Phong tục Việt Nam 2
GIẢI TRÍ
Xét qua các chương trên, nói đến giải trí, có lẽ có bạn đọc sẽ
hỏi: "Người dân Việt Nam làm lụng như vậy, còn giải trí vào lúc
nào?".
Câu hỏi thật là đúng, vì đối với người dân quê đầu tắt mặt tối,
quanh năm vất vả, làm việc sớm lo việc trưa, làm việc trưa lo việc tối, còn thì
giờ đâu mà dám nghĩ đến giải trí. Sự thật là như vậy, nhưng:
"Vất vả có lúc thanh nhàn,
Không dưng ai dễ cầm tàn che cho."
Công việc tuy không ngớt, nhưng sự cố gắng của con người bao giờ cũng được hưởng một phần thưởng nào đích đáng. Người dân quê Việt nam, tuy bận rộn với việc đồng, việc nhà, nhưng cũng có thời gian được đôi chút nhàn rỗi, đó là những dịp để người ta nghỉ ngơi giải trí, tiêu khiển.
HỘI MỪNG XUÂN
Thường những dịp nghỉ ngơi giải trí của người Việt Nam đến
vào mùa Xuân. Đây là dịp các làng quê, nhất là tại miền Bắc, có mở hội mừng
Xuân. Có là mở hội về tháng Giêng tháng Hai, có làng mở hội về tháng Ba, và có
một đôi làng, muộn màng mãi tháng Tư mới có hội, như làng Phù Đổng huyện Tiên
Du tỉnh Bắc Ninh.
Ngày xưa, tại sao dân ta lại mở hội về mùa Xuân? Trước hết là
để mừng Xuân, để mừng một năm mới bắt đầu, nhưng chính ra cũng vì giêng hai còn
chưa bận bịu về mùa màng cho lắm. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
"Giêng hai ngày rộng tháng dài!"
Và ca dao còn có câu:
"Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng Ba hội hè!"
Thực ra, lúc này luá Chiêm chưa gặt, công việc về mùa Chiêm,
cày bừa, cấy bón đã hoàn tất từ trong năm, cho đến những ruộng hoa màu phụ cũng
đã làm xong, người dân quê được nhàn rỗi phần nào. Tuy nhiên tinh thần câu ca
trên ngày nay không còn đúng nữa.
Quanh năm vất vả, nay mới được dịp nghỉ ngơi chơi đùa, người
dân quê rủ nhau đi hội thưởng xuân, lễ bái Thần, Phật, cầu phúc, cầu may, nhất
là các bà, các cô, những người tháng này qua tháng khác bị bó buộc bởi công việc
gia đình và đồng áng.
Hầu hết các làng đều mở hội mừng Xuân. Có thể nói được rằng
trong suốt tháng Giêng, ngày nào cũng có làng mở hội, và đi đến đâu cũng nghe
thấy tiếng trống hội vang lừng và bóng cờ ngũ sắc nhởn nhơ bay.
Từ ngàn xưa, người Việt Nam lấy gia đình làm trọng, lấy sự
quây quần đoàn tụ làm hơn, nên trong những khi tiêu khiển ăn chơi, tuy để tìm
các thú cho bản thân, người ta cũng không tiêu khiển ăn chơi riêng rẽ, và trong
lúc vui, người ta cũng muốn được vui chung cùng bạn hữu dân làng, cùng kẻ quen
người thuộc ở làng trên xã dưới. Bởi vậy, những hội Xuân được mở ra, và những hội
Xuân đã đáp ứng được mục tiêu tiêu khiển chung ấy.
Đã được gọi là hội là có sự tụ họp để ăn uống riêng đối với
dân làng, vào hàng được dự chốn đình trung và tụ họp để giải trí tiêu khiển qua
những trò "bách hí" đối với tất cả mọi người cũng như khách thập
phương tới xem hội. Những trò "bách hí" này chính là những trò vui cổ
truyền thông thường cho mọi hội Xuân: Đánh đu, cờ bỏi, leo dây, muá rối, đánh vật,
v..v... Và cũng có những trò vui riêng biệt cho từng điạ phương, tùy vị thần
linh được dân làng thờ phụng, hoặc tùy vì trí điạ dư của mỗi làng, mỗi xã: Đánh
phết, hát quan họ, kéo co, bơi chải, bắt chạch trong chum, đánh cá, săn thú rừng,
v.v....
Trong các trò vui có trò thích hợp với người lớn, với người đứng
tuổi: Tổ tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ... và cũng có những trò giải trí dành riêng
cho thanh niên nam nữ, những trò vui ngày này bao giờ cũng nhiều và cũng thú vị
với tuổi trẻ hơn: Đánh phết, đánh trung bình tiên, đánh vật, thi nấu cơm, thi cỗ,
bơi thuyền, hát quan họ, hát đúm... Các cụ bà, ngày Xuân đi hội, có thú nghe kể
hạnh, xin thẻ...
Mỗi trò bách hí mỗi khác, mỗi khác mỗi thú vị, rất tiếc trong
phạm vi tập sách này, muốn kỹ lưỡng đếm từng trò vui cho đủ cả, thật không sao
kể cho xuể; bởi vậy, để giúp bạn đọc hiểu qua hội quê ngày trước, nơi đây chỉ
xin đơn cử dăm ba trò bách hí đầy dân tộc tính để bạn đọc hiểu sơ qua đôi ý niệm
về những trò vui ngày hội.
Hát đối
"Hát đối"là hai bên nam nữ hát đối đáp với nhau,
bên nọ một câu, bên kia một câu. Có nhiều lối hát đối: Hát quan họ, hát ví, hát
trống quân, hát dặm, hát đò đưa, v.v....
Hai lối hát đối thịnh hành nhất thường được trai gái dùng để
hát với nhau trong các ngày hội xuân là hát Quan họ và hát Ví.
Hát quan họ - Đây là một lối chơi xuân thú vị ở vùng Bắc
Ninh.
Tương truyền rằng hát Quan họ do một vị hầu tước triều vua Lê
Cảnh Hưng, quê làng Lim, tức làng Lũng Giang, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đặt
ra để mua vui trong lúc tuổi già.
Trái gái, qua những hát, tỏ tình và khen ngợi nhau. Lời hát
đôi khi thật văn chương bóng bảy, đôi khi thật thắm thiết nồng nàn.
Hát quan họ ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, họ hát giọng đôi, hai
người chầu miệng vào nhau cùng hát, hai giọng luyện với nhau, tiếng ngân vang,
vun vút; tiếng trầm êm ái như ru!
Hát quan họ có nhiều giọng, nhưng có ba giọng chính, các bạn
hát vẫn dùng để cùng nhau đối đáp trong những ngày hội.
Ba giọng đó là:
- Giọng sổng, dùng để dạo giọng lúc bắt đầu hát. Giọng sổng
tiếng ngân vút cao nghe đầm ấm nồng nàn. Đây là giai đoạn đôi bên trái gái dò
xét ướm hỏi lòng nhau:
"Hôm nay tứ hải giao tình,
Tuy rằng bốn bể như sinh một nhà.
Số anh phải lấy vợ xa,
Số em không lấy chồng nhà được đâu.
Đã trót yêu nhau, lấy nhau cho được
Bõ lòng nay rày ước mai ao."
Trên đây là một câu hát giọng Sổng. Lúc hát lên có những khúc
đệm y-á, ý-a, hoặc những tiếng được láy đi láy lại để câu hát âm với âm thanh,
và âm thanh ăn với giọng hát.
Những câu hát, có thể dùng cho bên Nam hoặc bên Nữ đều được,
chỉ cần hát lên đổi một vài chữ trong câu hát cho hợp với người hát.
- Giọng Vặt kế sau giọng Sổng. Sau khi đôi bên dạo giọng bằng
một vài câu hát Sổng, là những câu hát giọng Vặt để đôi bên gắn bó với nhau. Nếu
giọng Sổng chỉ có một giọng thì giọng Vặt, lại gồm nhiều giọng: giọng cao, giọng
thấp, giọng dài, giọng ngắn, giọng buồn, giọng vui. Gọi là giọng Vặt chính là
vì vậy, những giọng hát này như vụn vặt, không đồng nhất như giọng Sổng. Có khi
giọng hát bắc chước tiếng giun, dế nghe buồn rầu ảo não.
Những câu hát giọng Vặt thường có hai câu đi đôi để đối nhau,
bên nọ hát lên, bên kia xướng lại, dù bên hát trước là nam hay nữ. Câu hát cũng
dùng được cho cả hai bên chỉ cần thay đổi một vài chữ.
Dưới đây là hai câu hát giọng Vặt đối nhau:
"Ngồi tựa vườn đào,
Thấy người thực nữ ra vào lòng những vấn vương.
Gió lạnh đêm trường,
Nửa chăn để đó, nửa giường để đó chờ ai.
So chữ sắc tài,
Có công gắn bó, ai người phụ nghĩa quên công.
Nên chăng đấy vợ đây chồng!"
Và câu đối lại:
"Ngồi tựa vườn đào,
Thấy người bạn ngọc ra vào lòng những vẩn vơ
Tháng đợi năm chờ,
Yêu nhau chớ để hững hờ với khách tài hoa.
Khấn nguyện trang già,
Duyên tơ xe lại một nhà đầm ấm yên vui.
Nguyệt lặn sao dời,
Bõ công gắn bó, bõ lời gắn bó giao đoan
Nên chăng tình Tấn, duyên Tần."
Hai câu hát Vặt trên là hai câu hát thường được các bạn nam nữ
quan họ hay hát tới, có khi thay đổi một vài khúc. Cũng có khi thay vì câu hát
tỏ tình trên, trai gái cũng Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
với giọng của câu hát, lại hát với nhau những câu tả cảnh:
"Ngồi tựa nạm thuyền
Trăng in mặt nước càng nhìn non nước càng xinh
Sơn thủy hữu tình,
Thơ ngâm ngoài lái, rượu bình giải trí trong khoang.
Tay tựa cung đàn,
Tiếng cao réo rắt, tiếng trầm năn nỉ thiết tha.
Tai nghe văng vẳng đường xa."
Như trên đã nói, hát Vặt có nhiều giọng. Có cả giọng ngâm
thơ. Những bài thơ thường do các cụ đồ nho đặt sẵn cho. Xin chép ra đây một bài
làm ví dụ, Cũng như phần nhiều các câu hát Quan họ khác, bài thơ chỉ nói đến
tình yêu trai gái:
"Biết chăng, chẳng biết hỡi tri âm,
Vấn vít con tơ vận ruột tằm.
Khắc khoải sâu tuôn lòng tựa bể,
Bồi hồi dạ nhớ tháng như năm.
Chăn loan bên đắp, bên chờ đợi,
Chiếu nguyệt nửa nằm, nửa biếng thăm.
Một bức thư tình đưa nhạn gửi,
Thấu tình chăng hỡi bạn tri âm."
- Giọng Bỉ, hát sau giọng Vặt, để hát lúc chia tay, còn gọi
là giọng Vỉ.
Giọng Bỉ ngân dài, nói lên được sự chua xót của sự phân ly, sự
luyến tiếc của ngày vui sắp hết.
Cũng như phần lớn các câu hát khác của quan họ, những câu hát
Bỉ đều là những câu lục bát, hoặc song thất lục bát. Có câu lấy ở Kiều ra, có
câu là những câu ca dao rất phổ biến:
"Bây giờ giáp mặt đinh ninh,
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
Hay là người đã nghe ai,
Thả chông đường nghĩa, rấp gai lối rình?".
Nội dung câu hát thường là lời căn dặn nhau, bảo nhau nhớ lấy
những lời hẹn ước đừng vì khuất mặt xa lời mà quên nhau.
Tuy ba giọng hát Sổng, Vặt và Bỉ là ba thời kỳ của buổi hát,
nhưng nhiều khi sắp giã từ nhà, hát sang giọng Bỉ, có những đám Quan họ lại trở
lại hát giọng Vặt như cố níu lấy sự lưu luyến của trai gái đang tuổi yêu đương.
Giọng Vặt một đôi câu rồi, vì ngày hội đã tàn, đêm đã xuống, họ lại chuyển sang
giọng Bỉ để từ biệt và hẹn hò đến một đám hội khác trong vùng vào một ngày mai
sắp tới.
Trai gái trong những ngày hội, gặp gỡ nhau, họ chỉ hát với
nhau ba giọng Sổng, Vặt và Bỉ, nhưng chính ra hát Quan họ còn năm giọng rất khó
hát, gọi là năm giọng Trên, chỉ hát trong những buổi hát giải.
Hát Quan họ là một loại dân ca rất phổ biến tại vùng Kinh Bắc,
và trong lối hát này cũng có những tục lệ riêng, rất tiếc nói ra e quá dài dòng
với chương sách này.
Ngày nay, ở vùng Kinh Bắc trong những buổi họp bạn vui xuân,
người ta vẫn cùng nhau hát Quan họ, và ở miền Nam, lối hát này cũng đã được
mang vào và thường được trình bày ở đài phát thanh hoặc vô tuyến truyền hình.
Hát ví
Hát Ví cũng là một lối hát đối trong những ngày hội. Hát Ví
thường chỉ có một giọng, và trai gái lúc hát với nhau cũng dùng những câu hát đầy
yêu đương tình tự. Hát Ví không cần giọng đôi như hát Quan họ. Hát Ví có lối
hát Vận và lối hát Đó.
- Hát Vận, tức là hát theo vần, hoặc dùng những câu ca dao có
sẵn, hoặc có thể đặt ra mà hát:
"Bây giờ ta gặp mình đây,
Như cá gặp nước như mây gặp rồng.
Mây gặp rồng bắt phong bắt vũ,
Cá gặp nước con ngược con xuôi."
Câu hát của trai gái bao giờ cũng chỉ quanh quẩn ở chỗ yêu
đương thương nhớ:
"Chiếc thuyền nho nhỏ, ngọn gió hiu hiu
Nay nước thủy triều, mai lại nước rươi.
Sông sâu sóng cả em ơi,
Chờ cho sóng lặng, buồm xuôi ta xuôi cùng
Trót đem nhau vào kiếp bềnh bồng
Xuống ghềnh, lên thác ta quyết một lòng cho ngoan.
Giang hồ khoan lại hò khoan. "
Trong những câu hát Ví, trai gái thường thử tài nhau, họ dùng
những câu hát Đố để đố lẫn nhau.
-Hát Đố, để đố về mọi điạ hạt, có khi là văn chương lịch sử,
có khi là những điều thông thường. Họ đố nhau để biết tài mẫn tiệp của nhau, Một
bên đố, bên kia tất nhiên phải trả lời.
Thí dụ câu đố:
"Cái gì nó bé nó cay,
Cái gì nó bé nó hay cửa quyền?"
Có câu đố, tất phải có câu trả lời
"Hạt tiêu nó bé, nó cay,
Đồng tiền nó bé, nó hay cửa quyền."
Những câu đố thường là những câu có sẵn, nhưng cũng có những
cặp trai gái nhanh trí, hát nhiều, quen đặt những câu lục bát, họ tự đặt câu đó
mới để bạn hát phải trả lời:
"Quả gì năm núi sáu khe?
Quả gì nứt nẻ như đe thợ rào?
Quả gì kẻ ước người ao
Quả gì lóng lánh như sao trên trời?
Quả gì đủ cả năm mùi,
Quả gì to lớn có người ngồi trong?
Quả gì thích chữ chạm rồng,
Quả gì cùi trắng, nước trong hỡi chàng?
Quả gì lăn lóc giữa đường cái đi,
Quả gì da nó xù xì
Chàng mà giải được thiếp thì theo không?
V à đây là bài giải câu đố trên
"Quả khế năm núi sáu khe,
Quả da nứt nẻ như đe thợ rào.
Quả mận kẻ ước ngùi ao.
Quả mai lóng lánh như sao trên trời.
Quả lê năn đủ năm mùi,
Quả động to lớn có người ngồi trong.
Quả chuông thích chữ chạm rồng,
Quả dừa cùi trắng nước trong đó nàng. Phong
Tuc Tap Quan Viet Nam
Quả thị da nó vàng vàng,
Bùa yêu lăn lóc giữa đàng cái đi.
Quả mít da nó xù xì,
Anh đà giải được nàng thì theo anh!."
Câu đố trên là một câu đố về thực vật, câu đố sau đây là một
câu đố về điạ lý xen vào đôi chút lịch sử:
"Ở đâu năm của chàng ơi?
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một giòng?
Sông nào bên đục bên trong?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất tỉnh Thanh?
Ở đâu lại có cái thành tiên xây?
Ở đâu có chín từng mây?
Ở đâu lắm nước, đâu nay nhiều vàng?
Chùa nào mà lại có hang?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không?
Ai mà xin lấy túi đồng?
Ở đâu lại có con sông Ngân Hà?
Nước nào dệt gấm thêu hoa?
Ai sinh ra cửa, ra nhà, nàng ơi?
Kià ai đi đá vá trời?
Kìa ai trị thủy cho đời yên vui?
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời
Xin em giảng rõ từng nơi, từng người."
Câu này cũng như câu trên, người đặt câu đố đã đặt sẵn câu trả
lời.
"Thành Hà Nội năm cửa, chàng ơi!
Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi đức Thánh Tản thắt lưng cổ bồng mà lại có thánh
sinh
Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng có thành Tiên xây.
Trên trời có chín từng mây,
Dưới sông lắm nước, núi hay lắm vàng.
Chùa Hương Tích mà lại ở hang,
Trên rừng lắm gỗ, thời chàng biết không?
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa,
Ông Hữu Sào, sinh ra cửa ra nhà chàng ơi!
Bà Nữ Oa đội đá vá trời
Vua Đại trị thủy cho đời yên vui.
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Em xin giảng rõ từng nơi anh tường."
Hai câu đố và hai câu giải trên được đan cử ra để trình bày cùng bạn đọc về lối hát Đố của hát Ví. Thực ra, những câu đố tương tự về mọi lãnh vực còn rất nhiều trong kho ca dao Việt Nam, qua các vùng từ Bắc vào Nam
Đi hội, được hát đối với nhau, đó là cái thú của nam, nữ
thanh niên. Câu hát, lối hát
thay đổi tùy từng địa phương với những danh hiệu khác nhau,
hát hò, hát dặm, hát phường, hát ví, hát quan họ, v.v... nhưng tựu trung vẫn chỉ
là những lối hát trai gái trao tình cùng nhau.
Việc trao tình này, tuy đi ngược lại đường lối nam nữ thụ thụ
bất thân của đạo đức xưa, nhưng chính ra xã hội Việt nam không hề bao giờ ngăn
cản. Nhiều bà cụ già còn như cho con trẻ để chúng tìm gặp, hát hỏng với nhau.
Phải chăng đây cũng là một lối chống lại sự quá khắc nghiệt của nền luân lý
phong kiến Đông phương, phát nguyên từ Trung Hoa, khi du nhập vào ta chỉ được
hoàn toàn dung nạp bởi một lớp người quyền quý, còn đối với giới bình dân, sự
áp dụng đã chịu nhiều kém sút!
Đánh đu
Nhún đu là một thứ say mê của trai gái đồng quê cũng như hát
đối vậy. Tại hầu hết hội hè miền Trung du phía Bắc, bao giờ cũng có cây đu cho
trai gái vui xuân, dắt nhau tới nhún.
Đu thường trồng trên một thửa đất đã vỡ màu, cạnh đình làng
hoặc chùa làng.
Cây đu của ngày hội được trồng từ trong năm, vào khoảng 25,
26 tháng chạp. Sau ngày lễ tất niên, bao giờ các cụ trong làng cũng nghĩ tới
cây đu của hội cho đám thanh niên. Các cụ ra lệnh cho tuần tráng đi đẵn tre trồng
đu. Họ chọn những cây tre đực thật khoẻ, đủ chịu đựng được sức rướn của từng cặp,
có khi một trai một gái, có khi là hai gái hoặc hai trai.
Cây đu trồng bằng tám cột tre, đứng sừng sững trên thửa ruộng.
Tám cột tre giãng ra hai phía, mỗi bên bốn cột. Chỗ ngọn đu, tám cột lồng vào
nhau bởi một chiếc ngáng đu, có vặn rơm để giữ những cây tre siết chặt vào
nhau. Bàn đu lơ lững thõng xuống, do hai thân tre khác giữ treo lên ngọn đu. Đỉnh
ngọn đu bao giờ cũng có mấy lá cờ đuôi nheo phất phới, biểu hiện cho hội hè
đình đám mùa xuân.
Trai gái trong làng, nhân ngày hội, đua nhau thả sức đu, người
trước kẻ sau. Họ cùng nhau rướn đu, đu lên bổng, quần áo, nhất là dây lưng của
họ lả lướt như đùa gió. Có những đôi trai gái cùng nhau say sưa trên bàn đu,
càng rướn, đu càng bổng, càng thấy thú vị, trong khi ở dưới đất, hai bên tám cột
đu, những bọn trai gái khác nghển cổ lên nhìn như thèm muốn, chờ đợi tới lượt
mình lên cây đu. Khi một cặp đánh đu thôi không rướn, họ cùng nhau ôm chặt lấy
đôi gióng tre của cần đu để từ từ hạ thấp và không văng mạnh nữa. Một người chạy
ra bắt lấy đu, cặp đu trên đu bước xuống, một cặp khác lên thay.
Ca dao có câu:
Nhún mình như thể nhún đu,
Càng nhún càng dẻo, càng đu càng mềm!"
Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương cũng có bài thơ về "Cây
đu":
"Tám cột khen ai khéo khéo trồng
Người thời lên đánh, kẻ nhòm trông.
Trai du gối hạc, khom khom cật,
Gái uốn lưng ong, ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân có biết xuân chăng tá,
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không.
Đánh vật
Trong các môn du hí của ta, có rất nhiều môn nặng tinh thần thượng võ, trong số đó ta phải kể môn Đánh Vật. Vật là một môn du hí, nhưng cũng lại là một môn võ tự vệ, mà các tay đô vật luyện tập để trong những trường hợp cần dùng đến thì đem ra ứng Phong Tuc Tap Quan Viet Nam dụng.
Đây là một môn du hí mà chúng ta dùng để giải trí trong các hội
hè và cũng là môn dự thi đấu.
Trước đây, hầu hết các thanh niên đồng quê đều có tập sơ qua
một vài miếng vật. Có nhiều làng có những đô vật nổi tiếng như Chung Màu, Yên
Xá tỉnh Bắc Ninh, Vị Thanh, Dịch Đồng, .... tỉnh Vĩnh Yên, Mai Động tỉnh Hà
Đông, v.v....
Đã đành rằng khi vật phải dùng sức, nhưng sức khoẻ không đủ,
cần phải biết nhiều miếng để ngáng, để đi và để quật ngã đối phương. Lệ vật muốn
thắng phải vật đối phương cho ngã ngửa trắng bụng ra, hoặc đội bổng được đối
phương lên.
Các đô vật, khi dự vật chỉ đóng một chiếc khố.
Vật là một môn rất được hoan nghênh tại các hội quê.
Trước khi dự vật, hai đối thủ phải làm "lễ thần
linh". Bãi vật thường ở trước đình hoặc đền. Khi làm lễ, các đô vật đứng
nguyên ở bãi vật với chiếc khố, vái vọng vào đình hoặc đền.
Lên đài
Hai đối thủ, sắp giao đấu cũng phải làm lễ, rồi cùng nhau lên
đài, múa tay, co chân, lượn quanh sân vật để rình miếng nhau. Trong lúc lên đài
họ lừa nhau, và sau một hồi rình nhau, họ xông vào ôm lấy nhau, cố vật cho được
nhau ngã xuống, hoặc đội được nhau lên.
Lúc vật
Trong lúc đôi bên vật nhau, các cụ ngồi mé trên đình đánh trống
cái, còn tuần đinh cầm trống bưng đánh sát ngay bên tai các đô vật, nửa như
thúc dục, nửa như khuyến khích. Lại có một anh tuần đinh cầm một ngọn cờ, phất
lên phất xuống mỗi khi kết thúc một trận vật. Người cầm cờ cũng múa cờ để gạt
các khán giả khi họ đứng sát quá vào sân vật.
Vật giải
Các hội xuân có tổ chức vật đều có treo giải, thường có ba giải
chính, ngoài ra có các giải hàng tặng cho các đô vật trước khi có lệnh phá giả
các giải chính. Khi vật các giải chính, có các cụ trong làng chủ tọa và chứng
kiến.
Trước đây, mỗi khi có cuộc phá một giải chính xong, dân làng
thường đốt pháo, một bánh pháo toàn hồng để mừng lực sĩ chiến thắng.
Lúc vật, nếu lực sĩ nào bị "lỡ miếng", liền nằm bò
sát mặt đất mặc cho đối phương vần, đối phương không bốc được lực sĩ vật ngửa
ra thì không thắng, và lực sĩ nằm bò này chỉ bỗng nhỏm dậy khi đối phương hở
cơ.
Người xem vật nhiều khi hồi hộp như chính mình là lực sĩ, và
các tay đô vật, trước trăm nghìn con mắt, nhất là những con mắt của giai nhân,
ai cũng cố công cố sức để thắng bên kia.
Các giải vật dân làng treo ra thường có người tới giữ giải
người giữ giải phải giữ luôn trong thời gian làng ấn định thường là thời gian của
hội làng, ba ngày ở hội làng Mai Động, nơi có đền thờ bà Lê Chân, nữ tướng của
hai Bà Trưng.
Trong suốt thời gian giữ giải, nếu không bị vật thua, người
giữ giải được lĩnh giải. Người nào vật ngã người giữ giải, sẽ thay thế người đó
để giữ giải cho đến hết hôm tan hội.
Theo tục lệ, muốn được giải chính, thì:
- Giải nhất trong sáu ngoài năm
- Giải nhì trong năm ngoài bốn
- Giải ba trong bốn ngoài ba
Nghĩa là ở giải nhất, người giữ giải phải thắng luôn sáu keo,
còn người phá giải chỉ
cần thắng năm keo; ở giải nhì, người giữ giải phải thắng luôn
năm keo, còn người phá giải phải thắng luôn bốn keo, và ở giải ba, người giữ giải
phải thắng luôn bốn keo, còn người phá giải phải thắng luôn ba keo.
Những cuộc vật các giải chính bao giờ cũng sôi nổi gay gắt.
Các đô vật lừa nhau từng miếng, người xem ở ngoài cũng thấy thú vị. Thi sĩ Bàng
Bá Lân trong bài thơ "Vô địch" đã tả về đánh vật một cách rất sinh động.
Thú đánh vật dân gian ngày này ít thấy ở miền Nam, nhưng ở miền
Bắc các làng có nghề Vật, dân chúng vẫn cùng nhau luyện tập môn du hí này . Hiện
nay, ở miền Nam thay vì đánh vật, có xuất hiện những môn võ mới.
Bơi thuyền
Ngược dòng lịch sự, chúng ta thấy dân tộc Việt Nam đã bao
phen đụng chạm với ngoại tộc, và trong những cuộc đụng chạm binh đao, chúng ta
có trận được trận thua. nhưng cái được sau cùng bao giờ cũng vẫn là của chúng
ta. Giao phong với địch, chúng ta có đánh bộ, đánh thủy, và ở thủy cũng như ở bộ,
chúng ta đã ghi được nhiều chiến công oanh liệt, đã khiến cho giặc dù mạnh cũng
đã nhiều phen thất đảm.
Không nói tới những trận nhỏ như trận Hàm Tử, trận Chương
Dương, trận quân chúa Nguyễn đánh chiến thuyền Hoà Lan, chúng ta chỉ nhớ mấy trận
thủy chiến oanh liệt nhất của ta là hai trận Bạch Đằng; Trận thứ nhất của Ngô
Quyền đánh tan quân Nam Hán, giết thái tử Hoằng Thao, trận thứ hai của Hưng Đạo
Vương diệt quân Nguyên, phá tan lực lượng của Thái tử Thoát Hoan.
Tổ tiên chúng ta đã giỏi về thủy chiến, tất nhiên con cháu phải
tập tành để biết sử dụng chiến thuyền khi hữu sự. Do đó có tục thi thuyền tại
các hội Xuân ở những làng ven sông nước.
Thi thuyền có nhiều lối, có nơi thi thuyền nhỏ, có nơi thuyền
lớn; thi thuyền nhỏ dùng một hai bơi chèo, thi thuyền lớn dùng nhiều bơi chèo.
Lề lối bơi thuyền cũng tùy nơi thay đổi, nhưng điểm chính vẫn là bơi làm sao
cho đều tay để thuyền đi nhanh và tới đích trước.
Trong những cuộc thi thuyền lớn, chiếc thuyền thường có một
đôi tay bơi, mỗi người một chiếc bơi chèo, có người đứng đầu thuyền đánh trống
cầm nhịp và có người đứng đuôi chuyên giữ lái cho thuyền đi.
Có nơi thay vì dùng bơi chèo, mỗi người đều bơi bằng một chiếc
đĩa.
Sau này, hàng năm vào ngày hội đền Ba Vua, ba anh em vua Tây
Sơn, ở làng Kiến Mỹ, quận Bình Khê, tỉnh Bình Định, mồng 5 tháng Giêng, thường
có tổ chức thi bơi thuyền.
Và ở nhiều nơi khác, gần sông, gần biển, dân chúng cũng thường
tổ chức những cuộc thi bơi ghe, bơi chải.
Thả chim
Chim bồ câu là một loại chim rất khôn và rất nhớ chuồng, dù
mang nó đi đâu xa, thả chúng, chúng cũng định hướng để tìm về chuồng cũ. Người
xưa và cả ngày nay nữa, thường dùng chim bồ câu để đưa thư, trong những trường
hợp đi xa muốn gửi tin về nhà.
Tục chơi chim bồ câu thi của ta xưa căn cứ vào đức tính nhớ
chuồng của loài chim, và ở các hội Xuân vẫn có tục thả chim thi.
Mỗi đàn chim bay thi chỉ được phép có mười con, không hơn,
không kém.
Trong những hội có thi chim, các tay chơi chim mang đàn chim
của mình tới dự.
Nuôi chim thi rất công phu, không nên để nó ăn béo quá, mà phải
cho nó ăn chắc để có sức bay cao. Chim thi phải bay thật cao, và phải bay gọn mới
được giải. Thường có ba giải cho ba đàn chim bay cao nhất. Phong Tuc Tap Quan
Viet Nam
Mỗi hội có thả chim thi, thường có tới năm bảy chục đàn chim
tới dự. Ban tổ chức bốc cho mỗi đàn chim một số rồi lần lượt các đàn chim được
thả bay lên.
Trong lúc những đàn chim được mở lồng để bay ra - người chủ
đàn chim khe khẽ nâng lồng để đàn chim vụt bay đều lên - thì ban tổ chức cuộc
thi cho thúc trống cửu liên để đàn chim nghe tiếng trống phải vội vã bay tuốt
lên cao.
Những người xung quanh ban hội đồng định giải cũng là những
người nuôi chim, biết chơi chim, biết thả chim và hiểu chim.
Họ ngồi xung quanh một chiếc bàn, thường là bàn tròn, trên có
để một mâm thau đựng nước để cùng nhìn bóng những đàn chim đang bay lượn trên
trời, trong đó. Họ nhớ rất tài tình, và đàn chim nào số nào, không bao giờ họ lầm,
do đó không bao giờ có sự khiếu nại của chủ đàn chim.
Muốn được giải, đàn chim phải bay cao và phải bay tròn đàn,
người ta gọi đó là "đàn chim văn thượng". Có những đàm chim
"liên tam trúng", ba ngày dự giải ăn cả ba.
Có nhiều đàn chim vừa được thả ra là bay vọt lên cao nhưng
lên đến trên cao, một con bật ra đàng sau không theo kịp đàn. Nếu con chim này
không cách xa đàn mấy, đàn chim ấy gọi là "trung chính", "thượng
tiểu thùy". Nếu con chim cách xa đàn nhiều, đàn chim gọi là "thượng đại
tùy" .
Có đàn chim bay lên thật cao, bay tròn, trông nhỏ như chiếc
đĩa thanh trúc mới định hướng bay về chuồng. Đàn chim bay cao đến không nhìn thấy
đuôi, gọi là "tít đuôi". Chim bay trước gọi là tiên hành.
Khi đàn chim bay còn đang thấp đã tìm hướng về chuồng gọi là
"trung khứ". Đàn chim bay thưa gọi là sơ, đàn chim bay dài gọi là
tràng.
Nuôi chim thi là cả một nghệ thuật. Chủ đàn chim thường có
con mắt kén chim rất tinh. Bên ngoài lông cánh là cào, bên trong là bị.
"Cào"nhọn thì chim bay cao, "bị" to thì đàn đen.
Mình con chim có điểm những lấm tấm đen gọi là "rợi",
có lông trắng ở phao câu gọi là "bạc phao".
Hội thả chim thi xưa rất vui. Ngày nay, hội hè đình đám không còn có tổ chức những cuộc thả chim thi, nhưng loài chim câu vẫn được dùng để đưa thư như thời trước
Với tục thả chim, tôi xin chấm dứt những trò "bách
hí" của các hội Xuân, mặc dù như trên đã nói, những trò vui này rất nhiều
và ở mỗi hội Xuân lại có những trò vui khác nhau dưới hàng trăm hình thức.
Chương giải trí này không phải chỉ nói dành riêng cho những
thú vui ở hội Xuân, mà chính ra, những điều cần nói tới nhiều hơn là những trò
tiêu khiển hàng ngày của dân ta, và cũng không thể bỏ qua được những trò chơi
khác mà dân ta cũng nhiều người ham mê tuy biết là có hại.
Những Trò Tiêu Khiển
Gọi là "những trò tiêu khiển" không phải là những
thú chơi dân dã của cả mọi giới, mà đây chỉ là những thú phong lưu của những
người khá giả, nhất là của đàn ông.
Trong xã hội ta xưa, dường như làm lụng là phần đàn bà, còn
ăn chơi là của đàn ông. Nói vậy, kể ra cũng hơi ngoa, nhưng sự thật đàn ông có
nhiều thú tiêu khiển hơn đàn bà, và những thú tiêu khiển của đàn ông, đàn bà
thường ít khi tham dự.
Về các thú tiêu khiển có thể kể: Cầm, kỳ, thi, tửu là bốn thứ
chính. Bên bốn món
tiêu khiển này, cũng còn có những thú tiêu khiển khác như
nghe ca hát, chơi cây cảnh, chơi núi non bộ, v.v....
Cầm
Cầm chính là tên một cây đàn, cây đàn này ngày xưa có năm
dây, và dần dần cung bậc thay đổi, nay ta có bảy dây.
Ta dùng từ cầm để chỉ thú tiêu kiển chơi đàn.
Gẩy đàn là một lối chơi thanh nhã, hoặc gẩy một mình hoặc hợp
tấu với bạn bè.
Đàn có nhiều thứ, những thứ ta thường thấy là đàn tranh, đàn
nguyệt, đàn bầu, đàn tam, đàn tuỳ, dương cầm... Gọi là chơi đàn, nhưng phải nói
gồm tất cả các nhạc khí khác, tất cả những nhạc khí phát ra âm thanh êm ái hoà
hợp được với nhau: sinh tiền, nhị, não bạt, v.v.... và, nói rộng ra, chơi đàn
nghĩa là chơi âm nhạc.
Âm nhạc là "Nghệ thuật điều hoà âm thanh để diễn tả tình
cảm.. Muốn điều hoà âm thanh lẽ tất nhiên phải dùng nhạc khí, một hoặc nhiều thứ,
để phát ra những tiếng êm ái thoả mãn thính giác của mọi người, người diễn tả
cũng như người nghe.
Trong những lúc thư nhàn, những đêm khuya thanh vắng, trước cảnh
yên lặng, mùi hương đêm ngạt ngào, cảm hứng sinh tình, một khúc đàn gẩy lên hoà
hợp tâm tư với hoàn cảnh, tưởng còn thú vị nào hơn. Lại có những lúc buồn bã một
mình, tiếng đàn thảnh thót giải muộn, tiêu cơn sầu, đem lại cho con người sự hứng
khởi, hoặc cho nỗi buồn thả theo đường tơ, nỗi buồn mênh mang sẽ làm dịu lòng
người. Tiếng đàn thánh tha thánh thót, những âm thanh trầm bổng điều hòa tri
giác...
Cũng như bất cứ dân tộc nào, người Việt Nam ta có âm nhạc
riêng, tuy có mượn một số nhạc khí của người Trung Hoa, nhưng dân tộc ta đã
"Việt Nam hoá" những nhạc khí này cũng như thú chơi âm nhạc với sáng
tạo riêng.
Đọc qua sử sách nước ta về thời Hồng Đức (1740) vua Lê Thánh
Tôn đã quy luật âm nhạc bằng cách đặt ra bộ Đồng Văn và bộ Nhã nhạc.
Bộ Đồng Văn chuyên tập âm luật để hoà nhạc, còn Nhã Nhạc dùng
âm thanh để xướng hát.
Ở chốn dân gian có bộ Giáo phường trông coi về âm nhạc.
Trong các cuộc tế lễ, từ triều đình đến dân gian, bao giờ
cũng dùng nhạc để điều hoà lễ.
Tại chốn cung đình về đời Lê, bộ Đồng Văn và bộ Nhã Nhạc, khi
nhạc tấu thường dùng trống ngưỡng thiên, kèn trúc lớn, long sinh long phách đàn
ba, bốn hoặc 15 dây, ống sáo, trống mảnh một mặt. Lại có thêm trống mõ và trống
tiền bông.
Trong dân gian, lúc hoà tấu, bộ Giáo Phường thường dùng bộ nhịp
tre, ống sáo, nhị, trống cơm, đàn đáy, phách, sinh tiền và trống mảnh. Thường
nhạc có lời ca.'
Các nhạc khí được sử dụng thay đổi, nhưng ta căn cứ theo nhạc
luật của Trung Hoa đặt ra năm cung bảy tiếng, cũng gần tương tự như bảy tiếng
trong âm giai của nhạc Tây Phương ngày nay.
Để phát ra âm thanh, ta dùng tám thứ tiếng phát ra bởi tám vật
liệu khác nhau, gọi là bát âm, và do đó phường nhạc của ta còn được gọi là
"phường bát âm".
Bát âm gồm:
Bào, trái bí, thuộc loại hoa bầu leo
Thổ, đất sét nung chín
Cách, da thuộc căng thẳng.
Mộc, gỗ;
Thạch, đá;
Kim, kim khí:
Ti, loại tơ kén; Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Trúc, loại tre.
Thường các nhạc khí được dùng để diễn tả "bát âm: Não bạt,
sinh tiền, kèn, trống nhỏ, nhị, sáo hoặc ống tiêu . Các nhạc khí được thay đổi,
có khi là cây đàn nguyệt, có khi cây đàn tam, đàn tứ thay cho cái bạt. Và cũng
có khi dùng các nhạc khí khác.
Một bản nhạc hoà lên bởi tám nhạc khí gọi là bát nhã âm nhạc.
Phường bát âm thường chơi mấy điệu lưu thủy, ngũ đối, tứ đại, nam ai, nam bình,
tẩu mã và rất ít có điệu mới. Các nhạc sĩ Việt Nam xưa, - xin nhấn mạnh, nhạc cổ
điển để phân biệt với Tân nhạc theo nhạc tây phương ngày nay. "Cho rằng
trách nhiệm của mình là học cho đủ những xoang điệu cũ, chứ không dám đặt ra
xoang điệu mới, thậm chí có người cho rằng những tiếng dặm thêm của một vài tài
tử trẻ tuổi là do tính hiếu kỳ , bởi vậy vấn đề sáng tác rất là hạn chế.
Trong các nhạc khí của ta thường dùng, có cây độc huyền cầm tức
cây đàn bầu là cây đàn độc đáo hơn bất cứ một thứ nhạc khí của quốc gia nào.
Cây đàn bầu phải kể là một cây đàn hoàn toàn Việt Nam, và chế
hoá một cách hết sức giản dị. Đàn chỉ có một dây, do đó mà có từ “độc huyền cầm",
căng thẳng trên trống đàn, một đầu dây buộc chặt vào trống đàn, còn một đầu buộc
vào cây trụ bằng tre. Cây trụ này dùng để nhấn âm thanh mỗi khi gảy. Đàn không
ngựa, không phím, và trên mặt trống đàn chỉ có ba vạch phấn trắng chia làm bốn
cung, thay vì năm cung như những đàn khác. Đối với những nhạc sĩ thành thạo, họ
cũng chẳng cần gì đến ba vạch trắng kia nữa. Trống đàn làm bằng một khúc gỗ đục
rỗng thường cỡ 1m20x0,12x0,16.
Tuy đàn chỉ có bốn cung, nhưng mỗi cung có thể tạo ra rất nhiều
âm thanh, và tiếng đàn nghe rất thiết tha, buồn buồn, một thứ buồn êm ái quyến
rũ, đôi khi đến não nùng dễ thấm lặng vào tâm hồn con người.
Người xưa cho những bản nhạc của đàn bầu là "tục nhạc",
là "dâm thanh" vì tiếng nhạc dễ gợi u hoài và tạo niềm sâu cảm.
Ca dao có câu:
"Làm thân con gái chớ nghe đàn bàu"
Đàn bà con gái bị cấm nghe đàn bàu chính vì sức quyến rũ của
những bản đàn gảy nên.
Đàn bầu khó hoà âm cùng với các đàn khác, thường chỉ độc tấu,
và chính sự độc tấu nên tiếng đàn như rền rĩ than van có sức khêu gợi quyến rũ
càng mạnh.
Xẩm chợ hay dùng đàn này để xướng ca là kế độ nhật. Nói vậy,
không phải những người phong lưu không chơi đàn bầu, và các tay tài tử cũng ưa
thích chiếc đàn này vì nỗi buồn thường dễ thấm lòng người.
Ta cũng ưa chơi "hồ cầm" còn gọi là đàn cò hoặc nhị.
Nhị cũng là nhạc khí Việt Nam, giống như vĩ cầm của Tây
phương, và sự phát thanh của nhị cũng giống như vĩ cầm, không phải gẩy vào dây
đàn để tạo âm thanh, mà dùng mã vĩ cọ xát vào giữa hai dây nhị. Thùng nhị làm bằng
một khối gỗ đục rỗng, mặt bịt bằng da trăn. Trên trống thùng có gắn một phím gỗ.
Cần nhị dài chừng nửa thước, cắm chặt vào thùng. Hai dây nhị bộc từ đầu cần tới
phím nhị.
Mã vĩ, để kéo nhị bằng tóc hoặc bằng lông đuôi ngựa buộc vào
một khung tre giống như chiếc cung. Dây mã vĩ để ở giữa hai dây nhị, và lúc
chơi nhị ta gọi là "kéo nhị". Âm thanh nhị được rung mạnh trên phím.
Một loại đàn nữa cũng được thường sử dụng là đàn thập lục huyền,
còn gọi là đàn tranh.
Đàn tranh làm bằng gỗ, đục rỗng lòng máng, có 16 dây dài ngắn,
căng chùng theo nhu cầu của âm thanh. Những dây này được bắc ngang trên những
phím đàn. Lúc chơi đàn, dùng những móng sắt móc vào đầu ngón tay, gẩy vào dây
đàn. Tay trái nhấn trên
sợi dây để lấy âm thanh.
Cùng với đàn tranh, các tài tử còn chơi đàn nguyệt.
Đàn nguyệt còn gọi là đàn Cầm, hoặc đàn Kìm, có thể so sánh với
đàn mandoline của Tây Phương. Thùng đàn nguyệt hình tròn và hoàn toàn kín, âm
thanh điều hoà do thùng đàn. Trong thùng có một miếng kim khí hình xoắn trôn ốc.Chu
vi thùng đàn chừng 36 phân. Hai mặt thùng được gắn liền bởi những miếng sắt độ
4 phân. Cần đàn dài khoảng 65 phân, và có 8 phím. Đàn có thể có hai hoặc bốn
dây. Tài tử có nghệ thuật chỉ cần hai dây. Mỗi phím có 4 thanh cao thấp tùy tay
rung mạnh hay yếu trên dây. Đàn nguyệt có những biến âm rất êm ái và quyến rũ.
Các nhạc khí cổ nhạc còn nhiều, như ở trên đã kể ra, mỗi nhạc
khí mỗi khác, nhạc khí này phát ra âm thanh hoà với nhạc khí nọ để bổ sung và hỗ
trợ cho nhau trong những buổi hoà âm.
Những cổ nhạc khí này hiện nay vẫn còn được sử dụng trong những
buổi hoà nhạc đôi khi bên cạnh những nhạc khí tây phương trong những bản nhạc cổ
kim hoà điệu, và cũng được dùng để tạo các bản tân nhạc.
Ở đây tôi không nói tới các nhạc khí Tây Phương ngày nay rất
thông dụng trong những nhạc hội và trong những buổi hoà tấu tân nhạc. Và các
tài tử, cùng với cổ nhạc đã ưa thích cả tân nhạc với những nhạc cụ mới.
Kỳ
Kỳ là thú chơi cờ. "Cờ" là một thứ giải trí thanh
cao tao nhã, và mỗi ván cờ là một cuộc đấu trí gay go, người chơi phải suy nghĩ
vào đó rất nhiều.
Xưa nay trong các môn cờ bạc, người chơi đều tính đến chuyện
ăn thua, không có tiền cờ bạc không bao giờ thành, và các con bạc không thể thấy
có hứng khi đánh bạc không ăn tiền, duy chỉ có cờ là các đấu viên không cần đặt
tiền cũng ham mê thích thú.
Ở Việt Nam ta có môn cờ tướng được ham chuộng, kẻ sang người
hèn phần nhiều đều biết qua.
Cờ tướng
Giải trí bằng cờ tướng là giải trí một cách lành mạnh, qua một
trò chơi thuần túy Á Đông.
Có thể nói được rằng chơi cờ tướng là điều khiển một trận
"chiến tranh giả" giữa hai quốc gia, tượng trưng có tướng sĩ, tượng,
xe, pháo, mã, tốt. Người đánh cờ là vị Tổng Tham Mưu chỉ huy ba quân, dàn mặt
trận, công thủ tiến thoái tùy theo cơ mưu của mình, dùng trăm phương nghìn kế để
tạo nên những thế cờ hiểm hóc, khiến đối phương đi vào nước bí, không phản công
được, không giải cứu được. Phục kích có, truy kích có, cản địch có. Hai bên
chơi cờ phải sáng suốt tính trước từ nhiều nước, bên nào kém sẽ lâm vào thế bị
động, cờ đi nước một, luôn bị tấn công và luôn luôn phải phòng giữ, không còn
lúc rảnh rỗi để công hãm địch quân.
Một nước chiếu tướng như một trận đánh thành, gỡ một nước cờ
bí, chuyển bại thành thắng như cuộc phản công có cơ mưu.
Ta thường nói:
"Cờ gặp nước bí, như gặp phải trời "
Bị phải trời mưa ướt sũng, ướt sĩnh, nặng trình trịch thì cờ
phải nước bí, người chơi cờ cũng cảm thấy nặng nề như vậy.
Một bộ cờ tướng chỉ có 32 quân, mỗi bên 16 quân, gồm một tướng,
hai sĩ, hai tượng, hai xe, hai pháo, hai mã và năm tốt, vậy mà cuộc đấu trí tạo
nên hàng vạn hàng triệu thế cờ khác nhau.
Có bàn cờ, có quân cờ, hai tay danh kỳ hoặc một đôi bạn hữu
ưa cờ gặp nhau, là có Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
thể có một cuộc xuất trận đấu trí.
Cờ tướng chơi trên bàn cờ, nhưng trong những dịp hội hè tại các
làng xã vùng quê thường có tổ chức đánh cờ trên sân gọi là cờ bỏi. Sân cờ được
vạch theo bàn cờ, và những chỗ để quân cờ, có những lỗ cắm các biển cờ, các biển
mang tên các quân cờ từ tướng đến tốt. Những làng có vào đám long trọng lại tổ
chức cờ người. Thường sân đình được biến thành sân cờ, và những quân cờ đây
không phải là những biển cờ như cờ bỏi mà chính là những thanh niên và thiếu nữ,
mặc những chiếc áo, có khâu vào những chữ mang tên những quân cờ ở đằng trước
ngực và sau lưng. Những thanh niên quân cờ thường mặc quần ống sớ, áo lương hoặc
áo sa, thắt dải lưng điều, đầu đội khăn lượt và chân đi giày Gia Định, còn các
thiếu nữ thường kén những cô duyên dáng xinh đẹp, ăn mặc chải chuốt. Các quân cờ
người ngồi vào những chỗ đáng lẽ phải cắm biển cờ. Cũng có khi thay vì mặc quần
áo có khâu chữ mang tên quân cờ, các quân cờ người lại vác một chiếc biển cờ.
Lúc có cuộc giao đấu, các quân cờ di chuyển theo lệnh của người
chơi cờ, trong tay có chiếc cờ lệnh, phất lên mỗi khi cần ra lệnh cho quân cờ.
Tại các hội hè, khi có hai đối thủ đánh cờ bỏi hoặc cờ người,
thường có tuần tráng theo lệnh ban tổ chức vác một chiếc trống khẩu đánh để
thúc dục các đấu thủ đi mỗi nước cờ. Các đấu thủ gặp nước bí thì trống càng
thúc liên hồi.
Cờ tướng tuy chỉ là một môn tiêu khiển, nhưng chính ra là cả
một nghệ thuật và các tay kỳ tài đã xuất bản nhiều sách vở về cờ.
Chơi cờ có luật lệ về các lối đi của các quân cờ: "mã nhật",
"tượng điền", "xe liền", "pháo cách", tướng không
xuất khỏi cung, sĩ đi chéo, tốt chỉ tiến không lùi và ở đất mình không được đi
ngang.
Luật lệ từ xưa tới nay bao giờ cũng vậy, vậy mà trước đây gần
1.500 năm đã có những bộ sách cờ như Quất Trung Bí, Mai Hoa Phổ, Tượng Kỳ Đại
Đoàn, v.v.... Gần đây ở Trung Hoa lại có các tạp chí về cờ.
Ở nước nhà số người chơi cờ rất nhiều. Nhiều báo chí và tạp
chí có mở mục cờ tướng. Trước đây các ông Nguyễn Thành Hi và Thái Sanh Dinh có
cho xuất bản cuốn Cờ Tướng Việt Nam. Ngoài ra, giáo sư Phạm Văn Khánh cũng đã
có soạn bộ sách cờ Bí Quyết Ka Mã. Ngày nay thì sách về cờ khá phổ biến.
Thường khi hai đấu thủ đối cuộc, những nước cờ của họ chơi có
thể ghi chép lại được trọn nguyên bàn.
Gần đây, trong những giải vô địch cờ tướng trong nước, các
bàn cờ được ghi chép đầy đủ và được đăng báo kèm theo lời phê bình để độc giả
thích cờ tuy ở nhà cũng như được dự cuộc đấu cờ tại chỗ.
Trong làng cờ Việt Nam từ xưa tới nay thường đã có những danh
thủ cờ tướng dày công nghiên cứu học thuật "tượng kỳ" với những thế
bí truyền hiểm hóc khiến những kỳ thủ ngoại quốc phải ngợi khen.
Xin nhắc lại trước đây kỳ thủ Việt Nam Phạm Thanh Mai năm
1959 đã thắng kỳ vương Hương Cảng Lý Chí Hải với tỉ số hòa ba thắng một đã gây
nên dư luận sôi nổi trong kỳ giới quốc tế năm 1963, Lý Chí Hải lại sang Việt
Nam nhưng trong 5 trận đấu thì 3 hòa, một được và một thua.
Nhân đây cũng xin nhắc lại một câu chuyện lịch sử về cờ tướng
tại Việt Nam.
Bấy giờ dưới đời vua Trần Dụ Tôn (1341-1369). Nước ta đang ở
trong thời kỳ bị nước Tàu dòm ngó muốn xâm lăng. Vua Tàu sai sứ giả sang nước
ta để thách đố đánh cờ với vua Dụ Tôn. Vua Dụ Tôn không dám từ chối, nhưng thật
tình rất lo ngại. Nhà vua sai đi tìm người tài giỏi để đấu cờ với sứ Tàu. Khi ấy
ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An có ông Vũ Huyền là một hảo thủ tượng kỳ. Ông Vũ
Huyền vào yết kiến
nhà vua, cam đoan giúp nhà Vua thắng sứ giả Tàu, nhưng cuộc cờ
phải bắt đầu vào đúng ngọ, và xin nhà Vua cho Vũ Huyền được đứng hầu cận trong
lúc đánh cờ.
Cờ chơi ngoài trời, kẻ hầu cận phải che lọng cho Vua và sứ giả
Trung Hoa. Lọng Vũ Huyền che cho nhà vua đã dùi thủng một lỗ để ánh sáng mặt trời
lọt qua. Vua cứ theo tia nắng ở lỗ lọng chiếu xuống mà đi cờ, nên đã thắng sứ
giả Trung Hoa. Nhờ sự thắng cờ này, Trung Hoa cho nhà Vua là người tài và không
dám gậy cuộc binh đao.
Kể ra, nghệ thuật chơi cờ tướng ở Việt Nam đã đi đến chỗ thật
kỳ thú. Một số lớn danh thủ Việt Nam chơi cờ tưởng, nghĩa là chỉ dùng trí nhớ
mà đánh cờ, không có bàn cờ và quân cờ. Các đấu thủ chỉ trao đổi nước cờ với
nhau bằng lời nói.
Trên bàn cờ có tất cả 90 vị trí cho 32 quân cờ của hai bên,
quân cờ và nước cờ luôn biến chuyển, vầy mà các đấu thủ không sai lầm nước nào,
như vậy thử hỏi có phải là một cuộc thử thách ghê gớm về trí nhớ không, nhất là
khi thời gian đấu một ván cờ không phải là năm, ba phút mà có khi là cả nửa
ngày.
"Cờ tưởng"còn được gọi là cờ mù, vì không ai trông
thấy bàn cờ và quân cờ. Muốn chơi được cờ tưởng, người chơi cờ phải có một căn
bản vững chãi về cờ, lại phải rất nhiều kinh nghiệm về những trận đấu cờ.
Và ta cũng đừng lấy làm lạ có nhiều người bị mục tật lại chơi
cờ rất cao!
mấy lối chơi cờ bình dân
Cờ tướng là môn giải trí thú vị, vừa là môn đấu trí ghê ghớm,
dân ta rất ưa. Tuy vậy muốn chơi cờ tướng phải có bàn cờ và quân cờ. Trong nhiều
trường hợp các anh em lao động bình dân cũng như nông phu thôn dã không thuận
tiện chơi được lối cờ này, họ chơi những lối cờ bình dân để đấu trí trong khi rỗi
rãi.
Dưới đây là mấy lối cờ bình dân thường được mọi người ưa
chơi.
Cờ chiếu tướng - Cờ được chhia làm hai bên, mỗi bên có một
tướng và chín quân bày trên một bàn cờ theo hình vẽ (hình 1).
Quân cờ có thể cắt bằng giấy, bẻ bằng que hay dùng bất cứ thứ
gì cũng được, miễn làm sao phân biệt được quân hai bên khác nhau, và tướng của
mỗi bên cũng khác các quân kia.
Về chơi cờ thì đi nước một, theo các đường gạch trong bàn cờ,
muốn đi ngang, đi dọc, đi chéo góc, đi tiến hay đi lùi đều được cả. Mỗi lần chỉ
đi được một nước, đi tướng hay đi quân, đi từ chỗ các đường gạch gặp nhau này tới
chỗ các đường gạch gặp nhau ở gần nhất. Mỗi chỗ các đường gạch gặp nhau là một
nước.
Bên nọ có thể ăn quân của bên kia. Chỉ có tướng của bên nọ mới
ăn được quân của bên kia. Muốn ăn quân, tướng phải ở trước mặt một quân của
mình (hình 2). Bên nào bị ăn hết quân thì thua.
Cờ này tên gọi là cờ chiếu tướng nên ngoài lối chơi ăn quân,
bên nọ còn dùng cách chiếu tướng bên kia. Tướng nọ muốn chiếu tướng bên kia, phải
có trước mặt một quân của mình (hình 3), Tướng bị chiếu không còn lối thoát thì
thua.
Cờ ngũ hành - Cờ cũng chia làm hai bên, mỗi bên bốn quân
bày trên một bàn cờ. Bàn cờ hai hình chữ nhật gặp nhau ở giữa (hình 4).
Quân cũng như quân cờ chiếu tướng, muốn dùng bằng gì cũng được.
Cờ có thể đi từ một đến năm bực tính theo ngũ hành là Kim, Mộc,
Thủy, Hoả và Thổ. Quân đi phải ngừng khi nào đến một bực đã có quân khác rồi,
dù đó là quân của mình hay của bên kia (hình 5).
Hai bên có thể ăn quân của nhau. Bên nào bị ăn hết quân là
bên ấy thua. Muốn ăn quân, bên nọ phải đi từ Kim đến Thổ, và quân bên kia phải ở
đúng ngay bực Thổ mới được ăn. (hình 6).
Bên nọ có thể dồn quân để bây bên kia không có lối đi Bên nào
mắc vào nước dồn Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
thì thua (hình 7).
Cờ chân chó - Cờ cũng chia làm hai bên, mỗi bên chỉ có hai
quân bày trên bàn cờ theo hình vẽ (hình 8).
Quân cờ cũng giống như quân cờ chiếu tướng và ngũ hành.
Cờ chân chó không có lối ăn quân.
Nước cờ có thể đi ngang, đi dọc, hoặc theo đường chéo góc. Mỗi
nước đi một bực, cấm không được qua sông.
Hai bên phải tìm cách dồn nhau vào lối bí hết nước đi. Bên
nào hết nước đi thì thua (hình 9).
Những lối cờ bình dân còn nhiều, nhưng tựu trong bàn cờ thường
giống bàn cờ chiếu tướng: Cờ gánh, cờ cọp. Lối chơi cờ nào cũng giản dị và lý
thú như mấy lối cờ trên. Anh em bình dân muốn chơi lúc nào và chơi ở đâu cũng
được. Hai bác nông phu nghỉ trưa, hai công nhân đợi giờ vào sở, hai em bé chăn
trâu chờ trâu ăn đều có thể vẽ một bàn cờ xuống đất, nhặt mấy hòn sành, hòn sỏi
làm quân cờ để cùng nhau giải trí. Thật là thú vị.
Từ ngày giao tiếp với Âu Mỹ, có một số người học đòi nếp sống
của người Tây Phương, chơi những lối cờ của người Tây Phương, nhưng may thay
đây chỉ là một thiểu số. Cờ của Tây Phương, tôi không nói là dở; nhưng hay hơn
cờ tướng của Đông Phương, điều đó chắc không rồi! Có thể bắt chước các lối chơi
của họ nhưng phải giữ làm sao để trong khi bắt chước như vậy không đến nỗi rời
bỏ cội rễ của mình. Ngày nay môm cờ Vua đang phát triển.
Thi
"Một mình buồn bã, trong thấy cảnh tượng gì xúc động
tình tứ, hoặc đi chơi đâucó thắng cảnh thì mượn ngòi bút mà tả tính tình, có
khi một vài anh em xướng hoạ hay là liên ngâm với nhau, cũng là mộtộ thú vui rất
thanh nhã."
Ngâm thơ và làm thơ là cái thú của người văn nhã. Trước cảnh
đẹp, lòng người đồng cảm với thiên nhiên, trước một bầu trời buồn bã hợp với nỗi
buồn riêng của mình, một vài vần thơ ngâm lên, hợp người hợp cảnh, nếu không
làm cho nỗi buồn tiêu tán thì cũng khiến cho người buồn thấy tâm tư lắng dịu,
và con người qua vần thơ như muốn cùng thiên nhiên hoà hợp.
Thi (thơ) là một môn tiêu khiển rất thanh tao, chỉ những người
có tâm hồn mới biết hưởng. Khi ngâm, lúc vịnh, gửi nỗi lòng trong những vần
thơ, hoặc mượn thơ người khác ngâm lên để tiêu giải nỗi u hoài riêng, con người
thơ thật đã tự tạo cho mình biết bao thú vị, biết bao hứng khởi, và với vần thơ
nỗi sầu riêng càng mang mác thì con người sầu lại cảm thấy nỗi sầu như thiêng
liêng quý báu.
Làm thơ gửi người tình, làm thơ ca ngợi cái đẹp thiên nhiên,
làm thơ nói lên nỗi tâm tư, thật là đáng quý vậy.
Vui anh vui em, thơ có kẻ xướng người hoạ, lại có lúc một đề
thơ, một người làm một câu, mấy người chung lại thành một bài thơm chơi thơ sao
mà nhẹ nhàng tao nhã!
Chơi thơ, có nhiều lối và mỗi lối có một thú vị đặc biệt
riêng.
Hoạ thơ - Một người làm một bài thơ, thất ngôn bát cú hoặc tứ
tuyệt. hoặc có khi là một bài thơ lục bát với một đề tài gì, những người khác
cũng theo đề tài hoạ nguyên văn bài thơ, nghĩa là làm một bài thơ cùng với những
vần thơ đầu tiên đã làm. Người hoạ thơ có thể đồng ý hoặc phản ý người xướng
thơ.
Mời bạn
Đưa đến thi gia mảnh giấy phong
Giấy còn trắng xoá tỏ màu trong.
Cảnh bầy tứ mỹ thơ vui tả,
Chén đợi cao nhân rượu nhắp chung.
Phép lạ Trường Phòng mong rút đất,
Con thuyền Từ Chỉ cắm bên song.
Tử du hà tất xin đừng nhớ,
Mong đến cùng nhau ta chữ đồng
TRÚC PHONG
Bài hoạ
Cửa ngoài tiếp được bức thư phong,
Vừa mở xem qua, biết ý trong.
Chén rượu đương chờ, hâm đã nóng,
Câu văn hãy đợi, vịnh cùng chung.
Cánh tiên ước được mà bay gió,
Đường bộ mau hơn khỏi vượt sông.
Đã nghĩa giao du đâu dám chối,
Gửi lời về trước chú gia đồng.
CHIÊU DƯƠNG
Liên ngâm cũng là một lối chơi thơ thú vị. Với một đầu đề ba
bốn người bạn thơ cùng nhau ngâm vịnh mỗi người một câu cho thành bài thơ, câu
nọ tiếp ý câu kia, toàn bài không có sự mâu thuẫn, và phải lột hết ý nghĩa đề
thơ.
Nói đến chơi thơ, chơi chữ phải nói đến chơi câu đối.
Câu đối gồm hai vế đối nhau, mỗi bên cùng một số chữ. Các tay
hay chữ dùng câu đối để mừng nhau, để viếng nhau và cũng có khi để mỉa mai
nhau.
Xưa, nhà nhà ngày Tết đến đều có dán câu đối đỏ ở hai bên giường
thờ, ở nơi tiếp khách, ở các nơi thờ tự và ở cả ngoài cổng ngõ.
Những người chơi câu đối thường nhờ người chữ tốt văn hay viết
cho. Có các bậc đại khoa, các cụ đồ ngày xưa được nhiều người ưa chuộng nét chữ,
thường cầu cạnh xin cho bằng được đôi câu đối để về treo trong nhà, và cho là một
vinh dự.
Mỗi lần Tết đến, nhất là ở ngoài Bắc, vẫn thấy các ông đồ
mang giấy đỏ mực tàu đến các góc phố để viết những câu đối Xuân bán cho thiên hạ.
Lối chơi thi văn còn thú khai bút đầu năm. Xuân mới đến, trên
bàn thời khói hương nghi ngút, trong thư phòng hoa nở mừng Xuân, nhà thơ kén giờ
tốt, lấy bút mực viết bài thơ khai bút, trong gói ghém tâm niệm của mình, hoặc
tả tình tả cảnh. Lời thơ hay, ý thơ đẹp, mảnh giấy trắng, mùi mực thơm hoà hợp
với hoàn cảnh của Xuân cuả Tết.
Nhà văn nhà thơ ít ai bỏ được lệ khai bút. Làm bài thơ rồi
ngâm nga, rồi gửi bạn bè, thật cũng là một điều hứng trí.
Dưới đây là một bài thơ khai bút của thi sĩ Đông Hồ gửi cho
chúng tôi nhân dịp Nguyên Đán Giáp Thìn (1964):
Trân Trọng Gủi Toan Ánh
Xuân một lần thêm một đá vàng
Tuổi Xuân đầy đặn nguyệt tròn gương
Tơ giăng chỉ buộc bao khăng khít
Mực đậm son tươi mấy tỏ tường
Mây khói qua rồi, tan biến loạn,
Cỏ hoa còn đó ngát văn chương.
Bài thơ khai bút vần trinh trắng,
Cánh thiếp đầu năm hẹn trễ tràng.
Xuân tín lần lừa ngàn điệp thúy,
Mai hoa e ấp nụ phân phương. Phong Tuc Tap
Quan Viet Nam
Một cánh xuân gửi nghìn trân trọng
Sứ dịch trao tay khéo mở đường.
Đông Hồ
Ngoài các lối chơi thơ văn kể trên, để tiêu khiển với thơ với
phú còn rất nhiều lối khác. Nào thơ đố, thơ châm biếm. Lại còn lối đánh chữ thả
thơ của các nhà nho xưa cũng đầy thanh cao tao nhã. Một cụ chọn một bài cổ thi,
thường là thơ tứ tuyệt , viết ra cả bài thơ, bỏ trống một chữ và cụ đưa ba bốn
chữ có thể điền vào chỗ trống đó. Người dự cuộc chọn lựa một chữ cho đúng với
nguyên văn.
Lối đánh chữ thả thơ này chứng tỏ sự tham bác sâu rộng, thông
cổ quán kim của những người dự cuộc. Chỉ rất tiếc phải dùng những bài thơ Chữ
Hán tự trong lối chơi này.
Các thi nhân xưa và này lại còn thú làm thơ cho ca nhi ngâm.
Ca nhi ngâm, các cụ rung đùi ngồi nghe, nhấm nháp chén rượu thật là tuyệt.
Nhiều thi nhân chơi thơ cầu kỳ làm những bài thơ đọc xuôi
cũng được, đọc ngược cũng được. Có những bài thơ khi đọc xuôi là chữ Hán, khi đọc
ngược là chữ Nôm mới thật là tài tình.
Dưới đây là bài thơ của ông Vũ Duy Thanh, đọc xuôi là thơ chữ
Hán, đọc ngược là chữ Nôm, do Lãng Nhân sưu tầm trong "Giai Thoại Làng
Nho".
Phong Hoa Tuế Nguyệt
"Thi đàn liễu lộng hoa hài,
Khách bộ tuỳ sương ấn bích đài
Kỳ cục đã phong thanh áp trận,
Tửu biều nghinh tuyết bạch hoà bôi.
Sơ liêm thấu nguyệt hương ly cúc,
Yến tịch lăng hoa vị át mai.
Phi phất lĩnh đầu chiêm tĩnh điếm,
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài."
Trên là đọc xuôi, đọc theo Hán tự, còn dưới đây là đọc ngược,
đọc theo chữ Nôm:
"Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ,
Điếm tạnh, xen đầu núi phất phơ.
Mai át mùi hoa lừng tiệc yến,
Cúc lià hương nguyệt thấu rèm thưa
Chén hòa bạch tuyết nghiêng bầu rượu,
Trận áp thanh phong đánh cuộc cờ.
Rêu bước in sương theo bước khách,
Giày hoa lỏng lẻo tới đàn thơ".
Nghề chơi thật lắm công phu! Chơi thơ văn, chơi chữ càng nhiều
công phu hơn nữa. Nếu bạn đọc muốn biết nhiều về chơi chữ, xin đọc các cuốn
Chơi Chữ và Giai Thoại Làng Nho của Lãng Nhân.
Tửu
Thú tiêu khiển đứng sau thi là tửu, tửu là rượu. Xưa, thơ thường
đi với rượu, và đã là thi sĩ ắt phải là tửu đồ.
"Trăm năm thơ túi rượu hồ,
Nghìn năm thi sĩ tửu đồ là ai?".
Tản Đà
Những người buồn bực vì cảnh nhà, bất đắc chí vì công danh
thường lấy rượu để giải khuây; các cụ tuổi cao để qua ngày tháng cũng lấy chén
rượu làm vui. Nếu có người ngâm thơ rồi uống rượu, cũng lại có người:
"khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên!".
Nguyễn Du
Người phong lưu phải biết uống rượu. và con người lịch sự thì
phải tửu tam bôi, nghĩa là rượu ba chén.
Bạn bè gặp nhau, mượn chén rượu để trợ hứng, cùng nhau bàn luận
văn chương, ngâm thơ đọc phú. Và cũng trong cuộc rượu bạn bè thường cùng nhau
giải bày tâm sự hoặc bàn luận chuyện đời:
"Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ôm ấp bầu xuân!".
Nguyễn Khuyến
Ta có câu "Nam vô tửu như kỳ vô phong" nghĩa là làm
trai không uống rượu cũng như cờ không có gió, vì chén rượu nhiều khi là động lực
thúc đẩy con người trong sự nghiệp; lại cũng nói rằng Tửu năng dẫn huyết, nghĩa
là rượu làm cho huyết mạch lưu thông. Ngày nay khác xưa, nghiện rượu đang là mối
đe dọa con người.
Những người sành rượu khi uống thường kén rượu ngon già độ, sủi
nhiều tăm khi rót ra. Rượu chế bằng gạo, nhưng để thết khách, và những tay hào
hoa thường kén các thứ rượu quý, chế không riêng bằng gạo mà còn bằng các thứ
hoa hoặc trái cây nữa: Mai quế lộ, hoàng hoa tửu, bồ đào mỹ tửu, v.v....
Ngày xưa, các cô bán rượu thường gánh những gánh đầy những
bong bóng rượu vào các làng bán, và các tay hay rượu thường say rượu của các cô
bán, và có khi say cả nhan sắc các cô nữa:
"Em là con gái đồng trinh,
Em đi bán rượu qua dinh ông nghè.
Ông Nghè sai lính ra ve
Trăm lậy ông Nghè, tôi đã có con.
Có con thì mặc có con,
Thắt lưng cho tròn mà lấy chồng quan."
Uống rượu là một thú, nhưng uống rượu để giải khuây để trợ hứng,
cái thú càng quý, còn nếu uống rượu để say sưa nát rượu quả là một điều không
nên.
Có người say rượu nhưng say vì trong người choáng váng lại cảm
thấy cái say như dễ chịu, khi tỉnh rượu lại muốn say:
"Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa."
Say rượu không nát, uống không hại ai, và mỗi ngày vài ba
chén để ngâm vịnh thơ phú, để trợ lực thêm phấn khởi, để quên sầu, rượu vẫn giữ
nguyên cái thú của rượu, nghĩa là rượu còn đứng vào hàng tiêu khiển. Có cũng được,
không cũng được, con người không nghiện ngập. Đó là quan niệm của người xưa
cũng đáng trân trọng.
Nếu vì rượu say sưa, ngôn ngữ hồ đồ, hành động mất lương tri,
rượu đã từ địa hạt tiêu khiển bước sang hàng đầu "Tứ đổ tường", rượu
không còn là một cái thú, mà rượu còn là một cái hại, cần tránh.
Đời xưa, đời nay, bao giờ cũng có người uống rượu và ở nước
nào cũng vậy, rượu vẫn được người ta sử dụng với phương cách khác nhau.
Đàn ông uống rượu đã đành, đàn bà cũng uống rượu, đó là một
điều còn hiếm tại Việt Nam.
Tiếp xúc với Tây Phương, ngày nay ngoài những thứ rượu cổ
truyền của ta, một số người Việt cũng bắt chước người Tây Phương dùng nhiều rượu
nhập cảng, để khai vị cũng như để uống trong bữa ăn. Một số phụ nữ cũng đua đòi
uống rượu, và say sưa Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
không kém gì đàn ông.
Đàn ông uống rượu đến say sưa đã đáng chê, đến đàn bà cũng
say sưa thì thật là quá bậy vậy!
Cầm, kỳ, thi, tửu là tứ thú phong lưu của người Việt sưa, có
tính cách phóng khoáng nhàn hạ. Ngoài những thú tiêu khiển đó, ta còn có những
lối tiêu khiển lý thú khác như chơi bể cạn với hòn non bộ, chơi cây cảnh, nuôi
chim hót, cá cảnh, v.v...
Bể cạn và hòn non bộ
Về cái thú chơi bể cạn và hòn non bộ, không phải riêng gì dân
tộc Việt Nam ta chơi, mà hầu hết các dân tộc Á Đông đều có cái thú này: Trung
hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, ....
"Bể cạn"là một chiếc bể chứa nước, đắp nhỏ lại, còn
"Hòn non bộ"là hòn núi giả đắp trong lòng bể cạn, người xưa gọi là bồn
trì và giả sơn.
Theo sử sách truyền lại thì dưới triều Vua Lê Đại Hành, một
năm, nhân dịp lễ sinh nhật của nhà vua, có một người làm một ngọn giả sơn đặt
trên bè nổi giữa sông, mọi người bơi thuyền chung quanh mà thưởng ngoạn. Giả
sơn ấy được đặt tên là Nam Sơn. Các nhà vua nhà Lý về sau cũng giữ tục chơi giả
sơn trong dịp lễ sinh nhật.
Dần dần về sau, người ta đặt giả sơn trong bể cạn, bể cạn có
chứa nước, khiến ngọn giả sơn nằm giữa bể giống như một cái cù lao.
Trong bể cạn có nuôi cá, nhất là loại cá vàng, cá bạc chúng
bơi đi bơi lại trong rất đẹp. Lại có thả những loại cây nước như bèo tấm bèo
cái, vừa dùng để nuôi cá , vừa để che nắng cho cá những lúc trưa hè nắng gắt.
Người ta đắp ngọn giả sơn bằng những hòn đá rắn, nhưng có những
lỗ nhỏ li ti để hút được nước dưới bể cạn lên, khiến cho hòn non bộ lúc nào
cũng như ẩm ướt để nuôi những cây trồng ở trên, và những rễ cây tìm vào những lỗ
li ti đó để hút nước.
Được gắn vào hòn non bộ những bộ tượng sành, tượng đất, những
ngôi chùa sành tí hon với những chiếc cầu cũng bé nhỏ. Các người cầu kỳ còn đi
tìm ở các hang động để lấy nhũ đá đắp vào hòn non bộ, tạo nên một cảnh thu nhỏ
óng ánh như một kỳ quan xinh xắn.
Chủ nhân một hòn non bộ như một tay tạo hoá xây dựng nên cảnh
núi non. Chỗ nào ngọn cao, chỗ nào đồi thấp, chỗ nào chùa, chỗ nào quán, chỗ
nào cầu bắc ngang, chỗ nào ngôi tháp cổ, và chỗ nào có những cảnh sinh hoạt:
Ông Lã Vọng ngồi câu cá, hai Tiên ông ngồi đánh cờ, một vị tu hành nhập định.
Trên hòn non bộ trồng cây, đủ cây đa, cây đề, cây si, cây
sanh, nhưng cây nào cũng nhỏ xíu với lá xanh tốt với rễ chằng chịt. Lại những
cây mai, cây lý, những đám cỏ xanh rờn. Lạ lùng nhất những cây trên hòn non bộ
cũng có hoa, có trái, có lá, cóộlc, nhưng với vẫn hình thù màu sắc của mỗi loại
cây, ở hòn non bộ chúng đều thu bé lại, .... sao mà lý thú vậy!
Người ta bảo rằng phải lấy những hạt giống còi của những cây
đa cằn cỗi để gieo, và lúc cây mọc phải chiết rễ cái đi để chúng chỉ lớn bằng rễ
con, như vậy chúng không thể to được, chúng chỉ bé vừa tầm với hòn non bộ. Nhiều
cây được uốn theo ý muốn của chủ nhân để hợp với hình thể hòn non bộ.
Nhiều cụ già say mê hòn non bộ, hàng ngày đứng ngắm công
trình của mình tạo nên, lại săn sóc cho nó, thực là một thú trầm lặng thanh nhã
chỉ những người chơi núi non bộ mới cảm thấy được. Săn sóc hết cây trên non, lại
săn sóc đàn cá dưới nước! Thật là vô cùng thích thú, và đây là "cái thú
thoát tục, cái thú quên những phiền muộn và cộc sống hiện tại, quên những ràng
buộc vật chất, và tinh thần để thả hồn phiêu diêu vào những khe vách đá, vào những
dòng suối mát, vào những cầu quán, những hang động... Tóm lại, là cái thú của
những đã lăn lóc với cuộc sống, đã đầy đủ bổn
phận với gia đình và xã hội, và bây giờ đến lúc già về hưu,
thì mượn nó để làm phương tiện xuất thần, coi như một cách của người chơi văn
nghệ vậy".
Chơi bể cạn và núi non bộ, chẳng qua là một cái thú, nhất là
khi ta sống giữa cuộc đời ồn ào, phải tìm cái im lặng của hòn non bộ mà quên thời
giờ, và cũng đã có những người bỏ rất nhiều tiền tìm mua đá quý đắp vào hòn non
bộ, tìm mua đàn cá có đủ màu sắc để thào vào bể dưới hòn non bộ Chơi càng công
phu càng thích thú, càng thích thú người ta lại càng cầu kỳ để có một bể cạn và
hòn non bộ thật khác thường!
Ngày xưa chơi núi non bộ cũng phân ra từng hạng, và sự
"tiếm hạng" bị coi như một lỗi nặng: Vua chúa chơi cây trắc bá, bậc đại
thần chơi cây loan, bậc nho sĩ chơi cây si, dân dã chơi cây dương liễu.
Thời kỳ quân quyền phong kiến đã qua, ngày nay ai muốn chơi
núi non bộ với cây gì cũng mặc, không ai có quyền ngăn cấm, xâm phạm tới quyền
tự do tiêu khiển của ai! Những lối tiêu khiển thanh cao này, ngày nay đang phát
triển và có khả năng làm ra kinh tế.
Chơi cây cảnh
Chơi cây cảnh cũng là một thú thanh cao. Những cây cảnh như
lan, cúc, sơn trà, mẫu đơn, hồng, sói, nhàn huệ được trồng trong những chậu
sành, chậu hoa, bày trước cửa nhà, chung quanh nhà. Chủ nhân ngày ngày chăm
bón, tưới xén. Ngoài ra lại còn những cây tùng, cây mai, cây ngâu, cây si, cây
sanh được trồng ở ngoài đất hoặc cũng trồng trong chậu và được uốn thành những
hình long, ly, quy, phượng rất đẹp.
Trước nhà thường có những giàn hoa như hoa lý, hoa tràng pháo
hoặc giàn nho; dưới các giàn hoa cũng có thêm những cây trồng thằng xuống đất
hay trồng vào chậu hoa. Có những cây hoa như cây hoa đào mơn mởn rất đẹp, lại
có những cây có trái như cây quất trong núc nỉu những quả chín đỏ ối nhìn thật
đáng say mê.
Có khi ở giữa vườn hoa lại có bể cạn và núi non bộ, hoa thơm
cảnh đẹp hoà hợp với nhau.
Có nhà đằng trước là bể cạn vườn hoa, đằng sau nhà lại là vườn
cây có quả với những cây cam, cây quýt, cây bưởi, cây mơ, cây đào, cây na, cây ổi,
... mùa nào thức ấy, chủ nhân vừa được thưởng thức hương sắc của hoa, và khi
hoa kết quả chín, lại được hái vào để thắp hương trên bàn thờ. Ở miền Nam còn
nhiều loại cây cảnh qúy hiếm, những cây trái đặc sản khác.
Những lúc thư nhàn ngắm hoa, xén lá, đứng trước hương thơm
ngào ngạt, con người như được chia vui cùng đàm bướm lũ ong bay lượn trong vườn.
Trên ngọn cây, một vài con chim trời cất tiếng hót, như khúc
nhạc điểm trang cho cảnh đẹp.
Chơi cảnh, người ta lại chơi chim, chơi cá.
Chơi chim, cá
Chơi chim cũng là một thú tao nhã thư nhàn.
Giữa vườn hoa, một vài lồng hoạ mi, sơn ca, bạch yến, cảnh giả
tạo của hòn non bộ bên những cây hoa, giữa những lồng chim muốn biến thành cảnh
thiên thai.
Cũng có những người kém sung túc, không có tiền chơi những loại
chim trên đắt tiền thì họ chơi chim sáo, chim yểng chúng tập nói tiếng người,
chim gáy chúng cất tiếng gù mỗi khi có khác tới.
Lại có người chơi cá cảnh (cá vàng), nuôi rùa, nuôi gà chọi...
nuôi thú, rất tiếc kể ra không sao cho xiết. Tất cả những thú tiêu khiển này đều
lành mạnh và đều giữ riêng cái màu sắc Á đông nói chung và Việt Nam nói riêng.
Tứ đổ tường Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Đã nói về ăn chơi, không thể nói tới "Tứ đổ tường"là
Tửu, Sắc, Yên, Đổ.
Đây là những thú tiêu khiển, nhưng tiêu khiển có hại, nó đã
làm cho bao nhiêu người vong gia thất thổ, nó đã biến bao nhiêu bậc hào hoa
phong nhã thành những kẻ rụt cổ so vai.
Nếu "Cầm, kỳ, thi, tửu" là tứ thứ phong lưu, thì ở
đây "Tửu, sắc, yên, đổ" lại lạ tứ thứ tai hoạ. Vấn đề này ta cũng cần
biết qua để phòng tránh, trừ diệt.
Tửu
Tửu đứng đầu "tứ đổ tường", chính ra là một thú
tiêu khiển, phong lưu, nếu uống rựơu để trợ hứng, uống rượu để vui chơi, còn bê
tha rượu chè be bét thì nhân cách con người đã mất, lúc say sưa lại mất cả
lương tri, ăn nói càn dở, sinh sự, sự sinh, đi tiểu cả ra quần ra áo. Rượu như
vậy, còn chi là tiêu khiển, còn chi là phong lưu, rượu như vậy là rượu chè be
bét, là ma men ám ảnh, trở thành đối tượng của các tệ nạn khác.
Người nghiện rượu không có rượu không chịu được, không tiền
mua rượu hành hạ vợ con, cầm nhà bán đất, sinh ra trộm cắp, chỉ cốt sao cho có
rượu uống.
Nghiện rượu không có rượu đâm ra thèm thuồng bệ rạc, trông thấy
rượu mắt trước mắt sau, và đã nghiện như vậy, chỉ biết có một thứ "nước
cay", không còn biết đâu thưởng thức rượu ngon.
Người say rượu bị mọi người khinh bỉ, người nghiện rượu bê
tha bị mọi người ghê tởm, và rượu từ cái thú cao nhã đã đi đến cái hại vô cùng,
thành tệ đoan của xã hội.
Sắc
Sau Tửu là Sắc. Sắc là chỉ về nữ giới, nhưng đây không phải
là những con người tử tế, mà là những hạng gái làng chơi, quyến rũ nam nhi.
Có hạng là đĩ điếm, có hạng là ca nhi. Ham mê nữ sắc, cũng có
hại như nghiện rượu.
Trong hạng ca nhi, xưa có cô đầu thường quyến rũ được khách
làng chơi. Nhiều người say mê tiếng lời ca tiếng phách, bỏ vợ, bỏ con, bán nhà,
bán cửa để mua lấy được cuộc vui suốt sáng, để kiếm lấy trận cười thâu đêm.
Các cụ vẫn cho nghe ca hát là một thú tao nhã, nhưng dù tao
nhã đến đâu thì sự đam mê cũng biến thành đại hại.
Cái hại của nạn cô đầu không phải là nhỏ, tuy trong làng ca
nhi nhiều cô cũng chung tình, nhưng người xưa thường nói:
"Lấy quan, quan cách,
Lấy khách, khách về Tàu,
Lấy nhà giàu, nhà giàu hết của".
Lại có câu:
"Cô đầu, cô đít, cô đuôi,
Bố tôi hết của ai nuôi cô đầu".
Dù sao, trước đây đối với khách làng nho, sáng tác vài bài
thơ, vài bài hát rồi đưa cho cô đầu ngâm, cô đầu ca, quả thật cũng là cái thú của
họ, nhưng ham mê cô đầu đến bán nhà, bán cửa, đến thất thổ vong gia, thì cái
thú ấy chính là có hại vậy.
Trong hạng cô đầu, lẫn vào đám những ca nhi hát xướng, còn có
những cô đầu rượu là những cô đầu không biết đàn, không biết hát, không biết
phách, không biết trống, chỉ lấy sắc đẹp quyến rũ quan viên vào đường tội lỗi.
Vì vậy, sắc mới bị liệt vào hạng "tứ đổ tường".
Yên
Sau sắc là Yên. Yên chính nghĩa là khói và nói rộng ra là thuốc
hút, thường chỉ là thuốc phiện.
Thuốc phiện là một thứ thuốc hút vào dễ nghiện và khi đã nghiện
thì hình dung
trông tiều tuỵ, mặt trắng dã, môi thâm sì, da thiết bì.
"Trai tráng sĩ cũng so vai rụt cổ
Gái thuyền quyên nên mặt bủng da chì
Có người lúc đầu vui anh, vui em, hút chơi một vài điếu,
nhưng hút mãi, nay một điếu, mai một điếu đâm nghiện. Khi đã nghiện, lúc lên
cơn trông thật thiểu não; Mồm ngáp vặt, nước mắt nước mũi chảy ra. Thuốc hành,
phải có hút mới xong.
Lúc nằm vào bàn đèn, bắt chân chữ ngũ, tiêm điếu thuốc hơ lên
ngọn đèn dầu, vê vào dọc tẩu, mùi thuốc thơm quyến rũ. Nhưng coi chừng, nghiện
lúc nào không biết, mà đã nghiện rồi, có mấy ai mà bỏ nổi. Thuốc phiện sẽ tàn
phá sức khoẻ, thuốc phiện sẽ biến đổi con người hào phóng trở nên keo kiết. Và
ruộng sâu trâu nái đều dần dần dắt nhau "chui"vào cái xe, cái lọ. Lúc
ấy làm khổ vợ khổ con, khổ gia đình xã hội. Ngày nay xã hội lên án và trừng trị
đích đáng kẻ hút và buôn bán thuốc phiện.
Đổ bác
Cái hoạ cuối cùng của "tứ đổ tường" là cái đổ bác.
Đổ bác là cờ bạc. Nói đến cờ bạc là nói đến mất nhà, mất cửa,
mất ruộng, mất trâu, và mất cả quần lẫn áo.
"Cờ bạc nó đã quấy anh,
Áo quần bán hết một manh chẳng còn.
Buổi gió sương chui vào đống ra,
Hở mông ra cho quạ nó moi.
Anh còn cờ bạc nữa thôi?".
Qua mấy cây ca dao trên ta đủ thấy cái hại của cờ bạc là chừng
nào. Xưa, nhiều bà lấy phải chồng cờ bạc, chỉ xin chồng chừa cờ bạc, ngoài ra
"muốn chơi bời chi cũng chịu", nên mới có câu:
"Xin chàng cờ bạc thì chừa,
Rượu chè, trai gái say sưa mặc lòng!".
Chơi cờ bạc, có khi là để giải buồn, có khi để ăn tiền, nhưng
thực ra, ai biết đâu giới hạn sự giải buồn tiêu khiển với nhưng cuộc "đỏ
đen" bóc lột.
Cờ bạc cũng có lối chơi cần suy xét, cũng có lối chơi trông cậy
ở cả đỏ đen may rủi.
Trong các loại cờ bạc tiêu khiển, trước đây người Miền Bắc
thường chơi Tổ Tôm, người Miền Nam chơi Tứ Sắc, người miền trung chơi cả hai thứ.
Tổ tôm, chơi bằng cỗ bài có 120 quân gồm ba hàng
"văn", "sách", "vạn", mỗi hàng có 9 quân từ nhất
đến cửu. Ba quân nhất của ba hàng gọi là "yêu đen" để đối với ba quân
"yêu đỏ", "chi chi", "thang thang" và "ông cụ",
mỗi thứ bốn con.
Đánh tổ tôm phải đánh năm người, và đánh bài có kẻ cao người
thấp.
Tứ sắc chơi bằng cỗ bài có 4 màu, và mỗi màu đều gồm các quân
từ tướng đến tốt, mỗi thứ bốn quân. Tứ sắc cũng được coi là một môn chơi cần
cao thấp. Thường đàn bà hay chơi tứ sắc.
Với cỗ tổ tôm, người ta còn dùng để đánh chắn, đánh tài bàn,
đánh kiệu.
Chơi Tổ tôm,Tứ sắc, gọi là chơi bài lá. Bài lá còn tam cúc, mỗi
thứ có một lối chơi riêng. Trừ tổ tôm và tứ sắc có sự cao thấp, các lại bài
khác đều ăn thua theo sự may rủi.
Về bài lá sau này cò có lối chơi "xì phé", một lối
cờ bạc nhập cảng của phương Tây. Chơi xì phé rất "đen đỏ", và rất
chóng phất hoặc lụn bại.
Thường bài lá chỉ chơi đến năm, sáu người là cùng.
Cờ bạc đông người trước đây phải kể "phán thán" còn
gọi là hốt me, xóc đĩa, thò lò, giồi chẵn lẻ. v.v.... Tất cả những môn cờ bạc
này đều hại tiền của, nhất là xóc đĩa thì Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
ghê gớm lắm, có người đã từng cầm nhà bán ruộng ở ngay đám bạc.
Xóc đĩa dùng bốn đồng tiền, một mặt có chữ một mặt không, gọi
là mặt sấp và mặt ngửa, để vào chiếc đĩa rồi úp bát lại mà xóc. Muốn đánh cho
êm, người ta dùng bìa giấy hoặc vỏ diêm cắt tròn như đồng tiền, cho vào mà xóc.
Đồng tiền, vỏ diêm hay bìa giấy cắt tròn đều được bôi một mặt đen một mặt trắng,
hai mặt phải hai màu để dễ phân biệt sấp ngửa.
Người ngồi xóc gọi là "người cái". Trước mặt người
cái, trải một chiếc chiếu chia hai bên dành cho ai mặt chẵn lẻ, ai đánh mặt nào
để tiền xuống mặt ấy. Khi mọi người đánh xong, nhà cải mở bát. Hễ bốn đồng tiền
sấp cả hoặc ngửa cả, hoặc hai sấp, hai ngửa thì là chẵn, người nào đánh mặt chẵn
thì được, hễ sấp một hoặc sấp hai thì là lẻ, người nào đánh mặt lẻ sẽ được.
Trong làng xóc đĩa có những danh từ riêng để chỉ nước bạc:
Bạc đi một chẵn một lẻ gọi là đi cái một
Bạc đi hai chẵn hai lẻ gọi là bạc cặp hay khuôn
Bạc đi hai nọ ba kia gọi là cặp lệch;
Bạc đi ba nọ một kia gọi là ba bay;
Bạc đi cả một dạo gọi là bạc dền;
Bạc dền ra một dạo, ra mặt khác một cái rồi lại về gọi là hồi
nùng.
Ở nhà quê thửa xưa, Tết đến người ta thường hay chơi xóc đĩa
tuy vẫn bị cấm.
Ngoài các môn cờ bạc trên, sau này nhiều người chơi bài chim.
Cờ bạc là máu mê. Được ham ăn, thua ham gỡ, chính vì sự "ham gỡ" đã khiến cho con người ta phải thất cơ lỡ vận, và cờ bạc phải xếp vào "tứ đổ tường", một tệ đoan cần phải lên án và trừ diệt trong xã hội mới
Từ đầu chương này, tôi đã trình bày một số các thú tiêu khiển
và tứ đổ tường. Những thú tiêu khiển kể ra còn nhiều như xem chèo, xem hát bộ,
vẽ phong cảnh, thả diều.... nhưng thiết nghĩ những điều đã trình bày cũng đã đủ
nói lên một phần nào sự tiêu khiển của dân ta trước đây để giúp bạn đọc tham khảo
thêm.
Và những điều nói trên chỉ là những thú chơi tiêu khiển của người lớn. Trẻ con chúng cũng có những thú chơi đùa tiêu khiển của chúng: Đánh vòng, chơi cầu, đánh bi, đánh đáo, chơi bịt mắt bắt dê, v.v...
KẾT LUẬN
Về nếp sống bản thân.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có tình thần đoàn kết , đoàn
kết ngay từ trong nếp sống cá nhân với một sự hoà hợp tế nhị trong đó bản thân
thường luôn luôn chịu sự hy sinh cho các sinh hoạt cộng đồng. Đây chỉ là cái kết
quả của bao nhiêu đời sinh hoạt với những sự thăng trầm, khi vinh quang lúc tủi
nhục, và có thể nói được rằng sự hoà hợp tế nhị chỉ là sự biểu hiện cái tiềm thức
cộng đồng khá lớn, khá sâu của dân tộc chúng ta vốn có nền đạo đức cổ truyền,
chính là nền văn minh phong phú riêng biệt của chúng ta, còn được lưu truyền đến
ngày nay.
Qua các chương trên và nếp sống cá nhân từ ăn uống qua làm lụng
đến tiêu khiển ta phải nhận thấy rằng, tuy đấy là những "sinh hoạt cá
nhân", nhưng vẫn liên quan và vẫn
mật thiết bị chi phối bởi cuộc sống chung trong gia đình, của
xã hội. Ăn lấy no chỉ riêng mình, nhưng bữa ăn là bữa ăn chung, không có sự
phân chia khẩu phần riêng biệt như phương Tây, làm lụng thì người nào việc nấy,
nhưng việc của mỗi người đều liên quan với nhau để hoà hợp cho công việc chung
của gia đình, của xã hội, và tuy làm việc riêng của mình nhưng ai cũng lo đến
việc của người khác.
Thành ngữ Việt Nam có câu "Lo việc triều đình" để
chỉ những người lo đến những việc không phải của mình, nhưng không ai không thể
không "lo việc triều đình" được, vì việc của người này hỏng thường ảnh
hưởng rất nhiều tới người khác từ việc trong gia đình đến việc làng xã, cộng đồng.
Cả đến sự chơi bời, cái tinh thần tập thể đem lại sự thích
thú cho những trò tiêu khiển. Ai có thể cô đơn mà tiêu khiển ột mình với bất cứ
một thứ gì. Nếu ta bảo rằng một cụ già đứng ngắm say sưa hòn núi non bộ là cụ
đang một mình tận hưởng cái thú chơi non bộ, là sai, vì tuy đứng một mình nhưng
trên hòn núi non bộ nó vẫn có nhưng cảnh nhắc lại cho cụ cái đời sống tập thể cụ
đã qua. Và cụ ngắm hòn non bộ của mình để nghĩ đến những hòn non bộcủa người
khác.
Người dân Việt, trong cuộc sống thường có nhiều sự chịu đựng
vất vả, chính cái tinh thần tập thể nó xoa dịu những sự vất vả nhọc nhằn ấy và
nó đã đem lại niềm vui cho mỗi người trong sự cơ cực gian lao chung.
Người ta ăn để mà sống, sống để mà làm việc, làm việc không
phải cho riêng mình hưởng mà cho cả gia đình và xã hội nữa.
Nếp sống cá nhân luôn luôn dính liền với nếp sống gia đình và
xã hội, và có thể nói được rằng mỗi cá nhân là một "nguyên tử" để
cùng xây dựng nên một "tế bào" là gia đình và gia đình là nền tảng của
xã hội
PHẦN THỨ NHÌ
ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH
Nếp sống gia đình bao trùm trên đời sống cá nhân, và mỗi sinh hoạt cá nhân đều chẳng ít thì nhiều, phù trợ vào nếp sống gia đình. Người dân Việt Nam nghĩ đến gia đình nhiều hơn nghĩ đến bản thân, và mỗi hành động của cá nhân đều hướng về gia đình, kể cả những sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, làm lụng, nghỉ ngơi. ... Người ta ăn để mà sống, sống để bảo vệ gia đình và xa hơn là góp phần bảo vệ dân tộc.
GIA ĐÌNH
"Gia đình chỉ tất cả mọi người quyến thuộc trong
nhà". và ở chung một cơ ngơi. Ta cũng đừng lầm gia đình với gia tộc, gia tộc
bao trùm trên gia đình, gồm tất cả những người cùng một họ, một gia tộc có thể
có nhiều gia đình và những gia đình này có chung một ông tổ.
"Gia đình là một tập thể tế tự, và tín ngưỡng gia đình
cha truyền con nới theo hàng trưởng nam, gia trưởng là người đủ tư cách để cúng
lễ trước từ đường".
Gia trưởng là người có thế lực hơn cả trong gia đình, chính
người trưởng định đoạt vận mệnh của gia đình.
Thành phần trong gia đình Việt nam rất rộng rãi và gồm tính từ
người gia trưởng:
a) Trở lên, có cha mẹ, ông bà, cụ kỵ;
b) Ngang hàng, có anh chị em;
c) Dưới có, con cháu và chắt. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Ở đây không tính tới người vợ, người vợ chỉ ngang với gia trưởng
và thay thế người gia trưởng trong việc điều khiển gia đình khi người gia trưởng
vắng mặt.
Thường trong một gia đình chỉ có cha mẹ và ông bà; cụ kỵ còn
sống rất hiếm, nhất là ngày nay, người ta lập gia đình muộn.
Thành phần trên đều là những người thuộc họ nội nghĩa là có
liên quan huyết thống với chủ gia đình.
Ngoài ra còn có họ ngoại nữa, gồm cụ kỵ, ông bà, cha mẹ, anh
chị em của người mẹ, tuy không ở cùng một gia đình, nhưng vẫn là người trong
quyến thuộc, nghĩa là vẫn có sự liên can mật thiết giữa người nọ với người kia.
Có thể nói vắn tắt họ ngoại gồm những người có liên quan huyết thống với người
vợ của gia trưởng.
Nói đến thành phần của gia đình, nhất là khi đã nhắc tới quyến
thuộc, phải kể cả đến những chị em dâu, anh em rể là những người vợ hoặc chồng
của anh chị em mình. Những người này có khi cùng ở chung với bố mẹ vợ, nghĩa là
sống chung ở một cơ ngơi.
Về quyến thuộc còn phải kể đến các bác, các chú là anh em của
người cha. Con cái các bác các chú là anh em họ nội hoặc anh em thúc bá với
mình, con cô đối với mình là anh em họ con cô con cậu, còn gọi là "biểu huynh
đệ", "biểu tỉ muội".
Đi trở lên nữa có các ông chú, ông bác, bà bác, bà cô là các
anh chị em của ông nội mình, và trên hàng này là các cụ chú, cụ bác, cụ cô.
Về họ ngoại, anh trai của mẹ gọi là bác, em trai của mẹ gọi
là cậu, chị của mẹ là già cũng có nơi gọi là bác gái, em của mẹ là dì. Con cái
các bác, cậu, già, dì đều là "biểu huynh đệ" và "biểu tỉ muội",
anh em con cô con cậu, con dì con già.
Nếu kể đến cả chồng cô, vợ bác, vợ chú thì chồng cô là chú rể
hoặc chú dượng, vợ bác là bác gái, còn vợ cậu là mợ.
Qua các điểm trên chúng ta thấy gia đình Việt nam bao quát rất
rộng, và mọi người đều thân thuộc với nhau qua mọi liên hệ, không bởi họ nội
thì họ ngoại, nhiều khi bởi cả hai bên nội ngoại.
Trong một gia đình chung sống với nhau, nếu tự lấy mình làm bản
vị, tính trở lên cho đến hai kị là cao tổ phụ và cao tổ mẫu, tất cả năm đời.
Năm đời cùng ở chung với nhau gọi là "ngũ đại đồng đường". Trường hợp
này rất hiếm, ngày xưa vẫn có, nhưng ngày nay với việc lập gia đình muộn và do
cuộc sống ta không còn thấy cảnh qúy hoá này nữa.
Bốn đời cùng ở với nhau gọi là "tứ đại đồng đường",
trường hợp này, ngày nay vẫn có.
Ba đời ở với nhau gọi là tam đại đồng đường. Đây là sự thường
vì chỉ gồm có ông bà cha mẹ và các cháu.
Nếu tự lấy mình làm bản vị, tính trở xuống cho đến chút tức
là "huyền tôn", tất cả cũng năm đời:
Con, chữ là tử
Cháu, chữ là tôn
Chắt, chữ là tằng tôn
Chút, chữ là huyền tôn
Tính từ kỵ đến chút là "cửu tộc".
Theo luân thường đạo lý của người Việt Nam, những người cùng
họ nội không được phối ngẫu với nhau. Như vậy là phạm điều cấm, mắc tội loạn
luân, phong tục không dung mà pháp luật cũng trừng phạt. Sự loạn luân rất có hại
cho giống nòi.
Về họ ngoại, anh em con cô, con cậu, con dì, con già còn phải
để tang nhau cũng không được lấy nhau. Kể từ anh em đời cháu trở đi có thể lấy
nhau được.
Ca dao có câu:
"Cháu cậu mà lấy cháu cô,
Thóc lúa đầy bồ, giống mả nhà ta".
Gia Trưởng
Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến người gia trưởng, như trên đã
nói, người gia trưởng là người có thế lực hơn cả trong gia đình. Theo tục lệ
xưa, uy quyền của gia trưởng thật tuyệt đối. Dưới đây là mấy quyền hạn chính của
gia trưởng:
a/ Có quyền sở hữu và quản lý tài sản của gia đình. Vợ con phải
làm lụng cho gia đình chung, không ai được giữ lợi riêng.
b/ Có quyền sở hữu đối với vợ con và có thể bắt đi làm thuê
hay đem bán đi được.
c/ Có quyền độc đoán về việc hôn nhân của con cái và cả quyền
sinh sát nữa.
Với các quyền hạn chính trên, ta thấy quyền chuyên chế của
gia trưởng không khác gì quyền chuyên chế của một quân vương trong một quốc
gia.
Lẽ tất nhiên những quyền chuyên chế kia, ngày nay người gia
trưởng không còn nữa, nhưng người gia trưởng vẫn là chủ trong gia đình, và mọi
việc liên can tới gia đình, người gia trưởng phải chịu trách nhiệm. Vợ con, tuy
không bó buộc, nhưng vẫn thường lấy ý kiến của người gia trưởng, mỗi khi làm một
việc gì kể cả việc hôn nhân của các con. người gia trưởng, khi thấy con làm những
điều không hợp với mình, không hợp với đạo đức, tuy không phạm luật pháp, thường
có lời khuyến cáo, và lời khuyến cáo này trong những gia đình còn đầy đủ gia
phong vẫn rất có hiệu lực.
Khi người gia trưởng chết đi thì các con trai, từ con trưởng
trở xuống, nếu có vợ con rồi, đối với tiểu gia đình của mình, đương nhiên trở
nên gia trưởng (với quyền hạn của người cha lúc trước) đối với vợ con mình.
Người con trai trưởng, ngoài việc làm chủ gia đình riêng, còn
phải thờ phụng cha mẹ, nghĩa là ngoài tư cách làm chủ nhà, lại còn tư cách làm
trưởng chi họ gồm gia đình của mình và các gia đình của những em trai. Với tư
cách này nếu trước đây người cha đẻ là trưởng nam, thì người này phải giữ việc
thờ phụng tổ tiên, và đúng như lời ông P. Varet đã nói, đủ tư cách để cúng lễ
trước từ đường. Song song với tư cách gia trưởng, còn tư cách tộc trưởng. Tộc
trưởng giữ việc hương khói của họ. Tộc trưởng lại có quyền dự tất cả các hội
nghị gia tộc của các chi họ, dàn hoà mọi việc phân tranh, khuyên bảo họ hàng
trong việc hôn tang hoặc các việc khác có liên quan tới họ hàng. Nếu người tộc
trưởng tư cách không xứng đáng, hội đồng gia tộc có thể họp để bầu một người có
đức độ, có tư cách làm tộc trưởng về phương diện pháp luật, còn về phương diện
tế tự, người tộc trưởng dù sao cũng vẫn được giữ điạ vị của mình, ngoại trừ những
trường hợp điên rồ.
Ở miền Nam, tộc trưởng không theo nguyên tắc đích trưởng như ở
miền Trung và miền Bắc. Ở đây tộc trưởng là người có đức độ và danh vọng hơn hết
trong họ.
Điạ vị phụ nữ
Chủ quyền gia đình ở trong tay người gia trưởng, và như trên
đã trình bày, quyền hành của người gia trưởng rất rộng, do đó quyền hành của
người đàn bà không có gì. Nền luân lý phong kiến cổ truyền Á Đông trọng nam
khinh nữ và bắt đàn bà phải tuỳ thuộc đàn ông. Đàn bà phải giữ đạo tam tòng,
khi còn nhỏ ở nhà phải vâng lời cha mẹ, lúc lấy chồng phải theo chồng và khi chồng
chết phải theo con. Lại nữa, đàn ông có quyền bỏ vợ, đàn bà không có quyền bỏ
chồng. Luật lệ đặt ra thất xuất để bó buộc người đàn bà, nghĩa là đặt ra bảy tội
theo đó chồng có thể bỏ được vợ:
1/ Không con,
2/ Dâm dật,
3/ Không thờ cha mẹ chồng, Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
4/ Nhiều lời,
5/ Trộm cắp,
6/ Ghen tuông,
7/ Có ác tật.
Luật lệ tuy nhiên cũng vẫn tỏ ra bênh vực người phụ nữ.
"Luật Việt Nam đặt người vợ ngang hàng với người chồng. Đó là một người bằng
vai".
Luật Gia long đặt ra "tam bất khả xuất", nghiã là
ba trường hợp người đàn ông không thể bỏ vợ được, trừ ra khi vợ có tội ngoại
tình. Tam bất khả xuất là:
1/ Đàn bà đã từng chịu tang 3 năm ở nhà chồng, nghĩa là chịu
qua một đại tang.
2/ Lúc lấy nhau vợ chồng nghèo, sau cùng làm nên giàu có.
3/ Nếu từ giã nhà chồng về nhà mình không còn nơi nương tựa.
Dù sao, quyền hạn của người đàn bà cũng không nhiều so với
người chồng. Chồng có quyền dùng của cải của vợ xa phí đi, vợ không có quyền kiện,
chỉ những ruộng đất của vợ là chồng không có quyền bán nếu vợ không thuận tình.
Chồng có quyền lấy năm thê bảy thiếp, nhưng thê thiếp lấy
thêm này lại càng không có quyền hạn gì bên người chồng cũng như bên người vợ cả.
Người vợ cả, trong nhiều trưởng hợp đúng là người bằng vai của
người chồng. Theo tục lệ, mọi công việc trong nhà do người vợ điều khiển, và
người vợ được gọi là người nội trợ, nghĩa là người vợ trợ giúp cho người chồng
về các công việc trong nhà, và với công việc điều khiển từ con cái đến các hàng
thê thiếp, kẻ ăn người làm, người vợ từ chức nội trợ được tôn làm "nội tướng"
tức là vị tướng lãnh bên trong vậy.
Nếu người chồng qua đời trước, quyền hạn của người vợ càng rõ
rệt hơn, nhưng quyền hạn phụ thuộc vào những điều bắt buộc mà người vợ không được
phạm.
Luân lý Việt Nam xưa buộc người goá phụ ở vậy thờ chồng nuôi
con, đi lấy chồng là thất tiết. Mặc sự đòi hỏi của tình cảm, mặc tuổi còn thanh
xuân, người vợ phải thủ tiết thờ chồng.
Theo đạo "tam tòng", điều thứ ba phu tử tòng tử,
người quả phụ ở với con phải phụ thuộc theo con, nhưng trên thực tại mọi quyền
hành vẫn ở trong tay người mẹ, có điều, nhiều việc làm của người mẹ cũng phải
có sự thuận tình của con, tỷ như người mẹ muốn bán ruộng đất không phải là của
hương hoả, trên văn tự bán phải có chữ ký của con trai mới có giá trị.
Người mẹ vẫn quản lý tài sản, trông nom con cái như lúc sinh
thời người cha. Cả đến việc tế tự cũng do người mẹ đảm nhiệm nếu người trưởng
nam còn nhỏ tuổi. Xưa các cụ có đặt ra những bài văn khấn Nôm bằng thơ lục bát
dễ đọc, dễ nhớ để các bà dùng trong việc tế tự, tuy nhiên trong lãnh vực này,
khi khấn cúng các bà thường nhờ một người anh em bên chồng lo thay.
Tất cả những quyền hành trên sẽ mặc nhiên bị truất nếu người
goá phụ không chịu ở vậy lại bỏ con đi lấy chồng. Đi lấy chồng là mất hết quyền
lợi liên quan đến nhà chồng cũ, cả đến sự quan hệ đối với con cái cũng kể như
không còn nữa. Nếu con cái còn thơ ấu, quyền trông nom sẽ do chú bác hoặc người
họ gần nhất với cha chúng trông nom.
"Người con gái xuất giá là bỏ gia đình mình mà vào gia
đình chồng; người quả phụ tái giá là bỏ gia đình chồng cũ mà vào gia đình chồng
mới".
Người quả phụ tái giá, ở gia đình chồng mới sẽ có những quyền
của người nội trợ cũng như có bổn phận đối với chồng mới nếu là chính thất, còn
nếu chỉ là thê thiếp thêm cặp, lẽ dĩ nhiên phải nhận lấy số phận dành cho thê
thiếp.
Trong trường hợp, một gia đình không có con trai, con gái trưởng
cũng có thể được giữ của hương hoả và thờ phụng cha mẹ tổ tiên như con trai trưởng.
Tuy nhiên tục lệ
thường vẫn dành hương hoả cho người "ăn thừa tự" tức
là người vào hàng cháu gọi người chủ gia đình bằng chú hoặc bằng bác, và người
này có bổn phận thờ phụng tổ tiên và lo mọi giỗ tết. Ta vẫn có câu vô nam dụng
nữ, nhưng sự dụng nữ này trước đây chỉ có nghĩa là con gái cũng có hiếu thảo với
cha mẹ như con trai và phụng dưỡng cha mẹ không kém gì con trai. Lúc cha mẹ chết
đi, con gái cũng vẫn giỗ cha mẹ, nhưng của hương hoả vẫn phải dành cho người thừa
tự và chính người này mới có bổn phận lo việc cúng giỗ. Sở dĩ có điều này là
vì, nếu con gái cúng giỗ, thì chỉ được một đời con gái đó mà thôi, con người
con gái này là ngoại tộc, chúng phải lo việc giỗ tết của họ nội chúng. Chính vì
vậy mà nhiều người con gái tuy vẫn cúng gìỗ bố mẹ, nhưng vẫn gửi giỗ cho người
ăn thừa tự.
Qua mấy giòng trên, chúng ta nhận thấy rằng người phụ nữ Việt
Nam tuy được coi bằng vai với đàn ông trong gia đình, nhưng trên thực tế chỉ là
một sự bằng vai tương đối. Dù sao. qua tục lệ ta cũng thấy rằng người đàn bà Việt
Nam không đến nỗi bị quá miệt thị như phụ nữ ở nhiều nước khác.
Ngày nay, lẽ tất nhiên, phụ nữ quyền hành đã nhiều hơn ngày xưa, và sự "bằng vai" của vợ đối với chồng mới thực sự là có, tuy trong vài lãnh vực, như về tế tự, phụ nữ vẫn nhường sự hơn cho đàn ông. Phụ nữ ngày nay còn tham gia vào nhiều lãnh vực hoạt động xã hội nữa
Gia đình có vợ chồng con cái. Tất cả những người trong gia
đình cùng quây quần sống theo một nếp sống chung. Cùng ở dưới một mái nhà, cùng
làm lụng, cùng vui cùng buồn những nỗi vui buồn chung qua những biến cố hay dở
xảy ra cho gia đình.
Tìm hiểu đời sống gia đình, chúng ta phải tìm hiểu tất cả những
biến cố hay dở này:
- Xây nhà dựng cửa.
- Cưới xin.
- Sinh đẻ.
- Gầy dựng con cái.
- Đau ốm.
- Khao vọng.
- Tang ma
Mỗi biến cố đều liên quan chung tới gia đình, tuy phần nhiều
đó chỉ là biến cố xảy ra cho một người. Xảy ra cho một người, nhưng ảnh hưởng tới
cả gia đình vui cũng như buồn, và do đó mọi người trong gia đình đều phải tham
dự vào những biến cố này.
NHÀ CỬA
Tục ngữ ta hằng nói: sống ở nhà, chết ở mồ.
Sống phải có nhà ở cũng như chết phải cóộ ngôi nhà để ông bà,
cha mẹ, anh em, con cái đều ở chung. "Sống vô gia cư", sống không có
nhà ở là một điều bất hạnh cũng giống như "tử vô địa táng".
Những cặp vợ chồng trẻ, ngay từ khi mới lấy nhau, tuy ở chung
với cha mẹ, nếu không là con trưởng, sau này sẽ thừa hưởng ngôi nhà của bố mẹ,
cặp nào cũng nghĩ đến một ngôi nhà riêng của mình, và đây là hoài bão chính
đáng nhất của họ.
Một ngôi nhà với một tấm lòng vàng, bất cứ ai bắt đầu xây tổ
uyên ương mà không ước mong như vậy.
Ngôi nhà liên quan mật thiết với đời sống con người. Người
nào bạ đâu là nhà, ngả đâu là giường, sống không có một thước đất cắm dùi là những
người rất đáng thương Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
hại trong xã hội ta.
Nghèo đến đâu, người bần cùng lắm cũng phải có một túp lều để
ở, dù đây chỉ là một túp lều tranh vách đất. Ban ngày đi xa về gần, muốn làm lụng
công việc gì thì làm, tối cũng phải có nơi để trở về quây quần với gia đình, để
nghỉ ngơi lúc đêm hôm. Nơi đó chính là ngôi nhà vậy.
Có một ngôi nhà, nhưng một ngôi nhà thường được kén chọn, xây
cất qua biết bao tục lệ, theo quan điểm xưa. Ngày nay chúng ta cũng cần biết
thêm những tục lệ đó.
Kén đất chọn hướng
Xưa chúng ta tin về phong thủy, "phong thủy" không
những chỉ chi phối việc để mồ mả mà còn chi phối cả về việc xây cất nhà cửa nữa.
Trong việc xây cất nhà cửa, cần kén một miếng đất, và miếng đất
này thường gọi là dương cơ.
"Thứ nhất dương cơ, thứ nhì mồ mả".
Ta vẫn thận trọng trong việc để mồ mả, trong việc xây cất nhà
cửa, việc kén đất ta cần cẩn trọng hơn, các cụ thường đặt dương cơ trên mồ mả,
và các cụ vẫn nói "Nhất dương thắng thập âm". Nghiã là một ngôi nhà
đúng đất, đúng hướng bằng mười ngôi mộ phát. Các cụ thường nhắc lại chuyện những
người thất cơ lỡ vận chỉ vì ở một ngôi nhà không "hợp"với mình, cũng
như chuyện bao nhiêu người làm ăn phát đạt vì ở một ngôi nhà đúng đất, đúng hướng.
Chọn đất, chọn hướng là cần thiết, nhưng trước khi làm nhà,
người ta còn "xem tuổi" để biết tuổi có hợp với việc xây cất và có hợp
với hướng đã kén không, nếu không được tuổi làm nhà phải đợi năm khác.
Đất thường chọn nơi cao ráo có thể lợi dụng được cái khí của
trời đất, núi sông, nhưng cùng với một dương cơ tốt, hướng nhà phải hợp với lẽ
âm dương thuận nghịch, theo triết lý Đông phương.
Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam, hướng Nam đối với ngôi nhà
là một sự cần thiết dĩ nhiên, cũng như khi lấy vợ tất nhiên phải lấy một người
đàn bà. Hướng Nam được coi là tốt vì đón gió Nam mát mẻ, tuy vậy nhiều khi cũng
còn tuỳ điạ thế ngôi nhà.
Hướng nhà, dương cơ và tuổi người phải so cho hợp với lý
"tam tài"phối hợp của người xưa, tức là sự hoà hợp giữa Đất, Trời, và
Người vậy (Thiên - Điạ - Nhân)
Vật liệu xây cất.
Đất đã chọn xong, hướng nhà đã định, tuổi đã hợp, việc làm
nhà không còn gì trở ngại nữa. Giờ đây việc đầu tiên là phải sắm sửa vật liệu.
Vật liệu mua sắm tùy theo lối kiến trúc, và cũng tùy theo sự
xây cất. Nhà tranh vách đất, nhà tre, nhà gỗ, nhà gỗ lợp ngói, tường gạch mỗi lối
nhà đều dùng vật liệu riêng.
Và vật liệu mua sắm cũng tùy thuộc kiểu nhà, kiểu nhà thay đổi
tùy điạ phương và tùy địa vị chủ nhân.
Chủ nhân có địa vị khá trong xã hội lại có tài chính dồi dào,
lẽ tất nhiên ngôi nhà không giống ngôi nhà của một người tuy cũng có danh vọng
nhưng tiền của ít, và do đó khác xa với những ngôi nhà của quần chúng.
Một ngôi nhà xưa, khi cất lên lại cần phải hợp với luật lệ và
tránh phạm vào những điều cấm kỵ bị trừng phạt:
"Còn như việc cửa việc nhà,
Gỗ, tre, tranh, lá gọi là có thôi.
Nếu làm nhà ngói phải coi,
Đốc, dao cấm ngặt, góc chòi cũng không,
Chữ môn cho chí chữ công,
Phạm vào phép nước tất không dung hoài."
Mấy câu trên trích trong một bài thời về đời Minh Mệnh,
khuyên dân chúng tránh những điều cấm kỵ.
Ở vùng quê vật liệu xây dựng nhà thường là tre là gỗ, cũng có
đôi khi dùng tới gạch ngói. Mái nhà lợp tranh, rơm rạ hay lá gồi nhiều hơn là lợp
ngói. Tường nhà thường là vách đất, đất vừa trộn với rơm và trét vào những sườn
bằng tre hay nứa. Nền nhà là đất nện, đôi khi cũng có lát gạch, loại gạch rẻ tiền.
Những nhà lợp ngói thường nền gạch, có khi lát loại gạch hoa.
Trong những năm gần đây, ở vùng quê nhiều nhà làm nền bằng xi măng, tường vách
bằng gỗ hoặc bằng đất trét hay đất đắp lên.
Dù nhà gạch hay nhà đất, xưa đều có cột, cột nhà bằng tre hoặc
bằng gỗ. Người ta thường dùng tre đực làm cột, và gỗ thường là gỗ xoan ở ngoài
Bắc và trong Nam là gỗ dầu. Nhiều nơi trong Nam thay tre bằng những cây tràm rất
bền.
Mái nhà dựng lên trên tường và cột, có rui mè để giữ cho chắc,
lại có những xà ngang bắc vào cột bằng những chiếc mộng, có đòn tay nâng đỡ.
Nhà tranh vách đất thường không có móng.
Cột nhà, nhà tranh cũng như nhà ngói được kê trên nhưng tảng
đá vuông hoặc tròn để tránh cho chân cột khỏi bị mục hoặc mối. Không có những
khối đá, người ta dùng những viên gạch xây chồng lên nhau.
Ngày nay, những vật liệu làm nhà, ngoài những thứ cổ điển xưa
còn có tôn, hay fibro-ciment để lợp mái thay ngói, lá, tranh và rơm rạ, có xi
măng cốt sắt để làm cột. Những nhà xây cất theo kiểu mới chỉ dùng xi măng, gạch,
không có đòn tay, xà như xưa.
Kiến trúc nhà cửa
Khoa kiến trúc ngày nay, tại các nước Âu Tây cũng như tại các
đô thị của ta, dựa trên các khoa kỷ hà học, vật lý học, hoá học và mỹ thuật để
tạo nên những tiện nghi vật chất và tinh thần cho con người; trái lại khoa tạo
tác của ta xưa muốn đem lại sự yên ổn cho tâm hồn con người, nên các kiến trúc
sư Viễn Đông thời trước thường tìm cách lợi dụng cái khí của Trời Đất, Núi Sông
hoà hợp với con người để hợp theo lý tam tài phối hợp như đã nói trên.
Thực ra lối kiến trúc nhà cửa phương Đông, tức là có cả Việt
Nam ta, không phải chỉ là công việc cấu tạo nên một ngồi nhà để lấy chỗ trú mưa
tránh nắng, dù ngôi nhà chỉ là một ngôi nhà lá vách đất.
Cấu tạo nên một ngôi nhà, nhưng phải cấu tạo làm sao để ngôi
nhà được nằm trong một khung cảnh thanh lịch, với cây cỏ dịu dàng biểu lộ được
sự yên tĩnh tâm hồn con người. Khung cảnh có khi tạo nên thi vị để tăng sự thư
thái cho tâm hồn.
Ở đây, tưởng cần nói thêm, dân chúng phương Đông, cả Việt nam
ta thưở xưa còn tin ở thần quyền, tin ở tài lực vạn năng của tạo hoá, không bao
giờ dám ganh đua với tạo hoá, mà chỉ uốn mình dựa theo những hòan cảnh của kiến
trúc để tỏ sự phục tùng.
Ở đây có cái gì trái ngược với phương Tây. Ở phương Tây, con
người muốn ganh đua cùng tạo hoá, và một công trình kiến trúc, con người tự coi
là một chiến thắng của mình đối với thiên nhiên. Con người phương Tây xây cao để
vươn lên, còn con người phương Đông chỉ nhũn nhặn dựng nhà cửa của mình không
lên bề cao, mà chỉ cốt làm sao cho nhà cửa được hoà hợp với khung cảnh thiên
nhiên, tạo nên sự êm dịu cho cuộc sống.
Nếu người phương Tây muốn mỗi công trình kiến trúc mình đều nổi
bật trên khung cảnh của tạo hoá, thì người phương Đông lại mong những nhà cửa
mình thuận với Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
khung cảnh, những cây cỏ núi sông che chở cho ngôi nhà thêm ấm
cúng, và như vậy sẽ phù trợ cho cuộc sống của mọi người trong gia đình.
Nhiều người ngoại quốc cho rằng Việt Nam chịu ảnh hưởng của
văn hoá Trung Quốc, nên trong lãnh vực kiến trúc, người ta cũng nhìn thấy còn
cái gì dáng dấp là của Trung Hoa. Nhận xét trên có thể là đúng và cũng có thể
là sai. Đúng vì Việt nam đã thâu nhập văn hoá Trung Hoa, còn sai, vì tuy thâu
nhập văn hoá Trung Hoa, nhưng chúng ta đã Việt nam hoá những cái gì chúng ta
thâu nhận, sáng tạo để phù hợp với con người Việt nam mang cốt cách Việt nam.
Bề ngoài, nhà Việt Nam, nhất là những ngôi nhà sang trọng, có
vẻ tương tự như nhà của người Trung Hoa, nhưng nhìn kỹ qua cái vẻ tương tự, vẫn
phảng phất cái gì khác biệt: sự khác biệt này chính là ở chỗ ngôi nhà Trung Hoa
đã bị Việt Nam hoá qua bàn tay kiến trúc của người Việt Nam, với cách xây cất,
với vị trí định hướng cũng như với cách xếp đặt từ ngoài vào trong.
Nhà Việt Nam xưa có nhiều gian, nằm thành dãy, chia thành nhà
trên, nhà ngang, nhà bếp. Những dãy nhà này vây xung quanh một sân rộng. Dãy
nhà trên nằm ở giữa và có nhà thờ tổ tiên. Hai bên, chầu mặt vào nhau là hai
dãy nhà ngang và nhà bếp.
Đằng sau nhà thường là vườn, đằng trước sân là ao; cổng đi
vào nhà thường đi ở bên, cạnh dãy nhà ngang hoặc nhà bếp, phía ngoài sân. Người
ta tránh cổng ngõ đi thẳng vào nhà giữa, nhất là vào gian nhà thờ, trung tâm của
gia đình. Cũng có khi có những cửa mạch đi lối sau, hoặc thông sang những nhà
bên cạnh của cha mẹ, anh em, hoặc con cái - thường sống quây quần trong đại gia
đình gần nhau.
Nếu nhà có bụi tre, bụi tre ở góc vườn hoặc ở bờ ao.
Đống rơm cũng ở đằng sau vườn, cũng có nhiều nhà đánh đống
rơm ở cạnh hai trái nhà ở hai bên. Rơm vừa dùng để đun, vừa để cho trâu bò ăn,
nhất là ở miền Bắc và miền Trung.
Trong công việc kiến trúc, người xưa trước kia dựng lên bốn cột
trái của gian giữa cùng với đòn nóc, rồi mới đến cột cái và kèo các gian bên.
Sau cùng là những cột phụ và cột hiên. Những cột kèo này, dù chỉ bằng gỗ hay bằng
tre, được chằng chịt lấy nhau hoặc bằng lạt hoặc bằng các mộng kèo, mộng cột
thành một sườn nhà, rất vững chãi.
Dựng xong sườn nhà mới đặt mái. Mái nhà có rui mè để giữ
ngói, rơm, rạ hay lá lớp lên trên. Người ta dùng lạt để buộc những con tranh,
con rạ, tàu lá vào các mè của mái nhà. Rui mè làm bằng gỗ hoặc bằng tre, phần nhiều
là tre ngâm, những cây tre đã được ngâm xuống nước một thời gian khá lâu đủ để
tránh mối, mọt.
Sau khi đặt mái là công việc lợp nhà. Nhà lợp ngói, rơm, rạ
hay lá tuỳ khả năng tài chánh của gia đình và cũng tùy hoàn cảnh điạ phương,
nơi nào tiện thì dùng rạ, nơi nào nhiều lá gồi, thì dùng lá.
Như trên đã trình bày, ngày nay ngoài ngói, rơm, rạ.... người
ta còn dùng tôn hay fibro-ciment để lợp nhà.
Về ngói, xưa có nhiều loại: Ngói âm dương, ngói nấu,....
Nhà lợp bằng ngói, lớp mè thường dày, và người ta thường dùng
dây kẽm để cột ngói vào mè, mặc dầu ngói đã có mấu để giữ nhau.
Cùng với việc đặt mái lợp nhà, là việc xây tường, dựng vách.
Tường vách chỉ làm ba mặt còn mặt trước để trống vì khí hậu nóng nực ở Việt
Nam.
Ở hai bên đầu hồi, cũng như ở những gian bên cạnh, tường,
vách có thể có cửa sổ. Gian chính giữa không bao giờ có cửa sổ ở đằng sau, nơi
đây là nơi kê bàn thờ tổ tiên.
Mặt trước tuy không có tường vách, nhưng để che nắng, đỡ mưa,
có kê những tấm dại, bằng gỗ hoặc bằng tre, tùy theo nhà ngói lợp gỗ hay nhà
tre lợp rơm rạ.
Những nhà gỗ có xây tường gạch, chỗ kê những tấm dại này là
những cửa lùa, cửa
xếp, mỗi lần mở thì treo mành mành. Có khi có cửa liếp, ban
ngày chống cao lên, tối hạ xuống. Hoặc nếu có che bằng dại, tấm dại này ban
ngày cũng đẩy sang bên, tối mới đóng vào.
Gian giữa là nơi tiếp khách, có kê một bộ trường kỷ ngay trước
bàn thờ, có khi giữa bộ trường kỷ và bàn thờ có thêm chiếc sập.
Nhà ít nhất có ba gian. Nếu có thêm thì phải năm gian, số gian
nhà bao giờ cũng là số lẻ, tục ta xưa tin nếu gian nhà số chẵn thì sẽ có một
gian ở "không tốt". Nhà ba gian thường có thêm hai chái.
Ở hai bên bàn thờ tổ tiên, có khi có kê những bàn thờ khác:
bàn thờ Thổ Công, Thánh Sư, Bà Cô, Ông Mãnh, v.v.... Trước những bàn thờ này
thường có những bộ phản hoặc ghế ngựa, nơi ban ngày người nhà ngồi chơi trò
chuyện, ban đêm dùng là chỗ ngủ cho đàn ông con trai: và đấy cũng là nơi họ
hàng ngồi ăn uống những khi giỗ chạp.
Ba gian nhà giữa, khi là nhà năm gian, thường có vách hoặc tường
ngăn cách với hai gian đầu, thường là buồng ngủ hoặc là nơi chứa đồ đạc thóc
lúa.
Ở hai chái đầu, thường dùng đặt cối xay lúa, cối giã gạo hoặc
là nơi để cất những nông cụ ban đêm.
Trước nhà có một mái hiên, có khi chạy suốt cả mấy gian, có
khi chỉ che ba gian nhà chính. Nhiều nhà thay mái hiên bằng một giàn hoa, thường
là hoa lý vừa thơm vừa mát, cũng có khi là giàn hoa ớt, màu đỏ vàng rực rỡ.
Những nhà gạch, hoặc những nhà tre khi xây hoặc đắp tường thường
có đào móng để giữ cho vững. Tục ngữ có câu:
"Nhà không móng như bóng không người".
Nhà phải có móng thì tường mới chắc.
Cũng nên nói thêm, nhiều nhà thường có vườn hoa ở đằng trước,
còn vườn ở đằng sau thì thường trồng cây ăn quả hoặc trồng rau.
"Nhà anh có dãy vườn hoa,
Có thêm dãy nhãn với ba cây dừa".
Cổng ngõ
Nhà phải có cổng ngõ ra vào. Nhà không cổng thông thống trông
vào.
Cổng ngõ có kiến trúc riêng, và thay đổi tuỳ theo hoàn nhà
ngói hay nhà tranh. Người xưa rất chú trọng tới việc xây cổng ngõ như mặt của
ngôi nhà.
Lối làm nhà của ta chịu ảnh hưởng của người Trung Hoa và khi
làm nhà, ta thường theo phương pháp của vị tổ sư nghề thợ mộc xưa là Lỗ Ban.
Phương pháp này có những điểm đặc biệt theo thuyết xưa của triết học Đông
Phương. Ngày nay ta hiểu rằng cổng ngõ hư thủng do người bên trong không để tâm
săn sóc gìn giữ, như vậy trộm cướp có thể dòm ngó. Người bên trong đây gồm cả
cha mẹ lẫn con cái, đều chỉ lo ăn chơi, không nghĩ gì đến nhà cửa, như vậy của
cải trong nhà chẳng ra đi sao được?
Làm nhà, cẩn thận nơi nhà chính đã đành, nhưng cũng không nên
cẩu thả trong việc xây cất cổng ngõ. Cổng phải xứng với nhà cũng như bộ mặt xứng
với con người.
Người xưa kiêng cổng đi thẳng vào trong nhà như trên đã nói,
và trong khi kén đất chọn hướng trước khi xây cất nên ngôi nhà, người ta đã nghĩ
đến việc đặt cổng ngõ. Trong những trường hợp vì điạ thế miếng đất, không thể
tránh cổng soi thẳng vào nhà, người ta thường xây tường hoa với bình phong để
che cách cổng với nhà, và để đường đi phải vòng theo tường hoa, không ăn thông
thống hẳn vào nhà chính.
Nhân nói về cổng, ta nhận thấy cổng ngõ tại Việt Nam có sự
thay đổi từ miền Bắc, qua miền Trung, vào miền Nam. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Ở miền Bắc, nhà nào cũng có cổng. Cổng có khi xây, có khi chỉ
là một tấm liếp dựng lên ban ngày và đóng xuống ban đêm gọi là "cổng
tán". Có khi cổng là hai cánh cửa ăn vào tường để đóng mở cho dễ.
Nhà giàu thì bên trong cổng có mái lợp ngói. Có cổng có gác
và ban đêm có nhà có người ngủ trên gác cổng để canh phòng đạo tặc.
Miền Trung từ Huế trở ra cũng có cổng. Tại Huế nhiều nhà xây
cổng rất đẹp, tuân theo mấy nguyên tắc của Lỗ Ban nói trên.
Đi dần từ Huế vào miền Nam, cổng nhà không còn nữa. Ở miền
Nam, nhất là ở đồng quê, nhiều nhà chỉ làm một cái chà gai vững chãi để đêm kéo
ngang đủ ngăn ngõ ra vào!
Do địa hình, dân quê miền Nam làm nhà dọc theo các con đường
lớn, dọc theo các dòng kênh, phần nhiều nhà không những không có cổng, mà cũng
không có cả ngõ nữa. Cửa nhà ăn liền ra bờ đường hoặc bờ kênh.
Theo lối kiến trúc phương Tây, các nhà ở đô thị, ở những phố
buôn bán cũng không có cổng, duy chỉ những nhà ở những khu cư trú, xây theo lối
biệt thự mới có cổng, và cổng thường bằng hai cánh sắt hoặc gỗ, gắn vào hai bên
trụ tường. Người ta cũng làm cổng ở bên cạnh, không để cổng soi thẳng vào nhà.
Những ngôi nhà chung cư có một cổng chung thường bằng hai
cánh sắt, hoặc cũng có khi không có cổng mà chỉ có một lối đi chung cho tất cả
mọi người cư trú trong chung cư.
Mé trước ngõ
Theo phương pháp tạo tác của ta xưa, làm nhà không những chỉ
chú ý tới cổng ngõ, mà khi dựng cổng ngõ thường chú ý tới cả phía trước cổng
ngõ. Những điạ hình, địa vật ở trước cổng ngõ, theo như quan niệm của Lỗ Ban mà
các cụ xưa vẫn áp dụng, đều có ảnh hưởng tốt hoặc xấu tới gia chủ.
Thực ra, khi người xưa nêu lên những điềm xấu, tốt chẳng qua
chỉ là những kinh nghiệm của nhiều đời, nhưng ta có lấy trí mà suy xét sự tốt xấu
đó được.
Thí dụ, như khi làm nhà trước bãi tha ma, lẽ tất nhiên độc
khí ở các ngôi mộ, dù có đào sâu chôn chặt, cũng có thể xông lên ít nhiều, gây
bệnh tật cho những người chung quanh được.
Một thí dụ nữa, trước nhà có núi non, nhà đủ ăn và thanh
nhàn. Cảnh tượng phóng khoáng của núi non, mang lại cho con người một tâm hồn
thư thái, khi tâm hồn thư thái, con người trở nên khoáng đạt và như vậy, dù ở
hoàn cảnh nào mà chẳng tự thấy thanh nhàn và đủ ăn. Hơn nữa sự cao rộng của núi
non cũng giúp con người thêm sáng suốt và do đó sự kiếm ăn với óc sáng suốt sẽ
dễ có kết quả hơn.
Ở đây chỉ nêu ra vài thí dụ, chính ra ở mỗi điểm, khi ta suy
xét ta đều thấy cái lý của người xưa.
Những Kiểu Nhà
Nếu căn cứ vào những nhà ngày nay ở tỉnh thành để nói đến những
nhà ngày xưa, ta sẽ có rất nhiều sự sai lầm, vì hai lối kiến trúc khác hẳn
nhau, vì hoàn cảnh điạ thế cũng như vì nếp sống xã hội.
Cho tới thời tiền thế chiến thứ hai, các kiểu nhà của ta ở
vùng quê vẫn giữ nguyên nếp cũ của những thế kỷ trước. Và cho tới ngày nay, ở
những vùng quê không có chiến tranh tàn phá, những ngôi nhà vẫn là những ngôi
nhà kiểu xưa.
Kiểu nhà cổ nhất của Việt Nam có bốn mái: hai mái chính và
hai mái đầu hồi, che hai mái chái.
Cũng vào loại kiểu cổ, là nhà xây dựng theo kiểu hai mái bịt
đốc không chái.
(hình nhà)
Nhà bốn mái và nhà hai mái đều là những kiểu nhà có từ lâu lắm,
theo các nhà khảo cổ thì từ thế kỷ thứ ba, thứ tư ở miền Bắc - căn cứ theo những
nhà nhỏ bằng đất nung đào được tại các ngôi mộ cổ ở Vĩnh Yên (làng LạcÝ), ở Bắc
Ninh (làng Nghi Vệ) và ở Thanh Hoá (Đông Sơn).
Kiểu nhà thay đổi tùy theo điạ phương và cũng tùy theo điạ vị
xã hội của chủ nhân.
Tại miền bắc, nhà làm ba gian hoặc năm gian theo kiểu chữ
"Đinh". Ở miền Trung, nhà cũng theo kiểu chữ "Đinh", lại có
nhà Vuông, nhà Rương.
Nhà Vuông tức là nhà có ba gia chính thông nhau, hai gian
chái cũng thông nhau bằng một ngăn rộng sau bàn thờ chính của những gian giữa.
Nhà rương tức là nhà ba gian hoặc năm gian không chái, trông
tương tự như chiếc rương.
Tại miền Nam, nhà cũng làm ba gian, hoặc năm gian. Loại nhà đặc
biệt nhất ở nơi này là loại nhà bánh ít, bốn mái đều nhau, nóc cao, mái dốc. Loại
nhà bánh ít này thỉnh thoảng ta còn thấy tồn tại ở một vài khu Sài Gòn.
Nhà các quan cất theo kiểu chữ "Công" hoặc chữ
"Môn"và có gác. Dân giã thời xưa không được làm hai kiểu nhà này,
cũng không được làm quá to lớn, dựng trên một bệ đôi, phải làm sát mặt đất hoặc
nền chỉ được tôn cao thành một lớp. Cũng không được lợp mái đôi và làm gác.
Thời thế đổi thay, nếp sống con người cũng khác theo luật lệ.
Ngày nay nhà của, ai muốn làm sao cũng được miễn là đừng phạm tới tự do của người
khác và cũng đừng phạm tới chỉ giới công cộng.
Nhà cửa ngày nay làm cao rộng, có gác, có cầu thang, muốn làm
chữ "Công", chữ "Môn" hay chữ "Đinh" tùy ý. Thường
nhà ngày nay làm theo lối chữ "Nhị" thành hai lớp, hoặc làm một lớp
theo kiểu chữ "Nhất". Mấy năm gần đây, tại Sài Gòn cũng như các đô thị
lớn, nhiều nhà kiểu chung cư được xây nên và các biệt thự khang trang mọc lên ở
khắp nơi.
Ai có tiền muốn xây cất nhà của ra sao thì xây, không có sự cấm
đoán hay bắt buộc gì. Dân chủ và tự do bắt đầu ngay tự nơi ăn chốn ở. Tuy nhiên
cũng phải tuân theo luật pháp về xây cất và quy hoạch chung.
Nếu những ai có tiền làm nhà cao cửa rộng, thì những người
nghèo vẫn chỉ ở trong những túp lều lụp xụp. Trước đây vì chiến tranh tàn phá,
hàng vạn gia đình phải rời bỏ làng mạc, kéo nhau ra các thành thị hoặc ra các
nơi ven đường lớn dụng nên những túp nhà nhỏ hẹp sống chen chúc. Dù nhỏ hẹp, những
ngôi nhà vẫn là những ngôi nhà thường hai mái bịt đốc kiểu thời xưa. Ngày nay
những nhà ổ chuột đang được thay thế bằng các khu dân cư ở đô thị.
lễ cất nóc
Các nhà kiểu nhà xưa của ta đều có nóc, và nóc nhà tượng
trương cho tất cả ngôi nhà, bởi vậy, trong việc xây cất nhà của ta có lễ cất
nóc, chữ gọi là lễ thượng lương.
Lễ cất nóc đối với phương Đông, cũng như lễ đặt viên đá đầu
tiên hoặc viên gạch đầu tiên của phương Tây.
Ngày nay trong công việc xây cất nhà của hoặc các trường sở
công cộng, ta cũng bắt chước theo lối Âu Mỹ làm lễ đặt viên gạch hay viên đá đầu
tiên thay cho lễ cất nóc, và thường những người có chức vụ danh vọng được vinh
dự mời đặt viên đá hoặc viên gạch này. Đá hoặc gạch xây xuống dưới đất, trái hẳn
"Lễ cất nóc" của ta xưa.
Khi làm lễ cất nóc, chủ nhà nhờ người xem ngày, kén giờ, và
chọn được ngày giờ tốt lễ mới cử hành.
Trước lễ cất nóc, sườn nhà đã được dựng, và có khi tường cũng
đã được xây rồi.
Đúng ngày giờ kén chọn, người ta bắt đòn chính của nóc nhà
lên đỉnh sườn nhà. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Một miếng vải đỏ đề ngày tháng cử lễ và mấy chữ Khương Thái
Công tại thữ, nghĩa là Ông Khương Thái Công ở đây, được treo vào chiếc đòn
chính này. Cũng có nhà thay vì miếng vải đỏ này, người ta dán vào đòn chính một
lá "bùa bát quái" hoặc treo vào đó một quyển lịch Tàu, hoặc một quyển
lịch của triều đình càng tốt. Miếng vải, lá bùa hoặc quyển lịch cốt để "trừ
ma quỷ", theo quan niệm cũ.
Lễ cất nóc thường có thầy pháp tới cúng. Chủ nhân cũng làm lễ
cáo gia tiên. Lễ xong có đốt pháo. Tiếng pháo biểu lộ sự vui mừng và cũng
"đuổi được tà ma".
Lễ xong là bữa ăn uống, có mời bà con họ hàng.
Lễ cất nóc chỉ cử hành cho ngôi nhà chính, mà ít ai làm lễ
này cho những ngôi nhà phụ.
Ngày nay vẫn có nơi làm lễ cất nóc, nhưng người ta cũng cử
hành cả lễ đặt viên đá đầu tiên nữa. Phải chăng vì có nhiều nhà mái bằng không
có nóc. Ở vùng quê "lễ cất nóc" vẫn được nhiều người tổ chức.
Cách sắp đặt trong nhà
Bàn thờ gia tiên kê ở giữa nhà. hai bên, tại nhiều gia đình
là bàn thờ Thổ Công, bàn thờ Thánh Sư, v.v.....
Trước bàn thờ gia tiên là nơi gia trưởng tiếp khách, hoặc
hàng ngày uống trà ngâm thơ.
Ở nơi hai bên có kê các bộ ghế ngựa hoặc phản. Con cháu tiếp
khách ở hai bên này.
Ở căn nhà chính này, trừ ngày giỗ tết, đàn bà con gái không
được bén mảng tới. Đàn bà tiếp khách ở nhà ngang hoặc ở buồng riêng.
Ngày nay ở chốn quê, việc gìn giữ nếp cũ vẫn được bảo tồn. và
các bà thường tránh tiếp khách ở trước giường thờ. Tục này do việc phụ nữ không
được phép có mặt ở nơi tế tự, từ xưa.
Nam nữ, dù ở trong nhà vẫn có sự cách biệt, bởi vậy, buồng
trai gái ở riêng. Nhà chính thường hướng Nam, các buồng con trai ở p hía Tây gọi
là Tây phòng, các buồng con gái ở phía Đông gọi là Đông phòng. Nếu nhà không
làm theo hướng Nam thì phòng các con trai ở bên tay phải gàn thờ gọi là Hữu
phòng, phòng các con gái ở bên tay trái gọi là Tả phòng. Nếu nhà đông người,
con gái phải ở những căn nhà phụ, nhưng trai gái vẫn riêng phòng.
Việc phân biệt tả hữu phòng hiện nay không còn nữa, nhưng dù
sao trai gái vẫn tránh sự chung đụng. Nếu vì quá chật chội, không có phòng
riêng cho các con, - trường hợp ở đô thị ngày nay - ít ra trai gái cũng phải có
giường riêng biệt.
Ngoài ra cũng cần nói thêm, bất cứ gia đình nào, không kể
ngôi nhà trên cũng có các nhà phụ gồm nhà ngang, nhà bếp. Những gia đình giàu
có còn có thêm vựa thóc, chuồng trâu, chuồng bò, chuồng gà, v,v... cách xa nhà
trên.
lễ mừng tân gia
Lễ này tức lễ ăn mừng nhà mới .
Có nhà mới là điều đáng mừng. Dọn tới nhà mới, chủ nhân phải
là lễ khánh thành ngôi nhà.
Lễ khánh thành cũng được cử hành vào một ngày tốt, có cáo gia
tiên và có làm cỗ mời bà con, bạn bè.
Lễ ăn mừng tân gia thường long trọng hơn lễ cất nóc, tuy về
phương diện tín ngưỡng, ý nghĩa lễ cất nóc thiêng liêng hơn.
Trong dịp ăn mừng tân gia, chủ nhân được bạn bè mang lễ vật tới
mừng. Có những bức thêu, có những bức đại tự, có những đôi câu đối, có đồ vật,
hoặc tranh ảnh để trang hoàng nhà cửa.
Ngày xưa, lúc làm lễ cáo gia tiên lại có đốt pháo để biểu hiện
sự vui mừng. Ngày
nay, việc đốt pháo đã bãi bỏ nhưng tiệc tân gia vẫn vui.
Trang trí trong nhà
Dù sang hay hèn, đã có một ngôi nhà, ai cũng muốn trang trí để
tăng vẻ đẹp ngôi nhà củamình. Một vài chậu cảnh, mấy cây bông hồng trước của
nhà, mấy bức tranh treo trên tường, những lọ hoa bày bàn, những rèm treo cửa sổ,
một vài bức tượng nhỏ đặt trên chiếc kệ ở góc nhà, dều có mục đích làm cho ngôi
nhà thêm khang trang, thêm mỹ thuật.
Xưa và nay, sự trang trí nhà cửa không giống nhau.
Xưa có những luật lệ ràng buộc và ngăn cấm để phân biệt tôn
ti trât tự xã hội, nay, ai có tiền muốn trang trí nhà cửa ra sao tuỳ ý.
Luật lệ xưa ấn định việc trang trí nhà cửa tùy theo địa vị xã
hội của chủ nhân, vua quan có cách thức riêng và dân dã có cách thức riêng, dân
không được trang trí một cách “tiếm vị”.
Việc trang trí bắt đầu ngay từ lúc làm nhà,nghĩa là ngay từ
khi dựng cột, bắc kèo. Thợ mộc bắt chỉ, tô điểm thêm những đường cong, đường lượn
khi làm cột, kèo, rui hoặc xà nhà, giống như những đường chỉ ở các nơi đình
chùa.
Lúc xây tường, đối với ngôi nhà gạch, thợ nề cũng xây ngay những
đường lượn, những bông hoa tại các cửa sổ, đầu hồi, và tô điểm bằng những nét vẽ
mé tường trong nhà, tùy theo ý muốn của chủ.
Mọi sự trang hoàng đều có quy định bởi luật lệ. Luật Gia
Long; điều 156, có nói rằng: tất cả nhà cửa, xe cộ, quần áo và tất cả mọi vật dụng
của quan chức và thường dân phải phân biêt rõ rệt. Ai dùng trái phép thì bị tội.
Nhà cửa thường dân không dựng trên một bệ đôi, mái đôi và làm gác’.
Trong nhà không được sơn phết trang hoàng. Mọi sự tô điểm đòn
thượng lương, nóc nhà, và trong nhà đều có sắc lệnh quy định.
Các quan đại thần nhất, nhị phẩm trang hoàng đòn thượng
lương, nóc nhà, sườn nhà bằng hoa lá hoặc đầu thú loại bốn chân như cọp, ruà,
sư tử.
Từ tam phẩm đến ngũ phẩm chỉ được trang hoàng đề tài thú vật
bốn chân.
Từ lục phẩm trở xuống không được phép trang hoàng gì cả.
Dân gian, lẽ tất nhiên, không được phép trang hoàng nhà cửa một
cách rát có mỹ thuật mà không phạm luật triều đình.
Người ta dùng chữ để trang hoàng: chữ Thọ, chữ Phúc, chữ Hỷ
thường được dùng tới luôn. Ngoài ra lại có đề tài bát bửu, tượng trưng cho sự bất
tử cũng được dùng nhiều: Cái quạt, thanh gươm, giỏ hoa, bầu rượu, cái phách,
cây và cành tre, cái sáo, và hoa sen....
(hình ảnh trang trí nội thất xưa)
Từ vua đến dân, tuỳ theo địa vị, các đề tài trang hoàng xưa gồn:
Tứ linh: Long, ly, quy, phượng.
Tứ hữu hoặc tứ thời: Mai, lan, cúc, trúc, hoặc tùng, cúc,
trúc, mai.
Tam đa: Phúc, lộc, thọ. được tượng trưng bằng con Dơi, con
Hươu và cây tùng
Lại còn các đề tài khác: Cọp, Sư tử, Mây, Nước, Lửa.
Đề tài thảo mộc cũng được dùng tới với Hoa, Lá, Cây, Quả. Mỗi
loại cây có tính cách tượng trưng riêng.
Cây Trúc tượng trưng cho người quân tử, sự tiết độ khôn
ngoan.
Cây Tùng tượng trưng cho sự trường thọ.
Hoa cúc tượng trưng cho sự hạnh phúc
Hoa Sen tượng trưng cho sự thanh khiết
Để đem lại vẻ linh hoạt cho sự trang hoàng, những cây cảnh được
bào chuốt sửa Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
chữa, chạm trổ cho biến thành những giống vật:
Trúc thành Công
Mai thành phượng
Hoa sen thanh con Rùa
Hoa Cúc thành con Kỳ lân
Cả đến những ‘Phúc, Lộc, Thọ’ cũng được gọt giũa biến thành
hình một rồng, đầu phượng.
Tại các ngôi nhà thờ, còn có những bức hoành phi, câu đối. Những
hàng chữ thờ này thường nói lên những đức tính tốt của tổ tiên, lòng sùng kính
của con cái, sự nghiệpcủa ông cha và sự mong mỏi cầu muốn của chủ nhân để theo
gương các người về trước.
Đằng trước nhà khách, nhiều nhà còn có hòn non bộ như đã
trình bày ở chươnggiải trí. Hòn non bộ đặt trong bể với những cảnh giúp cho chủ
nhân tìm thấy sự thư thái trong tâm hồn, vì ở đây là tất cả cái gì nhẹ nhàng,
êm ái, thanh tao và dịu dàng.
Việc trang trí nhà cửa của ta xưa trong ngụ ý rất nhiều ý
nghĩa vừa về tôn giáo, vừa về đạo đức. Thực ra đây cũng là một nghệ thuật, mà tất
cả các nghệ thuật phương Đông bao giờ cũng có tính cách tượng trưng.
Các Chữ ‘đại tự’ trên một bức hoành phi nói lên cả một quá khứ
một chi họ, đọc một câu đối ta có thể thấy cả một công trạng của một người
trong gia đình đã khuất với các đức tính cao quý:
‘Tiên tổ phương danh lưu quốc sử,
Tử tôn tích học kế gia phong.’
Lược dịch:
‘Tiên tổ danh thơn ghi sử nước,
Cháu con tích học nối cơ nhà.’
Một cảnh chùa trên hòn non bộ, không phải đây chỉ là một ngôi
chùa không vô tri vô giác, nhưng ngôi chùa này đã gợi cho ta suy nghĩ tới sự
thư thái trong tâm hồn của những người sống nơi am thanh cảnh vắng, cho ta phải
tưởng tượng ra tiếng chuông chùa văng vẳng, ra cảnh chiều hôm bảng lảng, cho ta
phải nhớ lại tiếng tụng kinh gõ mõ đều đều của các vị hoà thượng ở một ngôi
chùa nơi thâm sơn cùng cốc....., một ngư ông ngồi câu cá bên bờ suối cũng không
phải chỉ là một sinh hoạt tầm thường, khi thấy cảnh đó ta phải nghĩ tới sự tiêu
khiển của một kẻ đợi thời, ta phải nhớ lại sự tích Khương Tử Nha ngồi câu bên bờ
sông Vị ở Tây Kỳ, rồi sau này ông điều khiển tám trăm trấn chư hầu lật đổ vua
Trụ của nhà Thương.
Sự trang trí nhà cửa lối xưa nay vẫn còn tồn tại ở phần lớn
các gia đình Việt nam, nhưng cũng có nhiều người bắt chước Âu, Mỹ để trang
hoàng nhà cửa của mình.
Bước vào nhà những người này, ta thấy những bộ bàn ghế theo lối
mới lùn tịt, một pho tượng mỹ nữ khỏa thân ở một góc nhà, một lọ hoa sặc sỡ và
kiêu hãnh trên mặt bàn .Trên tường có ảnh một vũ nữ, một vài phong cảnh ... Ở
đây người ta kén sự mỹ thuật qua con mắt mới, sự hoà hợp trong nhà với đời sống
ngày một cao và đòi hỏi theo thị hiếu thời thượng
CƯỚI XIN
Cái gốc của gia đình là hôn nhân, có hôn nhân mới có vợ chồng,
mới sinh con đẻ cái.
Mục đích của hôn nhân là cốt duy trì gia thống, cho nên việc
cưới xin, tuy là cá
nhân nhưng lại chính là việc chung cho cả gia đình, có ý
nghĩa xã hội.
Trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng, đó là bổn phận của cha mẹ,
bổn phận này do sự bảo tồn huyết thống và duy trì kế tự để giữ việc khói hương.
Với sự thờ phụng tổ tiên, mỗi gia đình đều cần qua mỗi đời,
có con trai để nối dõi tông đường. Chính sự thờ phụng tổ tiên nó đã làm cho nền
tảng gia đình thêm vững chắc, và muốn có con, lẽ tất nhiên phải có sự phối ngẫu
giữa nam nữ.
Việc cưới xin làm rõ rệt hơn tính cách tín ngưỡng của gia
đình Việt Nam với sự thờ phụng trên, nhất là trong các việc duy trì gia thống.
Xưa kia, trai gái lấy nhau rất sớm. Nữ thập tam, nam thập lục,
là tuổi trai gái đã hiểu sự đời. Nhiều gia đình đôi bên cha mẹ còn đính ước với
nhau ngay từ khi những đứa trẻ còn là bào thai trong bụng. Những thủ tục này
ngày nay không còn nữa và trong việc hôn nhân của con cái cha mẹ chỉ đóng vai cố
vấn, và do đó, việc cưới xin cũng chỉ thực hiện khi con cái đã đến tuổi hiểu biết
trong sự kén chọn.
Thời xưa có tục tảo hôn, nhưng các thư sinh thường lấy vợ muộn,
các cậu còn muốn ‘Bảng vàng chói lọi, đuốc hoa vội gì’.
Tục lệ cưới xin của ta, có nhiều điểm giống người Trung Hoa,
vì theo tục lệ cũ.
Giá thú
Việc đôi bên phối ngẫu nhau gọi là ‘giá thú’. Thân Trọng Huề
trong một cuốn sách có nói ‘Giá thú là một cái lễ mà người đàn bà rời bỏ nhà
mình để về nhà chồng’.
Theo tục lệ, con gái lấy chồng phải theo chồng, không được về
nhà mình, chỉ được phép thỉnh thoảng về thăm cha mẹ, rồi khi cha mẹ chết đi, chỉ
trở lại về nhà mình vào những dịp giỗ tết.. Và, một khi đi lấy chồng, người đàn
bà, không còn có quyền nghĩ đến nhà mình mà phải ‘lấy chồng gánh vác giang sơn
nhà chồng’. Họ bên chồng nặng hơn đối với họ nhà mình.
Định nghĩa trên của Thân Trọng Huề mới đúng có một phần và
còn bỏ sót mục đích chính của việc cưới xin.
Theo kinh lễ, thiên ‘Hôn lễ’, hai chữ ‘Giá thú’ được định
nghĩa như sau:
‘Giá thú là một cái lễ nhân đó người đàn ông lo nối dòng họ
nhà mình, gây dựng con cháu’.
Đúng vậy, ‘Vì mục đích chính của hôn nhân là có con để lưu
truyền tôn tộc và vĩnh cửu sự phụng thờ’.. Luân lý ta cho người ‘vô hậu’ là phạm
tội nặng nhất trong đạo hiếu, như lời thầy Mạnh Tử đã nói: Bất hiếu giả tam, vô
hậu vi đại’, nghĩa là ‘Bất hiếu có ba điều, không có con nối dõi là nặng nhất’.
Ba điều bất hiếu:
- Cha mẹ sống không phụng dưỡng
- Cha mẹ chết làm nhục tới vong linh các người.
- Không có con nối dõi tông đường.
Vì giá thú là một cái lễ, nên phải có mệnh của cha mẹ, có môi
nhân.
Đối với người xưa, việc dựng vợ gả chồng là quyền của cha mẹ,
con cái chỉ biết vâng lời. Câu chuyện yêu đương trai gái, cha mẹ, không cần biết
đến, nếu cha mẹ không thuận tình. Việc ép duyên của cha mẹ, nhiều khi đã từng xảy
ra những việc đáng tiếc, bởi vậy ta có câu: ‘Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên’.
Trai gái tự do lấy nhau, không bẩm mệnh cha mẹ là điều đáng
chê, là trên bộc trong dâu, vì như kẻ trèo tường dòm vách. Và các cô gái lấy chồng
như vậy bị coi là Vợ theo, không đứng trong hàng ‘bố kinh’. Việc hôn nhân chỉ
được coi là chính thức khi ‘chồng cha mẹ lấy cho’.
Ép Duyên
Vợ chồng là căn bản của gia đình, vượt khỏi vòng lễ giáo, tức
là không hợp đạo người vậy. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Tuy nhiên, trong nhiều đám cưới, cha mẹ không nghĩ đến hạnh phúc
của các con, có người chỉ kén ‘môn đăng hộ đối’, có người tham giàu. Các cô gái
đã thốt ra biết bao lời oán hận trong những trường hợp này. Ta hãy nghe những
câu ca dao:
'Mẹ em tham thúng xôi rền,
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng.
Em đã bảo mẹ rằng đừng,
Mẹ ngấm, mẹ nguýt, mẹ bưng xôi vào,
Bây giờ người thấp kẻ cao,
Như đôi đũa lệch - so sao cho đều’.
Lại còn những trường hợp các bà mẹ chồng cần người làm dù con
trai mới ít tuổi, đã cưới ngay cho con một cô vợ lớn tuổi gấp đôi chồng! Lấy chồng
như vậy, còn gọi là lấy chồng sao được! Cô gái lại còn bị mọi người chê cười là
tham giàu đi lấy một đứa trẻ ranh, nhất là đối với những chàng trai làng trên
xã dưới vẫn hằng để ý tới cô:
'Em tham giàu, em lấy thằng bé tỉ ti,
Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ!
Em đem thân cho thân cho thằng bé nó giày vò,
Muà đông tháng giá nó nằm co trong lòng.
Mang danh là gái có chồng,
Chín đêm trực tiết nằm không cả mười.
Nói ra sở chỉ em cười,
Má hồng bỏ quá thiệt đời xuân xanh.
Em cũng liều mình vì thằng bé trẻ ranh,
Đêm nằm sờ mó quẩn quanh cho đỡ buồn.
Buồn tình em lại bé thằng bé nó lên,
Nó còn bé mọn đã nên cơm cháo gì.
Nó ngủ nó ngáy khì khì,
Một giấc đến sáng còn gì là xuân.
Chị em ơi, hoa nở mấy lần....’
Lấy chồng ai chẳng muốn lấy người vừa đôi phải lứa để cùng
chung sống trong ân ái, lấy anh chồng nhỏ xíu còn trông mong nỗi gì. Và ra đường,
mỗi khi đi cùng chồng, người ta lại bảo là ‘chị em’.
Luật pháp ngày nay đã ấn định tuổi hôn nhân, trai gái đôi bên
đã lấy nhau dù có sự chênh lệch.
Kén Vợ Kén Chồng
Việc vợ chồng là việc trọng đại nhất trong đời người, bởi vậy
phải lấy lễ nghi ràng buộc, nhưng trước khi đi đến những lễ nghi phải có sự thuận
tình của đôi trai gái và nhất là của cha mẹ đôi bên. Thời xưa sự thuận tình của
cha mẹ là cần thiết, vì trong việc hôn nhân của con cái, như trên đã nói, quyền
chính là ở cha mẹ, còn ngày nay cần sự thuận tình của các đương nhân và các bậc
cha mẹ chỉ đóng vai trò ‘cố vấn’, khuyên bảo con cái trong việc kén chọn người
bạn trăm năm.
Trai gái đôi bên lấu nhau, không phải bạ đâu lấy đấy, mà phải
có sự lưu ý, nhìn trước để kén người có thể chung sống với mình trong hoàn cảnh
của mình với sự thuận hoà.
Đến tuổi trưởng thành về sinh lý, tự nhiên trai gái hiểu biết
sự kén chọn của mình. Trước đây, vì việc cưới xin của trai gái thường tiến hành
trong tuổi còn nhỏ, nên phải nói, việc kén chọn chính là do cha mẹ nhiều hơn.
Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống . Sự hiểu biết của cha mẹ
với kinh nghiệm việc đời qua những điều từng trải, cha mẹ nhìn biết trai gái
trong làng những đám nào
có thể làm dâu con mình được, có thể tạo hạnh phúc cho con
cái mình, và những chàng trai nào khả dĩ trở nên giai tế của mình, có thể cho
con gái mình ‘Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân’
Việc kén chọn xưa nay có điều dị biệt. Xưa kén ‘môn đăng hộ đối’,
đôi bên trông vào gia thế, trông vào điạ vị xã hội của nha.
Kén con ông cháu cha, kén gia đình có luân lý đạo đức, nhưng
cũng lại kén tông, kén giống, ngõ hâù huyết thống được bảo toàn với nòi giống tốt,
với dòng dõi hay.
Con hiếu phải vâng lời cha mẹ. Con gái ‘cha mẹ đặt đâu ngồi đấy’
còn con trai cũng không bao giờ dám từ chối người vợ cha mẹ kén chọn cho mình.
Kén vợ cho con, người ta chú trọng đến cái đức hạnh nhiều hơn
nhan sắc, vì ‘cái nết đánh chết cái đẹp’ và ‘sắc đẹp không mài ra mà ăn được’.
Nói như vậy không phải là người ta bỏ qua nhan sắc, nha sắc
cũng dự phần trong việc kén chọn lứa đôi, nhất là khi người ta lấy những người
thiếp. Thê dụng đức, thiếp dụng sắc ‘vợ cái con cột’ cần phải kén người đức hạnh,
còn vợ lẽ con thêm người ta mới nhằm tới sắc đẹp nhiều hơn.
Ở đây tưởng cũng nên nói thêm về vấn đề giầu nghèo ‘Giá thú bất
luận tài’, việc hôn nhân không nói đến tiền của, mà cần ‘môn đăng hộ đối’ gia
thế và điạ vị xã hội của đôi bên. Chỉ những người tham giầu mới nói đến giầu
nghèo. Ai cũng muốn tránh cảnh thị phú khinh bần nó thường là cội nguồn của sự
bất hoà trong gia đình.
Theo tục lệ xưa, cha mẹ kén vợ kén chồng cho con, nhưng thường
cha mẹ vẫn hỏi ý kiến con cái trước, và việc thuận tình của con cái ít khi cha
mẹ cản trở, trừ những trường hợp rất ít ỏi.
Trai gái tiếp xúc
Xưa, ta thấm nhuần đạo lý Khổng Mạnh và phong tục ta thường dựa
trên phong tục Trung Hoa, mà theo đó nguyên tắc ‘nam nữ thụ thụ bất thân’ thường
luôn luôn được nhắc nhở tới. Phải có sự nam nữ hữu biệt để tránh những trò
‘trên bộc trong dâu’.
Mặc dầu nguyên tắc luân lý là như vậy, nhưng trên thực tế, tại
đất nước Việt Nam, nếu có sự ‘nam nữ hữu biệt’ đó chỉ có ở các gia đình trưởng
giả, ở một lớp người quá thiên theo phong tục Trung Hoa, còn trong lớp bình dân
thực ra giữa nam và nữ, sự hữu biệt cũng không quá khắt khe, và phong tục cũng
như sự sinh hoạt hằng tạo ra nhiều dịp để trai gái có thể gặp gỡ nhau được. Nào
những lúc công việc đồng áng cùng làm, rồi những lúc nghỉ ngơi trên bờ đê, sân
đình, dưới giậu tre, họ tha hồ gặp gỡ tiếp xúc với nhau. Rồi trong những cuộc
tiếp xúc này họ đã tâm tình với nhau. Bao nhiêu câu ca dao đã nhắc lại những cuộc
trò chuyện của họ. Họ ướm thử lòng nhau, họ nhắc lại nhau cái cảnh còn đơn chiếc
của mỗi người:
"Cô kia má đỏ hồng hồng,
Cô chưa lấy chồng, cô đợi chờ ai?
Buồng không lần lữa hôm mai!
Đầu xanh mấy lúc da mồi tóc sương.
Dẫu ngồi cửa sở chạm rồng,
Chăn loan gối phượng không chồng cũng hư!
Con trai chưa vợ đã xong,
Con gái chưa chồng buồn lắm em ơi!’
Lại thêm những dịp hội hè với các tục ca hát giữa nam thanh nữ
tú, với những trò ‘bách hí’ khiến cho trai gái có thể dễ dàng chung vui với
nhau như đán đu, bắt chạch trong chum, kéo co, ném còn, v.v....
Riêng với các tục ca hát trong ngày hội, những bọn con trai bọn
con gái tha hồ mà Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
thử tài nhau để lựa chọn nhau. Nếu có ai có vẻ nhút nhát, các
bà già đi lẫn trong đám hội như có vẻ khuyến khích để cho những đôi trai gái dễ
biết thương yêu nhau.
Tuy có sự gần gũi, đụng chạm, nhưng vẫn trong giới hạn lễ
giáo. Gặp gỡ nhau để tìm hiểu, nhưng không sàm sỡ. Những gái lẳng lơ, trai đĩ bợm
muốn vượt giới hạn lễ giáo với trò ong bướm đều bị mọi người chê cười khinh rẻ.
Những cuộc gặp gỡ ngày hội, cũng như trong lúc vui hát cùng
nhau khi nghỉ ngơi công việc chỉ là bước đầu đưa tới cuộc hôn nhân với đủ lễ
nghi, và phong tục cũng chỉ dễ dãi trong giới hạn đó.
Trai kén vợ, gái kén chồng, đúng như câu ca dao:
"Chim khôn đậu nóc nhà quan
Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng.’
Như trên đã nói, trai kén vợ thì kén đức, nhưng nếu cùng đi với
đức, lại là một nhan sắc kiều diễm thì càng hay. Câu ca dao dưới đây, đã nói
lên sự yêu thương của chàng trai đối với một cô gái qua những điểm nào:
"Một yêu tóc để đuôi gà
Hai yêu lời nói mặn mà có duyên;
Ba yêu má lún đồng tiền.
Bốn yêu răng lánh hạt huyền kém thua;
Năm yêu cổ yếm đeo bùa.
Sáu yêu nón thượng quai tua dịu dàng;
Bảy yêu nét ở khôn ngoan,
Tám yêu ăn nói lại càng thêm xinh;
Chín yêu em ở một mình,
Mười yêu con mắt hữu tình với ai.’
Trai yêu gái vì nết na vì nhan sắc, gái lại kén trai là bậc
tài hoa, là kẻ hơn người.
"Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng răng đen’.
°
° °
"Ăn đua cho đáng ăn đua,
Lấy chồng cho đáng việc vua việc làng’
Trong những buổi hát đối, nhiều câu hát là câu ướm hỏi:
"Anh thấy em anh cũng muốn chào,
Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài’.
°
° °
"Thuyền ai lơ lửng bên sông,
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
Ai đi đâu đấy hỡi ai?
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm.’
Và nhiều câu hát, chính là để nói lên sự gắn bó của lòng mình
đối với người thương:
"Ai ơi đã quyết thì hành,
Đã đan thì lận trọn vành mới thôi.
Ai ơi giữ chí cho bền,
Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai!’
Gặp gỡ nhau trai gái thường lấy miếng trầu để làm đầu câu
chuyện. Họ mời nhau:
"Mẹ em hằng vẫn khuyên răn,
Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào!’
Các cô con gái, cũng có cô nhận lấy miếng trầu, nhưng có cô
nhớ lại lời mẹ dặn:
"Mẹ em hằng vẫn khuyên rằng,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người!’
Không ăn trầu người, tức là cô còn chờ lệnh cha mẹ. Cô là con
nhà lễ giáo ‘mặc áo không qua khỏi đầu’ con không qua lời cha mẹ:
"Ngọc còn ẩn cội cây ngâu,
Con còn cha mẹ dám đâu tư tình!’
Ca dao của ta nói về miếng trầu rất nhiều, vì đã hơn một lần
‘Miếng trầu lên dâu nhà người’:
"Ra vườn hái quả cau xanh,
Bổ ra làm bốn, mời anh xơi trầu.
Trầu này têm những vôi tầu,
Ở giữa đệm quế, đôi đầu hoa chanh,
Trầu này, trầu lộc, trầu danh,
Trầu nhân, trầu nghĩa, trầu mình, trầu ta.
Trầu này nhuộm thắm duyên ta,
Đầu xanh cho đến tuổi già không phai’
°
° °
"Ăn trầu phải giở trầu ra,
Một là thuốc độc hai là mặn vôi’
Đã nói đến sự tiếp xúc giữa trai gái qua câu ca dao, lời hát,
tưởng nên không thể bỏ qua những lời chế diễu của đôi bên với nhau, chế giễu để
đuà cợt, và để đưa tới một sự đối đáp.
Gặp một chàng trai chưa vợ, một vài cô gái có thể hát ghẹo:
"Người ta chồng trước vợ sau,
Anh kia không vợ như cau không buồng,
Cau không buồng ra tuồng cau đực,
Trai không vợ cực lắm ai ơi!’
Nếu có những cô gái hát vậy, thì cũng có những chàng trai hằng
nhắc tới cái cảnh không chồng của các cô:
"Tròng trành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng.’
°
° °
"Gái có chồng như gông mang cổ,
Gái không chồng như phản gỗ long đanh,
Phản long đanh anh còn chữa được,
Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi.
Không chồng buồn lắm ai ơi!’
Có nhiều cặp trai gái, sau những cuộc tiếp xúc gặp gỡ với
nhau đã như:
"Con dao rọc lá trầu vàng,
Mắt anh, anh liếc, mắt nàng, nàng đưa.’ Phong Tuc
Tap Quan Viet Nam
Đôi bên đã cùng nhau gắn bó, nguyện một chữ đồng, vậy mà về
sau, cô gái đã phụ lời thề ước, khiến cho chàng trai ngậm đắng nuốt cay:
"Đồng tiền Vạn Lịch, thích bốn chữ vàng,
Công anh dan díu với nàng bấy lâu,
Bây giờ nàng lấy chồng đâu,
Để anh mua biếu trăm cau, nghìn vàng;
Trăm cau thì để tặng nàng,
Nghìn vàng thì đốt giải oan lời thề!’
Những cuộc tiếp xúc giữa trai gái đồng quê thường đem lại kết
quả tốt đẹp, cuộc nhân duyên có thể bắt đầu. Lúc này, nhà trai có thể đánh tiếng
với nhà gái, và khi cô gái được bố mẹ hỏi ý kiến, cô đã trả lời như lễ giáo muốn:
- Phận con là gái, cha mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy.’
Rồi cô đỏ mặt, mắt cô trong, môi cô thắm.... Cha mẹ đã hiểu ý
cô, và cuộc hôn nhân được xúc tiến. Ông bà sẽ bảo nhau:
- ‘Chúng nó đã thương nhau’.
Hôn lễ
Hôn lễ ở nước ta trước đây thường quy thức của Trung Hoa với
một đôi sự thay đổi. Theo sử sách thì những lễ nghi này do Nhâm Diên, Thái Thú
quận Cửu Chân truyền sang Việt Nam đầu tiên . Ngày nay các hủ tục đã bỏ xong
chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm để thấy được nét văn hoá xưa.
Khi trình bày về hôn lễ. Ông Thân Trọng Huề có viết :
‘Người đàn ông đàn bà lấy nhau đều là sự ngẫu nhiên. Truy
nguyên thủy, thưở trước đời thái cổ, khi loài người còn ăn lông, mặc lá, ở tổ,
chưa có phép tắc thì đàn ông, đàn bà chỉ lấy nhau như loài cầm thú, lần lần mới
lập phép tắc để phân biệt với loài cầm thú. Đã lập hôn thì không lễ không thành
hôn’.
Và lễ, đây chính là những lẽ do thái thú Nhâm Diên đã truyền
sang buổi ban đầu và gồm sáu lễ, được mệnh danh là ‘ Chu Công lục lễ’.
1- Lễ nạp thái, đôi bên nhà trai, nhà gái đính ước. Người
xưa, nha trai dùng con nhạn mang tới nhà gái với ý nghĩa là dã chọn có nơi.
2- Lễ vấn danh, nhà trai hỏi tên, tuổi, ngày sinh tháng đẻ của
cô gái. và cô gái hợp với tuổi chàng trai.
3- Lễ nạp cát, nhà trai chấp nhận sự đính ước sau khi đã so
đôi tuổi với chàng trai.
4- Lễ nạp tệ, tức lễ ăn hỏi.
5- Lễ thỉnh kỷ, tứ lễ xin cưới.
6- Lễ thân nghênh, còn gọi là lễ Nghênh hôn, tức lễ cưới.
Tục lệ đã đổi thay và đã được giản tiện đi nhiều. Hiện nay, ở
nước ta chỉ còn bốn lễ chính sau đây:
- Lễ chạm ngõ
- Lễ ăn giạm.
- Lễ ăn hỏi.
- Lễ nghênh hôn.
Bắn Tin
Ngoài ra, ta còn có tục ‘Bắn tin’. Sau khi người con trai đã
tìm hiểu và đã tìm hiểu và đã có ý kén người con gái làm bạn trăm năm. bố mẹ
chàng trai nhờ người đưa tin cho bố mẹ cô gái biết, xem bố mẹ cô gái có ưng chịu
hay không, nếu ưng chị thì cho tin lại.
Về tục bắn tin này, luật ta xưa có nói rằng:
“Trước khi đi hỏi, nhà con trai con gái phải làm hôn thư, kê
rõ hai người ấy có
bệnh tật gì không, con cả hay con vợ lẽ”.
Lễ lập hôn thư này ngày nay không còn nữa, nhưng trước khi tiếp
xúc việc hôn nhân đôi bên nhà trai nhà gái vẫn báo tin cho nhau biết.
Lễ chạm ngõ
Lễ chạm ngõ cử hành sau khi đôi bên nhà trai nhà gái đã ưng
thuận việc hôn nhân.
Trong lễ này, nhà trai mang lễ đến nhà gái, - lễ gồm trầu,
cau, trà, rượu.
Ðây là dịp để người con trai biết rõ người con gái hơn, cho
nên lễ này còn gọi là lễ xem mặt. Ðồng thời, các bà cô, bà dì của chàng trai
cũng nhân lễ này để tìm biết cách ăn ở của người con gái lúc ở nhà ra sao. Thường
thường người ta căn cứ vào lời ông mai, bà mối, nhưng từng có chuyện lộn lầm,
nên lễ chạm ngõ tuy nhiều nơi đã bỏ, nhưng nhiều điạ phương vẫn duy trì.
Lễ ăn giạm.
Sau lễ chạm ngõ là lễ ăn giạm, còn gọi là lễ vấn danh. Lễ này
chỉ cử hành sau khi nhà gái đã cho bà mối biết là thuận việc hôn nhân cho đôi
trẻ. Ngày lễ nhà trai dẫn tới nhà gái đồ lễ và xin bản “lộc mệnh” tức là tờ giấy
ghi rõ ngày giờ sinh đẻ của cô gái để tiện so đôi tuổi với cậu trai. Nếu đôi tuổi
“hợp”, việc hôn nhân sẽ được định đoạt hẳn.
Lễ ăn hỏi
Lễ ăn hỏi tức lễ nạp tệ.
Có nhiều nơi không cử hành lễ ăn giạm, và sau lễ chạm ngõ,
nhà trai nhờ bà mối lấy “bản lộc mệnh” của cô gái để so đôi tuổi, kế đó là lễ
ăn hỏi.
Lễ ăn hỏi là lễ quan trọng trong việc hôn nhân. Ngày cử lễ,
nhà trai dẫn tới nhà gái đồ lễ gồm bánh trái, rượu, trà, cau. Nhà gái nhận đồ lễ
của nhà trai đem chia cho thân bằng quyến thuộc để báo tin mừng, ở tỉnh thành
ngày nay có kèm theo thiệp báo hỉ. Nhận lễ ăn hỏi, tức là nhà gái đã nhận
hẳn việc gả con cho nhà trai. Sau đó chàng rể phải “sêu tết” nhà vợ chưa cưới,
nghĩa là vào những dịp Tết Nguyên Ðán, tết Ðoan Ngọ, Cơm Mới, những ngày giỗ
chính của nhà gái, chàng rể phải có đồ lễ tới gia đình nhà vợ.
Ta nhận thấy rằng, người con gái, dù muốn dù không sau các lễ
trên đã nghiễm nhiên trở thành vợ chưa cưới của một chàng trai, dù mình đã biết
hay chưa biết.
Sự đụng chạm giữa trai gái qua các hội hè, qua các cuộc hát đối,
đã làm giảm rất nhiều sự bỡ ngỡ của cô gái đối với chàng trai xa lạ. Nhờ các cuộc
tiếp xúc trai gái đã tự kén chọn lấy nhau, cũng như ngày nay ở các nơi đô thị.
Có nhiều nơi, chàng rể phải tới ở rể nhà vợ một thời gian trước
khi làm lễ cưới, nhưng chỉ ở trong thời kỳ chưa cưới này thôi. Tuy
nhiên nhiều người trai đã sang ở rể hẳn bên vợ.
Lễ nghênh hôn
Sau lễ ăn hỏi, nhà trai có thể xin với nhà gái để làm Lễ Cưới,
tức lễ nghênh hôn hay lễ “đón dâu”.
Trong lễ này có lễ dẫn cưới, nên trước khi ấn định lễ rước
dâu nhà gái thường “thách cưới” nhà trai, và những đồ lễ nhà gái đòi, nhiều
khi nhà trai không lo nổi, vì nhà gái đã thách nào tiền dẫn cưới, nào đồ trang
sức, nào quần áo cho cô dâu, nào lợn, nào xôi, để làm cỗ mời họ hoàng. Ðã có những
chàng trai khi lấy vợ phải đi vay mượn, rồi món nợ cưới kéo dài
hàng năm mười năm không hết.
“Thương con ngon cuả” là câu của nhà gái thường nói sau
khi thách cưới mà nhà trai xin tỉnh giảm, được nhà gái nhận lời. Như thế nhà
gái đã ”giơ cao đánh khẽ”.
Ca dao có rất nhiều câu về thách cưới, dưới đây là một câu
đơn cử ra để chứng tỏ sự thách cưới của người xưa thật là ghê gớm: Phong Tuc
Tap Quan Viet Nam
"Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh xao.
Cưới em trăm tấm gấm đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Tháp tròn dẫn đủ trăm đôi,
Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng.
Sắm xe tứ mã đem sang,
Ðể quan viên họ nhà nàng đưa dâu,
Ba trăm nón Nghệ đội đầu,
Mỗi người một cái quạt tầu thật xinh
Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình,
May chăn cho rộng, ta mình đắp chung.
Cưới em chính chĩnh mật ong,
Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò.
Cưới em tám vạn trâu bò,
Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm.
Lá đa mặt nguyệt đêm rằm,
Răng nanh thằng cuội, râu cằm thiên lôi.
Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi,
Xin chàng chín chục con dơi goá chồng.
Thách thế mới thoả trong lòng,
Chàng mà theo được, thiếp cùng theo chân.
Ðã đành rằng câu ca dao này có phóng đại lên gấp nhiều lần sự
thách cưới, nhưng cũng chỉ nói lên cái tệ của tục lệ này. Sự thách cưới nhiều
khi đã gần như việc nói thách để bán một món hàng. Ðể chê bai những bậc cha mẹ
thách cưới quá độ, dân gian thường nói: “gả con hay bán lợn”. May
thay tục thách cưới ngày nay không còn quá tệ nữa. Nhiều nơi đã bỏ hẳn tục này.
Sau khi đôi bên nhà trai, nhà gái đã thoả thuận về đồ thách
cuới, hai họ ấn đinh ngày nghênh hôn. Ngày này thường được chọn vào những ngày
được coi là “tốt ngày” theo âm lịch những ngày không “xung”, không “kỵ” các tuổi
của chú rể cô dâu. Thường người ta kén “ngày hoàng đạo”.
Xưa, ngày nghênh hôn, nhà trai mang đồ lễ tới họ nhà gái. Ði
đầu là một ông già cầm hương, thường được kén trong các ông già đông con và có
địa vị . Sự lựa chọn này, có ý mong cho đôi trẻ “bách niên giai lão”, con cháu
đề huề, làm ăn sung túc, ăn trên ngồi trốc. Ngày nay không còn tục này.
Khi đám cưới đi gần đến ngõ nhà gái, nhà trai đốt lên bánh
pháo.
Lúc ấy, đường vào nhà gái có người chăng giây, nhất là
các trẻ em. Hai em hai bên đường, mỗi em cầm một đầu dây, thường là chiếc thắt
lưng điều. Dây chăng ngang đường như vậy, nhà trai phải cho các em tiền để
chúng bỏ dây đi. Người ta kiêng sự cắt đứt dây, nên nhiều khi gặp những đứa trẻ
ương ngạnh, phải cho chúng một món tiền kha khá nếu không chúng doạ cắt dây.
Trong những đám cưới long trọng, có nhiều nhà bày hương án
trong ngõ đến đón đám đưa rể. Nhà trai phải tặng những người bày hương án một
món tiền, và những người này khi đám cưới đến thường đốt pháo để mừng chú rể.
Khi đám đưa rể đã vượt qua được lớp chăng dây, tới cổng nhà
cô dâu, cửa ngõ lại đóng. Ðây là tục đóng cửa, thường do các cô em dâu hoặc người
nhà. Nhà trai, phải bỏ tiền ra để cho người mở cửa, gọi là “tiền mở cửa”.
Cửa đã mở, họ nhà trai bước vào giữa tiếng pháo nổ, pháo của
nhà trai đốt và pháo
của cả họ nhà gái đốt đón mừng họ nhà trai. Thời trước, việc
đốt pháo rất thịnh hành, nay thì không còn do quy định chung nhưng đám cưới vẫn
vui.
Ðám đưa rể đã vào trong nhà. Ðồ lễ cùng với tiền bạc dẫn cưới
được đặt lên giường thờ.
Nhà gái điểm lại đồ thách cưới, tuy một phần đã được nhà trai
đưa tới từ mấy bữa trước để tiện nhà gái làm cỗ mời họ hàng.
Cũng có những trường hợp, nhà trai dẫn không đủ đồ thách cưới,
lại có sự xin bớt, và mọi việc chỉ xong xuôi khi nhà gái thuận sự bớt xén.
Ðồ lễ đủ rồi, nhà gái cho thắp hương để chú rể cô
dâu cùng lễ gia tiên
Nhiều khi việc thắp hương không dễ dàng, vì người đứng ra thắp
hương còn đòi “tiền thắp hương” của nhà trai.
Không phải ai cũng có thể thắp nén hương trong ngày lễ cưới
này được. Hương phải do gia trưởng hoặc trưởng nam, thuộc huyết thống của tổ
tiên mới thắp được.
Qua khỏi mọi sự khó khăn bày đặt ra bởi lễ nghi và phong tục,
kể từ lúc “chăng dây” cho đến khi hương được thắp trên giường thờ, là cốt để chứng
tỏ rằng chàng trai không nề hà những sự khó khăn để đón cho được cô dâu, và
cũng để chứng tỏ sự thiết tha thương yêu vợ của chú rể. Tuy vậy đây vẫn là những
thủ tục rườm rà cần giản lược.
Về lễ dẫn cưới cũng như hôm ăn hỏi, tại các đô thị, những đồ
lễ thường được nhà trai thuê các phu cưới mặc khăn đóng áo dài, thắt lưng đỏ đội
tới nhà gái, cùng đi với họ nhà trai. Thường người ta vẫn dùng xe hơi, nhưng
khi tới gần nhà gái, các phu cưới mới xếp thành đoàn để đội, để khiêng đồ lễ.
Việc cưới xin ở thành thị ngày nay đã tân tiến hơn nhiều.
Lễ mừng bố mẹ vợ
Chú rể và cô dâu, sau khi lễ bàn thờ gia tiên, mỗi người lễ bốn
lễ rưỡi, phải lễ mừng bố mẹ vợ, và các bậc trên như ông bà, cụ kỵ
vợ nếu các vị này còn sống.
Chú rể lễ mừng bố mẹ vợ để tạ ơn công sinh thành ra vợ mình,
còn cô dâu lễ để tạ ơn công sinh dưỡng và gây dựng cho mình.
Có điạ phương, chú rể phải lễ mừng nhận họ cả các ông chú bà
bác.
Khi chú rể lễ mừng, bố mẹ vợ thường nhân dịp này cho chàng rể
nhà cửa, ruộng nương bằng cách trao văn tự hoặc địa đồ.
Lễ nhà thờ
Kế đó chú rể được dẫn đi lễ mấy nhà thờ họ nội, họ ngoại. Việc
này có ý nghĩa như đi “trình diện” với gia tiên nhà vợ.
Cũng có nơi, chàng rể phải đi lễ các nhà thờ trớc rồi mới về
lễ mừng bố mẹ vợ.
Rồi một bữa ăn, ở nơi đô thị là một tiệc trà, nhà gái dọn ra
để mời họ nhà trai. Sau bữa tiệc này đúng giờ “hoàng đạo” nhà trai
xin rước dâu.
Rước dâu
Một đại diện nhà trai, thường là người nhiều tuổi vào hàng
chú bác chú rể, đứng lên. Câu nói thường dùng trong trường hợp này là:
“Một năm được một tháng, một tháng được một ngày, một ngày được
một giờ để khỏi lỡ giờ tốt, xin các cụ và họ nhà gái cho chúng tôi đón cháu về.”
Lúc này cô dâu đã y phục chỉnh tề, trang điểm với đủ mọi đồ nữ
trang của mình và sẽ mang về nhà chồng tất cả những đồ mừng, những đồ dẫn cưới
dành riêng cho cô dâu như quần áo, chăn gối, v.v.... Ðựng trong một chiếc rương
phủ nhiễu điều. Các phu cưới đội những chiếc rương này đi theo đám đưa dâu.
Ngày này, không dùng rương, các cô gái thành thị dùng va-li và những chiếc
va-li này xếp lên xe hơi.
Họ nhà gái có một số người đi theo cô dâu, trong số đó có các
cô ”phù dâu”, cũng Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
như đám đưa chú rể lúc trước có các cô cậu “phù rể”. Các cô
phù dâu và các cậu phù rể chọn trong các cô cậu chưa lập gia đình.
Bố mẹ cô dâu không đi theo con gái, tục này ở một vài nơi
không còn, nhất là ở tỉnh thành. Có nơi, trước khi cô gái rời khỏi nhà mình, bà
mẹ gài vào viền áo của cô 9 chiếc kim khâu. Thực ra, bà mẹ cũng đã dặn con về vệc
sử dung chiếc kim này, cốt để đề phòng một chứng phong.
Cụ già chủ hôn lại dẫn đầu đám đón dâu. Lại đốt pháo trước
khi đám đón dâu lên đường.
Ði theo cụ già cầm hương là hai họ nhà trai và nhà gái.
Về việc cầm hương này, người xưa giải thích là để cúng vị thần
chủ về hôn lễ, nhưng cũng có người cho là để “đốt vía” những kẻ xấu miệng quở
quang khi đám cưới đi qua.
Ở các đô thị trong việc cưới xin giờ đây thường dùng xe hơi để
đưa rể và đón dâu. Xe đi đầu là xe của cụ già cầm hương. Trên lộ trình lúc đón
dâu, phải cố tránh để cho đoàn xe được đi liền nhau khỏi bị ngắt quãng.
Cô dâu chu rể có khi ngồi chung một xe, xe này có kết hoa.
Cũng có đám cưới, xe hoa dành riêng để cô dâu ngồi với các cô phù dâu, còn chú
rể ngồi một xe khác với các cậu phù rể.
Lễ rước dâu, còn gọi là lễ vu quy , nghĩa là gái về
nhà chồng. Ðây là một trọng lễ, và mọi sự cẩn thận đều được chú ý.
Khi tới nhà trai, cô dâu phải bước qua một hoả lò than hồng,
cốt để trừ những vía độc hoặc tà ma đã ám ảnh cô trông lúc cô đi đường.
Trong lúc đó, bà mẹ chồng phải tạm thời lánh mặt sang nhà
hàng xóm, mang theo bình vôi: một nội tướng mới đến, một nội tướng cũ
tạm lánh mặt. Bình vôi tượng trưng cho sự coi sóc gia đình. Trách nhiệm của cô
dâu sẽ nặng nề vì lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng.
Lễ bên nhà chồng
Sau đó là lễ gia tiên nhà chồng, cả hai vợ chồng cùng lễ.
Xong lễ này, bà mẹ chồng cũng đã trở lại nhà với bình vôi.
Bây giờ lại đến lễ mừng bố mẹ chồng, hoặc nếu ông bà cụ kỵ
còn sống thì lễ mừng cả các người.
Nhân lễ mừng của cô dâu, ông bà bố mẹ đều tặng cho cô dâu món
quà, thường là tiền hoặc đồ nữ trang.
Tại một vài địa phương, ngoài ông bà, cha mẹ chồng, cô dâu
chú rể cũng lễ mừng cả chú bác, cô dì, và những người này đáp lễ, thường có quà
tặng cho đôi vợ chồng mới.
Sau đó, một vài chị em nhà chồng lại đưa cô dâu đi lễ các nhà
thờ họ chồng.
Lễ tại các bàn thờ, cô dâu chú rể đều phải lễ bốn lễ rưỡi,
còn khi lễ mừng ông bà, cha mẹ bên chồng cũng như bên vộ, chỉ phải lễ hai lễ rưỡi.
Lễ nhà thờ họ xong, cô dâu trở lại nhà chồng để dự lễ Tơ Hồng.
Lễ tơ hồng
Người xưa cho rằng Nguyệt Lão là vị thần chủ về hôn sự. Ðể tạ
ơn vị thần nàyđã tác hợp nên cuộc nhân duyên, trong các đám cưới có lễ Tơ Hồng
tức là buổi lễ để tỏ lòng biết ơn Nguyệt Lão đã dùng dây tơ hồng xe cho đôi trẻ
được nên duyên.
Bàn thờ Tơ Hồng lập ở giữa sân với đủ hương đăng hoa quả, xôi
gà và một cơi trầu riêng, cơi trầu này dành cho cô dâu chú rể sẽ chia nhau ăn.
Cô dâu và chú rể quỳ trước bàn thờ để nghe một vị cao niên đọc
“văn tế Tơ hồng”, chú rể quỳ trước, cô dâu quỳ đằng sau.
Văn tế Tơ hồng đọc xong, chú rể và cô dâu lễ mỗi người bốn lễ
rưỡi. Kế đó hai người cùng uống chung một ly rượu, ly rượu này, đã đặt sẵn trên
bàn thờ. Uống chung một ly rượu này, từ nay hai người sẽ là một, sẽ say nhau tới
bạc đầu răng long. Sau đó, mỗi người ăn một miếng trầu, têm chung một quả cau
và một lá trầu không. Ngoài ra, các đồ lễ khác trên bàn thờ Tơ Hồng đều do cô
dâu và chú rể cùng ăn. Trong lúc họ uống rượu ăn trầu, thường có đốt pháo mừng.
Văn tế tơ hồng
Dưới đây là một mẫu “văn tế Tơ hồng”, trích trong cuốn “Sơn
Nhân Nhàn Bút” của cụ Chiêu Dương Nguyễn Các Phụng, giúp bạn đọc tham khảo:
“Duy... năm.... tháng... ngày... Phủ.... Tổng.... Xã.... Tôi
tên.... vì việc kết hôn cùng..... , nay hôn sự đã thành, kính dâng lễ bạc lên đức.
"Tơ hồng Nguyệt Lão thiên tiên;
Rất công rất thẳng.
Không vị, không thiên;
Ðem kính ngọc, xét xoi thế sự,
Lấy chỉ hồng, xe kết nhân duyên.
Xui nhạn cá mối manh đưa lại,
Nên uyên ương xum họp phỉ nguyền,
Bởi nợ trước duyên sau, cùng sinh cùng hội,
Vậy người Nam kẻ Bắc, kết nghĩa bách niên.
Ðuốc hoa xán lạn hai nhà, nhờ ơn Nguyệt lão,
Thước ngọc hợp thành một cặp, bởi đức Hoàng Thiên.
Gối phượng chăn loan, tưng bừng đôi lứa,
Chèo lan quế, êm ấm một thuyền.
Mong sớm ứng điềm lành, mộng hổ, mộng hùng, mộng
sà, mộng lộc;
Ðược sau nên họ lớn, sinh đào, sinh lý, sinh huệ,
sinh liên.
Nguyện cùng trăn năm giai lão,
Ước rằng hai họ mãn viên.
Trông ơn đại đức,
Tấc dạ vi kiền.
Cẩn cáo”
Sau lễ tơ hồng, - cũng có nơi lễ nay cử hành trước khi cô dâu
đi lễ nhà thờ và lễ mừng bố mẹ chồng, là tiệc tùng do nhà trai thết dãi nhà
gái, trước khi nhà gái ra về.
Cô dâu ở lại nhà chồng.
Mừng Cưới
Ở đây tôi xin nói qua, trong ngày cưới và trước đó một hai
ngày, bạn bè, khách khứacủa hai họ tới mừng có đồ mừng hoặc là tặng phẩm, hoặc
tiền nong, hoặc những đôi liễn, những bức thêu đều được gia chủ tiếp thết tiệc.
Bạn bè của cô dâu chú rể, mừng cô dâu chú rể, bạn bè của bố mẹ
hoặc có đồ mừng cho cô dâu chú rể, hoặc mừng bố mẹ. Mừng bố mẹ người xưa thường
dùng thơ văn. Ngày nay, có người mừng nhau trên báo chương .
Tiệc Cưới
Nói về việc ăn uống, ngày nay nhất là ở nơi đô thị có khác
xưa nhiều.
Họ nhà trai đến nhà gái, nhà gái thết tiệc trà, và khi họ nhà
gái tới nhà trai, cũng lại có tiệc trà. Và buổi tối hôm “nghênh hôn”, có tiệc mời
bạn bè tại tiệm, có khi nhà trai nhà gái mời riêng, có khi hai nhà mời chung.
Trong bữa tiệc này bố mẹ đưa cô dâu chú rể đi chào bạn bè, trong những năm gần
đây, có nhiều đám cưới thay thế bữa ăn bằng tiệc trà có âm nhạc và khiêu vũ.
Phong Tuc Tap Quan Viet Nam Nếu là lễ đính hôn thì thay hai chữ “thành
hôn” bằng hai chữ “đính hôn”. Có khi trong thiếp báo hỷ có nói rõ con trai
là trưởng nam hay thứ nam, con gái là trưởng nữ hay thứ nữ.
Báo hỉ
Cả việc mời khách nay cũng khác xưa:
Xưa dùng trầu cau chia cho bằng hữu họ hàng, có khi có kèm
theo “thiếp báo hỷ”, ngày nay có thiếp mời đính kèm thiếp báo hỷ.
Thiếp báo hỷ thường hai họ chung nhau, nhưng mẫu ngày xưa
không giống mẫu ngày nay. Tờ thiếp báo hỷ xưa gập đôi, hình chữ nhật nằm theo
chiều ngang ở giữa là hai chữ họ, hoặc chữ cái đứng đầu hai họ lồng nhau, một
bên nhà trai, một bên nhà gái.
Dưới đây là mẫu báo hỷ xưa:
- Bên nhà trai
“Thưa....
Thừa lệnh song đường, đến ngày... tháng... nhân được ngày
lành tháng tốt, chúng tôi làm lễ thành hôn cho con trai chúng tôi là... kết
duyên với cô.... con gái ông bà...., ở....
Lễ thành hôn sẽ cử hành thân mật tại....
Dưới đây là phần nhà gái báo hỷ:
“Thưa...
Thừa lệnh song đường, đến ngày... tháng.... nhân được ngày
lành tháng tốt, chúng tôi làm lễ vu quy cho con gái chúng tôi là... thành hôn với
cậu.... con trai ông bà...., ở....
Lễ thành hôn sẽ cử hành thân mật tại....
Nếu chỉ đính hôn, hai chữ “vu quy” sẽ được thay bằng hai
chữ “đính hôn” và hai chữ “thành hôn” bằng hai chữ “đính ước” .
Thiếp báo hỷ ngày nay gập thành ba mảnh thành hình chữ nhật
theo chiều cao, và trong thiếp nội dung giản dị hơn nhiều, thường chỉ gồm một
câu:
“Chúng tôi trân trọng báo tin lễ thành hôn của các con chúng
tôi....”
Trên thiếp có ghi tên điạ chỉ hai bên bố mẹ và tên các con.
Muốn rõ ràng hơn, thay vì bốn chữ các con chúng tôi là mấy chữ trưởng
nam và thứ nữ chúng tôi.
Thiếp báo hỷ xưa bao giờ cũng màu đỏ, hoặc nếu màu trắng thì
chữ đỏ. Ngày nay, có ngưòi còn dùng màu hồng và cũng không in chữ hồng nữa, có
khi màu trắng chữ xanh, chữ vàng, v.v.....
Lễ động phòng
Cũng như lễ Tơ Hồng, lễ “Động phòng” chỉ là một phần của lễ
nghênh hôn.
Theo tục lệ, trước khi động phòng, một bà già, chồng còn sống
và đông con sẽ làm giường cho cô dâu chú rể để “truyền” cái may mắn của mình
cho cặp vợ chồng trẻ này.
Lễ động phòng cử hành buổi chiều hôm rước dâu sau khi khách
khứa đã ra về.
Cô dâu chú rể dắt tay nhau vào phòng riêng, và cùng nhau làm
lễ “hợp cẩn”.
Trong phòng đã có sẵn một mâm rượu, một cơi trầu. Hai vợ chồng
cùng nhau uống chung một chén rượu, ăn chung một mâm cơm, sau đó ăn mỗi người một
miếng trầu do cùng một quả cau, cùng một lá trầu không và cùng một thanh vỏ.
Cũng có nơi không có lễ “hợp cẩn” này, vì lúc lễ tơ hồng đôi
vợ chồng đã uống rượu ăn trầu rồi, và buổi tối đôi bên chỉ còn chuyện đuốc hoa.
Trong buổi động phòng, trước khi uống rượu hợp cẩn, cô dâu
thường kiếm cách để ngồi lên phía đầu giường ý rằng say này trong cuộc sống
chung, cô sẽ được chồng
chiều chuộng và phục tòng. Cùng với ý nghĩa trên, cô dâu lại
tìm cớ vắt quần áo mình lên trên quần áochồng. Tuy nhiên đây chỉ là ý niệm cá
biệt.
Lễ nhị hỷ hoặc tứ hỷ
Lễ này còn gọi là “lễ lại mặt”. Ngày hôm sau, cặp vợ chồng
mới này dắt nhau về thăm bố mẹ vợ. Với lễ “lại mặt” cô dâu có thể nhận được những
câu dặn dò cuối cùng của bố mẹ mình, và từ nay cô sẽ là người của nhà chồng. Có
nơi lễ lại mặt gọi là lễ “tứ hỷ” vì cô dâu chú rể chỉ đi lại mặt vào
ngày thứ tư sau khi cưới.
Hôn lễ theo Phật Giáo
Những lễ trên về hôn nhân là theo tập tục chung ngày xưa,
nhưng ngày nay, nhiều cặp vợ chồng lấy nhau, còn làm lễ theo Phật Giáo.
Một vị Thượng Tọa chủ tọa lễ này tại một ngôi chùa trước bàn
thờ Phật, có sự hiện diện của họ hàng bằng hữu. Cặp vợ chồng lễ trước Phật đài,
các người chứng kiến cũng lễ. Vị hòa thượng chủ tọa sau khi niệm Phật khuyên nhủ
đôi vợ chồng về sự phối ngẫu phải thương yêu nhau. Sau đó hòa thượng dùng một cặp
nhẫn đeo cho cả hai vợ chồng.
Phải nhận rằng lễ này các Phật tử thực hiện giống tín đồ
Thiên Chúa Giáo, nhất là trong việc đeo nhẫn và hai vợ chồng nguyện ăn ở cùng
nhau tới đầu bạc răng long.
Nộp cheo
Ngày xưa, ta không có sổ giá thú, và đám cưới theo tục lệ là
đủ để công nhận sự thành hôn của hai người.
Thay vào việc lập tờ khai giá thú, xưa có “lệ nộp
cheo” nghĩa là khi con trai lấy vợ thì phải nộp cho làng bên người con gái
một lễ cheo. Lễ này có thể bằng tiền hay bằng đồ dùng như mâm thau,
bát đĩa hoặc bằng xôi lợn, tùy theo lệ của từng làng.
Làng cô dâu sẽ cấp cho chú rể một “phái cheo” để chứng tỏ
rằng làng đã công nhận sự hợp duyên của chú rể với cô dâu.
Lễ nộp cheo rất can hệ, phái cheo sẽ dùng làm bằng
cho cuộc giá thú của đôi bên trước gia đình, tôn giáo và pháp luật. Ca dao có
câu:
"Có cưới mà chẳng có cheo,
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài!”
Có làng đặt ra hai lệ nộp cheo nặng nhẹ khác nhau, một lệ cho
trai làng lấy gái làng rất nhẹ, chỉ cần trầu cau trình làng là đủ, còn một lệ
cho trai thiên hạ lấy gái làng nặng hơn, phải nộp tiền.
Việc xin cưới hỏi được là dứt khoát khi nhà trai đã nộp cheo
xong. Về sau mỗi khi cần lấy chứng chỉ hôn thú, chàng trai sẽ xuất trình phái
cheo, lý trưởng sẽ căn cứ theo phái cheo cấp giấy chứng nhận hôn thú cho đương
sự.
Kể từ khi có thủ tục hộ tịch tại Việt Nam, việc cưới xin phải
có giấy giá thú theo luật lệ, nếu không việc hôn nhân có thể bị tiêu hủy. Đối với
những đám cưới cử hành trước ngày có hộ tịch, “phái cheo” vẫn có giá trị như một
giấy giá thú.
Mặc dầu có luật hộ tịch, giấy giá thú được lậpcho các cuộc
hôn nhân, nhưng khi còn chế độ quân chủ phong kiến người ta vẫn có lệ nộp cheo
tại làng cô gái, lệ nộp cheo chỉ còn có ý nghĩa chàng trai trình với làng cô
gái là mình đã kết duyên với cô gái. Ngày nay việc cưới xin phải tuân thủ luật
pháp và đăng ký kết hôn.
Tục đa thê xưa
Với sợ thờ phụng tổ tiên, người xưa quan niệm cần có con trai
để nối dõi tông đường, giữ việc hương khói. Vợ chồng lấy nhau, việc cầu mong chờ
đợi của cả hai người là sinh được con trai để mai sau giữ việc phụng thờ tổ
tiên.
Chính vì sự cầu mong ấy, nên nhiều người đàn ông sau một thời
gian lấy vợ, vợ Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
không sinh con trai là tính ngay đến việc lấy thêm vợ bé. Luật
xưa cho phép người đàn ông “năm thê bảy thiếp” và phong tục bắt buộc người đàn
ông nếu không có con trai phải lấy vợ lẽ nàng hầu, để kiếm giọt máu nối dõi
tông đường phụng thờ tiên tổ. Cũng là con, nhưng con gái sau này xuất giá không
kể, phải cần có con trai.
Các bà vợ không may mắn trong đường tử tức sinh con một bề hoặc
hiếm hoi, bao giờ cũng biết phận mình, chồng muốn lấy vợ lẽ con thêm, các bà
không hề ngăn cản. Nhiều bà đã tự nguyện hy sinh quyền lợi của mình để cưới cho
chồng cô vợ bé, và nếu với cô vợ bé này, người chồng cũng không có con trai,
sau một thời gian, các bà lại cưới cho chồng cô vợ ba, cô vợ tư,....
Ở đây, phải thấy rằng người phụ nữ Việt Nam có sự nhẫn nhịn
cao. Đối với trường hợp không có con trai để giữ việc hương hỏa phụng thờ mai
sau, ta cứ tạm cho đó là một lý do chính đáng để vườn được thêm hoa,
nhưng trong nhiều trường hợp khác, dù có con cả đàn cả lũ, đủ gái đủ trai, người
đàn ông vẫn cứ lấy vợ hai, vợ ba rồi có khi vợ tư, vợ năm nữa, mà các bà nội trợ
vẫn cứ nhịn như không thấy quyền lợi của mình bị chia sẻ vậy. Cũng có khi đã từng
xảy ra những chuyện ghen tuông, nhưng rút cục người đàn bà vẫn chịu cảnh “chồng
chung”.
Qua các điều trên ta thấy rằng tục đa thê ở Việt Nam bắt nguồn
từ quan niện phong kiến cần có người con trai giữ huyết thống để lo việc khói
hương mai sau. Chínhr a, chỉ những người không có con trai với bà vợ cả mới phải
cưới vợ lẽ, nhưng dần dà về sau, việc lấy thêm vợ lẽ, nàng hầu đã thành tục lệ,
ai muốn lấy cũng được, không kể gì đến điều đã có hay chưa có con trai nữa. Ông
chồng lấy vợ lẽ là lấy, ông không nghĩ gì đến quyền lợi của người vợ bị xâm phạm.
Ông viện ra hàng trăm nghìn lý lẽ như những câu tục ngữ ca dao đã chứng minh:
"Cả sông đông chợ,
Lắm vợ nhiều con.
hoặc:
"Năm con năm nhớ
Mười vợ mười thương”
Có ai bảo ông tham lam, ông sẽ tự bào chữa:
"Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng!”
hoặc:
"Làm trai lấy năm lấy bảy.
Gái chính chuyên chỉ có một chồng!”
Việc lấy nhiều vợ, luật pháp Việt Nam hiện nay không cho
phép. Tệ nạn “đa thê” đã bị lên án và gạt bỏ trong đời sống gia đình.
Thực ra lấy chồng làm lẽ không phải là sung sướng gì. Ai chẳng
muốn chồng một vợ một, giàu nghèo có nhau, và ai chẳng muốn lấy riêng một chồng.
Chồng chung thực ra không phải là điều mong ước:
"Ngán thay cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng”.
Phận lẽ mọn đã lắm điều chua xót! Ca dao có câu:
"Lấy chồng làm lẽ khổ thay,
Đi cấy, đi cầy chị chẳng kể công;
Tối tối chị giữ lấy chồng,
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài;
Sáng ra chị gọi: bớ hai.
Trở dậy nấu cám, thái khoai, băm bèo.”
Cái cảnh làm lẽ thua thiệt đủ trăm điều, làm thân đàn bà con
gái không ai muốn. Đã có người thốt ra miệng:
"Chết trẻ còn hơn lấy lẽ”
Không ai muốn lấy lẽ, nhưng hoàn cảnh xưa buộc phải như vậy,
nên người phụ nữ phải cam chịu.
Ngoài chế độ “đa thê”, xã hội phong kiến còn cho phép kẻ quyền
thế có nàng hầu.
Gọi là “nàng hầu” nhưng đây chỉ là hình thức của chế độ nô lệ
thời xưa còn tồn tại.
Nguyên thời xưa, các nhà quan lại, các gia đình quý tộc có
quyền có những nô tỳ. Đây là những người bại trận bị bắt và những người phạm tội.
Vợ con của những phản thần cũng như vợ con của những tội nhân
cũng bị phân chia cho các quan làm nô tỳ. Và những kẻ giầu có cũng có thể xuất
tiền mua con các nhà nghèo làm nô tỳ.
Chế độ nô tỳ dần dần mất trải qua các thời đại, sau này không
còn nữa, nhưng tàn tích vẫn còn dưới hình thức nàng hầu.
Nàng hầu là một thứ vợ lẽ, nhưng lúc lấy chồng không qua tục
lệ cưới xin. Đây là các cô gái nhà nghèo, được các ông nhà giàu, tuy đã năm ba
vợ, vẫn mua các cô về để hầu hạ đấm bóp, và để thoả mãn các ông.
Nàng hầu lại khác vợ lẽ ở chỗ sinh con, đứa con đó coi là con
người vợ cả và không được gọi chính mẹ đẻ là mẹ, chỉ được gọi bằng cô, tiếng mẹ
phải dành cho vợ cả, còn người vợ lẽ lúc sinh con, đứa con đó là con mình, được
gọi mình là mẹ, và chỉ phải gọi vợ cả là “mẹ già”.
Những người giàu có quan lại xưa có thể có đến năm bảy nàng hầu,
và các nàng hầu phải chịu cảnh làm lụng đầu tắt mặt tối, rất ít khi được đêm đêm
bên cạnh chồng già.
Pháp luật ngày nay không dung túng việc “mua nàng hầu”, đó là
tệ đoan của chế độ cũ.
Quần áo cưới
Các cô gái sắp lấy chồng, ai nấy đều lo sắm quần áo cưới. Quần
áo cưới, của chú rể cũng như cô dâu không giống quần áo mặc thường ngày.
Xưa, các chú rể thường mặc trong ngày cưới một chiếc áo the cặp
áo trắng, bên trong là chiếc áo cánh. Quần trắng ống số với dải dây lưng bỏ giọt,
thường là dây lưng điều.
Đầu chít khăn lượt, đội nón chóp quai tua.
Chân đi đôi giày Gia định bóng ngời.
Nếu chú rể sang trọng hơn, cặp áo thay vì áo the phủ ngoài áo
trắng, thì đây là một chiếc áo kép đoạn kép lót nhiễu xanh, hồng hoặc vàng, hay
là một chiếc áo gấm thường màu lam. Sang hơn nữa, ngoài chiếc áo kép hoặc áo gấm
này, còn phủ thêm một chiếc áo sa. Áo sa mỏng, qua lần sa màu gấm lam ẩn hiện
trông thật nổi.
Và dưới chân thay vì đôi giày Gia Định, thì là một đôi giày
kinh thêu.
Trong những năm gần đây, chiếc khăn lượt trên đầu được thay bằng
chiếc khăn chụp chữ “nhân” hoặc chữ “nhất” làm sẵn, cũng bằng lượt hoặc bằng vải
nhiễu vắt ngang.
Trong những lúc làm “lễ Tơ Hồng” cũng như trong lúc lễ mừng bố
mẹ vợ, ngoài các áo kể trên, chú rể còn khoác thêm một chiếc áo thụng xanh, chiếc
áo chỉ dùng trong nghi lễ.
Giờ đây, tại các nơi thành thị, nhiều chú rể ăn mặc quần áo
ngắn theo kiểu Tây Phương, có khi là lễ phục, có khi là thường phục. Phong Tuc
Tap Quan Viet Nam
Các cậu phù rể, y phục cũng tương tự như y phục của chú rể.
Bộ quần áo cưới của cô dâu cũng khác bộ quần áo ngày thường,
và cô dâu tỉnh với cô dâu quê ăn mặc không giống nhau.
Đầu các cô dâu thường vấn khăn vấn đầu lẳn, vắt vẻo cái đuôi
gà. Vấn đầu bằng sa-tanh hoặc bằng nhung đen tùy gia cảnh của cô dâu. Tai các
cô đeo đôi hoa có mặt đá.
Áo các cô cũng mặc cặp, áo năm thân không cài khuy, trong áo
màu nõn hoặc áo hoa đào, ngoài áo the lót nhiễu xanh. Các cô lại mặc chiếc yếm
lụa cổ xẻ, cổ thìa hoặc cổ xây màu mỡ gà hoặc nhuộm thắm màu nâu ngả sang màu đỏ.
Các cô thắt chiếc thắt lưng sồi xe hoặc thắt lưng nhiễu tam giang kèm thêm đôi
giải yếm lụa mỡ gà, hoa hiên hay đào ngọt. Các cô vận váy lụa, cũng có cô mặc
quần lụa, nhất là ở miền Trung. Các cô đeo chiếc dây xà tích bạc lủng lẳng,
lách cách theo bước chân đi. Chân các cô đi đôi dép cong, và sau này đôi dép
cong dược thay bằng đôi dép Nhật Bản hoặc guốc sơn đen.
Phải nói thêm, trong lúc vu quy, các cô đội thêm chiếc nón ba
tầm quai thao, dù trời mưa hay nắng. Chiếc nón dùng để che mặt cho đỡ thẹn khi
có ai ngó hoặc nói tới.
Y phục của các “phù dâu” cũng na ná như y phục của cô dâu.
CÁc cô dâu tỉnh ăn mặc không giống các cô dâu quê. Các cô
cũng vấn đầu với đuôi gà, nhưng các cô mặc quần thay váy, thường là quần trắng.
Thay cho dép, các cô đi guốc phi mã hoặc đi giày cao gót. Cũng có khi các cô đi
đôi hài kinh có thêu con phượng. Các cô cũng mặc áo cặp, nhưng cài khuy, trong
là chiếc áo lụa, áo the trắng, ngoài là áo gấm, áo đoạn hoặc áo sa-tanh màu đen
hay mà da đồng. Thay vì chiếc nón như của các cô dâu quê, các cô không dùng gì
hoặc dùng chiếc dù.
Trước thế chiến thứ hai, y phục cưới thay đổi nhiều, và cho tới
ngày nay, y phục cơ bản còn được giữ nếu có thay đổi cũng rất ít.
Như trên đã nói, nhiều chú rể ăn mặc theo lối quần áo ngắn của
Tây Phương, nhưng vẫn còn nhiều người giữ quốc phục.
Các cô dâu, đầu đội khăn vành dây, - tóc các cô đã uốn – màu
vàng hoặc màu đen, mặc áo dài kim tuyến hoặc nhung hay gấm, áo tay rộng. Các cô
mặc quần trắng. Chân các cô đi giày cao gót hoặc đi hài.
°
° °
Hôn nhân là việc quan hệ tới cả một đời người. Tục lệ xưa có
phần phức tạp rườm ra, có phần cổ hủ nhưng mục đích để ràng buộc đôi bên. Tục lệ
ngày nay đã giảm bớt, và phải chăng vì sự giảm bớt mà sự bền chặt trong những cặp
gia đình đã bi, lung lay ?
SINH ĐẺ
Người Việt Nam thờ phụng tổ tiên, và trong việc thờ phụng
này, vấn đề huyết thống rất quan trọng - tục ta tin rằng, khi người ngoại họ
cúng khấn, hương hồn người khuất không thể phối hưởng được. Bởi vậy, việc cúng
bái tổ tiên phải do chính con cháu những người đã khuất. Người con gái có thể
cúng cha mẹ, nhưng con người này là cháu ngoại, việc cúng lễ ông bà ngoại thường
không có, hoặc nếu có, tục cũng tin rằng ông bà ngoại không về hưởng lễ được.
Chính vì việc thờ phụng tổ tiên mà người ta ai cũng mong có
con để nối dõi tông đường, để giữ việc khói hương và “người ta nóng lòng chờ đợi
sự sinh hạ một con trai”
Đấy là nói về vấn đề tôn giáo, còn thực ra đôi vợ chồng nào lấy
nhau, sau thời kỳ trăng mật, chẳng mong mỏi có tin mừng, chẳng chờ đợi một đứa
con. Đứa con chính là hạnh phúc của nhiều gia đình, và đứa con luôn luôn là niềm
vui của người mẹ.
"Cây khô không lộc,
Người độc không con.”
Người đàn bà hiếm hoi bị tục ngữ ví như một cây khô, và còn
mang tiếng là độc ác nên không con.
Mong có con
Trong một gia đình thiếu tiếng đứa trẻ bi bô là thiếu đi nhiều
lắm, thiếu một phần lớn cái gì tạo nên sự vui vẻ của nếp sinh hoạt gia đình. Và
người đàn bà có chồng mà chẳng có con, những lúc xa vắng chồng thật như trơ trọi.
Ca dao có câu:
"Có chồng mà chẳng có con,
Khác gì hoa nở trên non một mình”.
Những gia đình giàu có càng mong có đứa con. Có tiền có của,
nhiều khi mắc hoạ về tiền của, còn có đứa con, nó chỉ làm cho không khí gia
đình thêm đầm ấm và rộn rịp, nhất là khi đứa trẻ vào độ tuổi lên ba đang tập
nó:
"Con lên ba cả nhà tập nói”
Ai đã nuôi con hẳn đã biết cái cảnh vui thú này, và ai đã từng
lắm tiền nhiều của mà sống trong cái cảnh trơ trọi không con hẳn cũng biết sự
mong đợi một đứa con ra đời quan trọng là nhường nào.
"Có vàng, vàng nó hay phô,
Có con nó nói trầm trồ mẹ nghe!”
Bao nhiêu sự âu yếm cho đứa con, và đứa con chính là lý lẽ của
gia đình. Đứa con kéo dài huyết thống; người không có con đến mình là tuyệt tự,
và người đàn bà không
La naissance d’un fils est impatiemment attendue Phong Tuc
Tap Quan Viet Nam
con là cô độc, cô quả.
Vợ chồng đã lấy nhau phải có con, đứa con là sợi dây ràng buộc
đôi vợ chồng cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất.
Và khi có con, người Việt Nam ta hằng cầu mong con trai vì những
lý lẽ nêu trên. Trong ba điều bất hiếu của tư tưởng phương Đông xưa kia, không
có con nối dõi là nặng nhất Ba điều đó là:
- Cha mẹ sống không phụng dưỡng
- Cha mẹ chết làm nhục tới vong linh các người
- Không có con nối dõi tông đường.
Vì việc nối dõi tông đường là trọng yếu nhất trong các điều bất
hiếu, nên đã lập gia đình là người Việt Nam mong sớm có con trai. Theo tục lệ của
ta, chỉ có các tăng ni sống trong cảnh độc thân mới không có con.
Trong các điều nguyền rủa trước đây, rủa nhau “tuyệt tự” là độc
ác nhất.
Và người đàn bà không con, nghĩ đến thân phận mình thật là
đau khổ! Sau bao năm chờ đợi, đứa con không đến thử hỏi sống trong hoàn cảnh ấy,
ai mà không khỏi đau buồn.
Hiếm muộn
Theo khoa học ngày nay, hiếm muộn là do bệnh tật của chồng hoặc
vợ, do bộ sinh dục không điều hoà, nhưng theo quan điểm cũ thì người ta cho rằng
nguyên cớ của sự không có con do:
- Số phận
- Tiền oan nghiệp chướng
- Tà ma ám ảnh.
- Vợ chồng xung khắc.
Ngày nay những tư tưởng này cần phải được gạt bỏ
°
° °
Tóm lại, cặp vợ chồng nào cũng mang một hy vọng lớn nhất là
sinh con, và hơn nữa là sinh con trai.
Lấy chồng mà không đẻ con, xã hội Việt Nam trước đây, như muốn
quy cả tội lỗi về người vợ, dù rằng lỗi đó nhiều khi chính ở người đàn ông.
Bởi vậy người đàn bà xưa không con, phải chạy chữa lấy, làm
sao để có thể có con được thì làm, nếu không người chồng sẽ lấy vợ lẽ để có thể
có con nối dõi tông đường, phụng thờ tổ tiên.
“Bất hiểu hữu tam, vô hậu vi đại!”.
Đã có biết bao người đàn bà không thể có con với chồng được,
đành phải tìm cách có con với người khác để khỏi bị người chồng ruồng bỏ, cũng
như để cho chồng khỏi lấy vợ lẽ. Ở đây tưởng cần nói thêm, không có con là một
lý do do để người chồng có thể bỏ vợ được.
Giở lại lịch sử, ta thấy Lý Chiêu Hoàng xưa, chỉ vì không có
con mà bị truất ngôi hoàng hậu.
Việc sinh đẻ ngày nay phải trong kế hoạch để có thể nuôi dạy
con tốt.
Sự cầu tự
“Cầu tự” nghĩa là đi lễ bái để cầu xin một đứa con.
Xưa, các bà hiếm hoi, sau khi đã chạy chữa cúng lễ mà vẫn
chưa có con, thường đi “Cầu tự’ tại các đền chùa đình miếu để xin một đứa
con của giới vô hình, tức tin ở vạn năng của thần thánh.
Đi “cầu tự” trước đây các bà thường kén những đền phủ linh
thiêng như đền Và ở Sơn Tây thờ đức Tản Viên Sơn Thần, đền Kiếp Bạc ở Hải Dương
thờ Hưng Đạo Đại Vương, đền Phủ Hương ở làng Yến Vỹ, huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Đông,
nơi có thờ Phật Bà Quan Âm.
Trong những đám thiện nam tín nữ đi trảy hội các đền nói
trên, mỗi dịp Xuân về, thường có nhiều bà đi “cầu tự”. Họ hết sức thành tâm để
mong Thần, Phật chứng giám. Họ ăn chay, tắm rửa sạch bằng nước ngũ vị hương trước
khi đi lễ.
Ngày nay hiện tượng “cầu tự” hầu như không còn nữa. Người hiếm
muộn được khoa học y tế chạy chữa.
Có tin mừng
Không có con là cô độc cô quả, là buồn phiền, thì có con là một
điều đại hạnh, và càng đông con lại càng có phúc. Các cụ nói rằng “một con là một
của ai từ”.
Khi người đàn bà mới bắt đầu có chửa người ta gọi là có
tin mừng, ba chữ có tin mừng đủ nói rõ hết ý nghĩa, sự sung sướng hạnh
phúc trong việc chờ đợi một đứa trẻ ra chào đời.
Tin mừng đây là tin mừng của ai: Phải chăng là của người vợ,
của người mẹ tương lai? Đó chỉ đúng có một phần, đúng hơn theo người xưa phải
nói đây là tin mừng của người chồng, của gia đình chồng.
Người chồng mừng vì mình sẽ có con, và sắp trở nên người cha,
còn gia đình nhà chồng mừng vì đứa trẻ ra đời sẽ là của nhà chồng, nhất là khi
đứa trẻ đó lại là con trai. Với đứa con trai, huyết thống không tuyệt tự, việc
khói hương của dòng họ sẽ được bảo đảm.
Có tin mừng nhưng nhiều bà vợ chửa con so vẫn lấy làm thẹn
thùng và cố giấu bụng bằng cách đánh đai bụng để giữ cho bụng lâu lớn. Tục này
ngày nay với sự hiểu biết về khoa sản phụ, các bà mẹ đều đã bãi bỏ.
Đối với những bà vợ, có chửa là “có tin mừng”, nhưng đối với
các cô “không chồng mà chửa” thì đây là cả là một tai hoạ, các cô sẽ bị làng nước
bắt vạ vì tội “hứng gió nồm nam”, chỉ việc “ăn vụng chóng no”, xưa nay vẫn là một
điều xấu trong xã hội Việt Nam.
Chửa hoang thì các cô thường tìm cách phá thai, nhưng ít ai
giúp các cô làm công việc vô nhân đạo này, vẫn bị cả phong tục lẫn luật lệ ngăn
cấm.
Thai giáo
"Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”.
Tuy câu ca dao nói vậy, nhưng chính ra, việc giáo dục một đứa
trẻ không phải chỉ bắt đầu từ khi đứa trẻ đã hiểu biết, mà chính từ khi đứa trẻ
mới bắt đầu thành hình bào Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
thai trong bụng mẹ. Sự giáo dục bào thai qua người mẹ, gọi là
“thai giáo”.
Đối với ta, vấn đề thai giáo được coi là quan trọng, một phần
vì sức khỏe của người mẹ, một phần vì mọi tư tưởng của người mẹ phải bó buộc
theo nhiều sự kiêng cữ hoặc phải làm nhiều việc xưa nay không làm để việc sinh
nở được dễ dàng cũng như để cho bào thai không bị ảnh hưởng xấu.
Sự ăn không ngồi rồi có hại cho sức khỏe của người mang thai,
do đó người đàn bà có thai cần phải cất nhắc, cử động chân tay, làm một số việc
thích hợp.
Kiêng cữ
Về việc kiêng cữ, rất nhiều, đại khái theo tục lệ của ta phải
kiêng ăn uống, như kiêng:
- Ăn cua để tránh sinh ngang.
- Ăn sò, hến, ốc để tránh cho đứa trẻ nhiều dãi dớt.
- Ăn thỏ để tránh cho đứa trẻ khỏi bị sứt môi.
- Ăn những đồ cúng trong một đám tang để tránh cho đứa trẻ khỏi
bị sài.
- Ăn cỗ đám cưới để tránh cho đứa trẻ khỏi bị vô duyên.
- Ăn hoa quả sinh đôi để tránh song thai.
- Ăn thịt cá ươn, hoa quả ôi, có hại cho sức khỏe của người mẹ,
do đó có hại tới bào thai. v.v....
Những sự kiêng cữ này, xét ra tuy ta chỉ tin theo một phần,
nhưng thực ra khi người xưa kiêng cữ, không phải chỉ vì lý do mê tín, mà chính
do kinh nghiệm. Với tầm hiểu biết về khoa học, ta thấy rằng, nhiều việc người
xưa kiêng cữ không phải là vô lý mà chính là để tránh sự có hại cho bào thai,
thí dụ như ăn cua, sò, ốc, hến, là những thức ăn nặng khó tiêu hại tới gan của
người mẹ, lẽ tất nhiên phải ảnh hưởng tới bào thai. Lại như ăn cỗ đám cưới, cỗ
đám ma tức là dự một đám vui hoặc một đám buồn, sự vui buồn có thể gây xáo động
cho người mẹ có hai cho bào thai.
Cũng trong việc “thai giáo”, người mẹ có những điều phải
tránh như:
- Những cảnh quá xúc động.
- Những kẻ gian trá, xấu xa.
- Những người độc ác.
- Những cảnh trái luân thường đạo lý.
- Những tranh ảnh khêu gợi.
- Những lời lẽ thô tục.
- Những hành động bỉ ổi.
- Những ý nghĩa bất nhân.
- Những điều giận dỗi.
Những điều phải làm
Trái với những điều phải kiêng và phải tránh trên, xưa khuyên
người mẹ ăn:
- Nhiều trứng gà để sinh con da dẻ hồng hào.
- Nhiều đu đủ để sinh dễ dàng.
Và đồng thời người mẹ phải:
- Luôn luôn tươi cười.
- Có ý nghĩ cao quý.
- Tìm nghe những lời phải.
- Nói năng dịu dàng.
- Cử chỉ khoan thai.
- Giữ cho tâm hồn ngay thẳng, trong sạch.
- Treo trong nhà, để luôn luôn được ngắm, tranh ảnh các vị
anh hùng, các vĩ nhân, các bà mẹ hiền từ cùng những phong cảnh cao nhã thanh
khiết.
Tất cả những sự kiêng cữ cũng như những điều bó buộc người mẹ
phải theo, chính chỉ vì đứa trẻ, nghĩa là vì vấn đề “thai giáo” vậy.
Sinh trai, sinh gái
Có chửa là có “tin mừng” nhất là đối với cá bà vợ mới, càng
có ý nghĩa nhiều hơn. Có tin mừng, nhưng trong lúc có chửa, nhiều bà muốn biết
mình sẽ sinh trai hay sinh gái. Đã đành rằng có hoa mừng hoa, có nụ mừng
nụ, trai gái, con nàocũng là con, thói thường ở Việt Nam, như trên đã
trình bày vì vấn đề thờ phụng tổ tiên, nên trong lúc có tin mừng, nhất là có chửa
con so, hoặc là chưa sinh trai lần nào, từ người vợ đến gia đình nhà chồng đều
mong sinh được con trai. Con trai mới là người giữ dòng họ sau này. Người xưa
thường cho rằng:
“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” nghĩa “Một trai là có,
mười gái là không”, và ca dao cũng đã có câu:
"Con gái là con người ta,
Con dâu mới thật mẹ cha mua về!”
Vì nóng lòng muốn biết đứa con mình đang mang trong bụng là
trai hay gái, nên các bà mẹ xưa thường đi lễ bái,xin thẻ xem bói để tìm biết sẽ
sinh trai hay gái. Và nhiều bà cầu mong sinh con trai thường cầu cúng để mong
được như ý nguyện.
Theo thói tục và kinh nghiệm của thường đoán trước đứa trẻ ở
trong bào thai là trai hay gái như sau:
- Theo người Trung Hoa, mà dân ta đã tin, con trai nằm bên
trái, con gái nằm bên phải. Cứ trông bụng người mẹ, người ta đoán đứa trẻ trai
hay gái.
- Khi người mẹ đang đi, người ta gọi giật lại. Nếu người mẹ
quay về bên trái sẽ sinh trai, quay về bên phải sẽ sinh gái.
- Bụng người mẹ mà kềnh càng sinh con gái, bụng gọn ghẽ sinh
con trai.
- Bụng người mẹ dẹp sinh con trai, bụng tròn sinh con gái.
- Khi đứa trẻ cựa trong bụng, động ít sinh con trai, động nhiều
nặng bụng sinh con gái.
- Nằm mơ thấy những giống vật to mạnh như voi, gấu, beo, cọp
sinh con trai; thấy những giống vật yếu đuối như các loài chim, rắn rết, sinh
con gái.
- Tín ngưỡng cũ còn tin tưởng ở tuổi chồng tuổi vợ, tháng có
thai và tháng sinh là những yếu tố để sinh con trai hoặc gái.
Những cách đoán ở trên, tuy là cổ truyền từ xưa, nhưng sau
này dù ở thôn quê hay thành thị, phụ nữ có thai, và cả gia đình người này, vẫn
thường căn cứ theo kinh nghiệm đoán việc sinh trai hay gái. Ngoài ra, ngày nay,
trong đời sống tiếp xúc với Tây Phương, ta lại có những lối đoán định mới như:
- Lấy chiếc nhẫn cưới của người mẹ, buộc vào sợi tóc cũng của
người mẹ, rồi cầm sợi tóc tòn ten trên rốn người mẹ. Nếu nhẫn lắc lư đưa từ bên
nọ qua bên kia là con trai, còn nếu nhẫn xoay tròn là con gái...
Tuy nhiên việc đoán định trên vẫn thiếu cơ sở khoa học. Ngày
nay khoa học có nhiều phương pháp chẩn đoán chính xác hơn.
Lâm bồn
Người đàn bà mang thai chín tháng mười ngày thì sinh, cũng có
nhiều trường hợp người đàn bà mang thai lâu hơn. Trong các truyện tích dân gian
của ta thường nhắc lại những người sinh quý tử thường mang thai lâu một cách bất
thường như chuyện Thạch Sanh, bà mẹ mang thai tới ba năm mới sinh.
Những người mang thai lâu quá thời gian chín tháng mười ngày
ta gọi là “chửa trâu”. Ngày xưa cho rằng cần phải chữa bằng những “phương thuật
huyền ảo”, người đàn bà mới có thể sinh được, mà việc chữa này phải do chính
người chồng đảm nhiệm. Phong Tuc Tap Quan Viet Nam
Thường theo tục có hai cách:
- Tìm đến một con trâu, lén cắt đứt sợi dây thừng xỏ mũi nó;
- Lấy một chiếc cọc đóng vào chân chiếc cối giã gạo ở trong
nhà.
Tục cũ tin rằng, sau một trong hai hành động trên của người
chồng, người vợ sẽ “hết chửa trâu”. Ngày nay đó là điều không chấp nhận được.
Khoa học đã giải thích rõ hiện tượng này.
Sinh chậm
Lúc sinh nở, người đàn bà phải chịu đau đớn. Có người sinh
chóng, có người sinh chậm. Các cụ cho là do khí huyết nhưng thực ra theo
khoa sản phụ ngày nay, nếu sinh chậm chỉ vì đứa trẻ ở trong bụng chưa xoay hướng
ra, và trong khi đứa trẻ xoay hướng như vậy, người mẹ phải chịu sự đau đớn. Hoặc
có khi đứa trẻ quá to lớn nên sinh hơi khó. Khoa giải phẩu ngày nay giúp các bà
mẹ sinh đẻ dễ dàng khi gặp phải đứa trẻ quá to lớn.
Đối với người xưa, có những “phương thuật chữa mẹo” để đứa trẻ
chóng lọt lòng. Những phương thuật cũng lại do chính người chồng phải thi hành,
như:
- Trèo lên cây cau rồi ôm cây tụt xuống.
- Luồn qua những nấc một chiếc thang dựng đứng;
- Cầm một chiếc đòn gánh đứng giữa nhà lao ra ngoài đường;
- Lấy chiếc lông mọc ở khấu đuôi con dím đưa cho vợ;
- Cho vợ uống ba ngụm nước ao;
- Cầm cái thắt lưng của mình vắt qua mái nhà (chiếc thắt lưng
vải xưa ta vẫn dùng....)
Những “phương thuật” trên, người chồng chỉ làm một hoặc hai
ba việc, tin rằng đứa trẻ sẽ chóng ra đời.
Ngày nay sự việc trên không còn nữa, khoa học đã can thiệp để
giúp người mẹ dễ sinh hơn.
Sau khi đứa trẻ ra đời
Đứa trẻ ra đời rồi, bà mụ, người đàn bà chuyên việc đỡ đẻ ở
nhà quê, dùng que nứa hoặc mảnh sành để cắt nhau cho đứa bé. Ngày nay, lẽ tất
nhiên không còn việc làm thiếu vệ sinh này ở các bà nữ hộ sinh hoặc các cô đỡ tại
bệnh viện cũng như các nhà hộ sinh cơ sở.
Nhau đứa trẻ được đặt vào chiếc nồi đất mà người sản phụ đã
mua sẵn từ trước và đem chôn. Phải chôn sâu kẻo trẻ hay nôn oẹ, và phải tránh
giọt nước mái hiên để đứa trẻ khỏi toét mắt và chốc đầu theo sự tin tưởng của
ông bà xưa.
Cắt nhau cho đứa trẻ xong, bà mụ lại vắt chanh vào mắt nó,
nói là để cho nó sáng mắt và moi móc lỗ mũi, lỗ miệng đứa trẻ để lấy ra hết nhớt
dãi.
Sau đó đứa trẻ được mặc chiếc áo lọt lòng, và được quấn
bằng chiếc tã. Áo lọt lòng cũng như tã của đứa trẻ thường khâu bằng những mảnh
áo cũ của những người đàn bà dễ nuôi con.
Những gia đình hiếm hoi cũng như những người đẻ con so, muốn
lấy khước, thường đi xin những áo lọt lòng của những gia đình đông con.
Nhiều sản phụ mới sinh ngày nay cũng vẫn đi xin những quần áo
lọt lòng này để dùng cho con mình. Ta thường nói “mẹ tròn con vuông” để chỉ cuộc
sinh đẻ hoàn thành tốt đẹp, mẹ khoẻ mạnh, con bình yên..
Ở đây xin nói thêm là tục ta kiêng cho người khác đến đẻ nhờ ở
nhà mình. Thụ thai ở đâu mới có thể sinh ở đó được.
Đổ “cung long”
Tục cũ tin rằng “sinh dữ, tử lành”, nên việc sinh đẻ thường
mang lại sự không may cho người khác trong những ngày đầu, gọi là “cung
long”, hoặc “phong long”.
Khi mới sinh, cho bà con bạn hữu biết để khỏi tới thăm mình
nơi buồng đẻ, tục ta thường cho treo trước cửa nhà đẻ một lá khoai sọ và
bảy hoặc chín mảnh than tùy theo đứa trẻ là trai hay gái.
Các sản phụ sau khi nằm bếp, nghĩa là nằm trong buồng đẻ
một cữ, bảy hoặc chín ngày tùy theo con trai hay con gái. Đi “đổ phong long”,
nghĩa là đi mua một thứ hàng gì, tin rằng người bán sẽ nhận lấy “phong long”.
Ngày nay cổ tục này không còn nữa.
Kiêng khem
Mới đẻ xong, sản phụ phải chịu sự kiêng khem, tránh gió máy.
Sản phụ thường nằm trong phòng kín, có lò than hồng ở chân giường hoặc trước buồng
đẻ. Theo các cụ, lò than này để tránh gió độc, và cũng chính vì lò than này mà
có từ “nằm bếp”. Ở nhà quê, nhiều khi không có hoả lò, người ta nhóm than vào một
chiếc nồi đất.
Tục đốt nồi than có lẽ tại xưa kia ở miền Bắc rét lạnh, rồi về
sau có sự hiểu lầm nên ta cho rằng việc đốt nồi than để cản gió độc chăng?
Ngoài việc kiêng gió máy, mà ngày nay người ta vẫn kiêng, người
sản phụ còn phải kiêng khem trong vấn đề ăn uống:
Tục ngữ ta có câu:
"Ăn miếng ngon, chồng con trả người
Nền đông y cho rằng người đàn bà mới sinh nở xong, các cơ
quan trong người còn yếu, máu còn xấu, kh6ng thể ăn được những của độc dược, chỉ
được ăn những thức ăn ta cho là lành, không thể có ảnh hưởng tại hại tới sức
khoẻ của sản phụ. Thường thức ăn của các sản phụ chỉ là nước mắm chưng với gừng,
và ở những gia đình sung túc thì ăn trứng chưng nước mắm nhưng chỉ ăn lòng đỏ,
hoặc thịt thăn lợn làm ruốc bông hay thịt nạc kho mặn với gừng. Sản phụ dùng gừng
vì dược tính của gừng làm cho nóng, khí huyết dễ lưu thông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét