị câu nói chanh chua, chàng nông phu chỉ mỉm cưòi, chàng
cũng chẳng lạ gì các cô gái làng nữa, các cô khẩu xà nhưng tâm Phật. Chàng lại
nói trêu hát ghẹo. Chàng nói:
Sao nhà chị chua ngoa thế.
Giầu vàng đâu mãi trong cơi.
Sợ mai giầu héo, giầu ơi là giầu!
Trời tối dần dần. Đàn trâu trên bờ đầm lần lượt đi về làng.
Các cô cắt cỏ cũng xếp lại quang gánh ra về, và các chàng nông phu cũng vác cuốc
trên vai lững thững đi theo các cô trên nẻo đường làng. Vừa đi có chàng vừa tiếp
tục cuộc nói chuyện dở dang, đem những lời ong bướm cợt trêu người thiếu nữ vừa
cùng chàng đối đáp. Trước những lời chòng ghẹo của chàng trai, nhiều khi cô gái
đã cự tuyệt một cách tinh tế.
Bao giờ trạch đẻ ngọn đa,
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.
Trời tối hẳn, bóng lẫn vào bóng tối: bờ đầm, bãi cỏ trở nên vắng
vẻ. Mọi người đã về làng, cho đến sáng sớm hôm sau ngoài đồng mới lại có bóng
người.
Và đầm Vạc, với ánh bình minh, trên bờ dưới nước lại có cảnh
hoạt động hàng ngày.
Có làng như làng Khai Quang tuy ở gần đầm Vạc, nhưng không sống
về nghề đánh cá. Hoạt động của dân làng này ngoài công việc đồng áng, họ chuyên
việc nặn và nung các đồ sành. Hàng ngày trong khi đàn bà trẻ con ở nhà nặn đồ
nung thì có những người đàn ông ra đầm lấy đất sét. Họ rủ nhau từng bọn hai ba
người, mang thuyền ra giữa đầm để lấy đất. Đất sét ở đáy đầm Vạc quánh và mềm,
dùng trong nghề nung rất tốt, nhưng việc lấy đất rất công phu.
Chiếc thuyền gỗ không mui chèo ra giữa đầm được cột chặt vào
chiếc sào cắm sâu xuống đáy đầm. Một người ở lại trên thuyền còn mấy người khác
chỉ quấn mỗi người một chiếc khố lặn xuống nước dí chiếc mai để đào đất. Đất họ
xén thành từng tảng vuông. Mỗi lần được một tảng đất, họ lại nhoi lên đưa cho
người ở thuyền đỡ lấy, xếp >vào khoang thuyền. Người lấy đất lại ngụp
xuống và một lát sau họ lại mang một tảng đất khác lên.
Từng tảng đất một, họ kiên tâm lấy cho tới chất vừa thuyền họ
mới thôi. Những tảng đất sét lấy ở dưới đầm lên còn uớt nước ở bên ngoài, trong
như bôi mỡ. Ánh mặt trời chiếu vào lớp nước ngoài óng ánh những tia đỏ chói.
Khi đã lấy đất xong, họ thủng thỉnh bơi thuyền vào bờ. Những
tảng đất sét lấy đó, qua bàn tay đàn bà con gái ở nhà, sẽ biến thành những chiếc
nồi đất màu ngói, những chiếc chậu màu da lươn hoặc những chiếc chum màu gạch
già.
Những người dân chung quanh đầm Vạc mỗi làng mỗi nghề. Họ
quanh năm làm lụng để lo sao cho gia đình không những đủ tiêu, lại sung túc hơn
người. Họ làm việc không quản ngại thời tiết nóng hay lạnh, mưa hay nắng, sớm
hay trưa.
Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Đầu năm chí cuối họ làm ăn cần cù chăm chỉ, và họ chỉ giải
trí nghỉ ngơi trong dịp Tết và những dịp hội. Trong những ngày này thì trai
cũng như gái, trẻ cũng như già, họ đều nghỉ ngơi, để dự hội cũng như để vui
chơi. Ngày thường họ quần áo lam lũ thì ngày hôm nay, có bộ quần áo nào đẹp nhất
họ mang ra mặc. Họ cũng vui vẻ tươi tỉnh hơn. Gặp nhau ở hội họ hớn hở chào đón
ngợi khen nhau.
Mỗi làng ở quanh đầm Vạc có tục lệ riêng của mình. Làng Tích
Sơn thì ngày mồng bốn tháng giêng có tục thi cơm. Các cô gái làng phải lo thổi
nồi cơm cho thật dẻo, thật ngon. Các trai làng kén vợ thường kén qua nồi cơm
thi các cô thổi cho cha hoặc anh em để trình làng. Ngoài thi cơm còn thú kéo
co, tục chém gà và lễ rước thần từ đền làng đến chân Bàu. Làng Vị Thanh có tục
đánh vật và chơi Trung Bình Tiên. Vị Thanh là một lò đô vật có tiếng ở Vĩnh
Yên. Các đô vật làng này đã nắm nhiều giải ở các làng trong tỉnh trong dịp đầu
xuân. Làng Động Đao cũng có tục Vật và tổ chức hội làng vào ngày rằm tháng
giêng tại chùa Cói, là một ngôi chùa cổ của miền Bắc. Các làng khác cũng đều có
mở hội vào tháng giêng. Hội có rước thần, có đánh vật,
có đánh cờ. Hội ở mấy xã Ngọc Canh, Hương Canh và Tiên Hường
hàng năm mở to lắm. Ba làng này là ba làng giàu có nhất ở quanh đầm Vạc, nhiều
ruộng lại có nghề buôn bán rất phát đạt. Hàng năm những vụ nước lên, đem mầu mỡ
vào ruộng, đồng lúa càng thêm tốt.
Quanh đầm Vạc, mỗi làng mỗi vẻ, mỗi xã có mỗi nghề. Ai tới
vùng này có lẽ đã được nghe câu đồng dao:
Vị Thanh đánh vật
Đào đất Khai Quang
Làng Cánh[5], Tiên Hường
Lắm tiền nhiều ruộng.
[5] Để chỉ hai làng Ngọc Canh và Hương Canh, tục là làng Cánh
Có thể lời đồng dao còn dài, và còn có ghi đến các xã khác,
nhưng vì lâu ngày người ta chỉ truyền khẩu được có bốn câu trên; cũng có thể vì
các làng khác không được người ta chú ý bởi không có gì đặc sắc, nên không được
truyền vào lời đồng dao chăng? Nhưng dù làng đó có tên hay không ở lời đồng
dao, thì những người dân quê chịu khó ở quanh đầm Vạc vẫn suốt đời tận tụy với
việc mình.
NGHỀ HÀNG XÁO 1
Nghề hàng xáo chỉ có ở miền Trung và miền Bắc. Ở miền Nam kỹ
nghệ xay thóc đã mở mang, người ta dùng máy móc thay cho nhân lực để xay lúa
thành gạo, nên không có những người hàng xáo đi đong thóc về xay, giã thành gạo
đem bán cho người dùng.
Trên khắp các địa hạt Trung và Bắc, ở đâu cũng có nghề làm
hàng xáo, nhưng thịnh hành nhất ở chung quanh các đô thị. Ở nhà quê chỉ những
người ăn đong mới mua gạo của hàng xáo, còn những nhà có
ruộng, thì nhà nào cũng có cối xay, cối giã và thường thường
người nhà làm lấy gạo để dùng.
Các xã ở sát các tỉnh lũ, dân chúng phần đông cũng vẫn theo
đuổi nghề nông, nhưng có phần sinh nhai bằng nghề buôn bán tại các chợ tỉnh lũ,
và một phần nữa làm nghề hàng xáo. Những người đi buôn, cũng như những người
làm hàng xáo là những người không có ruộng nương, không thể dựa vào nghề nông để
sống và về nuôi gia đình được.
Làm hàng xáo thực ra cũng chỉ là một lối buôn nhỏ của những
người ít vốn. Mua thóc về, đem sức mình ra xay giã, dần, sàng, chế biến thóc
thành gạo đem bán cho người dùng, lấy công làm lãi.
Nghề hàng xáo là một nghề vất vả, thức đêm dậy hôm, đem bát mồ
hôi đổi lấy bát cơm, đem sức lao động đổi lấy một chút lời nhỏ.
Đấy là một nghề của những người không có vốn đi buôn to,
không có ruộng nương để cày cấy. Làm hàng xáo thường là đàn bà con gái. Chồng
con anh em họ chỉ phụ lực giúp thêm.
Thực vậy nhiều gia đình đã có một nghề khác, nhưng vợ con họ
vẫn còn rỗi rãi, mà tiền chi tiêu lại không dư dật, nên buộc lòng, các bà nội
trợ cũng như các cô gái phải hàng xay hàng xáo để kiếm thêm giúp đỡ cho gia
đình.
Phụ nữ làm nghề hàng xáo phải thành thạo. Có thành thạo mới
mong có lời nhiều, mới biết tính toán khi mua thóc lúc bán gạo, và cũng cần
thành thạo mới đỡ mệt nhọc trong công việc làm.
Người làm hàng xáo phải có nơi để đong thóc, cũng như phải có
khách để bán gạo.
Không phải người ta muốn mua thóc lúc nào cũng được và muốn ở
đâu cũng có. Nếu thóc mua dễ dàng về vụ gặt thì trong những ngày giáp hạt, mua
được thóc lại là một sự khó khăn. Phải biết ở làng nào có những người rẻ đong,
đắt bán; phải biết ở đâu có những chủ ruộng muốn bán thóc mà rủ nhau tới mới
hòng mua được giá hời, mới hòng đong nổi thóc khi không phải là ngày mùa.
Bọn hàng xáo họ đã hiểu những ai có tiền dư thường đong thóc
trong ngày mùa giá hạ, để bán ra khi giáp hạt giá cao. Bọn con buôn khôn ngoan
và chắc chắn mỗi khi bán thóc họ nghe ngóng giá thị trường để chỉ bán ra từng
ít một, nhưng các bạn hàng xáo không phải là người chịu mua thóc giá cao.
Họ là những người sục tìm mua thóc rất giỏi. Họ rủ nhau đi từng
bọn năm ba mươi người, đi khắp các làng ở quanh vùng, những điền chủ nào tích
trữ được nhiều thóc, họ đều biết rõ.
Có khi họ mua ngay ở xã mình, nhưng nếu ở đây chủ thóc muốn
bán nhích giá lên, họ tìm đi nhiều làng khác, hết làng gần đến làng xa. Hoặc chịu
đi xa lắm, họ sục vào trong các ấp, hoặc đi sang các tỉnh khác để đong thóc, cốt
sao mua được nới giá, mới mong kiếm được chút lời.
Với đôi quang gánh, đôi thúng, cái đấu, từng bọn rủ nhau vào
các nhà có thóc, kèo nài xin mua. Tuy nhiên mỗi khi đong thóc, họ đều kén thóc
già nắng, quạt kỹ. Thóc già nắng xay đỡ tốn, nghĩa là đỡ có nhiều tấm, thóc quạt
kỹ làm gạo đỡ hao. Và mua thóc, họ lấy đấu khảo lại thùng hạt thóc của người
bán để tính giá cả. Thùng non họ sẽ xin triết tiền.
Những người làm hàng xáo là những người chịu khó và chịu đựng
được mọi sự vất vả vật chất cũng như tinh thần. Mua thóc, họ phải mất công đi
hàng thôi đường dài dưới nắng rát của mùa hạ cũng như dưới mưa phùn của mùa
đông. Thóc mua rồi lại gánh nặng trên vai để trở về, qua một lần nữa những thôi
đường thăm thẳm. Ánh nắng ở mặt đường bốc lên, ánh nắng ở trên trời chiếu xuống,
hoặc gió buốt như cắt lùa qua mặt, hơi giá như đồng bao phủ lấy người, chân đi
đất, họ chịu đựng mọi thời tiết không hề phàn nàn. Họ chỉ cần có nơi mua thóc,
có thóc là họ mừng. Có thóc tức là có công việc, là có ăn.
Còn sự vất vả họ có nề hà gì. Đã làm nghề thì phải chịu sự nặng
nhọc khó khăn của nghề đó.
Vả chăng, đi mua thóc có bạn, quãng đường xa vui câu chuyện
có là bao. Bọn họ trẻ có già có, đứng tuổi có, có con gái, có cả những bà nội
trợ bốn năm con. Các bà nội trợ, nhiều bà thường vẫn kể lại
chuyện mình thời con gái. Các bà xưa kia đã từng ra giày vào
dép, đã từng có kẻ hầu người hạ, nhưng:
Đàn bà như hạt mưa sa
Hạt vào bãi cát, hạt ra vườn hồng.
Lấy chồng phải theo hoàn cảnh của chồng, phải sống theo nền nếp
nhà chồng, không thể mang cái phong lưu đài các của nhà mình tới được. Phải
giúp đỡ chồng, phải gánh vác giang sơn nhà chồng.
Sự làm lụng khiến con người trở nên rắn rỏi gọn gàng. Có nhiều
người quá chịu thương chịu khó, thân hình không thể nở nang được, đã gây cảm mến
giữa bà con bè bạn họ. Và trong bạn bè có ai thương hại hoàn cảnh của họ, ái ngại
cho họ vì quá lo tảo tần buôn bán đến nỗi phải thân hình gầy yếu, họ chỉ mỉm cười
hoặc đáp lại qua một giọng nửa như đùa, nửa như thật:
Những người thắt đáy lưng ong,
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.
Những người béo trục béo tròn,
Ăn vụng như chớp, cấu con cả ngày.
Phải rồi, thân hình gọn gàng gầy nhỏ thanh thoát chứng tỏ sự
khéo lo lắng để chiều chồng nuôi con, trái lại sự đẫy đà có làm gì, nếu không
phải như câu ca dao trên, nó chỉ tiêu biểu cho mấy cái tính xấu của đàn bà con
gái.
Làm hàng xáo không phải chỉ vất vả trong việc đi đong thóc,
mà còn vất vả cả trong các công việc khác nữa.
Thóc mua được, gánh về nhà, cần phải xay, giã dần cho thành gạo.
Những nhà làm hàng xáo, nhà nào cũng có cối xay, cối giã. Thường
thường người ta vẫn có một chái nhà riêng để làm gạo, như thế để tránh những bụi
bậm của trấu của cám.
Thóc mua về chính các bà các cô sẽ đổ vào cối xay lấy. Đôi
khi chồng con hoặc anh em có rảnh rỗi cổng việc thì đỡ tay vào.
Thóc đổ vào cối, các bà các cô tận lực mà xay, mặc dầu trời
nóng bức. Tiếng cối xay ù ù, đều đều. Hạt thóc được nghiến cho trấu tách ra.
Theo đà xay, trấu và gạo chảy xuống một chiếc nia kê ở dưới cối. Để cho quên mệt,
đôi khi họ vừa xay thóc vừa hát. Các bà hát lại những câu thường hay ca hồi con
gái để nhớ lại một dĩ vãng tươi đẹp, cũng như để quên hiện tại quá vất vả. Còn
các cô, đang độ thanh xuân, trong lòng còn mang bao nhiêu mộng đẹp, các cô vừa
hát vừa nghĩ đến một cuộc sống tưng bừng tốt đẹp hơn bên một người yêu. Nghề
làm hàng xáo vất vả quá, và cũng chẳng giũp các cô thừa thãi được bao nhiêu.
Các cô phải cố dành dụm lắm mới sắm được bộ cánh để mặc trong những ngày hội hè
trong những buổi đi ăn cỗ, hoặc đi chơi cùng chúng bạn.
Nghĩ đến chúng bạn là các cô nghĩ đến những chàng trai đã gặp
các cô, và đã nói với các cô những lời dịu ngọt hoặc là những lời nói thẳng, hoặc
qua mấy câu hát:
Hôm qua tát nước bên đình,
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Bắt được cho chúng anh xin,
Hay là em giữ làm tin trong nhà.
Nhan sắc kiều diễm của các cô đã từng được các chàng trai
khen ngợi, và nhiều phen các cô đã rung động tơ lòng trước những lời ca tụng của
các chàng:
Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.
Miệng cười như thể hoa ngâu,
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.
Những lời khéo léo ấy, các cô quên làm sao đuợc. Lòng thơ
ngây của các cô tránh sao khỏi bâng khuâng. Lại còn những lời khen rất ý nhị,
đã từng làm các cô vô cùng sung sướng.
Trúc xinh trúc mọc đầu đinh
Em xinh em đứng một mình cũng xinh
Trúc xỉnh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh.
Có những khi các cô đi đong thóc qua lối ngõ nhà chàng, đã từng
được chàng mời khéo dừng chân:
Đầu làng có một cây đa
Cuối làng cây cậy ngã ba cây dừa
Dù em đi sớm về trưa
Xin em hãy nghi bóng mát cây dừa nhà anh.
Theo dòng tâm tưởng của các cô, chiếc tràng cối vẫn đều đều
đưa chiếc thớt cối xay ù ù. Cô hát nhắc lại những câu hát mình đã được nghe, và
cô mơ mộng vẩn vơ, cho đến khi cối thóc xay xong.
Thóc xay xong, phải lo tới việc sàng để tách cho trấu rời khỏi
gạo. Công việc không nặng nhọc nhưng cần sự khéo léo. Phải làm sao trong gạo
không còn lẫn trấu nữa. Công việc này, vì phải làm hàng ngày, nên các bà các cô
quen tay làm rất gọn gàng.
Gạo đa dần rồi, còn phải giã trắng, chỗ trấu, đừng tuởng là bỏ
đi đâu. Trấu sẽ được dùng để hầm cám lợn, trải chuồng lợn. Gia đình nào làm
hàng xáo cũng đều nuôi lợn. Họ nuôi bằng cám giã ở gạo ra. Nuôi lợn tức là để
dành một cái vốn.
Việc giã gạo thường làm về buổi tối, sau khi mọi công việc
hàng ngày đã xong. Buổi tối những cặp vợ chồng trẻ cùng giã gạo, hoặc các cô
gái thì sẽ có các chị em hoặc anh em giúp đỡ.
Ban ngày các cô hàng xáo còn nhiều việc khác. Đi mua thóc về,
xay thóc, dần gạo là những công việc các cô phải làm đã đành, nhưng các cô còn
phải làm cả những công việc ngoài phạm vi chuyển thóc thành gạo nữa. Các cô phải
đi lấy bèo, phải hầm cám lợn và phải cho lợn ăn. Người nhà sẽ giúp đỡ các cô một
vài việc, nhưng chính các cô phải săn sóc lấy những công việc đó.
Có thể nói nuôi lợn cũng là ở trong khuôn khổ hàng xáo, vì
chính làm hàng xáo, có tấm cám thừa mới dùng để nuôi lợn và tiền bán lợn sẽ
giúp thêm vốn để mua thóc để dành dùng làm gạo trong những hôm không có nơi bán
thóc.
Nếu làm hàng xáo vất vả, thì nuôi lợn cũng không phải là công
việc nhẹ nhàng. Phải đi cắt rong, phải đi hớt bèo, dù trời nóng hay rét. Ta hãy
tưởng tượng những hôm gió rét căm căm, nước lạnh như băng, mà các cô thiếu nữ vẫn
quần vén tới ngang bẹn, lội xuống nuớc để vớt rong, vớt bèo! Bầu trời mùa đông
lại xám xịt như muốn sụp, có khi lại điểm mươi hạt mưa phùn, khiến cái lạnh lại
càng lạnh buốt! Ấy thế mà các cô thiếu nữ vẫn vui vẻ vớt bèo, vui vẻ vớt rong để
lấy các thức ăn cho lợn! Trời lạnh ư? Các cô bịt chiếc khăn mỏ quạ cho kín tai,
sẽ thấy bớt lạnh! Gió buốt ư? Các cô xây lưng lại chiều gió, tránh cho gió khỏi
tạt vào mặt! Vả chăng khi người ta vui với việc làm thì ngoại cảnh có chi là
đáng kể. Người ta chỉ cần nghĩ đến đàn lợn ngày một lớn, chúng đang ủn ỉn kêu ở
nhà là người ta vội vàng vớt cho đầy gánh bèo, cắt cho đầy rổ rong! Rong đó,
bèo đó, người ta còn phải băm, còn phải hầm với cám! Bây giờ ở ngoài ao, ngoài
sông tuy lạnh nhưng lát nửa vào bếp sẽ sưởi ấm bằng hơi lửa của trấu bốc lên!
Khói nghi ngút bốc ra ở nồi cám lợn hầm càng làm cho lòng người ta thêm ấm hơn!
Vì tất cả đấy sẽ là cái vốn để dành. Có thể lợn sẽ bán vào dịp
tết, tiền bán lợn sẽ giúp cho cái tết của gia đình thêm to, nồi bánh chưng thêm
đầy, sân thêm nhiều xác pháo, các cô cũng như các em sẽ có những bộ quần áo mới
để thưởng xuân. Và các ông chồng sẽ cũng nhờ món tiền bán lợn mà có vài lưng vốn
để khai xuân.
Bao nhiêu sự nặng nhọc, những người làm hàng xáo đều chịu đựng
được hết. Họ chỉ nghĩ đến cái vui của chồng, nỗi sung sướng của con, hay nếu họ
là các cô gái, họ chỉ nghĩ đến sự sung túc của gia đình, nghĩ đến cái hân hoan
của cha anh và nghĩ đến bộ cánh của mình trong những dịp hội, dịp xuân là họ
càng chịu khó hơn.
Đã bao nhiêu đêm họ phải thức khuya để giã gạo để sàng gạo mà
không biết mỏi. Đã bao nhiêu sáng, họ phải dậy sớm để đi bán gạo, để đi đong
thóc mà không biết mệt.
Giã gạo, họ đếm từng chầy, mong cho gạo chóng trắng. Việc giã
gạo nhọc nhất trong nghề làm hàng xáo, nhưng trong công việc này, họ vẫn được
người nhà giúp đỡ thêm, vì mọi người trong gia đình thừa rõ, sức một người phải
cố gắng lắm mới có thể dậm nổi cần cối, và như vậy mỏ cối không rơi xuống mạnh,
gạo sẽ lâu trắng.
Trong khi giã gạo, nhiều khi theo sự lựa chọn của khách hàng,
các bà các cô hàng xáo thường hồ cho gạo đuợc trắng xanh bằng cách giã lẫn một
chút lá cây vào gạo.
Gạo giã xong, các bà các cô phải sàng để cám và tấm tách
riêng khỏi gạo.
Gạo sẽ đem bán, cám dùng cho lợn ăn, còn tấm sẽ dùng để thổi
cơm để các bà các cô ăn. Cơm tấm no lâu, sẽ giúp các bà đi chợ đường xa quên mỏi,
và ăn cơm tấm đó, các bà các cô cũng lại đã tiết kiệm được một món tiền nhỏ cho
quỹ gia đình. Cơm gạo ngon, các bà dành cho chồng con xơi, còn tự các bà, bao
giờ các bà cũng tự hy sinh ăn cơm tấm. Chồng con có thương hại, bảo các bà cùng
ăn cơm gạo ngon, các bà chỉ cười. Có khi các bà nói:
Tấm cũng là gạo chứ sao! Bỏ đi hay cho lợn ăn phí quá!
Công việc làm hàng xáo bận quanh năm, nhưng các bà các cô vẫn
vui vẻ với nghề quên mệt nhọc. Hai thúng gạo đầy, hàng ngày gánh đi chợ bán, đó
là một phần thưởng đích đáng của mọi sự vất vả. Vả lại có vất vả mới có tiền,
gia đình mới vui vẻ, con trẻ mới có cơm ăn áo mặc! Ở đời ai chẳng phải làm,
không theo nghề này tất phải làm nghề khác!
Và những ai hàng ngày bưng bát cơm đầy, hạt cơm trắng và dẻo,
mùi cơm thơm và dịu, có bao giờ đã chịu nghĩ tới những sự vất vả của nghề hàng
xáo không?
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần!
Nhưng đắng cay thì mặc đắng cay, hết vất vả sẽ có lúc nghỉ
ngơi, sự nghỉ ngơi đó mới đáng quý.
Vất vả có lúc thanh nhàn Không dưng ai dễ cầm tàn che cho!
Quanh năm vất vả nhưng đến những ngày hội và những ngày tết họ
sẽ nghỉ ngơi, vui chơi cho thỏa thích những khi làm lụng. Họ sẽ leo đu, họ sẽ
đi chùa lẽ Phật, họ sẽ dự những cuộc hát quan họ, hát ví hay hát đúm, tùy theo
từng hội của từng vùng
Họ cũng sẽ rủ năm ba chị em cùng đi, như khi đi đong thóc,
nhưng những hôm nay là những hôm họ thong thả thanh nhàn, áo tứ thân khép nếp,
họ đeo hoa vàng, sà tích bạc, họ cố làm cho thân hình thêm duyên dáng, cử chỉ
thêm dịu dàng. Họ nói đùa với nhau, họ gán ghép cho nhau những chàng trai làng
hoặc trai thiên hạ!
Nhung ngày hội xong, ngày tết hết, họ lại trở lại cuộc đời
cân cù vất vả như mọi sự hy sinh của người phụ nữ Việt Nam.
--------------------------------
Nguyên bản của tác giả là Hàng Sáo |
TRỒNG DÂU CHĂN TẰM
Nếu chúng ta có dịp xuôi theo dòng nước trên các sông miền Bắc,
từ sông Đuống đến sông Cầu, từ sông Nhuệ đến sông Thương, chúng ta sẽ phải chú
ý tới những ruộng dâu ở hai bờ ven sông. Nếu phong cảnh hai bên bờ của mỗi dòng
sông được thay đổi bởi núi cao rừng rậm ở miền thượng du, thì khi dòng sông chảy
tới Trung du, ăn về đồng bằng những cánh núi rừng cao rậm, đã được thay thế bằng
những ruộng ngô, ruộng đậu, và nhất là ruộng dâu. Ruộng dâu có nhiều về mạn
Trung du hơn. Có lẽ đất nửa núi nửa sông ở mạn này hợp với cây dâu, và khí hậu ở
nơi này cũng thuận tiện với nghề tầm tang nhiều.
Nông tang là hai nghề cốt cán của những xứ nông nghiệp nhất
là những xứ kém mở mang về kỹ nghệ như nước ta. Người dân quê Việt Nam, trăm
người như một, đã thạo nghề nông họ lại biết cả nghề tầm tang nữa.
Sách có câu “Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”, thì người
dân quê Việt Nam, nhất là ở miền Bắc, khi đã lo đến đói, tất nhiên họ phải
phòng tới rét. Bởi thế cho nên, muốn có ăn họ cấy lúa cày ruộng, và muốn có mặc
họ phải trồng dâu chăn tằm.
Trồng dâu chăn tằm liên quan rất nhiều tới đời sống hàng ngày
của người dân, nên ruộng dâu và guồng tơ đối với họ cũng quí giá như đồng lúa
và bịch thóc.
Người dân quê sống giữa ruộng dâu, cũng như sống bên ruộng
lúa, cạnh lạch nước, trên đám đậu, nương khoai.
Nhà em ở dưới đám mây,
Thân trên đám đậu, đầu cầu ngó qua.
Ngó qua nhà trống bên sông,
Thấy con bìm bịp khãn hồng quay tơ.
Dâu trồng bằng cành. Người trồng dâu, đốn cành ở các cây dâu
khác, dâm xuống đất, những cành đó nẩy mầm, bén rễ, rồi mọc cây.
Mỗi năm dâu phải đốn hai lần để chặt hết những cành già, thân
cỗi, cho những mầm non mọc lên, nẩy ra nhiều chồi nhiều lá. Lá dâu xanh um,
trông mơn mởn như lụa nõn. Lá dâu hái để nuôi tằm lấy tơ.
Vuờn dâu xanh ngắt, liên tiếp nhau ở cạnh những bờ sông, đón
tia nắng sớm, hứng ánh sương đêm, hút hơi ẩm bốc từ mặt sông khiến lá dâu thêm
tốt, tằm ăn sẽ đượm tơ.
Du khách xuôi dòng sông chỉ thấy những ruộng dâu bát ngát,
xanh xanh rồi lại xanh xanh. Giá có những buổi tiễn đưa chắc người đi kẻ ở sẽ:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Chi xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
Bao nhiêu dâu xanh là bấy nhiêu tiền bạc của người dân. Người
trồng dâu mong lá dâu tốt cho tằm hơn tơ.
Thường thường hái dâu chăn tằm là công việc của phụ nữ. Chỉ
phụ nữ mới có đức tính chịu khó, nhẫn nại cần cù để theo dõi việc nuồi tằm, bận
rộn và vất vả hơn nuôi con mọn.
Người nuôi tằm tùy theo số tằm đang gây, đã ăn ngủ mấy lượt,
phải đi dạm mua dâu từ trước. Họ đến từng chủ các vườn dâu đặt tiền mua lá dâu
sắp tới, và khi cần đến họ mới cắt người đi hái dâu.
Trồng dâu ở ven bờ sông, nhưng người ta trồng cả trong vườn nữa.
Một vườn dâu, một năm bán được nhiều lứa. Loạt lá dâu này hái đi, vài tháng
sau, loạt lá dâu khác đã mọc lên, cũng xanh nõn rậm rạp như lứa trước.
Đi hái dâu, các cô thường rủ nhau vài ba người, như thể để vườn
dâu nào đã hái thì hái cho xong hẳn, và công việc làm có bạn bao giờ cũng nhanh
chóng nhẹ nhàng hơn.
Vườn dâu xanh xanh, ánh nắng bình minh tía chói, những hạt
sương sớm lóng lánh như muôn ngàn hạt trai trên những lá dâu. Cơm gió nhẹ làm
rung cành lá, để bóng các cô hái dâu thấp thoáng hiện ra như những nàng tiên
trong vườn. Má các cô ửng hồng dưới nắng mai, môi các cô thắm, mắt các cô
trong. Chiếc khăn mỏ quạ để lộ khuôn mặt trái xoan xinh xắn. Các cô cười có hai
hàm răng đều như hạt lựu và đen nhức như hạt na già. Tay các cô thoăn thoắt đưa
ngắt những lá dâu. Cành dâu lay động theo ngón tay cô hái lá. Mỗi khi các cô
vít cành cây dâu cao lại làm rung rinh cả bụi dâu, khiến những hạt suơng rơi lả
tả. Gió sớm như muốn vờn vài sợi tóc của các cô phơ phất ngoài nếp khăn. Những
con bướm đậu trong đám lá khi thấy động bay vụt ra và là lượn quanh khóm dâu
trước khi đậu vào một cành khác. Vài con chim khuyên líu lo hót ở một bụi xa
xa. Mây trên trời giăng hàng lững thững. Tia nắng mặt trời tỏa từ thấp lên cao.
Dòng sông bên cạnh vườn dâu chảy lững lờ. Vài con thuyền đủng đỉnh trôi theo
dòng nước.
Các cô ham với công việc. Mỗi lá dâu các cô hái đều là món ăn
của tằm, và mỗi con tằm sẽ nhả tơ kết kén, kéo kén dệt lụa, các cô sẽ có những
chiếc áo đẹp.
Em đi hái dâu,
Lá dâu xanh xanh,
Nuôi tằm dệt áo dâng anh chờ ngày.
Trúc mai có đó có đây,
Có tay nguyệt lão buộc dây tơ hồng.
Vừa hái dâu các cô vừa nghĩ đến công việc chăn tằm ươm tơ. Lá
dâu xanh, tằm ăn dâu, tằm nhả kén vàng, kén ra tơ nõn.
Các cô cùng trò chuyện, nào chuyện làm ăn, nào chuyện làng
trên xa dưới, nào lứa kén này được, lứa kén kia hỏng. Các cô làm quên mỏi. Đôi
bàn tay trắng muốt đưa đi trên đám dâu xanh. Hết nhánh dâu này các cô hái sang
cành dâu khác, hết khóm dâu này, các cô tới khóm dâu kia. Bao giờ cho lá dâu đầy
dành đầy giỏ các cô mới rủ nhau ra về.
Có khi các cô hát cùng nhau vài câu để quên mệt. Giọng các cô
vút trên cành lá, văng vẳng xa đưa, lan trên dòng sông. Có những câu hát tâm
tình, có những câu hát cổ tích, có những câu ca dao dịu dàng và cũng có những
câu hát khôi hài ý nhị. Một cô hát lên, vài ba cô hát đáp, vườn dâu như trở nên
linh hoạt hơn. Rồi có tiếng cười hồn nhiên xen vào vài câu chuyện vui vẻ.
Dâu hái về hoặc để nguyên cả lá cho tằm ăn, hoặc phải thái nhỏ
từ khi tằm mới nở cho tới khi đã ngủ ba. Tằm có khi ăn khi ngủ. Lúc tằm nhỏ, phải
cho ăn đầy bữa, và lá dâu phải thái thật nhỏ. Tằm lớn dần thì dâu thái bớt nhỏ
đi; đến khi tằm ăn rỗi tức là lúc tằm sắp chín, có thể cho tằm ăn cả lá dâu.
Nuôi tằm lúc tằm nhỏ tuy vất vả nhưng không phải chạy dâu,
nhưng lúc tằm lớn, phải có sẵn dâu, không thể để tằm thiếu ăn đuợc.
Một bát trứng tằm nở ra, lúc nhỏ chỉ để trong một cái mẹt, rồi
theo với sức lớn của tằm phải chuyển sang một chiếc nia, một chiếc nong
rồi nhiều chiếc nong. Một nong tằm khi chín, kéo kén, số kén
sẽ được nhiều nong:
Một nong tằm là năm nong kén,
Một nong kén là chín nén tơ,
Công em trăm đợi nghìn chờ,
Mà anh rứt chỉ guồng tơ cho đành.
Nuôi tằm rất khó khăn, phải che nắng che gió, phải phòng nóng
phòng lạnh. Trời đang tự nhiên, nếu chuyển gió tây, tằm sẽ bị hỏng. Có thể tằm
mắc bệnh nghệ, nghĩa là toàn thân con tằm vàng như nghệ, hoặc mắc bệnh ủng,
nghĩa là thân con tằm mọng những nước mà chết:
Lạy giời đừng chuyển gió tây, Lứa tằm em đã đến ngày nhả tơ.
Tằm đã ăn rỗi nghĩa là tằm đã sắp chín. Lúc này là lúc rất cần
nhiều dâu cho tằm ăn. Mỗi lá dâu lúc này là một sợi tơ. Thiếu ăn, khi kéo kén,
thân kén sẽ mỏng, ươm kén sẽ thiệt tơ. Lúc này là lúc bao nhiêu vườn dâu đặt
trước, người nhà phải chia nhau đi hái để đủ cho tằm ăn. Như vậy tằm mới đầy
kén, và đượm tơ.
Phương ngôn có câu “Ăn như tằm ăn rỗi”, để chỉ sự ăn nhiều,
ăn nhanh, ăn bỗ bã, thật là đúng. Tằm cắn vào lá dâu sào sạo. Lượt dâu vừa vứt
vào nong tằm, không mấy chốc đã hết veo, lại phải vứt luôn lượt dâu khác. Thân
những con tằm trong óng ánh mọng những tơ. Người nuôi tằm đã phải vất vả, nhưng
nhìn đến kết quả người ta càng chịu khó hơn.
Các cô gái chia lượt nhau đi hái dâu và săn sóc cho tằm ăn.
Người nhà cũng phải ngừng nhiều công việc khác để ý giúp đỡ vào lứa tằm.
Rồi đến lúc tằm chín. Loáng thoáng trong nong vài con tằm nhả
tơ cuộn kén. Bấy giờ là lúc phải cho tằm lên né.
Chiếc né tằm giống như một chiếc vỉ lớn bằng chiếc nong, đan
bằng tre hoặc nứa. Ở các mắt chiếc vỉ lớn này, có ken rơm. Những con >tằm
chín được nhặt từ nong đặt lên trên né, bám vào những cụm rơm để làm kén.
Cảnh bắt tằm chín đặt lên né trông rất linh động. Ở những chiếc
nong to, tằm còn đang ăn, người ta chọn những con nào đã bắt đầu nhả tơ kéo
kén, nhặt để trên né. Một dãy nong dài đầy tằm, lẫn lá dâu đặt ngay trên mặt đất.
Vài cô thiếu nữ tiếp tục vứt dâu cho tằm ăn. Bà nội trợ và vài bà già nữa lựa tằm
mang lên né. Lũ trẻ con chạy quanh, bí bô chỉ chỏ, như hình chúng chia vui với
kết quả tốt đẹp của lứa tằm sẽ mang lại cho gia đình.
Một dãy né treo theo xà nhà, chừng hai chục chiếc, song song
cùng nhau khẽ lắc lư theo sự đụng chạm của người đặt tằm vào né. Những con tằm
bám vào cụm rơm, cuộn tổ. Đầu tiên là những chiếc kén vàng mờ mờ mong mỏng, còn
để cho ta thấy rõ con tằm qua lượt tơ vàng óng ánh. Rồi chiếc kén đầy dần, hình
con tằm không còn lờ mờ qua lượt tơ nữa. Những chiếc kén vàng ánh nằm bên nhau,
phủ lên chiếc né. Thật là trồng cây đến ngày ăn quả. Người ta sung suớng nhìn
những ổ kén đậm tơ vàng.
Tằm đã lên né hết, và trên né, mỗi con tằm đều là cuốn kén.
Người ta bắt đầu gỡ kén để vào nong. Người ta khe khẽ nhặt từng chiếc kén một
khỏi cụm rơm để xuống nong. Những chiếc kén dày tơ nhặt trước, và những con tằm
bám trên né tiếp tục nhả tơ kéo cho xong chiếc kèn của mình.
Những nong kén đầy, màu vàng óng ánh. Mùi tơ thơm thơm. Từng
nong kén một, người ta xếp lên cũi tằm, thay cho những nong tằm không còn nữa.
Mỗi nong kén là chín nén tơ, và mỗi nén vài con tằm yếu không kéo tơ nổi, bị
rơi xuống đất.
Một lứa tằm xong, người ta như trút xong một gánh nặng. Bao
nhiêu là vất vả, bao nhiêu là sự săn sóc, bao nhiêu công trình. Nào thức đêm,
nào dãi dầu mưa nắng để hái dâu.
Nhũng nong kén đã xếp lên cũi tằm, lứa tằm mới thật là xong.
Từ nay người ta có thể nghỉ vài bữa để lấy sức và người nhà
đã phải phục dịch khi tằm chín, nay có thể quay lại công việc cũ của mình.
Số kén thu hoạch được, người ta có khi đem bán cạ, và sau vài
ngày nghỉ lại tiếp tục nuôi lứa tằm mới. Mọi công việc hái dâu, thái dâu cho tằm
ăn, lo tằm ngủ lại bắt đầu. Cũng có khi người ta chỉ bán một phần kén, người ta
để lại một số để ươm tơ dệt lụa.
Kén cho vào nồi nước sôi, rút cho những sợi tơ gốc và sau đó
cho vào guồng ươm để quay lấy tơ nõn. Chỗ tơ gốc kéo ra, lại phải cho vào guồng
tơ để quay thành từng con tơ, tiện cho việc dệt lụa nái, đũi hoặc sại. Còn chỗ
tơ nõn sẽ dệt ra lụa nõn.
Thường thường những người trồng dâu chăn tằm không tự ươm lấy
tơ, nhưng những khi cần có áo quần mặc, họ cũng dành lấy một số kén nhỏ để tự
ươm kén kéo tơ.
Xưa kia, họ thường guồng tơ về ban đêm. Trong những lúc phụ nữ
guồng tơ thì các ông chồng đọc sách, ngâm thơ:
Sáng trăng giải chiếu hai hàng,
Cho anh đọc sách cho nàng quay tơ.
Quay tơ phải giữ mối tơ,
Dù dăm bảy mối vẫn chờ mối anh.
Thật là một cảnh nên thơ. Chàng ngồi đọc sách, nghĩ tới ngày
võng anh đi trước, võng nàng đi sau, trong khi nàng guồng tơ đều tay, sợi tơ
theo đà tay cuốn lên chiếc guồng quay lạch cạch một nhịp đều đều. Ngọn đèn le
lói như soi tỏ sự cố gắng của đôi người. Chàng lo làm sao cho kinh sử làu
thông, một ngày kia danh chiếm bảng vàng, trước là bõ công đèn sách, sau là báo
đền công sinh dưỡng của mẹ cha, và sau nữa là làm vinh dự cho người vợ cần cù,
nuôi chồng ăn học, mải đêm lo ngày với chiếc guồng tơ, với nong tằm chín, với
bao nhiêu sự vất vả nhọc nhằn. Nghĩ đến ngày vinh qui bái tổ, làng nước mừng, họ
hàng khen, chàng càng cao giọng đọc sách.
Còn nàng cố công lo làm ăn, guồng tơ cho đều tay, dệt những tấm
lụa nõn. Lụa sẽ may áo cho chồng, lụa sẽ đem bán, thêm tiền cho chồng kinh sử.
Có phút nào nhàn, nàng lại lo việc thêu thùa may vá, như suốt từ thời con gái:
Gái thì giữ việc trong nhà
Khỉ vào canh cửi khi ra thêu thùa.
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ dịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân.
Cái thời xưa đã qua, nay không còn nửa. Không còn câu chuyện:
Trai thì đi học đỗ ba khoa liền
Khoa trước thì đỗ trạng nguyên
Khoa sau tiến sĩ đỗ liền ba khoa
Vinh qui bái tổ về nhà
Ăn mừng hai họ đủ ba tháng tày
Hàng phủ, hàng huyện đông tây
Rủ mừng quan Trạng tới ngày hiến vinh.
Những người dân quê miền Bắc dù xưa hay nay, bản tính vẫn
không bao giờ thay đổi.
Đàn ông thì ham học, phụ nữ ham làm. Nam nữ đều lo tới bổn phận
của mình. Những bản tính thuần chất Việt Nam mặc mọi cuộc biến thiên vẫn tồn tại
với xứ sở. Người dân quê vẫn trồng dâu chăn tằm, guồng tơ dệt lụa, vẫn có mối
tình thắm thiết với xứ sở, cái mối tình nó đã làm cho dân tộc Việt được trường
tồn.
HƯƠNG LÚA TỈNH NAM
Nam Định xưa kia thuộc trấn Sơn Nam Hạ, đất rộng, người đông
một năm một vụ lúa chiêm. Ở đây dân tình thuần hâu người người chăm chú lo sự
làm ăn. Những cánh đồng thẳng cánh cò bay, lan rộng tới
mãi chân trời, dòng sông Vị, giải sông Hồng lượn quanh giữa
đám ruộng màu mỡ, làm cho đất cát thêm phì nhiêu, lúa thêm xanh, và phong cảnh
thêm cẩm tú. Non Côi cao sừng sững hiên ngang như muốn kiểm soát một cõi sơn
hà. Xa xa mờ mờ phía chân trời tây, dẫy núi Hoành Sơn giống như một bức bình
phong muôn vẻ che đỡ cho ruộng đồng bát ngát. Giữa cánh đồng mạ mơn mởn mầu tơ
nõn, nước trắng xóa, những làng mạc ẩn trong lũy tre, nổi bật lên những hàng
cây xanh tốt. Chiều chiều cùng với lúc chuông chùa thu không, vang rền tự những
ngôi chùa sau các lũy tre những làn khói lam từ từ bốc lên cao và tỏa ra màu trắng
đục, biến lẫn với mây trên không trung đang nhẹ nhẹ bay thành từng giải theo
gió vắt ngang trời.
Những lúc trời sâm sẩm tối, mặt trời đã xế, không gian mờ mờ
tím, bốn bề vắng vẻ phẳng lặng, phong cảnh đồng quê tỉnh Nam đượm một vẻ buồn
man mác. Phảng phất từ ruộng lúa bốc lên, một mùi nhạt nhạt của mạ non, hoặc
mùi thơm thoang thoảng của lúa đòng đòng mới trổ, tùy theo với ngày tháng trong
năm. Lững thững trên bờ ruộng, bóng đen của vài nông phu vai cày, vai cuốc dắt
trâu về làng. Im lặng và tịch mịch. Lưng trời vài con vạc bắt đầu đi kiếm ăn
kêu mấy tiếng dài gọi đêm trường nghe buồn mênh mông.
Cũng như phong cảnh trầm lặng, người dân tỉnh Nam trầm lặng
ít nói. Họ mộc mạc và đơn sơ. Quanh năm áo nâu sồng màu của đồng đất, họ chỉ
quan tâm đến đồng đất. Đàn ông thì quần nâu, áo nâu, còn đàn bà cũng vẫn màu
nâu ấy, nhưng đáng lẽ họ trang điểm cho màu nâu thêm tươi tắn bằng một đôi giải
yếm lụa mỡ gà, chiếc thắt lưng màu thiên thanh hay hoa lý, đào ngọt hay cánh
sen như phụ nữ các tỉnh Bắc Ninh, Sơn Tây thì ở đây, với chiếc thắt lưng tím họ
đã làm cho y phục màu nâu của họ càng tối sầm và tẻ ngắt.
Họ quanh năm lam lũ làm ăn, hướng tinh thần vào đồng ruộng.
Hương lúa thơm phức tỏa lên khi vụ chiêm tới dưới nắng oi ả của trời tháng năm
là tất cả mọi phần thưởng và mọi niềm an ủi của những công lao khó nhọc của họ.
Thực vậy người dân tỉnh Nam, giống như hầu hết các dân quê
khác thuộc các vùng đồng chiêm xứ Bắc, rất chịu khó cực nhọc và mất rất nhiều
công lao cho đồng ruộng của mình.
Ruộng chiêm hàng năm ra ngoài vụ tháng năm, nước ngập trắng
xóa bát ngát. Làng mạc biến thành những cù lao xanh biếc, và giữa làn nước bạc,
thỉnh thoảng một vài con đường làng đắp cao, nổi màu tro nhạt, đi ngoằn ngoèo từ
xã nọ tới thôn kia. Những cô lái đò đồng chiêm với chiếc thuyền nan bềnh bồng
chở khách từ nơi này đến chốn khác. Đôi khi ngọn gió đồng thổi làm chiếc thuyền
chập chờn quay mũi, những con sóng đồng làm bật nước vào mạn thuyền tung bọt trắng
xóa. Cơn gió mạnh qua, mặt nước đồng lại lăn tăn gạn những làn sóng nhỏ, và chiếc
thuyền nan lại nhè nhẹ đè mặt nước theo đà của con sào hoặc của chiếc bơi chèo.
Bên những con đường làng uốn khúc, những thửa ruộng ngập nước,
một vài người nông phu theo với tình trạng của cánh đồng đã biến thành những
ngư phủ đang dậm lưới, úp nơm để kiếm chút cá vụn. Thỉnh thoảng một vài con cá
nhỏ quẫy mình trắng như bạc óng ánh dưới nắng trời hè. Vài phụ nữ, váy xắn cao,
khăn bịt đầu thật chẽn đang lom khom mò cấy bắt cua ở gần đây.
Cảnh nước lớn kéo dài cho tới tháng tám. Bấy giờ mùa mưa nâu
đã qua, mùa lụt đã khỏi, nước đồng ngấm dần xuống đất hoặc chảy dần ra sông,
người dân quê vùng Nam Định mới lo tính đến chuyện cày cấy vụ chiêm.
Làm mùa chiêm rất vất vả nặng nhọc. Ruộng đồng phải cày bừa
vào lúc bắt đầu hanh, chân tay thường bị nẻ khô, cấy lúa vào giữa lúc trời đông
giá lạnh, khi gặt, lại gặt đúng vào lúc nắng hè oi ở và gay gắt nhất. Đồng lúa
chiêm lại lắm đỉa, nhất là vụ gặt, mùa mưa rào đã bắt đầu, đồng ruộng đã chớm
nước, loài đỉa càng sinh sản nhiều. Thật là tốn công vậy! Nhưng đã gọi là con
nhà nông, chỉ biết có hương thơm của lúa, công việc dù mệt nhọc có sá gì. Chỉ cầu
sao cho mưa nắng phải thì đúng độ, lúa trổ bông đúng kỳ gặt hái là người nông
phu sung sưóng.
Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu
Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng
Xin ai đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
Phải một tấc đất bỏ không là bỏ phí mỗi năm một số thóc, cho
nên tấc đất là tấc vàng. Người làm ruộng không bao giờ chịu bỏ đất hoang, dù đất
đó khô rắn, dù sự cày bừa vất vả nhưng nghĩ đến hạt cơm trắng với mùi thơm dịu
dịu, người ta có thể quên được những buổi cày dưới nắng chang chang với mồ hôi
nhễ nhại.
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần!
Người nông phu không quản nắng mưa, cam chịu đắng cay để xới
đất, bừa ruộng, cày luống, ngõ hầu mai sau người người có bát cơm dẻo là lòng
hân hoan. Người nông phu không kể chi mình, chỉ trông đến kết quả của công việc
mình làm, có ích cho đồng bào là hài lòng. Tuy nhiên, vất vả phần mình chịu đã
đành, lại còn con trâu, người bạn mưa nắng cũng chịu dầu gió dãi mưa như mình.
Mà làm ruộng, phải có con trâu! Phải săn sóc con trâu, đủ rơm đủ cỏ để trâu có
sức mới giúp đỡ được người trong việc cày bừa nặng nhọc! Người nông phu thường
trìu mến con trâu không kém một người bạn quý, và thường an ủi trâu với những lời
lẽ rất dịu dàng:
Trâu ơi, ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công!
Bao giờ cây lúa còn bông,
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Ruộng đã cày bừa xong, đất để cho ải, trước khi tát nước vào
làm vụ cấy.
Thóc giống gieo trên ruộng mạ sâm sấp nước. Thóc nảy mầm, những
cây mạ non mọc lên như tơ nõn. Ngọn mạ lăn tăn trước gió lạnh của trời đông. Những
ruộng mạ trông như tấm thảm xanh, chỗ thưa chỗ dày, chỗ đậm chỗ nhạt. Vào giữa
khoảng tháng một, mạ đã mọc cao chừng ba tấc. Bấy giờ người ta nhổ mạ, bó thành
từng bó, xén bớt đầu lá để cấy lại trên ruộng lúa. Người ta tát nước vào những
thửa ruộng này cho dễ dàng việc cấy.
Trời lạnh, nước cạn, công việc tát nước rất tốn công. Nếu về
vụ hè, cánh đồng chiêm mênh mông những nước thì giờ đây, khi cần tới nước nước
lại khan hiếm, phải tát từ những nương rất xa, nhiều khi phải cho nước chảy qua
ba bốn thửa ruuộng khác mới tới thửa ruộng của mình.
Nước ở những mương này có năm rất cạn, chỉ dâng cao theo với
ngọn thủy triều. Người dân quê đồng Nam phải chờ nước triều lên, rủ nhau tát nước
họ gọi là đi cướp nước ngọn triều. Những ruộng cao tát bằng gầu dai, còn ở các
ruộng thấp phải dùng gầu sòng.
Ruộng cao sắm một gầu dai
Ruộng thấp thì phải sắm hai gầu sòng.
Ruộng đã có nước, việc cấy lúa bắt đầu. Các cô thôn nữ lại
cùng nhau quẩy ra đồng những bó mạ, cách đấy mấy hôm các cô vừa nhổ ở ruộng mạ
mang về, những bó mạ xinh xinh nhu những đứa trẻ lên ba thắt lưng con cón.
Vừa bằng thằng bé lên ba
Thắt lưng con cón chạy ra ngoài đồng.
Việc cấy lúa chiêm rất vất vả. Trời đang giữa mùa đông gió
đang lạnh, nước đang giá! Thế mà các thiếu nữ đồng quê không quản chi gió bấc
mưa phùn, cùng nhau làm việc ở dưới ruộng, nước ngập trên mắt cá nhân. Các cô
cũng rét, nhưng các cô phải vui vẻ với việc làm. Đầu các cô chít khăn mỏ quạ
che kín hết hai tai cho tới cằm, và muốn cho được ấm thêm, các cô lại buộc một
chiếc lạt ở ngoài khăn, theo nếp vấn đầu để giữ lấy hơi nóng. Các cô mặc áo ấm,
phần nhiều là áo bông. Bước xuống ruộng váy phải xắn cao, và để tà váy đằng trước >cũng
phủ đằng sau khỏi kéo lê trên mặt nước, các cô lấy lạt buộc thắt lại.
Gió đông lạnh buốt làm má các cô ửng hồng, hai hàm răng các
cô run rẩy cắn chặt lấy nhau. Các cô vẫn can đảm làm việc mặc trời giá rét.
Ba bốn cô cấy một thửa ruộng. Những bó mạ đặt ngay ở giữa ruộng.
Các cô cởi mở bó mạ ra, tay cầm từng nắm nhỏ, cấy từ bờ ruộng này tới bờ ruộng
kia. Các cô cúi lom khom, thoăn thoắt đưa tay cắm những cây mạ xuống ruộng. Các
cô vừa cấy lúa vừa lùi, cứ theo bước chân các cô lùi những hàng mạ được cấy
lên. Các cô mải mê với công việc, chỉ ham làm, quên cả chuyện trò với nhau. Trời
lấm tấm mưa phùn, gió bấc căm căm thổi. Nhung cây mạ được cấy rồi, ngả đầu theo
chiều gió mặt nước ruộng lăn tăn gợn sóng. Vài con tôm con tép nhảy tanh tách
làm mặt nước rung rinh với những vòng tròn nhỏ.
Cấy hết nắm mạ này, các cô lấy nắm mạ khác, và hết một bó mạ,
các cô lại cởi thêm bó khác. Thửa ruộng theo với tay các cô nhanh nhẹn cắm những
cây mạ gọn gàng xuống đất, chẳng mấy lúc đã được cấy gần xong. Các cô chăm chú
với nhánh mạ ham công ham việc mong sao cấy cho thửa ruộng chóng xong để còn cấy
sang thửa ruộng khác.
Các cô không để ý tới những thửa ruộng gần đấy, cũng có những
người khác đang cấy lúa như các cô, hoặc một vài nông phu đang cày bừa chăm chỉ
với con trâu. Các cô cũng chẳng bao giờ để ý tới vẻ rộn rịp của cánh đồng với cảnh
nơi cày, noi cấy, nơi bừa.
Có lẽ các cô vừa cấy lúa vừa mong cho vụ lúa năm sau được mùa
để dân làng no ấm! Có lẽ các cô đang cầu khẩn cho mưa thuận gió hòa để cho thóc
rẻ gạo hơn! Có khi các cô không tính gì tới cả công cấy của mình!
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề:
Trông trời trông đất trông mây
Trông mưa trông gió trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng.
Các cô làm việc từ sáng tới trưa, chỉ nghỉ tay để ăn cơm rồi
lại làm việc từ trưa đến tối. Và sớm hôm sau, cùng với các nông phu dắt trâu ra
đồng cày ruộng, các cô đã rủ nhau đi để cấy nốt thửa ruộng đang cấy dở, hoặc cấy
cho xong mấy thửa ruộng khác:
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Các cô hối hả lo công việc, các cô nhanh nhẹn với lúa mạ,
không quản gì khó nhọc với nắng mưa, có lẽ các cô nghĩ tới ngày phong lưu của
năm sau, ngày mà thóc vàng tỏa hương thơm ngát khắp cánh đồng chiêm, ngày mà
người ta lũ lượt gánh thóc về trên đường làng, ngày mà những người thợ gặt nào
liềm nào hái, vui vẻ nói cuời và gặt lúa trên đồng cạn cũng như dưới đồng sâu.
Cấy lúa xong, người dàn quê lại vất vả với những công việc
khác, nào làm cỏ, nào phát bờ, nào rải phân. Mọi công việc đều đòi hỏi ở họ một
sự siêng năng và một lòng kiên nhẫn. Rồi khi lúa đến thời con gái, phải tát
thêm nước, kẻo để chân lúa khô, lúa dễ bắt sâu. Họ phải theo dõi cây lúa cho tới
khi lúa trổ đòng đòng đâm bông.
Bấy giờ đã cuối tháng tư, lúa đã sắp chín, và sắp sửa là mùa nước.
Những đêm chớp bể mưa nguồn là những đêm khiến cho người dân quê lo ngại. Họ sợ
những trận mưa to, nước lũ kéo về nuớc sông dâng lên có thể gây lụt lội, công
trình của họ sẽ theo mây gió hết! Mà nếu có sự chẳng may ấy, họ sẽ đói họ sẽ khổ!
Tiền đâu mà sưu thuế, tiền đâu mà việc nọ công kia. Sự lo lắng của họ quả thật
là chính đáng. Họ sẽ chỉ có thể than thở với trời cao xanh.
Bây giờ gặp phải hội này:
Khi thì hạn hán, khi hay mưa dầm
Khi thì gió bão ầm ầm
Đồng tiền thóc lúa mười phần còn ba!
Lấy gì đăng nạp nữa mà
Lấy gì công việc nước nhà cho đang!
Lấy gì sưu thuế phép thường
Lấy gì bổ chợ đong lường làm ăn
Trời làm khổ cực hại dân.
Họ phải trồng nom ruộng lúa cho tới khi được gặt. Thóc gặt về,
đập sẩy, phoi phóng xong họ mới yên tâm. Được mùa là họ được tất cả, họ sẽ có
cơm no, áo ấm, có đủ tiền để đóng góp với làng. Chồng con họ sẽ không lo thiếu
sưu thiếu thuế.
Tháng năm gặt hái đã xong
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
Năm nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chàng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn đủng đinh giàu sang một mình.
Câu ca dao trên đã tả đúng tâm lý của chị phụ nữ đồng quê! Được
mùa chị sẽ sung sướng, nhưng trong cái sung sướng chị vẫn tính chuyện làm ăn và
lo lắng sưu thuế cho chồng. Cũng như muôn ngàn người đàn bà quê miền Bắc, chị
phụ nữ tỉnh Nam chịu hy sinh mọi sự cho chồng, chị mong đuợc cùng chồng no đói
có nhau!
Lúa đã gặt rồi, người dân quê tỉnh Nam mới khỏi lo ngại, và mấy
tháng trồng cây, bây giờ mới là ngày kết quả.
Thóc đã đập đã phơi, đã sẩy rồi, họ chỉ việc quây vào cót để
ăn dần, bán dần lo việc nhà, việc làng, việc nước!
Lúc ấy trời đã cuối tháng năm. Mưa rào đã nhiều và cánh đồng
chiêm lại đầy nước trắng xóa. Lại có những người nông phu biến thành ngư phủ, lại
có những chị thợ cấy đi mò cua bắt ốc, hoặc đi chở chiếc thuyền nan! Rồi những
bà nội trợ, những cô gái quê đội gạo, hoặc một vài nông phẩm khác như cà, đậu
ngô khoai họ đã trồng được ở những chỗ ruộng cao tới các chợ bán: họ đi chợ Rồng,
họ đi chợ Bạch Tính, họ đi chợ Ninh Cường. Phong cảnh những con đường làng thỉnh
thoảng lại được đôi ba ngày tấp nập vì một vài phiên chợ. Những người đàn bà ở
đây đi chợ họ đều đội hàng hóa trên đầu, họ không gánh gồng như dân quê các tỉnh
miền Bắc Hà Nội. Họ bảo rằng ở đây cánh đồng chiêm, thường phải lội nước, không
tiện cho việc gồng gánh! Có lẽ vì phải đội nặng lên đầu nhiều nên đàn bà con
gái vùng này ai nấy đều có vẻ lùn thấp
Trong mùa nước ngập, có những gia đình không bận gì về công
việc đồng áng thì họ cùng nhau làm tiểu công nghệ: làng Ninh Cường làm nón, các
làng ở huyện Mỹ Lộc mua sợi về dệt vải quê v.v... Nền tiểu công nghệ, tuy chỉ
là nghề phụ, nhưng cũng đã giúp đỡ cho nhiều gia đình sống qua vụ nước một cách
dư dật và đôi khi lại có tiền để sắm sửa cho gia đình, may mặc cho con cái.
Cần cù nhẫn nại, chăm chỉ siêng năng là những đức tính chung
của tất cả dân quê xứ Bắc, dù ở tỉnh Nam Định, tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hải Dương, tỉnh
Phú Thọ hay tỉnh Bắc Giang. Lẽ sống của họ là ở sự làm việc và chịu đựng, nhất
là đối với các phụ nữ. Họ chịu đựng chồng con ở nhà, họ chịu đựng luật lệ ở
làng, họ chịu đựng sự bất công của xã hội, và nhiều năm họ đã phải chịu đựng cả
những sự giận dữ của tạo hóa đã gây ra bão lụt, hạn hán hỏa tai.
Nhưng trong sự chịu đựng đó họ đã có những nguồn an ủi vô
biên: ấy là cái cảnh gia đình đầm ấm, vợ chồng con cái đề huề, ấy là lòng tin
tưởng ở tương lai, ở kết quả của mọi sự cố gắng và chăm chỉ của họ.
Ngoài ra, không kể những ngày làm lụng vất vả, họ cũng có những
lúc ăn chơi và nghỉ ngơi. Ấy là những ngày hội ngày Tết. Những hôm đó, họ nghỉ
gông việc, quần áo lịch sự họ rủ nhau đi chùa đi lễ. -
Hàng năm ở Nam Định có hai hội lớn. Hai hội này, không riêng
gì dân chúng tỉnh Nam tới dự, mà có thể nói là toàn dân miền Bắc Việt Nam đều tới
dự.
Ấy là hội Phủ Giầy ở xã Bảo Ngũ, nơi có đền thờ Công Chúa Liễu
Hạnh và hội ở xã Bảo Lộc, nơi có đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Ngày hội Phủ Giầy hàng năm rất linh đình nhộn nhịp, hội mở từ
ngày mồng một tháng ba và kéo dài tới ngày hai mươi mới rã đám. Các thiện nam
tín nữ các tỉnh miền Bắc và một phần các tỉnh miền Trung kéo nhau tới trẩy hội
rất đông. Trong ngày hội các cuộc tế lễ rất tưng bừng. Đáng chú ý nhất là đám
rước từ Phủ Giầy tới xã Phù Chính ở chân núi Côi vào ngày mồng sáu tháng ba:
đây là một đám ruớc đồ sộ, có hàng mấy trăm ngàn người từ các ngả tới dự. Trên
con đường Phú Chính đông nghịt những người, nối dài hàng năm sáu nghìn thước.
Màu sặc sỡ của cờ, mùi hương quyện với mùa hoa, tiếng trống rước xen lẫn tiếng
người thật là ầm ĩ nhộn nhịp. Người ta hân hoan sùng bái Liễu Hạnh Công Chúa,
người đã giúp đỡ cho nhiều dân chúng miền Bắc, người đã giáng bút với những
thiên văn thơ tuyệt phẩm.
Ngoài đám rước trên, tại hội Phủ Giầy vào ngày mùng mười lại
có cuộc kéo chữ. Phu hội hàng mấy nghìn người trong huyện Vụ Bản từ các xã cắt
tới dự cuộc kéo chữ này. Có năm kéo chữ nẩy Thiên Hạ Thái Bình, có năm kéo mấy
chữ Phong Đăng Hòa Cốc. Người ta nô nức đi xem kéo chữ, cũng như người ta nô nức
đi dự đám rước cùng các đám tế lễ trong suốt thời gian kéo hội.
Hội Phủ Giầy rã đám, người dân quê tỉnh Nam lại quay về công
việc của mình cho tới tháng tám người ta kéo nhau tới xã Bảo Lộc để dự hội kỷ
niệm vị đại anh hùng Việt Nam Trần Quốc Tuấn, người đã hai chuyến phá quân
Nguyên, giữ Vững nền độc lập cho nước non nhà. Hội đền Bảo Lộc đông vui, người
ta tôn kính và biết ơn vị anh hùng của dân tộc. Dự hội đền Bảo Lộc người ta lại
nhớ tới trận thủy >chiến ở Bạch Đằng Giang, và người ta truyền tụng
cùng nhau những vần thơ hùng tráng về kỳ công của quân tướng nhà Trần.
Tiếng lau rú ào ào tiếng gió
Sóng bập bồng to nhó thưa mau
Tiếng buồm tiếng nước hòa nhau
Tạo thành khúc nhạc vui đau hỗn đồng.
Hùng tráng tựa tiếng ông Nguyễn Khoái
Hô chiến thuyền quay lại đánh Nguyên
Tiếng gào tiếng thét xung thiên
Hiệu kêu lùi xuống, lệnh truyền tiến lên.
Tên vùn vụt từ trên bờ bắn
Thuyền xâm lăng vỡ đắm tan hoang
Tướng Nguyên van lạy xin hàng
Quân ta thắng lợi reo vang nức trời.
Hương lúa tỉnh Nam dịu dàng thơm ngát, người dân quê tỉnh Nam
mộc mạc đơn sơ. Họ cần cù với công việc, nhưng không bao giờ họ quên họ là người
dân nước Việt. Họ chăm chỉ làm ăn nhưng họ vẫn nhớ tới công ơn những người vì
nước.
ĐỒNG CÓI
Ninh Bình có sông Vân núi Thúy với những bài thơ khắc trên đá
của biết bao danh sĩ, Ninh Bình có động Hoa Lư, kinh đô nước Đại Cồ Việt của Vạn
Thắng Vương với những phong cảnh hùng vĩ của non cao rừng rậm, Ninh Bình có động
Dịch Lộng với những hang lớn đẹp thạch nhũ óng ánh như sao muôn sắc. Ninh Bình
có núi Cánh Diều, có đèo Ba Dội, nhưng Ninh Bình lại có cả biển mênh mông, có cả
những cánh đồng Cói bao la, chạy dài ven bãi biển.
Ai đã tới Ninh Bình chưa? Và tới Ninh Bình ai đã đi miền Phát
Diệm, Kim Sơn không nhỉ? Nơi đây là thổ sản của cói, một loại cây giồng ven bờ
đê, dùng để dệt chiếu.
Những cánh đồng cói bát ngát, liên tiếp nhau ở Cồn Thoi cách
Phát Diệm hơn mười cây số, chỗ sông Đáy chảy ra bể Nam Hải, chia làm hai nhánh,
nơi tỉnh Ninh Bình giáp cận với địa phận Thanh Hóa.
Thân cói xanh xanh, cọ sát vào nhau rào rào theo từng cơn gió
bể. Những nhánh hoa đo đỏ, giống như hoa ngô đồng nổi bật trên đám lá xanh. Suốt
khắp cồn Thoi, trông giống hình một con thoi dệt vải, man mác chỉ cói và cói.
Những ngọn cói ngả đầu vào nhau theo chiều gió, và gió lướt trên ngọn cói như
sóng gợn rung rinh. Hoa đo đỏ, lá xanh xanh dao động. Vài con bướm nhởn nhơ bay
từ cánh hoa này, sang cánh hoa khác. Thỉnh thoảng vụt bay từ giữa đám cói ra một
vài con két, con rẽ, con sít, hoặc con mùng.
Hai nhánh sông Đáy lững lờ bao bọc lấy cồn Thoi, nuớc lờ lờ
xanh, hòa hợp với màu cói xanh, cũng như với nền trời xanh thẳm. Một vài con
thuyền nhỏ đủng đỉnh, của vài người đánh cá, hoặc chở khách ngang sông. Xa xa,
ngọn núi Nẹ đứng sừng sững một mình ngự trị ở miền duyên hải. Trông ngọn núi im
lặng, thâm thẫm màu lam. Đàn chim hải âu bay ngang trời. Mấy sợi mây trắng nhẹ
nhàng giăng trên đỉnh núi. Ngọn núi giống như một tấm bình phong ngăn cánh đồng
cói với chân trời xa thẳm.
Về mé biển, sát cánh đồng cói, nơi nuớc mặn sàn sàn tràn ngập,
đấy là rừng Vẹt, những cây vẹt xanh biếc cưng cứng tựa lá si, mọc suốt ven bể,
lan mãi ra xa. Đất có nước mặn là có cây vẹt, một thứ cây dại thường mọc ở ven
bể. Màu xanh biếc của cây vẹt điều hòa màu nước biển xanh thẫm với màu xanh
tươi của cánh đồng cói. Phải chăng tại đây hóa công muốn tô điểm cho phong cảnh
không những bằng sông núi mà bằng cả nhịp nhàng của màu sắc nữa.
Trên nước biển xanh thẫm, lá vẹt xanh biếc, đồng cói xanh
tươi, những đàn le le, sâm cầm, mòng két thỉnh thoảng lại vụt bay như muốn đem
tâm hồn linh động cho cảnh vật. Mây trời bao la, nước biển cả mênh mông man
mác, vài con thuyền căng buồm đè mặt nước, trông thật hữu tình nên thơ.
Và ở cánh đồng cói, các cô thôn nữ xinh tươi đang cùng nhau cắt
cói, nói nói cười cười, bên các chàng trai lanh lẹn hoạt bát luôn luôn đáp lời
các cô một cách đậm đà duyên dáng.
Cói là một nguồn lợi của dân chúng vùng Phát Diệm, Kim Sơn.
Cói dùng để làm chiếu và bổi cói dùng để lợp nhà.
Những cánh đồng cói ở đây đã giúp cho người dân được sung
túc, đỡ lam lũ hơn các vùng đông dân cư khác ở quanh vùng.
Ruộng trồng cói phải cày bừa trong năm đầu kỹ lưỡng. Sau đó
cói được trồng và với mầu mỡ đất gần biển, lớn dần. Cói trồng vào tháng mười
năm trước, tới tháng tám năm sau đã cao và đã trổ hoa. Trong thời gian này, chủ
ruộng chỉ cần thỉnh thoảng xẻ rãnh cho có nước vào ruộng để cói lớn mạnh.
Sự trông nom không vất vả mấy, và cói đã trồng rồi cứ theo thời
tiết lớn dần, lớn dần cho tới khi thu tới, sau những trận mưa ngâu tháng bảy,
cói trổ hoa. Hoa cói báo hiệu ngày gặt cói sắp tới.
Với thu sang đàn én từ phương Bắc bay về, mỗi buổi chiều sè
sè liệng trên cánh đồng cói, chao qua chao lại. Tiết thu hơi lành lạnh, và buổi
chiều sương thu buông thả, phủ lên ruộng cói bao la. Thân những cây cói nhẹ cọ
sát vào nhau rào rào như nỉ non than thở.
Người ta gặt cói về tháng tám. Cói gặt xong lớp này, lớp khác
sẽ lại mọc lên, và đến tháng tám năm sau người ta lại gặt lượt khác.
Một ruộng cói chỉ cần cày bừa trong năm đầu, những năm sau
cói cứ tự nhiên mọc lên. Người ta có thể gặt được mười vụ cói mới cần cày bừa lại
ruộng và trồng cói lại.
Cánh đồng cói vui vẻ nhất về mùa gặt.
Trời thu trong và dịu. Gió thu nhè nhẹ mát. Lòng người ta thư
thái thênh thang. Người ta hân hoan đón gặt những cây cói, những cây cói quí
báu sẽ biến thành tài sản của người ta.
Dân chúng mấy xã Tân Mỹ, Kim Đài, Văn Hải v.v... ngay từ lúc
chớm thu người ta đã sửa scạn vụ gặt cói, người ta đợi cho hoa cói rộ nhiều,
thân cói già hơn một chút là người ta rủ nhau đi gặt. Đầu tháng tám
là hoa cói đã rải đỏ khắp cánh đồng, rung rinh với gió thu,
dưới những cánh bướm chập chờn, cùng những đàn ong từ núi Nẹ lũ lượt bay ra hút
nhị hoa về làm mật. Thân cây cói sẫm hơn, và cũng có đôi ba cây ngả từ mầu xanh
sang mầu vàng nhọt.
Người ta bắt đầu vụ gặt.
Từ từ mờ sáng tinh sương, tự các ngã làng người ta lũ lượt dắt
nhau ra cánh đồng, đàn ông có, đàn bà có. Vừa đi người ta vừa vang vang nói
chuyện, gây nên một cảnh nhộn nhịp trên những con đường làng. Có những cô thiếu
nữ xinh tươi, cười nhí nhảnh với những chàng trai nhanh nhẹn. Có những người đứng
tuổi đi nghiêm trang giữa đám trai trẻ bông đùa. Có những chàng trai đi sát
cánh với gái làng để nói vài câu chuyện không đâu.
Một vài bà già chậm chạp đi sau, ý chừng đang hồi tưởng lại
thủa mình còn con gái. Các bà có lẽ cho bọn trẻ bây giờ quá tự do, con gái mất
cả vẻ thùy mị e lệ của thời xưa, và con trai thì quá sỗ sàng. Đôi khi có bà
nghiêm khắc quở mắng ngay con cháu về tính quá tự nhiên của chúng, thì lại có
bà trẻ hơn, rộng rãi hơn, hiểu biết mỗi thời mỗi khác can ngăn. Vả chăng ai chẳng
có thời con gái:
Xưa kia ai cấm duyên bà,
Bây giờ bà già bà cấm duyên tôi.
Dân làng đi tới những ruộng cói, kéo nhau xuống cắt cói, ai ở
ruộng người ấy. Họ vui vẻ làm việc. Gió mát như làm tăng sự hăng hái của họ.
Câu chuyện làm cho công việc nhẹ nhàng hơn.
Một tay cầm liềm, tay cầm nắm cói, họ cúi xuống đưa liềm cắt
vào chân đám cói. Cói đã cắt, họ đặt ngay xuống ruộng để cắt đám khác. Lưỡi liềm
sắc bén cứa cây cói rất gọn gàng. Họ lúi húi vừa cắt cói vừa nói chuyện với những
bạn làm việc ở nơi ruộng bên cạnh, hay ở chính ngay ruộng mình. Tiếng ở ruộng
này vọng qua, tiếng bên ruộng kia vọng lại. Họ bàn về cói tốt cói xấu, họ nói về
chuyện làm ăn và đôi khi cả chuyện tâm tình nữa.
Cánh đồng cói quanh năm vắng lặng, với vụ gặt đã trở nên náo
nhiệt khác thường. Ở ruộng này vài thiếu nữ đang cắt cói, ở ruộng kia
vài thanh niên đang đon cói thành từng gù, nghĩa là bó cói
thành từng bó dài, ở một ruộng khác vài bà già đang cắt bỏ những bông hoa cói.
Không xa đấy, dăm ba thiếu phụ đang soi gương những gù cói
nghĩa là xén chân những bó cói cho đều. Và các em bé cũng có công việc: các em
nhặt những bổi cói nghĩa là những cây cói nhỏ kẹ, mà khi đon gù, người ta bỏ lại
để xếp lại từng đống. Bổi cói lại sẽ đuợc bó lại thành từng bó, đánh thành danh
bổi để lợp nhà.
Lớn, bé, già, trẻ, thiếu nữ thanh niên, ai nấy đều chăm chú với
công việc mình. Họ cặm cụi làm việc, mặc dầu họ luôn luôn cùng nhau trò chuyện cho
đỡ mệt.
Ruộng cói nào cũng thấp thoáng những bóng người, với những cử
động làm rung rinh ngọn cói chưa cắt.
Thỉnh thoảng lại vụt lại vài tiếng cười ròn rã của các thiếu
nữ vừa được nghe một vài câu chuyện vui trong lúc làm việc.
Mùi cói thơm thơm hòa lẫn mùi đất miền duyên hải dịu dịu.
Đi cắt cói, đàn ông cũng như đàn bà, họ ăn mặc rất đơn sơ gọn
gàng. Chỉ có quần nâu áo nâu. Các cô thiếu nữ có đội thêm chiếc khăn vuông màu
nâu đỏ để giữ cho tóc khỏi xõa. Ở đây các cô không ưa diêm dúa như thiếu nữ các
tỉnh miền Bắc ngoài quần áo còn thêm nào yếm, nào giải yếm hoa đào, thắt lưng lụa
bạch, hoa lý hoặc thiên thanh. Họ không có cả đến chiếc thắt lưng màu tam giang
như chị em vùng Nam Định. Tuy y phục đơn sơ, nhưng trông các cô cũng không kém
vẻ duyên dáng. Dưới nắng thu, má các cô ửng hồng, môi các cô tươi thắm, và những
lúc mỉm cuời, các cô để lộ đôi hàm răng đều như hạt lựu và đen nhức như hạt na
già. Các cô luôn luôn vui vẻ trong việc làm. Để quên mệt nhọc, đôi khi các cô
đã nói ghẹo những trai làng cùng làm cói khiến cho nhiều chàng trai thẹn thùng
đỏ mặt tía tai. Các cô nói đùa, các chàng trai nói đùa trả lại, tiếng cười tiếng
nói vang trong gió. Công việc theo đà câu chuyện càng thêm mau lẹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét