Phong tục Việt Nam 3
GÂY DỰNG CON CÁI
Sinh con, ai cũng muốn con nên người, và bổn phẩn của cha mẹ
là phải gây dựng cho con cái. Trong công việc gây dựng con cái phải kể
từ lúc bắt đầu con đã lớn khôn, qua thời kỳ trứng nước cho đến khi dựng vợ gả
chồng cho con, bố mẹ mới tự coi là bổn phận của mình đã đầy đủ.
Theo pháp luật ngày nay, con cái đến 21 tuổi là coi như thành
nhân và phải chịu lấy trách nhiệm những hành động của mình, nhưng đối với bố mẹ,
người con dù bao nhiêu tuổi cũng vẫn như còn bé nhỏ, và bố mẹ lúc nào cũng theo
dõi các con để giúp đỡ hoặc chỉ bảo, tuy rằng có nhiều người con tự cho là
“khôn ngoan” hơn bố mẹ.
“Áo chẳng qua đầu”, các cụ thường nói vậy để chứng tỏ rằng
con cái dù sao cũng không qua khỏi sự khôn ngoan của bố mẹ, và “trứng” có bao
giờ “khôn hơn vịt”.
Nuôi con, con bắt đầu hơi lớn khôn, bố mẹ đã nghĩ đến tương
lai của con và phải lo cho con ngay từ tấm bé. Sự lo lắng tương lai cho các con
tùy theo hoàn cảnh của cha mẹ, và chính hoàn cảnh và địa vị của cha mẹ sẽ hướng
dẫn cha mẹ trong việc gây dựng cho các con.
Bố mẹ giầu có, con cái có thể được theo đuổi bút nghiên cho đến lúc thành tài: bố mẹ kém sung túc hơn, con cái cũng được đi học, “ăn mày dăm ba chữ hiền” rồi hoặc ở nhà lo việc nhà, hoặc phá ngang đi kiếm ăn bằng chữ nghĩa, hoặc bỏ học chữ đi học nghề; bố mẹ nghèo quá không lo được giấy bút cho con đi học, con cái đành chịu cảnh dốt nát, nhưng không phải vì vậy mà bố mẹ không tính đến ngày mai của các con, bố mẹ hướng dẫn cho con đi học nghề hoặc tìm chỗ gửi gấm cho con tập làm ăn, hoặc cùng lắm thì con cái mới phải đi chăn trâu ở đợ, nhưng trong hoàn cảnh này bố mẹ không khỏi đau lòng.
VIỆC HỌC HÀNH
Dân ta trọng chữ nghĩa nên bậc làm cha mẹ ai cũng muốn cho
con được cắp sách đi học, may ra thì mai sau được “võng tía võng đào”, dù không
may kém cỏi thì khỏi mang tiếng đồ “dốt đặc cán mai”. Ta thường nói “đi học để
thông văn tự” và biết ba chữ ký” để chỉ những người học hành dở dang, không đỗ
đạt gì cũng không đủ giỏi giang để làm thầy đồ thày đạc, nhưng cũng đọc thông
đuợc những bức văn tự bán nhà bán ruộng, tậu trâu tậu bò, biết ký tên mình khi
cần đến”
"Nhân sinh bách nghệ,
Văn học vi tiên;
Nho sĩ thị trân,
Thi thư thị bảo.”
Nghĩa là:
"Người ta trăm nghề tuỳ thân,
Nhưng mà văn học phải cần đầu tiên;
Thi thư là báu dõi truyền,
Học trò là kẻ sĩ hiền trọng thay!”
(P.N Khuê dịch)
Mấy câu mở đầu sách MINH ĐẠO GIA HUẤN của Trình Tử đủ nói lên
việc học hành ở xứ ta được chuộng nhường nào, và do đó kẻ sĩ nước ta được xếp
hàng đầu trong tứ dân: Sĩ, Nông, Công, Thương”. Phong Tuc Tap Quan
Viet Nam
Những buổi học đầu tiên
Tuổi đi học tại nước ta xưa không hạn định ở mức nào. Tùy
theo đứa trẻ khỏe mạnh hay ốm yếu, đậm sức hay gầy còm, bố mẹ cho con đi học sớm
hay muộn vào khoảng từ sáu, lên bảy đến tám.
Xưa chỉ có con trai được đi học, con gái phải ở nhà học làm học
ăn, trừ những gia đình phú qúy mới cho con gái đi học, do đó phụ nữ ngày xưa phần
lớn bị thất học.
Việc học ngày xưa hầu như không tốn kém gì ngoại trừ tiền giấy
bút chẳng đáng bao nhiêu. Tại các làng xã, thôn xóm đều có các ông đồ dạy học,
và học trò đi học cũng chẳng phải trả tiền học ông đồ. Hằng năm, bố mẹ học trò
chỉ cần mang tết ông đồ thúng gạo và quà bánh vào những dịp tết nhất, tháng năm
tháng mười, hoặc giỗ chạp. Ai muốn cho con đi học chỉ cần sửa lễ đến xin ông đồ
nhận dạy con mình, và cái lễ này cũng không đắt đỏ gì, chỉ gồm cơi trầu, bao
chè là đủ.
Đi học cũng không cần phải mua sách vở đắt đỏ như ngày nay.
Các bài học thường do các ông đồ viết tay vào sách cho học trò, và khi nào học
trò đã có thể tự viết lấy được thì học trò sẽ tự chép lấy bài học. Chỉ những
con nhà giàu có mới mua được sách in.
Lễ Khai tâm
Buổi học đầu tiên đánh dấu quãng đời mới của đứa trẻ, bởi vậy
dân ta rất chú trọng, và có “lễ khai tâm” để đứa trẻ học vỡ lòng (còn
gọi là “mở lòng”).
Lễ khai tâm mở đầu cho cuộc đời mới của đứa trẻ, lễ mở đầu phải
thận trọng, cuộc đời của đứa trẻ mới tốt đẹp tới lúc tuổi già. Người ta chọn
ngày lành tháng tốt. Ðứa bé được tắm rửa, cạo đầu sạch sẽ và ăn mặc bộ quần áo
đẹp nhất . Người ta làm lễ cáo gia tiên, rồi dẫn đứa bé với đồ lễ tới lớp học của
ông đồ để xin “nhập môn”.
Ông đồ làm lễ thánh, tức là lễ trước bàn thờ Đức Khổng Tử để
xin nhận đứa trẻ làm học trò. Đạo Thánh là đạo rộng, có bao giờ ông từ chối việc
dạy học một đứa trẻo nào.
Làm lễ Thánh xong, đứa trẻ cũng phải lễ trước bàn thờ Thánh.
Ông đồ lại làm lễ cáo gia tiên việc nhận thêm một môn sinh mới,
sau đó ông mới bắt đầu dạy đứa trẻ bài học đầu tiên.
Có nhiều ông đồ cẩn thận, trong buổi khai tâm đứa trẻ, các
ông đã dẫn đứa trẻ ra văn chỉ, tức là miếu thờ Đức Khổng Tử ở trong làng để
làm lễ rồi ông mới nhận cho đứa trẻ “nhập môn”.
Bài học đầu tiên
Thường bài học đầu tiên của trẻ là mấy dòng đầu của
sách Tam Tự Kinh. Và buổi đầu tập viết, đứa trẻ dùng bút tre chấm vào
mực lã tô lên nhưng khuôn chữ đã đục sẵn trên một mảnh ván cho đến khi quen tay
mới dùng bút mực tô lên những chữ son ông đồ viết sẵn trên giấy.
Kể từ đó, cậu học trò nhỏ lần lần ngay một ngày hai học hết
sách “Tam Tự Kinh” tới sách khác, cho đến khi học tới “Tứ Thư”, “Ngũ Kinh”.
Ngày nay việc học hành của trẻ nhỏ khác xa với sự vỡ lòng
ngày xưa.
Học hành ngày nay
Con trai, con gái ngày nay đều được đi học. Cũng còn gia đình
kén ngày cho con đi học vỡ lòng, còn phần đông cho con tới học tại các trường đều
đi học theo ngày khai trường, theo quy định chung của nhà nước.
Nhiều gia đình cho con đi học các lớp mẫu giáo từ
khi con mới lên bốn tuổi. Tới lớp mẫu giáo, đứa bé vừa học vừa chơi để dần dần
mở trí khôn tiếp nhận những bài học của chương trình tiểu học sau một vài năm.
Trẻ học ngày nay có sách in sẵn, và khi tập viết, lúc đầu
chúng dùng bút chì. Chúng cũng tô lên những nét gạch có in sẵn trong sách hoặc
do các thầy, cô giáo viết mờ mờ
cho chúng theo đó tô cho đậm.
Việc học hành có giờ, có chương trình. Học trò đi học trường
công còn có theo học bán công, trường tư tháng tháng phải đóng một số học phí.
Các em phải mua sách vở, giấy bút, việc học xét ra tốn kém hơn xưa. Các gia đìn
nghèo chỉ cho con theo học tới một trình độ nào, vì càng học lên cao việc học
càng đắt đỏ. Nhà nước có đặt ra học bổng để giúp đỡ trẻ em nghèo học giỏi,
nhưng ở ta người nghèo thì nhiều, học bổng chỉ có hạn, nên con nhà nghèo vẫn
còn chịu sự thiệt thòi trên đường học vấn so với các trẻ sinh trong các gia
đình sung túc. Nhà nước đã có những chính sách để tạo sự bình đẳng trong học tập
của các em.
Việc học ngày nay chia ra ta từng bậc, và bậc tiểu học hầu
như bắt buộc nhưng trên thực tế, nhiều trẻ em nghèo chỉ đi học cho đến khi biết
đọc biết viết là nghỉ để giúp đỡ cha mẹ, trông nom việc nhà.
Việc học hành ngày xưa chỉ học có kinh sách, chỉ luyện có văn
chương, nhưng trong chương trình học ngày nay có đủ các môn sử ký, địa lý, toán
pháp, vệ sinh, vạn vật, v.v.... để giúp kiến thức của các em toàn dịện hơn. Việc
xoá mù chữ đã và đang tiến hành tốt trên cả nước.
Ông đồ và cậu giáo xưa
Như trên đã nói, các em vỡ lòng và tiếp tục sự học tại lớp của
các ông đồ. Vậy ông đồ là người thế nào?
Ông đồ chính là những bậc văn tự, học vấn uyên bác nghĩa
là những người hay chữ, nói theo lối ta xưa, mở lớp để dạy học trò, cả trẻ
em lẫn học trò lớn, có thề sau một khoá thi là trở nên ông Cử, ông Tú và được
vào thi Hội để lấy thêm bằng Tiến sĩ, Bảng nhãn, Thám hoa.
Ông đồ có thể là một vị hưu quan, có thể là một bậc khoa cử
không ham muốn công danh, từ chối sự xuất chính, lấy việc dạy học làm lẽ sống.
Lại có những người tuy không đỗ đạt gì và đã từng nhiều phen
lao đao trường ốc nhưng vì hay chữ được dân làng mời mở lớp dạy học. Học trò
các ông đồ hay chữ thường rất đông, và dù làm nên danh vọng cao xa bao giờ cũng
kính trọng thầy, và chính các ông đồ cũng luôn luôn giữa địa vị mình, chẳngmay
nếu gặp phải học trò vong ân, coi rẻ thầy, các ông lập tức “cấm cửa” không bao
giờ thèm nhìn nhận là học trò. Ta cứ đọc truyện ông Chu Văn An đời nhà Trần đủ
biết uy tín của một ông đồ đối với học trò ra sao.
Các ông đồ trước đây mở trường dạy học dễ dàng không bị luật
lệ nào ràng buộc. Các ông đồ được hoàn toàn tự do mở lớp dạy học trò. Điều kiện
cần thiết là phải hay chữ, có hay chữ mới có học trò.
Ngoài các ông đồ mở lớp dạy học, nhiều gia đình khá giả cũng
rước ông đồ về dạy bảo con cái ở trong nhà. Trong trường hợp này các ông đồ biến
thành những “gia sư”. Đối với các vị gia sư học trò kính trọng đã đành, các phụ
huynh học sinh cũng kính trọng,vì các gia sư này đều là những người văn hay chữ
tốt đem đạo thánh hiền dạy cho con cái mình. Các ông đồ thường nhận thêm học
trò nếu có người khẩn khoản xin cho con học.
Ngày nay nhiều gia đình cũng mướn gia sư: Đây là những cậu
giáo hoặc cô giáo kèm trẻ em học thêm ở trong nhà.
Các cậu giáo, cô giáo này không cần phải học vấn uyên bác, chỉ
cần có trình độ cao hơn mấy đứa trẻ mình dạy là đủ.
Học sinh ngày nay đối với các cậu giáo, cô giáo thường hay “lờn”
vì chúng cho là bố mẹ chúng thuê những người này đến để dạy bảo chúng, chúng có
một vài cử chỉ kém lễ độ. Học sinh đã vậy, ngay cả đến phụ huynh học sinh có
người cũng coi Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
thường các gia sư ngày nay, các vị này ỷ tiền cậy của coi các
gia sư chỉ như những người “làm công lãnh lương” của họ.
Nói chi đến gia sư, ngay tại các trường học, có nhiều học trò
cũng khinh lờn thầy giáo, chúng cho rằng đi học thì chúng phải đóng tiền, các
thầy giáo ăn lương của nhà nước thì có bổn phận phải dạy chúng. Đấy là nói trường
tư, ở các trường công sự kính trọng của một số học trò cũng bị “xuống cấp”. Do
vậy có người kêu:
"Văn minh Đông Á trời thu sạch,
Này lúc cương thường đảo ngược ru”
Người xưa trên mọi lãnh vực đều lấy lễ nghi làm căn bản trong
sự giao tế; nói đến “lễ nghi” là nói đến đạo đức, mà đạo đức thì không kể đến
tiền tài, chỉ kể đến sự cư xử sao cho thuận lẽ, cho hợp với ân tình. Bởi vậy thầy
thì ra thầy, thầy không phải là kẻ làm, và trò cũng phải ra trò, trò không phải
là lũ thiếu giáo dục, thiếu luân thường chỉ biết lấy tiền tài mà rãy.
Xưa khác này. Nền đạo đức cổ truyền cũng có cái hay riêng của
nó.
Việc dạy học xưa và nay
Dạy học ai cũng mong cho học trò chóng tấn tới, học trò lười
biếng ông thầy phải thúc đẩy, học trò tối dạ ông thầy phải kiên nhẫn chỉ bảo
sao cho đến khi học trò hiểu được thì thôi.
Bản tính của trẻ em bao giờ cũng ham chơi hơn thích học, các
ông thầy nếu không bó buộc các em phải học, lẽ tất nhiên tự chúng sao cho khỏi
sự xao nhãng được, và như vậy làm sao cho có được những kết quả tốt đẹp.
Người xưa nói rằng: ”Giáo bất nghiêm sư chi nọa”, việc dạy
dỗ không nghiêm là do ông thầy lười.
Ta lại nói: “Nghiêm sư tác thành”, ông thầy nghiêm làm
cho ta nên người. Vì tôn sư phải đức nghiêm làm đầu, và có nghiêm mới có uy tín
đối với học trò.
Thầy đã nghiêm, học trò phải giữ lễ phép làm đầu, và việc học
bao giờ cũng bắt đầu bằng học lễ trước, tiên học lễ hậu học văn. Học
lễ phép rồi mới đến học chữ nghĩa văn bài.
Học lễ phép không phải chỉ riêng ở lớp học mà còn ở cả ngoài
đường và ở nha mình nữa.
Mỗi lớp học của ông đồ xưa đều có anh trưởng tràng để
thay thầy trông nom các học trò khi thầy vắng mặt và để dạy các em mới vỡ lòng.
Học sinh đối với anh “trưởng tràng” phải có sự tôn kính như đối với người anh cả
ở gia đình.
Để giữ lễ, để thúc đẩy học sinh chăm chỉ, ông đồ nào cũng có
ngọn roi mây. Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn. Đối với học trò
ông đồ càng dữ đòn lại càng là ông đồ giỏi. Bôốmẹ học sinh rất mong ông đồ trừng
trị con em mình bằng roi vọt để chúng nên người, và các em học sinh thời xưa
thành đạt một phần cũng nhờ những ngọn roi mây của thầy học.
Ngày nay khác hẳn! Thầy không được đánh học trò, và đã có hơn
một lần, phụ huynh học sinh kêu ca vì thầy học đã đánh mắng con em mình, thậm
chí lại có người đưa cả việc này tới công môn.
Trẻ con non dại, phải có cái gì làm cho chúng sợ, chúng mới
chịu học, vậy mà ông thầy lại đành khoanh tay trước sự lười biếng của chúng, thử
hỏi ông thầy làm sao chu toàn nổi nhiệm vụ của mình.
Nhiều ông thầy đã gặp những học sinh quá kém lại quá lười, mặc
sự kiên nhẫn chỉ bảo, mặc thiện chí khuyến khích của ông thầy, những học sinh
này vẫn trơ trơ, vào lớp nghịch ngợm, bài học không học, bài làm không làm, thử
hỏi ông thầy còn làm sao mà đưa chữ vào đầu óc chúng được. Vậy mà các phụ huynh
học sinh đã chiều con lại
hay phàn nàn thầy dạy không tấn tới.
Nếu tình nghĩa “tôn sư trọng đạo” còn được như xưa, ông thầy
còn dùng được roi vọt để hướng dẫn các trẻ nhỏ có lẽ kết quả cũng đỡ tai hại
hơn nhiều.
Thầy dạy học ngày nay chỉ biết cố gắng dạy, còn muốn học hay
không đó là quyền ở học trò. Vậy mà còn xảy ra những vụ trò đánh thầy, trò đâm
thầy! Nền văn minh cơ khí ít nhiều đã mang lại cho xã hội sự ”xuống cấp đạo đức”.
Lại nói đến học hành, các trẻ em thời xưa, để giữ cho được
sáng láng, có những điều cần phải kiêng kỵ riêng:
- Không nên ăn qúa no e lấp mề không học được
- Không nên ăn chân gà e run tay không viết được.
- Không nên ăn cơm cháy hoặc những thịt thà của các con vật
chết e u tối trí tuệ.
- Không được vứt giấy có chữ viết xuống đất, trông thấy người
khác vứt phải nhặt đốt hoặc đem thả trôi theo dòng sông.
- Không được gối đầu lên sách.
- Phải kính trọng sách vở và chữ nghĩa.
Ngày nay, ta cho những điều “kiêng”trên là “mê tín”, và vô
lý, nhưng trong việc bắt buộc trẻ học hành, có những phương pháp để giúp trí nhớ
và làm cho chúng chóng lĩnh hộu được những lời giảng dậy. Cái xưa cũng còn ít
nhiều giá trị nhân bản của nó.
Thi cử xưa và nay
Có học thì phải có thi, và sự thi cử đánh dấu mức nhận thức của
học sinh đã qua. Người ta thường chê tinh thần khoa cử cũng như sự quá lưu ý về
văn bằng của nước ta, nhưng thật ra nếu không có thi cử thì lấy gì để kiểm soát
sư học của các em học sinh, va nếu không có văn bằng thì lấy gì để chứng thực
trình độ các em đã học qua. có điều là ta không nên lấy thi cử để cản bước tiến
của các em học sinh và cũng không nên quá chú trọng đến văn bằng đến nôi lấy
văn bằng để phân giai cấp trong xã hội.
Tóm lại, xưa cũng như nay, đã có học thì phải có thi, dù thi
tại các trường thi hay thi kiểm soát trong lớp học như ngày nay, người có trách
nhiệm về giáo dục bắt các em thi để lấy điểm căn cứ vào đó cấp chứng chỉ tương
đương với các văn bằng.
Thi cử xưa
Ngày xưa có các khoa thị tại trường thi, và cũng có cả những
kỳ thi kiểm soát như ngày nay, đó là các kỳ thi “sát hạch”, các kỳ thi “khảo hạch”.
Các kỳ thi bắt đầu được tổ chức tại Việt Nam từ năm Ất Mão
1075 với khoa thi Tam Trường đầu tiên dưới triều vua Lý Nhân Tông.
Thi bằng chữ Hán; việc thi cử trải qua các triều đại có nhiều sự thay đổi. Hai
khoa thi cuối cùng về hán học tại Việt nam là khoa thi năm Ất Mão 1915 tại trường
Hà Nam, Bắc Việt và khoa thi năm Mậu Ngọ tại các trường Bình Định và Nghệ An,
Trung Việt.
Sau hai kỳ thi cuối cùng này, việc học ở ta bị chính phủ Pháp
sửa đổi, do đó thể lệ thi cử cũng chịu sự đổi thay.
Về khoa thi, xưa ta có ba kỳ thi chính thức là thi Hương,
thi Hội và thi Đình, những kỳ thi này ba năm mở một lần, trừ trường hợp
có nhà vua mới lên ngôi mở các “ân khoa”.,
Muốn dự thi Đình, phải đậu thi Hội, mà muốn dự thi Hội thì phải
đậu cử nhân tại kỳ thi Hương, hoặc ít ra cũng phải đậu Tú
Tài, với chân tú tài nếu được nhà vua cho phép có thể được thi Hội.
Không phải ai cũng có thể là thí sinh kỳ thi Hương được. Muốn
đi thi Hương phải qua các kỳ thi “khảo hạch” tại hàng tỉnh, tức là sơ khảo và phúc
khảo.
“Sơ khảo” là khảo hạch ở phủ, ở huyện do các Huấn đạo và Giáo
thu phụ trách; “phúc khảo” là khảo hạch ở tỉnh do các Đốc học phụ trách. Phong
Tuc Tap Quan Viet Nam
Trúng tuyển kỳ thi sở khảo, các thí sinh được cấp bằng Tuyển
sinh; trúng tuyển kỳ thi phúc khảo, được cấp bằng Khoá sinh.
Các khoá sinh được phép dự thi Hương, nhưng trước kỳ thi còn
phải trải qua một kỳ sát hạch. Kỳ thi này được tổ chức tại mỗi tỉnh những
năm trước có kỳ thi Hương để loại bớt một số thí sinh học lực còn kém. Chương
trình kỳ thi sát hạch này giống như chương trình thi Hương rút ngắn.
Người nào qua được kỳ sát hạch này được là Thí
sinh và người đỗ đầu gọi là “Đầu xứ”.
Kỳ hạch này rất quan trọng, và học quan hàng tỉnh, Đốc học,
Huấn đạo, Giáo thụ, phải chịu trách nhiệm trong việc tuyển thí sinh dự các kỳ
thi Hương. Những khoá sinh vìm ột lý do gì vắng mặt trong kỳ sát hạch này, có
thể được tham dự một kỳ sát hạch thứ hai dành riêng cho họ, tổ chức vài tháng
trước khi thi Hương.
Thi hương
Qua các kỳ sát hạch, các thí sinh còn lại được dự kỳ
thi Hương đều là những thí sinh đã có căn bản. Nếu lọt một thí sinh
nào quá kém dốt dự kỳ thi Hương, các quan học hàng tỉnh sẽ có lỗi.
Thi Hương về đời Nguyễn mở ba năm một khoa và vào các
năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và các thí sinh phải qua bốn kỳ thi:
1) Kinh nghĩa;
2) Thơ, phú;
3) Văn sách;
4) Phúc hạch.
Các thí sinh dự thi ở các trường sau đây:
- Trường Hà Nam cho tất cả thí sinh Bắc Việt;
- Các trường Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên và Bình Định cho
các thí sinh Trung Việt.
Từ năm 1884 trở về trước, nghĩa là trước hiệp định Patenôtre,
trường thi Nam Định cho các thí sinh tại Nam Việt.
Về các bài thi, ngoài bốn môn kể trên, mấy khoa thi sau cùng,
các thí sinh có thể thi thêm bài tình nguyện chữ Pháp, dịch Pháp văn ra quốc ngữ.
Điểm thừa ở bài chữ Pháp, có thể dùng bù cho điểm thiếu ở các bài kia.
Các thí sinh khoa thi Hương, điểm cao thì đậu Cử Nhân, còn điểm
trung bình thì đậu Tú Tài, kém nữa thì hỏng.
Thi hội
Đậu Cử Nhân ở kỳ thi Hương, các thí sinh đực dự k ỳ thi Hội mở
tại kinh đô Huế.
Theo chỉ dụ năm Minh Mệnh thứ sáu, các khoa thi Hội được ấn định
vào tháng 3 những năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, tức là sau năm có kỳ thi Hương.
Cũng được dự khoa thi này, ngoài các chân Cử Nhân, những Giám
sinh, Giáo thụ và Huấn đạo. Các chân Tú Tài và Ấm sinh cũng có thể dự nếu được
Triều đình cho phép.
Khoa thi Hội gồm 4 kỳ:
Kỳ nhất: Kinh nghĩa, ít nhất 3 đề.
Kỳ nhì: Chiếu, Biểu, Luận;
Kỳ ba: Thơ, Phú;
Kỳ tư: Văn sách.
Điểm các kỳ thi này tính theo phân, bài nào không được một phân thì
bị loại.
Muốn trúng cách phải có tất cả 8 phân cho bốn kỳ.
Thi đình
Đậu kỳ thi Hội, các thí sinh được vào thi Đình.
Trong kỳ thi Đình, các quyển đều do toàn thể Hội đồng
Giám khảo chấm và đệ nhà Vua duyệt lại.
Thi Đình chỉ có một bài “Đối sách” rất dài, nghĩa là phải trả
lời một câu hỏi về luân lý, chính trị, hành chánh v.v....
Đề thi Đình do nhà Vua tự chọn.
Những thí sinh có điểm cao đậu Tiến sĩ, còn điểm thấp đậu Phó
bảng.
Dưới triều Nguyễn không có Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn
và Hoàng giáp.
Xin nói thêm là về đời vua Quang Trung, thi Đình có dùng chữ Nôm,
nhưng tiếc thay lệ này về sau không được nhà Nguyễn giữ lại.
Nền học mới của người Pháp (từ thời Pháp thuộc)
Việc thi cử với các văn bằng trên tồn tại cho đến năm Khải Định
tam niên, 1918, và từ đó, một nền học mới của người Pháp ấn định được đem thi
hành, một cách từ từ.
Lúc đầu, chính quyền (Pháp-Việt) chia việc học ra làm ba bậc:
- Ấu học.
- Tiểu học.
- Trung học.
Ấu học thực hiện tại các làng xã với các trường do chính quyền
lập nên. Các trường này vẫn dạy Hán tự, song có dạy kèm thêm Quốc ngữ. Học hết
bậc Ấu học, học sinh phải đi thi và bằng của bậc Ấu học vẫn gọi là bằng Tuyển
sinh như cũ.
Cần nói thêm là song song với các trường của chính quyền vẫn
còn có các ông đồ dạy Hán tự cho các trẻ em ở các làng xã.
Tại các trường Phủ, Huyện dạy chương trình bậc Tiểu Học. Các
học sinh có bằng Tuyển sinh được theo học các trường này. Chương trình vẫn dạy
Hán tự kèm thêm Quốc ngữ nhưng học rộng hơn. Ngoài “Tứ thư”, “Ngũ kinh” có dạy
thêm “Nam sử” và những giờ dạy chữ Pháp tình nguyện.
Học hết bậc Tiểu học, học sinh được thi bằng Tiểu học vẫn
gọi bằng Khoá sinh.
Các khoá sinh theo học lên bậc Trung Học tại các
trường tỉnh do các Đốc học điều khiển. Vẫn dậy chữ Hán và chữ Quốc ngữ nhưng có
Hán văn bắt buộc.
Học hết bậc này các khoá sinh thi kỳ thi Thí sinh.
Ngoài ba bậc học trên, người Pháp còn mở thêm các trường khác
sau đây:
Trường Hậu Bổ, ở Huế và trường Sĩ hoạn ở
Hà Nội để đào tạo quan lại hành chính và học chính. Các thí sinh được tuyển
theo học các trường này.
Trường Quốc học ở Huế và trường Bảo Hộ ở Hà Nội
để dạy chữ Pháp và để đào tạo các công chức cho các công sở Pháp.
Lại phải kể trêm các trường Tiểu Học Pháp Việt được
mở tại các Tỉnh song song với các trường dạy chữ Hán để học sinh học chữ Pháp
và chữ Việt bắt buộc có dạy thêm chữ Hán. Học hết chương trình Tiểu Học Pháp-Việt,
các học sinh qua kỳ thi bằng Cơ thủy, sau gọi là bằng Tiểu
Học Pháp-Việt. Đậu bằng Cơ thủy, học sinh được dự tuyển vào trường Quốc học hoặc
Bảo hộ cùng các Thí sinh chương trình Hán học.
Tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Pháp học đi đôi như vậy trong một
thời gian, rồi vì ứng dụng với thực tế, tiếng Việt và Pháp tồn tại mà loại hẳn
nền Hán học đi và tàn cuộc.
Lúc này người Pháp mới áp dụng chính thức Nghị định tổ chức
việc giáo dục của Toàn Quyền Đông Dương ký ngày 21 tháng 12 năm 1917.
Việc học được phân chia rõ rệt:
- Bậc Tiểu học với ba cấp Sơ học, Tiểu học, và Cao đẳng Tiểu
Học.
- Bậc Trung học.
- Bậc Đại học. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
- Công nghệ học.
Bắt đầu bậc Tiểu Học là cấp Sơ học, với văn bằng Sơ học
yếu lước, rồi đến cấp Tiểu học với văn bằng Sơ học Pháp Việt hoặc Cơ thủy.
Cao nhất bậc Tiểu học là cấp Cao đẳng Tiểu học với bằng Thành
Chung còn gọi là bằng Cao đẳng tiểu học.
Trên cấp Cao đẳng Tiểu học là bậc Trung học, hạn học là ba năm,
thi bằng Tú tài bản xứ (Brevet de capacité équievalent au Baccalauréat
métropolitain) để phân biệt với bằng Tú tài Pháp của chương trình học lúc bấy
giờ.
Bằng “Tú tài bản xứ” có hai phần, Tú tài I và Tú Tài II,
chương trình dạy bằng Pháp ngữ, có Việt ngữ kể là một sinh ngữ.
Các học sinh đậu xong cả hai phần Tú Tài được vào Đại học.
Đại học mở tại Việt nam từ năm 1919, lúc đầu chỉ là những trường
Cao đẳng để đào tạo các nhân viên chuyên môn cho chính quyền thống trị. Về sau
mới mở các trường Luật Khoa, Y Khoa và Dược Khoa Đại học. Mãi tới năm 1938 mới
có mở thêm các trường Nông Lâm và Công chính. Sau đó mới có trường Khoa Học.
Cùng với việc học chữ, người Pháp còn mở các trường Công
nghệ thực hành, tại các thủ phủ, hoặc ở một vài Tỉnh lớn gọi là trường Bách
Nghệ nhằm đào tạo một số thợ thuyền chuyên môn.
Trong lúc nền học bản xứ được tổ chức như vậy, người Pháp vẫn
có một nền học Pháp riêng cho trẻ Pháp học, một số các trẻ Việt cũng xin được
vào các trường này, có đủ các bậc từ Tiểu học đến hết bậc Trung học với bằng Tú
Tài. Các trường Pháp này, mặc dầu người Pháp đã rút khỏi Việt Nam từ năm 1954,
nhưng vẫn còn tồn tại hoàn toàn ở miền Nam cho tới năm 1967, là năm bắt đầu các
lớp Tiểu học Pháp bị bãi bỏ đối với trẻ em Việt Nam, và dần dần từ năm 1968 các
các lớp trên sẽ được bãi dần dần bắt đầu từ năm đầu tiên của bậc Trung học
tương đương với lớp Đệ Thất của các trường ở Miền Nam lúc ấy.
Học chế
Người Pháp rút khỏi Việt nam năm 1954, “học chế” của
ta được tổ chức lại cùng với sự thu hồi nền độc lập và lúc ấy có 4 bậc với các
kỳ thi các văn bằng cho mỗi bậc (ở miền Nam):
- Bậc Tiểu học, các học sinh thi bằng Tiểu học.
- Bậc Trung học, chia làm đệ nhất và đệ nhị cấp. Học
sinh đệ nhất cấp học 4 năm và thi bằng Trung học đệ nhất cấp; học sinh để nhị cấp
học 3 năm và thi bằng Tú tài, có hai phần: Tú Tài I và Tú Tài II.
- Bậc Đại học dành cho các học sinh đã đậu xong Tú Tài
II. Theo học bậc Đại Học, các học sinh được gọi là sinh viên. Tốt nghiệp Đại
học là bằng Cử nhân hoặc bằng Kỹ sư.
- Bậc Cao học dành cho các sinh viên đã đậu bằng Cử nhân. Tốt
nghiệp bậc Cao học là bằng Tiến sĩ.
Cùng với các bậc học trên, ta cũng có mở các trường kỹ thuật
để dạy nghề, các trường mỹ thuật và các trường cán sự chuyên môn.
Ngày nay ta có đủ các bậc học từ Mẫu giáo đến Phổ thông và Đại
học. Việc học hành, thi cử đúng quy chế do nhà nước ban hành.
Xưa cũng như nay, bậc làm cha mẹ, ai cũng muốn cho con hay và
gây dựng cho con nên người, nhất là mong cho con trở thành những người có địa vị,
có học thức, bởi vậy ai cũng muốn cho con cái đi học cho đến lúc thành tài. Đứa
trẻ “phá ngang” chỉ vì chúng quá dốt kém, hoặc vì hoàn cảnh gia đình bắt buộc,
nhưng dù có “phá ngang” thì bố mẹ cũng cho đứa trẻ đi học nghề hoặc tập tành
làm ăn buôn bán.
Tập nghề
Ta có câu:
"Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay”
và sách cũng có chữ rằng:
"Vạn khoảnh lương điền,
Bất như bạc nghệ”.
Qua mấy câu trên ta thấy rằng dân ta nếu trọng văn học, nếu
nhiều người theo đòi nghiệp bút nghiên, hoàn toàn không phải ta khinh rẻ những
nghề nghiệp khác.
Cha mẹ gây dựng cho con, nếu không thể cho con học hành đến
nơi đến chốn tất phải nghĩ đến việc cho con tập lấy một nghề, mai sau làm kế
sinh nhau.
Nước ta xưa không có trường dậy nghề, nhưng các người thợ đều
nhận các trẻ tập việc để có người giúp đỡ trong những công việc vặt.
“Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, ta chỉ cốt cho con cái
học nghề, không nề hà đó là nghề vất vả nhiều hay ít, và dù con cái có bị cực
nhọc thì chính nhờ sự cực nhọc chúng sẽ nên người.
Nghề nghiệp tại nước ta
Nghề nghiệp tại nước ta trước đây có thể xếp theo “tứ dân”
là Sĩ, Nông, Công, Thương, nhưng trong mỗi hạng đều phân ra nhiều
ngành khác nhau.
Sĩ thì có Nho, Y, Lý, Số. Những người theo học nghiệp
văn cho đến thành đạt, đỗ ông Nghè ông Cống đứng đầu hàng Nho, rồi đến các
ông đồ dậy trẻ. Cũng phải xếp vào hàng Nho các ông Khoá, ông Tú làm “nghề bán
chữ” không phải bằng cách dạy trẻ mà bằng cách nghĩ và viết những bức trướng đối,
những bài văn viếng, văn tế, văn mừng, văn chúc v.v..., và cả chính những nho
sĩ mở hàng đối trướng nữa. Còn nhiều hạng Nho, có hạng được xã hội trong vọng,
cũng có hạng khác bị xã hội coi thường và có khi khinh rẻ như hạng “nho lại” tại
các công môn đã dùng chữ nghĩa để bày đặt đơn từ xui nguyên dục bị, đã dùng chữ
nghĩa để ăn không nói có v.v....
Sau hàng Nho là hàng Y, tức là những người theo đuổi nghiệp
thuốc. Muốn học nghề thuốc cần phải thông chữ nghĩa để đọc trên các vị thuốc, để
viết các đơn thuốc.
Muốn cho con trở thành ông Lang, theo đuổi y nghiệp, trước hết
bố mẹ phải cho con đi học cho thông văn tự, sau đó mới tìm đến một vị danh y để
xin cho con được vào làm đệ tử. Nếu vị danh y chấp nhận,, bố mẹ đứa trẻ sẽ sửa
lễ đến nhà vị lương y, gọi là “lễ nhập môn”. Vị lương y sẽ làm lễ Thánh sư nghề
thuốc và cáo gia tiên trước khi thu nhận đứa nhỏ. Thường đi học nghề làm thuốc,
đứa trẻ ít nhất phải 15 tuổi trở lên mới có đủ trí khôn để lĩnh hội hết những sự
tế nhị của nghề.
Lúc đầu đứa nhỏ tập nhận diện các vị thuốc, và phải học theo
sách dược tính của mỗi vị thuốc. Sau đó học những bài thuốc chữa cho
mỗi bệnh, rồi sau cùng tới tập bắt mạch, kê đơn. Học nghề thuốc rất khó khăn vì
sai một ly đi một dặm, mạng người ở trong chén thuốc.
Nước ta hằng có những bậc danh y như Hải Thượng Lãn Ông, tiếng
tăm vang lừng không những riêng trong nước mà các nước láng giềng như Trung
Hoa, Nhật Bản đều biết tiếng.
Xếp hàng sau Y, là Lý. Đây là những thầy địa lý, những
thầy dùng kinh truyện mà đoán mọi việc cho người về đất đai, nhà cửa, phong thủy,
v.v....
Sau Lý là đến Số. Đây chỉ các ông thầy bói toán đoán số
mệnh của mọi người khi xưa. Trong ngành số chính cũng chia làm nhiều nghề: xem
bói dịch. đoán tử vi, đoán Hà lạc lý số, xem tướng, xem chiết tự, v.v.... Hai hạng
trên chỉ tồn tại trong thời trước đây.
Hạng Sĩ, với bốn ngành Nho, Y, Lý, Số được coi là đứng đầu “tứ
dân”.
Sau Sĩ đến hạng Nông với các ngành Ngư, Tiều,
Canh, Mục. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Ngư là nghề đánh cá, nhưng phải kể gồm cả các nghề khác liên
quan tới như muối cá, làm mắm v.v... Sở dĩ cá cũng xếp vào hạng Nông, vì chính
cá cũng ở đồng ruộng mà ra.
Tiều là nghề đốn củi, đốt than.
Canh là nghề trồng trọt như làm ruộng, trồng cây và cả
nghề tằm tang, nghề hàng xáo cũng xếp vào ngành Canh. Cũng kể là canh tất cả những
nghề nào có liên quan tới việc trồng trọt, hoặc tới các hoa màu....
Mục là nghề chăn nuôi, nuôi súc vật dùng cho việc cày cấy
như nuôi các súc vật khác.
Bốn ngành Ngư, Tiều, Canh, Mục xếp hàng Nông vì ít
nhiều gì những nghề nghiệp của các ngành này, cũng trông nhờ vào đất cát, dù đó
là đốn củi trên rừng, nuôi súc vật ở cánh đồng, đánh cá ở hồ ao, hay trồng trọt
cầy cấy ở ruộng vườn.
Sau Nông đến hạng Công tức là thợ thuyền.. Kể ra ta
có thề phân chia các nghề tuỳ theo vật liệu sử dụng: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ.
Nghề kim hoàn, nghề thợ rèn, nghề đúc đồ đồng v.v... là những
nghề sử dụng kim liệu.
Nghề thợ mộc, nghề thợ tiện, nghề thợ chạm, nghề đan rổ, rá,
nong, nia v.v.... là những nghề sử dụng mộc liệu.
Nghề chở đò sống trên sông nước.
Nghề đốt than, nghề rèn, nghề đúc dùng đến lửa.
Nghề đất nấu, nghề nung vôi, nung gạch, nghề thợ hồ v.v...
dùng đến đất cát.
Tuy lấy “ngũ hành” để phân biệt các nghề, nhưng nhiều nghề cần
đến hai trong “ngũ hành” như thợ rèn, cần cả đến lửa lẫn sắt, nghề đắp tường cần
đến cả nước lẫn đất v.v....
Đứng sau cùng trong “tứ dân” là Thương để chỉ những
người buôn bán. Buôn bán có người buôn tại chỗ, có người đi xa về gần; có người
buôn lớn, có người buôn nhỏ.
Xưa, gây dựng cho các con, cha mẹ thường tùy hoàn cảnh mình,
tùy sự thông minh khéo léo của con, và cũng tùy sự quen biết của mình là gửi
các con đi học nghề nào cho thích hợp và thuận tiện.
Trừ những người trong hạng Sĩ, đứa nhỏ cần phải có học hành chữ
nghĩa ít nhiều, còn các nghề khác, sự biết chữ chỉ ở mức độ.
Ngày xưa thợ thuyền hợp thành từng bọn, muốn cho con học nghề
gì bố mẹ phải nhờ người đứng đầu một bọn thợ nhận cho.
Ngày nay xã hội phát triển, nghề nghiệp cũng phát triển. Việc
học nghề đòi hỏi nghiêm túc và có văn hoá, chuyên môn.
Phó cả
Đứng đầu một bọn thợ xưa là ông Phó cả. Người này điều
khiển toàn thể bọn thơ 5và có quyền nhận các phó nhỏ tức là các trẻ em tới
xin tập việc để học nghề. Ông phó cả phải lo nhận công việc cho cả toán thợ làm.
Giúp việc ông phó cả có các ông phó hai, phó ba... Những đứa trẻ tới tập việc đều
gọi là “phó nhỏ”. Lúc đầu các phó nhỏ làm những công việc lặt vặt, và kể từ khi
bắt đầu đi tập việc là các phó nhỏ đã được ông phó cả nuôi ăn. Khi các phó nhỏ
đã biết nghề, các phó cả có thể tùy tiện trả cho ít nhiều tiền công.
Những bọn thợ thường ít khi có cửa hàng như ngày nay. Họ đi
kiếm công việc tại các nhà trong làng. Mỗi khi trong làng, hoặc các làng lân cận
có công việc cần làn, họ phải đi tìm các ông phó cả.
Ai đã từng ở vùng quê chắc hẳn thấy từng bọn thợ mộc, từng bọn
thợ hồ dắt nhau đến các nhà lĩnh việc. Các nghề khác cũng vậy, có bọn thợ đất đấu
đi nhận đào ao, đào
móng, có bọn thợ xẻ đi nhận xẻ gỗ v.v...
Cũng có nghề cần phải có cửa hàng nhất định như thợ chạm, thợ
sơn, thợ may... Tuy vậy, vẫn có các ông phó cả và các ông phó phụ, và những người
tập việc vẫn được gọi là phó nhỏ.
Việc tập nghề ngày nay
Ngày nay, nhà nước có các trường dậy nghề, đó là các trường
công nghệ và các trường kỹ thuật. Ngoài ra lại có các lớp dạy nghề của Bộ,
Ngành, đào tạo các thợ các nghành chuyên sâu.
Với sự tiến bộ của khoa học, nước ta có thêm nhiều nghề mới,
và có nhiều nghề không dạy ở các trường công nghệ và kỹ thuật cũng như không dạy
ở các lớp dạy nghề của Bộ, Ngành nên vẫn còn nhiều em phải tìm học nghề tại các
xưởng thợ hoặc tại các ông phó cả như xưa. Ngoài ra còn có khoá dạy tư theo
chuyên ngành riêng.
Học nghề buôn bán
Nghề buôn bán theo ta là một nghề dễ làm, dễ sống. Ta có câu
“Phi thương bất phú” nghĩa là không có buôn bán thì không giàu được.
Các nhà buôn thường truyền nghề cho con, nhưng cũng có nhiều
nhà buôn nhận con các bạn hữu tới học tập nghề buôn bán. Trong thời gian học
nghề này, đứa trẻ phải làm hết mọi công việc như kẻ ăn người ở và phải chịu mọi
sự vất vả để tìm hiểu công việc làm ăn buôn bán, từ bán lẻ đến bán buôn, từ mua
cao bán hạ đến mua xa bán gần v.v...
Xưa nước ta ít có các bậc đại thương gia, việc buôn bán lớn
thường ở trong tay người Tàu, ta chỉ có nghề buôn bán lẻ, và do đó việc buôn
bán của ta thường do phụ nữ đảm nhiệm; hoạ hoằn mới có một nhà buôn lớn do nam
giới điều khiển. Chính vì vậy mà ít người cho con trai học nghề buôn bán. Chỉ
các cô gái theo mẹ đi chợ dần dần tập buôn tập bán quen nghề.
Việc buôn bán ngày nay khác hẳn xưa, nhiều nhà buôn Việt Nam
kinh doanh cạnh tranh không những riêng với người Tàu mà với tất cả ngoại kiều
khác. Các ngành buôn ngày nay cũng nhiều và phát triển hơn xưa. Tuy vậy, việc
buôn thúng bán bưng tại các chợ cũng như tại các vùng quê vẫn do các chị em phụ
nữ đảm trách.
Gây dựng con cái ai cũng muốn cho con cái hơn người, nhưng
nhiều khi hoàn cảnh người ta đành phải chịu để con cái theo học một nghề mà
chính bố mẹ không ưng. Nhưng khi đã cho con học bất cứ nghề nào, bố mẹ đều
khuyên con cố gắng, vì chỉ có người hèn chứ không có nghề hèn. Ca dao có câu:
"Nhất nghệ tinh nhất thân vinh,
Ai ơi phải qúy nghề mình mới nên.
Hoặc buôn bán, hoặc thợ thuyền,
Nghề gì cũng sẽ làm nên sang giàu.”
Những nghề hạ tiện
Tuy trên đã trình bày là bố mẹ có thể cho con học tập bất cứ
một nghề gì, tuy nhiên cũng có những nghề xấu xa mà bố mẹ phải tránh cho con.
Đó là những nghề hạ tiện, làm mất đi nhân phẩm con người. Theo câu tục ngữ
xưa “Bé đi câu, lớn đi hầu, già đi làm khách nợ”. Ta thấy
những nghề “đi câu”, “đi hầu”, “đi làm khách nợ” bị rẻ khinh vì không phải
là những nghề tốt đẹp. Đi câu ở đây không phải là nghề đánh cá mà chính là
những người mang cần câu đi câu cá ở ao hồ của người khác. Việc đi câu như vậy
không khác gì ăn trộm. Còn đi hầu, chẳng phải nói ai cũng thấy là hạ tiện, vì
đi hầu là chịu sự sai bảo, phải nịnh bợ, vả chăng trong nghề đi hầu phải kể cả
nghề làm mõ, tức là kẻ hầu chung cho cả một làng.
Đến đi làm khách nợ lại cũng bị xã hội ta chê cười. Người mà
khách nợ được chủ Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
nợ thuê đi đòi nợ một người nào, đến nằm ì ở nhà người này
như bố mẹ già người ta, lại hạch ăn hạch uống, nhà con nợ có cái gì cũng lấy.
Hành động của người khách nợ là hành động vô nhân đạo vì con nợ nghèo túng đã
không có gì còn bị bọn khách nợ bóc lột ăn bám, mà chúng làm công việc này
chính chỉ vì bọn chủ nợ, bọn người hút máu, hút mủ, ăn nhiều phân lời của đồng
bào.
Mấy nghề khác
Ngoài các nghề trên là đáng kinh cho ba hạng tuổi, còn những
nghề khác bố mẹ cũng cần tránh cho con, trong đó là nghề nho lại tại
các công đường như trên đã trình bày.
"Một đời làm lại làm hại mười đời”.
Xưa, nghề “làm lại” xoay ngọn bút, sửa giấy tờ, ăn không nói
có, làm những điều thất đức có hại tới con cháu.
Ngoài miền Bắc tại tỉnh Bắc Ninh, phủ Gia Lâm, trước đây có
làng Thổ Khối có nhiều người đi làm nho lại tại các phủ, huyện. Không phải những
người này ai cũng đều là những người xấu, có kẻ xấu cũng có kẻ tốt, nhưng vì
nghề làm nho lại bị thành kiến coi là độc ác hay làm hại mọi người, nên phương
ngôn có câu: “Nói dối Thổ Khối đến nhà”. Câu này là một câu nguyền
rủa những ai nói dối sẽ bị các ông Nho lại người làng Thổ Khối tới “thăm” nghĩa
là sẽ bị những sự rắc rối, chịu những điều vu khống, ăn không nói có của bọn
“bẻ chữ” “xoay tờ giấy”.
Tất cả mấy nghề trên tuy bị xã hội coi khinh, nhưng chỉ ảnh
hưởng về tinh thần, hay nói theo như quan niệm của ta về phúc đức thì cũng chỉ ảnh
hưởng về mặt phúc đức đến con cháu mà thôi. Tôi chưa nói đến một nghề mà con
cháu không những chịu ảnh hưởng về tinh thần, lại phải chịu ảnh hưởng rất nặng
nề ngay về mặt vật chật nữa. Ấy là nghề “xướng ca đàn địch” mà
ngày nay gọi là nghệ thuật và ca sĩ, nhạc sĩ đều được coi là nghệ sĩ, được sự
qúy trọng của nhiều người. Ở xã hội Việt Nam ta xưa, “ca hát đàn địch” chỉ
là “xướng ca vô loài” mày đã bị xã hội tước bỏ khá nhiều quyền lợi của
chính họ và của con cháu họ đến ba đời. Xã hội ta xưa quan niện lũ “Xướng
ca vô loài” là một tầng lớp vô luân. Họ bị coi là vô luân không phải vì họ
sa đoạ, chính sự sống của họ cũng không phải là sa đoạ, mà chỉ vì những vai trò
họ đóng khi xướng hát: Họ bị coi là “vô luân” ở đây chỉ vì người con có thể
đóng vai vua và người cha đóng vài bày tôi quỳ lạy, anh em ruột có thể đóng đôi
vợ chồng, và vợ chồng lại có thể đóng vai mẹ con hoặc cha con.... Tất cả cái
“vô luân” là ở đây, đấy là sự luân thường đạo lý đã không còn nữa, mặc dầu chỉ trong
những lúc trình diễn. Xã hội đạo đức Việt Nam không thể chấp nhận cho họ, những
kẻ đã lộn luân lý, dù trong việc đóng trò, được quyền hành, có điạ vị xã hội để
lãnh đạo xã hội. Chính vì vậy mà con cháu những kẻ “xướng ca vô
loài” đến ba đời không được dự các khoa thi, theo quy định xưa.
Về điểm này, có lẽ ta thấy xã hội ta xưa qua hẹp hòi với loại nghệ sĩ,
ca xướng này, vì theo sử đã lưu truyền lại, ông Đào Duy Từ, chỉ vì cha
làm quản giáp, nghĩa là đứng đầu các nhạc sĩ trong một bọn xướng ca mà
không được ứng thí tại miền Bắc với vua Lê chúa Trịnh, đã phải vào miền Nam, lập
công lớn với chúa Nguyễn.
Quan niện “xướng ca vô loài” thật là hẹp hòi, nhưng
nếu chúng ta có ý thức về luân lý cần thiết để tự vệ và tự tồn, chúng ta sẽ sẵn
sàng chấp nhận quan điểm hẹp hòi đó để bảo vệ cho sự tồn tại, cho sự độc lập của
dân tộc mình. Thực ra, thời xưa, giới xướng ca vô loài có rất nhiều ảnh
hưởng sâu xa đối với chính họ cũng như đối với những người khác. Sống về nghề cầm
ca, họ có mặc cảm nguy hại là chính họ không đứng đắn, bị coi rẻ, thường tự có
hành động giảm giá trị của mình trong cuộc sống bừa bãi đến mất cả nhân phẩm,
và đã có những trường hợp, sự đồi bại giả tạo trong các vai
trò của họ đã biến thành sự đồi bại thật của chính họ. Những
tấm gương xấu của họ bị người đời chê bai và nhiều khi những tấm gương xấu này
đã gây tai hại cho một số người thiếu suy nghĩ.
Chẳng cứ gì thời xưa, ngay thời nay, ca nhạc được coi là nghệ
thuật được cổ võ và các nghệ sĩ được hoan hô, thành kiến “xướng ca vô
loài” không còn nữa, mà chúng ta đã từng thấy nhiều chuyện tai tiếng xấu,
ngay một số ít nghệ sĩ danh tiếng hằng được hâm mộ, mà báo chí đăng tải trước
đây đã có một câu chuyện loạn luân giữa hai nghệ sĩ tân nhạc, và cũng lại đã có
câu chuyện nghệ sĩ bị cướp chồng tranh vợ ở giữa Sài Gòn đó sao?
Vậy thì chúng ta có nên chỉ trích sự cố chấp của quan niệm cũ
chăng? Chúng ta còn có chăng cái hoài bão duy trì nền luân lý đạo đức nó đã khiến
cho dân tộc ta vững bền, nó đã khiến cho nếp sống của ta đẹp đẽ? Ngày nay chắc
chắn mọi người đã có nhận thức đúng đắn về các vấn đề này.
Cô đầu
Trong hạng “xướng ca vô loài”, xưa các cụ còn liệt vào
hàng ca nhi những giọng hát nhịp phách cung đàn để quyến rũ bọn nam nhi: Đó là
các “cô đầu”. Xưa vẫn có cái thành kiến rất xấu xa về “cô đầu”:
"Lấy quan, quan cách,
Lấy khách, khách về Tầu,
Lấy nhà giàu, nhà giàu hết của.”
Dân gian cho “cô đầu” là một hạng người bòn rút của cải của
đàn ông, phá tan nhiều gia đình đang đầy hạnh phúc.
"Cô đầu, cô đít, cô đuôi,
Bố tôi đi vắng ai nuôi cô đầu!”
Nghề võ
Đã nói về nghề nghiệp và sự gây dựng con cái, tưởng không thể
bỏ qua không nói tới nghề võ được. Theo đòi nghiệp võ để nhập vào binh ngũ. Võ
nghệ ta xưa có lớp học, có đủ kỳ thi, và người thi đỗ cũng vinh quy bái tổ như
kẻ học chữ thi đỗ vậy. Có những môn võ bắt buộc như cử tạ, múa côn sang, bắn
súng, và tập võ nghệ có những phương pháp riêng, đi dần dần từ dễ đến khó, từ yếu
đến khoẻ 5. Những võ sinh thi đỗ được bổ dụng vào chức quan võ, cũng như các
“tân khoa” về văn được bổ dụng vào các chức quan văn.
Nghề binh cũng là một nghề, và là một nghề bắt buộc trong thời
loạn ở xã hội cũ. Nhiều bà vợ vẫn hằng khuyên chồng nhập ngũ và tự nguyện trông
coi việc nhà:
5 Bạn đọc muốn biết kỹ các kỳ thi võ, sự luyện tập các môn võ
nghệ xưa xin đọc NẾP CŨ: CON NGƯỜI VIỆT NAM, chương Võ nghệ và Thi võ – Cùng
tác giả. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
“Làm trai cho đáng thân trai,
Xuống đông, đông tĩnh, lên đoài, đoài yên.”
KHAO VỌNG
Đời người thường xảy ra nhiều biến cố, có những biến cố vui,
có những biến cố buồn, mỗi biến cố thường để lại cho con người những kỷ niệm,
có người suốt đời không quên.
Trong các biến cố vui phải kể ngày thành gia thất, lúc sinh
con đẻ cái, khi làm được ngôi nhà mới. Đi thi đỗ, được dân làng bầu lên chức vụ
trong hàng dân hàng xã, đạt được đến một tuổi thọ, đều là những biến cố vui mừng.
Lại những khi lát xong một chiếc sân gạch, tậu thêm được con trâu, mua thêm được
vài thửa ruộng, v.v..... tất cả đều là những kỷ niệm vui mừng.
Thường trong những cơ hội tốt đẹp này, người ta có bày tiệc
tùng để khoản đãi họ hàng bạn bè sau khi cúng lễ gia tiên và thần linh.
Việc ăn uống linh đình, khoản đãi bạn bè trong những dịp vui
mừng, ta thường gọi là “khao”. Đã có “khao” thì phải có “vọng”.
Vọng là “nộp tiền hay lễ vật theo lệ để được ăn theo ngôi thứ trong
làng”6. Ở đây ta phải phân biệt “lệ vọng” với “sóc vọng” trong
việc tế tự.
Vậy khi có một biến cố vui mừng, người dân Việt nam có lệ
khao họ hàng làng nước bạn bè, và đồng thời với việc khao phải nộp lệ làng gọi
là “vọng” để được làng công nhận, nhất là chốn đình trung. Tuy vậy,
cũng có nhiều dịp vui mừng mà người ta chỉ có cỗ bàn thết đãi họ hàng bạn bè mà
không phải nộp lệ vọng, như ăn sinh nhật, ăn mừng nhà mới, ăn mừng con cái sinh
đẻ,v.v....
Dù sao, từ kép “khao vọng” được dân làng quen dùng để chỉ tiệc
tùng trong những dịp vui mừng. Ý nghĩa của “khao vọng” là đem sự vui mừng của
mình chia sẻ cùng mọi người. Bởi vậy, mới có ăn uống, và nhiều khi có cả những
cuộc cờ bạc như tổ tôm, tài bàn, và trong những cuộc khao long trọng của những
gia đình sung túc xưa có cả những cuộc vui để bà con họ hàng giải trí như hát
chèo, hát cô đầu, v.v....
Lệ Khao
Có tiệc vui mừng, sau khi đã kén ngày, đương sự phải có cơi
trầu trình với các nhà chức trách trong làng, thường là các vị Tiên chỉ hoặc Lý
trưởng. Lý trưởng có trách nhiệm về hành chánh trong làng, còn Tiên chỉ đứng đầu
về phương diện tế tự.
Được sự đồng ý của Tiên chỉ và Lý trưởng về ngày khao, người
ăn khao phải sửa lễ cáo với đức Thành Hoàng bản xã để xin ngài chứng
giám.
Lẽ tất nhiên, sau đó có lễ cáo Thổ Công và cáo gia tiên ở
nhà.
Như trên đã nói, người ăn khao làm cỗ bàn linh đình mời họ
hàng bạn bè và làng nước.
Mời họ hàng bè bạn thì muốn mời lúc nào và mời cách nào cũng
được, duy việc
6 Đào văn Tập – Tự Điển Việt Nam phổ thông. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam mời làng nước có tục lệ riêng.
Muốn mời ban kỳ mục, ban tư văn và quan viên trong làng,
đương sự phải có cơi trầu đến hội đồng kỳ mục hoặc trưởng ban tư văn để xin
phép mời các người trong ba. Khi ông chánh hội đồng kỳ mục và ông trưởng ban tư
văn đồng ý, chính các ông ấy sẽ phụ trách việc mời và cho biết giờ họ sẽ tới.
Gia chủ phải tiếp đón trịnh trọng, và cỗ bàn phải đặc biệt, và sau bữa cỗ lại
phải có phần biếu .
Ngoài những bữa tiệc mời, gia chủ phải sửa lễ ra đình cúng thần,
thường là trâu, bò, rượu, lợn, xôi và trầu cau; cũng có khi là dê, gà thay cho
trâu, bò, lợn tùy theo lệ làng và cũng tùy theo người ăn khao. Những lễ vật sau
khi cúng thần rồi, một phần làm phần biếu hương lý kỳ mục quan viên, một phần
làm cỗ.
Có nhiều nơi, tục khao rất nặng, phải có bánh giầy, bánh
chưng, cùng một vài thứ bánh khách như bánh tràng gừng, bánh ú, bánh gan gà,
v.v... dùng làm đồ lễ cúng thần và dùng làm đồ biếu.
Có khi gia chủ lại phải dành riêng một mâm cỗ đặc biệt cho
hương lý kỳ mục, rồi lại phải có bàn đèn thuốc sái để họ hút ban đêm và lại phải
mời ca nhi tới cho họ nghe hát mua vui.
Các gia chủ bao giờ cũng sẵn sàng để thoả mãn những điều yêu
cầu của kỳ mục để tiệc khao càng thêm linh đình và để chứng tỏ sự rộng rãi của
mình. Nếu các kỳ mục quan viên muốn mua vui bằng tổ tôm tài bài thâu đêm suốt
sáng, gia chủ phải cắt người túc trực hầu hạ và phải lo bữa tiệc đêm cho họ.
Lễ ăn khao kéo dài có khi tới bốn năm hôm, gia chủ không nề
hà tốn kém.
Cũng có người kém sung túc, may mắn được chút danh vọng, ơn
trời cho tuổi thọ, cũng cố khao lệ làng, nhưng sự ăn uống vui chơi thường giảm
tới tối thiểu.
Tiệc khao xong lại nộp theo lệ làng một số tiền ấn định tại
hương ước để sung vào quỹ làng. Đây là tiền vọng. Có nhiều làng, không có lệ nộp
tiền vọng mà chỉ cần một mâm xôi gà lễ thần để các hương lý kỳ mục thừa lộc
thánh, chia nhau lấy phần.
Nếu có người nào may mắn được danh vọng, nhưng túng thiếu quá
không ăn khao, danh vọng cũng không được ai nhắc đến, coi như không có. Ta có
câu vô vọng bất thành, nghĩa là chưa đủ lệ làng, làng không công nhận
sự nên danh giá của đương nhân.
Sự công nhận của làng xã đối với đương nhân thể hiện qua sự
xưng hô: ông Cửu, ông Bát, ông Hàn v.v... nếu được ân thưởng mà chưa khao, người
ta vẫn xưng hô theo thường lệ là bố cu, mẹ đĩ. Và tại chốn đình trung, nếu chưa
đủ lệ làng, chưa được dự vào hàng chiếu dành cho người có danh vọng đã đủ lệ
khao vọng rồi.
Khao thi đỗ
Thi dỗ la làm nên danh giá, có khi từ bạch đinh trở thành ông
Tú, ông Cử, ông
Nghè. Người thi đỗ, lúc “vinh quy bái tổ” được dân làng đón
rước, lẽ tất nhiên phải năn mừng sự thi đỗ. Việc ăn mừng có khi chỉ thu hẹp
trong phạm vi xã mình, nhưng khi đỗ Đại khoa, thường ăn khao tới hàng phủ, hàng
huyện.
Phải thành thực công nhận rằng, nước Việt Nam ta cũng như nhiều
nước phương Đông xưa, Đại đăng khoa rất được tôn trọng. Sự thi cử xưa rất khó
khăn, ba năm mới có một khoa, mà số sĩ tử đỗ đạt rất là hạn chế. Và việc thi cử
cũng là một điều rất quan trọng: Tại các cổng trường thi, mỗi khoa thi đều có
treo mấy chữ đại tự THIÊN TỬ CẨU HIỀN. Điều này chứng tỏ người đỗ đạt được quý
trọng đến bậc nào.
Một vị hàn nho hôm trước hôm sau đã trở nên ông Nghè, rồi mai
đây nhờ ơn vua lộc nước sẽ là quan này quan nọ.
Chính vì vậy mà các ông Tân khoa khi vinh quy bái tố được
đón rước rất trọng thể. Ta gọi đám rước này là đám rước ông Nghè7
Đám rước ông Nghè đến nhà, rồi ông Nghè chọn ngày lành tháng
tốt mở tiệc khao hàng huyện. Các ông Cử Nhân, Tú Tài thì khao hàng Tổng và hàng
Xã.
Nhiều ông Nghè rất nghèo, nhưng đám khao cũng rất linh đình.
Họ hàng, bạn bè, làng nước ai cũng tới mừng và giúp đỡ về nền tài chính cho ông
Nghè trong trường hợp cần thiết.
Khao vọng xong, những vị Tân khoa, nếu đỡ từ cử nhân trở lên,
ở nhà chờ lệnh vua đi nhận chức, còn các ông Tú Tài, thì nghỉ ngơi ít ngày rồi
lại tiếp tục đèn sách để đợi khoa sau.
Tục lệ xưa như vậy, tục lệ sau này đã đổi dần.
Dưới thời Pháp thuộc, những thí sinh đậu từ bằng Sơ Học Pháp
Việt trở lên cũng có mở tiệc ăn mừng, nhưng trong phạm vi nhỏ hơn ăn khao thời
xưa. Với các văn bằng Sơ học Pháp Việt trở lên, các làng xã xưa có lệ miễn cho
các đương sự về sự phu phen, tạp dịch, bởi vậy, tuy không có lệ khao linh đình,
nhưng cũng bỏ hẳn được những bữa tiệc ăn mừng và lệ vọng nộp cho hàng
xã.
Và tới ngày nay, với mọi sự biến chuyển do thời cuộc gây nên,
những tục lệ xưa cũ hầu như mất cả, nên những người đỗ đạt, dù Cử nhân, Tiến sĩ
cũng không ai nghĩ đến sự khao vọng nữa. Có lẽ cũng còn một đôi làng giữ lại lệ
xưa, dành những quyền hạn cho các người đỗ đạt, nhưng trong trường hợp này người
ta cũng chỉ mở một bữa tiệc mừng mời một số ít người thân đến để chia vui.
Tại các thành thị, nhiều gia đình khi con cái đỗ đạt, có mở
tiệc mừng nhưng chỉ trong phạm vi trong nhà, và nếu có mời bạn bè, đó chỉ là bạn
học của cô hoặc cậu tân khoa.
7 Muốn biết rõ hơn về “Vinh quy bái tổ” xin xem trong Nếp cũ:
CON NGƯỜI VIỆT NAM của tác giả, chương Văn học và Thi cử. Phong Tuc Tap Quan
Viet Nam
Khao chức việc
Trước đây được dân chúng bầu vào những chức vụ Chánh, Phó Tổng,
Lý, Phó Trưởng cũng như vào những chức vụ khác trong các ban hương lý kỳ mục là
những điều vinh dụ và theo quan niệm của ta xưa như thế là có công danh.
Có công danh thì phải khao, có khao mới có uy tín làm việc
trong dân trong xã.
Bởi vậy, những vị Chánh, Phó tổng cùng các chức việc hàng xã,
trước khi nhận việc, thường mở tiệc khao linh đình, trừ những trường hợp đặc biệt
mới có người nhận việc trước khi khao.
Cũng như trong bất cứ việc gì quan trọng, trước khi khao họ
cũng mở lịch xem ngày, kén ngày tốt để công việc mai sau không gặp điều gì trắc
trở.
Trong tiệc khao có cỗ bàn linh đình.
Trước hết đương sự phải có cơi trầu trình ban kỳ mục trong
làng để xin phép khao và mời ban kỳ mục tới dự lễ khao.
Được lời ban kỳ mục, đương sự lại phải tìm đến ban tư văn để
mời. Ban tư văn gồn các tay văn học trong làng, các chức sắc đã được thưởng phẩm
hàm. Ban tư văn sẽ dự lễ khao và sẽ soạn thảo các văn tế thần hoặc tổ tiên người
đứng khao.
Được sự chấp nhận của ban kỳ mục và ban tư văn rồi, đương sự
làm lễ cáo gia tiên.
Đến ngày khao, đương sự phải có lễ vật ra đình để cúng lễ đức
Thành Hoàng. Có khi có cuộc tế lễ long trọng, việc tế lễ sẽ do ban tư văn phụ
trách.
Nếu đương sự muốn tế gia tiên, ban tư văn cũng sẽ phụ trách.
Các văn tế thần cũng như văn tế gia tiên đều do ban tư văn soạn thảo.
Mỗi lần tế xong, tại đình cũng như tại nhà, đương sự đều phải
có phần biếu riêng ban tư văn, hay ít ra cũng phải có một mâm cỗ dành riêng mời
nhân viên trong ban này.
Nhiều khi trong khi khao có cuộc rước văn bằng.
Văn bằng do quan trên gửi tới còn để tại phòng Hội đồng làng
hoặc tại nhà một vị chức sắc nào. Ngày khao đương sự mới đưa kiệu, nhờ họ hàng
cùng các con em tới rước văn bằng về cáo với tổ tiên trong tiệc khao. Bạn bè,
làng nước được mời tới dự đám khao đều có đồ mừng. Các tay văn tự thì mừng những
bức đại tự, mừng liễn, mừng câu đối, còn các bà con khác mừng trầu cau, trà rượu
hoặc có khi mừng tiền.
Tiệc khao rất tốn kém nếu muốn mời đủ mọi hạng khách trong
làng trong tổng, nhất là đối với những việc hàng tổng. Nhiều người đã vì tiệc
khao phải cầm bán nhà cửa ruộng nương.
Có người không đủ năng lực tài chính để tổ chức tiệc khao,
khi nhận một chức vụ của hàng xã hàng tổng, chỉ lo cho đủ lệ làng, lệ tổng và mời
ăn chiếu lệ, bãi bỏ hết mọi việc tế lễ rước xách, tuy vậy cũng vẫn có sự tốn
kém.
Ngày nay người ta không làm lễ khao khi nhậm chức vụ, nhưng
người ta vẫn có một tiệc để mời bằng hữu, làng nước. Tiệc mừng này chính là tiệc
khao của thời xưa.
Để tiết kiệm, nhiều khi tiệc mừng chỉ là một tiệc trà. Tuy vậy,
cũng có những vị đại diện xã, những uỷ viên xã, muốn lấy uy tín với dân chúng,
khi mở tiệc mừng trước ngày nhận chức việc thường mời viên quận trưởng tới dự
tiệc. Tiệc trà ngày nay, thường được tổ chức sau lễ bàn giao chức vụ giữa hai vị
tân, cựu chức việc.
Khao Trùm, khao trưởng xóm
Tại nhiều địa phương, dân chúng tổ chức thành từng xóm,
có trưởng xóm riêng, hoặc thành từng chòm từng khóm, các ông trùm đứng đầu.
Những chức vị trưởng xóm hoặc ông trùm không phải là những chức
vị chánh thức đối với hệ thống cai trị, và cũng không có ghi trong hương ước,
chỉ là những chức riêng của xóm, của chòm, của khóm.
Những chức vị này thường do dân trong xóm, trong chòm, trong
khóm tự cử ra để đại diện cho xóm,chòm, khóm trong mọi công việc giao thiệp với
dân làng.
Được cử vào các chức vị này cũng là một vinh dự, và cũng kể
là có công danh; cũng được miễn những đều phu phen tạp dịch. Và như vậy tất
nhiên phải có khao, tuy việc khao chỉ thu hẹp trong phạm vi xóm, chòm, khóm của
mình. Các đương sự để chính thức hoá với dân làng chức vị của mình, thường có
mâm cỗ riêng hoặc phần biếu riêng cho các vị hương lý, kỳ mục trong làng.
Bà con bạn bè tới dự tiệc khao cũng có đồ mừng như khi dự đám
khao của các vị chức sắc hàng xã.
Khao đi làm quan
Người thi đỗ khao lúc vinh quy, nhưng khi được bổ đi làm
quan, thường cũng có tiệc khao trước khi đi nhậm chức, tuy việc khao không linh
đình bằng tiệc khao lúc vinh quy bái tổ.
Đương sự cũng cáo gia tiên, lễ thần linh tại đình, mời họ
hàng làng nước như một chức việc trong làng khao trước khi lĩnh chức vụ.
Giàu nghèo gì, trước khi đi làm quan ai cũng cố khao dân
làng, không khao to thì khao nhỏ.
Chính vì bữa khao này mà ngày xưa, khi vị quan lên đường nhận
chức được dân làng tiễn đưa với cờ kiệu thật trọng thể.
Ngày nay, mặc dầu chịu ảnh hưởng văn minh Tây phương, ta cho
khao vọng là cổ hũ, nhưng các công chức mỗi khi đi nhận một chức vụ, thường gia
đình cũng có lễ cúng gia tiên và có bữa tiệc nhỏ từ giã những người thân tình.
Khao phẩm hàm
Các Chánh, phó Tổng, Hương lý sau khi làm việc một thời gian
nếu mẫn cán có công thường được tưởng thưởng. Triều đình cho tưởng lục hoặc
ban cho phẩm hàm. Việc ban thưởng “tưởng lục” hoặc “phẩm hàm” này cũng tựa
như chính phủ đương thời tặng “tưởng lục” và “bội tinh” vậy.
Sự ân thưởng này cũng như ngày nay, có người khi mãn chức việc
mới nhận được, có người tưởng thưởng ngay trong khi tại chức. Được tưởng thưởng,
các đương sự lại khao làng xã. Nhiều người đi làm việc cho nhà nước khi được tưởng
thưởng phẩm hàm cũng về tại làng khao.
Việc khao cũng giống như khi nhậm chức việc, nếu có khác thì
chỉ khác ở chỗ rước sắc của Triều đình thay vì rước văn bằng. Sắc để tại huyện
hoặc tại văn phòng hàng tổng. Rước sắc long trọng hơn rước văn bằng.
Rước sắc bằng cờ kiệu mượn của làng sau khi đã làm lễ khấn và
xin phép thần linh được ứng hiệu qua “quẻ âm dương” sự ưng thuận, và được các kỳ
mục không cản trở.
Trong đám khao cũng lại có tế lễ với các trò vui tùy theo khả
năng tài chính của gia chủ khi các hương kỳ mục đòi hỏi.
Những người được ân thưởng phẩm hàm sau lễ khao này được dân
làng gọi tên theo phẩm tước mới. Ông Bá nếu được thưởng Bá hộ,
ông Cửu nếu được thưởng Cửu phẩm, ông Hàn nếu được thưởng
Hàn lâm, v.v....
Nếu còn đang tại chức, dân làng sẽ gọi thêm cả chức vụ: ông
Lý Bá, ông Tổng Cửu...
Được thưởng phẩm hàm, sau khi khao xong sẽ được dự vào ban tư
văn trong làng, nếu phẩm hàng thuộc hàng văn giai, và được có ngôi thứ trong
làng tùy theo phẩm hàm cao thấp, không kể văn giai hay đội trưởng.
Đối với những người được tưởng lục và bội tinh sau naỳ, không
ai khao vọng gì, nhưng thường các đương sự cũng có mời bằng hữu, tới nhà hoặc
đi hiệu ăn mừng một Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
bữa. Ở vùng quê, cũng còn nơi có người làm tiệc mời bà con họ
hàng và cáo gia tiên.
Khao quan viên
Có những người thi đậu Tuyển Sinh, Khoá sinh, hoặc dưới thời
Pháp thuộc đậu Sơ Học Yếu Lược, Sơ Học Pháp Việt, theo lệ nhiều làng, đậu những
bằng nhỏ này không được xung ngày vào ban tư văn, phải chờ tới một tuổi nào,
thường thường là năm mươi tuổi, mới được dự vào hàng quan viên trong ban đó.
Nói vậy, không phải cứ đúng tuổi của lệ làng là đã thành một quan viên trong
làng. Cần phải có khao, to thì mời cả làng xã, nhỏ thì cũng phải mời đủ ban tư
văn trong làng, sau đó mới được kể là quan viên, và từ đó sẽ được hưởng mọi quyền
lợi của các vị quan viên.
Khao nhiêu, khao xã
Tại các làng qưê thời phong kiến, người dân bạch đinh phải chịu
rất nhiều phu phen tạp dịch, nào đi tuần tráng, nào đắp đê đắp tường, nào những
khi quan đi kinh lý phải vác cờ khiêng kiệu. v.v....
Muốn tránh những công việc trên hoặc phải là tay văn học, hoặc
là các chức sắc trong làng, trong ban kỳ mục, hoặc phải đến tuổi được miễn, hoặc
phải là học trò còn đang theo đuổi bút nghiên. Một khi đã thôi học, chỉ được
coi là văn học nếu có đỗ đạt, ít nhất cũng là bằng Tuyển sinh hoặc Khoá
sinh, và sau này dưới thời Pháp thuộc, ít nhất phải có bằng Sơ học Yếu Lược hoặc
Cơ Thủy, tùy từng làng có nhiều hay ít người đỗ đạt, và tuy đã có văn bằng
nhưng cũng phải đủ lệ khao vọng.
Người dân bạch đinh, muốn tránh phu phen tạp dịch phải mua những
chức hàm trong làng, đó là các chân Nhiêu, chân Xã, cũng như các
chân Phủ, Huyện hàm nhà nước thường ban cho nhiều người vậy. Mỗi chân
Nhiêu, chân Xã phải nộp một món tiền theo lệ làng, và các chân Nhiêu chân Xã mỗi
làng đều có lệ hạn định đến một số nào.
Mua được nhiêu, được xã rồi, lại phải khao. Lệ khao tuy không
linh đình như khao nhận việc, khao phẩm hàm, khao quan viên... nhưng cũng phải
có cỗ bàn mời một số các chức sắc trong làng.
Lẽ tất nhiên, có khao thì có lễ, lễ gia tiên ở nhà và lễ
Thành Hoàng ở đình.
Các ông Phủ, Huyện hàm cũng về làng làm tiệc khao dân làng và
mời bạn bè.
Khao thượng thọ
Từ trên, mới trình bày qua về các lệ khao khi có danh vọng,
nhưng nếu danh vọng là đáng quý, thì tuổi thọ càng đáng quý hơn, bởi vậy, các cụ
ta còn có lệ khao vọng khi các cụ đạt đến được một tuổi thọ nào đó, tùy theo địa
phương, nhưng ít nhất cũng phải từ năm muơi tuổi trở lên.
Thọ là một trong ba điều hạnh phúc cố hữu của ta. Trong ba điều
hạnh phúc đó thì Phúc là công danh chức tước, Lộc là con
cháu đông đàn, còn Thọ chính là tuổi thọ.
Người ta ăn mừng công danh, ăn mừng khi sinh con cái, thì lẽ
tất nhiên phả có ăn mừng khi Trời ban cho tuổi thọ, vì sống lâu chính là điều hạnh
phúc quý báu. Ai cũng muốn sống lâu, và vì muốn sống lâu nên người già rất được
dân ta quý trọng.
Ta có câu: “Triều đình thượng tước, hương đảng thượng
xỉ” nghĩa là địa vị ở triều đình do chức tước còn chỗ ngồi ở dân xã do tuổi
tác.
Được hưởng tuổi tác thì ta ăn khao: năm mươi tuổi là Ngũ tuần
khánh thọ, sáu mươi tuổi là Lục tuần khánh thọ, rồi Thất, Bát tuần
khánh thọ..., nôm na ta gọi là, ăn khao năm mươi, ăn khao sáu mươi....
Làng Thị Cầu huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh trước đây, có tục
ăn khao khi 55 tuổi, bọi là lên Xỉ, tức là lên cái tuổi đã có chiếu ngồi khi ra
chốn đình trung.
Lễ khao thượng thọ
Đến tuổi khao người ta thường lo khao cho đủ lệ làng, những
người nghèo túng
cũng cố lo nộp lệ vọng với làng để được dự hàng nơi đình
trung, - và đây thực là một điều bất đắc dĩ đối với các đương sự, vì ai chẳng
muốn lễ khao cho linh đình để đẹp mày, đẹp mặt với xóm làng.
Thường thường lễ khao được tổ chức vào dịp đầu năm.Theo Phan
Kế Bính trong "Việt nam Phong Tục" thì hôm ăn mừng, trước hết là lễ
gà xôi, hoặc tam sinh, hoặc lợn bò đem ra đình lễ thần, gọi là bái tạ thần hưu,
nghĩa là tạ ơn thần thánh đã phù hộ cho cha mẹ được sống lâu.
Cùng với lễ ở ngoài đình, con cái cũng có lễ cáo gia tiên, và
trong bản văn khấn cáo này phải tỏ sự biết ơn gia tiên đã phù hộ cho cha mẹ được
trường thọ. Trong suốt mấy ngày ăn khao, hàng ngày phải có lễ cúng trên bà thờ,
ngày hai lần như trong ngày Tết và trên bàn thờ đèn nhang phải được thắp đều.
Lễ Thượng Thọ là lễ ăn mừng của các cụ già, song chính con
cái cũng phải mừng, mừng được cha mẹ sống lâu để cho các con phụng dưỡng.
Sau lễ tại đình và lễ cáo yết gia tiên, con cháu phải mừng
cha mẹ.
Chúc thọ
Lúc này cha mẹ ăn mặc lịch sự ngồi trên sập đặt chính giữa
nhà để con cháu lễ bái. Sập này có trải chiếu gọi là Thọ tịch. Con
cháu sẽ dâng rượu gọi là "hiến tửu" và sau đó dân quả đào gọi
là "bàn đào chúc thọ" theo tích bà Tây Vương Mẫu ngày
xưa hiến vua Hán Vũ Đế mấy quả đào tiên nói rằng đào này ăn vào sẽ sống lâu.
Dâng rượu, dâng đào rồi, con cháu lễ bái trước mặt hai cụ, mỗi
người lạy mừng hai lạy rưỡi.
Rồi mâm tiệc bưng lên để hai cụ xơi.
Trong lúc con cháu lễ mừng có khách khứa chứng kiến để nhận
rõ hạnh phúc của hai cụ và sự hiếu thảo của con cháu.
Sau con cháu đến lượt họ hàng bạn bè chúc mừng. Rồi pháo nỗ
làm tăng cảnh tưng bừng cho buổi lễ.
Hai bên tường nhà treo đầy câu đối, những bức đại tự và những
bài thơ mừng hai cụ. Có nhiều nhà cho mời ca nhi tới ngâm những bài thơ, những
câu đối này.
Có khi chính cụ ông là một tay văn tự, cũng tự soạn những bài
thơ hoặc ca trù để ca nhi hát theo tiếng sênh tiếng phách.
Bữa tiệc khao thường rất linh đình. Tiếng phảo không ngớt nổ.
Các bạn bè nhiều người ngay trong bữa tiệc đã soạn những bài hát, bài thơ để mừng
các cụ ăn khao.
Buổi tối có khi có hát chèo, hát tuồng để con cháu và dân
làng mua vui. Đây là hình thức chúc thọ theo lối xưa.
Theo tục lệ, thường chỉ các cụ ông ăn mừng thượng thọ, còn
các cụ bà chỉ mừng theo sự mừng của chồng, nhưng trong những trường hợp các cụ
ông đã chết trước khi tới tuổi thượng thọ của các cụ bà, con cháu cũng làm lẽ mừng.
Ăn sinh nhật
Ăn sinh nhật tức là ăn mừng ngày sinh của mình. Tục này
ta bắt chước theo người nước ngoài, nhưng ta chỉ ăn sinh nhật khi tuổi đã hơi
cao, có con cháu đề huề. Ta ăn sinh nhật để mừng bước sang một tuổi mới, và đây
chính là mừng vì Trời, Phật đã ban cho tuổi thọ, theo quan điểm xưa.
Trong ngày lễ sinh nhật, có lễ cáo gia tiên, sau đó còn cái lễ
mừng cha mẹ. Có mời bạn bè họ hàng tới dự tiệc mừng.
Người xưa, chỉ nam giới có tục ăn sinh nhật, các cụ bà chỉ ăn
sinh nhật khi chồng đã qua đời, vì theo tục lệ Á đông, mọi việc của người vợ đều
phụ thuộc vào người chồng, khi chồng còn sinh thời, cái mừng của chồng chính là
cái mừng của vợ vậy. Thẳng hoặc có cụ bà nào ăn sinh nhật khi cụ ông còn sống,
lễ sinh nhật cũng giảm tiết Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
rất nhiều, không như lễ sinh nhật của cụ ông.
Mừng sinh nhật của cha mẹ cũng như mừng thọ cha mẹ, chính là
con cái tỏ lòng kính yêu cha mẹ, cầu chúc cho cha mẹ được sống lâu để được luôn
luôn phụng dưỡng.
Ngày nay, tại các đô thị, người ta ăn sinh nhật theo lối Âu
Tây, những nhà giầu có không những chỉ ăn sinh nhật bố mẹ mà còn ăn sinh nhật của
các con nữa. Đấy là "phú quý sinh lễ nghĩa", chứ như người
nghèo khó, dù có nhớ đến ngày sinh nhật của các con thì cũng chỉ đành để trôi
qua, đâu dám bày vẽ ra cho tốn kém.
Thực ra ăn sinh nhật cha mẹ, để cha mẹ kỷ niệm ngày mình ra đời
và đồng thời để có dịp gia đình sum họp, thực cũng là một điều hay và đầy ý
nghĩa vậy.
Truy Phong phụ mẫu và tiên tổ
Xưa, những người làm quan từ “tứ phẩm” trở lên, được nhà vua
ban sắc, phong tặng cho cha mẹ, ông bà, cụ kỵ tùy theo phẩm tước của
mình: "Nhất phẩm" được triều đình truy phong đến cao tổ, tức
là các cụ, "nhị phẩm" được truy phong đến ông
bà, tam, tứ phẩm được truy phong đến cha mẹ.
Trong sắc phong nhà vua kể công trạng chức tước của người làm
quan, rồi suy ân sắc phong đến cha mẹ, ông bà hay các cụ.
Sắc phong báo về dân làng, dân làng phải tổ chức đi rước sắc
về nhà gia chủ.
Nếu các người được sắc phong, cha mẹ vị quan, còn sống, sẽ có
lễ khao dân làng theo thể thức như khao phẩm hàm.
Ngày nay không có lệ truy phong đến bố mẹ, nhưng đối với những
người có công với quốc gia chẳng may thất lộc có thể truy tặng các hình thức
khen thưởng xứng đáng.
Lễ phần hoàng
Thường các vị tam, tứ đại được sắc phong, vì đều đã qua đời
nên con cháu phải làm lễ phần hoàng nghĩa là Lễ đốt sắc để
cáo với các cụ được truy phong.
Trước hết bản sắc của vua phong được sao ra một tờ giấy màu
vàng, màu giấy của sắc chính. Hai bản sắc chính và sao đều đặt vào một chiếc
khay rồi đệ lên bàn thờ. Trên bàn thờ đã có bày đầy đủ đồ tế tự.
Vị quan đã làm hiển thanh danh phụ mẫu, đốt hương khấn lễ, đọc
bản văn nói rõ duyên do sự phong tặng của triều đình cho cha mẹ, ông bà và các
cụ, đồng thời cũng đọc cả chức tước vua phong cho các vị này. Sau đó một người
đọc bản sắc của nhà vua.
Lễ xong, bản sao tờ sắc được đem đốt, còn bản chính chủ nhân
giữ lại thờ.
Lễ đốt sắc này gọi là "lễ phần
hoàng" nghĩa là đốt tờ sắc mầu vàng.
Làm lễ ở nhà xong, chủ nhân lại sửa lễ ra đình để cáo yết thần
linh.
Sau mọi cuộc tế lễ, chủ nhân khoản đãi dân làng khách khứa
cũng như các việc khao mừng khác.
Việc con làm nên được phong tặng đến cha mẹ cũng là một điều
hay, khuyến khích cha mẹ trong việc dậy dỗ, gây dựng con cái và cũng lại có ý
khuyên người làm con phải cố gắng làm rạng rỡ tổ tiên để tổ tiên cũng được hưởng
sự vinh quang.
Yến lão với tục trọng tuổi già
Nhân trong chương “khao vọng” có nói tới việc khao thượng thọ
mà ý nghĩa là mừng tuổi trời ban cho, tưởng không thể bỏ qua được tục Yến
lão của ta, một tục lệ để tôn trọng tuổi già.
Ta có câu "kính lão đắc thọ", và cũng có
câu "Kính già, già để tuổi cho" để chứng tỏ tuổi
già ở nước ta rất được tôn trọng. Với sự tôn trọng này, tục lệ có nhiều cuộc lễ
dành riêng cho những người già lão và trong các tục này có tục Yến lão.
YẾN LÃO tức là bữa yến để thết các cụ già.
Tại nhiều làng để tỏ lòng kính trọng các cụ già, trong dịp đầu
năm thường có tổ chức một bữa tiệc riêng để mời các cụ, cả cụ ông lẫn cụ bà, tuổi
từ lục tuần trở lên tới dự. Bữa tiệc rất thịnh soạn và thường có món yến là một
món ăn rất quý.
Hàng năm ngày Yến Lão được ấn định bởi dân làng. Tới ngày đó,
một số các dân đinh trong làng, theo lần lượt hàng năm phải mang bánh trái, đồ
lễ tới đình, trước là để lễ thần, sau là để các cụ dùng. Có làng, theo tục lệ
dân đinh phải đóng góp để lấy tiền làm bữa yến này, bữa yến sẽ do một người phụ
trách sửa soạn. Có thể không có món yến, nhưng vẫn gọi là "bữa yến" vì
mâm cỗ rất sang trọng.
Các cụ, dân làng kính trọng gọi là Lão ông và Lão bà. Ðám rước
này gọi là RƯỚC LÃO. Các lão ông và lão bà tụ tập tại một nơi để dân làng mang
âm nhạc, cờ quạt tới rước. Ðám rước sẽ đi suốt làng để các cụ nhận sự chào mừng
của dân xã. Trong lúc rước, các cụ đi theo thứ tự tuổi tác, các cụ nhiều tuổi
đi lên trên. Các cụ đều mặc quần áo màu đỏ rực tượng trưng cho sự vui mừng, ngồi
trên cáng hoặc ngồi trên võng có dân đinh khiêng và có con cháu đi theo.
Có nhiều địa phương, các cụ tới họp tại đình làng, từ đó dân
làng sẽ rước các cụ đi một vòng quanh, rồi lại trở về đình.
Về tới đình, các cụ ngồi dự yến, cứ bốn người một mâm.
Trong bữa tiệc yến có bát âm cử nhạc, lại có ca nhi ngâm lên
nhiều bài thơ hoặc ca trù chúc mừng các cụ. Có đốt pháo tưng bừng. Và mé cửa
đình cờ quạt, tàn, lọng bay phất phới.
Yến dự xong, các cụ lại có phần mang về, thường theo tục lệ,
mâm yến các cụ thật là thừa thãi, các cụ chỉ ăn một phần, còn lại các cụ mang về
chia cho các cháu để cùng hưởng lộc làng.
Tục lệ yến lão nói chung tại các nơi thì như vậy,
nhưng mỗi làng tùy theo địa phương vẫn có sự khác biệt. Có nơi gọi mâm yến là
MÂM CỖ NGỌC như ở làng Ðầu Ðàng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; có nơi mân yến
chỉ là mâm cỗ thường, nhưng các cụ được hưởng phần xôi gà dành riêng rất lớn
như ở làng Thị Cầu huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh trước đây.
Mâm cỗ ngọc
Làng Ðầu Ðàng là tên tục xã Ðặng Cầu, huyện Tiên Lữ, tỉnh
Hưng Yên có tục Rước lão và Yến lão. Mâm yến ở đây gọi là "mâm
cỗ ngọc".
Rước lão được tổ chức vào mồng 8 tháng Giêng âm lịch mỗi
năm.
Sáng hôm đó các cụ già mặc áo thụng màu lam có thêu năm chữ
“Phúc”, “Lộc”, “Thọ”, “Khang”, “Ninh” tập trung tại đình làng, được dân làng rước
từ đình, qua văn miếu, qua chợ rồi lại về đình để mọi người chào mừng các cụ.
Trong lúc đi rước các cụ trên 100 tuổi được trai tráng khiêng võng rước đi. Các
cụ cao niên nhất đi võng Đào che bốn lọng, con cháu đi chung quanh.
Về tại đình, các cụ an tọa tại hai bên tả hữu bàn thờ theo
”niên sỉ”, bốn người một chiếu. Mâm cỗ ngọc được bưng ra. Mâm cỗ
rất lớn, xôi đơm đầy mâm ú ụ, có quả trứng khổng lồ do trứng gà đổ vào bong
bóng trâu, một nồi cháo thật lớn để các cụ xơi.
Tại sao không gọi là mâm Yến lại gọi là Mâm cỗ ngọc?
- Vì tục làng này, mâm cỗ không có yến, mà chỉ có mâm xôi lớn
bằng gạo nếp cái thơm, trắng tinh như ngọc.
Mâm cỗ ngọc hậu hĩ như vậy, nhưng thường các cụ chỉ ăn cháo,
còn xôi gà các cụ lấy phần mang về để cho con cháu thừa hưởng lộc thánh. Phong
Tuc Tap Quan Viet Nam
Mâm cỗ xuân
Làng Thị Cầu, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh trước, hàng năm
vào ngày 15 tháng Giêng âm lịch có lệ cúng thần.
Nhân dịp này, các cụ ông từ 50 tuổi được dân làng cất lên bực
“Niên sỉ”, tục ở đấy gọi là lên XÔN.
Lên XÔN, các vị phải có một cỗ xôi con gà và trầu cau, hoa rượu
để lễ thần. Xôi nấu bằng gạo nếp thơm hảo hạng, còn con gà do nhà nuôi lấy và
phải kén từ trước giữ cho tinh khiết.
Làng này có tục thi cỗ xôi. Cỗ xôi nào nặng cân, gạo ngon
thơm và con gà to béo thì được chấm nhất. Mỗi con gà đều ngậm nơi mỏ một bông
hoa màu đỏ, thường là hoa hồng nhung hoặc hoa lựu.
Cỗ xôi con gà cúng lễ thần xong dùng làm cỗ để các cụ xơi. Được
dự vào bữa cỗ này tất các các cụ đã lên Xôn rồi.
Thứ bậc về tuổi tác ở đây chia làm ba bậc, phân ngôi thứ ngồi
ở bàn Thượng, bàn Trung và bàn Hạ.
Bàn Thượng lại phân làm ba: Bàn Nhất, Bàn Nhì và Bàn Ba.
Tại bàn Nhất, chỉ có các cụ trên 80 tuổi, dân làng tôn là các
cụ Thượng; bàn Nhì dành cho các cụ tuổi từ 70 đến 80; bàn Ba dành cho các cụ tuổi
từ 60 đến 70.
Các cụ tuổi từ 55 đến 60 ngồi ở bàn Trung, còn các cụ từ 50 đến
55 tuổi ngồi ở bàn Hạ. Bàn Trung và Bàn Hạ không phân chia thêm như Bàn Thượng.
Khi 55 tuổi, các cụ có lệ khao làng gọi là “lên Xỉ”, tức là đến
cái tuổi được dự bàn Trung và được sự kính trọng hơn của dân làng.
Sáu mươi tuổi, các cụ khao lục tuần thượng thọ, 70 tuổi khao
thất tuần thượng thọ, 80 tuổi khao bát tuần thượng thọ, v.v....
Sau khi khao bát tuần thượng thọ, các cụ được quyền mặc áo đỏ
và được dân làng xưng hô gọi là cụ Thượng.
Cũng như khi lên Xôn, khi lên Xỉ, và những khi khao Thượng thọ,
các cụ đều có cỗ xôi gà ra đình thần và sau dùng làm cỗ và chia phần
°
° °
Thường mỗi bàn ngồi bốn cụ. Số xôi gà được chia cho các bàn,
bàn Thượng nhiều hơn bàn Trung, bàn Trung nhiều hơn bàn Hạ. Tại bàn Thượng Nhất
có khi chỉ có một cụ, và năm nào dân làng có nhiều người lên Xôn, lên Xỉ và
khao Thượng thọ, mỗi bàn có thể được nguyên một cỗ xôi gà. Các cụ thường xơi rất
ít, còn để chia phần mang về cho con cháu.
Thường thường dân làng cũng dành một số cỗ xôi gà chia cho trẻ
con trong làng, phân ra làm bốn cho trẻ con bốn giáp trong làng: Ðông, Bắc,
Già, Giữa. Giáp nào chia phần cho trẻ con giáp đó. Xôi nắm thành nắm có nhét thịt
gà vào giữa. Lúc chia, trẻ con đứng ở dưới hai người lớn bưng mâm xôi chia cho
mỗi trẻ một nắm.
Làng Thị Cầu không có lệ rước lão cũng như không có lệ chia
phần cho các cụ bà dù nhiều tuổi đúng theo câu "phụ nữ bất
dự đình trung"
ÐAU ỐM
Từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi vào lòng đất, mỗi người sinh
ra không phải lúc nào cũng mạnh khoẻ, cứ ăn rồi lớn cho tới già, tới chết.
Ðá còn có khi đổ mồ hôi, con người dù cường
tráng tới đâu cũng có lúc đau ốm, huống chi, lúc nhỏ bé yếu ớt, tránh sao được
những khi trái giò trở trời, lúc cảm hàn cảm nhiệt. Lại có những giai đoạn con
người phải chịu đau đớn để vượt qua những thời kỳ nọ bước sang thời kỳ kia: Từ
trẻ nhỏ sang thời thời kỳ dậy thì, từ đứng tuổi sang thời kỳ già lão. Những thời
kỳ thay đổi này đều có những triệu chứng. Lúc dậy thì, trai gái đều bị sốt
nóng, các cụ già gọi là “sốt vỡ da”, lúc bắt đầu già yếu cũng có những cơn bệnh
báo trước sự suy nhược của cơ thể, nhất là đối với phụ nữ phải vượt qua giai đoạn
hết thời sinh nở, máu huyết không còn. Còn con trẻ trứng nước, mỗi sự thay đổi
đều có quặt quẹo, đau ốm không nhiều thì ít: khi biết lẫy, khi biết bò, khi mọc
răng, v.v....
Tóm lại đã sinh ra ở đời thì phải có khi đau ốm, khi đau nặng,
lúc đau nhẹ, khi đau bộ phận này, khi yếu bộ phận khác, người khoẻ thì ít bệnh,
người yếu thì dễ đau.
Ðau ốm thì phải chạy chữa, và muốn chạy chữa, phải biết nguồn
gốc của sự ốm đau: người đau bụng vì trúng thực không chữa cùng một lối như người
đau dạ dày, người ho vì sưng phổi không chữa giống người ho vì sưng cuống họng.
...
Theo y học ngày nay, con người bị đau ốm là vì nhiễm độc, là
vì có vi trùng phát sinh ra bệnh tật. Người xưa, theo quan điểm y học, triết học
cũ thường có những suy nghĩ và việc làm mà ngày nay ta cho là thần bí, mê tín,
thiếu cơ sở khoa học.
Nguồn gốc bệnh tật theo khoa học
Chúng ta bỏ qua các nguồn gốc huyền bí của bệnh tật, theo
quan niệm người xưa mà nói về các nguồn bệnh ngày nay được khoa học công nhận
cùng nêu lên sơ qua một vài lối chữa chạy cổ xưa của cha ông ta. Ở đây, tôi
không nói đến y học, vì tôi biết được gì đâu mà nói, nhưng tôi chỉ nhắc lại những
điều tai nghe mắt thấy, hoặc những điều đã đọc qua ở một số tài liệu nào.
Tai nạn
Tai nạn thường xảy đến bất ngờ. Người ta có thể buổi sáng vẫn
còn khoẻ mạnh, mà buổi trưa đã có thể vì tai nạn mà bị đau. Tai nạn đó có thể
do đụng chạm vấp ngã, do các con vật có nọc độc như rắn rết, chó dại cắn, bị bỏng,
bị chìm xuống nước v.v... Gặp mỗi tai nạn, dân ta có lối chữa riêng. Dưới đây
xin ghi mấy lối chữa cổ truyền vẫn được áp dụng, còn ứng nghiệm hay không, kẻ
viết không dám nói chắc, xin tùy bạn đọc suy ngẫm, tìm hiểu thêm.
Chữa ngã
Nếu ai ngã cây, ngã đu, ngã nóc nhà mà bị chết ngất thì trước
đây dân gian thường lấy nhựa cây xanh, một loại cây giống như cây si để chữa. Lấy
độ một thìa nhỏ nhựa, hoà vào với một chén rượu già (rượu cao độ) cho uống thì
sẽ hồi.
Nếu bị gãy chân, gãy tay, đến các thầy thuốc, các ông ấy sẽ
bó bằng xương gà, xương sẽ liền.
Ðồng bào miền Nam có một lối chữa đặc biệt, có thể gọi được
là “chữa mẹo” cho những người bị gãy chân, gãy tay:
Dùng rau bợ, giã với dấm thanh và đường thẻ, rồi đem buộc vào
chân tay, nhưng gãy chân tay bên nọ, lại buộc vào cùng chỗ ở trên tay bên kia.
Lối chữa mẹo này, tôi đã được có người nói cho biết là hay lắm, nhưng chưa thí
nghiệm bao giờ.
Ðồng bào tỉnh thành ngày nay, mỗi khi ngã dù chết ngất hay bị
què, đều được người nhà chở tới bệnh viện để nhờ bác sĩ chữa.
Chữa đứt gân hay thịt - Nếu bị tai nạn, gân hoặc thịt bị
đứt dân gian thường bắt một con chuột đốt lấy than, tán nhỏ ra với hạt cau, dịt
vào thì khỏi.
Có khi vì đứt chân tay chảy máu, đồng bào miền Nam dùng lá
cây “bóng nước”, gọi là cây hoa móng tay, giã ra dịt vào, máu sẽ cầm. Phong Tuc
Tap Quan Viet Nam
Ta lại thường dùng thuốc lào, tinh rêu cạo ở cây cau, mạng nhện
hoặc bồ hóng để cầm máu.
Chữa rắn cắn
Những người làm việc ở đồng áng vườn tược, ở ven đồi núi thường
có thể bất hạnh bị rắn cắn. Muốn chữa, trước đây người ta lấy dây cây chìa vôi
tiá, hái ở đằng ngọn, cả lá cả dây một nắm. Nắm lá và dây này, người bị rắn cắn
tự nhai lấy, nuốt nước còn bã đắp vào chỗ cắn sẽ khỏi.
Người bị rắn cắn cũng có thể lấy ngọn nghể răm và hạt cau,
hai thứ đem nhai nhỏ, nuốt nước còn bã đắp vào chỗ bị cắn như trên.
Theo đồng bào miền Nam, họ có một lối chữa rắn cắn ngay tại
chỗ: Khi bị rắn cắn, đưa tay quơ ra đằng sau gặp bất cứ cây gì bứt một nắm lá,
nhai đắp vào chỗ bị rắn cắn, nọc độc sẽ không chạy được vào máu, và sau đó sẽ nhờ
các thầy chữa giúp. Ở vùng quê miền Nam có nhiều người chuyên môn chữa rắn cắn
theo những bài thuốc dân gian cổ truyền có hiệu nghiệm.
Những lối chữa trên có vẻ như không thích hợp với khoa học.
Người thành thị thường hoài nghi các lối chữa cổ truyền của ta, nên bị rắn cắn
họ đều tìm tới các bác sĩ, các bệnh viện để tiêm thuốc.
Chữa rết cắn
Rắn cắn thường nguy hiểm chết người, còn rết cắn chỉ đau buốt
mà thôi.
Theo kinh nghiệm các cụ nói, nếu bị rết cắn ban đêm, sáng
ngày khi có tiếng gà gáy tự nhiên khỏi buốt. Ban ngày nếu bị rết cắn, lấy dãi
gà bôi vào sẽ khỏi. Cũng có thể, nếu bắt đúng con rết cắn mình, đem con rết đốt
cháy thành thàn, lấy than đó hòa với dầu lạc, dầu vừng rồi bôi vào chỗ bị cắn sẽ
khỏi.
Chữa chó dại cắn
Theo khoa học Âu Tây, bị chó dại cắn chỉ có cách đi tiêm để
ngừa nọc độc khỏi chạy vào các cơ quan nhu yếu của cơ thể, nhưng các cụ ta có một
môn thuốc chữa thật kỳ lại. Môn thuốc này năm 1914 được công bố trên “Đông
Dương Tạp Chí” số 34 ngày 5-2-1914, còn hiệu nghiệm hay không, kẻ viết những
trang này chưa thấy ai thí nghiệm bao giờ. Môn thuốc như sau; được ghi ra để bạn
đọc tham khảo thêm:
Bắt một con mãn và một con cóc lớn, đem buộc con cóc lên đầu
con mãn, đem hai con ấy trói lại, để trên hòn đá tảng hay hòn gạch, cối đá, rồi
lấy chày hoặc vồ, nện làm sao một nhát chết cả hai con thì thuốc hay, nếu phải
hai nhát thì thuốc kém hay.
Khi hai con đã chết rồi, bỏ vào cối giã nhỏ như giã giò rồi lấy
vải tốt bọc thịt hai con ấy vắt cho chảy thành nhựa ra, được bao nhiêu cho uống
ngần ấy, nhưng phải làm sao đổ được vào miệng con bệnh. Uống vào độ nửa giờ là
khỏi bệnh.
Chữa bỏng
Bị bỏng rất rát, và người bị bỏng nhiều có thể bị chết được.
Ta có những lối cổ truyền chữa bỏng rất thần tình, những lối
này, chính kẻ viết đã thấy ứng nghiệm:
- Lấy nước mắm bôi vào chỗ bỏng. Người bị bỏng sẽ thấy mát và
chỗ bỏng sẽ không sưng phồng lên.
- Lấy lá trầu không, giã nhỏ đắp vào những chỗ bị bỏng.
- Lấy cây bóng nước giã lấy nước bôi vào những chỗ bị bỏng sẽ
không bị rát và chóng khỏi.
Ngày nay nhiều người bị bỏng còn dùng kem đánh răng thoa vào
chỗ bị bỏng, họ cũng có cảm giác dễ chịu như chữa theo các lối cổ truyền trên.
Ngoài ra, cũng theo lối cổ truyền, người ta dùng lá cây bỏng,
loại cây có hoa, khi bó tới thì nổ, gọi là “bóng nổ”, giã nhỏ đắp vào cũng khỏi,
hoặc có khi dùng dầu ta
thắp đền nhào với đất và muối rồi đắp lên, chỗ bỏng sẽ dễ chịu
và da không tuột.
Các lối chữa bỏng về cổ truyền còn nhiều, nhưng vì có nhiều
điều kẻ viết chưa chắc chắn và cũng không hiểu cách chữa thế nào nên không dám
ghi ra đây, như cách dùng nước vôi, cách dùng nước tro, v.v....
Chữa hóc
Nhiều khi, có người ăn uống vô ý hoặc trẻ em vì tham ăn bị
hóc xương. Các cụ ta có mấy lối chữa hóc sau đây:
- Ai hóc xương gà, xương cá, v.v... lấy lá đậu ván ở chỗ dây
khuất mặt trời, đem giã nhỏ ra, cho một ít muối vào, rồi trộn với giấm thanh,
xong gói vào giấy bản, ngậm vào mồm độ 30 phút là khỏi.
- Dùng vỏ cây đậu ván, chế thuốc cũng như trên, nghĩa là cũng
đem giã nhỏ, trộn với muối và giấm thanh rồi ngậm vào mồm. Theo kinh nghiệm xưa
khi bóc vỏ cây đậu ván nếu bóc xuôi xuống thì xương trôi xuống, nếu bóc ngược
thì xương trôi ra.
Chỉ khát
Những người đứt chân đứt tay, đánh nhau vỡ đầu, chảy máu nhiều
thường khát nước.
Muốn chỉ khát, dùng lá bạc than, lá cóc mẳn (khổ sâm) và cây cỏ
nước (ngư tất nam) sắc nước cho uống thì khỏi ngay.
Chữa ngộp nước
Những người vô ý ngã xuống nước, bị ngộp ta thường cầm hai
chân quay cho ọc nước ra thì khỏi, nhưng chỉ người mới bị ngộp mới chữa được,
những người bị chìm lâu thường không chữa được.
Ngày nay với phương pháp hô hấp nhân tạo, việc chữa bị chết
đuối thường có hiệu quả hơn.
Trên đây, là một ít cách chữa các bệnh tật do tai nạn gây nên
theo lối cổ truyền. Còn nhiều cách khác nữa với nhiều biến chứng của bệnh do
tai nạn, nhưng chúng tôi nghĩ chỉ nên giới hạn qua mấy cách trên thường được
nhiều người nhắc tới.
Viết ra những trang này, chúng tôi mong được các nhà Tây Y học
lưu ý, may ra có thấy điều gì hữu ích trong những điều được nêu lên chăng. Tuy
nhiên việc chữa trị theo Tây y với thuốc tốt và phương pháp hiện đại vẫn hiệu
nghiệm hơn.
Trái gió trở trời
Nhiều người đang khỏe mạnh, trời thay đổi thời tiết hoặc có
khi bị luồng gió là bị đau bị cảm. Các cụ nói chung là "trái gió trở trời".
Trái gió trở trời gây ra chứng cảm là thông thường nhất.
Chữa chứng cảm này, các ông lang thường cắt cho thang thuốc cảm
về sắc uống.
Có nhiều người vì ở xa xôi không tiện tìm ông lang thường
dùng lối "đánh gió" để trị cảm. Người ta dùng các loại dầu
như Nhị Thiên Đường, Bảo Tâm, v.v... để bôi xoa, cũng có khi người ta dùng
cách xông hoặc chườm.
Đánh gió
"Đánh gió" có nghĩa là xoa vào người để trục
xuất gió ra khỏi. Ta thường cho rằng người trúng gió bị cảm, muốn chữa khỏi phải
đánh gió:
Lấy cám đem rang cho cháy rồi bọc vào một chiếc khăn, xoa khắp
người bệnh nhân, xoa xuôi trở xuống. Đánh gió bằng cám, còn gọi là đánh cám,
xong, bệnh nhân đổ mồ hôi, tự thấy bệnh nhẹ hẳn đi.
Hoả thang rượu với gừng, lấy gừng này xoa khắp người.
Luộc một quả trứng, nhét vào giữa quả trứng một đồng tiền bằng
bạc hoặc một nắm tóc, có khi cả hai thứ, rồi bọc tất cả trong một chiếc khăn
xoa lên khắp người bệnh nhân. Sau khi đánh gió cho bệnh nhân rồi, lúc giở khăn
ra người ta thường thấy đồng Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
tiền bạc mang mầu ám khói và mớ tóc rối tung. Các cụ bảo rằng
đấy là trong khi đánh gió, gió đã bị đồng tiền, nắm tóc và quả trứng hút ra nên
đồng tiền như bị ám khói và tóc bị rối. Đánh gió xong, người bệnh cảm thấy nhẹ
nhõm. Ngày nay ta còn có phương pháp gọi là cạo gió nhữa.
Xông
nghĩa là làm cho hơi hay khói nhiễm vào người để làm cho nhẹ
bệnh đi.
Những người bị cảm thường xông bằng nước lá. Người ta dùng lá
tre, lá bưởi, lá ngải cứu hoặc một vài thứ lá khác có tinh dầu bỏ vào nồi đun
cho sôi lá rồi bắc ra, bỏ vung đi, bịt miệng nồi bằng một miếng có chọc nhiều lỗ
thủng hoặc bằng một miếng vải thưa để cho hơi bốc lên được. Người ta ngồi trước
nồi nước lá sôi ấy, mặt cúi xuống nồi nước, và cả người được trùm kín bằng một
chiếc khăn mỏng. Như vậy hơi nước trong nồi bốc lên, nhiễm vào người đau làm mồ
hôi đổ ra và gió độc cũng tiết ra theo.
Thường xông xong, người đau cảm thấy dễ chịu và có nhiều khi
khỏi bệnh.
Chườm
Chườm nghĩa là áp một vật gì nóng hay lạnh vào người .
Những người bị cảm nhức đầu, hoặc bị chứng đau bụng thường dùng lối chườm để chữa
bệnh. Chườm có nhiều cách:
Đỗ đen đem ra nóng, bọc vào một chiếc khăn áp lên đầu sẽ khỏi
nhức đầu.
Dùng một vài vị thuốc đem sao nóng, bọc trong một chiếc khăn
chườm vào bụng sẽ khỏi đau bụng.
Những người nhức đầu thường hay xông lá ngải cứu hoặc chườm bằng
lá ngải cứu. Người ta lấy ngải cứu quấn chung quanh đầu.
Cũng có khi để chữa nhức đầu, người ta đốt quả bồ kết ngửi
hơi khói hoặc cắt một quả chanh bôi vôi dán vào thái dương mỗi bên một nữa, một
lúc sau có thể khỏi.
Đại khái mấy lối trên thường đựợc dân ta dùng để chữa những
chứng trái gió trở trời. Đôi khi song song với việc chữa bệnh, người ta còn làm
một số việc khác nữa cũng nhằm để thuyên giảm bệnh.
Những bệnh sinh ra bởi vi trùng
Về những bệnh mà ngày nay ta cho là có vi trùng sinh
ra, thì xưa các cụ cho là các cơ thể trong người suy kém. Mỗi khi cơ thể suy
kém phát sinh ra những bệnh riêng nhiều khi vì hàn nhiệt mà sinhra, có bệnh
ngoài da, có bệnh bên trong lục phủ ngũ tạng.
Vốn không phải là một y sĩ, và cũng không có kiến thức nhiều
về cơ thể con người, ở đây tôi chỉ trình bày sơ qua một số các bệnh tật thông
thường và những lối chữa cổ truyền, có lối lưu truyền tới ngày nay và còn đang
được áp dụng, có lối này nay không được ai theo chữa nữa . Dù sao thì vẫn có
tác dụng giúp bạn đọc hiểu thêm.
Đau đầu
Bệnh đau đầu nhức nhói khó chịu, nhiều khi xông chườm đều
không khỏi. Phải tới các ông lang, các ông lang xem mạch, bốc thuốc. Cũng có
khi ông lang cho thuốc cao dán vào hai bên thái dương.
Đau răng
Ta thường nói "Thứ nhất đau mắt, thứ nhì đau
răng", chỉ giắt răng cũng đã khổ, đừng nói đến đau răng. Đau răng có thể
là mộng răng sưng lên, có khi là vì sâu răng..
Sưng mộng răng tức là sưng ở lợi, nơi răng mọc lên. Đối với
trẻ nhỏ, người ta dùng mật ong bôi vào, đối với người lớn có thứ thuốc riêng
xát vào. Hoặc cũng có khi dùng lá cao dán bên ngoài.
Sâu răng là chính những cái răng bị sâu, ngày xưa người ta
nhuộm răng và ăn trầu Xông
thì ít bị sâu răng, nên thỉnh thoảng có người bị sâu răng thì
thường dùng rễ một thứ cây rất đắng gọi là rễ Tế tân mà ngậm, hoặc
dùng thuốc bôi vào răng.
Xưa, có những người đi nhổ răng răng, họ thường bảo là trong
răn có con sâu ăn cho nên đau, họ bôi thuốc, cho ngậm thuốc một lúc nhổ ra sẽ
có những con dâu bò trong nước. Dân ta chất phác thường tin mấy ông thầy dạo
này. Có khi họ còn bôi vào răng một chất thuốc gì, rồi họ ghé mồm vào thổi mạnh
một cái, chiếc răng sâu rơi ra, nhưng thường những người nhổ răng dạo này, họ
chỉ nhổ những chiếc răng tiền hàm hoặc răng sữa của trẻ em, họ không dám nhổ những
răng hàm, răng cấm và răng nanh. Có lẽ họ có một “thuật” gì nên dân chúng rất
tin họ.
Đau mắt
Đau mắt, xưa thường dùng những thuốc cổ truyền trong có chất
xạ hương. Có người lại lấy chất hoàng liên tra vào mắt. Cũng có khi người ta
dùng cách xông để chữa mắt.
Người đau mắt, xưa thường đeo một màng che mắt bằng the hoặc
bằng vải thưa.
Cũng có người đánh mắt. Họ dùng cuống lá trầu không hoặc ngọn
thài lài chấm vào thuốc có chất xạ hương rồi họ vạch mắt người đau ra, khe khẽ
xát vào những đường trong mắt. Có người dùng đầu lưỡi đánh mắt cho nhau. Đây là
cách làm thiếu vệ sinh.
Ngoài ra, cũng có người dùng thuốc cao dán hai bên đuôi con mắt.
Ngày nay, đau mắt rất nhiều thuốc chữa. Xưa kia, nhiều người
thiếu thuốc đã bị “mục tật” vì đau mắt. cũng có người đau mắt chữa không phải
đường nên hoá ra toét mắt, và mọc lông quặm, tức là lông mắt mọc đâm vào mắt do
bệnh đau mắt hột sinh ra. Những người có lông quặm phải nhờ người nhổ, nhưng nhổ
chiếc này, chiếc khác lại mọc lên.
Đau bụng
Ta dùng từ đau bụng để chỉ chung tất cả các chứng đau
các bộ phận ở trong bụng như dạ dày, ruột, gan. v.v....
Có người đau bao tử, được mệnh danh là đau tức, lại có người
đau bụng kinh niên cũng vì bao tử hoặc vì đau ruột già. Các cụ xưa có một bài
thuốc trị đau bụng kinh niên dùng tới tám vị thuốc. Bài thuốc này rất được lưu
truyền, xin chép lại sau đây để bạn đọc rộng đường tham khảo:
1- Hột cà gai phơi khô: 2 lạng.
2- Hoàng đàn, tức là vỏ nhãn cạo hết vỏ vàng ngoài đi, chỉ
còn nhục thôi. Lấy nước vo gạo ngâm một đêm rồi ngày lại phơi khô. Phơi khô, 9
ngày như vậy rồi ngâm một lạng.
3- Qưế chi khâu giao: 5 đồng cân, gọt vỏ không sao;
4- Bách hợp hai lạng, quạt lò than để lên, trông thấy cháy hết
thì gặp ra, đừng để cháy xác quá. Sau đó cân lấy một lạng.
5- Mộc hương bắc: 3 đồng cân.
6- Hồi hương: 3 đồng cân sao qua.;
7- Bồ kết bỏ hột lấy toàn nhục, cũng đốt như bách hợp, 3 đồng
cân;
8- Đinh hương: 3 đồng cân sao qua.
Tất cả tám vị trên hợp lại tán nhỏ, rây kỹ rồi nhào với nước
cơm, viên ra thuốc tễ bằng hột đậu đen.
Lúc đói ăn 12 viên, ngày ăn hai lần.
Theo lời lưu truyền, bệnh nhẹ sau một tễ thuốc trên sẽ khỏi,
bệnh nặng cần phải 2 tễ.
Về chữa bệnh đau bụng, ca dao có câu
"Đau bụng lấy bụng mà chườm, Phong Tuc Tap Quan
Viet Nam
Nhược bằng không khỏi hắc hương với gừng
Theo câu ca dao này, nhiều khi đau bụng gọi là lên bão,
nhờ người khác áp bụng vào một lúc nóng bụng sẽ khỏi. Trẻ con lên bão, mẹ áp bụng
vào bụng con rồi người ta nhổ bão ở đầu tóc mẹ, con sẽ khỏi: “Nhổ
bão” nghĩa là tìm những mớ tóc trên đầu rồi giật mạnh, nghe những tiếng kêu “lắc
rắc”. Nhiều người đau bụng cũng dùng lối “nhổ bão” chữa.
Nếu đau bụng không phải là đau bão, thì uống hắc hương với gừng
là những vị thuốc nóng sẽ khỏi.
Nếu vì đi tả hoặcđi lỵ mà đau bụng thì lại có thuốc chữa bệnh
tả hoặc bệnh lỵ. Khi đau bệnh kiết lỵ thì dùng lá mơ lông ăn với trứng gà sẽ khỏi.
Nếu trẻ con dưới 12 tuổi bị đi lỵ, người ta dùng 3 đồng cân
khổ sâm tức lá có mẳn và 3 đồng cân hột vải trộn lại đem sao rồi sắc đặc cho uống
sẽ khỏi.
Ngoài vài môn thuốc kể trên về đau bụng, tất nhiên còn nhiều
môn thuốc khác nữa. Lại cũng có người mời ông lang cắt thuốc chén để uống, sau
khi bắt mạch để tìm hiểu căn bệnh.
Khản cổ
Bị khản cổ, người ta dùng rễ Sơn căn thảo quả hoặc quả Kha tử
ngậm thì khỏi.
Mụn nhọt
Mọc mụn nhọt ta thường dùng thuốc cao. Có hai thứ thuốc cao.
Lúc mụn nhọt mới mọc dùng thuốc cao tan dán vào chỗ mụn nhọt thành mủ,
rồi dùng Thuốc cao hút mủ dán vào để hút cho hết mủ ra.
Trẻ con có mụn nhọt, dùng hạt cải đắp vào, sẽ hút hết mủ.
Có khi người ta dùng hương hơ vào chỗ nhọt, nhọt sẽ thui đi.
Cũng có người uống thuốc bên trong cho độc tiêu đi, nhọt mụn
sẽ lặn.
Mụn nhọt thường mọc lên về mùa nóng. Để phòng ngừa mụn nhọt,
người ta thường dùng những đồ ăn, đồ uống có lương tính, ta gọi là mát như
đậu đen, rau má, v.v....
Lở, ghẻ
Đây là những bệnh ngoài da, mọc lên thành những mụn nhỏ.
Chữa bệnh ghẻ, có thuốc ghẻ trong có chất diêm sinh được dùng
để bôi vào các mụn ghẻ. Người ta còn khêu những mụn ghẻ ra để nhổ cái ghẻ,
vì chính cái ghẻ là vi trùng của bệnh ghẻ, lấy cái ghẻ đi, bệnh ghẻ sẽ khỏi.
Chữa bệnh ghể, cũng có thể dùng lá nghể răm đun nước tắm. Nước
lá nghể răm sẽ làm chết những vi trùng ghẻ.
Còn bệnh lở, người ta dùng chất Tam thiên đơn màu đỏ hoà với
thủy ngân để bôi.
Người ta cũng dùng các lá cây đắng như cây bồ cu về đun nước
để tắm trị lở. Có người lấy mực xanh bôi vào các chỗ chốc lở cũng trị được bệnh
này.
Quai bị
Mắc bệnh quai bị, người xưa có khi lại dùng chiếc quai bị cũ
hơ nóng xoa vào chỗ bị bệnh.
Lên ổ gà
“Lên ổ gà” tức là nổi hạch ở nách rất đau, người ta dùng quả
trứng luộc chín bóc ra còn nóng, ốp vào nách.
Trên đây là một số ít các bệnh tật thông thường được nêu lên
cũng như những cách chữa cổ truyền về các bệnh tật này, những cách này từ trước
vẫn được mọi người theo, còn sự hiệu nghiệm hay không, cũng còn tùy từng người,
tùy từng bệnh. Bạn đọc nên coi đây như những tài liệu để nghiên cứu và suy ngẫm,
còn việc chữa bệnh theo các lối cổ truyền này cũng nên hỏi lại nhiều người để
tránh mọi hậu quả nếu có sự lầm lẫn.
Ngoài các bệnh tật nêut rên, còn nhiều bệnh khác, các con bệnh
thường phải mời
các ông lang tới xem mạch cho đơn để chữa bệnh.
Đông y không phải dở, nhiều bệnh hiểm hóc, với thuốc Bắc, thuốc
nam, các ông lang đã chữa được và đã cứu được nhiều người.
Ta có câu: Đói ăn rau, đau uống thuốc, lâm
bệnh, lẽ tất nhiên phải tìm thầy chữa thuốc. Và khi chữa thuốc cần phải kiên nhẫn
bệnh mới khỏi được. Ít nhất thuốc phải dùng tới ba thang mới thấy sự hiệu nghiệm,
cũng như cơm phải ăn ba bát mới thấy no: cơm ba bát, thuốc ba thang.
Nếu thuốc thang, bệnh vẫn không thuyên giảm, con bệnh qua đời,
người xưa cho đó là “số mệnh”. Các ông lang thường nói:
"Chữa được bệnh, không chữa được mệnh!”.
TANG MA
Ta có câu "sinh tử hữu mệnh", sống chết
có số, và những người đau ốm, như chương trên đã nói, các thầy thuốc xưa "chữa được
bệnh, không chữa được mệnh", theo họ thì khi “số” đã đến thì không
thuốc thang nào chữa khỏi, và cũng không có sự cầu cúng lễ bái nào được hiệu
nghiệm.
Ở đời thì ai cũng phải chết, cái chết là một “ngưỡng cửa” mà
ai cũng phải bước qua để từ giã cõi đời.
Chết thì phải chôn, tất cả lễ nghi điều hành việc chôn cất
là tang lễ, và đám chôn người chết gọi là “đám ma” hoặc “đám xác”.
Việc tang đối với người Á đông rất quan trọng. Mạnh tử xưa dạy
rằng:
"Dưỡng sinh tang tử vơ hám, vương đạo chi thủy giả nghĩa
là đạo trị thiên hạ cần nhất là khiến dân nuôi người sống và tang người chết mà
không có điều gì di hám".
Việc ta được coi là quan trọng chính là vì sự liên quan giữa
người sống và người chết. Người sống xót thương người chết vì người chết chính
là người thân của người sống; người sống lại thờ kính người chết vì người chết
chính là cha mẹ tổ tiên người sống.
Cha mẹ sống phải phụng dưỡng, cha mẹ chết phải tang ma, việc tang
ma bắt đầu cho việc thờ phụng.
Cụ Dương Bá Trạc khi xưa bàn về tang lễ đã viết:
"Lễ tục nước ta trọng nhất là tang tế. Ngày nay tuy
phong hội đã đổi thay, công việc phiền phức, sự sinh hoạt của người mình phải tức
bực bộn bàng, thế tất phải theo thời biến thông, không thể nào câu thủ cổ lễ cả
được. Nhưng cái tang tế để ràng buộc cái lòng hiếu kính của người ta, dù bao giờ
cũng là những điều quốc túy rất hay, cần phải giữ gìn lắm... "
Tóm lại “tang lễ” là cần thiết và quan trọng đối với dân ta.
Tang lễ chấm dứt cuộc đời thể xác của con người để đưa con người vào cõi sống
vô hình. Có thể nói rằng tan lễ là cái gạch nối giữa thế giới hữu hình và thế
giới vô hình.
Việc tang lễ ngày xưa rất nhiều tập tục phức tạp. Ngày nay đã
giảm lược rất nhiều nhưng ta vẫn cần biết qua về những nét sinh hoạt xưa.
Ta thường nói "sống gửi thác về", phải chăng
chết rồi mới thật là “sống” ở một thế giới vĩnh viễn, và có lẽ phải chăng vì
quan niệm như vậy mà con người Việt nam không sợ chết, thản nhiên chờ cái chết
và đôi khi lại sửa soạn cho ngày chết nữa?
Các cụ già, thường sau khi ăn khao thượng thọ là nghĩ đến và
sửa soạn cho sự chết. Các cụ sắm sẵn cỗ hậu, và ở những gia đình khá
giả, các cụ lo xây sinh phần, miền Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Nam gọi là kim tĩnh.
Cỗ hậu còn được gọi là cỗ thọ, chính là cỗ
áo quan sau này các cụ sẽ nằm vào đó để con cháu đưa tới chỗ yên giấc ngàn thu.
Sở dĩ cỗ áo quan được gọi là “cỗ hậu” , vì nó dùng về sau khi các cụ đã qua đời.
Có nơi gọi là cỡ “hậu sự”. Còn từ “cỗ thọ’ để chỉ sự sống lâu của các cụ, khi
các cụ dùng đến cỗ thọ, tuổi các cụ đã già. Hơn nữa, cũng gọi là cỗ thọ vì ở đầu
áo quan thường có khắc chữ thọ.
Lo lắng “cỗ thọ” cho mình, các cụ thường chọn thứ gố qúy.
Trong khi các áo quan thường đóng bằng gỗ gạo ở miền Bắc, gỗ dầu ở miền Nam,
các cụ thường lựa gỗ vàng tâm, gỗ này rất tốt, chôn dưới đất ẩm ướt không
bị mục, và do đó xương cốt không bị hư hại.
Các cụ cho sơn son thiếp vàng để trang hoàng cho cỗ tho, và về
sau nhiều cụ dùng xi đánh bóng, hàng ngày các cụ tự trông nom lấy, giữ cỗ thọ
khỏi bị mọt hoặc có khe hở.
Cũng có cụ nghĩ tới cả chiếc quách bọc ngoài áo
quan và đồ khâm liệm khi các cụ lâm chung.
Các cụ cho in trong quan ngoài quách dấu hải hội tức
là dấu của nhà Phật với sự tin tưởng là sau này khi trăm tuổi các cụ vào nằm
trong đó sẽ được sự yên tĩnh về tâm hồn.
Lo cỗ thọ mới chỉ là một việc, các cụ còn lo tới cả ngôi huyệt
tương lai của mình nữa, do đó mới có việc xây sinh phần.
Các cụ hoặc nhờ thầy địa lý hoặc tự đi tìm lấy một ngôi đất
làm chỗ yên giấc nghìn thu của mình, kén đất, định hướng để sau này linh hồn
các cụ được thư thái và con cháu các cụ được hơn người.
Chỗ đất các cụ đã chọn, các cụ xây “sinh phần”.
Xây sinh phần cũng như sắm cỗ thọ, bao giờ các cụ cũng xây
đôi và sắm đôi, dành cho cả cụ ông lẫn cụ bà.
Những cỗ thọ đã sắm sẵn thường được kê dưới gần bàn thờ để chờ
khi dùng đến. Tuy cỗ thọ tượng trưng cho sự chết, nhưng cỗ thọ kê ở dưới bàn thờ
không bao giờ gợi lên ý tưởng kinh sợ như đối với các dân tộc khác.
Sống thì phải lo đến sự chết, người biết lo xa phải biết lo tới
những giây phút cuối cùng của mình, và sẵn sàng đón nhận cái chết theo quy luật
chung.
Các cụ thuật lại rằng, nhữnt cỗ thọ kê sẵn, nếu đêm hôm trước
có những “tiếng động” phát ra ầm ỹ, ngày hôm sau, chủ nhân cỗ thọ thế nào cũng
qua đời. Đây chỉ là một sự suy tưởng chiêm nghiệm, và chủ nhân các hàng xăng
(hòm) cũng nói rằng đêm hôm trước cỗ hòm nào phát ra “tiếng động” thì ngày hôm
sau thế nào cũng có người tới mua đi.
Có sống thì có chết. Sinh thì dưỡng, tử thì táng, đó chỉ là lẽ
thông thường, người hiểu biết, về già có ai sợ chết.
Về tang lễ cũng như về phần nhiều các lễ nghi khác, dân Việt
Nam ta, vì chịu ảnh hưởng văn hoá của người Trung hoa, nên được cử hành theo
phong tục nhưng đã được Việt Nam hoá, có ghi chép trong "Thọ Mai
gia lễ" và trong "Gia lễ chỉ nam". Ngày nay
lễ nghi đã giảm đi rất nhiều, chỉ còn giữ lại những lễ chính để người con hiếu
có thể qua những lễ này tỏ bày lòng hiếu kính và sự thương xót của mình.
Lúc lâm chung
Nếu người bệnh sức lực càng suy yếu, bệnh tình càng trầm trọng
và xem chừng không thể qua khỏi được, ấy là người bệnh đang hấp hối.
Lúc này, con cháu phải đem người bệnh ra giữa nhà, đầu người
bệnh đặt về hướng Đông, để chứng tỏ rằng cha mẹ chết vì lẽ quang minh chính
đáng.
Sau đó mọi người trong nhà phải im lặng, để xem người bệnh có
trối chăng điều gì. Có khi người bệnh nói không ra tiếng, con cái phải ghé tai
để lắng nghe những lời cuối cùng của người sắp chết, những lời này đều được ghi
chép đề sau này cố tuân theo.
Sau đó con cháu hỏi xem người bệnh có tự đặt lấy tên
thụy còn gọi là tên hèm, tức là tên sau này dùng để khấn khi cúng giỗ.
Tên này còn được gọi là "tên cúng cơm".
Nếu người bệnh không tự đặt lấy tên cúng cơm, vì quá suy yếu,
hoặc vì mê man, con cháu phải tìm tên đặt rồi báo cho người biết. Tên đàn ông
dùng chữ Trung, chữ Trực, tên đàn bà dùng chữ Trinh, chữ Thuận.
Đồng thời con cháu cũng dùng trầm hương lau rửa sạch sẽ cho
người bệnh và thay quần áo sạch cho người. Thường, người ta mặc cho người bộ quần
áo lễ hoặc bộ quần áo mới nhất của người ưa dùng .
Con cháu phải cắt canh nhau ngồi bên cạnh người bệnh để chờ
giây phút cuối cuồng của ông chao. Nếu người bệnh lịm đi, phải lấy bông hoặc
nén hương đang cháy đặt vào trước lỗ mũi, hễ bông hoặc khói hương không động đậy
nữa tức là người bệnh đã qua đời. Lúc đó, người canh chừng cầm chiếc đũa đặt
ngang mồm người chết để "cài hàm" cho hai hàm răng khỏi
nghiến vào nhau.
Tục cũ, trước khi người bệnh tắt thở, phải lấy một miếng lụa
hoặc vải trắng dài 7 thước để lên mặt, sau kết thành hình người gọi “hồn bạch”
để hồn người chết nhập vào đó.
Người canh chừng phải biết đúng giờ người chết qua đời để còn
nhờ các thầy Tự, thầy Pháp xem ngày bấm giờ, ngõ hầu biết người qua đời chết được giờ lành hay
gặp phải giờ dữ, có trùng tang, có quỷ tinh ám ảnh
gây tai hại chết chóc cho con cháu. Gặp trường hợp “giờ dữ”, tang chủ phải mời
các thầy phù thủy “yểm phép” cho bùa để tống thần trùng, đuổi quỷ
tinh. Bùa này dán ở áo quan hoặc chôn ở chung quanh mộ..
Khi người bệnh chết hẳn, người nhà khiêng xác đặt xuống đất
trong giây lát rồi lại khiêng lên giường có ý để cho người chết hấp thụ sinh
khí may ra có sống lại.
Trong “Việt Nam Phong Tục” Phan Kế Bính cho rằng việc đặt người
chết xuống đấy là lấy nghĩa: Ta bởi đất mà sinh ra, khi chết lại trở về đất.
Khi người chết được khiêng trở lại lên giường rồi, con cháu
phải có miếng vải hoặc giấy đắp mặt cho người chết. Ý nghĩa là để người chết khỏi
“thấy” con cháu buồn.
Khi người bệnh đã chết
Người bệnh đã chết hẳn, lúc ấy người nhà chiêu hô, tức
là hô to để “gọi” người chết. Người con trai cầm lấy áo của người chết, tay
trái cầm cổ áo, tay phải cầm vạt lưng áo, leo lên mái nhà, gọi lên ba lần: "Ba
hồn bảy vía cha đâu về với con" hoặc "Ba hồn chín
vía mẹ đâu về với con". Gọi xong tụt xuống bằng lối sau, bước vào nhà
treo chiếc áo lên cửa.
Sự “chiêu hô”, người ta hy vọng lời kêu gọi của con cái sẽ
khiến cha mẹ động lòng quay trở lại dương trần (!).
Chiêu hô rồi, người nhà mới khóc lóc. Lúc này, mọi người mới
thật hết mọi hy vọng người chết sống lại.
Lễ chiêu hồn
Con cháu cử hành “lễ chiêu hồn” để hồn phách người chết về hưởng
sự cúng bái tế lễ của con cháu.
Có hai cách chiêu hồn:
- Hoặc dùng một tàu lá chuối róc hết lá. Một thầy Tự đọc chú
mời hồn người chết nhập vào đó. Một miếng vải trắng trên đó thầy Tự đã ghi bùa
được gắn vào tầu lá chuối. Bao giờ nhập quan đem ra thờ. Phong Tuc Tap Quan
Viet Nam
- Hoặc thắt hồn bạch, bằng tấm vải loại dài 7 thước nói
trên (7 thước ta tính thành 2 thước 80 ngày nay). Tấm vải được thắt thành hình
người đem ra thờ khi thể xác đã nhập quan.
Chiêu hồn xong, tang gia lập tang chủ thường là người
con trưởng để tham dự mọi việc tế lễ.
Lại phải cử một người hộ lễ để chỉ bảo mọi người
nghi thức về tang lễ. Thường là một người thân trong nhà hoặc một bạn bè thạo về
nghi lễ.
Lễ mộc dục
Đây là “lễ tắm” cho người chết trước khi nhập quan.
Trong lễ này phải có 1 con dao, 1 vuông vải, 1 sợi dây, 1 cái
lược thưa, 1 cái gáo múc nước hoặc 1 cái thìa, ít đất lấy ở đít ông đồ rau, 1 nồi
nước ngũ vị và 1 nồi nước nóng khác. Nồi nước ngũ vị nấu bằng 5 vị sau đây: Bạch
đàn, tùng diệp, quất diệp, mộc hương diệp, và đỗ diệp.
Lúc tắm phải quây màn cho kín. Tang chủ vào quỳ xuống khóc mà
khấn xin tắm gội để rửa hết bụi trần.
Khấn rồi, tang chủ lễ rồi đứng lên cho ngay. Việc tắm gội phải
do chính con cái người chết: Cho do con trai tắm, mẹ do con gái tắm.
Lúc tắm lấy vuông vải nhúng vào nước ngũ vị lau mặt, rồi lau
mình, đoạn lấy lược chải tóc, rồi dùng sợi dây buộc tóc lại. Kế lau đến hai
chân, hai tay, rồi dùng dao cắt móng tay, móng chân, người xưa nhất là các cụ
ông thường để móng tay dài, hơn nữa trong lúc ốm đau, móng chân, móng tay mọc
dài ra. Cắt xong gói lại, móng chân để dưới mé chân, móng tay để mé dưới tay.
Tất cả các đồ dùng trong lễ “mộc dục” kể cả nước nữa phải đem
chôn đi.
Lễ mộc dục xong, lại khiêng người chết lên giường.
Lễ phạn hàm
Đây là lễ bỏ tiền và gạo nếp vào mồm người chết.
Lấy một ít gạo nếp và 3 đồng tiền mài cho sáng, bỏ vào miệng
người chết rồi rút chiếc đũa ngáng hàm ra.
Các cụ giải nghĩa rằng:
Nắm gạo để người chết dùng thay bữa, còn ba đồng tiền sẽ dùng
để “đi đò” cùng là tiền “giải khát” trong lúc đi đường ở cõi âm.
Những gia đình phú quý thường dùng 3 miếng vàng sống và 9 hạt
ngọc trai trong lễ “phạn hàm”.
Lễ phát mộc
Lễ Phát mộc là lễ chém vào áo quan để trừ ta mà,
theo quan niệm cũ.
Người xưa tin rằng trong chiếc áo quan, dù là cỗ hậu sự sắm
trước, hay cỗ áo quan mua ở hàng về, đều có quỷ tinh lẩn khuất để ám ảnh người
chết, gieo tai hoạ cho tang gia. Bởi vậy trước khi làm lễ nhập quan phải khử trừ
hết lũ ma quỷ đó bằng lễ “phát mộc”, chém vào áo quan ba nhát.
Người thầy Tự cầm một nắm hương đang cháy, đọc chú, thư phù
trên một con dao, rồi dùng dao này chém khẽ vào đầu, cuối và bên cạnh, bên
trong áo quan tất cả ba nhát. Vừa chém người này vừa “niệm chú”, đại ý câu chú
là “tống khứ các thầnt rùng, quỷ tinh và mọi loại tà ma không được phiền hà người
chết và quấy nhiễu người sống bất cứ ở tuổi nào đi phương hướng nào”. Chú có
lúc niệm khẽ, có lúc quát tháo để thị uy. Người thày Tự cũng dùng những nén
hương để phù phép trong lòng áo quan.
Tục còn cho rằng, ngoài việc đuổi thần trùng và quỷ tinh, lễ
phạt mộc còn có mục đích đuổi các mộc tinh vẫn ẩn nấp trong cây gỗ từ khi còn ở
trong rừng cho đến khi cây gỗ bị hạ rồi xẻ đóng làm áo quan, còn lẩn khuất
trong áo quan.
Khi lễ “phạt một” kết thúc, người nhà tang chủ ném một nắm gạo,
muối ra đường để tống tiễn mọi loại ma quỷ, kể cả mộc tinh.
Lễ khâm niệm
Đây là lễ đội khăn, quấn vải cho người chết.
Khâm chính nghĩa là mảnh vải bọc thây người chết. Trong
lễ khâm liệm thì khâm là đội khăn, lấy luạ hoặc bông đút nút lỗ tai, rồi lấy
hai miếng lụa trong đỏ ngoài đen, mỗi miếng dài 1 thước 2 tấc ta tức 44 phân
ngày ngày nay, giữa để ít bông, khâu giáp lại, bốn góc có khâu giải, đậy lên mặt
người chết rồi buộc đằng sau cho chặt.
Lại lấy giấy gấp vuông thật dày để vào lòng bàn tay cho các
ngón tay đều duỗi ra, lấy dải buộc chặt lại, sau đó lồng vào một chiếc bao; bàn
chân cũng vậy. Rồi lại mặc quần áo như lúc sống.
Hai tay đã lồng trong bao để duỗi thẳng áp vào hai bên
đùi, rồi dùng dải thắt ngang lại cho chặt.
Liệm nghĩa là mặc quần áo mới cho người chết. Mặc quần
áo như vậy là tiểu liệm, còn lấy vải bọc mình người chết gọi là đại liệm.
Trong công việc liệm người ta dùng một tấm vải hay lụa bọc
dài suốt người còn thừa thì trùm chân và ba mảnh ngang làm đai thắt, như vậy là
“tiểu liệm”, hoặc năm tấm ngang là “đại liệm”.
Khi bắt đầu khâm liệm tang chủ cũng quỳ khấn để xin khâm liệm.
Lễ nhập quan
Lễ đặt người chết vào trong áo quqan gọi là lễ nhập
quan. Theo tục ta xưa, trong quan tài thuờng đặt một mảnh ván đục sao Bắc
đẩu để trừ tà ma. Việc “nhập quan” phải chọn giờ, tránh tuổi. Trong ngoài áo
quan đều có dán bùa. Người ta thường bỏ vào áo quan một cỗ tổ tôm cũ, một quyển
lịch Tàu, hoặc quyển lịch ta có đóng dấu triều đình càng hay, hoặc một tàu lá gồi
để “trấn áp” ma quỷ.
Trước khi “nhập quan”, trong áo quan thường có rải một lượt
trà khô, bỏng gạo hoặc bất cứ thứ gì khác có thể hút nước được của người chết
tiết ra.
Khi “nhập quan”, con cái sắp hàng quỳ ở trước quan tài để
khóc và lễ. Những người giúp việc cũng quỳ với tang chủ ở đàng sau, rồi tang chủ
khấn xin “nhập quan”.
Tang chủ khấn xong lễ một lễ rồi đứng lên. Con cháu phân nam
nữ đứng sang hai bên, trai bên trái, gái bên phải. Những người giúp việc khiêng
xác bỏ vào quan rồi khiêng ra đặt ở giữa nhà, đầu hướng về Nam.
Bắt đầu từ lúc “nhập quan”, con cái khóc lóc.
Trước khi khiêng quan ra gữa nhà, những người giúp việc xem
xét chỗ nào hở thì lấy giấy hoặc quần áo cũ của người chết độn vào cho kín, đoạn
đậy nắp áo quan lại gắn sơn đóng đinh cho kín.
Khi đã rước quan ra giữa nhà rồi, con cháu phải trải rơm
ở hai bên linh cữu, thay phiên nhau ngồi hầu suốt đêm ngày.
Trên nắp linh cữu lúc đó có bát cơm và quả trứng luộc gọi
là cơm bông.
Lễ nhập quan rồi, nhưng chưa phát tang. con cháu được phép lấy
vợ, lấy chồng gọi là “cưới chạy tang”.
Kể từ lúc người chết tắt thở cho đến khi đưa đám, linh cữ còn
quàn ở trong nhà, người nhà phải luôn luôn canh chừng, để không cho một sinh vật
nào, (mèo, chó, chuột) nhảy qua để tránh "quỷ nhập tràng".
Người xưa, tin rằng, một sinh vật nào nhảy qua xác chết, nó sẽ
mang theo “quỷ” để nhập vào người chết, tức là “quỷ nhập tràng”. Người chết sẽ
vùng “đứng dậy”. Lại cần phải có pháp sư để trừ quỷ. Phong Tuc Tap Quan Viet
Nam
Lễ thành phục
Lễ này tức là lễ để con cháu bắt đầu mặc tang phục. Lễ này gồm
có:
- Thiết linh sàng và linh toạ.
- Lập minh tinh
- Mặc tang phục.
Thiết linh sàng và linh toạ
Linh sàng là giường dành cho vong hồn người chết .
Khi đặt linh cữu đã yên, là lễ thiết linh sàng và linh
toạ: Nhà giàu có phong lưu thì đặt linh sàng ở phía Đông có đủ mùng màn; nhà
nghèo túng chật hẹp chỉ đặt linh toạ ở trước cữu.
Mỗi sáng và mỗi tối, tang gia làm lễ "chiêu tịch điện" để
mời vong hồn dậy ăn và mời vong hồn đi ngủ.
Lập minh tinh
Trước khi phát tang, có lễ lập minh tinh. "Minh tinh là
một thứ cờ làm biệt hiệu của người chết. Cờ ấy làm bằng lụa đỏ có chữ tên họ
cùng thụy hiệu và chức tước phẩm hàm của người chết viết bằng phấn trắng".8
Cũng có thể làm bằng cànht r dựng bên phía đông linh sàng.
Trên minh tinh phải tính số chữ theo bốn chữ: Quỷ, khốc,
linh, thính, đừng để chữ cuối cùng rơi vào hai chữ quỷ và khốc e
có tà ma trùng quỷ hoặc có thêm người chết.
Các cụ ta xưa, nhiều khi biết mình sắp chết thường tự viết lấy
minh tinh. Cụ Phan Thanh Giản trước khi tự sát đền nợ nước cũng đã viết minh
tinh lấy. Cụ viết như sau:
"Hải nhai lão thư sinh tánh Phan chi cữu”
Nghĩa là:
"Linh cữu của học trò già nơi ven biển họ Phan” 9
Về minh tinh chính tay cụ Phan viết lấy, cụ không dùng hai chữ phủ quân.
Đây chính là sự nhũn nhặn khiêm tốn của các nhà nho ta xưa.
Mặc tang phục
Minh tinh đã lập rồi, mới đến phần chính của lễ thành phục
để con cháu mặc tang phục.
Các mũ áo, đồ tang đặt trước án thờ, nến hương nghi ngút. Con
cháu và thân quyến người chết cứ theo ngũ phục, nghĩa là năm độ xa gần
quyến thuộc mà mặc đồ tang, rồi quỳ lạy khóc lóc trước bàn thờ.
8 Đào Duy Anh, - Việt Nam Văn Hoá sử cương, trang 194
9 Tài liệu của Lãng Nhân trong “Giai thoại Làng Nho”.
Trong các lễ về tang ma thường người chủ tang đều phải khấn
khứa và mỗi lễ nếu tế lại có văn tế riêng, tế theo nghi thức cổ truyền có kèn
trống.
Phường kèn trống
Sống dầu đèn, chết kèn trống. Câu này chứng tỏ trong
đám tang phải có kèn trống, và kèn trống đây tức là nhạc , mà nhạc thì
bao giờ cũng cần cho lễ nghi.
Trong đám tang ông già bà cả thường có phường kèn trống,
trừ những người gia đình quá túng thiếu hoặc trong những trường hợp bất khả
kháng.
Kèn trống nổi lên trong lúc tế lễ cùng với phường bát âm nối
điệu nam thương hoặc nam ai, đem sự bi thảm cho đám tang và
điều hoà mọi công tác của tang chủ cũng như các chấp sự viên.
Mỗi khi có người tới phúng viếng, con cháu khóc lên là có điệu
kèn trống nổi theo, như muốn báo cho người chết biết có bạn bè thân thuộc tới
viếng lễ.
Và cũng nhờ có kèn trống báo hiệu nên tang chủ và con cháu
người chết, đang lúc mắc bận mới biết có người tới viếng.
Phường kèn trống ngồi ở một nơi gần áo quan, mỗi khi khách tới
phúng viếng là thấy ngay.
Phúng viếng
Bạn bè thân thuộc của người chết hoặc của con cháu người này,
khi nhận được “hung tin” tới chia buồn cùng tang quyến và phúng viếng hoặc phúng điếu nghĩa
là đem lễ vật tới hỏi thăm nhà có tang.
Người chết sau khi đã nhập quan và tang chủ đã làm lễ ‘thành
phục”, con cháu khóc lóc, bạn bè thân thuộc mới bắt đầu tới phúng điếu. Trước
đó, cũng có người tới, nhưng chỉ là để hỏi thăm và chia buồn cùng tang chủ chứ
chưa có lễ viếng và cũng chưa lễ trước linh cữu.
Lễ phúng viếng thường là trầu cau, trà rượu, hoặc những tay
văn tự thì dùng những bức trướng hoặc những câu đối, trong nêu lên những đức
tính tốt của người chết.
Con cháu cũng có câu đối để khóc ông bà cha mẹ. Những trướng
đối của bạn bè thường làm bằng lụa, bằng da màu xanh, vàng, trắng, còn những
câu đối của con cháu chỉ viết bằng chữ xanh hoặc bằng chữ đen trên vải trắng.
Ở thôn quê, người trong làng xã thường dùng tiền để phúng viếng,
một cách trực tiếp giúp đỡ thiết thực tang chủ trong lúc cần thiết.
Tang gia có người ghi tất cả những đồ viếng của mọi người, để
sau này tang chủ theo đó mà cám ơn, hoặc khi một người khác có việc thì phúng
viếng giúp đỡ lại.
Khách đến phúng viếng lễ trước linh sàng hai lễ rưỡi nếu
người chết còn quàn tại nhà, lễ bốn lễ rưỡi nếu đám tang đã cử hành và lễ chôn
cất đã xong.
Khách lễ linh sàng, tang chủ hoặc con cháu khác của người chết
phải đáp lễ, nghĩa là lễ lại khách.
Phải đáp lễ một nửa số lễ khách lễ người khuất, khách lễ hai
lễ đáp lại một lễ, khách lễ bốn lễ đáp lại hai lễ.
Lễ xong linh sàng, khách cũng vái lại người đáp lễ mình.
Trong lúc khách lễ có kèn tróng và con cháu khóc lóc.
Về lễ phúng điếu, trong những năm gần đây, theo người Âu, các
thị dân dùng hoa tươi hoặc hoa cườm để viếng. Lại cũng có người đăng báo phúng
điếu và chia buồn cùng tang quyến.
Báo tang
Thực ra ta không có lệ báo tang. Khi một người chết, người
thân thuộc biết tin nói chuyện cùng người khác, thế là chỉ một buổi sáng, cả
làng đều biết, và không ai bảo ai, người ta đều đi hỏi thăm tang quyến. Phong
Tuc Tap Quan Viet Nam
Tang chủ chỉ cần trình với hội đồng hương chức để xin phép động
thổ đào huyệt.
Theo tục lệ sau này, nhiều người có giấy “cáo phó” hoặc đăng
“cáo phó” trên báo, rồi khi tang lễ xong lại có giấy cám ơn từng người hoặc
đăng báo cám ơn những người đã phúng điếu, đưa đám, chia buồn, v.v....
Thổi kèn giải
Phường kèn xưa thường có những bài riêng để con khóc cha, vợ
khóc chồng, anh em khóc nhau, cháu khóc ông bà v.v.....
Trong khi người chết còn quàn tại trong nhà, con cháu thường
thuê phường kèn trống và bát âm cử những bài để khóc ông bà, cha mẹ, anh chị
em, v.v... Mỗi câu khóc riêng thường có tiền thưởng. Điệu nhạc này rất buồn.
Lễ chuyển cửu và yết tổ
Đây là một lễ trọng hơn các lễ khác và đầy ý nghĩa.
Trước khi rước linh cữu ra đồng an táng, cữu được rước tới từ
đường để yết tổ. Tại đây người trưởng tộc thắp hương để khấn với tổ tiên
báo tin người chết tới yết tổ.
Tại những gia đình nghèo, nhà thờ chật hẹp, tang chủ có thể
chỉ rước “hồn bạch” tới yết tổ, hoặc người chết có phẩm tước thì rước mũ áo đại
trào tới.
Yết tổ xong, linh cữu lại được khiên về chỗ cũ.
Chuyển cửu có nghĩa là xoay lại quan tài. Tại những gia
đình không có nhà thờ tổ riêng, tang gia chỉ xoay quan tài đi một vòng rồi lại
đặt về chỗ cũ, động tác này nói lên sự yết tổ của vong hồn người khuất.
Trong lễ chuyển cữu, thường việc xê dịch linh cữu phải do
toàn con cháu trong nhà, có ý con cháu nâng giấc người khuất như hầu hạ khi còn
os61ng.
Nghi thức chuyển cửu
Lễ chuyển cữu và yết tổ là lễ quan trọng trong tang lễ, do đó
xin trình bày dưới đây nghi thức về lễ này để bạn đọc hiểu thêm.
Lễ này do tang chủ đứng chủ lễ theo sự điều khiển của người hộ
lễ, đúng các tập tục sau:
Con cháu lúc đó đã tụ tập ở trước từ đường. Một người chấp
xướng.
- Tự lập: Tang chủ bước vào trước án từ đường. Con
cháu khác đừng đàng sau, hoặc ở hai bên mé trước án thờ.
-Cử ai: Con cháu đều khóc.
- Ai chỉ: Thôi khóc.
-Giải quy: Tất cả đều quỳ xuống.
- Quán tẩy chấp sự: Những người chấp sự rửa tay trong một
thau nước, hoặc dùng rượu xoa tay và mặt.
- Châm tửu: Một người chấp sự rót rượu.
- Hiến tửu: Qùy dâng rượu.
- Chúc cao văn: Tang chủ qua bên hữu khấn : “Sắp rước
linh cữu ra nhà mồ, nay đến yết tổ, cẩn cáo”.
- Phủ phục: Tang chủ lễ hai lễ. Con cháu khác lễ theo.
- Hưng, bình thân: Tang chủ đứng ngay người lên. Con
cháu khác cũng đứng lên.
- Điểm trà: Một chấp sự viên dẫn nước trà lên án. Tang
chủ lùi bước ra ngoài.
- Phụng hồn bạch thăng xa: Người nhà bưng hồn bạch lên
kiệu.
Nghi thức yết tổ
Lúc kiệu đi, con cháu đi theo khóc. Lúc kiệu đến, thì đỗ trước
sân nhà thờ tổ về phía Tây trong sang hướng Đông. Đợi trong nhà thờ khấn xong,
bưng hồn bạch vào. Bấy giờ các chấp sự viên với chủ tang vào trong nhà thờ. Ở
đây, phải theo nghi lễ sau:
Chấp sự viên xướng:
- Tựu vị: Tang chủ mỗ gậy bước vào trước án từ đường.
- Cúc cung bái: Lễ hai lễ.
- Hưng, bình thân: Đứng lên.
- Châm tửu: Một chấp sự viên rót rượu dẫn lên.
- Chúc cáo văn: Tang chủ quỳ bên tả khấn: “Cháu vì cha hoặc mẹ
mất, nay đưa ra nhà mồ, lấy lòng cung kính, xin đem yết tổ, cẩn cáo”.
- Phủ phục: Lễ bốn lễ.
- Hưng, bình thân: Đứng lên, bước ra đứng bên cạnh xe hồn
bạch.
- Thỉnh linh bạch nhập từ đường: Người nhà bưng hồn bạch
vào, con cháu tất cả theo vào đứng bên.
- Cúc cung bái: Lễ bốn lễ (Bốn lễ này thay cha hoặc mẹ mới
chết).
- Bình thân tiểu cước: Tang chủ lùi một bước rồi lễ bốn
lễ nữa. (Bốn lễ này là của Tang chủ, cháu lễ tổ).
- Lễ tất: Lễ xong.
- Thỉnh nghênh linh bạch hoàn cựu sở: Hồn bạch lại được
rước ra linh xa.
Tang chủ và con cháu khóc lóc rước đi.
Phát dẫn
Ngày đưa ma gọi là ngày đưa đám hoặc ngày phát dẫn.
Trước khi đưa đám con cháu làm lễ khiển điện, tức
là đến lễ người chết lần cuối cùng để từ biệt.
Cũng có lễ cúng Lộ thần để xin phép cho đám
tang lên đường.
Linh cữu được rước lên đại dư, tức là cỗ đòn, hoặc xe tang. Một
chiếc nhà táng phủ lên trên áo quan. Chiếc nhà táng mang hình ngôi nhà hoặc chiếc
thuyền bát nhã.
Cỗ đòn do các đô tùy khiêng. Ở thành thị dùng xe tang hoặc do
ngựa kéo, hoặc là xe hơi.
Bà con họ hàng, bạn bè và con cháu đều đi đưa.
Cha chết con trai chống gậy tre đi trước hoặc đi
sau tùy tục địa phương. Đúng ra thì cha đưa, mẹ đón, nghĩa là đám
tang cha, con đi theo sau áo quan, còn đám tang mẹ, con chống gậy đi trước. Mẹ
chết con trai chống gậy vông.
Cây tre tượng trưng sự cương trực của người cha, còn gậy vông
tượng trưng nết thuần hậu của người mẹ.
Nếu người con trai nào đã chết trước đi rồi, con người này phải
chống gậy thay cha, nếu có người con trai nào đi vắng, mũ gậy sẽ đặt ở trên đầu
đòn.
Người chết không có con trai, việc chống gậy do người ăn thừa
tự đảm nhiệm.
Trong lúc đám tang đi đường, con gái, con dâu, lăn đường
khóc lóc. Các cháu chắt, chị em gái, chị em dâu, cũng khóc lóc đi theo đám
tang.
Một vài người thân thích đi kèm linh cữu gọi là “hộ tang”,
cũng như ngày nay mấy người bạn thân cầm chiếc dây xe tang đi bên linh cữu vậy.
Những người khác đi đưa, đi đằng sau gọi là “tống tang”.
Nghi trương đi đường
Một đám tang theo đúng tục lệ với đủ lễ nghi thuở xưa, trong
lúc phát dẫn được dàn theo nghi thức sau đây:
1 – Đi đầu là hai Phương tướng bằng giấy, cốt
tre đan, có bốn mặt hình dung dữ tợn, cầm gươm giáo. Đây là hai thần tướng đuổi
tà ma trong lúc đi đường. Có khi phương tướng này được thay bằng hai người thật,
mặc quần áo có bùa dấu, đeo mặt nạ, tay cầm khí giới để dẫn đạo đám tang.
Có nhiều đám tang dẫn đầu không phải là hai phương tướng mà
là bốn thiên tướng và một vì Thần hổ, do một đoàn hát bội đóng. Ta gọi đây
là Phường tuồng dẫn đường Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
trị huyệt.
Bốn vị phương tướng và Thần hổ đi đầu có những điệu múa và những
câu hát. Điệu múa là “bùa phép”, và câu hát là “câu chú” trấn an dọc đường, xua
đuổi tà ma.
Tới huyệt, vị Thần hổ và 4 thiên tướng lại nhảy múa chung
quanh huyệt để “vẽ bùa” và “yểm chú”.
Sau khi “vẽ bùa”, “yểm chú” khắp nơi huyệt và chung quanh,
năm người đóng vai trị huyệt này đều vội vã bỏ ra về, mỗi người đi một đường,
mà không ai trở lại con đường lúc đi. Tục cũ tin rằng những tà ma, trùng quỷ bị
xua đuổi ở dọc đường cũng như ở ngôi huyệt, căm giận mấy vai phường tuồng,
chúng họp nhau đón đường để “trả thù”.
Những vai phường tuồng này, khi về đến nhà cũng vội vàng thay
quần áo, rửa mặt cho hết nét vẽ để trở lại người thường ngay, ý hẳn tránh sự
“báo thù” của ma quỷ.
2 – Sau hai phương tướng là Thế kỳ. Đây là một
bức hoành có treo đôi đèn lồng để chức tước và huy hiệu của người chết. Trên thế
kỳ viết bốn chữ "Hổ sơn vân ám" nghĩa là Núi hổ mây
che hoặc "Dĩ lĩnh vân mê" nghĩa là Núi Lĩnh
mây mờ, tùy theo người chết là cha hay mẹ tang chủ.
3 – Thứ ba là Minh tinh đặt trên bàn thờ con cháu
và bạn bè phúng điếu.
4 – Sau minh tinh là đối tướng của con cháu và bạn
bè phúng điếu.
5 – Kế đến là một hương án bày giá hương, độc bình,
mâm ngũ quả, có khi thêm đèn nến thành một bộ “ngũ sự” hoặc “thất sự”.
6 – Sau hương án là thực án, tức là các hương án trên có
bày đồ lễ: lợn quay, xôi gà, bánh trái, hoa quả, v.v...
7 – Phường kèn và phường bát âm
8 – Các đồ minh khí gồm biển đan, triện, đèn
lồng. Biển, đan triện bằng gỗ hoặc bằng giấy, trên có viết hai chữ Trung
tín nếu là đàn ông, Trinh thuận hoặc Trinh tiết nếu là
đàn bà.
9 – Linh xa, có rước hồn bạch. Ngày nay trên linh
xa có đặt ảnh người qua đời. Thời trước, những người có chức tước trên linh xa
có mũ áo đại trào. Có khi mũ áo được rước riêng trên một chiếc kiệu.
10 – Cờ cônb bố, đèn chữ Á và nếu có
mũ áo đại trào của người chết, các nghi trượng sự thần gồm cờ, quạt, tàn, lọng,
đồ lộ bộ, chiêng, trống, võng, lọng và có cả trống lớn, - những nghi trượng này
chỉ dành cho những người có chức tước.
Các gia đình thường chỉ có phường kèn và “phường bát âm”
nói trên.
11 – Đại dư rước linh cữu.
12 – Sau linh cữu là các con cháu đi tống táng có chiếc màn
trắng gọi là Bạch mạc hoặc phương du để che mưa nắng.
13 – Sau nữa, nếu người chết là một Phật tử, có long kiều còn
gọi là cầu bát nhã do các vãi đội vừa đi vừa tụng kinh để cầu cho
vong hồn người chết khuất sang Tây phương cực lạc.
Có khi có một vài nhà sư đi sau long kiều. Sau này tại các đô
thị ta thấy các nhà sư dẫn đầu đám tang.
14 – Nối tiếp long kiều, là bạn bè và những người thân đi đưa
đám.
Trong lúc đám tang đi đường có rắc vàng thoi và vàng giấy,
tục cho rằng có ma quỷ níu vào quan tài, phải rắc vàng để tống khứ chúng.
Tất cả nghi trượng trên là của một đám tang gia đình phong
lưu, đối với những gia đình thường có nhiều điều tỉnh giảm, và thường chỉ gồm mấy
thứ minh tinh, nhà táng, đèn biển sơ sài, lác đác vài câu đối của con cháu,
nhưng dù sơ sài tới đâu, - có khi chỉ có chiếc áo quan trần trên cỗ đòn với mấy
người khiêng, - đối với các gia đình Phật
giáo vẫn có các vãi đi tụng kinh, niệm Phật hộ phúc và có nhà
sư mặc áo cà sa, gõ mõ đi theo cầu nguyện.
Nhiều đám tang của những gia đình phú quý, giữa đường có nhà
trạm để nghỉ chân và9 dể làm lễ đề chủ, tức là một lễ đặc biệt của những
bậc sang trọng, thường mời một vị hưu quan hoặc một tay văn tự tới làm lễ.
Lễ hạ huyệt
Đám tang đi từ nhà tới huyệt, hoặc nếu có lễ đề chủ thì từ trạm
đình cữu tới huyệt.
Ngày nay, tại thành thị, sau khi đám tang khởi hành một
quãng, tang gia thường ngừng lại để cảm ơn những bạn bè đi đưa và mới những người
này lên xe hơi, hoặc quay lại vì đường đi bộ quá xa xôi.
Tới huyệt, tang gia làm lễ cúng thổ thần để
xin phép an táng người chết. Rồi một tuần tế, gọi là Tế hạ huyệt.
Cúng thổ thần xong là lễ hạ huyệt. Thầy điạ lý phân kim định
hướng chờ giờ hạ huyệt.
Huyệt đã lấp rồi, nếu người chết là Phật tử, các và vãi mỗi
người cầm một nắm hương tung kinh niệm Phật đi quanh một, rồi mỗi người cầm một
hòn đất ném vào mộ gọi là “dong nhan”.
Theo tục mới ngày nay, ảnh hưởng của Âu tây, đến mộ thường có
điếu văn trước khi lấp huyệt. Điếu văn đọc xong, các thân bằng cố hữu, mỗi người
ném một nắm đất hoặc một nhánh hoa xuống mộ, rồi các người khác ném theo. Sau
đó các đô tùy lấp mộ.
Mộ lấp xong, có hai chiếc biển phù phất áp hai bên
nhà táng lúc đưa đám, được cắm lên giữa đỉnh mộ.
Cùng trong lúc ấy, chiếc nhà táng được tang gia đem hoả
thiêu, nhưng thường có người cướp lấy từng mảnh mang về. Tục cũ tin rằng cướp
được mảnh giấy nhà táng thì “khước”.
Ngoài chiếc nhà táng bị cướp lúc đốt, bát cơm bông cũng bị
người ta tranh nhau cướp mang về cho các trẻ em ăn tin sẽ khỏi sài đẹn đau yếu.
Xin nói thêm là tại huyệt, đối với những đám tang sang trọng
thường có dựng một nhà trạm gọi là "trạm tế hạ huyệt",
nơi cử hành lễ hạ huyệt.
Hạ huyệt xong, ở miền Nam có tục người nhà cắm hương ở các
ngôi mộ chung quanh, với ý nghĩa gây cảm tình với những người đã yên nghỉ trước
ở nơi đây, cho người chết.
Tế thành phần
Mộ đắp xong, con cháu vào qùy lạy làm lễ thành phần. Ở đây
con cháu phải lễ bốn lễ thay vì hai lễ như ở nhà.
“Tế thành phần” xong, con cháu ra về.
Thần chủ hoặc hồn bạch được rước lên linh xa. Một người trong
hiếu chủ dẫn trước linh xa trông về nhà mà khóc, còn những người khác theo sau.
Lễ phản khốc
Linh xa về đến nhà, thần chủ hoặc hồn bạch được rước vào linh
toạ.
Rồi lễ phản khốc, tức khóc lại, được cử hành. Nếu lúc đi
đưa đám có tế đề chủ, thì bản văn tế đọc lúc trước giờ đây được hoá đi.
Có nhà không làm lễ phản khốc, con cháu vào lễ tạ bốn lễ yên
vị. Xong rửa ráy chân tay sạch sẽ đợi làm lễ ngu tế.
Tế ngu
Tế ngu cốt cầu cho hồn phách người chết được yên ổn
nơi bên kia thế giới. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Trước ki làm “lễ tế ngu”, con cháu phải vào tế tổ để cáo yết
tổ tiên.
Tế ngu có sơ ngu, tái ngu, và tam ngu.
Ngày hôm đưa ma trở về tế ‘sơ ngu”
Ngày hôm sau tế “tái ngu”, và hôm thứ ba tế “tam ngu”.
Về tái ngu và tam ngu, Đào Duy Anh trong “Việt Nam Văn Hoá Sử
Cương” có viết:
"Sau gặp ngày thu nhật (ất, đinh, tỵ, tân, quý), thì làm
lễ tái ngu, gặp ngày cương nhật (thân, bính, tuất, canh, nhâm) thì làm lễ tam
ngu".
Sau khi chôn
Mồ mả đã đắp rồi, ba ngày sau khi chôn, mỗi buổi chiều con
cái đem cơi trầu đến mộ mà khóc, gọi là ấp mộ, đem hơi nóng của tình gia đình
làm cho mộ đỡ lạnh lẽo.
Đến ngày thứ ba, có lễ mở cửa mả. Con cháu đắp lại
ngôi mộ cho tốt đẹp. có nhà còn mời thầy phù thủy về “yểm bùa trừ ma qủy”.
Ngày thứ ba này, vùng quê gọi là "Ba
ngày" có làm cỗ bàn mời bà con thân thuộc.
Trong ta lễ của ta thường có bày ra cỗ bàn mời họ hàng làng
nước, sau khi đã cúng lễ người khuất. Cỗ bàn nhiều khi rất linh đình.
Có nhiều người, bố mẹ lúc sống coi thường chẳng ra gì, lúc chết
làm ma to tát để khoe khoang và để che mắt thế gian. Thật đúng là
"Lúc sống thì chẳng cho ăn,
Đến khi chết xuống làm văn tế ruồi”.
Kể từ ngày thứ tư trở đi, con cái không ra thăm một nữa, trừ
những ngày “sóc vọng”, nhưng ở nhà hai buổi vẫn có cúng cơm cho đến tuần tốt
khốc.
Những gia đình theo Phật giáo, sau đám tang cứ 7 ngày lại làm
một tuần chay có mời tăng ni tới làm lễ tụng kinh tại nhà, hoặc xin làm lễ tụng
kinh tại chùa.
Tuần chay đầu tiên gọi là tuần Sơ thất, sau đó
là Nhị thất cho tới tuần Thất thất còn gọi là "Chung
thất".
Rồi đến một trăm ngày gọi là tuần Tốt khốc, kể từ ngày
đó trở đi, con cháu thôi không khóc nữa.
Từ khi an táng cho tới 100 ngày (có gia đình chỉ tính đến 50
ngày, con cháu 2 bữa phải có cơm canh cúng. “Tuần tốt khốc”, con cháu cúng lễ lần
chót, và từ đấy không phải dâng cơm ngày hai bữa nữa.
Nhiều gia đình chỉ dâng cơm ngày 2 bữa đến ngày “chung thất”,
nhưng đến “Tuần tốt khốc” vẫn có lễ.
Tuần tốt khốc còn gọi là tuần Bác nhật và nôm na là
tuần Trăm ngày.
Nếu người chết còn quàn tại một nơi nào chưa chôn, con cháu
không được làm lễ Tốt khốc, và chỉ được cúng ngày hai bữa như chiêu tịch điện.
Buổi cúng trăm ngày cũng là buổi cúng cuối cùng.
Một năm sau, đúng ngày người qua đời, con cháu cúng giỗ
đầu gọi là "lễ tiểu thường", một năm sau nữa thì
làm "lễ đại tường" tức là giỗ hết.
Sau lễ tiểu tường, tang phục con cháu bỏ bớt sô gai, và sau lễ
đại tường, con cháu không mang tang nữa.
Ta còn gọi ngày này là ngày “giỗ đoạn”. Tuy nhiên, tang vẫn
chưa coi là hết hẳn, phải đợi đủ 27 tháng, làm lễ “trừ phục”, lúc đó mới coi là
đoạn hẳn tang.
Từ đó về sau, hàng năm, tới ngày người qua đời, con cháu lại
cúng giỗ. Ngày giỗ về các năm sau gọi là ngày “cát kỵ”. Người ta còn gọi ngày
giỡ là ngày "Chung thân chi tang" vì mỗi khi tới ngày đó
người sống lại nhớ biết bao kỷ niệm của người chết.
Con cháu chỉ cúng giỗ tổ tiên cho đến năm đời, sau đó thần chủ
được đem chôn đi và chỉ còn thờ chung ở từ đường.
Trong khoảng “tiểu trường” và “đại trường” cứ đến Tuần Trung
Nguyên, người ta đốt mã cho người chết. Năm đầu là mã biếu, năm sau mới
là mã cúng cho người chết dùng.
Cải táng
Người chết đã an táng, có khi nơi an táng là ngôi mộ vĩnh viễn,
nhưng người xưa thường sau ba năm, khi con cái đã đoạn tang, hoặc vài năm nữa,
thường lo tới việc cải táng.
Việc cải táng còn gọi là "cát táng", trái với
lúc mới chết an táng, còn gọi là "hung táng". Từ “cát táng”, để
chỉ rằng sự an táng lại do con cháu tìm được nơi đất tốt để xương cốt ông cha
yên nghỉ.
Khi cải táng phải làm lễ bốc mả: mả hung táng được
đào lên, xương cốt được con cháu nhặt lấy, lau rửa bằng nước vị hương, đoạn xếp
vào một cái tiểu sành, rồi đậy thật kín. Những nhà giàu có thường dùng quan
quách như khi “hung táng”.
Sự cải táng không cần thiết nếu khi hung táng con cháu đã kén
chọn được đất tốt, hoặc chôn vào sinh phần của chính người chết đã chọn lấy.
Sự cải táng có nhiều cớ:
1- Hoặc khi cha mẹ chết, nhà nghèo túng không sắm được quan
tài tốt, nên phải “hung táng”, rồi sau đó một thời gian “cải táng”, sợ quan tài
xấu hài cốt của cha mẹ bị hư mục.
2 – Hoặc khi cha mẹ chết, chưa chọn được đất tốt, lúc chọn được
thì “cải táng”.
3 - Hoặc khi cha mẹ chết trong lúc tha hương, con cháu phải tạm
chôn nơi đất khách quê người, rồi sau vì theo quan niệm hiếu của người
chết, phải lo cất cốt về nơi sinh quán để vong hồn cha mẹ được hài lòng.
4- Hoặc vì cha mẹ chết vì bệnh thời khí phải chôn vội vàng,
sau cần “cải táng” để trọn đạo hiếu.
5 – Hoặc vì cho rằng mồ mã không yên nên phải “cải táng” để
trong nhà khỏi sinh hoạ hại.
6 – Hoặc vì con cháu cần phú qúy nên nhờ thầy địa lý tìm “cái
huyệt” mà cải táng để mong “mộ kết”.
Ngoài các cớ trên, theo lối cũ thường vì lý do hiếu kính, và
vì sự cầu mong phát đạt, một ngôi mộ thường cần được “cải táng” trong các trường
hợp:
- Mả vô vớ sút thành đường
- Mả cỏ khô héo chết.
- Trong nhà có sự dâm loạn, phong thanh mất.
- Trai gái hoá điên cuồng, hình hại, hoả tai, chết chóc.
- Người mất, của mất sinh ra kiện tụng nhau mãi.
Qua mấy trường hợp trên ta thấy rằng: Mả sút lẽ tất nhiên bên
trong động tới xương cốt cần phải cải táng, nếu không cũng phải xem xét và đắp
lại.
- Cỏ khô hiếu tức là nơi đất đó không tốt, e có hại tới hài cốt.
- Ba điều sau vì tín ngưỡng. Ta thường nói "Sống
về mồ mả, ai sống về cả bát cơm".
Tục cải táng ở miền Bắc rất phổ thông. Từ Hoành Sơn trở vào
Nam, việc “cải táng” chỉ là một trường hợp hạn hữu. Khi nào con cháu cho là “mồ
động” thì mới cải táng. Chôn cất xong là xong.
Ngày nay, chịu ảnh hưởng Tây Phương, việc cải táng không có,
dù đó là người gốc miền Bắc hay miền Nam. Người ta cũng nghĩ rằng người chết được
nằm yên dưới mồ là xong. Hơn nữa mồ mả lúc đầu được làm cẩn thận, chắc chắn.
Người xưa, không phải ai ai cũng cho “cải táng” là một điều bắt
buộc của phong Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
tục. Có người nghĩ nên cải táng vì thể xác con người không
trong sạch, cải táng để rửa xương cốt.
Việc tang ma bắt đầu từ lúc con người còn chút hơi thở cuối cùng, cho đến khi mồ yên mả đẹp con cháu mới yên tâm,và từ đây, hàng năm tiết Thanh Minh, con cháu lại đi thăm mộ, đắp một cùng với tất cả những ngôi mộ khác của gia đình.
KẾT LUẬN
về đời sống gia đình
Gia đình là nền tảng của xã hội, nhưng gia đình bắt đầu từ cá
nhân.
Xét qua mọi sinh hoạt gia đình, qua mọi biến cố vui buồn, ta
thấy nguồn gốc của mọi sinh hoạt đều do cá nhân, do sự cần thiết của cá nhân tạo
nên.
Người đứng đầu gia đình là gia trưởng, có bổn phận duy
trì và bảo vệ gia đình, chịu trách nhiệm về hết thảy những hành vi của mọi người
trong gia đình, chính trách nhiệm này đã khiến mối liên quan giữa mọi người
trong gia đình ngày càng rõ rệt và sự thân thiết của mọi người trong gia đình bất
diệt.
Ngày xưa, nếu người gia trưởng phạm tội, con cái bị bắt làm
nô tì, và nếu một người trong gia đình phạm tội phản quốc, tất cả gia đình phải
liên đới chịu trách nhiệm.
Luật lệ khắt khe, lại thêm tục lệ ràng buộc, mọi người trong
gia đình luôn luôn phải cùng nhau lo giữ vững lấy nếp nhà, bảo vệ hạnh phúc
chung, cùng xây dựng sự thịnh vượng chung, như thế tức là thực hiện sự đoàn kết,
nó là cái căn bản, truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Như đã trình bày trong “Đời sống bản thân”, để giữ vững tinh
thần đoàn kết, ngay trong từ nếp sống cá nhân, bản thân luôn luôn phải hy sinh
cho các sinh hoạt cộng đồng, và gia đình, đơn vị nhỏ nhất quy tụ nhiều cá nhân,
lại phải hy sinh cho các sinh hoạt cộng đồng khác, nghĩa là sinh hoạt của các
đơn vị bao trùm trên đơn vị gia đình, tuy nhiên, trước khi lo tròn những trách
nhiệm trong đơn vị bao trùm, gia đình phải chu toàn cho những cá nhân trong đơn
vị mình trước: Người xưa gọi là tề gia.
Dân tộc ta trải bao nhiêu cuộc thăng trầm mà không bị tiêu diệt
hoặc đồng hoá, chính vì tinh thần đoàn kết mà tinh thần này bắt
đầu từ gia đình, trong đó mọi người luôn luôn có một sự hoà hợp nhường nhịn rất
tế nhị. Đây cũng là nét bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam.
Gia đình chi phối cá nhân, nhưng chi phối để bảo vệ tất
cả các cá nhân trong gia đình, nghĩa là bảo vệ quyền lợi chung của gia đình.
Có cá nhân mới có gia đình, nhưng gia đình có vững, cá nhân mới
bền. Bởi vậy, nhiều sinh hoạt gia đình chỉ bắt đầu từ một cá nhân, mà các cá
nhân khác đồng liên đới hưởng thụ hoặc chịu đựng.
Gia đình có bền vững thì xã hội mới trường tồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét