Thứ Ba, 4 tháng 1, 2022

Cỏ dại 1

Cỏ dại 1

Chương 1

... Cỏ dại hoa đồng

Ông bà ngoại tôi có nếp nhà gạch rất cũ. Người ta thường đồn rằng tuổi nó dễ đã đến ngoài một trăm năm. Nhưng kể tuổi thực của nó, cũng chưa lão quá như vậy. Chỉ trong vòng một kỷ, trên hoặc dưới cái quãng người Tây vào tỉnh Hà Nội lần thứ nhất. Không phải ông bà ngoại của tôi làm nên nếp nhà ấy. Nó là cái cơ nghiệp hương hoả. Ông tôi được gánh thừa tự, đèn nhang cho một ông bác mất không có con trai.

Khi ông cụ bác ông tôi còn sống đã lo sợ lắm về sự mất giỗ của mình mai sau. Bởi vậy, tuy đã đặt tự cho cháu, lại còn mua hậu làng, mua hậu họ, mua hậu hàng xã, khiến những mấy nơi phải trách nhiệm cúng giỗ nữa.

Cái hôm Tây chiếm tỉnh Hà Nội lần thứ hai, ông tôi đương trèo đẵn một cây xoan. Nghe phía ngoài thành, tiếng súng nổ đùng đùng. Người trong làng nhốn nháo...

Ngày ấy, ông tôi chưa được ngôi nhà tự kia. Mười năm sau ông tôi mới về đấy.

Khi này, ngôi nhà đã gần như bỏ hoang. Vợ chồng ông bà bác ông tôi khuất núi đã được vài năm. Bấy giờ trong vùng đất cát còn rộng rãi nhiều, người ta chưa biết lo đến chuyện nhà cửa. Vả lại, ông bà tôi nghèo. Cũng không cần có một ngôi nhà tươm tất quá. Ngày xưa, người ta lại sợ, nếu có một nếp nhà gạch tề chỉnh. Ở nhà ngói núp bóng giàu có, chỉ tổ hãi kẻ cướp. Do vậy, ông bà tôi cứ lần lữa nương náu ở túp lều trong xóm Trong. Khi ông bà tôi về ngoài ấy, nhà cửa đã tềnh toàng như cái lều chợ. Bà tôi quẩy một gánh nồi niêu thúng đựng áo đụp, ông tôi cởi trần khiêng cái cũi đựng bát. Gia sản có bấy nhiêu thứ, quẳng vào nếp nhà mênh mông càng hoang vắng thêm.

Tuy ông bà tôi dọn ra đây, nhưng những nhà ở nhờ kia vẫn nguyên như thường. Cùng nghèo khó cả, ở quây quần với nhau. Người thì đi gánh đất, người thì đi dệt cửi mướn. Có bác cả ngày nhịn khàn nằm dài, tối mò mẫm đi ăn trộm. Trẻ con thả lã cho đi tha thẩn như gà. Trong sân, cỏ mọc la liệt vươn cả lên thềm hè. Phía ngoài, xế bên phải là một cái chuôm nước. Cỏ nước xanh phủ kín, nom cũng như mặt bãi đất liền. Vào nhà, hai ba gian một chủ ở, treo bôông bêêng lủng lẳng mấy cái quang gánh. Không có giường phản, mọi nhà đều nằm đất. Về mùa đông đánh bạn với ổ rơm. Gian giữa, lù lù ba cái bệ bằng đất đắp bậc cao thấp, bệ thờ như kiểu hương án ngoài đình. Hai mặt bệ nhẵn trơn; có một bát bình hương xám bằng sành. Một bên gian buồng cửa đóng kín ghim nghỉm. Mặt đất ẩm nhớp mốc rêu. Cỏ tận ngoài sân leo vờn vào. Buồng trong người không ở, cầy cáo đào hầm hố ngổn ngang. Trong bóng tối nổi lên từng ụ gò đống, thành luỹ đất vụn. Quanh năm không ai bước chân đến.

Khi có tôi, tòa nhà cổ này hiện ra trong tròng mắt tôi với đủ mọi vẻ kinh rợn. Nó lù lù giữa làng sát bên lối vào xóm. Mái ngói đen kịt gồ một đường bờ giữa, hai đầu hồi lù lên hai cái trụ. Nó đội cao trên những mái tranh đen sẫm thấp lè tè xung quanh la liệt rặng dâm bụt, rặng xương rồng, cây xoan gầy mà cao lêu đêu. Một lớp tường dài xây bằng gạch vồ không trát, như một dải tường thành. Mỗi năm, vào tết Nguyên Đán, ông tôi sửa soạn một chậu nước vôi và một cái thép lá thông. Ông nhúng thép vào vôi, phiết lên mặt tường vẽ thành những đường vòng tròn, to bằng chiếc mẹt một. Lạ lắm, nhưng tôi không dám hỏi. Có lần nào đấy, ông tôi cắt nghĩa rằng những cái vòng tròn này để trừ quỉ. Năm mới, lũ quỉ sứ dưới âm ti thường hay lên trần gian cướp của. Vẽ cái vòng tròn này quỉ sợ không dám vào. Nghe thế, tôi hãi lắm.

Tôi ngẩn ngơ nhìn ông tôi bê chậu nước vôi đi xung quanh tường, quét những hình tròn tròn. Lốt vôi tỏ mãi, trắng xoá trên màu tường gạch hung đỏ. Đến bây giờ hãy còn dấu rõ ràng. Những người bạn vào nhà tôi, tưởng như vào một chiếc tàu biển mà bên thành tầu có những lỗ đại bác, hoặc những cửa tròn trong khoang nhìn ra mặt sóng.

Ngoài sân, cây cối um như rừng. Mảnh sân đất dài nhưng hẹp, lúc nào cũng ẩm, vì ánh nắng không lọt xuống mấy. Cây na, cây lựu, một cây cam sành, cây hồng quả, cây ổi lớn chi chít cành. Giữa có cây ngọc lan. Đầu mùa hè, hoa ngọc lan chín trắng muốt, hương ngát ra tận ngoài đầu ngõ. Các dì tôi hay bắc ghế đẩu hái hoa lan gài lên mái tóc, lẩn vào đầu vành khăn. Cạnh cây ngọc lan là một cây đào thực to. Cái sân bé hoẻn mà lủng củng những cây. Đối với tôi, là cả một thế giới cây cối. Thân cây đào lớn bằng cột đình, đen xù xì, quanh năm phòi ra từng cục nhựa trong óng, dính như cồn. Nó lão quá không đứng được thẳng, phải khom khom ngả dài nghển ra tận thành bể. Tôi cứ men men leo được đến lưng chừng thân, rất dễ dàng. Về cuối mùa thu, cây trụi gần hết lá. Sang đầu xuân hoa và lá lại thi nhau trổ xanh rờn và đỏ phớt - sắc hoa đào phai, cho đến khi mãn vụ quả, tức là bắt đầu mùa hè.

Năm nào cũng có đôi vợ chồng chim chào mào tha rác đến làm tổ trong một cành đào rậm lá cao cao. Tháng năm, tháng sáu, những con chim mới nở đã mạnh cánh và cứng mỏ, thì vợ chồng con cái nhà chim bỏ tổ, ríu rít mang nhau đi. Tôi hóng xem kỹ càng từ hôm chú chào mào đực quặp ở đâu về cành cây từng cuộng rạ nhỏ. Khi ấp trứng, chúng hót líu lo suốt sớm chiều. Rồi những ngày tha mồi vất vả. Hai vợ chồng chim cùng gầy phờ người. Buổi sáng mát, mấy chú chim con chen nhau đứng trên thành tổ ngóng ra. Tôi ngồi núp một bên bể nước say mê ngắm nghía. Tôi không thích bắn. Nói cho đúng tôi cũng không dám bắt các chú chim nhỏ ấy. Ông tôi cấm.

Đến ngày chim rời tổ, "bồng bế" nhau đi, tôi ngẩn ngơ nhớ.

Rồi sang năm, không biết vẫn đôi ấy hay đôi khác, chim chào mào lại đến làm tổ. Ngày ngày tôi lại lom khom nấp bên cạnh bể nước, ngó lên cây đào. Trong cây đào cuối mùa xuân thì có tổ chim chào mào. Trong cây cam sành thì quanh năm có tổ chim gi đá. Có khi mấy tổ nhiều hàng chục con. Loài này ăn ở dè lén, bay thì không động lá. Ở cũng như đi, yên lặng như không. Chúng xấu xí và bé hơn cả chim sẻ, tôi chả thích mấy. Vả lại, chúng cứ bay lẩn trong lá, tôi không ngó thấy mấy khi. Lá cây nhiều quá. Lá cây này bíu lấy lá cây khác, ôm lẫn nhau, mặt đất mát rười rượi. Ở tầng thấp hơn la liệt nào xương rồng, mào gà, nào tía tô, kinh giới, những nhóm vạn niên thanh mọc lẫn với cỏ tóc tiên. Trong lối đi ẩm ướt các thứ cây nhỏ bé ấy mọc chìa ra lúc nào cũng có những cậu cóc xù xì ngồi chầu nhau, ngẫm nghĩ và nghiến răng kèn kẹt. Cao nhất ở góc sân, bốn cây cau mốc trắng vút lên trời, đội trên đầu những chòm lá như những chiếc áo tơi xanh. Về mùa mưa gió thỉnh thoảng, một cái mo mèo rớt mạnh, ngã thình xuống sân.

Tay phải thẳng về phía trước mặt, là vườn sau cũng rất nhiều cây. Khế, bưởi. Thêm một bụi chuối tây, một khóm xanh táo phủ kín cả một phía ao nước - một chuôm nước nhỏ xíu ông tôi bảo, nếu lấp cái ao nước ấy, cả xóm sẽ "động".

Chuôm nước bẩn xanh đục lờ là cái bể nuôi cá săn sắt và cá rô ron của tôi. Và hết thảy một khoảng vườn sau đó, tôi đặt tên là sở Bách Thú. Sở Bách Thú của tôi. Thế này nhé: trên cành dương rủ bên bờ chuôm, tôi buộc vài con xiến tóc vàng. Châu chấu voi và bọ ngựa thì thảnh thơi nhảy rỡn trong bụi xanh táo. Dưới đất, tôi lấy những viên gạch chỉ chắn ngang chắn dọc, phủ đất kín lên trên làm thành những dinh cơ kín đáo để nuôi nhái và ếch. Có những chú ếch bé tôi bắt được ở ngoài ruộng đem về nhốt vào nhà hầm đến cả tháng, mỗi ngày nhét khe tường cho xơi mấy hạt cơm. Lúc rỡ hầm ra các chú ngơ ngác, đờ đẫn quên cả nhảy, da dẻ thì trắng bệch như những chú ếch bằng đá. Trại Bách Thú của tôi thích lắm. Có khi tôi mê mải cả ngày trong bụi cây vườn. Nhưng cứ đến buổi chiều khi mặt trời đã lặn, là tôi không dám men chân la cà ra ngoài ấy nữa.

Biết bao nhiêu chuyện ma quái rùng rợn quanh cái ao. Ông tôi kể. Bà tôi kể. Ngọn đèn khuya liu hiu. Những bàn chân chẳng dám thò ra bóng tối. Ma. Ma! Dưới cầu ao có con nam nam, con thuồng luồng, con rắn cạp nong cạp nia nằm rình rút chân người ta. Phía bên kia, có ông thần đất, ông tôi kể mỗi khi ông tôi ốm, ông thần đất lại bảo cho biết trước.

Cạnh ông thần đất có cái gò vịt vàng. Những đêm mùa hạ tối trời đàn vịt thần kéo đi ăn, vàng rực một góc vườn. Ai có duyên với thần tài thì người ấy sẽ gặp. Nhưng chẳng ai gặp bao giờ. Ở một nhà hàng xóm bên kia ao người ta đắp một cái am nhỏ, xung quanh trồng mấy cây hoa đơn đỏ. Có ý để cúng đàn vịt. Nhưng ông tôi chưa bao giờ trông thấy thần đất, chỉ nằm mơ thấy ông ta thôi. Mà bà tôi cũng chưa hề trông thấy đàn vịt vàng. Nghe các cụ nói lại thế. Lại nghe các cụ nói lại ở ao này có một con ma rất to. Những đêm thanh vắng nó thường hoá làm người đàn bà váy áo trắng lôm lốp ngồi khóc bên bờ ao ti tỉ. Hễ động tiếng người, ma liền đứng vươn dậy nhảy ùm xuống nước, lập lờ rồi biến mất. Giữa những câu chuyện ghê rợn ấy, tôi ngồi nép khít bên tay áo bà tôi, nhìn ra ngoài trời tối. Thấy chỗ nào cũng thấp thoáng trăng trắng những ma là ma. Tôi nhắm nghiền mắt lại.

Trong nhà lại còn nhiều cái sợ hơn. Nhà gồm sáu gian lớn và một gian xép ngày xưa dùng chứa thóc, hàng hiên chạy dài phía trước, có bậc cửa cao chắn ngang lối vào nhà. Gian nào cũng có những cái giại tre che kín. Bởi vậy, ban ngày mà nhà tối mờ mờ. Gian đầu đằng kia cái chuôi vồ ngày trước đã bị một lần sét đánh, rơi trên nóc nhà xuống. Chắc đấy có con ma dữ nên trời đánh. Đào đất chỗ ấy thế nào cũng tìm được cái lưỡi tầm sét của ông thiên lôi. Ba gian chính, một bên kê bộ tràng kỷ, chỗ khách khứa ngồi chơi. Tôi nhớ nhất hai thứ này: cái ảnh "các bốt tan" nhỏ. Một chụp ông Đề Thám quấn khăn tầy vố ngồi khuỳnh chân, đặt hai tay xuống đầu gối giữa một đứa trẻ con và một chụp một cảnh đồn canh trong rừng có những người mặc áo dài, thắt lưng bó que cũng đeo một khẩu súng trường oai vệ. Phía trong tường, một bức hoành bằng giấy viết hai chữ nho thái hoà thực to. Kỳ diệu thay, trong lòng chữ, lại mang nhiều hình vẽ. Vẽ ông ngồi câu cá. Vẽ cái cây, cái núi. Vẽ ông cầm quạt đứng bờ sông chơi. Vẽ ông cưỡi ngựa có thằng bé con chạy theo. Vẽ chiếc thuyền. Vẽ đàn chim. Tất cả đều lồng trong hai chữ thái hoà khổng lồ.

Ngay phía dưới tường, trên đầu trường kỷ, treo một quyển lịch bìa đỏ. Tôi không biết chữ nghĩa nho nhoe gì, nhưng hay táy máy mở ra xem. Ở trang đầu quyển lịch vẽ một thằng bé chỏm để cun cút, tay cầm cành tre, tay dắt một con trâu. Trên cao, chiếc mặt trời chiếu tia lủa tủa, có một chữ nhật nằm giữa. Cái lịch cũng tầm thường, chẳng đáng để ý mấy. Nhưng có một việc khiến tôi nhớ nó mãi. Một buổi tối, tôi ngồi tẩn mẩn, mở lịch ra xem. Thình lình, ông tôi cuốc vào đầu tôi một cái. Tôi sợ run. Tôi không dám khóc, nước mắt cứ trút xuống má. Bà tôi giải nghĩa cái cuốc ấy: "Từ giờ, tối tăm đêm hôm không được mở lịch chữ nho, chữ đức thánh ra xem nhé!". Tôi biết vậy. Và từ ấy, chừa.

Gian bên kia, kê giường bà tôi. Bên trong, một cái hòm phản lớn áp tường. Cái gian này lắm chuyện lạ nữa. Hai cái vòng sắt đóng vào hai mỏm cột để mắc võng như hai vòng càn khôn của ông Na Tra. Ở một chiếc cột sườn có con ma mộc. Con ma mộc là con chim chết trong cây, gặp giờ linh thành con ma mộc, nhập vào cây. Cái cây được đem từ rừng về đứng làm cột nhà, con ma vẫn còn ở trong ấy như thường. Cái cột xế phía trong tường cũng có ma mộc. Những tối khuya u uất nghe tiếng ma mộc gõ mõ nhớ rừng. Bà tôi bảo thế. Trong cột tự dưng bật ra những tiếng cóc cóc rõ ràng như tiếng mõ rao. Nhiều đêm nằm bên bà tôi, tôi cố đợi nghe ma mộc gõ mõ. Nhưng rồi giấc ngủ cứ vụt đến lúc nào không biết.

Cũng gian ấy, hai tấm cánh cửa bị thủng hai vạch dài. Ngày trước, quân Cờ Đen kéo qua vùng đã phá nhà này. Bây giờ, còn lại vết trên cánh cửa và một tấm cánh ngõ bị đốt cháy. Đêm mưa, dưới ánh đèn chập chờn những câu chuyện kể của bà, tôi lại tưởng ra hình thù lá cờ đen to bằng chiếc chiếu dại, lòng cờ mắc chằng chịt lưỡi câu. Nó chụp xuống móc người cong lên như con tôm rang. Những người tay cầm mã tấu, mắt to lồi như chiếc chén tống. Dao chém phầm phập. Đầu lâu tung lên với máu tươi. Trẻ con thì không cần phải giết. Nó cứ cầm hai cẳng chân vặn ngoéo một cái chết ngay được. Đứng trong xó buồng. Cứ nghĩ đã có lần những quân giết người ấy vào nhà này, tôi rùng mình, lảng ra. Hễ nhà vắng người, tôi đành ngồi thu lu trên thềm đá giữa sân, không dám ra ao hay vào trong nhà. Sợ lắm. Mà sợ nhất, nếu phải đến buồng ông tôi nằm. Cái buồng ấy lúc đông cả nhà ai bảo tôi vào một mình tôi cũng hãi.

Trong ấy cũng có một con ma mộc ở hốc cột. Con ma mộc này gõ mõ chọi với con ma mộc ngoài kia. Buồng tối om om không bao giờ trông thấy mặt đất. Cái buồng đây, bao nhiêu năm xưa đã để cho cầy cáo ở. Chỉ có mỗi một lỗ cửa sổ đứng cao tận trên áp mái, mà ông tôi đã lấy nứa đan bịt kín lại. Bởi vì về mùa gió, nước mưa thường hắt lùa được vào cửa sổ. Trên nền đất rộng ẩm thấp kê độc trọi một chiếc phản gỗ. Từ trên nóc nhà u ám rủ xuống những tua xanh đỏ và những tầu lá dứa dại. Những thứ ấy để trị loài dơi. Dơi bay vướng gai, sợ sẽ không dám vào buồng. Tuy thế, vô khối những con dơi đen sì vẫn tụm vào nhau bậu lúc líu như những nắm bồ hóng trên xà ngang. Phân của chúng tanh khẳn. Sáng nào ông tôi cũng quét, nhưng không bao giờ hết. Chỗ nào cũng sợ. Trong buồng này, đồn ngày xưa các cụ để của. Đâu chôn những mấy nén vàng, nén bạc. Bây giờ lạc mất dấu thành thử không ai tìm thấy. Đã có khi, mấy năm túng đói, ông tôi đào quanh buồng tìm của. Song lưỡi thuổng cắm vu vơ xuống đất, chẳng thể biết đâu là chừng. Mỗi lần, chỉ mới vào đứng lấp ló cửa buồng là tôi đã rờn rợn trong người. Tôi thấy thấp thoáng như có bao nhiêu ma quái chưa bao giờ tôi biết, ngồi chồm hỗm quanh quất sau các chân cột. Mấy hòn đá kê cột dáng hẳn cũng sợ, những hôm trời nồm dá cũng đổ mồ hôi ra ướt nhẽo.

Và ngày trước, ở buồng ấy đã có người bên đạo đến ở. Có một hồi, ông bà tôi theo đạo Gia Tô. Về việc đi theo đạo, bà tôi thường kể lại một câu chuyện buồn cười. Chặp tối, các dì tôi quì cầu kinh giữa nhà. Thầy giáo làm lễ bên cạnh. Thầy để ý nghe lời cầu kinh của dì tôi. Thầy nghe tiếng rì rầm đều đều Đức Chúa Lời... Đức Chúa Lời... có mười cái răng... Đức Chúa Lời có mười cái răng... Đức... Dì tôi quì, hai mắt nhắm tịt, cái đầu gật gưỡng. Tan lễ, thầy giáo gọi dì tôi đến, bảo đọc lại câu kinh. Dì tôi đọc lại: Đức chúa Lời có mười cái răng. Cả nhà không ai dám cười. Thầy giáo nghiêm trang bảo: "Bận sau, nhớ cầu Đức chúa Lời có mười điều răn... Đọc lại nào".

Dì tôi đã cầu kinh trong cơn ngủ gà. Vả lại, thày giáo bên đạo người miền bể nói chữ r uốn lưỡi Răn hay Răng thì cũng thế cả. Nhưng đó chỉ là câu chuyện để cười. Tôi cứ nhớ những thầy giáo bên đạo. Không phải những thầy giáo ngày trước ở trong nhà tôi. Ngày đó đã làm gì có tôi. Những nhà thầy bên đạo, thuở nhỏ tôi hay gặp trên đường cái. Cái áo thâm dài bí mật với cái mũ trắng to xùm xụp. Đôi mắt hau háu ang ác. Mỗi lần thầy giáo ở làng Đông hay trên Bạc xuống thường đến nhà ông bà tôi. Căn buồng tối này các nhà thầy đã ở. Thầy nào cũng giống thầy nào, cứ ở trong buồng, cửa đóng im ỉm, rất ít ra ngoài. Mỗi buổi chiều, thầy ra sân. Hai tay chắp sau lưng, thong thả đi bách bộ. Trời tối hẳn, thầy lại vào buồng. Căn buồng càng âm u ghê. Bên ngoài, đầu cái lối đi dầy gạch củ đậu lủng củng là cổng ngõ. Ngoài ngõ, không có ma. Nhưng có chiếc cánh cửa bị quân Cờ Đen đốt. Và có con chó đá bị chôn ngập nửa mình xuống đất, ngồi chầu hẫu mõm hếch. Tôi ghê ghê cả con chó đá.

Chỗ nào cũng có bóng ma. Có những năm nhà tôi quẫn bách, thường lộn xộn cãi nhau, bà tôi thở dài:. "Cái đất này có con ma cãi nhau. Lúc nào nó chuyển con đất đến là cãi nhau. Cứ nghiệm mà xem". Những chuyện ma quái ở các xó xỉnh những trận cãi nhau, chửi nhau, sợ quá, buồn bã quá. Ngoài ngõ, vườn sau, trong nhà, cái gian nhà kín chôn vàng có ma mộc, có ông thầy giáo bên đạo mặt xanh lướt, bận áo dài đen.

Buổi chiều muộn năm thân ấy, sau tết rằm tháng tám một ngày, u tôi ở cữ tôi ở cái buồng tối mò ấy. Cụ Dè bên láng giềng sang đỡ cho tôi. Cụ kém mắt, cầm miếng mảnh sành và chiếc que nứa sờ soạng cắt rốn cho tôi. Hai vai tôi nhầy nhớp bẩn bết đen xỉn. Lúc bồng tôi ra tắm ngoài cánh giại, bà cụ nói: "À thằng cu con này tràng hoa quấn cổ lắm lắm. Giời để cho làm người, ngày sau chim gái ra phết đây". U tôi thường nói lại thế, khi tôi còn nhỏ. Và u tôi hay bảo: "Mới đẻ, mày chỉ bé tí tẹo, bằng con chó con".

Chương 2

Mới sinh, tôi được gọi là thằng Cu, - cái tên chung thông thường của những đứa trẻ con trai trong vùng. Đến khi tôi biết bập bẹ đòi ăn quà, cả nhà đặt cho tôi cái biệt hiệu là thằng Bòi Cẩu. Hai chữ này cũng chẳng lạ. Nó, tên một thằng ăn mày. Bòi Cẩu là một người ăn mày ở vùng tôi từ thuở thiếu niên cho tới khi già lão. Ngày còn trẻ, Bòi Cẩu làm khuân vác lặt vặt. Về già, Bòi Cẩu đứng lêu bêu ngoài đường vào xin cơm từng cửa. Tôi chỉ nhớ mang máng. Lão thường đi vẩn vơ trên đầu chợ. Quần áo rách lướp tướp. Cái bụng phềnh như cái chum, hũm rốn sâu hoắm. Mặt lão chảy dài, lúc nào cũng nhăn nhó. Đầu lão to như một cái chõ đồ xôi.

Tôi được cả nhà gán cho cái hình dong hao hao giống Bòi Cẩu. Bởi đầu tôi to quá. Cái đầu tôi đã to lại méo mó gồ ghề như quả mít. Bà tôi nói rằng trước đầu tôi cũng tròn trịa dễ coi. Năm lên ba tôi đã thôi bú, lên ngủ một giường với bà tôi. Tôi hiền như một cục đất, xa u mà không khóc. Lúc nào tôi có ư ư giục dịch hờn, bà tôi liền doạ: "Kia kìa, con kèng kẹc... Con kèng kẹc cắn chân... Nín đi, cháu?". Tôi im ngay. Bà tôi cất tiếng ru ạ ời... Thế là tôi ngủ yên, đầu gối trên cánh tay bà. Gối cánh tay bà mãi, đầu thành méo và lồi dài về phía sau.

Người tôi gầy, chân tay quắt như ống nứa. Cái cổ ngẳng dài nghêu. Ấy vậy mà đầu lại to. Cái đầu to choán tất cả. Ở mỏm đầu sau gáy đã mưng một cái nhọt liền mấy năm trời. Nó bướu gồ như một nắm tay chắp thêm vào đầu. Mỗi năm đến mùa hè cái nhọt lại tấy lên rồi vỡ mủ. Chữa bao nhiêu thuốc cũng không dứt. Ông tôi nói:

- Nó là cái thiên thạch mạch lươn. Đầu đanh có ngòi ăn vào tận óc. Không chữa cẩn thận, có khi khốn. Cái này phải vào Sống lấy thuốc thì mới may ra. Thuốc cao ông lang Sống chuyên trị giống mạch lươn.

Tờ mờ sáng hôm sau, ông tôi vào Sống. Từ nhà tôi vào đến miền Sống, qua cánh đồng đất ngót hai mươi cây số. Ông tôi mang đi năm hào bạc. Xế trưa, đã về. Mua hết ba hào thuốc cao. Còn lại đủ hai hào, không tiêu hụt một đồng chinh.

Nhưng cái thuốc cao Sống danh tiếng ấy cũng chẳng chữa khỏi được. Cái đầu đanh nổi thành gờ gờ, tun hút lỗ ở giữa. Có năm, ông lang Sống ra tận nhà, cầm dao khoét cái nhọt của tôi. Cái lỗ chảy nước vàng thối rử cho ruồi bu lại.

Đến năm tôi đã biết lững thững ra đứng chơi đầu ngõ, cái nhọt dần dần tẹt đi. Chẳng hiểu khỏi vì thuốc cao, thuốc đồ hay vì lưỡi dao khoét.

Từ khi tôi bé, mới biết nhìn và trong ký ức lẫn lộn mang máng qua bao nhiêu năm này tháng khác, tôi đã thấy ông tôi già rồi. Lúc nào cũng thấy ông tôi như thế, đều đặn từ cái lặt vặt hàng ngày đến những nét nhăn nheo trên mặt. Đầu ông tôi trọc nhẵn, lơ thơ tóc bạc, ngó được cả lần da bóng đỏ. Độ hơn một tháng, ông tôi lại ra vại nước mài một con dao bổ cau thật sắc, đưa lên đầu cạo lấy. Nhiều lần mấp xuống da, máu chảy dòng dòng. Phía má bên trái ông tôi có một cái nốt ruồi. Ở vết nốt ruồi mọc ra mấy sợi râu dài bạc mờ như cước, quyện lẫn cả vào chòm râu thưa bên mép. Đôi mắt lờ đờ. Tuy mắt không kém mấy nhưng có màng gợn trăng trắng và ướt xung quanh mí. Phía dưới mí gồ lên hai cái bọng. Những nếp răn chảy trên má rạt quanh xuống hai bên cằm. Rồi bắp tay bắp chân nhẽo thịt, da teo lại, tưởng có thể kéo chun ra được như cái yếm cổ bò. Hẳn ngày trước ông tôi lực lưỡng lắm.

Buổi sáng, khi tôi bừng mắt, nhìn sang cái ghế dài gian bên đã trông thấy đốm thuốc lá sáng phập phèo. Ông tôi ngồi bó gối, bao giờ cũng một kiểu ấy, hút thuốc lá, nhìn ra sân.

Suốt ngày, ông tôi ngồi ở đấy. Ngoài việc quét lá rụng trước sân, ông tôi không cất nhắc một việc gì khác nữa.

Những điếu thuốc lá quấn lấy, ngắn và bẹt đuôi như những cái tổ sâu. Hết mỗi điếu, ông tôi lại dán cái đuôi lên hóc cột. Những chiếc đuôi thuốc lá dán nối nhau dài liên tiếp đến hơn một sải tay, mấy hàng song song. Có tới mấy chục hàng đuôi thuốc lá trên cột. Sau này, gia đình tôi kém phong lưu và nghèo dần mãi đj. Vào những ngày mưa sập sùi, ông tôi thường sai tôi giải một tờ giấy phèn xuống phản. Ông tôi bóc những đuôi thuốc lá trên cột để tụ thành một đống rồi xé bụng những mẩu giấy đuôi thừa ấy. Mỗi mẩu, rơi ra một rúm thuốc. Những rúm thuốc nhỏ ám khói đen trộn lại thành đống thuốc khá to. Ông tôi lại đem hút dần như hút thuốc mới. Giấy thuốc lá không phải mua. đã có những quyển sách chữ nho dọc gọn ghẽ thành những tờ nhỏ. Thỉnh thoảng bà tôi đi chợ lại mua thêm một bánh thuốc. Bánh thuốc ấy, ông tôi lại đem trộn với cái thứ thuốc luân hồi kia mà hút, hút đi hút lại. Mùi thuốc khét đắng cả mũi. Mỗi buổi sớm, những đốm thuốc lập loè. Ông tôi ngồi, hai tay xếp vòng, khoanh trên đầu gối, ngước ra sân. Thường cả ngày, không nói.

Buổi chiều, ông tôi uống rượu. Ông tôi uống ngữ, hết áng chừng một cút nhỡ bốn xu. Thức nhắm chỉ là bánh đậu phụ chấm mắm tôm. Ông tôi ưa thích thức nhắm lặt vặt, linh tinh, ếch, lươn, tép cá. Thịt chó, húng quế thì thú lắm. Tôi được ngồi ăn cơm cùng mâm rượu của ông tôi. Cả nhà mâm khác. Khi cả nhà ăn xong các dì tôi mới dọn rượu. Mâm đặt trên một cánh phản đầu nhà ngang, bên cạnh gốc cây ổi. Ông uống rượu nhấm nháp, cháu ăn cơm. Hai ông cháu ngồi gật gù. Chẳng may, dạo ấy tôi lại chưa biết ăn thịt chó.

Tôi yêu ông tôi nhất, tôi ghét, tôi sợ ông tôi nhất và tôi cũng biết rõ ông tôi, dưới hai con mắt thơ dại của tôi, những khi tôi ngồi bên mâm rượu với ông. Chỉ đến lúc hai ba chén cay vào, ông tôi mới nói. Ông tôi chửi bà tôi. Lúc ấy, ông tôi ngồi rút cả hai chân lên phản. Hai bàn tay ông tôi nắm lại đặt đều xuống hai bàn chân, tựa lối ngồi của ông Ba Mươi trong những bức tranh thờ. Ông tôi đợi bà tôi nói thêm một câu. Chỉ một câu thôi. Câu gì cũng được, nghĩa là nói lên nghe ngứa hai lỗ tai. Không bao giờ bà tôi im được. Thế là ông tôi vừa hét, vừa đập tất cả những thứ gì vô phúc có xung quanh mình. Ông tôi cũng không phá được mấy. Bởi cứ khi ông tôi sắp nổi nóng, các dì tôi đã cất dọn sạch bốn bên. Ông tôi chỉ quăng ra sân được mấy đôi đũa, cái bát rếch. Ông tôi ra góc nhà, vớ cái rõi cửa, đuổi theo bà tôi. Bà tôi huỳnh huỵch trốn ra ngõ. Ông đứng trong đầu tường, quát thêm mấy câu, rồi lại cất gậy cẩn thận vào xó cửa chỗ lúc nãy. Một chốc, nghe tiếng ngáy rền rền bay qua khe giại. Mỗi lần xảy ra những lộn xộn kinh khiếp thế, tôi cứ thất đảm cả người. Tôi chạy đến bíu lấy váy bà tôi, van bà tôi đừng nói. Nhưng bà tôi cứ nói toang toang. Đến lúc ông tôi vác gậy, tôi hốt hoảng, chạy nép vào khe tường, hai tay bưng mặt. Nhiều khi, cơn hãi đến, tôi nhợt nhạt mặt mũi cứ đứng ngơ ngẩn trong góc nhà.

Nhưng cũng có những buổi chiều, ông tôi uống rượu hiền lành. Ông kể cho tôi nghe biết bao nhiêu chuyện ngày xưa.

Không phải là chuyện Tấm Cám, truyện Anh ngốc đi buôn vôi buôn bông, buôn quít. Đây là những chuyện ngày xưa của ông tôi. Tôi nhìn ông tôi, kính phục như là nhìn một ông thánh tưởng tượng.

Ngày trước, ông tôi đã từng đi ăn trộm, đi ăn cướp. Ông tôi đã chém đầu kẻ trộm. Ông tôi lại đâm cả kẻ cướp. Ông tôi có đủ các thứ võ. Đấu nhau với ai, ông tôi cũng được. Ông tôi chống một chiếc gậy, dậm chân, vỗ đít đánh đẹt, rún một cái nhảy vụt qua nóc nhà, dễ như chơi. Bạn ông tôi toàn các tay võ danh tiếng. Những quận Vang, quận Tiền mấy tay chặt đầu người ta như củ chuối. Có những ông cứ buổi chiều tối, tụ họp nhau ngoài cánh đồng, bắc loa gọi vào trong làng: "Bớ ba quân thượng hạ... Bớ ba quân thượng hạ...". Làng nào làng nấy sợ cúp hai tai. Rồi các ông chia nhau đi ăn cướp. Có những ông mang nhau lên rừng làm kẻ cướp. Có người kéo cờ làm giặc, chẳng thấy bao giờ trở về.

Ông tôi thường nhắc lại tên từng người. Cũng như ông tôi thích kể chuyện ông Đề Thám, ông đốc Tít. Và ông tôi hay kể chuyện ông đi lính ngày xưa, thời quan ta. Đầu ông tôi đội chiếc nón sơn. Ông tôi mặc cái áo nâu dài, hai vạt loè xoè thắt lưng bó que ngang bụng. Chân thì giẫm đất. Vai đeo khẩu súng hoả mai. Bộ quần áo lướt mướt ấy, mặc mãi cho đến lúc bạc phếch, rồi rách bươm, lại về nhà tảo bộ khác. Có anh quần rách, xé dần cho gọn cụt lên đến khỏi khoeo. Cứ đi đến đâu thì ăn, ở đấy. Nơi nào lắm lợn, ăn lợn. Nơi nào nhiều gà, bắt gà chén. Có những vùng kém đói, lính cứ phải vác liễn rều rễu đi xin tương. Rồi cơ binh đóng giữa một cánh đồng. Cánh đồng giêng hai ngày mùa, chỉ rặt một giống cà chua ta như hòn bi đỏ choẹt. Lính đành ăn cơm cà chua hàng tháng. Sau chuyến ăn cà chua mấy trăm bữa này, ông tôi sợ cà chua đến tận ngày về già. Hễ ăn cơm trong mâm có bát canh cà ông tôi không dám đụng đũa.

Còn bao nhiêu chuyện lính lặt vặt vừa buồn cười vừa thảm thương không nhớ hết. Trong những ngày xưa kỳ dị mênh mang của ông tôi còn những chuyện ghê gớm hơn chuyện võ và chuyện lính...

Ông tôi kể ngày xưa ông tôi đã đi phu mộ làm đường trong Phan Rang, Phan Thiết. Ngày xưa, cái ngày mà làng này nghèo xác xơ. Cỏ mọc đầy đường cái. Hai bên vệ bùm tum những bụi găng gai góc. Một năm, đói kém, Tây mộ phu vào miền nam Trung kỳ làm đường. Chẳng sao? Đến xuống Âm Ti cũng đi, miễn là có tiền. Và miễn là được ngay mấy đồng bạc tiền thưởng trước để đem về cho vợ con ăn ở nhà. Ông tôi cùng mấy người làng rủ nhau ra đi. Mấy trăm con người đáp tàu xuống Hải Phòng, rồi từ Hải Phòng đi tầu thuỷ vào miền trong. Đổ bộ lên quãng Phan Rang, Phan Rí gì đó. Con đường lớn xuyên Đông Dương mới phá đến quãng này. Rừng núi thăm thẳm, rùng rợn. Người ta lên những cơn bệnh rét cuống cuồng ôm lấy nhau, ôm lấy cây, ôm lấy mặt đất. Ban đêm, không dám ngủ, cứ ngồi rúm lại với nhau đợi chết.

Một đêm, ông tôi và hai người nữa băng rừng trốn. Sáng hôm sau, khi mặt trời lên trông ra chỉ còn mỗi mình ông tôi. Hai người kia lạc đâu không biết. Mấy hôm liền chạy trong rừng, không dám ra, sợ người ta tóm lại. Đến khi đoán chắc đã khỏi chỗ làm rồi mới dám mon men lần ra ngoài đường. Từ bấy, hướng về phía bắc, ông tôi cứ theo con đường ấy mà vượt đi thục mạng. Bắt đầu cuộc phiêu lưu nguy hiểm. Chân bước trên đường, chẳng cần biết đâu ngày, đâu đêm. Khi ngủ cầu, ngủ điếm. Khi nằm trên cây giữa rừng. Có những ngày ông tôi lang thang ăn mày từ vùng này sang vùng kia. Ông tôi còn nhớ, kể những cửa Hải Vân, những đèo Cả, đèo Rù Rì... bao nhiêu danh từ kỳ dị gợi nên muôn hình ảnh núi sông lạ lùng trong đầu tôi.

Một buổi kia, tới một xóm chài ở bến đò thì mặt trời vừa xế bảng lảng bóng vàng. Đi cả ngày, đã mệt lắm, muốn nghỉ lại nhưng túi chẳng có lấy nửa đồng gãy. Ông tôi bước thất thểu, ngó vào từng cửa ngõ. Ông tôi thấy mọi người xúm quanh một người đàn ông, một người đàn bà và một đứa trẻ con. Thằng bé chừng bẩy tuổi, bị bỏng suốt từ bả vai xuống. Nó khóc ngằn ngặt. Ai mó vào nó, nó giẫy lên. Người mẹ sợ quá cứ gào to. Người cha cúi xuống cố ẵm con lên.

Ông tôi ló đầu vào đám đông. Chẳng hiểu sao, hoặc bởi bộ quần áo và chiếc khăn gói trên vai, người ta xì xào: "Ông lang đây rồi". Ngỡ ông tôi là người bên đạo thường che ô, xách bọc đi bán thuốc rong vào những ngày mùa hè khắp các miền quê.

Người mẹ đương khóc cũng ngẩng đầu lên. Trông thấy ông tôi, chị xụp ngay xuống lạy, kêu: "Ới ông ơi, ới ông ơi, ông cứu con tôi, ông cứu con tôi...". Ông tôi chưa biết phân trần thế nào thì người chồng cũng quay lại: "Ông lang đấy ư? Lạy ông, lạy ông, ông cứu...". Hai vợ chồng hì hụi lạy. Ông tôi càng quýnh quýnh. Nhưng ông tôi cũng chấn tĩnh ngay. Ông tôi nghĩ: "Cái này là cái chết đây. Lạy giả người ta mà bước ngay, hay cứ liều. Rồi liệu sau. Đến đâu hay đấy". Ông tôi làm theo cái điều thứ hai, điềm nhiên nói: "Được, tôi chữa cho. Bây giờ các bác hãy ẵm cháu vào nhà cho khỏi gió". Cố nhiên, ông tôi cũng vác khăn gói lủng lẳng mà theo về nhà người ta. Ông tôi bảo cha thằng nhỏ rằng: "Bác tìm đâu vài chiếc trứng gà, đập ngay hai chiếc, cứ nguyên thế mà xoa lên khắp chỗ bỏng cho cháu. Xoa trước, rồi tôi sẽ tra thuốc sau". Tài tình quá, trứng gà phết vào cánh tay thằng bé được một lúc thì nó không kêu nữa. Cái trứng gà vốn mát, bôi dịu da. Hai vợ chồng nhà chài mừng quýnh. Thế là cơm rượu đâu vác ra đùng đùng. Nhà chài ven sông, chẳng lúc nào thiếu cá. Ông tôi đã chén một bữa no say nhất đời. Từ ngày bước chân ra đi, chưa được bữa nào thống khoái như vậy.

Ông tôi uống một ngụm rượu, nhắm một miếng đậu phụ rồi ngồi yên. Tôi ngồi chầu hẫu, hóng lên miệng ông. Ông tôi mủm mỉm nói:

- Nhưng còn thuốc, ông lang thì phải có thuốc, thuốc ở đâu mà tra cho thằng bé? Tao lo quá. Phúc làm sao, tao nghĩ ra một mẹo. Tao nằm áp vào vách, lấy móng tay cạo một vốc mùn đất vách. Trên giường thờ có hai quả trứng trong bát nước cúng. Tao nhót một quả, đập vào lòng bàn tay, luyện với đất vách, thành một hòn thuốc viên thâm thâm. Gà gáy, tao dựng vợ chồng nhà chủ dậy. Tao bảo thuốc này phải bôi cho trẻ lúc mặt trời chưa mọc thì mới nghiệm. Tao đem "cục đất thuốc" hoà với một ít nước cho nó lỏng sền sệt, bôi lên khắp cánh tay thằng bé. Thằng bé đau đớn cựa quậy suốt đêm, bấy giờ nó ngủ li bì. "Thuốc" chát đen xỉn một cánh tay. Nhà chủ có vẻ tin lắm. Rồi tao từ tạ nhà chủ, xin đi ngay, nói là có việc cần. Vợ chồng chèo kéo mãi, cố nèo nhà thầy ở lại xơi cơm sáng. Tao nằng nặc quyết đi. Con vợ nó còn chạy theo ra tận đầu xóm nằn nì. Tao phải giằng tay mà đi. Đi khuất đầu xóm tao cắm cổ chạy một mạch. Được đến mấy cây lô mét, giời mới hưng hửng sáng. Bấy giờ mới hơi hoàn hồn, yên chí không thể ai đuổi kịp được nữa.

Rồi một đêm kia, về được tới cây đa cổng đình. Chính ra ông tôi đã về từ trưa, nhưng quần áo rách quá, cứ nằm ngoài đồng.

Ông tôi gọi cửa. Bà tôi ra mở, trông thấy, sợ quá, rú lên tưởng hồn ma hiện về.

Thì ra, khi ông tôi đi độ vài tháng có tin về làng rằng các tầu "đi Tân Thế giới" ra đến giữa bể thì bị cá ông voi ăn thịt cả mấy trăm con người. Đó là một tin đồn hão. Không có tàu đắm, cá voi ăn thịt người, nhưng mấy làng ra đi, chỉ có một mình ông tôi phải mấy tháng trời mới mò về được.

Tôi băn khoăn, hỏi ông:

- Rồi thằng bé phải bỏng nó có chết không, hả ông?

- Tao biết đâu! Thằng này chỉ hỏi lẩn thẩn!

Tôi nín thít.

Ông tôi uống rượu xong, chệnh choạng lên nhà. Ông tôi nằm gối đầu trên một mẩu gối gỗ mít thực cao như cái bao diêm khổng lồ. Đầu giường dựng một cái gậy tre đực. Cuối giường có cái gậy sắt. Trước giại, nằm gác ngang một chiếc thùng lùng, cán tre hun khoanh đốt, mũi sắt nhọn. Như là phòng đêm có cướp.

Đôi khi, tò mò, tôi nhòm vào, hai tay ôm cột, lé một mắt xem ông tôi ngủ.

Sớm hôm sau, khi tôi bừng mắt trông cạnh ghế dài gian bên đã thấy đốm thuốc lá lập loè. Ông tôi ngồi quặp hai chân tay khoanh trên đầu gối. Ký ức tôi, lúc nào cũng in cái dáng ông tôi như con hổ ấy.

Chương 3

Thày tôi không phải là người vùng này. Thày tôi vốn người trong miền vào núi chùa Hương. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao thày tôi cũng võ vẽ biết chữ tây và viết quốc ngữ, lối chữ ngả đủ cả phảy móc, nét đều đặn, của mấy ông phán già. Bởi cứ bằng vào những mẩu chuyện mà tôi đã nghe được thì thày tôi chỉ học được mươi chữ nho của ông nội tôi Thày tôi học dốt, lại lười và bướng. Thường phải nhảy xuống ao trốn đòn suốt ngày. Rồi bỏ nhà đi lang thang. Có khi mò mẫm xuống Nam Định, ở nhà người bà con học chữa đồng hồ, hoặc vất vưởng ngoài Hà Nội. Lớn lên, ông bà tôi lấy một người con gái làng cho thày tôi. Tôi không được biết gì về "mẹ già" ấy của tôi. Sau này, mỗi khi nhắc tới, thày u tôi bảo tôi gọi người là mẹ già. Tôi chắc mẹ già cũng đẹp gái. Bởi mẹ già tôi chê thày tôi đen đủi như cục tam thất. Do đấy thày tôi thường tức mình và thường trốn nhà ra Kẻ Chợ.

Khi lấy u tôi thì thày tôi đương làm việc ngồi xe ngựa đi đưa bánh cho một lò bánh mì trong thành phố. Và người mẹ già tôi đã mất được mấy năm ở trong quê nhà. U tôi cũng không rõ được chuyện ấy. Có thể lấy nhau rồi mới biết. Có thể rằng thày tôi chỉ là người khách lạ. Có người cùng làm ở lò bánh tây mách rồi đánh tiếng, ông mối là ông xã Cánh, rồi xem mặt, rồi hỏi và cưới. Cho tới hôm thày tôi đi xem mặt, u tôi cũng không biết thày tôi là ai. Đến ngay cả ông bà tôi cũng mờ mịt. Vậy mà các cụ cứ gả. Cũng chẳng lạ, trong nhà nhông nhống sáu cô con gái chưa có chồng, ai rước được người nào là cái phúc.

Người ở Nghĩa Đô nghèo, sự sống loanh quanh buộc vào mấy cái khung cửi mọt. Trong làng, không mấy ai đi ra ngoài.

Một chiếc xe đạp bóp chuông kính coong qua trên đường cái trẻ con cũng chạy đuổi theo xem. Những ngày tết nhất rỗi rãi bố mang con lên bến xe điện mua vé đi tàu chạy "keng ầm" vào thành phố đã lý thú lắm.

Thày tôi đến làng u tôi với phong dạng chàng Kim Trọng du xuân trong truyện Thuý Kiều. Người ăn vận chững như chưa bao giờ trai làng ở đây chững đến thế. Đầu đội nón dứa chóp bạc. Mắt đeo kính rợp, áo sa bóng nuột, nổi cái thắt lưng điều đỏ hoe, dài loè xoè thò chấm vạt áo trước. Cái quần là hộp, đôi giầy Chí Long bóng nhoáng. Tay dắt chiếc xe đạp nhẹ nhàng. Cùng với điệu bộ trang nhã, thêm cái danh làm việc Tây ngoài Kẻ Chợ, ôi thôi nhất làng rồi. Không bao giờ tôi được biết những thứ sang trọng ấy thày tôi đã đi mượn hay thuê của nhà cầm đồ Vạn Bảo.

Ông bà ngoại tôi được sáu người con, đều là gái. Cũng một lần bà tôi sinh trai, vào nấc con thứ năm, nhưng cậu Hoà tôi chỉ có được ba tuổi, rồi bỏ. Ông tôi uống rượu và mắc nghiện từ ngày cậu tôi ốm chết.

U tôi là con đầu lòng. Tôi biết nói những gì về u tôi trên những dòng chữ yếu đuối này. Những nét ẻo lả, làm sao mà chứa nổi hình ảnh vui thương chìm sâu trong những ngày cũ buồn bã. Ký ức tôi mờ mịt những kỷ niệm một màu trắng sương. Tôi không nhớ rõ ràng một điều gì nhưng thực tôi đã nhớ biết bao nhiêu. Đêm đã nghiêng về sáng, gà chuồng trong lối xóm vừa te te gáy trống canh đầu. U tôi đã đi ngủ từ lâu.

Nhưng tôi buông bút, nhìn ra bốn bên, chỗ nào cũng thấy bóng u. Cái bóng lầm lũi, hoà với bóng tối, vẽ nên một khuôn mặt trăng trắng với đôi mắt nhỏ lòng đen nhuộm một màu nâu đồng. Cái bóng mơ hồ bên cạnh lớp lớp những ngậm ngùi những thắc thỏm đợi chờ dài dặc trong ngấn nước mắt và tiếng thở dài. Người ta, nhiều lúc nhàn, quây quần bên người thân không mấy khi lại tỉ mỉ vẩn vơ nhìn ngắm những người trong nhà. Thỉnh thoảng, như sực nhớ tôi chợt nhìn u, tôi bỗng giật mình. Tôi ngờ ngợ như người ngồi trước mặt đây không phải là u tôi. Có đâu u tôi lại thế kia. Tóc đường ngôi của u tôi lốm đốm rụng, chỉ còn lưa thưa. Mới năm nào, u tôi thuê tôi nhổ, một chinh hai chiếc tóc sâu. U tôi cười, nếp nhăn ở đuôi con mắt nheo lại, xếp lên nhau, đến khi hết cười còn hằn những vết rạn khía quanh xuống hai bên gò má.

Hàm răng trên của u tôi khuyết hai chiếc đã mấy năm nay. U tôi già đi từ bao giờ? Từ lúc nào? Khi tôi ngậm ngùi như thế, tôi lại ngẩn ngơ tưởng tượng rằng có một hôm tốt trời nào đó tôi có tiền. Tôi sẽ đưa bà tôi, u tôi ra Kẻ Chợ. Rồi vào một hiệu cao lâu, ăn một bữa thực sang. Ăn xong, có khăn mặt ướp nước hoa lau tay. Lúc tính tiền, cho hẳn bồi bàn hai hào bạc. Không hiểu bà tôi, u tôi sẽ nghĩ ngợi thế nào? Chưa bao giờ tôi dám nghĩ rành rọt về cái đoạn kết ngạc nhiên lý thú đó. Mà tôi chỉ tưởng tượng như đấy là một cử chỉ rửa một cái gì hần hận. Cũng như chưa bao giờ tôi đã làm ngon lành được cái việc trẻ con ấy chỉ vì tôi không có tiền. Và cũng chưa có đâu thì giờ của mình. Trong đôi mắt dịu hiền của u tôi, tôi mới có thể là hy vọng của một tương lai mong đợi sáng sủa hơn. U ơi u, chị ơi! chị, cháu(1) hiểu, không bao giờ chị biết đến những hàng chữ tắt mắt cháu đương viết đây. Cái thế giới tân kỳ mà cháu sống, chẳng bao giờ chị tìm biết. Người mẹ kín đáo ngắm đứa con ngày một khác lạ, lạc mãi vào những cuộc sống xa xôi nào. Mẹ âm thầm sống. Mẹ là cái bóng đi bên cạnh tháng ngày của con. Chị ơi! Chưa bao giờ chị dám muốn có một ý đổi thay mong ước. Cái nghề có một của u tôi vẫn là nghề làm giấy phèn đem bán rong cho người ta gói hàng. Ngày hanh hao có những đêm đông lạnh lẽo, bên ánh một ngọn đèn hoa kỳ hiu hiu, u tôi ngồi xắm giấy. Tôi nằm trong lòng váy u tôi, mắt ngước lim him nhìn thoáng hai cánh tay u tôi đưa đi đưa lại nhịp nhàng, tai nghe tiếng những chiếc que dò chạy lạt xạt, lẹt quẹt dưới lòng những tờ giấy dài nháng keo. Rồi tôi ngủ khuấy lúc nào không biết.

Cho đến bây giờ, những đêm ngồi viết khuya, trông ra ngoài đầu hè, vẫn thấy u tôi lặng lẽ ngồi xắm giấy bóng đổ chập chờn trên vách. Đã bao nhiêu năm qua.

Thực vậy. Còn nhớ năm nọ, có một buổi chiều, không biết u tôi đi đâu về. Ngoài ngõ chó sủa inh ỏi. Tôi chạy ra, thấy u tôi đương rối rít xua con chó vện của nhà cứ lăn xả vào chân. Tôi quát thực to, doạ đánh, nó mới chịu lùi vào trong sân. Con chó vện hoảng mắt bị tôi cho một trận đòn kịch liệt. Nhưng đánh xong con chó, mới biết rằng chó bị đánh oan.

Hôm đó, u tôi mặc cái áo cánh trắng. Từ thuở chó vện lọt lòng mẹ ở trong gầm phản ra, chưa bao giờ được thấy u tôi mặc áo cánh trắng. Con chó trông mãi màu nâu đã thành quen mắt.

Đến đỗi thình lình ngó u tôi mặc áo trắng nó không nhận biết là ai, vội sủa um sùm. Chưa bao giờ u tôi dám có một cái áo trắng. Cái màu cố hữu trên lưng áo là màu nâu vỏ xó, màu nâu bùn đen sẫm.

Khi sinh tôi rồi u tôi ở hẳn bên ông bà ngoại tôi. Tôi chưa về ăn cái tết nào trong quê nội. U tôi sinh tôi tại nếp nhà của ông bà ngoại tôi. Rồi thì khai sinh, vào sổ làng, mua quan viên, đóng góp phần việc hàng giáp, nhất nhất mọi thứ nhiêu khê đều ở làng ngoại. Tôi nghiễm nhiên là một quan viên kẻ Bưởi. Ngày còn nhỏ trong những sách vở học trên chữ tên tôi tôi viết hai chữ Lại phú, Lại Nguyễn. Họ Lại là họ u tôi. Tôi chẳng vẫn vác rổ đi lấy phần việc họ, chững chạc lễ bốn lễ hai vái cẩn thận đó sao. Khi lớn khôn hơn, thấy việc trộn những chữ ấy là ngô nghê quá, tôi phải bỏ bớt chữ Lại đi. Mặc dầu tôi vẫn nhớ, tiếc một mình rằng sao tên tôi chẳng được có chữ Lại kia đội ở trên. Tôi không thích về quê. Tôi tưởng tượng về làng nội như bị ném về một nơi rặt người xa lạ. Thày tôi đi vắng biền biệt hàng bao nhiêu năm, tôi yêu quê tôi sao được. Hơn nữa, khi nào ở làng ngoại về làng nội, thực ra u con tôi đã phải làm một công việc khó nhọc lắm.

Tôi chỉ về quê nội như đi chơi. Tôi thường về quê vào cuối xuân khi làng vào đám hoặc đầu mùa đông, dịp đồng áng gặt hái. Đầu tôi đội cái mũ bấc bọc vải nâu đỏ. Chân tôi đi giày tây có cổ Tấm áo lĩnh đen bóng trong lót vải hoa vàng. Cái áo tết ấy thực quý, bởi bà ngoại tôi hay nói pha rằng: "Áo này hàng sa tây lót màu vàng anh Thượng Hải dệt hoa đại đoá. Bây giờ hết, không đâu có bán thứ hàng ấy nữa". Tôi sung sướng đỏ hai tai mỗi khi được gượng nhẹ xỏ hai bàn tay ếch vào cánh áo lụng thụng, tự hãnh diện với cái giá trị ghê gớm của nó. Không hề hay rằng cái danh giá mặt ngoài nó là cái danh giá của một mảnh lĩnh lẻ nhuộm thâm nhà dệt lấy và mặt trong thứ vải hoa vàng hạng mèng ba hào rưỡi một thước khổ lớn mua ở hiệu tây đen đội mũ lồng oản ngoài phố hàng Ngang.

U tôi mặc váy vải thâm thắt lưng nhiễu tam giang ra ngoài. Trên đầu kềnh càng chiếc nón Kẻ Chuông tròn vành. Bên nách, cắp cái thúng to trong đựng mấy cái quần áo, một cận chè mạn, đôi ba phong bánh khảo với một hộp dầu bạc hà, cái ve dài ngoẵng và một gói trầu cau. U con dắt nhau đi từ tờ mờ sáng ra Bờ Hồ đứng chờ tàu điện trên bến vào Hà Đông. Con tầu kéo những mấy chiếc toa rít u u trên đường sắt, lôi nhau ra khỏi thành phố. Vào đến tỉnh lỵ lại đón ô tô đường Vân Đình.

Chiếc ô tô hàng to như con lợn kếch sù vàng khè, hục hặc qua cái cầu xi măng chạy ra khỏi tỉnh lỵ. Tôi ngồi nép sát bên cạnh u, ngơ ngác ngó ra lỗ cửa sổ, cái lỗ che mảnh vải nâu gió đánh bay tốc lên phật phật. Hai mắt tôi nheo lại, nhưng vẫn ngoẹo cổ nhìn sang bên đường cái. Chẳng bao lâu, đã quên những tiếng chuyển động xình xình của xương cốt cái xe cùng những người ngồi chung quanh. Tôi mê man nhìn cảnh đường sá, ruộng nương, cây cối cứ thay đổi tiếp nhau ngoài cửa sổ. Đến Bông Đỏ, nhà cửa đã thưa thớt. Giữa Ba La, đường cái chia hai, một về chùa Trầm, một sang ngả chùa Hương.

Tôi ngoái cổ lại, xa xa rặng núi Trầm đen sì đầy vẻ huyền bí lởm chởm nhô lên. Rồi thì qua Xốm với hai rặng tre tối um rủ bóng rợp kín lối. Đường cái đã xẻ qua cánh đồng chỗ xanh chỗ trắng. Làng Thạch Bích có cái nhà thờ chót vót hai tháp mốc trắng. Những quán cơm cầu Khâu, cái đùi chó đen nhẫy treo lủng lẳng trong chiếc tủ vuông. Luỹ tre bọc đằng xa. Vạt cỏ viền hai bên lề. Con trâu gò vai kéo cầy. Có chỗ túm tụm ba bốn người quẹo cổ kéo bừa thay con trâu. Kìa đến cống Lỗi - hai thành cầu sắt quét vôi trắng tinh. Cột dây thép liên tiếp, chạy đuổi nhau dạt theo đuôi con mắt tôi lé ngang. Một... hai... ba... bốn... chín... mười một... tôi đếm không xuể. Những cái núm trắng trên mỏm cột bay vun vút. Toe... toe... toe... sắp tới phố huyện Thanh Oai. Đằng chân trời, lờ mờ màu xanh rặng núi chùa Hương cuối đồng chiêm, gần Hoà Bình. Đến huyện rồi. Đường cái, lác đác mấy chiếc xe sắt chổng đuôi lên đỗ nối nhau. Hai bên, hiện ra những căn nhà gạch so le, khấp khểnh. Poste rurale... Ecole de Tha... Mấy quán nước chè tươi... Hai hiệu khách bán thuốc bắc và tạp hoá, ngoài cửa, tòn ten đôi câu đối gỗ màu vàng đất thó. Bụi đường bốc lên, cuốn ào sang hai bên. Lại ruộng. Lại cột dây thép. Một đàn cò nhịp nhàng bay ngang cánh đồng chiêm trắng nước. Con chim cà cưỡng đậu trên cành gạo hót ríu ran. Đôi chốc, xe vụt qua những bụi tre nhỏ lả lướt có một quán hàng nước tiều tuỵ. Toe... toe... toe... Cầu Nẩy Cầu Nẩy! ông ơi, ông cho tôi xuống Cầu Nẩy. Xe đỗ. U tôi bê cái thúng và bế tôi xuống đường. Chiếc xe chồm lên, lại gầm gừ chạy. Con đường hút lòm, xa thẳm khuất vào bóng tre với những cột dây thép nhấp nhô.

Bao giờ cũng vậy, vừa dặt chân xuống mặt đường và khi cái xe ô tô đã xình xịch đi khỏi, tôi chợt có một cảm giác lo lắng lạ thường. Tôi vừa qua Hà Nội náo nhiệt, tôi vừa ngồi tầu điện ầm ĩ, tôi vừa đj ô tô ồn ào. Bây giờ xuống đây, sao mà hoang vắng. Không một tiếng châu chấu động cánh. Con đường lạnh lùng câm nín một vẻ ghê rợn. Gió dưới đồng sâu đưa lên, những cột dây thép cứ rên rỉ ầm ù hầm hừ. Sự lo sợ lẻ loi với nỗi buồn sắp phải đi đâu xa.

Chúng tôi rẽ vào trong cánh đồng. Làng tôi ở cuối xa, bên cạnh bờ tre là một vệt đê dài. Trên con đường gập ghềnh băng qua cánh đồng mùa xuân, u tôi kể cho tôi biết tên những gò đống, làng xóm xung quanh. Ngay lối gần nhất là cầu Chim. Lối kia rẽ về Nga Mi, làng Nga Mi có cái chợ Mai họp ven sông. Cứ thẳng lối này thì tới nhà. Con đường mù trắng hoa cỏ may. Về nhà tha hồ được bữa nhổ mỏi, hoa may tua tủa bám vào ống quần. Cái gò gì mà đất cát lở tở nằm dài bên lề đường? À, gò ông Đống. Hàng ngày mỗi người qua lại ném vào lưng ông Đống một hòn đất, ông Đống phù hộ cho đi đường được dẻo chân, chóng đến nơi. Ngang trước mặt, luỹ tre chạy tiếp ra đường cái tây, là làng Kim Bài. Con đường đi nghiêng dần vào trong cánh đồng. Đến cầu Ngồ, rồi Ba Cây rồi đến Một Cây. Những gốc muỗm thực lão, cành lá xum xuê. Tới Một Cây đã ngó được những mặt ao lấp lánh sáng. Cái tường đất xù xì dưới luỹ tre hiện ra. Tôi đã ngửi được mùi đất quen thuộc. Quen thuộc lắm, chỉ thoáng qua là biết sắp về tới quê. Ờ, mà lạ. Không bao giờ tôi biết phân biệt được rõ ràng cái hương vị phảng phất kỳ dị ấy. Nó thoang thoảng trong cánh đồng hoặc vẩn vơ trong rặng ô rô xanh rì. Tưởng như đấy là mùi cỏ khô, mùi đất ải, mùi khói rơm bếp. Không phải. Đích nó là mùi lá muỗm nấu lẫn với lá vối, mùi rau nhảy mùi lá trang, mùi lá cải, mùi có bồ mùng, mùi mái rạ chuồng bò. Cơ chừng chẳng rõ ràng mùi gì. Nó là tất cả, từ mùi tóc hôi trên đầu đứa trẻ cho tới mùi nõn cỏ gấu đắng mới nở hương đồng cỏ nội hoà vào nhau, bốc trên một miền quê. Cái mùi quê đặc biệt, mỗi khi về gần đến làng, là thoảng biết.

Cũng như, đứng ngoài đường cái tây, trông mờ mờ thấy mảng tường đất, tôi đã biết đấy là luỹ tre bên cạnh nhà bà Ba tôi. Quê nội tôi cũng thật là nghèo. Từ khi ông nội tôi mất nhà sút dần.

Bà Ba tôi là bà sinh ra mẹ già tôi. Người vợ trước của thày tôi - mẹ già tôi - tuy mất đã lâu, nhưng bà Ba vẫn quý mến thày tôi và yêu chúng tôi lắm. Về quê, bao giờ u tôi cũng mang tôi ra nhà bà. Trong những ngày về quê thuở ấy, tôi chỉ có thể tìm được một chút vui vui dịu dàng, mỗi lần ra ngoài nhà bà Ba. Ông Ba mất từ lâu. Thấy bảo ông đi rừng Hoà Bình về rồi chết bởi con ma gà làm. Rồi đến mẹ già tôi, hình như cũng chết vì con ma gà. Bà Ba chỉ có mỗi mình mẹ già tôi. Từ khi mẹ già tôi chết đi, bà ở quạnh quẽ một mình. Một mình một nếp nhà nho nhỏ, đằng trước có căn vườn xinh xinh. Lối ngõ vào, lưa thưa một hàng dâu xanh. Vào nhà cái gì cũng bé bỏng, cái gì cũng xinh xắn. Từ chiếc niêu đất thổi cơm cũng bé tí nheo. Chỉ riêng có con lợn trong chuồng là to kềnh, bụng như bụng chum bốn cái chân ngắn củn, cả ngày nằm ủn ỉn. Tôi còn nhớ hễ cái đầu trọc to thô lố của tôi thò vào ngõ thì tôi phải cầm gậy gõ cạch cạch trên tấm phên nứa. Con chó vàng xích tận đằng cuối cối xay. Bà Ba tôi chạy vội ngay ra. Bà cầm lấy tay tôi, dắt vào. Và đến lúc bà ngồi xuống bậc cửa, thì tôi đã nằm gọn lỏn trong lòng váy bà. Tấm váy nâu già, tuy chưa rách, nhưng đã bạc ra màu đất. Mảnh yếm lụa nâu nhờ, hai giải buộc quặt ra đằng sau lưng. Tôi luồn một tay ra nẻo lưng để trần của bà tôi, làn da dịu lạnh mắt ngước nhìn đôi khuyên bạc đánh lắc lư trong hai lỗ tai chảy thõng. Thuở trẻ, hẳn bà tôi vạm vỡ, mặt vuông vắn. Bây giờ mà nước da bánh mật còn đỏ lồng màu hạt vải già. Ở hai bên cánh tay, thịt teo lại, chảy rạt xuôi xuống một phía, mát rượi. Tôi ngoan ngoãn, him hai con mắt, nghe bà tôi nói. Bà nói rằng bà nhớ tôi. Buổi chiều đi chợ về, bà hay đứng ngóng tôi ngoài đầu vườn. Có cái oản lộc chùa hôm thượng nguyên bà cất dưới gậm mâm bồng. Lại có bát chè kho tuần rằm bà vẫn dành cho tôi trong hòm phản. Ấy, bà cứ để dành đợi hóng. Bao giờ oản và chè kho lên mốc xanh thì bà tôi lại khuân ra ăn dần. Những bữa cơm ăn với bà Ba ngon trong đời tôi, lắm khi chỉ có rau khoai. Rau khoai tím ngắt, chấm vào bát dấm mẻ cà chua ta dỏ ngòn lấm tấm mấy lá hành xanh rờn. Vậy mà ngon miệng lạ. Cơm nước xong, buổi tối, u tôi và tôi thường ngủ lại ngoài bà. Những buổi tối mùa dông giá lạnh cửa liếp buông xuống kín bưng. Trên cái giát nứa cật trải mấy lượt lá chuối khô. Tôi nằm giữa giường, mặt chiếu bồng bềnh sóng như mặt đệm bông. Buổi sáng, tôi còn nằm to vo lé mắt nhòm ánh sáng, chốc chốc lại thử thò một tý chân ra ngoài mép chăn xem có còn rét không. Tôi cứ nấn ná oằn oẹo như thế cho tới lúc u tôi bưng mâm lên và bà tôi gọi tôi dậy ăn cơm sáng. Cơm xong, bà tôi quẩy gánh hàng đi chợ. Hai bồ thuốc lào và mẹt cau khô lồng vào đôi dây quang mây, bên cạnh gài chiếc ghế cao chân. Bà Ba tôi bán cau khô và thuốc lào ở chợ làng. Nhưng có tôi về chơi, ít khi bà tôi đi chợ.

Cái thuở xa xôi ấy không còn nữa. Bà Ba tôi mất đã năm sáu năm nay rồi. Khi bà tôi nhắm mắt, tôi không được ở gần.

Mấy năm liền tôi không về quê. Tôi đã xa nhà luôn, khởi đầu những ngày long đong của một cuộc sống vất vưởng. Mùa đông năm ấy bà Ba tôi mất, tôi đang rối ren về sinh kế ở một tỉnh miền xuôi.

Từ ngày đó, tôi càng thưa về quê nội. Con đường càng ngại. Con đường càng xa. Sao con đường trở về quê lại xa quá thế! Trong đời, tôi đã qua những đoạn đường dài gấp trăm ngàn nó mà không hề nghĩ ngợi đến nỗi xa xôi như khi tôi bước trên đường về làng nội. Con đường ấy xa hơn hết và xa mãi mãi. Như vẫn dài thăm thẳm từ thuở tôi còn nhỏ, mỗi lần theo u về quê.

--------------------------------

1

Nhà hiếm sợ ma bắt phải gọi tránh: bố là anh, mẹ là chị và con xưng là cháu.

Chương 4

U tôi sinh được một em gái tôi. Em kém tôi ba tuổi, tên nó là Hồ. Cái Hồ.

Em tôi đây. Nó đương đứng trước mặt tôi, trong bức ảnh nhỏ mà chúng tôi chụp với u, từ năm tôi lên tám. Bức ảnh xung quanh in hình hoa nổi. Mười mấy năm trước ảnh đã đổi sang màu vàng nhạt. Những vết ố mất thuốc nhằng nhịt xung quanh sắp ăn hoen cả vào hình chúng tôi. U tôi ngồi giữa. Tôi đứng một bên, lễ mễ những áo lĩnh, giầy tây, vòng bạc, cá bạc thũng lẵng đeo cổ. Hồ đứng ngang với tôi, phía tay trái u. Một bàn tay nó đặt trên lòng áo u tôi cho u tôi nắm lấy. Nó thấp lũn chũn, cũng đóng áo thùng lụa chuội đen nghiêm chỉnh, thõng trước ngực một chìa khoá bạc. Bộ nó có vẻ thẹn. Vầng trán rộng dưới làn tóc tơ mướt mịn xén đều.

Mặt nó hơi cúi, nhác khuôn mặt nhẹ nghiêng như hình một trái mơ non. Nhưng mắt nó nhìn gườm lên. Đôi mắt đen láy nổi ngời trong khổ mặt rất đỗi dĩnh ngộ. Đôi mắt quằm quặm rất quái, tôi cũng hãi đáo để.

Cái gì mà tôi chẳng hãi. Tôi sợ cả cái mặt đất lồi lõm dưới hai bàn chân. Lên năm tuổi, tôi chưa dám bước chân xuống đất. Suốt ngày, tôi ngồi nhòm nhõm trên tấm phản trước hè. Ngồi chán, thì nằm. Tôi nằm ngửa, xem những con nhện gầy bé mà chân rất dài, đang rung tơ mạng trong hóc cột.

Những buổi tối, những buổi tối mà ánh sáng ngọn đèn ba dây sáng trưng mọi người trong nhà ngồi quây quần trên ghế và trên phản. Tôi nằm khoèo dưới chân bà ngoại tôi. Tay tôi mò máy xem cái chân của bà tôi một cách hết sức vớ vẩn. Bàn chân bà tôi, kể cái chân cũng quái thực. Gót thì bè ra, nẻ từng khía từng múi như múi quả cà bát. Bà tôi đi chân đất từ thuở bé cho đến già, hèn chi bây giờ có những vệt nứt nở. Thế mà những buổi tối mùa đông rét mướt, bà tôi vẫn dầm cả hai chân vào chậu nước lá cải rừng đun nóng để ngâm nẻ. Bàn chân răn reo khô xác, gờ mốc trắng. Hai chiếc ngón chân cái ngoẹo ngang chìa đầu sang nhìn nhau. Ông tôi vẫn bảo bà tôi là giống đời cổ, "người đời Giao Chỉ", nên mới có hai cái ngón chân kỳ quái này. Do hai ngón chân ngang ra ấy, không đôi guốc nào vừa được chân bà tôi. Người đi guốc cuộc cuộc, nửa gót lồng trong quai, nửa gót nằm ngoài đất. Tôi cũng chăng thấy bà tôi đi guốc mấy. Buổi tối, lúc sắp đi ngủ, bà tôi mới rửa chân. Những khi tôi nằm xem chân bà, các dì tôi hay rang ngô rang để cả nhà cùng ăn nhấm nhót cho vui. Tôi ham ăn ngô rang lắm, nhưng lại không thích nhai. Dì Niêm cứ nhá từng búng ngô lớn, lè ra tay rồi bỏ vào miệng tôi. Tôi há hoác mồm, đớp từng nắm ngô nát nhuyễn như chú quạ con há mỏ nuốt mồi của mẹ mớm. Ngồi bên trường kỷ, ông tôi cười tủm tỉm, nói: "Tướng đại lãn như mày thì ngày sau chỉ đến đi làm cái nghề làm mõ tay phải đập tay trái thôi, con ạ?" Ăn chán, tôi ngồi tôi hát nghêu ngao:

Con ngòi mày chòi cây cau

Hỏi thăm chú chụa đi đâu vắng nhà.

Chú chuạ đi chợ đường xa

Mua mắm mua muối giỗ cha chú ngòi.

Lưỡi tôi ngọng líu, đến năm lên mười tôi vẫn chưa nói sõi nổi hai tiếng anh em. Cứ ăn nhem, ăn nhem ơi! Một hôm u tôi cho tôi nửa xu. Tôi buộc đồng xu vào giải rút, rồi ngồi đầu tường đợi hàng kẹo xóc.

Ngày ấy có những người bán kẹo xóc đi rong các làng. Bác mặc quần áo nâu bạc, mặt mày rám nắng đen thủi. Một bên nách, cắp một cái mâm gỗ vuông, trên phủ kín tờ nhật trình. Lưng bác đèo bốn thanh gỗ buộc thừng dằng vào nhau như kiểu bốn cái chân ghế tréo. Túi bác đựng nhiều mảnh giấy vụn cắt vuông. Một tay bác cầm chiếc ống bằng sắt tây tròn dài tựa ống nứa, trong đựng mấy chục cái tăm tre to, dài thò lên miệng. Vừa đi bác vừa lấy điệu tay nhịp nhàng xóc chiếc ống. Những chiếc tăm nhẹ nhảy lên thụt xuống, rỗ vào đáy ống, phát ra nhiều tiếng xô động, rền rền, ròn ròn, lao xao. Xóc... Xóc...

Tai trẻ nghe đã quen, hiểu. Hàng kẹo xóc, hàng kẹo xóc đã vào. Chúng chạy ra. Bác hàng kẹo xóc còn đứng lại trước ngõ, xóc liền mấy xóc nữa đánh tiếng rõ ràng cho cả xóm thực biết là ta đã đến đây. Rồi bác đút cái ống vào túi áo: hạ thanh gỗ trên lưng xuống. Bốn thanh gỗ liền khoẹo ra một cái gọng. Bác hàng kẹo đặt chiếc mâm gỗ lên.

Mấy cái mặt trẻ ngơ ngác, láu lỉnh đã lấp ló, ngấp nghé xung quanh vành mâm. Bấy giờ bác ta mới mở tờ nhật trình đậy mâm ra. Ôi trời, gớm sao mà lắm kẹo? Các thứ kẹo! Góc bên này ngổn ngang một đàn kẹo vịt. Những con vịt trắng viền đỏ, trên lưng cõng thêm một nhách vịt con. Ở giữa, một đống kẹo bi, kẹo đạn tròn xoe, vàng óng và trong suốt như thuỷ tinh. Ở bên, rặt kẹo dồi chó. Những miếng kẹo vỏ trắng lòng đen, tựa miếng dồi chó, thỉnh thoảng điểm một củ lạc thật bùi, nhá ngọt quánh răng. Kẹo đạn thì ròn tan, kẹo vịt cõng con để ngắm cũng thích, ăn nhấm từng tý lại ngon hơn.

Thứ nào cũng chinh một, xu đôi. Xóc... Xóc... Tôi nghe đích tai lắm rồi.

Tôi chạy ra đầu ngõ, thấy bác hàng kẹo xóc thực. Nhưng bác ta cắp cái bàn kẹo đương lừng lững đi ra, tôi réo:

- Coi coi!

Bác hàng kẹo không biết tôi gọi, cứ đi tự nhiên. Rồi bóng bác khuất bên những bụi cây cúc tần. Tôi chưng hửng. Tôi lụi cụi chạy vào, oà khóc.

- Có thế mà cũng nhè!

Tôi ấm ức không nói được. Có thế mà cũng khóc. Không những thế, còn quá vậy nữa. Một buổi kia, dì Niêm dẫn tôi xuống ao. Dì cháu đứng trên cầu. Dì tôi trỏ xuống mặt nước:

- Cu kìa, có trông thấy gì dưới nước không?

- Không.

- Cái ngọ ngoạy ngoằn ngoèo đấy.

- Con gì thế?

- Con thuồng luồng.

- Hứ?

- Con thuồng luồng nó uốn khúc lên cầu ao cắn chân thằng Cu. Kìa nó lôi chân thằng Cu kìa.

Con thuồng luồng là bóng cây dừa. Mặt nước sóng sánh con thuồng luồng rung rinh, quẫy cựa theo đợt sóng. Nó đen trùi trũi dài ngoằng ngoẵng. Nó đương vào cắn chân tôi. Tôi khóc thét. Hai tay tôi bíu chặt áo dì Niêm. Từ hôm sau, tôi không dám mon men xuống ngắt lá xanh táo dưới bờ ao nữa.

Ai doạ đem tôi cho con thuồng luồng dưới ao cắn chân, tôi kêu lên chu chéo.

Cái Hồ thì hóm lắm. Nó lau láu như bà cụ non. Hồ ưa mặc áo dài và rất thích đi guốc. Lúc nào, nó cũng đi guốc. Đôi guốc gỗ bé tí tẹo, gót gõ lẹt xẹt. Nó bước lù khù, hai bàn tay nắm nhau, chắp ra sau lưng. Khi nào ông tôi cầm chổi quét lá ngoài sân đất, nó cũng đi theo. Nó thơ thẩn hỏi ông. Ông quét đến đâu, nó đứng theo đấy. Lúc ông tôi quét xong, đã vun gọn đống rác lại. Hồ lễ mễ vác cái chổi sể cùn cất ra một góc sân.

Buổi chiều, Hồ đòi u tôi rửa chân tay kỹ lưỡng. Nó đi ra đầu ngõ. Nó nói:

- Cháu ra ngõ đón "anh" cháu đây.

Anh tức là thày tôi. Chúng tôi gọi thày u bằng anh với chị. Thường thường các nhà hiếm không dám gọi nhận thẳng cha mẹ, sợ ma quỷ bắt nên cho trẻ gọi chệch ra như thế.

Trong nhiều gia đình, con cái kêu cha mẹ là chú, thím, bác... Chúng tôi được bảo thuộc những tiếng anh, chị và xưng là cháu, từ thuở bập bẹ biết nói.

- Anh Cu có ra ngõ đón anh không?

Sâm sẩm tối, thày tôi đi làm về. Hồ đã quen lệ ấy. Nó ra lấp ló ngoài đầu ngõ, ôm hai tay lên bờ tường gạch, nhòm đường cái.

Chẳng mấy khi tôi dám thò đầu ra ngõ. Tôi sợ những đứa trẻ trong xóm. Tôi khiếp nhất con mẹ mìn mà bà tôi vẫn tả hình dạng nó. Nó đội chiếc nón rách. Nó đeo cái bị to, trong đựng toàn kẹo bột. Gặp trẻ con, nó giơ kẹo, cười cười: "Em ơi em, lại chị cho cái kẹo này, ngon thật ngon". Ăn kẹo vào, mê tít, mụ dắt đi đâu cũng theo. Mụ đem sang bên Tàu, bán trẻ con cho chú khách thuốc ê. Khách thuốc ê làm thịt, cắt hai cái tai, quay lên như lợn quay... Cái Hồ đứng ngõ, tôi chỉ luẩn quẩn trong sân, ngồi bên hòn đá trước hè, nhìn vẩn vơ.

Hồ đứng ngoài ngõ cho tới lúc trong nhà mọi người nghe thấy tiếng guốc nó lạch cạch trên lớp gạch vỡ lơn nhổn đầu ngõ. Ai cũng biết hiệu: thế là thày tôi đã về. Nó chui đầu vào cái vạt áo sau của thày tôi, vừa lách cách chạy, vừa reo inh ỏi trong khi thày tôi cởi áo, trật khăn treo lên mắc. Đến lúc thày tôi ngồi vào mâm, thì Hồ đã chõm choẹ bên cạnh, nói chuyện tíu tít. Tôi thì ngồi im thin thít ngoài hòn đá. Chán hòn đá tôi vào đứng góc nhà, ngó quanh quất tìm đôi guốc, rồi đem guốc ra sân, dì Niêm đến rửa chân cho. Chân đã sạch, tôi linh lỉnh leo lên giường nằm hát. Con ngòi... con ngòi mày chòi cây cau...

Cái gì Hồ cũng láu. Ai cũng yêu nó. Động một tý, nó nói: "Nghịch rác sân, ông lại đánh cháu bây giờ!". Tôi chỉ ngắt lá cây si quấn lại làm kèn thổi te te. Thế mà nó cũng mách. Ai cũng chỉ yêu nó. Chẳng ai chơi với tôi. Tôi chỉ chơi một mình.

Tôi chơi một mình...

Ngày tháng lần lữa, lặng lẽ trẻ con quanh quẩn thế không biết đâu những việc của người lớn.

Cho tới độ ấy, thày tôi đã thôi việc. Tại làm sao thôi việc hay mất việc hàng "bánh tây ngoài Kẻ Chợ" tôi không được rõ. Hình như thày tôi sắp đi đâu xa.

Rồi thày tôi đi. Nhưng đi lúc nào, tôi cũng không biết.

Chỉ còn nhớ như buổi hôm ấy, một buổi chiều mùa hạ. Hồ và tôi rửa chân rồi, hai đứa vào ngồi trong phản. Bên khung cửi đã lên đèn đầu hôm, tiếng thoi đưa lạch cạch. Chiếc đèn ba dây giữa nhà ló ngọn sáng loè. Ngoài sân, muỗi bay như chấu táp vào mặt, kêu o o vang vào tận trong nhà.

Bỗng Hồ trỏ tay lên khe cửa hỏi u tôi.

- Cái áo của "anh" cháu treo kia đâu rồi?

Trong hóc cột, trên mẩu cuộn chỉ gỗ, không có tấm áo the thâm. Thường đi làm về bao giờ thày tôi cũng treo áo vào chỗ ấy, rồi lồng cái khăn xếp lượt lên trên. Bây giờ, lạ, không thấy. Hồ hỏi. U tôi bảo:

- Bố mày đi Kẻ Chợ. Mai về.

Nhưng cứ "mai" mãi, không thấy bố về. Thỉnh thoảng chợt nhớ. Hồ lại trỏ tay lên khe cửa, hỏi:

- Cái áo đâu?

Rồi cũng quên dần. Hồ mải mê đi theo, xem ông quét sân. Tôi ngồi bậc đá, quấn kèn tổ sâu, thổi te te. Vài năm sau tôi mới biết là hồi đó thày tôi vào làm ăn trong Sài Gòn.

U tôi kể rằng, đêm trước hôm thày tôi đi, chúng tôi cũng có biết, - nói là Hồ biết thì công bằng hơn, bởi vì tôi đã ngủ lâu rồi. Hồ cứ hỏi: "Mai anh đi đâu?" Thày tôi trả lời: "Con ở nhà ngoan nhé? Chóng về mua quà cho". Đến lúc đi ngủ. Hồ nằm cuộn tròn ngay dưới chân thày tôi. "Giữ chân không cho mai đi. Giữ được chân đây rồi?". Một lát Hồ ngủ, hai tay buông chân bố lúc nào không biết.

Gà gáy, thày tôi đi, chúng tôi đều đã ngủ yên. Thày tôi nhổ trên lòng bàn tay mỗi đứa một bãi nước bọt. Để đi xa, đỡ nhớ chúng tôi. Thày tôi xuống Hải Phòng rồi đi tàu thuỷ vào Nam Kỳ.

Năm ấy, tôi lên sáu.

Chương 5

Sang năm sau, tôi phải đi học. Nhiêu khê lắm, cái sự đi học.

Vào quãng tháng ba tháng tư mùa mưa rào, mùa đom đóm và mùa ma trơi. Chặp tối, lũ trẻ thập thò đầu xóm, đứng bíu nhau chơi trò gọi ma. Hú ma trơi! Mặt giời đã lặn. Chó cắn đã khuya. Ba thằng râu ria. Về ăn cơm sốt! Hú... ú... oà. Rồi tiếng hú lẫn trong tiếng mưa.

Cái đêm hôm trước tôi đi học buổi đầu tiên cũng có trận mưa thật to. Mà cái việc đi học, đối với một thằng tôi nhát như cáy, cố nhiên là một việc ghê gớm mới mẻ nhất trong tâm tưởng đứa bé bảy tuổi. Bởi thế, mỗi lần nhớ lại thuở ấy, ký ức tôi bao giờ cũng phảng phất cả trận mưa rào.

Những trận mưa lớn đầu mùa hạ. Đột nhiên một buổi những đám mây lớn đen xịt, lổm ngổm vần vũ đầy trời. Gió nam giật mãi, bỗng mát lạnh hơi nước. Đằng xa miên man rạt rào khua động. Mưa đã xuống bên kia sông.

Gió càng điên đảo trong cành cây. Ngoài đường cái, người chạy táo tác. Trẻ con la ơi ới. Có lẽ sắp được xem mưa, các chú bé thích quá kêu rối rít. Cùng chung với chúng tôi một nỗi vui ngơ ngẩn, mấy con chó cũng nhảy cỡn, nhay xích ống, ăng ăng sủa.

Lẹt đẹt... Lẹt đẹt.. Mưa giáo đầu. Những giọt nước to lăn xuống mái phên nứa. Vừa mấy giọt nước lách cách, bây giờ đã bao nhiêu nước rào rào xiên xuống, lao vào bụi cây. Con gà trống ướt lướt thướt hai đầu cánh nhấp nhô chạy tìm chỗ trú.

Mưa buông sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước toả trắng xoá. Trong nhà, bỗng tối sầm. Mùi âm ấm ngòn ngọt lại như ngai ngái. Cái mùi là lạ, man mác của những trận nước mưa mới đầu mùa. Tiếng giọt gianh đổ ồ ồ, ào ạt ọc lên trong những rãnh nước sâu. Mảnh sân đất đã ngập mấp mé. Nước chảy đỏ bốn bề sân, được một lúc bỗng trong vòm trời tối thâm, vang một hồi ầm ừ rền rền. Tiếng sấm, tiếng sấm mưa mới. Ngoài ngõ xóm, nghe có tiếng chân người lép nhép chạy, vác thúng đi bắt cá rô rạch trên các bờ ao.

Trời bớt xám, rạng dần. Đến khi chim chào mào bay ra hót ríu ran, thì lại quang quẻ như lúc nãy. Vòm trời dịu trong vắt, mới mẻ hơn. Mặt trời chói lọi trên chòm lá bưởi ướt lấp lánh. Trận mưa to chỉ còn sót lại ở mảnh sân lênh láng và những giọt gianh vàng khè lích rích nối nhau từ các mái rơm xám rỏ xuống đất.

Những trận mưa mới cho tôi một cảm giác bỡ ngỡ những ngày đầu đi học.

Việc học của tôi được định từ trong tết Nguyên Đán, có một lá thư của thày tôi từ Sài Gòn gửi về. Thày tôi bảo u tôi cho tôi đi học, nhân tiện đương có một ông giáo quen dạy ở trường học làng trên.

Trước hết tôi cho cái việc đi học làm thường nhưng rồi cứ lo dần. Tôi đã biết có mấy người lớn cùng trẻ con trong làng đi học. Cố nhiên, rồi tôi cũng cắp sách và mặc áo dài. Nhưng tôi ngẫm nghĩ, tôi vẫn có điều khác họ vì đầu tôi chưa bờm nuôi để tóc rẽ đường ngôi. Đầu tôi cạo nhẵn xung quanh. Phía đỉnh, xế ra đằng sau, lê thê một chòm tóc hoa roi dài đụng xuống vai. Từ độ biết sắp đi học, tôi mới nảy ra so sánh. Cuối năm ấy, có người thợ bờm đầu xách hòm vào xóm, u tôi gọi vào cạo đầu cho tôi.

Tôi ngồi xoạc chân trên chiếc ghế đẩu bắc giữa sân. Lần này, bác thợ không lấy cái bình sắt có quả bóng cao su bơm nước phun phè phè trên đầu, trước khi đưa lưỡi dao cạo sồn sột. Tôi được đổi mốt mới. Bác xoa phấn quanh cổ tôi, rồi cái kéo tóc tách, chiếc tông đơ tành tạch, tành tạch cùng hai bàn tay uốn éo. Tôi ngồi yên, nghe sự ngạc nhiên mới lạ trên thóp.

Một chốc, bác giơ một miếng gỗ tròn có răng cưa xát thực mạnh, quanh chỏm đầu tôi, nhiều không biết là bao nhiêu lần. Bụi gầu bay trắng lốp. Tôi xệch miệng, nhẹo mặt, đau nghiêng ngả theo đà tay bác xát. Đến lúc bác buông đầu tôi ra, tôi mở mắt, bác lấy cái gương cho tôi soi. Tôi ngơ ngác dần dần mới nhận được mình. Đầu tôi trọc hếu, rớm mấy vết máu, mất hẳn cái núm tóc quen thuộc trên đỉnh. Tôi sờ tay ra đằng sau gáy, thấy thiêu thiếu một cái gì. Luôn mấy hôm băn khoăn vơ vẩn nhớ cái tóc hoa roi.

Qua Tết, chần chừ mãi, ăn hết cả bánh chưng, tôi vẫn chưa đi học. Vì chưa có sách. U tôi bảo còn đợi ông lão "đổi sách, bán sách". Tôi cũng biết lão "sách, sách" ấy rồi.

Lão có chòm râu rườm rà vàng ệch. Lão đội nón mê và cầm quạt mo nang. Tấm áo nâu của lão ngắn ngủn, nhưng rộng thùng thình, có giải bơi chèo buộc hai vạt. Lão quảy đôi bồ lớn sơn đen. Không hiểu ở đâu đến, cứ lâu lâu, lão lại qua xóm tôi. Lão rao: "Ai đổi sách, bán... sách". Nhưng chúng tôi chỉ nghe được hai tiếng "sách, sách" thực to. Có khi, đã đi xa hoặc mới vào đầu xóm, ở ngoài cánh đồng đã nghe tiếng lão văng vẳng:... sách... sách...

Ông lão "sách, sách" quảy đôi bồ bí mật vào nhà tôi, một buổi trưa. Lão đỗ xuống, mở cái mẹt nắp ra. Có biết bao nhiêu giống sách. Sách xếp từng lớp cao. Những cuốn sách chữ nho bìa nâu, xung quanh mép đen. Những quyển sách quốc ngữ mới, bìa xanh, bìa vàng, đặt thứ tự, chồng lên nhau. Ông lão cúi xuống bồ, lấy một quyển sách nhỏ, mỏng, đưa cho u tôi và nói giá sáu xu. Nhưng rồi cò kè, ngã đúng giá, chỉ có năm xu.

Cuốn sách vẽ hai cái cột trụ thực to, giữa có đủ mấy mươi trăm học trò đội mũ cắp sách nghiêm chỉnh đứng thành dãy dài, từ hình to bằng ngón tay đội mũ cho đến hình bé chỉ như chiếc tăm.

Cho đến tháng ba tháng tư thì u tôi đã sắm cho tôi được đủ mọi thứ để đi học. Một quyển sách mở lòng. Một tập giấy lớn đóng bìa đỏ choé. Một lọ mực tím vẽ con giơi dang hai cánh với một cái bút có ngòi mới tinh tươm. Và, oai nhất là cái mũ. Mũ bọc vải màu đồng bóng loáng từng múi xung quanh chóp. Vành bên trong, lót một lượt vải xanh biếc. Úp mũ vào mặt, ngửi thơm những mùi mới hăng hắc. Mũ ấy, u tôi mua ngoài Kẻ Chợ.

Thế là, mấy hôm nữa, tôi đi học. Các dì luôn luôn giễu tôi. Dì này bảo học "a b c không có nhà đi ở thuê". Dì kia hỏi tôi rằng đi học, ngày sau đỗ làm thông phán, ngồi trên xe cao su nhà, trông thấy dì rách rưới đi bên đường, bấy giờ có nhận dì hay không? Tôi nhận ngay chứ. Chẳng những vậy, tôi lại làm cho mỗi dì một cái nhà, dì Niêm cũng như dì Bảy, dì Tư.

Riêng tôi làm cho ông bà và u tôi ở một cái nhà tây ba tầng cao chót vót. Tối hôm ấy, tôi nằm khoe những chuyện "ngày sau, bao giờ cháu làm thông phán"... dớ dẩn. U tôi bảo:

- Tối nay, Cu đi ngủ sớm, mai đi học.

Đêm đó, trời lại đổ trận mưa rào lớn. Sáng hôm sau đường làng còn đọng những vũng nước đỏ ngầu. Trong cái ao đầu xóm trứng cóc chăng từng dãy dài trắng cả bãi cỏ ngâm nước và các gốc đám cây chút chít. Cóc mẹ nghển đầu lên mặt ao, kêu ệc ệc vang ầm.

Cả nhà xúm lại, như ai cũng chỉ có mỗi một việc sắm sửa cho tôi đi học. Làm cho tôi sợ. Tôi đi đôi giày tây có cổ, dây quấn chằng chịt lên tận cẳng. Tay tôi cắp hai quyển sách. U tôi vận áo nâu dài tề chỉnh. U cầm lọ mực và cái bút. Ông tôi bà tôi, các dì tôi và cả mấy người thợ cửi, thợ hồ trong nhà và hàng xóm đều đứng lố nhố đầu ngõ, như để tiễn tôi đi học, ai cũng cười cười. U tôi dắt tôi. Đôi giầy tôi kệt kệt bước ra.

Nhưng, kể từ lúc dì Niêm xỏ hai tay tôi vào cánh áo chéo go và u tôi đội cho cái mũ lên đầu, tôi nghĩ ngợi càng sợ. U tôi đưa tôi đi đâu bây giờ? Học hừ? Học à? Học thế nào? Phải đi lên trường học xa mãi tận trên chợ. Độ trước u bảo đi học, tôi vâng. U mua mũ, lại càng thích đi học. Bây giờ tôi thấy sợ.

Đội mũ, cắp sách, sợ hơn nữa. Đến đi giầy bước ra ngõ thì sợ quá. Song tôi vẫn bước theo cánh tay u dắt. U tôi không hay biết nỗi lo sợ của tôi, vừa đi vừa chào hỏi những người quen hai bên đường cái. Ra khỏi xóm là đầu làng, men theo con đường dốc nhỏ lên chợ. Bên trái luỹ tre xóm Ngoài. Tay trái con sông Tô Lịch như cái rãnh bùn, trên bờ mấy bụi tre cằn thưa thớt. Kề sát mặt sông, túp lều gianh nhà lò rèn ở cầu Dừa. Lão phó già kéo bễ phì phò và tiếng đập sắt kỳ cạch. Tới đầu chợ, sắp đến trường học. Trường học ở trong tam quan cửa đình. Tôi rụt bước, đi chậm lại. U hỏi:

- Sao thế?

Tôi mếu máo:

- Không đi học... Không đi học... hi hi...

U tôi nắm tay tôi, lôi tuột vào trong sân. Nhưng tôi càng hãi, lại cong người lại. Sách rơi lả tả xuống đất. Những người xung quanh đấy túm lại. U tôi nhặt hai quyển sách, đùng đùng kéo tôi trở về. Kéo về thì tôi chạy theo. Về đến đầu chợ u tôi đứng lại. U tôi dằn một ngón tay vào trán tôi, nói rít hàm răng:

- Mày không đi học thì tao đuổi lên đường Thành cho đi ăn mày?

Tôi khóc rưng rức.

- Được, cứ đứng đấy mà khóc. Khóc xong, lên đường Thành tìm thằng Bòi Cẩu tao cho đi ăn mày từ ngày hôm nay.

U tôi xuống dốc chợ, đi về. Tôi lịch kịch giầy tây, chạy theo, vừa chạy vừa kêu:

- Cháu chừa rồi.

- Thế bằng lòng đi học chứ?

Vâng ạ... hi... hi...

Nhưng quay lên, sắp đến cửa trường, tôi lại co lại. Lại khóc rầm lên.

- Thôi thôi, cá không ăn muối cá ươn, bước ngay lên đường Thành kia với thằng Bòi Cẩu.

Tôi khóc sướt mướt chạy theo. Hai u con cứ đuổi nhau lên xuống như thế. Đến đầu làng, tôi trông thấy bà tôi ở bờ ao chạy ra. Dáng hẳn có ai đi chợ về qua ngõ, mau miệng, đã mách với bà tôi. Thấy bà, tôi bỗng khóc to hơn.

- Đấy, bà lại "binh" nó.

Rồi u tôi bỏ về, mặc tôi thút thít với bà. Nhưng không phải u tôi đi hẳn về nhà. U tôi ra đứng sau gốc đa, ngó lại. Bà tôi nói:

-- Bây giờ đi, nhớ? Bà đưa lên trường học, nhớ.

Tôi mếu máo thở không ra tiếng.

Tôi im, xiêu xiêu vì những lời dịu dàng của bà. Bà cầm bút mực, dắt tôi quay lên đầu chợ. Tôi lại lễ mễ, cắp sách đi.

Chốc chốc, tự dưng mủi lòng, thút thít khóc to mấy tiếng. Bà tôi nhẹ nhàng dỗ. Đã vào quá tam quan đình, bà tôi đứng lại lấy giải yếm chùi mắt cho tôi.

- Nín đi không có vào trường thì thày giáo cười cho.

Tôi cố nuốt mãi mới tạm nguôi cơn nghẹn. Bà tôi đưa tôi vào trường. Sau cùng ở giữa là đình làng hai con rồng đá chầu hai bên. Dọc theo con rồng đá xuôi ra ngoài - ngăn một nền sân gạch rộng - đối mặt nhau thông luôn hai hành lang. Một hành lang để cỗ đòn đám ma sơn then và một chiếc võng vong gỗ mộc, những đồ tống chung của hàng thôn. Bên kia là trường học.
Vừa đến sân, đã trông thấy lố nhố học trò áo dài đen trắng ngồi bàn trên, dưới thứ tự, dọc theo hành lang trường học, không có cửa, cũng không có bờ rào. Như cái quán cúng quan ôn.
Bà tôi vừa nhấc tôi lên thềm trường thì, trên các hàng ghế, học trò khoanh tay một loạt, lổm nhổm đứng dậy. Thày giáo Đức đi ra. Thày giáo mặc áo the dài, chít khăn lượt đen.
Không bao giờ tôi có thể nhớ được thày giáo Đức rõ ràng hơn hình ảnh ấy. Từ đấy, mỗi khi ở làng ngoại tôi, trong dịp đình đám hễ đêm hát chèo mà phường diễn trò Kiều, cứ vai Kim Trọng ra là tôi nhớ đến thày giáo Đức. Chàng Kim Trọng phong tình, mặt dồi phấn, áo the khăn lượt, tay xoè quạt đủng đỉnh tủm tỉm dạo quanh chiếu sàn rạp.
Bà tôi nói gì với thày giáo Đức, không biết. Chỉ mang máng cái mỉm cười của thày giáo Đức và tiếng ồn ào cả lớp học đầy hai con mắt thao láo. Bà tôi dẫn tôi lên đầu bàn nhất rồi bảo tôi:
- Cháu ngồi xuống đây.
Tôi phụng phịu trong nếp áo bà:
- Bà có ngồi thì cháu mới ngồi.
Và tôi đứng yên. Bà tôi phải ngồi xuống cùng ghế, tôi mới dám nép một bên. Trống tan học, bà tôi dắt tôi về. Buổi học chiều, cũng lại cảnh hai bà cháu ngồi cạnh nhau. Hôm sau lại những hôm sau nữa, sau nữa. Mỗi sáng, tôi tề chỉnh sách mũ và lọ mực, bà tôi lại đưa tôi lên trường và ngồi cùng một bên. Cái lệ ấy kéo dài đến nửa tháng.
Tuy vậy, tôi vẫn chưa quen anh bạn nào. Tôi nhai hai mươi bốn chữ cái trong miệng đủ cho tai tôi nghe. Bốn mép sách cong dần như những chiếc lá đa khô. Tôi ngồi, mắt gườm mặt bàn, thỉnh thoảng mới dám lé nhìn lên tường có tờ giấy dài kẻ dòng chữ: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" mà đến bây giờ tôi cũng chẳng hiểu nghĩa là gì. Ngoài sân, cây cối um tùm. Ngay chỗ tôi ngồi, qua ngoài mấy bước, mấy cây nhãn lớn. Một cây ngả dài đẩy nghiêng cả một quãng tường gạch vồ. Đằng cuối, một cây nhót tây lá to như lá bàng đứng cạnh một cây ngâu hoa li ti vàng lợt lợt. Những anh học trò lớn cứ truyền cành ngâu sang cây nhót nhanh thoăn thoắt. Quá trước cửa bên kia, thon von một hàng cau và mấy cây đại cổ thụ, khòng lưng, đàn dê ngoài chợ vào trèo lên đứng ngẩn ngơ. Vào những ngày mùa, hoa đại rải rác rụng trắng sân. Nhưng không bao giờ chúng tôi dám nhặt. Vì hoa đại ấy của bà Tú Hin. Bên cây đại già dựa cuối hành lang có một tấm bia đá to, đấy là bia bà Tú Hin. Bà Tú Hin là một con ma to lắm rất hay trêu trẻ con. Không đứa nào dám lảng vảng lại gần bia bà Tú Hin. Góc sân phía ấy, rau sam và cỏ gấu mọc xanh um. Những chiếc hoa đại thơm phức cánh xoè trắng nõn, vàng phớt, mỗi buổi sáng lại rơi đầy trên cỏ. Những lúc học trò vào lớp, sân hết người đứng, từng đàn chim sẻ trên hai mái nhà, trong hóc đình lại ríu rít xuống nhảy nhô nhốp đuổi nhau chí choé.
Tôi ngồi đã thuộc những hóc mái nào nhiều chim sẻ hay đứng cãi nhau. Tôi đếm trong sân có mấy cây cau, cây nhãn cây đại. Tuy thế, tôi vẫn chẳng dám quen ai. Một buổi kia ngồi trong lớp, tôi chợt nghe mình buồn buồn đi đái. Ối, đích thực. Thôi chết! Có những đứa lên khoanh tay, thò đầu bên bàn thày, thưa xin thày cho con đi giải. Thày cho đi ngay. Nó chạy tít cuối sân, phía mấy nhà đầu xóm, đứng dạng xuệch hai cẳng. Tôi chỉ việc lên thưa thày một câu, cũng sẽ được hả hê như vậy. Nhưng tôi không dám. Tôi ngồi yên, đôi chốc nheo mắt nhìn trộm thày giáo. Và tôi đành đờ đẫn nhăn nhó chịu khổ như thế cho tới lúc trống tòm tòm tan học.
Tôi loi thoi cắp sách về. Thường lệ, đi học về, tôi để sách xuống phản, rồi đứng dang thẳng hai tay. Biết hiệu, dì Niêm chạy lại cởi khuy áo cho tôi. Nhưng hôm ấy, đặt sách trên phản rồi tôi xuống bếp. Dì ngồi quay tơ trong nhà gọi:
- Cu lên dì cởi áo cho nào.
Không thấy Cu lên. Dì xuống bếp thấy Cu đứng bần thần ngó ông đầu rau. Dì nhắc vạt áo sau của Cu thấy ướt sũng. Dì hỏi:
- Sao áo Cu ướt thế này?
Cu ta òa khóc.
- Thằng Cu đái ra quần rồi, cả nhà ơi?.
Năm 1943
Tô Hoài
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Sự liên hệ kỳ lạ giữa hai tác giả Tế Hanh và Sully Prudhomme Bạn đọc yêu thơ hẳn còn nhớ tới một trong những thi phẩm đầu tay của nhà th...