Ký ức phiên lãng 2
Hoa hồng vàng song cửa
MÙA HẠ Ở CA-DẮC-XTAN, những thứ hoa không có tên ngoài đồng,
cứ tưng bừng dại trắng dại tím dại vàng, đến ngơ ngẩn cả mắt nhìn.
Cánh đồng tháng năm tháng bảy như những chiếu hoa trải liền
nhau đến chân trời.
Người làm đồng đánh một giấc nghỉ trưa trên làn cỏ mơn mởn.
Tôi đương đi trên những cánh đồng mùa hạ rực rỡ. Một trời
xanh thảnh thơi. Từng tảng mây. Từng tảng nắng. Những sợi bông ở cây “tuyết mùa
hè” ngẩn ngơ bay.
Đương giữa trưa, quanh lùm cỏ cao đằng xa, thấy thấp thoáng
bóng người. Bữa ăn trưa trên cánh đồng - tiếng đàn, tiếng cười, tiếng nước chảy.
Xa xa, đứng lặng im những chiếc máy cày đỏ như một chuỗi hoa sen bày thành dãy,
chia khoảng đất đã cày vỡ với đồng hoa còn lại thành một nét son tươi.
Một máy cắt cỏ đằng kia lầm lũi chạy đi, chạy lại.
Có mấy người đương ăn trưa bên cạnh cỗ máy cày. Ồ lạ, dù cho
bây giờ hình ảnh những buổi cơm trưa trên cánh đồng quê tôi đã xa lắc xa lơ
trong tuổi thơ tôi, nhưng quang cảnh đến bữa giữa cuộc lao động vẫn giữ trong
tôi một thương nhớ hay một niềm vui, khó phân biệt. Nhớ cái bùi nhùi dựng trong
cửa lều rơm, tránh làn gió hanh đương lùa xuống những làn mây xám ngắt mỗi lúc
một thấp. Ánh lửa điếu cày rúc lên và tàn than trong đồng sưởi gốc rạ bốc khói
làm cho người ta đỡ rét và cũng như trong ảm đạm, rét buốt đương đưa lại một
bóng dáng hy vọng gì.
Trước mặt tôi, cô thợ cày ấy chít khăn hoa, đứng lên giữa lùm
hoa dại như cả một lùm hoa đứng lên.
Cô mời khách ngồi. Bữa cơm trưa của tổ cày bày trên miếng
ni-lông giữa bãi cỏ. Vài lát bánh mì đen, miếng xúc xích. Một túi cá diếc nướng.
Đĩa dưa cải muối. Những củ cải tím tròn xoe, lăn lóc, cắn giòn như ta ăn cà Nghệ.
Pho mát. Rượu vốt-ka và nước lạnh.
Mâm ăn ấy có bốn người. Một bác có tuổi, đầu hói đỏ găng, đã
nằm ngủ úp mặt trên những nhánh hoa cỏ, chiếc mũ dạ úp trên gáy.
Cô thợ cày - cũng chẳng biết cô là lái chính hay thợ phụ,
bưng đến cho một ca rượu.
Tôi hỏi:
- Cô tên là gì?
- Ni-na Si-ri-stê-va.
- Ni-na đến vùng đất hoang này từ bao giờ?
- Bố mẹ tôi đến đây, năm ấy tôi hai tuổi. Bây giờ đã được hai
mươi năm.
Tôi cười:
- Tôi đã gặp Ni-na rồi.
Ni-na ngạc nhiên:
- Bao giờ?
- Hai mươi năm trước.
Ni-na cười, lắc đầu.
- Hai mươi năm trước, tôi đã đến đây. Đường phía này lên hồ
Ban-khát chứ gì?
Mọi người reo lên.
- Thế thì đồng chí đã gặp Ni-na thật rồi.
Gặp Ni-na từ hai mươi năm nay. Cái cảm tưởng thật lạ. Hôm trước,
trên hội trường thảo luận đề tài viết về khai hoang ở An-ma A-ta, một nữ công
nhân máy bừa nông trường Cát-kê-liên-xki lên kể chuyện mình đã phấn đấu trở
thành chiến sĩ thi đua thế nào, cô ấy nói:
- Năm nay tôi hai mươi tám tuổi...
Tôi đã đến nông trường khai hoang Cát-kê-liên-xki năm 1959,
khi ấy cô công nhân chiến sĩ thi đua vừa tám tuổi. Cát-kê-liên-xki ngày ấy giữa
khi cả nước Cộng hòa Ca-dắc-xtan có 726 nông trường khai hoang cùng khai sinh
trong một mùa vỡ hoang đầu tiên.
Hai mươi năm, thật xa mà cũng thật gần. Trở lại An-ma A-ta, cả
thành phố cũng như xa như gần, thành phố đã đổi khác, không nhận ra nơi nào cả,
mà vẫn như nhận ra tất cả. Dãy núi A-la-tau đội chỏm tuyết trắng mà dưới thành
phố vẫn xanh rờn nắng. Những hàng cây, những bờ cỏ quen quen kia như muốn mời
người nằm chơi, nằm ngủ đấy, như bác công nhân máy kéo đương đánh giấc ngon
lành. Nhớ lại bao lâu nay, như vẫn quen An-ma A-ta xinh đẹp trong cây, những
dãy phố nhà tường thấp, những con đường dài kẻ thẳng vào chân núi xanh. Như ở
Ô-đét-xa, ở Nha Trang, những cuối đường nào cũng thấy nhởn nhơ một nét xanh mặt
biển. Chiều đến, thành phố rộn ràng múa hát. Cây trên đường phố rườm rà tha hồ
mọc đâu thì mọc, cả những bờ cỏ quanh tường cũng được nâng niu. Thành phố, cánh
đồng, núi tuyết ngang tầm mắt. Đường xe điện dây lên chơi núi lóng lánh, đêm
như một dãy sao sa. Ngày ấy chưa có như thế, mà như được gặp lại, thật lạ lùng.
Mà cũng không lạ. Ai trong chúng ta có đi đâu ra thế giới,
khi về qua Liên Xô, thường thấy đầm ấm và tin cậy như về đến nhà. Hình như
không phải chỉ riêng tôi có cảm tưởng như vậy.
Ngày ấy, đến nông trường Cát-kê-liên-xki con đường đi từ bờ
sông Cát-kê-liên-xki về Ban-khát, bao nhiêu ngày đường ngựa cũng chỉ gặp có một
thảo nguyên. Những chiếc xe khập khễnh chở rơm về đánh đống, đợi cày xong thì ủ
phân. Đi xa rồi mà còn nghe tiếng vòng bánh xe kẽo kẹt, day dứt.
“Câu chuyện từ ngày ấy mà ai cũng còn nhớ - nhiều người nói
tương tự, đồng chí giám đốc nông trường, đồng chí Kô-din đó, đồng chí ấy đã
cùng vợ con ngồi trên một máy kéo đi sáu trăm ki-lô-mét, đi hơn bốn ngày cứ từ
từ tới đây, dừng lại và thành lập nên nông trường này giữa thảo nguyên”.
Những người đến sau, tất cả sống trong lều bạt, suốt mùa
đông, sắt thép cũng không thể chịu được, chỉ có lòng dũng cảm và quyết tâm đã
vượt lên hết. Nhiều người tình nguyện từ Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va, Ki-ép tới...
Sang mùa gặt thứ hai đã có hơn một nghìn tấn lúa bán cho Nhà nước. Như một huyền
thoại!
Tôi đương trở lại nơi những huyền thoại ấy và tôi đương bước
ra từ huyền thoại.
Đồng chí chủ tịch huyện Vô-giô-ven-xki trầm ngâm:
- Hai chữ “đất hoang” với chúng tôi bây giờ cũng chỉ còn là
những chữ trong kỉ niệm. Với lứa tuổi quàng khăn đỏ mà đồng chí trông thấy
đương tung tăng trong sân trường kia, các em chỉ thấy hai chữ “đất hoang” trong
nhà bảo tàng.
Ở Cộng hòa Ca-dắc-xtan bây giờ thật sự không còn khai hoang.
Chỉ bởi một lẽ giản dị: hai mươi năm đã qua, công cuộc khai hoang đã xong. Ca-dắc-xtan
đã trở nên một trong những vựa thóc dự trữ khổng lồ của toàn Liên Xô.
Tôi lại đương rong ruổi giữa những cánh đồng thênh thang. Người
Ca-dắc thích màu trắng, trắng sữa ngựa. Nhưng bây giờ trên đất Ca-dắc không phải
chỉ có màu trắng khắc nghiệt, bạc phếch trên đồng cỏ. Bốn phía cánh đồng, những
cánh đồng rạt rào cỏ và hoa dại đương đợi cày.
Có một đám người đằng xa lũ lượt đi ra. Đoàn người đã đầy mặt
đường, không biết đâu là hoa, là cờ, là váy áo, là khăn quàng đỏ.
Một người đứng tuổi, cao lớn, quần áo mùa thu xanh nhạt, phẳng
nếp, đội mũ phớt, đến trước mặt tôi giơ nắm tay hô to bằng tiếng Việt:
- Hồ Chủ tịch muôn năm!... Việt Nam muôn năm!...
Rồi ôm hôn tôi.
Các em tíu tít đưa hoa. Tôi ngột trong một lùm hoa mà các em
vẫn còn chen nhau đến. Tôi đã trông thấy một chị khăn vuông rực rỡ đứng phía
trong giơ lên lá cờ thêu Vũ Thắng - Thái Bình . Nông trường
Pô-lu-đin-xki kết nghĩa với hợp tác xã Vũ Thắng.
- Nông trường chúng tôi với nông trang Vũ Thắng đã là anh em
từ nhiều năm nay, từ khi chúng tôi lên một tuổi và bắt đầu vỡ hoang.
Tôi ôm hôn lần nữa đồng chí A-lếch-xây lúc nãy vừa hô “Hồ Chủ
tịch muôn năm...”.
Tối hôm ấy, đồng chí A-lếch-xây kể cho nghe đồng chí ấy đã ở
Vũ Thắng suốt cả tháng đương mùa nước, ngày nào cũng có máy bay Mỹ lồng lộn
trên đầu. Những đội tự vệ của Vũ Thắng bắn máy bay. Đồng chí A-lếch-xây đã ra
công sự nâng tràng đạn cho đội tự vệ chiến đấu.
Cuộc mít tinh đón bạn Việt Nam được tổ chức dưới bóng cây ven
đường. Trên mặt cỏ, những bông hoa viôlét tím nhạt, hoa dơn đỏ gay, hoa hồng
vàng, đốm hoa hồng li ti sặc sỡ và mọi người xúm xít. Không phải mít tinh đón
khách thăm nông trường, mà đây cuộc gặp gỡ người nhà. Tôi là người đi xa trở lại.
Dù chẳng ai thuộc mặt tôi, nhưng Vũ Thắng và Việt Nam thì ai cũng biết.
Như người trong nhà gặp lại nhau. Hai cô bé, mịn màng áo trắng
như sữa ngựa, má hồng phấn, môi nở đỏ như hai miếng đào chín, cúi đầu chào rồi
bước ra. Một cô đàn một cô hát. Ngày trước, ở Cát-kê-liên-xki, tôi đã nghe một
bài hát Ca- dắc như thế trong một lều bạt làm quán ăn trông ra bãi hoang. Hôm
nay, bài hát trên thảo nguyên cũ giữa cánh đồng vào xuân. Đằng kia, những chiếc
xe du lịch xanh rợp ra đón khách, đỗ một dãy.
Trong nhà lều giữa đồng, chúng tôi uống sữa ngựa, ăn mật ong
từng miếng nguyên khoái và đàn hát.
Tôi hỏi một thanh niên ngồi gần.
- Chú tên là gì?
- Đồng chí gọi là A-lếch-xăng-đơ cũng được.
- Chú bao nhiêu tuổi?
- Mười tám.
- A-lếch-xăng-đơ có biết Việt Nam không?
- Lúc còn bé, mùa nào tôi cũng được lên ngồi trên máy gặt đập
của bố trên cánh đồng Vũ Thắng 16.
Cậu A-lếch-xăng-đơ đương học trung cấp kĩ thuật trên huyện.
A-lếch-xăng-đơ nắm tay tôi. Lần trước, khi tôi đến Ca-dắc-xtan, bố mẹ cậu chưa
sinh cậu. Nhưng từ khi bố còn cõng trên vai, cậu đã biết Việt Nam. An-ma A-ta
cách Mát-xcơ-va bốn giờ mười phút máy bay IL62. Đây xa An-ma A-ta trên hai
nghìn ki-lô-mét. Chắc chưa lần nào ở nơi quê hương đồng không cùng trời này,
A-lếch-xăng-đơ đã được về An-ma A-ta, đừng nói chi Mát-xcơ-va. Nhưng A-lếch-xăng-đơ
đã biết Việt Nam từ khi còn ngồi chơi trên máy gặt đập bố lái, A-lếch-xăng-đơ
đã biết ở châu Á xa xôi có một nông trang tên là Vũ Thắng...
Một ông già đầu hói đỏ sẫm, đeo huân chương đầy ngực áo, công
lao trong chiến tranh vừa qua, ngồi giữa nắng trong cỏ. Những chiếc xe xanh xe
đỏ chạy qua cánh đồng vẫn đưa thêm người trong thị trấn ra. Trong xe bước xuống
những cô đội mũ đỏ, sơ-mi trắng, gi-lê nhung đen. Các cụ già đầu cạo nhẵn, mũ dạ,
các ông đứng tuổi mũ cát-két, thanh niên để đầu trần.
Nắng và tiếng khướu hót trong rừng bạch dương. Tưởng như tôi
lại đương trong những vùng rừng bạch đàn, rừng hồi ngoại ô Lạng Sơn - năm ấy,
cây trồng ở Lộc Bình đã lên đẹp, đàn hươu trong rừng sâu ra ngỡ rừng tự nhiên,
vào tìm ăn quả trám rụng. Những cánh rừng công phu người trồng ấy, giặc Tàu đã
tràn qua, không biết có còn cây nào không.
Năm cô đội mũ đỏ ngồi xếp bằng chân hát trên mặt cỏ cửa lều,
hai cô đứng gảy đàn. Tiếng hát như sóng cỏ, sóng tuyết. Tiếng hát thảo nguyên,
gợi những đường trường rất xa, rất bâng khuâng mà người nghe chỉ thấy náo nức
muốn đi tới. Tất cả mọi người hát theo. Đoàn xe lại qua những mênh mông cánh đồng.
°
° °
Những cánh rừng bạch dương đã chớm vàng đương rộn rực trong mọi
công việc và trong tình cảm bè bạn.
Khắp vùng Trung Á, rầu rĩ tiếng kêu “duốc-na” - từ An-ma A-ta
sang những tòa thành cổ Bu-kha-ra, những cánh đồng bông quanh thành phố Tắc-ken.
Tiếng kèn “duốc-na”, tiếng trống “bôi-ê-ra” đón khách.
Trên sân bay, một hàng mười ông già đạo mạo mũ đen vân hoa trắng,
áo bông dài xanh khoan thai tiến đến cầu thang, hất cái thân kèn dài nguềnh
ngoàng như vòi voi lên. Cả mười loa kèn to như cái thúng cùng cất tiếng. Môi
kèn “duốc-na” rống tòe tòe trong tiếng trống da cừu “bôi-ê-ra” lạ lùng. Tiếng
vui đón khách của đồng cỏ, từ đời trước vẫn thế và bây giờ trong quang cảnh ấy
của những sân bay hiện đại ở Tắc-ken, ở An-ma A-ta, lại càng đậm đà ý nghĩa.
Hàng triệu năm trước công nguyên đã có người sinh sống trên
vùng đất này. Các thành cổ Bu-kha-ra, Sa-mác-can, rồi Khi-va, Cha-khi-si-a-ga
tuổi thọ lâu đời chỉ có thể ví với thời gian - những trung tâm thợ thủ công và
buôn bán phồn thịnh giao lưu châu Âu, châu Á. U-dơ-bê-ki-xtan, xứ sở của bông
và đay mà các bạn chúng ta ở đấy đã phô trương lịch sử và sự giàu có bằng cách
cả nước ai cũng mặc tấm áo bông dài cổ kính xanh cánh chả. U-dơ-bê-ki-xtan cũng
giống xứ Ca-dắc-xtan, san sát những nhà máy điện, các nhà máy dệt, hóa chất,
cày máy ở những nông trường nhộn nhịp hôm nay mà ngày trước chỉ có đồng hoang.
Bây giờ nhìn đâu cũng thấy đồng bông đương mùa được hái quả
bông hé trắng xóa. Mắt bông nở trắng nõn. Như đôi mắt xinh đẹp của cô nhà thơ
Ba-ba Gi-gi-đa nước Si-ê-ra Lê-ôn cùng chúng tôi đi thăm U-dơ-bê-ki-xtan lần
này. Đôi mắt trắng nhởn nhơ, thật hồn nhiên, cũng thật đam mê, Ba-ba ở tận một
đất nước bé nhỏ khuất nẻo đâu giữa châu Phi, thế mà tưởng như cả châu Phi theo
nhà thơ đến đây. Bạn châu Phi của tôi, ở Si-ê-ra Lê-ôn, ở trung Phi hay ở Nam
Phi đau khổ, vô cùng đau khổ vì ở đấy nạn phân biệt chủng tộc giết người, đuổi
người di cư hết sức dã man vẫn tồn tại hẳn hoi dưới sự bảo trợ đáng sỉ nhục của
bọn đế quốc - thế mà chúng cứ trơ trẽn quạc mồm ra nói “đạo đức” ở những đâu
đâu.
Các cháu bé thành phố Chi-chích đến tặng hoa Việt Nam và
Si-ê-ra Lê-ôn. Thành phố mới Chi-chích vừa xuất hiện vì trên sông Chi-chích có
những mười sáu nhà máy thủy điện. Ba nhà máy sau cùng hoàn thành năm 1978 được
điều khiển tự động.
Giám đốc Su-chúp - người Lê-nin-grát về đây đã mười tám năm.
Ai cũng như từ khắp nơi tới. Các bạn đưa khách thăm một nhà máy thủy điện mới
trên sông. Đâu cũng rền tiếng máy, mà vắng người quá. Dưới những tấm tôn mái
phân xưởng, chim tha rác vào làm tổ ở từng dãy - chim đã nghe quen tiếng máy
như tiếng gió. Những con sáo mỏ ngà, thấy người mới tới, kêu chíu chít bay ra
quanh dưới vòm mái. Đầu tiên nghe lạ, tưởng chim được nuôi ngay trong nhà máy.
Thành phố trong cây, nhấp nhô nhà ở xung quanh. Người già sưởi
nắng trên những chiếc ghế gỗ trước cửa, dưới tàn lá cát-stan ngả vàng màu thu.
Phía bờ sông, mấy cụ ngồi trầm ngâm trước cần câu.
Các em học sinh đi lao động ngồi trên những xe cà chua đỏ
chói vừa hái ngoài cánh đồng về. Nước sông Chi-chích xanh óng ả. Người ta nói
nguồn sông này trong thế vì chảy ra từ lòng đá.
Người bạn thơ bé nhỏ mang hoài bão cả châu Phi! Chúng tôi bảo
quang cảnh Chi-chích xinh tươi kia có phải là một bài thơ của Ba-ba? Nàng mỉm
cười.
Chúng tôi vào những ruộng bông nở trắng, chốc chốc gặp một bờ
dâu xanh viền theo. Nông trường “Chủ nghĩa Lê-nin” chuyên canh trồng bông.
Khách xuống cánh đồng hái bông, mặc áo khoác trắng như mọi công nhân nông trường.
Màu bông nhấp nhô trắng như những búi tuyết sa đến chân trời.
Chẳng trông thấy một người hái bông nào. Đằng kia đương di
chuyển lại, như những vòm lò gạch đỏ ối, những cái máy hái bông đương ồn ã làm
việc.
Chúng tôi chỉ là những người xuống ruộng hái bông cho nhà thơ
Sô-phô-nốp, chủ nhiệm báo “Ngọn lửa nhỏ” chụp ảnh.
Lập tức, góc cánh đồng nhộn hẳn lên. Lại thành cuộc múa tình
cờ mà hấp dẫn. Những cái máy bông đương làm việc cũng dừng lại. Các chị công
nhân lên xúm xít quanh chúng tôi. Không giờ giấc công nghiệp chút nào. Nhưng biết
làm sao được khi những người khách xa từ châu Á, châu Phi tới - như tất cả châu
Á, châu Phi tới đất Trung Á của Liên Xô mà xem chủ nghĩa xã hội đương làm cho sống
lại cả những thời đại đã qua.
Nhà thơ Ba-ba múa thật khéo. Những công nhân nông trường, những
cô gái áo choàng, túi khoác trắng tinh, cánh tay còn dính từng tảng bông cũng đến
múa với khách.
Tôi bước vào vòng múa với mọi người. Theo nhịp trống một mặt
“bôi-ê-ra” bập bùng, bàn tay tôi giơ nghiêng như chiếc lá nở. Ấy là điệu múa
lăm vông vừa học được ở những cuộc chơi với các bạn Lào trên bờ sông Mê Kông
hôm nào. Tôi bỗng nhớ lạ lùng mùa thu Luông Pha-bang. Bàn tay chiếc lá thương
yêu mà tôi đã nhớ đem theo được từ đất nước Lào anh em tới đây.
Cuộc múa tự nhiên kéo dài tới chiều, lan vào đến tận trước
sân nhà bảo tàng truyền thống. Trong phòng bày những chiếc cối gỗ đẽo như cối
giã gạo của đồng bào Dao ở Việt Bắc. Ngày xưa, người ở đây cũng giã lúa bằng
chiếc cối thô sơ ấy. Những điều trông thấy và những con số lịch sử, lớp tuổi trẻ
bây giờ chỉ thấy nó lẫn vào cuộc múa.
Chúng tôi ngồi ăn dưa hấu ruột vàng ngọt như đường dưới bóng
bạch dương và ánh nắng. Bên kia, có bục sân khấu múa hát và người thổi sáo. Những
tấm phản gỗ đặt gối và đệm, nơi dùng trà bên hồ nước. Theo phong tục phong lưu ở
đây, chủ đem tặng khách mũ và áo bông rồi lại cùng nhau múa.
Đấy lại là một bài thơ nữa của Ba-ba.
Có phải không, chúng ta chẳng thể nghĩ trước ra được những gặp
gỡ, những ý thơ đẹp đến như thế.
°
° °
Sổ tay của tôi:
“Tỉnh Bắc Ca-dắc-xtan - tỉnh lỵ Pê-tơ-rô-pa-lốp, sông Y-xim cạn
nước ngày trước ngang qua phố. Năm 1924, có một nhà máy điện 20 công nhân. Bây
giờ; ống dẫn nước đi khắp tỉnh cộng lại vào loại dài đứng đầu trong tất cả các
tỉnh trên thế giới ở đồng hoang và sa mạc. Sông Y-xim bây giờ chan chứa nước , như
cái hồ dài.
Các nông trường khai hoang đều đều nhau về diện tích: mỗi cái
hai triệu mẫu. Lúa một tỉnh này bằng lúa cả nước Ca-dắc-xtan mỗi mùa trước kia.
Mỗi năm bây giờ nước Cộng hòa Ca-dắc-xtan góp cho toàn Liên Xô một phần mười
lúa mì, mặc dầu diện tích Cộng hòa Ca-dắc-xtan chỉ bằng hai phần trăm diện tích
toàn Liên Xô.
Tạm biệt An-ma A-ta, đêm đêm vì hoa, vì người, vì nước chảy
và sáng điện vào các cửa sổ như hội trong ánh trăng.
Tôi trở lại tỉnh bắc Ca-dắc-xtan.
Vẫn mênh mông qua những cánh đồng xanh vừa gieo, những rừng bạch
dương sáng bạc. Những cánh đồng và những con đường dài không biết đến tận đâu,
những hồ nước lấp lánh như những con mắt rất đỗi ngạc nhiên vừa mở ra trên vùng
đất hoang xưa kia. Thỉnh thoảng, gặp một tấm biển nhỏ, có dòng chữ Vũ Thắng
25 ... mới nhớ dầu mình đi trong mênh mang đến thế cũng vẫn giữa đất trời
những cánh đồng Vũ Thắng nông trường Pô-lu-đin-xki.
Tối hôm ấy, chúng tôi về huyện lỵ Bô-va-y-xki.
Đọc bút ký Đất hoang của đồng chí L.I. Brê-giơ-nép,
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, được biết thời kỳ ở Ca-dắc-xtan, đồng chí ấy
đã ở và làm việc nhiều trong vùng huyện khai hoang này.
Đón chúng tôi, vẫn trước nhất, các em học sinh tíu tít chạy
ùa ra với những bó hoa dơn đỏ, hoa hồng dại hái ngoài đồng, một cụ già trịnh trọng
đưa khách nếm bánh mì và muối đựng trên khay phủ mảnh lụa trắng.
Tôi hỏi:
- Thưa cụ, cụ năm nay được bao nhiêu tuổi trời?
- Tám mươi tuổi.
Cụ nói thêm, dõng dạc:
- Báo cáo đồng chí Việt Nam, tôi tên là Mác Páp-vô-lô-vích
Ni-cô-len-cô, Giám đốc đầu tiên của nông trường này.
Tôi có nhớ tên cụ đã được nhắc nhiều lần trong tập bút
ký Đất hoang.
Tối hôm ấy, bữa ăn tại nhà cụ Ni-cô-lai giản dị, thân mật.
Người ta chỉ việc dẹp cái đi-văng vào một góc để kê bàn. Trên tường, những ảnh
gia đình in vào đĩa, treo lác đác. Ngay lối vào, một tấm thảm trang trí hoa lá
kiểu U-krai-na - có lẽ cụ mang từ quê cũ tới, màu đỏ đã nhạt.
Trên bàn ăn, có món cá diếc nướng - ai cũng trầm trồ giới thiệu
cá diếc này đánh ở hồ của nông trường.
Tôi lại nhớ những bữa ăn trong lều bạt ở nông trường vừa mới
được đặt tên là Cát-kê-liên-xki ngày trước thường có món dưa hấu muối. Dưa hấu
muối ấy được tải về từ vùng quanh An-ma A-ta, cách đấy hàng nghìn ki-lô-mét, phải
đem muối lên để dành ăn được lâu.
Cụ Ni-cô-lai thật hào hứng kể lại những ngày đầu tiên. Cũng
như nghìn vạn con người đến đây lập nghiệp, nhưng mỗi người một kỉ niệm khác
nhau.
Hình như đầu tiên đến nơi hoang vu này, ai cũng đi một mình.
Ông kỹ sư nông nghiệp Ni-cô-lai đã đến tuổi hưu, thế mà ông sẵn sàng rời
U-krai-na quê hương đi khai phá đất mới. Ít lâu, bà Ni-cô-lai tới, đem theo hai
con. Sáu năm sau, người con trai lớn tốt nghiệp đại học nông nghiệp Ki-ép cũng
về đây.
Cụ Ni-cô-lai trỏ đồng chí Giám đốc nông trường, đồng chí
Vla-đi-mia Mô-cô-vích Ni-cô-len-cô, người đã đón khách từ lúc chúng tôi vào địa
phận nông trường.
Cụ nói:
- Nó đấy!
Thì ra một đời nông trường hai mươi năm đã là bước công tác nối
tiếp của bố và con.
Tôi hỏi:
- Cụ thấy công việc bây giờ với ngày trước thế nào?
Cụ Ni-cô-lai hôm nay vui. Màu rượu lên đỏ sẫm cả mặt, chỉ còn
bộ ria trắng phơ.
Cụ cười hê hê.
- Có nhiều việc tôi không hiểu.
Tôi mỉm cười, ý chưa rõ câu cụ nói.
- Bây giờ to lớn quá, nhiều cái khó quá, tôi không hiểu thật.
Tôi hỏi:
- Thưa cụ, chắc cũng không bằng những ngày đầu.
Lát sau, cụ mới nói:
- Mỗi thời có cái khó khác nhau và cái nào cũng đều khó cả.
Chỉ có quyết tâm giống nhau thôi. Bấy giờ chúng tôi có độ một trăm người hăng
hái, bây giờ nông trường gồm trên bốn vạn người thì làm sao tôi hiểu được.
Rồi cụ ngửa người ra ghế, lại cười hê hê, vẻ thoải mái lạ. Cụ
Ni-cô-lai không hả hê sao được! Cả huyện có mười hai nông trường - cái tên huyện
cũng chỉ mới có từ khi xuất hiện các nông trường. Bây giờ huyện có hai mươi trường
học, nông trường nào cũng có câu lạc bộ, nhà văn hóa, bệnh viện, ống dẫn nước, ống
dẫn khí đốt, công nhân đi làm đồng có ô tô đưa.
Hai mươi năm trước, tốp đầu tiên đến khai phá, cái roi đuổi
bò cũng không có, mùa đông không làm sao đưa được bò đi ăn cỏ đồng xa. Bây giờ,
nông trường này đương phấn đấu đạt mức sống như thành phố.
°
° °
Nhà khách huyện ở giữa vườn, như căn nhà hai tầng xinh xắn của
mọi công nhân nông trường. Cũng giống túp nhà những “mô-ten” 1 bên đường cho khách du lịch ghé nghỉ đêm.
Hình như trong vườn có những cây bạch dương. Tôi không rõ bóng sáng lao xao kia
là ánh trăng hay màu phấn trắng ở thân cây bạch dương càng về đêm càng tỏa ra một
màu bàng bạc mờ ảo.
Nhà khách, một căn nhà kiểu Nga cổ kính, vách gỗ chắc chắn mà
thoáng. Khác nào tôi đương ở căn nhà cây miệt vườn bờ sông Hậu, khuya nghe cá
tra ăn đàn trong lạch nước giữa những hàng cau, hàng quít lên đớp ánh trăng, tiếng
tóp tép thành làn sóng nhẹ nhẹ đu vào giấc ngủ.
Tôi bỗng thấy một mùi hoa. Mùi thơm nhẹ nhẹ từ phía mặt đất
lên. Tôi cúi xuống. Ngoài song cửa, mùi thơm từ đấy. Tôi cúi xuống nữa, tôi
trông thấy những bông hồng trứng gà, mỗi cánh vàng đương nở, lại như trông thấy
cả làn hương ngào ngạt đương dâng lên.
Hoa hồng và mùi thơm trong ánh trăng vẫn yên tĩnh như thế.
Bây giờ, tôi ngồi tìm xem đốm nào đốm hồng vàng, đốm nào đốm ánh trăng từ vòm
lá bạch dương rơi xuống, vẫn như thế, nhưng trong tôi đã tan những cảm giác hiu
quạnh lúc này dắt tôi về đêm hồng hoang. Đây trong lặng im có mùi hoa hồng. Hoa
hồng của người, của mình, ở đâu có người mới có hoa hồng.
Quả là hai chữ “đất hoang” đương là những kỉ niệm. Tôi hiểu
sâu hơn ý nghĩa ấy. Đất cày sâu cuốc bẫm ở đây đã có hoa hồng của người, ở cửa
sổ tôi.
Rừng các lâm trường trồng bao phủ quanh thành phố - ở các
nông trường, các thị trấn, những dải rừng bạch dương lên đều tăm tắp. Ở vùng
khai hoang, chỉ là những rừng mới trồng. Xưa kia, đây toàn có đất cỏ cằn. Từ
khi khai hoang, người mới đem hoa và đem rừng đến.
Có thể trông cây quanh thị trấn mà nói ra tuổi rừng. Cánh rừng
già nhất ở đây cũng chỉ độ tuổi hai mươi.
Các thị trấn cùng một phong cảnh từa tựa nhau. Đường ô tô qua
từng lớp bạch dương. Rừng trồng phía bắc để chống bão cát bão tuyết. Các phía
khác, chỉ thoáng gặp rừng, đồng cỏ và những hồ đào để nuôi cá. Ánh nước mặt hồ
lóng lánh bóng rừng. Nghìn xưa chưa hề có rừng và hồ như thế ở đất hoang.
Mỗi ngôi nhà trong thị trấn một kiểu khác nhau. Nhưng cũng giống
nhau: mọi nhà đều ở giữa vườn, mỗi tòa nhà hai tầng một gia đình. Nhà nào cũng
tầng dưới: bếp, tầng nhà ăn, phòng khách, tầng trên, phòng ngủ. Bây giờ đương
mùa củ cải.
Những luống củ cải tím nổi lên mặt đất, tròn xoe, cạnh cụm
hoa lay-ơn đỏ và những luống hồng vàng. Và kiến trúc nhà trong một phố mà khác
nhau. Cái mái nhọn. Cái cửa tròn. Cái ô vuông. Hàng hiên cũng thế: hiên vòm,
hiên ngang, hiên quanh nhà. Ở các vùng quê châu Âu mỗi nơi thường một kiểu nhà
thuận tiện và thích hợp nhưng mỗi vùng một khác. Ở đây, chỉ mỗi dãy phố đã một
cung cách nhà khác nhau rồi.
Trên mặt tường một nhà, trông thấy đắp dòng chữ: Grudia
1970.
Đồng chí ấy bảo tôi:
- Công nhân Tơ-bi-lít-sy đã lên xây cho nông trường dãy nhà
này.
Nếu thế thì quả là phong tục mới thật đẹp. Ngày trước, lần ấy
tôi đến thành phố Tắc-ken, sau một tai nạn động đất khủng khiếp. Hầu như cả
thành phố sập xuống. Nhưng bên cạnh những hoang tàn, những bức tường trình cổ lỗ
của ngôi nhà một tầng còn nứt toác, đã vô số những bức tường mới mọc, có tường
trang trí hoa lá cải cúc U-krai-na, có mái nhà nghiêng kiểu Lát-vi-a, kiểu
Nga... Ấy là các nước Cộng hòa toàn Liên Xô đã gửi công nhân tới nhanh chóng
xây dựng lại thủ đô nước Cộng hòa U-dơ-bê-ki-xtan. Từ đấy, Liên bang Xô Viết
thành phong tục hay. Người thành phố khắp nước xung phong đi xây nhà cho các thị
trấn mới khai sinh ở các vùng đất hoang. Ki-ép 1972, Ta-lin 1967, Ô-đét-xa
1972... Những phố phường ở nơi tận cùng khuất nẻo cũng chan hòa tình cảm cả nước
một lòng.
Tôi vào chơi nhà gia đình Ăng-đrê. Ông Ăng-đrê là lính xe
tăng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, giải ngũ về đây làm công nhân lái
máy kéo. Bây giờ ông đã về hưu. Dãy phố này của công nhân thành phố Ba-ku lên
xây năm 1975. Người A-déc-bai-dăng không để lưu niệm bằng những hàng chữ đắp
trên tường, mà công nhân thành phố dầu hỏa, khi làm xong nhà đã khiêng về một tảng
đá to tướng chôn nổi ngay ở lối cửa vào - như con chó đá giữ nhà của phong tục
cổ Việt Nam.
Vườn nhà, một nửa để cỏ mọc, nửa trồng hoa. Trong hàng rào, một
đàn dê chạy lăng xăng. Con dê mẹ đương độ căng sữa, những bầu vú lúc lỉu vắt va
vắt vẻo. Đàn gà lúi húi cuối vườn, cạnh con bò mẹ và một chú bê. Hai chiếc xe đạp
trẻ con dựng cạnh gốc bạch dương bên cạnh. Bọn trẻ vứt xe đấy rồi chạy chơi đâu
không biết.
Luống hồng trứng gà đương nở, cánh hoa vàng đậm những nhánh
gai hồng và nõn đỏ hây, giương lên như vây cá chép. Ngay lối vào, bà Ăng-đrê gầy
gò mảnh khảnh ngồi trước cái bếp ga trắng loáng. Nồi xúp trên bếp sôi sùng sục.
Bà đương chăm chú đọc tạp chí “ Văn học nước ngoài ” số mới ra tháng
bảy.
Vợ chồng người con đã đi làm. Ông bà Ăng-đrê cũng không ở đây
- mẹ và bố ở phố bên kia. Tối nay, bởi nhà con có bữa ăn vui, mẹ đến giúp làm bếp.
Tôi hỏi:
- Có phải ngày sinh nhật?
- Không, hôm qua Mi-khai đi săn được con thỏ rừng.
Con trai ông bà Ăng-đrê làm nghề lái xe. Hai bố con chỉ thích
đi săn. Phòng khách trong nhà, trên tường la liệt những bộ lông phượng hoàng đất,
con bồ nông, con cáo đuôi dài, một con hoẵng được nhồi rơm, có đôi sừng mỏng mảnh,
đứng tròn mắt nhìn ra. Những kỉ niệm chiến công của người đi săn.
Giữa nhà, để chiếc máy vô tuyến truyền hình. Tủ lạnh bên bàn
ăn đầu bếp. Cạnh đấy, còn một khung vuông, phủ vải hoa, tôi không đoán được cái
gì.
Bà Ăng-đrê cười nói:
- Cái máy rửa bát.
Tôi cũng cười:
- Thế thì nhà bà Ăng-đrê ở xa Mát-xcơ-va hàng vạn ki-lô-mét
cũng không khác nhà thành phố.
- Chúng tôi vẫn còn thiếu.
Rồi bà nói:
- Chúng tôi đã gửi tiền mua ô tô mà chưa được trả lời.
Tôi được biết ở các thị trấn nông trường nhiều người đặt mua
ô tô. Người ta có tiền, và cũng vì tiện lợi nữa. Mỗi thị trấn nông trường thường
cách nhau hàng mấy chục, hàng trăm ki-lô-mét. Đi mô tô chỉ được hai ba người.
Những ngày nghỉ, cả nhà muốn đi chơi...
Bà Ăng-đrê nói:
- Tôi đã đọc truyện ngắn Người ven thành của đồng
chí, hôm nay mới gặp...
Tôi ôm hôn, cảm ơn bà.
Bà hỏi:
- Tình hình biên giới phía bắc Việt Nam thế nào?
Tôi im lặng. Một người yêu văn học nước ngoài như bà Ăng-đrê,
tôi biết trả lời thế nào và chỉ trông mắt bà nhìn khách, đuôi mắt nhăn nheo, quầng
thâm - con mắt của người đã trải Cuộc chiến tranh Thế giới vừa qua, tôi hiểu
như bà đã cảm thông cả đến sự lặng im của tôi.
Bà Ăng-đrê hái hai bông hồng vàng trong vườn cài lên áo tôi.
Tôi ra ngoài cửa. Người con trai ở xưởng xe đầu phố biết tin
nhà có khách, anh tất tả chạy về.
Anh hỏi:
- Tối nay đồng chí nghỉ ở đâu?
Rồi nói:
- Thế nào cũng đến làm khách nhà tôi. Thịt thỏ rừng ngon lắm.
Tôi chỉ biết cười trả lời.
Tôi vào nhà anh Tôm-bôn-xki ở phố khác. Tôm-bôn-xki theo bố mẹ
đến nông trường, từ thuở học cấp một, bây giờ đã thành anh thợ điện. Nhà anh...
tủ lạnh, máy giặt, máy truyền hình... Con bò sữa và con bê... vườn hoa hồng
vàng...
Tôm-bôn-xki cũng từ phân xưởng về nằn nèo mời “Thế nào tối
nay cũng trở lại làm khách của gia đình tôi”.
Tôi không biết trả lời thế nào. Nhưng nói chuyện ăn uống thì
bao giờ cũng vui và có những nụ cười gặp nhau.
Trường cấp một số 5 của thị trấn.
Các cháu xúm lại. Một em trai tóc hoe, miệng có chiếc răng sứt,
nghiêng đầu nhăn nhó, và nghịch ngợm nữa, hỏi tôi. Tôi ngạc nhiên và cảm động
vì sự hiểu biết của em.
Em hỏi:
- Bác là người nước nào?
- Việt Nam.
Em ngẩn ngơ, nghĩ ngợi, rồi hỏi nữa:
- Ở Việt Nam còn chiến tranh không?
Tôi rưng rưng vuốt tóc em. Em bé thông minh, hỏi một câu tự
nhiên, mà tôi buồn thấm thía lạ lùng. Chiến tranh bao trùm đằng đẵng trên đất
nước và dân tộc tôi, cả đến em bé tám tuổi ở nơi xa xôi thế này cũng biết. Tôi
không muốn nói: Đất nước tôi còn chiến tranh, cháu ạ. Bọn giặc Tàu... Tôi lại
im lặng.
Những chiếc xe chở khách từ các ngả đường đưa công nhân trở về
trong phố. Các chị xuống xe tất tả về nhà ngay. Đám thanh niên kéo từng bọn đến
các nhà tắm hơi. Tôi theo các bạn trẻ đi tắm hơi. Tắm hơi là một cái thích đã
thành thói quen từ mấy năm nay.
Tắm kiểu Thổ và Phần Lan, người ta vào ngồi trong buồng hơi.
Tắm Nga, còn thêm tay cầm bó cành lá long não non đập lên mình mù mịt khói nước.
Tắm hơi ra, như người sốt được xông nồi nước lá của bà hàng lá trại Hàng Hoa,
người nhẹ thảnh.
Bữa ăn chiều nay đông vui nhất, nhưng vẫn những món ca-dắc cổ
truyền. Những tảng thịt ngựa kho nhạt, thớ nổi như giò hoa.
Nước xuýt cừu. Có mứt, sữa ngựa, chè sữa ngựa.
Những trái táo đỏ, táo vàng đã được cắt như đóa hồng nở, bày
giữa bàn với những bình hoa hồng vàng, thật ý nhị - không khéo thì cầm miếng
táo lên lẫn cả hoa.
Lại như hôm uống rượu với cụ Ni-cô-lai. Cái đầu cừu thui đen
sì được bưng vào. Chủ tiệc mời khách xẻo một miếng trước. Khách đưa cho người
thứ hai. Rồi đến lượt người thứ ba lóc thịt cả đầu cừu chia đều cho khách trong
tiệc, mỗi người một miếng.
Tôi cắt miếng tai. Tai cừu non giòn, thơm như thịt bò thui
chưa lột bì - khách xa bỗng nhớ mùi tương gừng bò thui.
Tối hôm ấy, chúng tôi nghỉ lại ở một trường học, trường cấp
hai số 8. Trường có giường cho học sinh nghỉ trưa. Nông trường này cái gì cũng
đầy đủ, nhà tắm hơi, quán ăn, tủ lạnh và máy giặt từng nhà, thế mà nông trường
lại không có nhà khách. Bởi đây không phải nơi khách thường lui tới tham quan.
Đây chỉ là một nông trường bình thường trong hàng nghìn nông trường khai hoang
khắp nước Ca-dắc-xtan.
Cửa sổ nhà nghỉ của trường học trông thẳng ra cánh đồng. Chiều
xanh vắng ngắt vắng ngơ. Càng rõ tiếng máy nổ chậm chậm đều đều phía đầu đầm nước.
Một ông già chống gậy đứng bên một con chó béc-giê, quay nhìn
ra hồ. Những cái vòi phun mưa bụi xuống một vùng ruộng dưa chuột, cà chua và
khoai tây.
Tôi bước ra.
- Cụ ơi, chỗ này là nhà gì?
- Nhà làm việc của kỹ sư thủy lợi.
Xung quanh im lặng. Đã nhập nhoạng tối mà vẫn trông thấy những
sợi bông hoa “tuyết mùa hè” bay phân vân trắng ngang trời.
Trên bậc thềm, trong cánh cửa phòng làm việc có gắn chiếc
gương nhỏ. Tôi đoán được phòng làm việc ấy chắc của một kỹ sư nữ. Vừa lúc, tiếng
mô tô rền từ đằng xa lại. Một cô gái trắng nõn, đầu đội mũ nhựa vàng, ghé xe
ngay bên thềm.
Ông già nói:
- Đồng chí kỹ sư đây.
Cô kỹ sư chào khách, rồi nói:
- Vâng, gọi thân mật tôi là Giê-na, tôi người Mát-xcơ-va, kỹ
sư thủy lợi, bây giờ kiêm cả trồng trọt.
- Đồng chí đi đâu về?
- Tôi ra vườn ươm cây. Chuẩn bị cây để mai các đồng chí sẽ trồng
lưu niệm cho công viên nông trường chúng tôi. Đấy, máy nổ sắp chuyển sang bơm
nước lên phía ấy. Khu đất này sẽ thành công viên hữu nghị của nông trường chúng
tôi.
Tôi cười:
- Mười năm nữa, nếu tôi trở lại đây, chắc bấy giờ đồng chí kỹ
sư đã là Giám đốc nông trường.
Cô cười lúm cả hai má đồng tiền.
Và trả lời tự nhiên:
- Cũng có thể. Xin mời đồng chí trở lại. Lúc bấy giờ nông trường
chúng tôi còn mở rộng hơn bây giờ nhiều. Điều ấy thì chắc chắn.
Người ta bảo bên kia cánh đồng là đường đi tới Ôm-scơ, tới
Goóc-si-tốp, những thành phố của rừng Tai-ga Xi-biếc. Hãy nhớ đây là tây Xi-biếc,
cửa phía bắc Ca-dắc-xtan, vùng đất hoang nghìn xưa.
Cô kỹ sư Giê-na nói:
- Nhưng mà bên ấy bây giờ cũng không còn đất hoang. Nông trường
“Thanh niên cận vệ” của tỉnh Ôm-scơ gần đây nhất.
Lúc nãy, đi qua một cánh đồng mới gieo. Xung quanh và đằng
xa, chỉ có mình và mênh mông tưởng như không cùng.
Nhưng đầu cánh đồng thấy chiếc bảng cắm, đề chữ:
Đội 2
Cánh đồng 27
Lúa mạch
Diện tích 379 mẫu
Gieo ngày 18-5-1979
Dòng chữ và con số đã khiến nơi quạnh vắng bỗng như đông đúc,
đầm ấm hẳn lên.
Đêm xuống cứ vắng lặng mênh mông dần ra. Tưởng như chỉ có hơi
đêm ghê rợn trong đêm hoang.
Nhưng đã có mùi hoa hồng của người trồng. Có khi đấy là mùi
thơm những luống hồng vàng của cô kỹ sư Giê-na trồng ngoài song cửa.
Mát-xcơ-va & Hà Nội
Năm thứ 62 cách mạng Tháng Mười
--------------------------------
Mô-ten: Những túp nhà nhỏ cho khách du lịch nghỉ trên đường
đi. |
Thảo nguyên ở
Ca-dắc-xtan
MÁY BAY AN10, bốn cánh quạt, dữ như một con đại bàng khổng lồ,
rời Mát-xcơ-va lúc 11 giờ rưỡi, bay liền năm giờ tới An-ma A-ta, thủ đô nước Cộng
hòa Xô Viết Ca-dắc-xtan. Trên cao tám nghìn thước nhìn xuống, thấp thoáng những
tấm đệm mây trắng đặc quánh, và mặt đất nâu xám vằn lên như trong bản đồ giấy.
Mới bốn giờ chiều. Thế mà ngoài cửa sổ, đã thấy bay tạt vào
những ánh sao xanh biếc. Mới nhớ rằng thời gian ở đây đi nhanh hơn ở Mát-xcơ-va
những hơn ba giờ. Bây giờ theo giờ An-ma A-ta, đã là hơn bảy giờ tối. Thế là
chúng tôi đã đang bay trên bầu trời Trung Á, trên Ca-dắc-xtan nổi tiếng vì đất
nước rộng lớn có những công cuộc khai hoang hùng vĩ, nổi tiếng vì sự thay đổi
thần kỳ của một vùng mà cách đây bốn mươi năm còn là những nơi trú chân vô định
của những người du mục, bây giờ đã trở nên một nước cộng hòa giàu có, phồn thịnh,
mang trong mình những kho tàng thóc lúa và hầm mỏ nhiều hơn của bất cứ nước nào
ở châu Âu.
Trong Liên Xô, nước Cộng hòa Xô Viết Ca-dắc-xtan đứng thứ hai
về diện tích, sau liên bang Nga. Ca-dắc-xtan chạy dài từ bờ biển Cát-spiên phía
cửa sông Vôn-ga sang tít cùng biên giới phía Tây nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, từ Bắc xuống Nam trên 1.700 cây số, từ Đông sang Tây trên 3.000 cây số, diện
tích 2.756.000 cây số vuông, trong đó tưởng như không bao giờ đi hết được thảo
nguyên như ở Xi-bê-ri và sa mạc, cháy nắng của các vùng lục địa Trung Á. Người
ta đã tò mò tìm ra những con số so sánh thú vị: nước Ca-dắc-xtan bằng tất cả
các vùng phía Tây và phía Bắc châu Âu bao gồm các nước Anh, Iếc-lan, Pháp, Bỉ,
Đức, Đan Mạch, Thụy Điển, Áo, Thụy Sĩ, Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha!
Mênh mông, dữ dội, thảo nguyên và sa mạc liên miên trên quá nửa
nước Ca-dắc-xtan chỉ có tám triệu rưỡi người. Ca-dắc-xtan nằm thăm thẳm giữa lục
địa, xa hẳn Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, khuất Ấn Độ Dương, những rặng núi
cao nhất thế giới. Cho nên, khác hẳn những vùng bình thường khác, ngày đêm ở
đây cứ cuồn cuộn những trận gió tung hoành trên mặt đất ngày càng khô cằn mà mỗi
cây số vuông không đứng được đủ ba người, gió cứ miên man thổi dài, mù mịt thâu
ngày thâu đêm, không vướng núi, không vướng rừng, không một sức cản trở, gió lại
gió nối tiếp nhau tạo nên những trận bão cát, bão tuyết, có khi quét cả mùa
màng bay đi. Có những vùng đất trồng chỉ ăn gió, người vừa cày đến thì gió quét
bay đi hết đất cày. Ngày và đêm, gió thổi cạn hết nước sông, khô xác tất cả cây
cối, tất cả mặt đất, người ta chỉ dám ở vun lại từng nơi còn lại chung quanh là
đồng hoang và sa mạc. Trên những vùng đất đai khủng khiếp ấy, đã sinh sống các
dân tộc Ca-dắc, Nga, U-cờ-ren, U-dơ-bếch, Triều Tiên, U-i-gua, Đun-gan. Nhưng,
thật ra xưa kia cũng chẳng phải đất của dân tộc nào. Bấy nhiêu dân tộc sống
trôi nổi trong gió bão và trong những tàn bạo của các đời phong kiến Nga, cả đời
họ chỉ quay cuồng khắp đây đó. Gió bão cùng mọi thế lực phong kiến đã nhổ, đẩy
những chiếc nhà lều và người, và cừu, lạc đà, ngựa, tất cả đi không biết đâu là
nơi ở, đâu là nơi đến. Tôi muốn ví bằng một hình ảnh thảm thương: các dân tộc ở
đây, như một loài dê rừng của vùng đất cằn Ca-dắc-xtan.
Những con dê rừng có bộ sừng cong tròn, to, cao hơn cả thân
mình. Mỗi khi nhảy từ trên cao, bao giờ dê rừng cũng nhảy đâm thẳng đầu xuống.
Hai làn sừng tròn húc mạnh vào đất, vào đá, rồi uốn vòng hất dê nhảy đi, băng
đi và rồi lại nhảy nữa, bao giờ cũng nhảy húc sừng xuống trước. Những dân tộc ở
Ca-dắc-xtan cũng gian khổ như những dê rừng nhảy, húc sừng lăn vào trong đá,
trong gió cuốn. Thật khổ cực, nhưng cũng thật là dũng mãnh, những con dê rừng đặc
biệt - một loài vật quen thuộc mà người Ca-dắc rất thích. Ngày nay, ở đâu - từ
Nhà hát thành phố cho đến trên các vải thêu, màu áo phụ nữ, tôi đều thấy nhiều
kiểu trang trí khoanh tròn theo hình những cặp sừng uốn tròn kỳ lạ ấy.
Cái nhà lều là một hình ảnh đặc biệt và điển hình nhất trong
cuộc đời đau khổ của người Ca-dắc du mục. Trên thảo nguyên, người Ca-dắc cắm
nhà lều ở. Nhà lều chỉ cắm một lúc thì xong. Khi phải đi, nhổ lên, và đi ngay
được. Người Ca-dắc ăn bốc. Khi chuyển nhà lều, như thế cũng thêm nhẹ và chóng,
không cần mang theo thứ gì lịch kịch cả. Trong nhà lều mái da, mái vải rách thủng
đã nát, người nằm ngay trên mặt đất. Nếu rét quá thì treo thêm lông cừu, lông lạc
đà cho có hơi ấm hơn.
Nhưng đấy là những khổ ải cách đây đã ngoài bốn mươi năm. Bây
giờ ai đến Ca-dắc-xtan chỉ còn trong thấy những cái nhà lều ấy ở Viện Bảo tàng
Lịch sử. Bây giờ các dân tộc du mục trước đã ở êm ấm trong các thị trấn, các
làng mạc. Họ đã có bánh mì và biết trồng lúa mì, không còn như ngày trước, chẳng
bao giờ được ăn bánh.
Tôi cũng chỉ còn được trông thấy chiếc nhà lều ở Bảo tàng Lịch
sử. Hết thảy đã đổi khác. Đây là một ít con số có ý nghĩa: thường thường ở các
dân tộc chậm tiến, người phụ nữ phải chịu khổ nhất trong đời sống gia đình, xã
hội và chế độ đa thê. Ngày này, phụ nữ Ca-dắc chiếm ba mươi tư phần trăm tổng số
công nhân và cán bộ kỹ thuật toàn quốc. Riêng trong một vùng Ka-ra-gan-đa, có bốn
nghìn kỹ sư và cán bộ kỹ thuật là phụ nữ. Cả nước có bốn vạn giáo viên và sáu
nghìn bác sĩ là phụ nữ. Đã hai mươi năm nay, nạn mù chữ coi như bị xóa hẳn ở
Ca-dắc-xtan. Từ 1949, bậc học tiểu học bảy năm là bắt buộc. Bắt đầu sang 1960,
bậc học trung học phổ thông sẽ bắt buộc cho tất cả mọi người ở thành thị, cũng
như ở nông thôn.
Bốn mươi năm biến đổi, nhưng cũng là bốn mươi năm đương đầu với
những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Những năm đầu đã phải làm sao cho trong một thời
gian ngắn thoát khỏi tình trạng lạc hậu, đuổi kịp những nước tiến bộ nhất trong
liên bang. Nhưng dĩ vãng đã để lại một cái gia tài có những hậu quả đáng khiếp.
Lương thực, mùa màng đã bị phá hết, sau Cuộc chiến tranh Thế giới và cuộc nội
chiến. Từ 1920 và liền ba năm sau, một nạn mất mùa và dịch khủng khiếp đã cướp
đi gần hết bò, cừu, lạc đà, ngựa. Còn công nghiệp thì chưa có gì.
…Công cuộc khai hoang vĩ đại của Ca-dắc-xtan đang là một
trang sử oanh liệt nổi tiếng khắp thế giới của Ca-dắc-xtan. 20 triệu cây số
vuông đất hoang đã khai phá cho tới cuối năm 1956. 166.000 máy cày, hàng chục vạn
máy gặt, đập, và các thứ máy khác trong toàn Liên Xô đã đưa về Ca-dắc-xtan. Từ
ba năm nay, mức độ khai hoang mỗi năm mỗi lớn.
Người, và người ở tất cả các nơi trong Liên Xô đã ùa về Ca-dắc-xtan.
Những kỹ sư, những cán bộ chuyên nghiệp, những sinh viên, những thanh niên cộng
sản và tất cả những ai nhiệt tình khai hoang, họ đã tình nguyện rời quê hương,
từ U-cờ-ren, từ Bi-ê-lô-rút-xi, từ Lét-tô-ni, từ những đâu đâu nữa, tính đến
năm 1959 đã có hơn một triệu người tiến tới các vùng đồng hoang Ca-dắc-xtan. Những
người đầu tiên tới dựng bạt lên ở giữa thảo nguyên và bắt đầu công việc. Chỉ
trong hai ba năm đầu đã vỡ được những khoảng đất cộng lại nhiều hơn cả đất đai
đang trồng trọt của cả hai nước Pháp và nước Ý. Nhờ biến đồng hoang thành ruộng,
cho tới 1956, Ca-dắc-xtan đã trở thành vựa thóc đứng hàng thứ hai của Liên Xô.
°
° °
Tôi đến với những anh hùng khai hoang của thời đại.
Hôm nay nắng. Trời xanh và mây vẫn từng mảng trắng như trời
mùa thu nước ta. Xe chúng tôi đã vào thảo nguyên. Rồi dần dần trông thấy những
cảnh không thể có ở quanh các thành phố, cảnh mênh mông, không bao giờ hết, chỉ
có thảo nguyên nối tiếp thảo nguyên. Những con bồ các trắng vỗ cánh trên đồng cỏ,
như trên mặt biển, càng thêm mênh mang… Những tụm cỏ mùa thu có lẫn tuyết dưới
gốc, đã úa thành nhiều màu lạ: xanh, vàng, trắng lổ đổ - và một mùi thơm nồng
nàn kỳ dị cứ bốc lên trên đồng cỏ và sực nức qua cả xe chúng tôi.
Những vùng khai hoang đã trở thành ruộng phơi màu đất đen xì
nhưng trước mắt và đằng xa vẫn chập chờn im lặng, cái im lặng rộng lớn trên thảo
nguyên. Một chấm vàng động đậy đằng xa. Tới gần, đó là chiếc xe chở rơm cho cừu.
Lúa mì mùa đông đã nẩy mầm xanh trên mặt đất ruộng đen. Mầm lúa đợi để chịu dựng
những lớp tuyết sẽ phủ xuống rồi cứ nằm im dưới tuyết như thế cho tới sang
xuân, tuyết tan thì mầm nẩy lên thành cây lúa.
Những vùng khai hoang này chạy dài về phía nam đến chân dãy
núi A-la-tau, mà đứng đây chỉ trông thấy những đỉnh nhọn phủ tuyết, phía bắc đi
lên tới đầu hồ Ban-khát. Đường mùa thu lầy lội đất thó vàng rợn và trơn. Phía
trái chúng tôi, tít tắp đồng cỏ đến tận chân trời vẫn là đồng cỏ lẫn với sương
mù. Các bạn cùng đi với chúng tôi nói rằng phía ấy có con đường tên là đường Lụa.
Con đường Lụa trước kia là con đường đau khổ, mà cũng là con
đường hy vọng. Ngày xưa, cứ vào quãng mùa đông sắp tới như bây giờ, những người
lái buôn ở Trung Quốc lại vượt không biết bao nhiêu đèo núi trong dãy Thiên Sơn
vòi vọi kia, sang đây với cả đàn ngựa và lạc đà kéo lên, đem theo lúa mì, vải,
muối. Người Ca-dắc chỉ nuôi súc vật và săn bắn, không biết trồng lúa. Những người
lái buôn đem lúa mì và vải tới đổi lấy da và thịt cừu sấy của người Ca-dắc. Cứ
mỗi năm đến độ có phường buôn, từ Trung Quốc qua dãy Thiên Sơn tới thì đâu đâu
cũng lại thấy tấp nập đôi chút, vì có lúa mì và vải mặc.
Tôi trông về phía con đường Lụa đó. Vẫn những thảo nguyên xa
mãi, và dưới chân tôi vẫn con đường lầy lội, nặng nhọc. Nhưng trên quãng đường
lầy lội, chỉ thấy vết bánh xe, xe hơi và xe ngựa, những chuyến xe lũ lượt qua
trước mặt đang tải rơm, tải củ cải đường, tải lông cừu từ các nông trường ra.
Chỉ thấy những chiếc xe máy không thấy vết chân người trong bùn lội. Câu chuyện
đường Lụa của hi vọng và gian khổ là chuyện qua rồi, đã qua rồi.
Chúng tôi bỏ đường lớn đi vào vùng Chê-môn-gan. Tôi đã được
biết trước ở vùng Chê-môn-gan có bảy nông trường và bảy nông trang tập thể. Tất
cả đều là nông trường và nông trang khai hoang.
Buổi chiều đỏ rực, những cánh đồng cao cũng rực mùa cây “ngải
cứu” và càng đi càng chỉ thấy im lặng bao la trên những quãng đường bùn lẫn tuyết
lầy lội. Không khí câm lặng đến kỳ dị. Thảo nguyên loang lổ đất đỏ và cỏ
“dút-san” trong một cảnh buồn buồn cuối thu. Cỏ úa cúi xuống ở những mỏm đồi
cháy, nhấp nhô xanh đen. Đồng cỏ, xa xa trời và cỏ và sương mù vẫn lẫn lộn với
nhau, thăm thẳm có lẽ không bao giờ hết. Đi đã xa mà lại vẫn chỉ trông thấy trời,
đồng cỏ, với liên tiếp những lưng đồi nhấp nhô… Một phút đứng dừng lại, đồng cỏ
càng lặng im, lắng xuống. Đột nhiên, những con bồ các cánh trắng đến lượn trên
đỉnh đồi; những con bồ các cứ quay lượn, con nào cũng giống con nào, càng làm
cho thảo nguyên thêm lặng lẽ, kỳ dị với những đồng cỏ, đồi, trời và vẫn chỉ một
mùa vàng xa, mãi mãi.
Rồi đột nhiên, từ trong màu vàng úa chân trời nổi lên từng
đàn ngựa đang phi tràn lên, ngựa phi như bay, đúng như câu tục ngữ “Ngựa là
cánh của người Ca-dắc”. Sau lưng đàn ngựa, xa xa, chúng tôi đã trông thấy nông
trường Cát-kê-liên-xki. Nông trường Cát-kê-liên-xki trắng xóa giữa thảo nguyên,
ánh lên những bức tường trắng của thị trấn và trụ sở nông trường, một thị trấn
ba năm trước đây chưa có tên trong bản đồ địa phương. Rồi lại trông rõ cả những
trang trại nuôi gà ngay trên bờ con sông cạn, gà ra kín cả mấy khoảng đồi, trắng
lốm đốm như rắc gạo nếp trên đồng cỏ.
Đồng chí Cô-sên-ny, chủ tịch nông trường Cát-kê-liên-xki ra
đón chúng tôi. Người to lớn, dáng vui và tươi cười vờn vỡ, mới trông cũng biết
đấy là dáng người các vùng phương nam U-cờ-ren. Đồng chí Cô-sên-ny chính là người
U-cờ-ren.
Câu chuyện khai hoang trên đồng cỏ, đồng chí Cô-sên-ny kể:
Tôi là một kỹ sư nông học ở U-cờ-ren. Từ thuở nhỏ, sinh ra ở
quê hương U-cờ-ren cho tới khi lớn lên, làm công tác nông nghiệp, tôi chỉ ở các
vùng đồng ruộng U-cờ-ren.
Mùa thu năm 1954, bắt đầu phong trào khai hoang. Trong giới
chúng tôi, người ta xôn xao bàn tán. Không phải các bạn ấy bàn tán phản đối hay
không phản đối. Người ta đều tán thành khai hoang bởi vì, hơn ai hết, chúng tôi
là những người làm công tác nông nghiệp, chúng tôi biết rằng công cuộc khai
hoang là cần thiết, vấn đề khai hoang sẽ là cơ sở cho việc phát triển nông nghiệp
cao hơn nữa, kể cả đời sống vật chất của nhân dân. Nhưng mà cái điều chúng tôi
cần bàn tán chính là những khó khăn trong khai hoang, những khó khăn trong công
cuộc biến từ một cái không có gì thành một cái có tất cả. Kết quả hay không là ở
đấy. Và còn những băn khoăn của mỗi người. Ai sẽ đi tấn công những cái khó khăn
ấy, đi như thế nào? Phải nói rằng có một số người ngại. Bởi vì cắt nghĩa cho
cùng thì: không có gì cả, tức là khai hoang. Việc đời đang bình thường trôi chảy
bây giờ lao vào một công việc mới mà lúc nào cũng chỉ những đối phó với khó
khăn, sao mà không ngại! Đồng chí hiểu cho, thông thường của con người ta là có
thể ngần ngại. Nhưng lại có những cái không thông thường khác thì ngược lại. Đối
với những người không hiểu nổi xã hội Xô Viết, như một số nhà báo nước Mỹ đã tới
đây thăm chúng tôi, họ không thể hiểu được rằng vì lẽ gì mà chúng tôi đã dễ
dàng vượt những trở ngại đó, vì sao chúng tôi đã rời bỏ những công việc quen
thuộc, cuộc sống quen thuộc và thân yêu ở quê hương, ở những cánh đồng phì
nhiêu ngoài U-cờ-ren để dấn mình vào đây, chìm nổi trên những đồng hoang và sa
mạc khô cằn này. Những nhà báo nước Mỹ nọ chưa thể làm sao mà hiểu được chúng
ta, có phải không đồng chí?
Thế là tôi quyết định đi Ca-dắc-xtan, theo lời kêu gọi của Đảng
bộ U-cờ-ren. Thể theo tinh thần tự nguyện của tôi, Đảng đã cử tôi đi. Vợ tôi, mẹ
tôi, tất nhiên không ai muốn phút chốc mỗi người một nơi, nhưng ai nấy đã trải
và đều biết rằng không có gì khó khăn hơn chiến tranh, mà chúng ta đã vượt qua
cả chiến tranh. Năm ngoái đây, khi chúng tôi sản xuất đã vào nền nếp, đã có
lãi, thì vợ tôi cũng vào làm việc trong nông trường này, cả mẹ tôi cũng theo
vào… Chúng tôi càng thấm thía rằng từ lúc ra đi, Đảng đã nắm chắc sẽ có ngày tốt
đẹp hôm nay rồi.
Hồi ấy, trước nhất, chúng tôi về Mát-xcơ-va. Ở U-cờ-ren, ngay
chuyến đầu, đã có hàng nghìn kỹ sư và cán bộ kỹ thuật. Họ tỏa khắp từ Xi-bê-ri
xuống Trung Á, nhưng tập trung nhất là vào Ca-dắc-xtan. Ở Bộ Nông nghiệp toàn
Liên Xô, tôi cùng bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu công tác sắp làm với một kỹ sư
người Ca-dắc (làm việc ở Mát-xcơ-va), một kỹ sư xây dựng quê ở Lê-nin-grát, hai
cán bộ tổ chức cũng là người U-cờ-ren, chúng tôi được chỉ định thành một tổ.
Chúng tôi được dẫn đến trước một bản đồ lớn vẽ những vùng sẽ khẩn trương ở Ca-dắc-xtan.
Từ đợt đầu, Ca-dắc-xtan đã dự định khai phá 20 triệu cây số vuông đất hoang.
Tôi phải nói lại cảm tưởng của chúng tôi lúc ấy đứng trước cái bản đồ khai
hoang. Thật phức tạp, bởi vì không gì tẻ nhạt mà cũng không gì phấn khởi bằng.
Tẻ nhạt, bởi vì chỉ có thể chán đến nhức mắt khi phải trông vào cái bản đồ mà
chỉ thấy trắng xóa, mà trên bản đồ người ta đã kẻ ra những cái ô vuông rất ngay
ngắn, trong mỗi ô vuông rỗng không đó lại chấm ra những cái chấm li ti rồi đặt
tên nông trường, tên người phụ trách vào đó… Cái mênh mông trắng xóa trên bản đồ
là một sự thật, là toàn những thảo nguyên và sa mạc hoang dại, mà những ô vuông
và chấm đen kia là những cái tưởng tượng, là những điều sẽ có, mà chúng tôi đây
là những người sắp đi làm cho nó có thật, làm cho cái bản đồ kế hoạch này, nếu
lần sau ai xem đến sẽ thấy nó đã cất đi được những đường vuông kẻ và thay vào bằng
những đường viền màu xanh màu vàng cong queo của những diện tích khai phá cứ mỗi
ngày một lớn dần ra. Đó sẽ là sức lực sáng tạo của chúng tôi. Chúng tôi rất náo
nức, phấn khởi. Như đồng chí đã biết, trong vùng Chê-môn-gan, năm năm trước chỉ
có bảy cái ô vuông, mà nông trường Cát-kê-liên-xki là một trong bảy ô vuông ấy.
Và năm năm trước, tôi đã được kê tên ở dưới chỗ cái chấm của cái nông trường ô
vuông chưa có thực này.
Ngày 12 tháng giêng năm 1954 về tới thủ đô An-ma A-ta, chúng
tôi phân công thành lập đội nghiên cứu đất, nghiên cứu cỏ, nghiên cứu nguồn nước
và nghiên cứu trù hoạch các nguyên liệu. Rồi chúng tôi đến đây.
Nơi này đây. Nơi mà đồng chí tới, ngày nay đã là một nông trường
có 150.000 mẫu tây ruộng đất với một thị trấn mà chúng ta đang ngồi nói chuyện
với nhau ở đấy. Nhưng ngày ấy, cũng nơi này. Giữa mùa bão tuyết và băng đóng đầy
thảo nguyên, chúng tôi đã đi xe trượt tuyết lết tới giữa đồng không mông quạnh.
Những cái xe trượt tuyết dừng lại ở giữa đồng tuyết và những chiếc bạt đầu tiên
được căng lên. Chúng tôi làm việc và ăn ngủ cả ở ngoài trời. Dù chúng tôi mới
có mấy người, nhưng từ lúc ấy, dù là ban đêm, trên đồng cỏ cũng có ánh đèn thức
và bắt đầu từ vụ cày đầu xuân năm ấy, chúng tôi đã mắc điện sáng lên để cày, gặt
cả đêm, dù đồng cỏ muốn ngủ cũng không thể ngủ được với chúng tôi! Giấc ngủ vạn
triệu năm của đồng cỏ đã bị phá tan!
Những người đầu tiên tới đây là những người Đảng viên Cộng sản
những người lĩnh trách nhiệm khai phá. Nhưng sau đó, nông trường chúng tôi có sức
hấp dẫn ngay và thanh niên các nơi kéo đến rất nhiều. Bây giờ, nông trường
chúng tôi, Đảng viên Cộng sản chiếm tỉ lệ mười phần trăm, Đoàn viên Thanh niên
Cộng sản là mười tám phần trăm. Sau bốn năm, Đảng kết nạp được hai mươi Đảng
viên, toàn là những người xuất sắc trong các chiến sĩ thi đua. Những Đảng viên
Cộng sản ở đây đều chiến đấu gương mẫu, họ vừa có tác dụng lãnh đạo, vừa làm
cho người Đảng viên và người ngoài Đảng kết hợp thành một khối, ra sức làm biến
đổi đồng hoang.
Lúc đầu, chúng tôi đến những làng địa phương hiểu biết vùng
này, rồi chúng tôi tìm ra một nơi gần nguồn nước, thế là quyết định lập nên cái
làng đầu tiên ở đây.
Có chỗ đứng chân rồi, chúng tôi vạch hướng mở mang. Nông trường
của chúng tôi sẽ khẩn hoang trên những khoảng sa mạc có cát lẫn đất với cỏ và
những khoảng chỉ toàn đồng cỏ. Ruộng và mọi công cuộc chăn nuôi của chúng tôi sẽ
phát triển theo hướng trước mặt tiến về hồ Ban-khát, bên cạnh có con đường Lụa
xuyên qua. Chúng tôi bắt đầu khoan đất đào những giếng hút nước cho cừu uống.
Khi người ở các nơi dần dần tới, chúng tôi tổ chức thành những
đội sản xuất. Tất cả chúng tôi, từ chủ tịch nông trường đến cán bộ tổ chức, ai
cũng phải ở trong đội sản xuất làm đội viên, bất cứ ai. Chúng tôi được tỉnh Rốt-tô
cung cấp cho bảy mươi cán bộ kỹ thuật. Đoàn Thanh niên Cộng sản phát động phong
trào vận động thanh niên toàn quốc đi khai hoang. Đợt đầu, chúng tôi nhận hai
trăm người được giới thiệu tới - con số ấy cứ lên dần, tới nay tổng số cả người
làm và gia đình ở nông trường chúng tôi đã trên một vạn người. Người ở tất cả mọi
nơi tới và mọi dân tộc cùng tham gia khai hoang. Tính ra, nông trường chúng tôi
có mười hai dân tộc. Có người xa nhất ở Hải-sâm-uy phía đông và từ Lê-nin-grát
phía bắc tới. Nhiều người đến thấy ở đây công việc tốt lại giới thiệu thêm người
quen biết tới. Một điều đặc biệt là từ đầu năm nay, chúng tôi nhận được nhiều
đơn xin đến làm việc.
Từ khi có đông người, chúng tôi đã đóng được những căn nhà gỗ
có bánh xe để ở, không phải ở lều bạt nữa. Chúng tôi nung gạch, có xi măng,
chúng tôi làm nhà, vạch ra các đường phố, bắt tay xây dựng thị trấn. Lúc này đã
có nhiều phụ nữ tới làm việc. Không phải ở lều, các chị thích nhất. Bởi vì ở lều
căng giữa đồng cỏ, chẳng mấy đêm là không phải đuổi đánh những con rắn bò vào nằm
quanh bạt. Các chị rất sợ rắn. Mà trong thảo nguyên chúng tôi thì rắn nhiều như
cỏ, chỗ nào cũng có!
Vui nhất là đến kỳ chúng tôi gieo lúa mùa đầu tiên. Chúng tôi
gieo lúa trước lúc tuyết sa. Vui lắm, bởi vì khi đã gieo được lúa thì cũng như
trông thấy một phần hy vọng tới trước mắt rồi.
Sang năm 1956, nông trường đã có lò làm bánh, có bệnh viện,
có trường học cấp 1, cấp 2, có hiệu ăn và cửa hàng bách hóa. Có những người
thanh niên đã yêu nhau, rồi lấy nhau ở đây. Có những đứa trẻ đã được sinh ra ở
đây, cái tên nơi sinh của em bé trên tờ giấy khai sinh là chữ Cát-kê-liên-xki
chưa hề có bao giờ trên trái đất, nay do chính công sức mình xây dựng, đặt tên
cho nó và đem chữ Cát-kê-liên-xki thân yêu ghi vào kỉ niệm của hạnh phúc đôi vợ
chồng. Năm ngoái, có hai trăm trẻ sinh ở nông trường Cát-kê-liên-xki. Năm nay
thì số sinh nhiều quá, chúng tôi chưa thống kê…
°
° °
Nói đến câu lý thú ấy, đồng chí Cô-sên-ny cười ha hả, bây giờ
chúng tôi đã đang ngồi giữa hiệu ăn của nông trường. Cô-sên-ny cười khoái trá,
sóng sánh cả chén rượu cầm tay…
Đồng chí Cô-sên-ny nói:
- Năm ngoái có ba phóng viên báo Mỹ tới thăm nông trường
chúng tôi. Chúng tôi không biết họ đã viết những gì về chúng tôi. Nhưng, họ có
hỏi tôi rằng tại sao tự dưng tôi lại bỏ rơi quê hương tốt đẹp sung sướng U-cờ-ren
mà vào làm việc ở nơi đồng hoang gian khổ này? Vì lẽ gì ghê gớm vậy? Buồn cười
là khi tôi kể cho họ nghe những nguyên nhân thật, những ý nghĩa của lòng tôi,
lúc tôi quyết định đi Ca-dắc-xtan, thì họ lại tưởng là tôi nói “tuyên truyền”.
Thật ra, có nói đúng như thế và dù họ có hỏi như thế, thì tôi cho rằng những
nhà báo Mỹ ấy cũng không hiểu được. Họ không hiểu được người Xô Viết chúng tôi,
bao giờ cũng vậy, và việc gì cũng vậy, khi ở đâu mà Tổ quốc cần tới, thì chúng
tôi tới. Lẽ giản dị ấy cũng là lẽ chính, chỉ có thế thôi…
Giữa lúc ấy, từ ngoài phòng bước vào một người đã luống tuổi,
trán hói lên tận đỉnh, mặt đỏ như một quả táo chín. Người ấy buông khẩu súng
săn vào một góc phòng, rồi ồn ào chạy lại phía chúng tôi, kéo ghế, tíu tít chạy
lấy cốc, lấy đĩa rồi ngồi vào tự lấy thức ăn luôn cho mình. Ấy là đồng chí
Vôn-cốp, phó chủ tịch nông trường, người rất thích đi săn và bắn rất giỏi. Người
già nhưng tính trẻ, rất vui, rất ồn. Nghe có người nói nông trường có khách xa
tới chơi, đồng chí bỏ cuộc săn chạy về ngay. Đồng chí ấy vốn gốc dân tộc Nga.
Ngày xưa, cha mẹ bị vua Nga bắt đi đày vào vùng sa mạc Ca-dắc-xtan, đồng chí
Vôn-cốp đã sinh ra và lớn lên trong sa mạc và thành quê hương ở đây. Đồng chí ấy
là một trong những chiến sĩ đầu tiên đứng dậy giành chính quyền hưởng ứng Cách
mạng tháng Mười ở Ca-dắc-xtan. Đồng chí Vôn-cốp vừa nói chuyện đi săn vừa uống
rượu. Từ nãy hình như có một trời thảo nguyên man dại, một không khí săn bắn ở
thảo nguyên ồ cả vào với Vôn-cốp. Trên đầu người thợ săn có chim đại bàng nuôi
từ thuở bé bay theo, mỗi lần chim đuổi báo được một con cáo, đánh hơi được con
chó sói, khi người thợ săn hạ được con vật thì chia ngay cho đại bàng một miếng
thịt, đại bàng đậu lên vai người thợ săn, chén xong thịt lại bay đi tìm mồi,
càng tìm càng hăng hơn. Dưới đất, người thợ săn Vôn-cốp và ngựa, và chó rầm rập
chạy theo đại bàng đuổi ở trên. Đồng chí Vôn-cốp vừa đi săn chó sói theo lối
săn của người Ca-dắc đấy.
Tôi để ý thấy nhà thơ Ốc-ma-nốp Ga-li, người cùng đi với
chúng tôi từ An-ma A-ta về đây, đồng chí ấy vừa cùng uống với phó chủ tịch
Vôn-cốp đến hai cốc liền. Hai người có vẻ thích thú nhau lắm. Có lẽ trong tất cả
những người ngồi quanh đây, họ là những người già, đã sống nhiều giữa hai chế độ,
họ có tâm sự của những người vào cùng lứa tuổi ấy.
Lúc ấy, đồng chí Ốc-ma-nốp yêu cầu mọi người hãy im lặng để đồng
chí ấy nói. Câu nói ngắt mấy quãng, đồng chí ấy ho, vì xúc cảm, vì già yếu.
Đồng chí Ốc-ma-nốp nói:
- Tôi là một người Ca-dắc ở bờ sông Y-ly, trên đường từ đây tới
hồ Ban-khát. Năm nay tôi sáu mươi ba tuổi. Thuở bé, tôi là người con trai không
được phúc, tôi không có một manh áo, phải đi ở cho bọn chủ nô, không được ăn,
chỉ bị đánh đập. Năm tôi hai mươi hai tuổi, sau Cách mạng tháng Mười mới được học
chữ. Rồi tôi làm thơ, tôi trở thành nhà thơ của dân tộc Ca-dắc. Tôi còn biết
nói thế nào nữa! Chúng tôi là Ca-dắc trước ở đồng cỏ và sa mạc, không bao giờ gặp
ai. Nay chúng tôi trở thành kỹ sư, bác học, thành người thợ, thành nhà văn, và
chúng tôi có rất nhiều bạn trên thế giới.
Cả những bàn ăn bên cạnh lúc ấy cũng im lặng. Đồng chí Ốc-ma-nốp
nói xong đã lâu mà im lặng vẫn triền miên lắng xuống. Nghe trong phòng bếp đưa
ra tiếng mỡ đổ rào rào và mùi thơm bay tỏa lựng. Vẫn nhiều người đem ca, đem cặp
lồng đến mua thức ăn mang về nhà. Ngoài kia, một đám trẻ vừa tan trường cứ giỡn
nhau chạy văng mạng trong bùn lội và cười như nắc nẻ. Không khí lặng lẽ của bàn
tiệc bỗng trở nên hồi hộp. Trên nét mặt vui hồng của mọi người, dường như phảng
phất trở lại một ánh dĩ vãng chẳng bao giờ còn nữa.
Tôi đột nhiên nhớ đến nhà thơ bạn tôi, anh Bàn Tài Đoàn người
Dao, và tôi tha thiết nhớ đến các bạn của tôi, những anh Bàn Văn Chẩn, anh Triệu
Văn Hương, chị Liễu, chị Pin, những bạn dân tộc Dao của tôi ở trên đỉnh núi Cứu
quốc mà trong kháng chiến, tôi đã từng có khi chung sống với các bạn. Đồng chí Ốc-ma-nốp
kính mến của tôi ơi, tôi trông thấy những hình ảnh lẫn lộn dĩ vãng và tương lai
trong câu nói của đồng chí, và trong bóng dáng của đồng chí đứng đây có cả bóng
tôi và bóng những người bạn của tôi ở quê nhà.
Nông trường khai hoang
Cát-kê-liên-xki
CHÚNG TÔI đi dạo một vòng quanh thị trấn Cát-kê-liên-xki. Rất
đủ tư cách là một thị trấn. Lại cũng có thể nói rằng giữa những rừng ruộng đã
khai hoang và chưa khai hoang, mênh mông, bát ngát, mù mịt, cả ngày đi không gặp
một người, đây là một thị trấn hùng vĩ! Đường rất rộng, cũng rất lầy lội - tuy
còn lầy lội, và cũng chỉ mới có trụ sở và trường học nhà ba tầng, nhưng nông
trường đã cắm sẵn đất định ra và trồng cây thành hình những con đường khác lắm.
Mà thật vậy, khi đã bước từ con số không đến lúc thành hàng chục vạn mẫu ruộng
chỉ trong vài năm thì làm một thị trấn nhỏ, xây một thành phố nằm giữa thảo
nguyên không thể gọi là khó được.
Chúng tôi vào cửa hàng bách hóa, cửa hàng bán thực phẩm. Người
mua bán buổi chiều đương tíu tít. Chúng tôi đến nhà thương, trường học. Trường
học vừa xong trường sở mới. Ban thanh tra quận về kiểm tra qui cách xây dựng.
Có một lúc, tôi đứng lại giữa ngã tư “đại lộ” khai hoang của
thị trấn. Những cây mặt trời cao lêu đêu, mặt hoa tròn vàng, buổi chiều ngoẹo đầu
buồn ngủ theo mặt trời. Tôi nhìn toàn cảnh suốt phố chính, hai bên lô xô mái mới,
tường mới. Hiếm cây, không như những vùng đồng quê phì nhiêu, nhà đều dựng vách
gỗ nằm ngang, kiểu nhà cổ Nga. Ở đây, nhà nào cũng mái ngói, tường xây. Nhưng vẫn
giữ phong vị đặc biệt của làng Nga, cái thì màu vàng, cái màu xanh, cái màu đỏ,
như từng miếng lụa màu, tùy thích mỗi nhà. Mỗi cái nhà giữa vườn cây xinh như một
bài thơ nhỏ. Chúng tôi lại vào chơi một nhà gần nhất, ngay đầu ngã tư.
Chủ nhà, đồng chí Vat-gô-lơ-xơ, cán bộ kỹ thuật, đi vắng. Có
vợ và bà mẹ ở nhà. Mẹ chồng, nàng dâu hớn hở chạy cả ra thềm hè đón chúng tôi.
Nhà này do tay hai vợ chồng làm đấy, đã được hai năm nay. Khi mới đến đây làm
việc, vợ chồng Vat-gô-lơ-xơ cũng ở nhà tập thể của nông trường. Nhưng, được
nông trường khuyến khích, nhiều người đã ra làm lấy nhà ở. Làm xong nhà, đồng
chí Vat-gô-lơ-xơ đón mẹ tận Ki-ep vào ở. Chị Vat-gô-lơ-xơ kể cho nghe rằng làm
được cái nhà, thật khó nhọc, mà cũng thật thú vị. Anh chị em tổ sản xuất đã để
giờ nghỉ giúp họ nung gạch, đào móng, đắp nền… Cứ thế dần dần dựng nên nhà cửa,
như kiến tha lâu đầy tổ.
Căn nhà bốn buồng, có bếp hơi, có ống sưởi nước nóng chạy các
phòng, có ra-đi-ô. Xung quanh nhà trồng hàng chục cây táo, cành lá đã rườm rà cả
vào trong cửa sổ. Có hai cây đã ra quả. Trẻ con đã được chén táo vườn nhà từ
mùa này. Chị Vat-gô-lơ-xơ đương cọ sân, bỏ đấy, tay còn cầm cả mảnh giẻ ướt cứ
đi theo chúng tôi. Bà mẹ vừa ở bếp chạy ra, còn quấn cái khăn bếp ngang người,
cứ vui vẻ cằn nhằn rằng chúng tôi mãi tận đâu đâu đến, sao chẳng ở chơi nhà ăn
một bữa cơm! Một em bé đương chơi với con chó ở đầu nhà. Thấy khách lạ, nhưng
trẻ con và chó vẫn mải đùa cười, không để ý. Cửa sau cài kỹ hai chiếc then gỗ.
Mấy chú ngỗng nghịch ngợm đằng chuồng sau nhà cứ gãi mỏ vào cái then cửa rồi chỉ
đành thò cổ lên nhìn vào mà thôi. Nhà trước vườn sau thật là ngăn nắp. Những tiếng
động dịu dàng trong thanh vắng buổi chiều. Ở đây người ta có cả những cần thiết
hàng ngày, nhưng hoàn toàn không có những ồn tạp dữ dội thành phố. Đây cũng là
một lối sống kiểu mẫu của nông thôn điện khí hóa. Quả là một bài thơ, một bài
thơ “bên suối” mong ước của những cặp vợ chồng trẻ, của hai người yêu nhau, bất
cứ ở quê hương nào trên trái đất này.
Ở nhà Vat-gô-lơ-xơ ra, chúng tôi tới đầu phố xem giếng nước.
Giữa thảo nguyên xác xơ, giếng nước quý vô ngần. Thị trấn này có bốn giếng nước,
ở nhà riêng, có cửa và khóa cẩn thận. Giếng là một đường thuốn sâu vào lòng đất
125 thước, mỗi giây đồng hồ lấy lên được mười lít nước đổ vào bể chứa.
Nhà thơ Ốc-ma-nốp cúi xuống, vốc tay vào vòi nước lạnh, vốc uống
luôn mấy ngụm. Rồi cứ đứng ngây nhìn mãi, nhìn mãi dòng nước bật từ ruột đất
lên. Nước ở đồng cỏ hiếm lắm. Ông già ấy chưa bao giờ thấy nước ở chỗ này. Ông
già Ca-dắc Ốc-ma-nốp cứ run run nói, như khóc:
- Đã biết bao thay đổi sung sướng ở quê hương tôi. Nhưng chưa
lần nào tôi đã uống một ngụm nước lành từ lòng đất sâu 125 thước lên. Ngày xưa,
đây là đồng cỏ hoang. Hàng năm tôi vẫn chăn ngựa qua đây. Hôm nay, cũng đồng cỏ
hoang này tôi trông thấy nước trong lòng đất mà chính quyền Xô Viết bắt phun
lên, tôi lại ăn bánh mì, dưa đỏ, thịt vịt giữa nơi xưa người Ca-dắc không bao
giờ dám nghĩ có ngày như thế này.
Nông trường Cát-kê-liên-xki được nhà nước cho vay vốn ba năm
đầu. Vì có nhiều máy để làm cho nên công khai hoang cũng không đắt. Nông trường
đã trả hết vốn vay Nhà nước từ 1958. Ngày nay, chẳng những đã tự túc được lương
ăn, lại còn có lãi để ra. Nhưng không phải số thu hoạch từ 1955 tới nay chỉ
tăng lên và cái gì cũng thuận lợi. Đã trải qua nhiều vấp váp gay go. Năm 1955 mới
mẻ, nông trường bắt đầu gặt được mỗi hec-ta 700 cân. Năm 1956 thu mỗi hec-ta
1.460 cân. Sang 1957, nhiều cánh đồng đại hạn cháy khô (Hiện nay, nông trường
Cát-kê-liên-xki đương xây một hồ chứa nước để tiêu diệt vĩnh viễn nạn hạn hán).
Năm đại hạn, đổ đồng mỗi hec-ta chỉ được 250 cân. Vậy mà sang 1958, nông trường
đã ra sức vượt lên được giải thi đua khá nhất các nông trường khai hoang toàn Ca-dắc-xtan.
Và sang 1959, nông trường đã bán cho Nhà nước 33.000 tấn lúa - không kể số thóc
để giống. Tính thành tiền số thóc bán cho Nhà nước từng năm - chưa kể tiền bán
các thứ rau, thịt và thực phẩm khác, trông những con số sinh động ấy cũng thấy
được sức sống nông trường:
1955 bán cho Nhà nước 1.700.000 rup (năm đầu).
1956 bán cho Nhà nước 10.120.000 rup.
1957 bán cho Nhà nước 2.700.000 rup (năm hạn hán).
1958 bán cho Nhà nước 20.400.000 rup.
1959 (đương bán, đã trên 17 triệu rup).
Năm hạn hán, công việc thất bại, phải vay tiền Nhà nước để trả
công, có một số người chán nản bỏ đi nơi khác. Tới năm sau, nghe tin thu hoạch
gấp bội, những người bỏ đi lại trở lại xin việc làm. Sau đấy, nông trường rút
kinh nghiệm, tổ chức canh tác toàn diện hơn. Như vậy, nếu mất mùa lúa thì những
thứ trồng trọt hoặc chăn nuôi khác có thể đỡ đòn cho chính vụ được.
Bởi vậy, mặc dầu ngay từ năm đầu, nông trường đã nuôi 356 bò,
2.100 cừu và nhiều ngựa. Sau năm đại hạn, lại phát triển chăn nuôi mạnh hơn nữa.
Tới nay, đã có 2.000 bò (550 bò cái), 1.100 lợn, 54.000 cừu, 3.500 gà vịt, 600
con ngựa. Hoàn toàn trăm phần trăm người dân tộc Ca-dắc chuyên nghề chăn nuôi.
Nuôi bò cái, lợn gà là công việc của các chị. Toán trưởng chăn nuôi là các cụ
già Ca-dắc. Các cụ Ca-dắc chăn ngựa, bò, cừu giỏi tuyệt. Nhưng các phó toán và
người phụ việc đều là thanh niên, vừa làm vừa được các cụ già truyền nghề. Những
người chăn nuôi vẫn đi du mục, có nhà lều đem theo, như người du mục ngày trước.
Có khi đi xa hàng mấy trăm cây số mới tìm được một đồng cỏ mỏng tuyết. Nhưng,
khác ngày trước, bây giờ chỉ có công nhân nông trường làm nghề chăn nuôi đi du
mục. Gia đình người ấy thì ở nhà tại thị trấn Cát-kê-liên-xki. Con nhỏ thì gửi
ký túc xá. Và ngày xưa, người phải đi du mục là vì bị thời tiết và chủ nô đuổi
hết vùng này qua vùng khác, bây giờ họ chỉ đưa cừu đi theo cỏ “gút san” (một thứ
cỏ, cừu ưa ăn nhất). Mùa đông, đưa cừu đến những vùng tuyết còn mỏng, cỏ “gút
san” vẫn mọc và cừu gặm cả cỏ lẫn tuyết mỏng, y như vừa ăn vừa uống. Và bây giờ
không phải cứ rạc chân đi, bây giờ đã có ô tô tải cừu, ngựa và người đi tìm cỏ
“gút san”.
Hiện nay, nông trường có trên một ngàn người lao động trong
các tổ sản xuất. (Kể cả trẻ em và người già của gia đình công nhân là trên một
vạn người). Những lúc vội việc như gặt hái, đào đắp hồ chứa nước thì các thành
phố lớn lại gửi người các trường, nhà máy, cơ quan về làm giúp - hoặc là trong
các dịp nghỉ hè, nông trường thường nhận học sinh đến tập làm.
Toàn nông trường chia thành bốn khu vực sản xuất, gồm có:
8 đội làm ruộng,
3 đội trồng rau,
3 nhà nuôi cừu, ngựa,
3 nhà nuôi bò sữa,
5 nhà nuôi lợn, gà vịt.
Trạm máy kéo có 130 máy kéo. Riêng việc trồng lúa, từ lúc
gieo tới lúc gặt, hoàn toàn làm bằng máy.
Nông trường trả lương người làm theo hai cách: lương tháng và
khoán. Hầu hết đã trả theo khoán. Nhưng quan trọng hơn cả là vấn đề thưởng năng
suất, khi làm cùng thời gian ấy và ngắn hơn nữa, mà công việc đảm bảo chất lượng.
Thưởng năng suất có một tác dụng quyết định cho nội dung thi đua. Tiền lương
trung bình một người lái máy kéo, mỗi tháng 1.200 rup. Những nghề khó được trả
cao hơn. Những nghề đơn giản trả ít hơn. Nhưng tiền thưởng năng suất nhiều khi
nhiều hơn tiền lương. Một người lái máy kéo vượt năng suất có thể thu tiền thưởng
được từ 2.000 rup tới 6.000 rup. Một người chăn nuôi vượt kế hoạch về lông cừu,
về thịt, về giống má… có thể được thưởng từ 9.000 rup tới 10.500 rup trong khoảng
đã được khoán việc.
Tôi đã giới thiệu vài con số ý nghĩa. Xem những con số trên,
con số thu hoạch của nông trường Cát-kê-liên-xki, con số thu hoạch của mỗi công
nhân, chúng ta đã thấy chắc chắn từng năm một tăng lên và tăng nhiều. Đời sống
Cát-kê-liên-xki cứ sung túc trông thấy. Ai cũng biết những người đầu tiên đến
đây khai phá, như chủ tịch Cô-sên-ny, đã đi xe trượt tuyết tới và ở lều căng giữa
đồng hoang. Người Ca-dắc và người các nơi đến làm việc, nhiều lắm cũng chỉ xách
theo vài vali quần áo mà thôi. Thế mà bây giờ, ở Cát-kê-liên-xki, nhà cửa mọc
như bát úp, nhà nhà người người sầm uất, tấp nập. Trẻ đi học mỗi năm mỗi nhiều.
Trường trung học hết lớp 10 có 400 học sinh; lớp tốt nghiệp đầu tiên đã thi ra
trong năm nay. Đấy là lớp học cho trẻ, không kể những lớp học nghề thường xuyên
mở, như lớp lái máy kéo, lớp lái máy gặt đập. Hiệu ăn, hiệu bách hóa, hiệu
sách, câu lạc bộ và rạp chiếu phim hàng ngày mở, ngày nào cũng có hai buổi chiếu
phim.
Tôi chú ý một số thống kê nho nhỏ trong gia đình. Con số biết
nói nhiều:
Nhà nào cũng có ra-đi-ô;
36 nhà có máy vô tuyến truyền hình;
400 nhà có xe mô tô;
8 nhà có ô tô du lịch hiệu “Thắng lợi”.
Tôi tưởng rằng, từ thảo nguyên gió cuốn bay người, bay cả mùa
màng đất cát, từ những người chỉ đem đến đây sức lực và trí thông minh, thế mà
bốn năm qua, đã biến đổi được đồng hoang thành nơi đô hội đông đảo, tươi vui
như thế. “Nông trường khai hoang Cát-kê-liên-xki - nhà thơ Ốc-ma-nốp bảo tôi,
cũng tương đương như 726 cái nông trường khai hoang khác ở Ca-dắc-xtan”. Vậy
thì những thay trời đổi đất trong nơi hoang vu này đương thành công rực rỡ như
thế nào!
Trên thảo nguyên mùa đông thường có những buổi chiều rực đỏ
và im lặng lạ thường. Những lúc ấy, bóng người đi trong cánh đồng đã gợi nên những
ý nghĩa đặc biệt, như tôi đã trông thấy bóng nhà thơ Ốc-ma-nốp đương đi kia -
những nét rất Ca-dắc trên khuôn mặt vuông, to, lưỡng quyền nở bạnh, nước da
ngăm đen bóng như rám nắng. Đấy là một người Ca-dắc già đương lảo đảo cưỡi con
lạc đà qua một vùng vừa cát vừa cỏ “gú san” hiu quạnh. Đấy cũng lại là nhà thơ
Ca-dắc nổi tiếng đương cùng tôi đi chơi buổi trong chiều thảo nguyên đỏ rực và
im lặng dị thường.
Tai tôi nghe thấy Ốc-ma-nốp kể rằng:
- Nơi đồng cỏ hiện nay là nông trường Cát-kê-liên-xki nằm giữa
hai con sông Cát-kê-liên và sông Ac-say, trước kia chỉ có người du mục qua lại.
Người đi hút bóng mất vào sa mạc. Hai dòng sông nhỏ ấy, mỗi năm tới đầu xuân
tuyết tan, nước băng chảy qua rồi thì lòng sông lại cạn khô, lại như những con
sông khó nhọc khác, nước mòn đi, biến lặng lẽ vào sa mạc ghê gớm. Mùa hè thì
người du mục chúng tôi ở trên núi, mùa đông thì xuống quãng chỗ những nhà nuôi
gà vịt của nông trường bây giờ. Tôi còn nhớ, từ chỗ nhà ga xe lửa rẽ vào đồng cỏ
tới chỗ quãng đồi nuôi gà vịt, có một họ Ca-dắc Bai-tê-lêt-sơ rất nghèo thường
trú chân ở đấy. Mỗi năm, họ Bai-tê-lêt-sơ ở trên núi xuống khi mùa đông đến, thấy
nhà lều càng ít hơn, và những cái còn lại thì thủng rách hơn, khói thổi nấu
càng thưa thớt nhiều. Tới Cách mạng tháng Mười thì chỉ còn vài nhà sống sót.
Chao ôi, đó là dòng họ Bai-tê-lêt-sơ của tôi, mà hôm nay tôi còn sống sót đây.
Không biết từ bao giờ, người Ca-dắc không biết trồng lúa, không có bánh ăn,
không biết trồng bông, không có vải mặc. Cứ mùa thu tới thì ở đâu đâu cũng lại
tìm về nơi đồng không ấm áp có lái buôn Trung Quốc vượt Thiên Sơn sang để bán
cho lái buôn nào lông cừu, nào thịt cừu để đổi lấy tiền và đổi lấy vải. Nhưng
bao giờ, bán hết các thứ có, cũng chỉ đủ ăn cho đến hết mùa xuân. Sau Cách mạng
tháng Mười, không còn phong kiến chủ nô, ở nhà mái lều da trắng nữa. Dân tộc
Ca-dắc vui sướng được ở một chỗ. Theo lời khuyên của Đảng, chúng tôi đã làm nhà
ở và vạch lấy ruộng mà làm. Người Ca-dắc không bao giờ biết có ruộng đất, cho
nên chúng tôi đã lập ngay những nông trang tập thể từ năm 1920. Bởi một lẽ dễ
hiểu là dù chúng tôi đã có đất, nhưng có đất mà không đủ nông cụ, thành thử vẫn
đói. Cho nên, phải cần có sức mạnh tập thể, phải tổ chức nông trang, chiến đấu
dữ dội với thiên nhiên, mới có thể no ấm được. Từ trước, người Ca-dắc phải cùng
ngựa và lạc đà vật lộn khó nhọc với đất mới ra được miếng ăn. Bây giờ người
Ca-dắc đã bắt máy móc vật lộn với đất để phục vụ người Ca-dắc. Trước kia, đất
ác như dì ghẻ. Bây giờ đất đã là mẹ và chúng tôi là con trai của mẹ rồi.
Chiều hôm nay, ông già Ốc-ma-nốp đề sổ lưu niệm nông trường mấy
câu thơ:
Sông Cát-kê-liên yêu dấu
Tôi đã sinh ra trên bờ sông
Hôm nay trở lại
Rất nhiều thay đổi
Biết bao vui sướng
Được sống mà thấy những thay đổi này.
Cảm tưởng Ca-dắc-xtan ư? Ca-dắc-xtan, một dải lục địa đất đen
lẫn đất vàng, quanh năm gió thổi bay cả đất, cả người, sa mạc và thảo nguyên
mênh mông khuất tầm mắt, bao đời chỉ có người du mục đem cừu, ngựa và lạc đà lang
thang khắp chân trời.
Tới Ca-dắc-xtan, tôi vẫn thấy những cảnh ấy, thấy những vùng
đồng cỏ khi phẳng lặng, khi nhấp nhô như sóng biển xô đến tận cuối trời im lặng
không viền một mép núi, một chân rừng. Cũng những cảnh ấy, nhưng tôi chỉ thấy sức
người ghê gớm và dữ dội nhất. Tôi đã trông thấy những thành phố, những thị trấn
giàu có. Người ta ở trong nhà, có trẻ con chơi trước cửa. Không đâu còn cuộc sống
lang thang. Tôi đã chỉ thấy người và máy móc tấn công trời đất mà thôi. Thảo
nguyên mênh mông cứ bị cạo trọc mãi, sa mạc hoang vu cứ bị đẩy lùi và đã rút được
từ trong ruột đất lên những dòng nước quý báu mát trong. Ở đây, chỉ có con người
là chiến sĩ, đương khống chế thiên nhiên. Nông trường khai hoang
Cát-kê-liên-xki cũng như hơn bảy trăm nồng trường Cộng sản Chủ nghĩa tiến lên
chinh phục hẳn cả đất trời.
Hôm giã từ Ca-dắc-xtan, ở sân bay An-ma A-ta, tôi đi lúc năm
giờ rưỡi. Trời chưa sáng hẳn. Không trung, thưa thớt, nhưng chói lói những vì
sao to, tạc ánh sao đêm xanh, rất xanh vào cửa sổ. May mắn và kỳ lạ, tôi đương
đợi xem một buổi sáng đến trên trời cao.
Tôi đã thấy, và thấy rất lạ, một buổi sáng trên trời cao. Năm
giờ rưỡi sáng An-ma A-ta mới là ba giờ rưỡi đêm Mát-xcơ-va. Khi máy bay từ phía
tây bắc lên thì buổi sáng cũng từ phía tây bắc cùng lên. Cả một nửa trái đất
phía sau lưng tôi ửng hồng, ráng ửng hồng cứ tỏa mãi lên đuổi bóng tối tan dần
trước mặt. Ánh sáng và bóng đêm đuổi nhau cứ kéo dài, vì máy bay cứ bay cùng buổi
sáng đương chạy lên. Cho tới Mát-xcơ-va thì trời Mát-xcơ-va vừa dựng sáng.
Ca-dắc-xtan cũng như buổi sáng đương lên mà tôi được trông thấy.
Và khi sáng tưng bừng thì vừa tới Mát-xcơ-va, như Mát-xcơ-va. Đó cũng lại là cảm
tưởng Ca-dắc-xtan của tôi.
Mùa thu Lê-nin-grát
AI ĐÃ CÓ LẦN đến thành phố Lê-nin hẳn dễ cùng một cảm nghĩ với
tôi là tới thăm thành phố nhiều bảo tàng nhất thế giới này bằng cách đáp tàu hỏa
“Mũi tên đỏ” số 6 Mát-xcơ-va - Lê-nin-grát, mỗi đêm tàu rời bến Mát-xcơ-va đúng
8 giờ 15 phút, tới Lê-nin-grát vừa 7 giờ và chiếc kim phút nhích xuống số 3
trên mặt chiếc đồng hồ lớn trước ga vừa dựng sáng.
Suốt đêm chín trăm cây số, tàu chỉ dừng một lần giữa đường ga
Ôtiapkaia - giấc ngủ của khách đi đường cứ bồng bềnh trên song đường sắt và khi
bừng mắt, đã thấy mình lướt vào mùa thu giữa những rừng thưa lá đương lác đác chớm
vàng, những gò cỏ mới cắt vun lên như cây rơm, những mặt nước phẳng lặng lấp
loáng và rồi con tàu vào giữa hai bên những bức tường nhà máy, những đại lộ nhà
mười tầng. Lê-nin-grát đặc biệt không có những loi thoi, so le nhà cửa ngoại ô
mà chỉ vừa qua khoảng đầm nước và một vùng rừng thưa, đã vào ngay trung tâm
nguy nga của đường phố.
Mùa thu tuyệt đẹp đã về trên thành phố cảng chằng chịt cửa
sông và những con sông, con hồ - Lê-nin-grát có 66 sông, trên 100 hồ với 620
cây cầu qua lại. Cứ nửa đêm - những đêm trắng như bây giờ, hai vế của 20 chiếc
cầu dựng đứng trên sông Nêva mở cho tàu ngoài vào bến, như những đôi cánh khổng
lồ vỗ lên.
Tôi thơ thẩn qua cầu tượng Bắt Ngựa dọc sông Môica. Chắc chỉ
vài hôm nữa, tuyết lại xuống bời bời trên nhánh sông nhỏ này mà truyện Những
con bạc của Đôt-tôi-ep-sky đã tả tỉ mỉ làn tuyết sa và từng miếng đồng gắn
trên lan can chiếc cầu cong chênh vênh. Cái nhân vật đánh bạc khát nước thua
cháy túi kia đứng ngập chân trong đống tuyết, anh ta đương nghĩ hay đương sắp
đâm đầu xuống mặt băng khép lại. Sông Môica trước mặt tôi, ánh nước bây giờ
sáng mờ như lưng áo lụa trắng của những ai lưu luyến bóng đêm mùa hạ còn rớt lại.
Ngót ba mươi năm trước, có lần tôi gặp một bà quê ở cảng
Ô-đét-xa phương nam, năm ấy đã ngoài sáu mươi mà gần cả đời người cứ hai năm một
lần, bà lên Lê-nin-grát, đi xem bảo tàng “Ở ẩn” (Écmitagiơ). Bao giờ cũng vẫn
tưởng như chưa xem hết. Chẳng biết lần này có còn gặp được cụ Nina. Vâng,
Lê-nin-grát, bảo tàng khổng lồ của lịch sử, của truyền thống, của hiện đại.
Lê-nin-grát 900 ngày đêm chống Đức quốc xã bao vây, tàn phá. Lê-nin-grát với
con đường sống qua hồ đóng băng Lagôda. Lê-nin-grát của trời và nước Radơlíp,
mà anh bạn nhà văn Lê-nin-grát, Rít-khiêu của tôi năm trước thăm Cao Bằng về đã
viết một bài ký nổi tiếng thế giới Từ Radơlip đến Pác Bó . Cái khách
sạn Anh bên cạnh khách sạn Attôria trên quảng trường thánh Isắc, nhà thơ
Etxênin đã ở đấy với người vợ Mỹ những ngày sau cùng. Bãi đá sỏi bên sông Đen,
chỗ Pus-kin đấu súng tử nạn. Hầu như tất cả các nhà văn tài hoa của đất nước đều
có di tích ở đây, từ Gôgôn đến Maia, thật không ai, không khi nào có thể biết
cho hết được cái muôn vẻ Lê-nin-grát.
Tôi cứ tự dưng trở lại lâu dài Smôny, vốn là trường nữ Smôny
có từ năm 1808. Ở đấy, đại bản doanh Cách mạng tháng Mười, nhà báo cộng sản Mỹ
Giôn Rít đã chứng kiến “10 ngày rung chuyển thế giới”. Bảo tàng Smôny hôm nay vẫn
đương là cơ quan làm việc của Thành ủy Lê-nin-grát.
Vẫn là bảo tàng, mà lại là nơi tấp nập mọi công tác điều hành
hàng ngày của đảng bộ thành phố. Lê-nin rời nơi hoạt động bí mật của Radơlíp vượt
biên giới sang Phần Lan rồi trở về đặt ban chỉ huy trong ngôi nhà này, lãnh đạo
toàn quốc Tổng khởi nghĩa, sau 124 ngày ở đây rồi rời xuống Mát-xcơ-va. Tất cả
những tuyên bố đầu tiên của chính quyền công nông, những luật về đất, về hòa
bình, về dân tộc, những sáng tạo vĩ đại của chế độ Xô Viết mới nhất trên thế giới
đã ra đời ở căn buồng số 67.
Hôm nay, trước cánh cửa buồng bên trái vẫn còn cái bảng bìa số
buồng và tên bà giáo chủ nhiệm khoa của nhà trường, như 69 năm trước khi tiếng
đại bác tàu Rạng Đông mở đầu cuộc chiến đấu. Lê-nin đã làm việc luôn ở đấy. Những
chiếc ghế gỗ tròn. Cái bút sắt chấm mực. Chiếc máy điện thoại cao lêu đêu kiểu
thế kỷ trước. Cái gối ghếch nghiêng đầu giường, tưởng như con người kỳ diệu ấy
chỉ chợp mắt và lúc nào cũng sẵn sàng bật dậy đến bàn viết, đến máy điện thoại.
Cách mạng và tri thức, thư viện Santykôv Tsêđrin 1785, thư viện
lớn thứ hai ở Liên Xô sau thư viện Lê-nin ở Mát-xcơ-va. Nhưng sách cổ quí hiếm
thì có lẽ không đâu hơn đây. Có những bản viết, bản in đã ngoài hai nghìn năm.
Và có toàn bộ sách thư viện riêng của hoàng đế Na-pô-lê-ông. Thật cảm động, thư
viện có một hiên tác phẩm Việt Nam trên 9.000 cuốn sách nghiên cứu, văn hóa,
văn nghệ.
Lê-nin đã đọc sách ở thư viện này những năm 1985. Sau này,
khi đến ở Luân Đôn ở Pa-ri, người thường gửi sách cho thư viện - nay vẫn giữ.
Nhiều bản thảo của Von-te, và sách thư viện của Vonte đọc có ghi ý kiến, ai
nghiên cứu về Vonte chắc phải đến đây nhiều hơn đến Pa-ri. Cũng như sách của
vua Na-pô-lê-ông có những trang gấp đánh dấu, Na-pô-lê-ông đọc và ghi. Mỗi quyển
của Na-pô-lê-ông gáy sách đều có một chữ N hoa mạ vàng và bên trên có in hình cái
mũ vua!
Tôi lại đến thăm nhà Đôt-tôi-ep-sky. Tôi được may mắn đến nhà
ông Đốt từ cái năm thành phố đương chuẩn bị lấy nơi ở cuối cùng của Đốt làm bảo
tàng. Và bây giờ nơi đây đã thành bảo tàng thật sự. Bạn đọc đã biết nhiều những
chuyện về Đốt. Ông chống nhà vua, bị tội đem ra treo cổ ở quảng trường Cỏ Khô
ngay gần đây. Lúc ông sắp phải chui đầu vào thòng lọng thì án chết được đổi ra
án đày chung thân biệt xứ đi Xi-bê-ri. Và bạn đọc đã biết những bảo tàng sách
và bản thảo của Đốt ở Mát-xcơ-va, ở Kiep, ở Ô-đét-xa. Nhưng đến đây, người yêu
Đốt được thăm nhà Đốt, một ngọn bút viết ra những tác phẩm khủng khiếp có sức
hun cháy gan ruột người ta đến nỗi trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, quốc
xã Đức và phát xít Nhật đã phải ra lệnh hủy sách và cấm đọc Đốt.
Ở cái vui cho ngày hôm nay là được man mác buồn khi ngắm màu
giấy tường nhà hệt màu giấy dán tường vàng nhạt thời kỳ Đốt ở nhà này. Bởi khi
sửa sang làm nhà lưu niệm, người ta lột bỏ những tờ giấy dán tường cũ, tình cờ
bóc đến lớp giấy bồi những tờ báo Pêtrôgrat, xem thấy khớp với năm tháng Đốt ở
buồng ấy. Thì ra vách rách, Đốt đã phải dán mảnh báo lẫn với giấy dán tường.
Cái màu giấy vàng nhờ nhờ, ủ rũ ngày cũng như đêm quanh chiếc bàn viết trơ trọi
mà một hôm ông Đốt đương đau phổi nặng, ông cúi xuống lấy một cái bút rơi và đã
hộc máu ra rồi mất.
Trong nhiều tác phẩm của Đốt thường miêu tả một góc nhà âm u,
không biết là vốn chỗ tường vàng thiểu não thế hay bởi lỗ hổng trần nhà hắt xuống
phản quang một vũng ánh sáng ủ dột ở đầu bậc đá cầu thang, mà lũ mèo các nhà tầng
trên tầng dưới thường tụ tập chỗ ấy, chúng vờn nhau, liếm lông rửa mặt khan cho
nhau rồi âu yếm gào lên. Cảnh ảm đạm này người đọc thường gặp trong các sáng
tác của Đốt.
Cửa buồng ngủ, Đốt treo một cái khay đựng mấy chiếc kẹo giấy
bóng sặc sỡ. Những chiếc kẹo Đốt để sẵn cho hai đứa con nhỏ. Ở trong nhà, mà
thường ít khi các con trông thấy bố. Đốt có thói quen viết đêm, ăn đêm và ngày
ngủ.
Nhưng mà thôi, nói chuyện vui về cuộc đời buồn của
Đôt-tôi-ep-sky có lẽ thích hơn. Cũng ở đây, ở gian buồng u ám đã có một chuyện
đẹp. Mối tình của Đốt với Anna Griôgalêna. Năm ấy, chàng 45 tuổi và nàng vừa
19.
Hồi này Đốt túng bấn đến thảm hại. Viết mấy cũng không trả xuể
được nợ nần chồng chất. Đốt nghĩ ra cách phải viết lúc đọc cho người khác đánh
máy họa chăng mới có thể sáng tác nhanh hơn nữa. Các bạn đã đưa cô Anna đến
đánh máy thuê cho Đốt.
Đốt cho Anna đánh thử một hôm. Cái truyện đặt lên máy đánh chữ
đầu tiên ấy là truyện Những con bạc . Anna đánh nhiều lỗi quá. Đốt bảo
thôi mai cô không phải đến nữa. Nhưng Anna nài nỉ Đốt cho cô thử thêm. Vài hôm,
Anna đã quen lối viết, cách chữa của Đốt. Chẳng bao lâu, Anna đã đánh rất
nhanh, không lỗi. Đốt thật ngạc nhiên (Sau này, cả đời Anna chuyên sắp xếp, tổ
chức bản thảo cho Đốt).
Một ngày kia, Anna đánh máy cho Đốt một tiểu thuyết Đốt vừa
viết xong, chuyện kể về một mối tình thơ mộng, éo le và buồn. Một họa sĩ đã luống
tuổi yêu một cô gái 19 tuổi. Đốt hỏi Anna: Cô thử nghĩ nếu ngoài đời có thật một
chuyện như thế thì người ta nên giải quyết thế nào? Anna nói: Có là người ngu dốt
nhất thì mới ngoảnh mặt đi trước mối tình chân thật nhường ấy.
Thế là họ lấy nhau. Hai người có với nhau một trai, một gái.
Đốt mất năm 61 tuổi. Khi ấy Anna 35 tuổi và bà đã nuôi con, ở vậy suốt đời.
Ở nhà Đốt ra, người chơi Lê-nin-grát bước vào đêm trắng, trời
đất hài hòa như một sự cảm thông. Những đêm Lê-nin-grát tháng bảy khác tháng
sáu, đêm vào thu không trắng mờ suốt sáng mà có một chốc giữa khuya đèn thành
phố lại bật lên, chỉ một chốc thôi. Đêm bát ngát như trăng xuôi chợt điểm một
chấm đen gấu ăn trăng, như thế quả có dịu dàng hơn cái trắng mênh mông dằng dặc
của đêm lẫn với ngày lúc nào không biết.
Khách chơi đêm trắng dọc sông và trên mặt nước đông không thể
tưởng. Các khách sạn “châu Âu” và “Lê-nin-grát” cùng với người thành phố nhởn
nhơ trên đường đã vắng hẳn xe cộ. Vẫn biết cả bốn mùa người du lịch các nước đều
có những cái thích riêng đến Lê-nin-grát và họ đã tới từng lúc khác nhau, nhưng
chưa bao giờ người chơi Lê-nin-grát nhiều như năm nay, đông vui, tấp nập khác
thường. Cơ man nào là người, nhiều người già lão, cả trẻ con nước Pháp, nước Mỹ,
nước Ý. Hôm qua, tôi trông thấy đi vào vườn cung điện Mùa Hè, khi gió sông Nêva
rào rạt thổi lên, một đám mấy chục người Nhật lòa mắt đi du lịch. Những người
lòa chỉ đi trong nắng, trong gió cũng nghe biết được cảnh tượng xung quanh.
Nhưng đây là các người tàn tật nhà lắm của, đi thế giới có người dẫn đường và
phiên dịch, họ hớn hở đi.
Tôi mới vỡ lẽ ra rằng khi ở xa, cứ nghe các hãng tin Mỹ tin
Anh thì tưởng như hơi độc ở lò nguyên tử Trécnơbưn hỏng một tổ máy thoát ra
đương còn đùn lên, đến nỗi mùa hè này Tây Âu không dám mua rau quả của Liên Xô
xuất sang. Thế mà mùa hè và mùa thu ở đây tôi đã thấy tận mắt chưa bao giờ bờ
biển Crưm phía nam, nơi cùng tỉnh với Trécnơbưn và ở Mát-xcơ-va, ở Lê-nin-grát,
người đến chơi, đến nghỉ đông vui như thế. Các báo công bố số người du lịch mùa
hè năm nay về Lê-nin-grát nhiều hơn năm 1985 là 50% - con số kỷ lục kỳ lạ, tưởng
khó cắt nghĩa được.
Nhưng rồi người ta dễ dàng nhận ra được câu trả lời giản dị, dẫu
hỏi bất cứ ai. Thì ra bởi năm nay châu Âu ăn nhiều bom, nhiều mìn khủng bố quá.
Các thành phố lớn ở Tây Âu đương loạn bẫy bom, bẫy mìn. Tất nhiên người đi chơi
tìm chỗ nào lý thú thì đến chơi và không thể ai động dại mà thích đến chỗ bom
mìn. Người Anh, người Nhật, người Mỹ đều nói tương tự như thế.
Bom đạn ở thành phố Bây-rút “Thụy Sỹ phương Đông” dễ lây lan
cả đến các nước này. Pa-ri, một tuần bảy vụ đánh bom, chết và bị thương cả mấy
trăm người đi đường. Ở Ý, bọn khủng bố dọa muốn bắt cóc ai thì bắt được người ấy,
cảnh sát không làm gì nổi. Các sân bay, quán cà phê, tiệm nhảy, ở các rạp chiếu
bóng, ở công viên, cứ thình lình mìn nổ. Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha, Mỹ
mà công quỹ được phần thu quan trọng bằng tiền của người du lịch cũng không làm
thế nào kéo lại được chỗ thiếu hụt ấy.
Trong khi đó, cả thành phố Lê-nin-grát nhởn nhơ ngoài đường,
đêm trắng lúc nào cũng như đương vào hoàng hôn. Như muốn níu lấy cái ban ngày
trong đêm trên trái đất lạ lùng, kể cả những người đời đời sinh sống ở đây cũng
có thói quen thích thú ấy. Người ngồi câu hai bờ sông Nêva càng khuya càng
đông. Những tàu chơi trên sông lừ lừ trôi mơ hồ qua như chiếc bóng chứ không phải
con tàu thật đương đi.
Người tràn ngập lòng đại lộ Népsky thẳng tắp, tất cả các cửa
sổ đều trống hốc. Đấy là những nhà ngủ đêm mở cửa sổ - một vẻ đẹp cực hiếm ở
các thành phố lạnh phương Bắc. Hay đấy là những tòa nhà đương được sửa sang lại.
Giàn giáo chi chit quanh các ngôi nhà đồ sộ thời xưa, bề ngoài vẫn giữ nguyên
kiến trúc cổ, nhưng nội thất được thay đổi hẳn. Các khu phố cũ vẫn ba bốn tầng
trong dáng dấp những nhà xây từ 1844 thời Pi-e đại đế, nhưng các phòng từng hộ
đã đổi mới, với những tiện nghi hôm nay. Đó cũng là bộ mặt rất riêng của
Lê-nin-grát lịch sử và hiện đại.
Mặt trời đã le lói từ lúc hai giờ sáng trên cầu sông Môi-ca.
Tôi không được như bà Nina ở Ô-đét-xa cả đời, cứ hai năm lại đến xem
Lê-nin-grát, nhưng thể nào mỗi lần đến đây tôi cũng đi dọc sông chỗ tượng Bắt
Ngựa đi xuống qua cái cầu nhỏ có những miếng đồng gắn vào lan can có tả trong
truyện của Đôt-tôi-ep-sky. Tôi nhìn lên khung cửa sổ căn nhà trước mặt. Dù đến
đấy mùa nào, lúc nào cũng tưởng như vẫn giữ mùa thu và tuyết đương lãng đãng
rơi. Mỗi người có một cái để nhớ, có một kỷ niệm.
Tô Hoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét