Nếp xưa 1
CHƯƠNG I
I. Khoan lững thững bước vào lớp học. Cũng như mọi ngày ông đồ chưa tới, và lũ học trò lớn nhỏ còn đang cùng nhau tụm năm tụm ba trò chuyện. Cũng có một vài cậu đang ôn lại bài hoặc viết nốt mấy trang phóng bữa trước các cậu lười chưa viết hết.
Ông đồ Ngư đông học trò lắm. Tuy ông không đỗ đạt gì nhưng
ông có tiếng hay chữ, và học trò ông đã có nhiều người làm nên, cử-nhân có,
phó-bảng có, và những người này đều đã được lĩnh những chức vụ quan trọng. Người
đi tri-huyện, kẻ đi tri-phủ, người lĩnh huấn-đạo và cũng có người được vời vào
kinh nhận việc tại các Bộ.
Làng Kim-Đôi, huyện Võ-Giàng, tỉnh Bắc-Ninh có tiếng là làng
văn học. Làng này nhất là xã tam thôn, và có tên nôm là làng Rủi. Ba thôn là
thôn Kim-Đôi tục gọi là Rủi Quan, Quỳnh-Đôi tục gọi là Rủi Quỳnh và Ngọc-Đôi tục
gọi là Rủi Nguộc.
Thôn Kim-Đôi được gọi là Rủi Quan vì chính thôn này đã sản xuất
được nhiều chân khoa-bảng tiếng tăm, từng đi làm quan nhiều địa-phương trong nước.
Thôn Kim-Đôi nằm ngay sát bên sông Nguyệt-Đức, trên con đường
đi từ huyện Võ-Giàng đến làng Ngư-Đại, và đình của hàng thôn trông ngay ra
sông, dưới bóng râm mát của mấy cây đa cổ thụ. Dân thôn ở mé bên kia đường,
cách xa hai thôn Quỳnh-Đôi và Ngọc-Đôi mỗi thôn một cánh đồng.
Ông đồ Ngư người làng Kim-Đôi, mở lớp dạy học ngay tại thôn
nhà. Kể từ khi mở trường tới nay, đã mấy chục năm có lẻ, học trò ông lúc nào
cũng đông, những trò này lớn lên thành đạt, lại có lớp trẻ nhỏ khác kế tiếp
ngay.
Học trò của ông, người làng Kim-Đôi có, kể cả ba thôn Rủi
Quan, Rủi Nguộc, Rủi Quỳnh, nhưng người thiên hạ cũng nhiều.
Ông hay chữ có tiếng, người trong làng có trẻ nhỏ, chúng chưa
làm gì, cho chúng tới cửa ông ăn mày dăm ba chữ của Thánh hiền, may ra sau này
chúng có đỗ đạt càng hay, bằng không chúng cũng đọc thông văn tự đỡ tiếng dốt
nát ngu si. Còn người thiên hạ, chuộng tiếng tăm ông, kén thày cho con học, lẽ
tất nhiên họ phải cho con cái họ tới làng Kim-Đôi để học ông. Không phải tại
các làng chung quanh không có ông đồ, nhưng chính chỉ vì học-trò của ông thành
đạt nhiều.
Phần đông con trẻ mấy xã Ngư-Đại, Bất-Phí, Xuân-Hòa, Thị-Cầu,
Đáp-Cầu, Phương-Cầu thuộc huyện Võ-Giàng bên này sông Nguyệt-Đức, và mấy xã
Nam-Ngạn, Đạo-Ngạn, Nghi-Thiết thuộc huyện Việt-Yên, tỉnh Bắc-Giang bên kia
sông kéo nhau tới học lớp ông đông lắm. Có nhiều người ở tận tỉnh xa cũng gửi
con tới học.
Đạo Thánh có hẹp gì, sân Trình cửa Khổng lúc nào không sẳn
sàng để đón môn sinh, ông đồ Ngư không từ chối một trẻ nào. Ai đã mến chuộng
ông, tin cậy gửi con tới học, ông đều nhận hết. Càng đông học-trò càng nhiều
người thành-đạt. Vả chăng ông cũng không vất-vả hơn bao nhiêu. Đã có trò lớn bảo
trò bé, và trông coi toàn thể học-trò đã có trưởng tràng.
Mỗi ông đồ dạy học đều có trưởng tràng. Trưởng tràng là người
học trò cao niên, học hành xuất-sắc nhất trong đám học trò đang theo học được
ông đồ giao cho trách nhiệm trông nom trường học, theo dõi sự học hành của các
học sinh khác. Trưởng tràng thay mặt thày trong những buổi thày đi vắng. Gặp những
khi nhà thày giỗ chạp, ma chay, trưởng tràng cắt đặt các anh em lo giúp đỡ mọi
công việc nhà thày và lo liệu lễ vật của toàn anh em với nhà thày. Trong những
dịp này, mọi học trò mới cũ đều cùng nhau đóng tiền đồng-môn, nghĩa là tiền của
các môn sinh cùng học một thầy đóng góp trong khi thày có công việc hiếu hỷ. Những
tiền đồng-môn của các môn sinh đã thành đạt thì tùy theo họ góp cho bạn đồng-môn,
do một vài người đại diện, hoặc họ gửi tới cho trưởng tràng.
Trưởng tràng phụ tá giúp thày nhiều công việc. Nhờ có trưởng
tràng, thày học rất đỡ vất vả.
Khoan là trưởng tràng lớp học của ông đồ Ngư. Thay ông đồ,
Khoan cắt đặt cho các học trò lớn dạy học trò nhỏ viết, chấm phóng, chấm tô cho
các trò này. Ông đồ Ngư chỉ phải dạy những học trò lớn, nghĩa là đã học khá
cao, đang học hoặc đã học qua Tứ Thư Ngũ Kinh.
Những học trò nhỏ mới vỡ lòng với sách Tam-tự-kinh hoặc
Minh-Đạo Gia-Huân đều do Khoan cắt đặt anh em trông nom.
Lớp học ông đồ Ngư, ngoài các học sinh con trai cũng có số ít
học trò con gái. Mấy cô phần nhiều là con gái làng Kim-Đôi con em gia đình sung
túc.
Thời xưa con gái ít được đi học, chỉ những nhà giàu có mới
cho con gái đi học. Và con gái đi học chỉ để biết chữ chứ dù giỏi giang tới mấy
cũng không được đi thi. Kỳ thi chỉ dành riêng cho nam phái.
Thường thường các nữ sinh chỉ đi học đến một trình độ nào, ít
ai đã theo đuổi sự học đến một bậc khá cao.
Các nữ sinh theo học ông Đồ ngư cũng vậy. Các cô đi học để đọc
thông văn tự, hoặc có học xa hơn nữa cũng chỉ để hiểu nỗi mấy câu văn sách.
Khi trình độ học của các cô đã hơi kha khá, các cô lại nghỉ học.
Có cô phải ở nhà giúp đỡ cha mẹ, có cô nghỉ để lấy chồng.
Số nữ sinh tại lớp học của các ông đồ không bao nhiêu, chỉ độ
dăm ba cô là nhiều. Trong lúc đi học các cô cũng ganh đua chăm chỉ không chịu
thua kém bạn trai. Các cô cũng tập làm văn bài, cũng cố gắng về câu đối hay thơ
phú khi các cô học đã cao cao.
Hiện trong mấy cô đang theo học lớp ông đồ Ngư cũng có vài ba
cô học khá giỏi và thường được ông đồ khen ngợi, khiến cho các nam sinh càng phải
cố gắng.
Nam sinh hay nữ sinh, đối với Khoan là trưởng tràng họ đều
quí trọng kính mến. Họ hiểu Khoan có nhiệm vụ thay ông đồ để trông nom lớp học,
đối với Khoan họ có bổn phận cư-xử như đối với người anh cả.
Sáng hôm đó, cũng như mọi ngày. Khoan ở nhà ra đi từ lúc mặt
trời vừa mọc, và khi tới lớp học thì mặt trời đã ngang ngang nửa con sào. Nhà
Khoan ở thôn Quỳnh-Đôi, cách nhà ông đồ cũng khá xa. Phải đi một thôi đường
dài, nhưng ngày ngày bao giờ Khoan cũng tới lớp rất sớm, vì đã là trưởng tràng
không lẽ đến chậm để phụ lòng tin cậy của ông đồ và chúng bạn.
Lũ học trò đang đùa nghịch hoặc đứng tụm năm tụm ba trò chuyện,
thấy Khoan tới đều đứng chào và sau đó, ai nấy đều lo ngay tới công việc học
hành của mình.
Khoan giao cho bọn học trò nhỏ mỗi anh một nhiệm vụ. Anh này
lo việc quét lớp học, anh kia lo việc mài son mài mực, anh khác lo việc thu
sách để Khoan hoặc ông đồ chấm bài cho mọi trò học. Cũng có anh được Khoan cắt
cho việc hàng ngày phải tới sớm đun nước pha trà để khi ông đồ thức dậy dùng.
Trò nào được Khoan giao cho việc gì lo rất chu đáo việc của
mình ít khi Khoan phải nhắc lại. Khoan rất sung sướng được các bạn bè tín nhiệm
và tuân theo lời mình.
Vả chăng Khoan cũng rất công bằng, trong việc cắt đặt các học
trò vào mọi công việc, Khoan luân phiên cắt cử hết trò nầy sang trò khác. Tất cả
lớp học trò bé đều lần lượt, được nhận lĩnh những công việc Khoan giao cho. Các
cậu lấy làm hãnh diện với những công việc được giao phó.
Phải còn gì sung sướng cho một trò ngoan hơn là được mài son
mài mực cho thầy, được hầu hạ thầy và được anh trưởng tràng sai bảo.
II
Lũ trò nhỏ mài son mài mực đã xong, và chúng đang cùng nhau
ê-a học theo sự chỉ dẫn của mấy trò lớn hơn.
Đây một em đang đọc sách Tam Tự Kinh :
« Nhân bất học – Bất tri lý
Ngọc bất trác – Bất thành khí »
Vừa học chữ em vừa dịch nghĩa từng câu một với những tiếng đệm
ư a ngây thơ :
« Nhân bất học là người chẳng học
Bất tri lý – chẳng biết lý
Ngọc bất trác – ngọc chẳng dũa
Bất thành khí – chẳng thành đồ »
Em nhai đi, nhai lại mấy câu, rồi khi em đã thuộc hẳn, em mới
hỏi anh học-trò lớn có nhiệm-vụ chỉ bảo em học sang câu khác. Thỉnh-thoảng em lại
quên một chữ, tuy em luôn mồm nhắc lại những chữ đó.
Đây một em khác lớn hơn đang chăm chú học một đoạn sách Minh
Đạo Gia Huấn của Trình Tử :
« Thiên kim di tử – Bất như nhất kinh
Vạn khoảnh lương điền – Bất như bạc nghệ »
Em cũng vừa học chữ vừa học nghĩa :
« Nghìn vàng để cho con
Không bằng một kinh sách
Vạn miếng ruộng rót
Không bằng một nghề bạc »
Trong khi các anh lớn bảo các em trò nhỏ. Khoan ngồi chấm
câu, ngắt bài cho các em học. Sách chữ nho khi in thuở trước không chấm câu sẵn.
Học trò chép lại sách in cũng không chấm câu và cho rằng đã có chấm câu sẵn
sàng trong sách in, các trò chép lại cũng không được tự tiện chấm câu lấy. Bài
học phải do ông đồ hoặc trưởng tràng chấm câu cho.
Đối với các trò nhỏ chưa tự viết lấy được, bài học do ông đồ,
trưởng tràng hoặc một trò lớn nào khác viết và chấm câu ngay để các trò, đó học.
Những trò đã tự chép được bài học, cũng như những học trò lớn học theo sách in
đều phải do trưởng tràng hoặc ông đồ chấm câu. Chấm câu bằng son. Chỗ nào nên
phẩy, chỗ nào chấm đều là nét son hết. Phần nhiều bài học của học-trò học sách
in, bao giờ cũng do chính tay ông đồ chấm câu và lúc giảng cũng lại chính ông đồ
giảng lấy.
Khoan ngồi chấm câu sách của lũ trò nhỏ trên một chiếc ghế nhựa
kê ở bên cạnh gian nhà học.
Lớp học của ông đồ Ngư cũng giống như hàng trăm ngàn lớp học
chữ Hán thời trước. Đấy là một căn nhà ba gian khá rộng, không có kê bàn ghế
như tại các trường học ngày nay. Ở gian giữa về phía trong giáp tường là một
chiếc sập có giải chiếu cạp điều. Trên chiếu có chiếc gối sơn dùng để ông đồ tỳ
tay lúc giảng học, và những buổi trưa sau những buổi học ông đồ dùng để gối đầu
ngả lưng xem sách.
Trước chiếc sập gụ là một án-thư nhỏ, có hai tràng-kỷ hai
bên. Trên án-thư có để mấy chồng sách ông đồ thường dùng để dạy học-trò. Bên mấy
chồng sách là bộ đồ nước để ông đồ tiếp khách và chiếc điếu ống, xe điếu vắt vẻo
cong cong.
Hai gian bên cạnh có hai hàng ghế ngựa, chỗ cho học-trò học
và viết.
Và ở mé ngoài có hai hàng dại bằng tre để che nắng gió. Gian
giữa, ngang với hai hàng dại thẳng trước sập của ông đồ có chiếc mành mành cuốn
lên hạ xuống tùy theo chiều trời quang đãng hay mưa nắng.
Lũ học trò ngồi học hỗn-độn không có chỗ nào nhất định, chỗ
này một nhóm, chỗ kia một nhóm. Khi tập viết các cậu nằm bò ra ghế ngựa và cũng
nằm không hàng lối gì ; chỗ này mấy cậu mới học đang tô lại chữ son trên vở
tập viết, chỗ kia vài cậu học đã hơi lâu đang tô trên tờ phóng, qua lần giấy bản
của vở viết. Gần đấy, những cậu khác, học đã kha khá, đang chép lại bài học
trong mấy cuốn sách in.
Học chữ nho xưa, tập viết cũng như các em ngày nay học Việt
ngữ. Bắt đầu tập viết là viết tô.
Ông đồ hoặc trưởng tràng viết sẵn bằng bút son những trang chữ
cho các em tô lại. Khi các em tô đã hơi thạo, các em tập viết phóng.
Phóng là một tờ giấy có viết những chữ mẫu. Các trò nhỏ lồng
tờ phóng nầy vào một tờ giấy của sách viết. Nét chữ phóng hằn lên, các em tô
theo nét chữ hằn của tờ phóng. Sách vở chữ nho xưa kia đóng bằng giấy bản và chỉ
in, viết có một mặt. Tờ giấy gấp đôi đóng lại thành lề. Khi viết tập các em lồng
tờ phóng vào trong tờ giấy tập vở của mình.
Sau thời kỳ viết phóng đến thời kỳ phải tự coi sách chép lấy
bài. Khi đã có thể tự coi sách chép lấy bài là đã tới trình độ đọc được nhiều
chữ. Học trò tới trình độ nầy ít nhất cũng đã học qua sách « Tam Tự
Kinh » hoặc sách « Ấu-Học Tân Thư » rồi.
Buổi học rất nhộn-nhịp vui-vẻ. Tiếng ê-a của các em, xen lẫn
tiếng giảng bài của các anh lớn ; em nầy hỏi, anh kia trả lời.
Có một vài em đứng tựa vào những chiếc cột, phân cách ba gian
nhà, vừa học vừa như nghiền ngẫm nghĩa lý của sách vở.
Vài cô nữ sinh ngồi riêng ở một góc ghế ngựa, cô lớn bảo cô
bé.
Lớp học ồn-ào những tiếng ê-a, những lời giảng nghĩa cùng những
lời hỏi đáp lẫn nhau.
Cũng như mọi ngày, một lát sau khoảng cuối giờ Mão, ông đồ
Ngư tới lớp học. Học trò đang học bỗng ngưng bặt, rồi những tiếng « lạy thầy »
vang lên tứ phía.
Ông đồ ngồi vào chiếu cạp điều trên sập, trong tay vắt vẻo
chiếc roi mây.
Học trò lần lượt từ bé đến lớn lại đọc bài.
Học chữ nho xưa, buổi sáng mỗi khi vào học, học trò phải đọc
bài hôm trước, sau đó học bài trong ngày rồi tập viết. Lớp học của ông đồ Ngư
cũng ở trong thông lệ nầy, nhưng thường ông đồ hay xuống lớp chậm đôi chút, nên
các trò nhỏ được Khoan, trưởng tràng cùng các trò lớn khác giảng cho bài mới
trong khi chờ đợi đọc bài cũ với ông đồ.
Các trò nhỏ tới trước mặt ông đồ sợ sệt đọc bài, vừa đọc các
em vừa nhìn vào ngọn roi mây đáng sợ.
Tục ngữ có câu : « Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ
đòn ».
Một ông đồ cần phải hay chữ, điều đó đã đành, nhưng muốn học
trò học được tấn tới, lại cần phải dữ đòn. Ngọn roi mây là yếu tố thúc đẩy để
các trò nhỏ chăm học.
Ngọn roi mây của ông đồ Ngư hằng ngày được luôn luôn làm việc.
Mỗi trò nhỏ không thuộc bài là ông bắt nằm sấp xuống và cho hưởng một chập roi
mây. Các trò biết lệ, không bao giờ dám cưởng. Nếu trò nào vì sợ quá không muốn
nằm, lập tức các trò khác được lệnh vật trò nầy xuống để ông đồ đánh.
Theo những tiếng ngọn roi vun vút là những tiếng « Con lạy
thầy ! Ối ! Con lạy thầy ! »
Đánh một trò xong, thầy học bao giờ cũng nhắc lại :
« Đã đi học thì phải chăm học, không chịu học phí công thầy dạy lại còn tốn
tiền của cha mẹ, chẳng thà ở nhà đi chăn trâu còn hơn ».
Lần lượt hết trò nhỏ tới trò lớn đọc bài. Khi học trò đã đọc
bài xong ông đồ mới bắt đầu chấm câu rồi giảng bài cho các trò lớn. Lúc giảng
bài, các trò nầy đặt sách trước mặt ông đồ vừa đọc vừa giảng nghĩa. Ông đồ lim
dim cặp mắt ngồi nghe, chỉ khi nào học-trò giảng sai ông mới sửa lại.
Buổi học kéo dài cho tới giờ Ngọ. Các học trò chăm chú học
vui vẻ lắm.
Lúc gần tan học, học trò xếp sách viết lại để ông đồ chấm.
Ông lại dùng bút son để chấm bài cũng như khi ông chấm câu bài học.
Những chữ viết đẹp được khuyên đỏ, còn những chữ viết xấu hoặc
thiếu nét đều bị xổ toẹt. Sau khi khuyên xổ, ông đồ cho điểm từ nhất tới thập.
Hơn nhau một điểm, một vòng khuyên, học trò đều sung-sướng. Tinh thần ganh đua
tràn ngập giữa mọi anh em, ganh đua trong thân-thiện, ganh đua trong cố gắng.
Những học trò giỏi được ông đồ khen ngợi, những trò kém được
khuyến khích.
Trò nào lười biếng bị đòn và còn bị khoanh mép bằng mực đen.
Khoan, sau khi nghe giảng bài của mình cũng học bài và đồng
thời luôn luôn lưu ý trông nom các anh em giúp đỡ ông đồ.
Giữa lúc Khoan đang mải với bài học của mình, một bóng hồng
lướt qua sân. Khoan ngửng đầu nhìn ra, nhưng lại cúi ngay xuống để tiếp tục học.
Cử chỉ mau lẹ đó của Khoan không lọt qua mắt Đáp, một học trò
lớn cũng trạc tuổi Khoan.
Đáp tới bên Khoan, khe khẽ ngâm câu thơ trong Kinh thi :
« Quan quan thư cưu
Tại hà chi châu
Yểu điệu thục nữ
Quân tử hảo cầu » 1
Khoan đỏ mặt không nói gì, làm ra vẻ như không để ý tới lời
ngâm của Đáp.
III
Bóng hồng lướt qua sân là Tiệp, con gái ông đồ Ngư, Tiệp tuổi
vừa đôi tám trông người gọn ghẽ xinh đẹp. Tuy không chim sa cá lặn, nguyệt thẹn
hoa nhường, nhưng cô Tiệp cũng vào hạng duyên dáng nhan sắc. Cô có khuôn mặt
trái soan trắng trẻo với đôi má ửng hồng trông thật dịu-dàng dưới mái tóc óng
mượt có đường ngôi rẽ giữa như e-ấp cùng vành khăn vấn đầu tròn trặn trang điểm
thêm bởi mớ tóc đuôi gà lả-lướt.
Đôi mắt bồ câu đen lánh hạt huyền trong như nước hồ thu lồng
giữa đôi hàng lông mi đều đặn và đôi cặp lông mày lá liễu ; sống mũi dọc dừa
tăng phần cân đối cho khuôn mặt thùy mị, đoan-trang. Mỗi khi cô mủm mỉm nụ cười
để lộ đôi hàm răng đều như hạt lựu và đen nhức như hạt na già trông càng dịu-dàng
xinh đẹp.
Cô bước đi nhẹ-nhàng, có cử-chỉ khoan thai. Cô nói năng từ tốn,
và trong lời ăn tiếng nói cũng như trong hành động hàng ngày cô luôn luôn giữ
gìn ý tứ.
Cô cũng đã từng theo học lớp học của ông đồ Ngư đã học qua
các sách vỡ lòng và học hết sách Mạnh Tử của Tứ Thư. Trong ngày đi học, cô chăm
chỉ nên sự học-hành không kém chi các bạn trai. Cô cũng đã tập làm văn bài câu
đối, đôi khi cô cũng tỏ ra rất xuất sắc, vượt hẳn các bạn gái khác và cả một số
bạn trai nữa.
Cứ kể nếu cô theo được sự học đến cùng và cô cũng được đi thi
như các bạn trai, có lẽ chẳng cử-nhân tiến-sĩ thì ít nhất cô cũng phải đậu
khóa-sinh, tú tài, nhưng con gái đâu có cần học nhiều, nên từ mấy tháng nay,
ông đồ Ngư cho cô nghỉ học để giúp đỡ bà đồ trong công việc nhà.
Nói rằng nghỉ học để giúp đỡ mẹ, nhưng thật ra từ trước ngay
trong khi đi học cô cũng luôn luôn trông nom công việc nhà cũng như việc đồng rất
nhiều. Cô làm việc vui vẻ và ngăn nắp ; việc nặng cũng như việc nhẹ, không
bao giờ ngần ngại trước việc gì. Nặng như gánh nước, thổi cơm, xay lúa, giã gạo
với người làm, nhẹ như quét sân, quét nhà, đun nước pha trà hoặc khâu vá. Đây
là chưa nói đến những khi cô phụ giúp với thợ đồng trong ngày mùa hoặc đi chợ
mua thức ăn đồ dùng, bán ngô khoai của ruộng vườn nhà.
Từ ngày nghỉ học, cô giúp đỡ mẹ nhiều hơn. Bà đồ giao cho
trông coi hết mọi việc trong nhà ngoài đồng để thêm thì giờ đi chùa lễ Phật tụng
kinh.
Với một nhan sắc mặn-mà lại thêm sự đãm đang ngoan ngoãn, cô
rất được nhiều bà mẹ có con trai trong làng để ý và chính các chàng trai cũng
nhiều chàng muốn dương cung bắn sẻ vì bóng hồng đã quá lọt vào mắt xanh.
Trong những người để ý tới Tiệp có cả Khoan trưởng tràng của
lớp học ông đồ Ngư.
Tiệp đã cùng học với Khoan, Khoan biết rõ tính nết thùy mị
ngoan ngoãn của Tiệp. Đã nhiều lần Khoan tìm cách tỏ cảm tình với Tiệp. Khoan
giúp Tiệp một chữ trong bài văn, Khoan giải nghĩa cho Tiệp một đoạn trong kinh
sách.
Đối với cảm tình của Khoan, Tiệp không hề tỏ ra hờ-hững. Những
lời cảm ơn e-lệ, những cái nhìn vội vàng kín đáo nhưng đầy ý nghĩa đã khiến cho
Khoan trong lòng sung-sướng.
Khoan hơn Tiệp hai tuổi. Đối với các bạn học, Khoan coi Tiệp
như cô em nhỏ của mình và Tiệp cũng coi Khoan như một người anh quý mến.
Mối tình thầm lặng kết chặt hai người. Họ quyến luyến nhau và
cầu mong cho nhau những điều tốt đẹp.
Xa nhau họ nhớ-nhung. Những hôm Khoan bận việc phải nghỉ học,
Tiệp như thấy thiếu một cái gì và tự nhiên lòng nàng thấy bâng-khuâng vơ vẩn.
Khoan cũng vậy, chàng luôn luôn mong được gặp Tiệp, được giúp đỡ nàng, và nhất
là được nhìn đôi mắt trìu-mến của nàng.
Chưa ai nói với ai điều gì yêu đương, nhưng họ đã hiểu nhau
qua đôi cặp mắt đầy luyến ái, qua những cử-chỉ để ý tới nhau.
Mối tình thầm lặng của hai người tưởng chỉ hai người hiều và
các bạn học không ai để ý tới. Họ có ngờ đâu, sự trìu-mến lẫn nhau của họ đã bị
Đáp biết. Đáp cùng một tuổi với Khoan và cũng là một hoc-trò giỏi của ông đồ.
Qua mọi cử-chỉ và hành-động của Khoan và Tiệp, Đáp biết đôi bên luyến-ái nhau.
Thấy đôi bên cũng đẹp đôi xứng đáng. Đáp rất mong cho đôi người thành chim liền
cành, cây liền cành. Bản tâm Đáp rất tốt, Đáp chỉ mong cho bạn được sung-sướng
với yêu đương. Chính Đáp cũng đang yêu, Đáp yêu thương một cô hàng sén trong
làng. Đáp biết yêu thương có sướng và có khổ. Đáp cầu mong cho Khoan và Tiệp được
trọn vẹn chữ tình cũng như chính cầu mong cho mình một ngày kia được sánh duyên
cầm sắt với Hương. Chính vì mong mối tình của bạn được tốt đẹp nên đôi khi Đáp
thường ngâm thơ để trêu cợt Khoan.
Cùng một tuổi với Đáp và Khoan tại lớp của ông đồ Ngư còn có
Thúc. Thúc theo học ông đồ đã lâu và trình độ học cũng đã khá cao. Chàng đã học
qua Tứ Thư, Ngũ Kinh và đã học sang các sách khác. Thúc là con ông đương kim
Chánh-Tổng, nhà giàu có và thế lực trong hàng tổng, hàng huyện rất mạnh. Tuy
theo học ông đồ Ngư đã lâu và đã học nhiều nhưng sự học không được xuất sắc bằng
Khoan và Đáp và cũng không hy vọng gì về khoa-cử.
Ông đồ Ngư thường bảo Thúc : « Con cố học để sau
này nối lấy nghiệp nhà, ra gánh vác công việc dân xã. Thi-cử khó lắm, phải có đất
con ạ ! »
Thúc cũng tự biết tài học của mình tuy có giỏi nhưng không xuất
sắc, và Thúc cũng chỉ mong sau này có chút công-danh như cha là mãn-nguyện.
Học thì Thúc không bằng Khoan và Đáp, nhưng ăn mặc và chơi bời
thì Thúc hơn hẳn các bạn. Nhà Thúc giàu, sẵn tiền bạc quần áo, lúc nào trông
Thúc cũng chải chuốt bảnh-bao.
Thúc săn sóc tới áo quần rất kỷ lưỡng, áo the khăn xếp, quần
lụa mỡ gà.
Thúc ăn mặc chải chuốt để tỏ ra nhà mình giàu có, nhưng cũng
để được mấy nữ sinh trong lớp học ông đồ để ý, nhất là Tiệp.
Thúc để ý tới Tiệp đã lâu. Thúc thấy nàng xinh đẹp duyên dáng
và Thúc chỉ đợi ngày xin cùng bố mẹ nhờ người làm mai tới nói với ông bà đồ.
Thúc luôn luôn săn-sóc hỏi-han tới Tiệp.
Sự hỏi-han săn-sóc của Thúc không làm cho Tiệp hài lòng, trái
lại chỉ khiến nàng khó chịu. Mỗi lần Thúc muốn gần Tiệp, nàng đều tìm cách lẩn
tránh. Một lần Thúc hỏi nàng : « Sao cô Tiệp thấy tôi lại cứ tránh mặt ? »
Tiệp đã đáp : « Anh không thấy trong sách nói
« nam nữ thụ thụ bất thân » sao. Anh là con trai, tôi là con gái tôi
phải giữ ý ».
Thúc không nói gì, nhưng Thúc rất ghen với Khoan, Khoan thường
được Tiệp nhờ giảng bài và giải nghĩa văn-chương trong kinh sách.
Giữa lúc Khoan và Tiệp đang gần gũi nhau, giữa lúc Thúc đang
lưu ý tới Tiệp thì ông đồ Ngư cho Tiệp nghỉ học để giúp đỡ bà đồ trong việc
nhà.
Tiệp nghỉ học để lại cho Khoan một nỗi bâng-khuâng và cũng để
lại cho Thúc một niềm luyến-tiếc.
Trước đây hằng ngày Khoan được gặp Tiệp, hàng ngày Thúc được
nhìn thấy Tiệp, nhưng từ khi nàng nghỉ học, được thấy mặt nàng thật là một điều
thưa-thớt.
Khoan luôn luôn nghĩ tới nàng, và trong buổi học, nếu bóng
nàng đi qua, sống chết Khoan cũng đưa mắt nhìn qua sân để bắt gặp mắt Tiệp cũng
đang ngó vào chàng.
Hôm đó, Tiệp ở nhà trên đi xuống bếp. Khi nàng đi ngang mé
sân, nàng đã bắt gặp Khoan nhìn ra giữa lúc nàng đang đưa mắt nhìn vào lớp học.
Trong lòng nàng tràn ngập một niềm sung-sướng. Bỗng nhiên nàng thấy nóng bừng
đôi má, và bước vội-vã xuống nhà bếp.
« Chim Thư ríu rít bên sông
Duyên người thục-nữ sánh cùng trượng-phu »
Khoan lẩm nhẩm dịch bốn câu thơ trong Kinh Thi ra hai câu lục
bát với nỗi hân-hoan trong lòng. Chàng mơ-màng nghĩ-ngợi, nghĩ tới bóng dáng
yêu-kiều của Tiệp, nghĩ đến một ngày mai huy-hoàng chàng sẽ sống bên nàng.
Còn Tiệp đi vội xuống bếp. Nàng vừa bước chân vào cửa bếp bổng
nghe tiếp hỏi : « Kìa chị Tiệp ! »
Nàng giật mình nhìn thì là Luân, một học trò nhỏ của ông đồ,
đang lui hui đun nước trong bếp. Nàng hỏi Luân : « Em đun nước ? »
- Vâng, anh trưởng tràng hôm nay cắt đến lượt em.
- Em đã học bài chưa ?
- Anh trưởng tràng đã giảng cho em rồi.
- Hôm nay em học đến đâu ?
Luân ngẫm-nghĩ như để nhớ lại bài học một lát, rồi đáp :
« Anh trưởng tràng vừa giảng cho em bốn câu này :
« Tích Mạnh mẫu
Trạch lân xử
Tử bất học
Đoạn cơ trữ
Tích mẹ thầy Mạnh tử
Trọn láng giềng
Thầy Mạnh không chịu học
Bà cắt đứt khung cửi »
Tiệp khen Luân : « Em nhớ giỏi nhỉ ! Anh trưởng
tràng mới giảng mà đã thuộc ».
Luân sung sướng trước lời khen của Tiệp, Luân nhìn Tiệp rồi
nói : « Anh trưởng tràng Khoan giỏi lắm chị ạ ! Anh ấy rất tử tế ».
Tiệp mơ-màng không đáp lại lời Luân.
IV
Luân xách siêu nước ở nhà bếp lên pha vào bình tích trên bàn
ông đồ. Sau đó cậu bé lại mang siêu nước xuống bếp. Tiệp vẫn đang lui-hui với
công việc cơm nước.
Luân bảo Tiệp : « Em đun nước xong rồi, trả lại chị cái
siêu nhé. Em phải lên học kẻo anh trưởng tràng quở chết ».
Tiệp cười nói : « Nếu anh trưởng tràng quở mắng, em cứ bảo
chị, chị xin cho ».
Nói rồi Tiệp cười Luân cũng cười theo. Bỗng nhiên cậu bé nhìn
Tiệp chăm chăm rồi thốt ra : « Chị Tiệp trông xinh quá ! »
Tiệp sung-sướng xoa đầu Luân : « Em nói dối, chị xấu
chết đi chứ xinh gì mà xinh ».
Luân nói : « Chị xinh thật đấy, em không nói dối đâu. Chị
xinh hơn chị Hoài, chị Thảo nhiều ».
Hoài và Thảo là hai nữ sinh lớp học ông đồ. Các cô cũng vào
trạc tuổi với Tiệp, và trước đây cùng học với Tiệp. Trình độ học các cô hơi kém
Tiệp. Tiệp nghỉ, các cô vẫn tiếp-tục học.
Hai cô trông cũng sạch nước cản, nghĩa là cũng vào hạng
tương-đối duyên-dáng dễ coi. Về lời ăn tiếng nói các cô mặn-mà sắc-sảo, và
trong cử chỉ của các cô có nhiều nếp dịu-dàng khả-ái.
Trước đây, các cô rất quý mến Tiệp, và Tiệp đối với các cô
cũng thân mật. Mối tình bạn gái giữa mấy người thiệt đằm thắm, nhưng ít ngày
trước khi Tiệp nghỉ học, các cô hình như xa dần Tiệp. Tiệp đối cới các cô vẫn
luôn luôn vồ-vập niềm-nở. Các cô không bàn bạc văn bài với Tiệp, một điều gì vô
hình như chia rẽ các cô và Tiệp.
Tiệp rất lạ-lùng trước thái độ của bạn mình. Nàng cố tìm hiểu
vì đâu bỗng dưng giữa nàng và các bạn như có một sự thờ-ơ ghẻ-lạnh. Nàng thấy
mình không làm điều gì đáng để cho các bạn giận. Nàng băn-khoăn và cố tìm cách
thân mật với các bạn hơn, nhưng sự cố gắng của nàng không thay đổi được thái-độ
hững hờ của Hoài và Thảo.
Sự thật Hoài và Thảo không ghét Tiệp, nhưng các cô không ưa sự
ân cần của Khoan đối với nàng.
Sự ân cần ấy chứng tỏ một cảm tình, và cảm tình ấy, Hoài và
Thảo đều muốn Khoan dành cho mình. Hai cô hằng tự-phụ mình không kém gì Tiệp, về
nhan-sắc cũng như về gia-thế, Hoài và Thảo đều là con nhà giàu. Các cô được đi
học vì nhà các cô dư dả, và không như ở các gia đình khác, con gái không được học
nhiều, phải ở nhà săn-sóc công này việc khác giúp đỡ mẹ cha.
Cùng học với Tiệp và trình độ học suýt soát như Tiệp các cô tự
coi mình cũng như Tiệp và Khoan không được có một cảm-tình đối với Tiệp nặng
hơn đối với các cô.
Trong lòng cô nào cũng thầm mong Khoan để ý riêng tới mình,
và sau này nếu duyên số run-rủi sẽ được là người bạn trăm năm của Khoan.
Các cô không được Khoan riêng để ý tới. Khoan lại chỉ
chăm-chú hỏi han tới Tiệp, các cô đâm ra ghét Tiệp và tỏ thái độ ghẻ lạnh với
nàng.
Khoan càng săn-sóc tới Tiệp, các cô càng tìm cách để lôi kéo
Khoan cho xa Tiệp và gần các cô hơn.
Các cô luôn luôn bắt Khoan giảng bài, nhờ Khoan về văn sách.
Khoan vẫn vui vẻ chỉ dẫn giúp các cô, nhưng chàng không khỏi
bực mình về cử chỉ đôi khi quá thân-mật của các cô, nhất là của Thảo. Đã có lần
Thảo nắm áo chàng lôi kéo bắt chàng phải giúp đỡ mình trong một vế câu đối.
Khoan đã nghiêm sắc mặt bảo Thảo : « Cô Thảo lạ
quá ! Cô kéo áo tôi thầy trông thấy thì sao. « Nam nữ thọ thọ bất
thân », xin cô giữ ý một chút ».
- Tôi có làm gì mà anh bảo giữ ý. Anh là trưởng tràng, tôi có
điều gì không hiểu phải hỏi anh, nếu anh không muốn bảo, tôi sẽ hỏi thầy. Làm
sao anh như ghét tôi vậy ? Chị Tiệp chị ấy có hỏi, anh vội vàng bảo ngay đấy
nhỉ ?
Khoan vẫn nghiêm sắc mặt nói : « Cô lôi thôi quá.
Cô Tiệp hay cô, ai cần tôi chỉ dẫn điều gì tôi có từ chối đâu. Nhưng tôi muốn
nói cô giữ ý vì cô lôi kéo áo tôi, sợ thầy trông thấy ».
- Được anh không muốn thì thôi, từ nay tôi sẽ hỏi anh Đáp và
anh Thúc vậy.
Sợ mích lòng Thảo, Khoan phải dịu-dàng bảo : « Cô
giận tôi rồi sao ? Nào cô muốn hỏi gì đưa đây tôi xem. Các cô con gái hay
hờn mát quá ».
Thảo nhoẻn miệng cười, đưa bài bắt Khoan giảng cho nghe tuy
chính Thảo đã hiểu rành rọt rồi.
Giữa lúc trong các cô và Tiệp có sự ghẻ lạnh mà Tiệp coi là
vô cớ thì ông đồ Ngư bảo Tiệp nghỉ học.
Phải nghỉ học, Tiệp rất luyến tiếc các bạn hữu và sách vở.
Còn đâu sự gặp gỡ thường xuyên với các bạn gái, cũng như với các bạn trai, nhất
là anh trưởng tràng : còn đâu những lúc ganh đua bài vở cùng chúng bạn. Rồi
đây những buổi tập làm văn hàng tháng Tiệp sẽ không được dự để tỏ tài của mình
cũng như để chứng kiến tài ba của các bạn. Bao giờ lại còn được nghe các bạn
bình thơ bình phú nữa ! Và cũng thôi hết mọi sự làm nũng anh trưởng tràng
để bắt anh gà cho mấy chữ trong bài phú bài thơ !
Từ nay Tiệp sẽ bận với việc nhà nhiều, nàng có muốn đọc sách
xem văn cũng chẳng còn bao nhiêu thì giờ. Công việc nhà quê thật bề bộn, việc
ngoài đồng, việc bếp nước lại việc chợ búa.
Trước khi nghỉ học, Tiệp chào khắp các bạn. Các cô bé, các cậu
trò nhỏ thi nhau líu tíu hỏi : « Chị nghỉ học thật à ? Từ mai ai
dạy chúng em học, ai cầm tay cho chúng em viết ? Thỉnh thoảng anh trưởng
tràng đánh đòn, ai xin cho chúng em ? »
Các cô các cậu trò nhỏ này quyến-luyến Tiệp lắm. Tiệp rất dịu-dàng
đối với các em. Lúc nào nàng cũng là một người chị hiền giúp đỡ các em.
Tiệp bảo các em : « Các em chịu khó học hành ngoan
ngoãn. Thày yêu, anh trưởng tràng cũng mến, sau này thi đỗ vẻ-vang ».
Khi Tiệp chào các bạn gái, Hoài nói : « Tiếc quá chị
nhỉ ! Chị em mình đang cùng nhau học vui-vẻ. Có lẽ rồi đây thày mẹ em cũng
bắt em nghỉ học như chị. Hôm nọ thày em cũng đã bảo em là con gái không cần học
nhiều ».
Thảo cũng vồn vã với Tiệp.
Thấy các bạn đối với mình như mất hết thái độ ghẻ-lạnh, Tiệp
sung sướng. Nàng nói : « Các chị cố gắng học cho giỏi mãi thêm lên,
văn hay chữ tốt. Nhà em neo người lại nhiều việc, em không theo đuổi sự học được
ở đây nhưng em cũng sẽ xem sách trong những khi rảnh-rỗi ».
Rồi nàng nói tiếp : « Trong khi đi học, em có điều
gì không phải xin các chị đừng để tâm và tha lỗi cho em nhé ».
Hoài và Thảo cùng đáp : « Chị em bạn gái chúng mình
với nhau, làm gì có truyện gì ».
Thảo nói thêm : « Nghỉ học, nhưng lúc nào rảnh rỗi, chị
nhớ đến đây nói truyện với chúng em cho vui nhé ».
Tiệp vui vẻ đáp : « Nghỉ học nhưng lúc nào em cũng nhớ tới
các chị, nhớ tới những buổi cùng học với nhau, những phút vui chung sung-sướng
của chúng ta ».
Cuối cùng Tiệp chào Khoan, sau khi đã chào đủ mọi người
khác : « Anh trưởng tràng ạ, mai em nghỉ học. Em chào anh trưởng
tràng và chúc anh càng văn hay chữ tốt hơn ».
Vừa nói Tiệp vừa nhìn vào Khoan. Bốn mắt gặp nhau đã nói nhiều
hơn những lời họ muốn nói. Khoan cũng nhìn Tiệp trìu-mến. Chàng bảo :
« Cô nghỉ học, anh em chúng tôi rất nhớ, nhưng lệnh thày đã muốn, mình làm
con phải chiều ý cha mẹ ».
Tiệp mân-mê tà áo, như muốn nói gì thêm, và Khoan cũng như
nàng muốn nói cùng nàng nhiều lắm, nhưng đôi bên không biết nói gì hơn cùng
nhau ngoài mấy câu trao đổi trên.
Đáp cũng chứng kiến cuộc từ-biệt của đôi-người. Đáp thấy giữa
hai người có một tình quyến-luyến riêng vượt trên tình bạn đồng học. Đáp vốn là
người tốt, vẫn thầm mong cho đôi bên sẽ được cùng nhau như chim liền cánh như
cây liền cành để cùng trọn nghĩa sắt cầm.
Sự bịn rịn của đôi bên cũng không lọt ra ngoài mắt Thúc. Thúc
cau-có bực mình thấy đôi người lưu-luyến nhau một cách mặn-mà đằm thắm nhưng
Thúc cũng mừng vì Tiệp nghỉ học, nàng sẽ không có dịp được gần Khoan nhiều, và
rồi ra, nàng sẽ quên Khoan bởi thưa gặp-gỡ.
Tiệp đã nghỉ học, và từ lốt một nữ sinh, nàng đã trở nên một
thôn nữ đảm-đang đủ mọi công việc gia-đình đồng-áng.
Mỗi lần có dịp đi ngang qua sân lớp học, nàng không bao giờ
nàng quên ngó nhanh vào để được gặp mắt Khoan.
Vừa qua, nhân lúc qua sân, nàng đã liếc vào và Khoan cũng đã
nhìn ra. Phút giây bốn mắt gặp nhau chỉ thoáng ngắn, nhưng lòng đôi người đã rộn-ràng
một niềm vui sướng.
Giờ đây đứng trong bếp nàng lại được nghe Luân nhắc đến Khoan
lòng nàng càng tràn ngập một cảm-giác êm-dịu nhất là Luân lại lại khen Khoan giỏi
và khen nàng xinh đẹp.
Nàng bảo Luân : « Em khéo khen chị. Chị xinh sao được bằng
các chị Hoài và Thảo ».
Luân nhắc lại : « Em không nói dối đâu. Nhưng thôi em phải
lên học kẻo anh trưởng tràng lại giục ».
Luân chạy vụt đi. Tiệp nhìn theo yên lặng.
V
Lớp học của ông đồ Ngư ồn-ào vang tiếng trẻ học, bé học bài của
bé, lớn học bài của lớn. Ông đồ ngồi vắt-vẻo trên chiếc sập, mắt đeo kính, đang
chăm-chú đọc một cuốn sách, thỉnh-thoảng lại với lấy chiếc ống điếu chấm hút mồi
thuốc. Trông ông nghiêm trang và đạo đức.
Cũng như mọi ngày, các trò lớn vẫn bảo các trò nhỏ trước khi
học bài của mình, và các trò sau khi học thuộc bài thì mang sách ra chép bài hoặc
viết tập.
Tại lớp học của ông đồ Ngư cũng như tại tất cả các lớp học chữ
nho thời xưa, học trò học bài hôm nào thì phải giảng và viết bài ngày hôm đó
vào lúc cuối giờ học. Trò nào không thuộc bài hoặc không thuộc nghĩa bài phải ở
lại học cho tới thuộc mới được thầy đồ cho về. Vì vậy trong giờ học, trò nào
cũng chăm-chỉ học mong cho mau thuộc cả chữ lẫn nghĩa để không phải ở lại.
Đưa mắt nhìn lũ học trò học bài ông đồ lấy làm tự mãn sung-sướng.
Tuy không làm quan cao chức trọng gì, nhưng một mình ông đã đào tạo không biết
bao nhiêu người làm nên, hết lớp này đến lớp khác. Những trò nhỏ ngày nay đang
ngồi học ngồi viết kia, biết đâu mai sau lại không có kẻ sẽ mũ cao áo dài, hiển
vinh phú quý và sẽ là những bậc lương-đống của quốc-gia.
Học trò chữ nho rất biết ơn thày. Dù ai làm nên danh giá bực
nào, quan cao chức trọng đến đâu, khi tới nhà thày, vẫn chỉ là một học trò của
thày vẫn chấp tay dưng hầu thày như khi còn đang đi học.
Một lớp học của một ông đồ lại có ban đồng môn để lo mọi công
việc nhà thày từ ma chay đến giỗ chạp. Tất cả các môn sinh mới cũ đều phải đóng
góp tiền đồng môn mỗi khi nhà thầy có việc, như các con giúp đỡ cha mẹ. Các môn
sinh cũ dù đã có tước lộc cao, nhiệm-vụ lớn nhưng vẫn tham-dự đồng-môn. Chỉ những
kẻ vô ơn bạc nghĩa mới quên ơn thày. Cha mẹ có công sinh dưỡng nhưng thày học
có công dạy dỗ cho mình nên người, công dạy dỗ này theo quan niệm phương Đông
còn đứng trên công sinh dưỡng.
Với số học trò đã thành đạt nhiều, ông đồ Ngư được tiếng tăm
khắp nơi. Ngồi dạy lũ học trò nhỏ, ông trông ở tương-lai chúng rất nhiều. Trong
khi dạy học, ông đoán biết một phần lớn sự thành đạt của học trò. Đứa nào học
hành có khiếu ông biết, nhà đứa nào nhiều phúc-đức qua nét mặt sáng-sủa hiền-hậu
của nó, ông cũng có thể hy-vọng kết quả tốt đẹp ở nó. Còn những học trò con nhà
giàu, con cường-hào ác-bá, dạy chúng học thì ông dạy nhưng thường ông vẫn nghĩ
chúng có thể học để mà học, chứ không phải học để thi đậu hiển-vinh.
Hôm đó, giữa lúc ông đang rung đùi ngắm nhìn lũ học trò bổng
có khách tới.
Bây giờ vào khoảng giữa giờ Thìn. Khách chẳng phải ai xa lạ,
chính là một người làng, bác xã Phiệt. Bác xã Phiệt đến xin học cho con là thằng
cu Kiệm lên bảy tuổi.
Xã Phiệt ăn mặc trịnh-trọng. Bác chít trên đầu chiếc khăn lượt
đen, mặc áo the thâm và quần trắng, chân bác đi đôi giày Gia-định.
Bác vái ông đồ từ ngoài sân.
Cu Kiệm theo sau bác cũng ăn mặc như cha. Trên đầu cũng quấn
chiếc khăn nhiễu tam-giang, cũng áo the quần trắng, cũng đi đôi giầy. Có lẽ nó
đi giầy không quen cho nên đôi giầy cứ muốn văng đi trước. Nó thấy bác xã vái
ông đó, nó cũng vái theo.
Cùng đi với hai cha con bác xã, có tên người nhà cũng quần áo
sạch sẽ, đầu đội mâm đồ lễ gồm có cỗ xôi con gà và trầu cau, chè rượu.
Ông đồ Ngư mời bác xã Phiệt vào trong lớp học.
Bác xã nói : « Hôm nay chúng tôi đưa cháu tới để ăn mày
ông đồ ít chữ của thánh hiền ».
Ông đồ hỏi tên tuổi cu Kiệm biên vào mảnh giấy. Ông bảo ông
xã : « Cửa thánh hiền có hẹp gì. Bác xã cố cho con đi học thế là phải ».
- Thưa ông đồ, cháu nó thích đi học lắm. Thấy các trẻ rủ nhau
đi học, nó luôn luôn đòi đi.
Ông đồ cười nói : « Thế thì nhà bác khá. Con trẻ thích
đi học tức là điềm nhà thịnh-vượng ».
Ông đồ đưa hai cha con bác xã lên nhà trên. Tên người nhà
cũng đội theo mâm đồ lễ.
Trước hết ông đồ bảo tên người nhà bác xã đặt đồ lễ lên trên
bàn thờ thánh-sư, để ông làm lễ.
Ông lấy miếng giấy có tên tuổi cu Kiệm ra xem lại, rồi ông
đem đặt vào mâm đồ lễ. Ông thắp nến và ba nén hương cắm trên bàn thờ.
Ông lâm râm khấn rồi lễ. Bác xã Phiệt lễ theo. Bác bảo cu Kiệm
vào lễ. Cu Kiệm súng sính trong bộ quần áo dài lượt-thượt cũng vào lễ trước bàn
thờ. Cuộc lễ chỉ đơn giản như vậy nhưng rất trang nghiêm, qua vẻ mặt nghiêm-nghị
cùng cử chỉ thận-trọng của ông đồ, cũng như qua điệu bộ cung-kính của bác xã và
của cu Kiệm.
Lễ Thánh-sư xong tới lễ bàn thờ tổ tiên nhà ông đồ. Ông đồ
cũng khấn lễ, rồi bác xã Phiệt và cu Kiệm cũng vào lễ như trước. Vẫn cái không
khí nghiêm-trang ấy, mùi hương tỏa lên ngào-ngạt. Ánh mấy ngọn nến rung rinh
như soi tỏ lòng thành-kính của những người làm lễ đối với tiền nhân.
Hai cuộc lễ tại hai bàn thờ có hai ý nghĩa.
Lễ Thánh-sư là có ý trình bày sự nhập môn của một học sinh mới,
còn lễ bàn thờ gia tiên là để ông đồ cáo cùng gia tiên việc mới thâu nhập một
môn sinh.
Sau cuộc lễ ông đồ mời bác xã Phiệt ngồi chơi ở tràng-kỷ trước
bàn thờ. Ông sai Tiệp pha trà, đồng thời ông cũng cho gọi Khoan lên.
Ông bảo bác xã : « Việc học là việc rộng, biển học
mênh mông.Con trẻ chúng đi học, trước hết phải cho chúng học lễ, sau mới nói đến
văn bài sách vở. Vì vậy phải có lễ trình Thánh-sư ».
Bác xã vâng vâng dạ dạ.
Ông đồ lại nói : « Tôi dữ đòn lắm. Ai thương con thì
không thể cho con học tôi được. Các trẻ con chúng nó còn ham chơi phải lấy roi
vọt thúc đẩy chúng nó mới chịu học. Có chịu học chúng mới tấn-tới, mới có thể
thấm-nhuần đạo lý của thánh hiền ».
Bác xã thưa : « Trăm sự chúng tôi trông cậy cả ở ông đồ.
Chúng tôi chỉ mong sao cháu nó ăn mày ông đồ được dăm ba chữ để sau này lớn lên
đỡ bị người ta khinh cười là vô học ».
Tiệp đã pha nước bưng tới.
Ông đồ mời bác xã : « Bác xã xơi nước. Đây là chè hảo
hạng của thầy Huyện Thanh-Oai gửi biếu ».
Thầy Huyện Thanh Oai tức là một học trò cũ của ông đồ, đã đậu
cử-nhân và được bổ tri-huyện Thanh-Oai thuộc tỉnh Hà Đông.
Vừa lúc ấy Khoan cũng ở lớp học bước lên. Đang pha nước, thấy
Khoan lên, Tiệp nhẹ đưa mắt nhìn Khoan như muốn nói điều gì. Và Khoan cũng nhìn
lại Tiệp mỉm cười.
Khoan thưa với ông đồ : « Thưa thầy gọi con ».
Ông đồ đáp : « Ừ, thầy gọi anh lên để giao cho anh thằng
cu con bác xã đây, mới nhập học buổi nay. Con trông nom cho nó cũng như các em
khác. Con cho nó vỡ lòng bằng sách Ấu-học tân thư ».
Ông đồ quay lại bác xã nói : « Đây là anh Khoan,
trưởng tràng của tôi. Anh cũng người làng ta. Anh chịu khó và học hành tấn-tới
lắm. Những học trò mới, tôi đều giao cho anh trông nom. Tôi chỉ tự dạy lấy những
học-trò lớn ».
Ông lại bảo thằng cu : « Thôi con đi xuống lớp học.
Có anh trưởng tràng dạy học cho. Đi học thì phải ngoan-ngoãn, nếu hư-hỏng lười-biếng
thì phải đòn ».
Cu Kiệm khép-nép vâng dạ, cặp mắt ngây thơ nhìn hết ông đồ lại
nhìn đến anh trưởng tràng.
Bác xã bảo con : « Con chịu khó học, anh trưởng
tràng sẽ dạy con giỏi như thằng Thọ con ông bá Thúy bên cạnh. Buổi trưa tan học,
con theo thằng Thọ cùng về ».
Khoan dắt cu Kiệm xuống lớp học. Cu Kiệm đi theo nhưng vẫn
quay lại nhìn bác xã và ông đồ.
Từ trong nhà bước ra ngoài sân, Khoan thấy Tiệp lúc đó đã pha
nước xong đang đi chậm chậm có ý chờ đợi Khoan.
Khoan nhìn Tiệp như say đắm, Tiệp cũng nhìn Khoan với đôi mắt
đầy ý nghĩa.
Khoan nói : « Cô Tiệp dạo này nghỉ học tha hồ
nhàn ».
Tiệp đáp : « Nhàn sao được hở anh ? Nhàn việc học
nhưng bận việc nhà, anh ơi. Vả lại tôi vẫn thích học lắm. Học với các anh vui lắm,
làm công việc nhà vất vả nhiều ». Rồi Tiệp chỉ cu Kiệm nói tiếp :
« Anh trưởng tràng lại có thêm một em mới nhập học ».
Cuộc đối đáp chỉ ngắn-ngủi như thế thôi, Khoan dẫn cu Kiệm xuống
lớp học còn Tiệp đi thẳng xuống bếp. Gần tới bếp nàng còn quay lại nhìn Khoan.
Vừa lúc ấy Khoan cũng dừng chân ở trước cửa lớp học để nhìn theo nàng. Bốn mắt
lại gặp nhau, Tiệp vội vàng cúi mặt xuống sau một cái mỉm cười duyên-dáng. Nàng
thấy nóng bừng đôi má. Lòng nàng rạo-rực rộn-ràng một niềm vui.
Khoan cũng cười theo nàng, lòng chàng thấy tràn ngập một nỗi
yêu đương vô bờ bến đối với Tiệp. Chàng nghĩ đến tương lai, đến ngày chàng được
cùng Tiệp sánh đôi.
Bóng Tiệp đã khuất vào trong nhà bếp, Khoan và Kiệm vào lớp học.
VI
Một buổi chiều mùa Thu. Trời Thu trong không gợn chút mây,
gió thu hây hẩy thổi mấy lá vàng rơi.
Dòng sông Nguyệt-Đức lặng-lờ chảy, nước xanh xanh gợn sóng đều
đều theo từng cơn gió nhẹ. Mấy cây cổ thụ làng Kim-Đôi nghiêng mình soi bóng
bên bờ sông, để hé xa xa nóc ngôi đình cổ kính cùng vài nóc nhà gạch bên hữu ngạn
dòng sông. Vài thôn nữ đứng dưới bóng cây đang cùng nhau chuyện vãn. Ngay bờ
sông, sát mặt nước, trên một hòn đá lớn, vài thôn nữ khác đang giặt vội một ít
quần áo. Cùng ngay bến sông, vài cô khác lội ra xa xa bờ nước khỏa khoắng mấy
đôi thùng để kín nước trong.
Bốn bề hầu như im lặng, không một tiếng động mạnh không một
cơn gió to. Vài lá vàng từ trên ngọn cây rớt xuống là lượn trong không trung
trước khi rơi xuống mặt nước, chiếc đảo nghiêng, chiếc đảo ngược. Dòng sông lạnh-lùng
chầm chậm chảy mang theo những chiếc lá rơi không tiếc bến.
Vài con thuyền căng buồm chạy theo chiều gió, đè làn nước. Mấy
con đò nhỏ sang ngang đang rập-rờn trên sóng nhẹ theo đà của các cô lái đò đưa
bơi chèo làm rung làn nước bạc.
Một con đò, từ mé bên kia sông sắp cập bến Kim-Đôi. Khách đi
đò thưa lắm, chỉ có vài ba người nhà quê quần nâu áo vải với một ít thúng mủng
quang gánh. Con đò không to. Đây là loại thuyền nan thường được dùng để chở
khách qua sông trên những bến vắng.
Bến Kim-Đôi chỉ là một bến nhỏ của sông Nguyệt-Đức. Khách
hàng ngày sang ngang không bao nhiêu : chỉ những người ở một vài làng ngay
bờ đê hai bên sông mới dùng bến này, còn ở làng trên xã dưới người ta thường
dùng bến Đáp-Cầu hoặc bến Ngư-Đại là hai nơi có chợ búa đông-đúc.
Con thuyền nan từ từ cặp bến. Cô lái đò nhẹ đưa bơi chèo gạt
nước lựa cho đầu mũi thuyền giáp vào bờ sông. Nước theo đà bơi chèo bắn trắng
trên mặt sông. Cô lái đò cố giữ cho con thuyền đứng vững khỏi trôi theo nước chảy.
Cô cắm sào xuống lòng sông.
Chiếc sào đã giữ chắc con thuyền. Khách đi thuyền người một
bước lên bờ. Trong số khách qua sông có Tiệp với đôi quang gánh đã nhẹ không. Nếu
ai tò mò nhìn vào đôi thúng của nàng thì chỉ thấy mấy mớ dưa, vài xâu bánh
phòng cho con trẻ.
Tiệp bước chân lên bờ. Nàng chưa kịp để ý tới những ai đứng
quanh bờ sông, bỗng có tiếng gọi : « Chị Tiệp đi chợ về đấy
à ? »
Tiệp ngoảnh lại thì đấy là Niệm, một cô bạn cùng xóm với nàng
và trước cũng đã có theo học ông đồ Ngư.
- Vâng, em hôm nay đi chợ Nếnh bán gánh gạo lấy tiền mua rau.
Chợ Nếnh tức là một chợ nhỏ thuộc làng Nội-Ninh, huyện Việt-Yên,
tỉnh Bắc-Giang, bên kia sông, ở không cách xa làng Kim-Đôi bao nhiêu.
Tiệp lại hỏi Niệm : « Chị làm gì ở bên sông đấy ? »
Niệm đáp : « Em giặt ít quần áo. Em cứ tưởng hôm nay ở
nhà thầy có cuộc bình văn làm câu đối chị cũng ở nhà dự như mọi tháng. Mọi
tháng thầy em vẫn bảo em đến nghe và thỉnh thoảng góp vài vế câu đối cho đỡ
quên, nhưng hôm nay đẻ em bảo em đi bán gạo. Chính thày em lần này cũng bảo em
đi chợ. Con gái dự được buổi bình văn nào hay buổi ấy, không dự cũng không
sao ».
Hàng tháng, vào kỳ đầu tháng, tại lớp học của ông đồ Ngư có
cuộc bình văn và thi câu đối giữa các học-trò. Những ngày này có nhiều học-trò
cũ xin được tới dự nghe để thưởng-thức những bài văn, những thơ phú của học trò
đang học. Và mọi kỳ, Tiệp vẫn dự nghe để thưởng-thức những bài văn, những vế
câu đối của các bạn học, nhất là của Khoan. Mỗi khi bài của Khoan được ngợi
khen Tiệp thấy sung-sướng như chính mình đã làm bài văn đó, chính mình đã đối về
câu đối đó.
Tháng này Tiệp vẫn muốn dự cuộc bình văn, nhưng mẹ nàng bảo
nàng đi chợ, và hình như ông đồ cũng không muốn nàng dự vào các cuộc bình văn
thơ này nữa.
Làm con nàng chỉ biết tuân theo lời cha mẹ, dù nàng muốn hay
không. Vâng lời cha mẹ là điều đầu tiên trong đạo tam-tòng. Nàng cũng không hiểu
tại sao cha mẹ nàng lại không muốn nàng tham dự buổi bình văn. Hay là… nàng
không dám nghĩ tới.
Nàng chào Niệm rồi quảy quang gánh đi lên bờ đê. Niệm nhìn
theo rồi tấm tắc khen : « Trông chị dạo này đẹp quá ! »
Tiệp quay lại nhìn Niệm rồi cười như cảm ơn.
Tiệp cũng biết mình đang tuổi xinh đẹp, nhan-sắc đang lộng-lẫy,
và ngoài Khoan ra, rất nhiều chàng trai trong làng cũng như ngoài xã để ý tới
nàng. Nàng không có cao vọng gì xa xôi, nàng chỉ mong nếu duyên trời đưa lại,
được cùng Khoan chấp mối chỉ hồng. Mong là mong vậy, nhưng còn tùy số mệnh cũng
như còn tùy song thân nàng. Con gái đâu có quyền kén cá chọn canh. Lời xưa có
câu : cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Nàng là con nhà lễ giáo, bao giờ sai được
lời xưa.
Tiệp đi lên đường đê, Niệm tiếp-tục giặt quần áo trong khi
con thuyền nan cũng đang rời bến với vài khách qua sông.
Một thôn nữ khác cũng đang giặt bên sông. Từ nãy giờ nàng
không nói gì, bỗng hỏi Niệm : « Chị có biết tại sao chị Tiệp không ở
nhà nghe bình văn như mọi tháng ? »
- Nào em biết được ! Chắc chị ấy phải đi chợ như chị ấy
vừa nói chứ gì.
- Không phải đâu, em biết !
- Chị biết sao ?
- Hình như ông Chánh-Tổng có ngỏ ý với ông đồ để xin chị Tiệp
cho anh Thúc thì phải. Nghe đâu anh Thúc mê chị Tiệp lắm.
- Thế à ! Em không biết. Nhà ông Chánh-Tổng thông gia với
nhà ông đồ thực là môn đăng hộ đối, nhưng chẳng biết ông đồ có chịu gả chị Tiệp
cho anh Thúc không ?
- Làm gì mà không gả, ông Chánh-Tổng vừa nhà giàu lại vừa có
thế lực. Anh Thúc cũng học-hành khá, sau này thế nào chẳng có chút công-danh.
- Chị Tiệp độ này trông đẹp hẳn lên. Anh Thúc mê là phải, em
là con trai, em cũng mê chị Tiệp. Nhưng không hiểu chị Tiệp có chịu lấy anh
Thúc không.
- Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Chị Tiệp cũng như em với chị,
đâu có quyền chịu hay không chịu.
- Nhưng, cứ kể hai bên lấy nhau cũng đẹp đôi !
Câu chuyện của hai cô thôn nữ vẫn tiếp-tục trong khi Tiệp đã
lững-thững đi xa trên bờ đê.
Xa xa đi ngược chiều về phía Tiệp, có hai thanh niên dắt tay
nhau vừa đi vừa chuyện.
Khi tới gần, Tiệp nhận ra đó là Thúc và một người làng. Trông
Thúc ăn mặc lịch-sự. Khăn áo rất chỉnh tề, trông thật đúng con nhà giàu trong
hàng tổng. Có lẽ hai người đi trên con đường đê đã lâu, và họ đang chờ đợi
ai ?
Gặp Tiệp, đôi mắt của Thúc ngời sáng long-lanh. Chàng nhìn chầm-chập
vào Tiệp, nàng phải cúi mặt xuống.
Thúc chào : « Cô Tiệp đi đâu về đấy ? Sao hôm
nay cô không tới dự buổi bình văn ? »
Tiệp vừa đi vừa thong-thả đáp : « Tôi đi chợ Nếnh
bán gạo về. Đã đi chợ còn dự sao được buổi bình văn ».
Tiệp vẫn đi. Thúc như cố muốn cho nàng ngừng lại, tìm cách
kéo dài câu chuyện : « Buổi bình văn sáng nay vui lắm. Tiếc không có
cô ! »
Tiệp bước rảo hơn, nhưng vẫn lễ-độ trả lời : « Tôi
cũng rất tiếc không được dự ».
Thúc và người bạn quay gót đi theo Tiệp cố tìm cớ nói chuyện :
« Cô đi chợ có mệt không ? Chắc là đắt hàng nhỉ ? »
Tiệp thấy Thúc quay gót đi theo mình, nàng càng bước nhanh
hơn. Nàng không muốn nói chuyện với Thúc, và nhất là nàng không muốn ai bắt gặp
nàng nói chuyện với Thúc. Nàng rất sợ tai tiếng, và nàng cũng e Khoan hiểu lầm
tưởng nàng có tình ý gì với Thúc. Nàng ấm-ứ trả lời, muốn cho Thúc không hỏi-han
mình nữa : « Cảm ơn anh ».
Câu trả lời không đầu-đuôi này đáng lẽ chấm dứt câu chuyện
nhưng Thúc vẫn cố gợi những truyện khác.
Tiệp đi rảo cẳng thì Thúc cũng bước theo nhanh, kéo theo người
bạn đi bên cạnh. Sau cùng Tiệp phải bảo Thúc : « Xin anh đừng đi theo
tôi nói chuyện nữa kẻo có ai bắt gặp rất không tiện cho tôi ».
- Sao mà không tiện. Tôi là học-trò, cô là con thày, gặp nhau
nói chuyện có sao !
- « Nam nữ thụ thụ bất thân », anh không nhớ chăng ? Vả
lại anh cứ đi theo tôi, sao khỏi điều này tiếng khác, nếu có ai nom thấy.
- Cô cẩn-thận quá. Cô ghét tôi hay sao ?
Tiệp bực mình với những câu hỏi vô duyên của Thúc.
Nàng vùng-vằng đáp : « Sao anh ăn nói lạ vậy. Xin phép
anh ; tôi phải vội về kẻo thày mẹ tôi quở, không thể đáp chuyện mãi anh được ».
Thấy Tiệp cáu-kỉnh Thúc cười hà hà. Chàng lại nói :
« Cô giận tôi chăng ? Cô lạ-lùng nhỉ ».
Tiệp không đáp, rảo bước đi mau hơn. Thúc nói thêm :
« Chỉ sợ sau này cô không cáu-kỉnh như vậy với tôi mãi mãi được thôi. Nói
thật, cô Tiệp ạ, trông cô xinh đẹp quá ! »
Thấy Thúc đi tới chỗ sỗ-sàng. Tiệp phải nói : « Anh
ăn nói hay nhỉ. Xin anh giữ mồm giữ miệng một chút ».
Rồi nàng đi mau hơn. Thúc lại cười hà hà. Và người bạn của
Thúc cũng nói theo một câu : « Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho
người ta trêu ! Làm chi cô vùng-vằng vậy ».
Tiệp làm thinh đi thẳng, bỏ mặc hai chàng lẽo đẽo mỗi lúc một
xa hơn. Vừa đi Tiệp vừa nghĩ. Có năm bảy hạng học-trò thì cũng có năm bảy hạng
gái…
VII
Đáp đứng chờ Khoan ở cổng xóm, nơi đi vào nhà ông đồ. Đáp vốn
xưa nay vẫn quý trọng Khoan vì sức học, lại mến Khoan vì nết. Khoan cũng thân-mật
với Đáp hơn với mọi người trong lớp. Có truyện gì Khoan đều nói với Đáp cũng
như Đáp không bao giờ dấu Khoan điều gì dù là truyện riêng của mình.
Đáp mong-manh được tin Thúc nhờ người mai-mối tới nhà ông đồ
Ngư để xin hỏi Tiệp, và ông đồ Ngư hình như chưa trả lời dứt-khoát. Đáp hiểu
Khoan đối với Tiệp có tình ý nhiều lắm, và đã đôi lần Khoan thú thật với Đáp
mong sau này chàng được làm bạn trăm năm với Tiệp. Khoan chỉ buồn nhà mình hơi
nghèo nên chưa dám ngỏ ý của mình với cha mẹ. Việc cưới xin tốn kém, hơn nữa
tuy Tiệp không giàu nhưng cũng phong lưu, e Tiệp sẽ không chịu đựng nổi sự làm
dâu nhà mình nghèo ?
Đáp bảo Khoan : « Giá thú bất luận tài », việc
hôn-nhân đâu có kể gì giàu-nghèo. Chỉ cốt hai gia đình tương xứng là đủ. Gia
đình anh cũng là gia đình đạo-đức, anh lại học-hành khá thì anh kết duyên với
cô Tiệp là phải lắm rồi còn sao nữa ? »
Khoan còn ngần-ngại. Chàng cũng định bụng sẽ trình bày cùng
cha mẹ ý muốn của mình. Đôi ba lần mẹ chàng có bàn đến việc hôn-nhân chàng đều
thưa mình còn ít tuổi lại đang đi học, xin cha mẹ đợi cho vài năm nữa. Chàng
chưa dám nói tới Tiệp, sợ cha mẹ không ưng.
Hôm đó Đáp đi học sớm. Chàng có ý chờ Khoan để bảo cho Khoan
biết tin gia-đình Thúc muốn hỏi Tiệp cho Thúc, Đáp đợi không lâu thì Khoan tới.
Đáp nói : « Tôi mới nghe người nhà nói chuyện về việc
anh Thúc nhờ người xin hỏi cô Tiệp, anh đã biết chưa ? »
Khoan cũng đã được biết tin đó rồi, nên không lấy làm ngạc-nhiên,
khi được Đáp nói lại. Chàng bảo Đáp : « Tôi cũng nghe nói vậy, nhưng
không biết thày có gả cô Tiệp cho anh Thúc không ».
- Tôi thấy nói thày chưa trả lời dứt-khoát.
Rồi Đáp lại bảo Khoan : « Tại anh, anh không nhờ người
mai-mối trước ».
Khoan thẫn-thờ không nói gì. Chàng nghĩ đến gia-cảnh mình lúc
nầy đang kém sung-túc. Cưới vợ đâu có phải là việc không tốn tiền. Hơn nữa, giờ
đây cũng đã muộn rồi, Thúc đã mau chân hơn chàng. Chàng chỉ hy-vọng vì một
lý-do gì ông đồ sẽ từ chối không nhận gả Tiệp cho Thúc, lúc đó chàng sẽ không
ngần ngại gì mà không trình rõ với song đường ý muốn của mình.
Hi-vọng của chàng mong-manh lắm, biết vậy nhưng chàng vẫn
hi-vọng.
Chàng có biết đâu hi-vọng của chàng không mong manh chút nào vì
xưa nay ông đồ Ngư tuy dạy Thúc học, nhưng đối với Thúc không bao giờ ông có
nghĩ tới truyện gả Tiệp cho chàng. Vả chăng ông vốn là con người đạo-đức, ông
không ưa gì quyền-thế, và ông không muốn vì một truyện gả con mà mang tiếng
su-phụ thế-lực của ông Chánh-Tổng. Hơn nữa, ông rõ sự học-hành của Thúc ra sao
và trong lúc dạy Thúc, ông đã hiểu tâm-tính Thúc. Con nhà giàu, có thế-lực
trong hàng tổng, Thúc thường ỷ-thế cha. Việc học-hành tuy Thúc không trễ-nải,
nhưng Thúc cũng không phải là một người học-trò chăm-chỉ, và tương-lai của Thúc
không trông gì vào văn tự. Thúc chắc-chắn lại sẽ như cha lấy tiền của vung ra để
tranh một chân chức sắc trong hàng xã hàng tổng. Cứ kể, như thế ở thôn xã cũng
danh-giá rồi, nhưng ông vốn là người giàu tự-trọng, không muốn ai hiểu nhầm
mình, nhất là các bậc văn nho. Gả con cho Thúc ông có thể gả được, nhưng để bị
tiếng chê bai là tham giàu, tham danh-giá thì không được.
Giá Thúc là con người khá thì còn có thể nhưng qua ngày sinh
tháng đẻ của Thúc ông đồ Ngư thấy Thúc không phải là con người có nhân, vì cung
Thìn có Phá-Quân. Tử vi có câu : « Trai bất nhân Phá-Quân Thìn Tuất ».
Số mệnh đã chỉ rõ ràng, lẽ nào ông đồ lại chịu nhầm gả con cho Thúc để sau này
Tiệp chịu đựng cả mọi sự bất-nhân của Thúc sao.
Khi bà mối do ông Chánh-Tổng, cha Thúc nhờ tới nói chuyện với
bà đồ về việc Tiệp, bà đồ đã cho mời ngay ông đồ ra nhà khách để tiếp chuyện.
Bà đồ bảo ông đồ : « Đây là người đằng nhà ông Chánh-Tổng cho lại để
nói về việc xin con Tiệp nhà ta cho cậu Thúc. Việc gả bán con cái là quyền ông.
Tôi đàn bà không biết gì ».
Bà mối trình bày ý-kiến của ông bà Chánh-Tổng, và mong được
ông bà đồ ưng-thuận.
Ông đồ nói : « Việc nhân-duyên của con trẻ là việc trọng,
không thể tính hồ-đồ. Tôi xin cảm ơn ông bà Chánh-Tổng có lòng thương đến cháu
và có lòng yêu vợ chồng chúng tôi, nhưng việc này chúng tôi phải hỏi ý-kiến
cháu, và chúng tôi cũng phải cho so đôi tuổi xem đôi trẻ có hợp nhau
không ? »
Bà mối thưa : « Ông bà nghĩ thế rất phải, nhưng xưa nay
« cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy », việc này tùy quyền ở nơi ông bà nhiều
chứ cháu nó có biết đâu ».
- Đành rằng vậy, nhưng việc hôn-nhân của nó cũng phải hỏi qua
nó. Vả lại thế nào chúng tôi cũng phải xem tuổi của đôi trẻ có hợp hay lại xung
nhau.
Bà mối nói : « Vâng xin ông bà cứ cho so đôi tuổi, nếu
đôi trẻ xung-nhau, cũng là một điều kỵ. Mong ông bà sẽ trả lời cho chúng
tôi ».
Ông đồ đáp : « Vâng dù thành lứa-đôi của các cháu hay
không thành, chúng tôi sẽ xin trả lời rõ-rệt. Xin bà cứ về nói chuyện với ông
bà Chánh-Tổng là được ông bà Chánh-Tổng có lòng yêu, chúng tôi mừng lắm, nhưng
xin để cho chúng tôi so đôi tuổi trước khi chúng tôi trả lời ».
Bà mối ra về nhắc lại cho bố mẹ Thúc những lời của ông bà đồ.
Thúc hy-vọng và tin chắc rằng Tiệp sẽ không khỏi được tay
mình, chính vì vậy nên khi biết Tiệp đi chợ phải về qua bến đò, Thúc đã ra đón
nàng, trước là để nhìn thấy nàng, sau là để trao đổi vài ba câu chuyện với nàng
cho thỏa lòng ao ước và đỡ nhớ. Thúc càng thấy Tiệp nghiêm-trang từ-chối không
tiếp chuyện với mình một cách dễ-dãi, càng kính yêu nàng.
Ngay hôm đi chợ về, buổi tối Tiệp được ông bà đồ gọi cho hay
tin gia-đình Thúc muốn xin nàng cho Thúc. Vừa được cha nói cho nghe, Tiệp đã
giãy nẩy và từ-chối : « Thưa thày u con còn nhỏ chưa muốn lấy chồng.
Thày u cho con đợi vài năm nữa ».
Ông đồ cười bảo con : « Các cô gái, cô nào nói đến
chuyện lấy chồng cũng kêu mình còn nhỏ nhưng cô nào rồi cũng lấy chồng hết ».
- Nhưng thưa thày u, con không muốn lấy anh Thúc.
Nghe con nói, ông đồ đưa mắt nhìn bà đồ. Rồi ông bảo
con : « Thì người ta mai-mối, thày u cũng phải cho con biết chứ thày
u đã gả ngay con cho thằng Thúc đâu mà con lo. Người ta nhờ người đánh tiếng,
thày cũng hãy cứ biết thế, rồi thày u sẽ liệu ».
Tiệp mừng lắm. Ông đồ đã nói vậy tức là nàng còn có quyền từ-chối.
Bà đồ cũng bảo : « Có gả thày u cũng cần hỏi ý-kiến con.
Ép dầu, ép mỡ ai nỡ ép duyên. Con bằng lòng thì thày u gả, con không bằng lòng
rồi thày u sẽ liệu ».
Tiệp đem việc gặp Thúc lúc ban chiều và thái-độ cợt-nhả của
Thúc nói với ông bà đồ. Nàng nói : « Anh ấy ghẹo con như vậy, con thấy
anh ấy không đứng-đắn ».
Ông đồ gật-gù bảo vợ : « Bà xem, tôi nói có sai bao
giờ. Tôi biết thằng Thúc là thằng bất-nhân, số tử-vi của nó rành-rành ra đó. Nó
đang nhờ mai-mối xin con mình mà nó lại giở trò trêu hoa ghẹo nguyệt với con
mình. Gả làm sao được. Để tôi trả lời dứt-khoát cho người ta ».
- Cái đó tùy ông, tôi đàn-bà chỉ biết theo ý ông. Hay nên thế
nào ông cứ định liệu lấy, cốt sao cho con trẻ nó khỏi khổ sau này.
Ông đồ với cái điếu hút điếu thuốc. Ông thở hơi khói bay
thành một làn dài. Sau đó ông chiêu ngụm nước. Thấy câu chuyện của mình cũng đã
xong, Tiệp đi xuống dưới nhà.
Còn lại hai ông bà đồ. Ông đồ bảo vợ : « Tôi dạy thằng
Thúc học nên tôi hiểu nó lắm. Ngay từ lúc bà mai đánh tiếng, tôi đã có ý từ-chối.
Nay con Tiệp nó nói cho mình biết việc thằng Thúc ghẹo nó, tôi lại thấy rõ tư
cách thằng Thúc hơn ».
Bà đồ nói : « Mình có con gái lớn, có người hỏi tới là tốt.
Mình cũng chẳng nên khó-khăn làm gì, nhưng ông tính như vậy là phải lắm. Gả chồng
cho con, cũng nên tìm người rể có tư-cách ».
Hai ông bà còn bàn nhiều về việc hôn-nhân của Tiệp, trong khi
ở dưới nhà bếp vừa bận lo công việc nhà, Tiệp vừa thấy lòng sung-sướng. Cha mẹ
nàng đã không ép nàng lấy Thúc, nàng sẽ còn có thời-gian chờ đợi. Nàng mong
Khoan sẽ nhờ người mai-mối đánh tiếng với cha mẹ nàng. Nàng lẩm bẩm :
« Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công chuốt lục tô hồng điểm-trang ».
Bên ngoài trời-trăng thu vằng-vặc. Một vài giải mây kéo trên
trời dăng hàng lững-thững. Gió thu dịu-dàng đuổi theo mây.
Đàn vạc ăn đêm bay lưng trời buông mấy tiếng dài như muốn làm
rung-động sự yên-tĩnh của trời khuya.
VIII
Đã đến nửa tháng rồi, Thúc nghỉ học. Không phải chàng đã học
thành tài hay vì công việc nhà bận. Chàng nghỉ học vì ông đồ Ngư đã trả lời cho
mai-nhân của gia-đình chàng tuổi chàng và tuổi Tiệp không hợp nhau, nên ông rất
tiếc không thể gả Tiệp cho chàng.
Và ông đồ cũng gọi Thúc bảo riêng trong một buổi học :
« Thày biết con có lòng thương em Tiệp, nhưng con đã học con phải hiểu
nghĩa hợp sung của kinh Dịch. Thầy thương con lắm, nhưng nếu thày gả em Tiệp
cho con rồi sau này gia-đình bất-hòa hoặc có sự khắc nhau chết tróc, thày sẽ
ân-hận. Âu cũng là thiên số khiến tuổi con không hợp với tuổi em Tiệp. Thày rất
tiếc, nhưng xưa nay có ai cưỡng nổi số trời. Con cũng đừng nên lấy thế làm buồn.
Đã học đạo thánh hiền, con phải theo nghĩa khoáng-đạt của kinh sách ».
Nghe lời ông đồ nói, Thúc không đáp lại, chàng thừ người buồn
rầu.
Ông đồ lại khuyên : « Trong làng thiếu gì con gái,
xứng đôi với con. Khoáng-đạt lên con ạ ! Con cũng nói với ông bà Chánh-Tổng
là thầy rất cảm-ơn ông bà, nhưng trước số mệnh thày làm sao dám cưỡng ».
Với bà mai ông đồ đã nói dứt-khoát hơn : « Vợ chồng
tôi cám ơn ông bà Chánh-Tổng đã có lòng yêu tới vợ chồng tôi và thương tới
cháu, nhưng chúng tôi rất tiếc phải từ chối không gả cháu cho con ông bà
Chánh-Tổng, tuổi chúng nó xung-khắc nhau ».
Việc hôn-nhân Thúc mong-mỏi không thành. Thúc chán-nản không
đi học nữa, chàng cũng chẳng buồn tới xin nghỉ để chào thày chào bạn.
Thúc buồn. Cả ngày chàng lang thang đi vơ-vẩn trong làng. Ông
bà Chánh-Tổng thấy con buồn cũng ái-ngại. Ông Chánh-Tổng bảo con :
« Làng ta thiếu gì gái đẹp, chẳng cưới đứa này thì cưới đứa khác !
Không lấy gái làng thì lấy gái thiên-hạ. Con gái đã chết hết đâu ! »
Trưa hôm đó, Thúc vơ-vẩn đến xóm ông đồ Ngư. Vừa vào lúc tan
học, học-trò ra lần lần. Thấy các bạn Thúc muốn tránh mặt. Bỗng chàng nghe có
tiếng gọi : « Anh Thúc ! Anh sao lâu nay không đi học ? »
Thúc quay lại. Người gọi chàng là Thảo. Xưa nay Thảo đối với
Thúc rất có cảm-tình, Thảo cũng được tin Thúc xin dạm Tiệp, nhưng bị ông đồ khước-từ,
và sau đó Thúc nghỉ học, Thảo thương cho Thúc. Thúc là con nhà danh-giá, trông
mã người cũng không đến nỗi nào, và cũng là học trò giỏi của ông đồ. Thúc sánh
với Tiệp đẹp đôi, trai tài gái sắc, hộ đối môn đăng. Phải chi Thúc là con nhà bố
cu mẹ đĩ thì chẳng nói, đàng này cũng con ông cháu cha, cũng người làng người
nước, lại là học trò của ông đồ. Thảo cũng mong-manh nghe nói ông đồ bảo tuổi
đôi bên xung-khắc. Dù sao, Thúc cũng đáng thương hại.
Thúc đứng lại chờ Thảo. Thảo bảo Thúc : « Lớp học vắng
anh, anh em nhất là chúng tôi nhắc tới luôn ».
Thúc thẩn-thờ trả lời : « Tôi mặt mũi nào đi học nữa !
Cô Tiệp chê tôi, thầy cũng không thương tôi ».
Thảo nói : « Anh cứ nghĩ vậy chứ, tôi thấy nói thày so
đôi tuổi, tuổi của anh không hợp với tuổi chị Tiệp. Thày vẫn thương anh như
thày thương chúng tôi. Có bao giờ thày ghét học-trò đâu ».
- Thày không ghét ai, nhưng thày ghét tôi.
- Anh đừng buộc oan cho thày. Anh cứ đi học lại xem có phải
thày vẫn thương anh không.
Thúc trầm-ngâm không nói năng gì. Chàng nhìn Thảo, Thảo mỉm
cười rồi nói : « Thôi mai anh lại đi học đi. Chúng tôi nhớ anh lắm !
Cứ kể anh cũng đáng thương-hại, nhưng ở đời này có phải chỉ có chị Tiệp xứng với
anh thôi đâu ».
- Cảm ơn chị an ủi tôi.
Câu chuyện tới đó, đôi người chia tay nhau. Thảo không dám
rùng-rằng nói nhiều với Thúc sợ có người trông thấy, họ đàm tiếu, còn Thúc thì
muốn lang-thang đi một mình để chìm đắm với nỗi buồn hơn.
Nỗi buồn mang-mang xâm chiếm tâm-hồn Thúc. Thúc muốn quên
ngay Tiệp, nhưng hình ảnh duyên-dáng ấy lại luôn luôn ám-ảnh trí óc chàng. Thúc
cố phân tách tại sao cuộc tình-duyên của chàng với Tiệp lại trắc-trở. Phải
chăng tại ông đồ, hay chính là Tiệp đã không thuận lập gia đình với chàng.
Nhưng tại sao Tiệp lại có điều không thuận ấy ? Vạn sự chẳng qua chỉ do
Khoan. Phải những cái nhìn đầu mày cuối mắt của đôi bên, những cái mỉm cười kín
đáo xưa nay Thúc hằng bắt gặp. Thúc nghĩ mà giận Khoan ! Thúc nghĩ mà oán
Khoan ! Thúc không thể nào tha-thứ cho Khoan được ! À ra xưa nay
Khoan chỉ đạo-đức-giả để chiếm lấy lòng của Tiệp. Chính vì Khoan mà Thúc phải
thất-vọng ! Mối hận tình này Thúc quyết không quên, và Khoan sẽ phải trả một
giá xứng-đáng bởi Khoan đã là đầu mối mọi sự bất thành cuộc nhân-duyên của Thúc
với Tiệp.
Lan-man Thúc lại nghĩ đến Thảo, nghĩ đến sự ân-cần của nàng.
Phải chi Thúc được yêu Thảo, chàng sẽ không đau-đớn thất-vọng. Thảo cũng con
nhà gia thế lại giàu có. Cha Thảo tuy không là tay văn-tự nhưng có học và được
tưởng-thưởng Cửu-phẩm bá-hộ.
Thảo cũng duyên-dáng dịu-dàng, lại nết-na. Suốt trong thời kỳ
cùng học với nàng. Thúc thấy nàng hiền hậu. Trông Thảo cái gì chàng cũng thấy tốt,
vậy không hiểu tại sao lòng chàng không hướng về phía Thảo, lại đuổi theo hình
bóng của Tiệp. Trong sự yêu đương thật có nhiều điều lắt léo ! Người có thể
yêu được, ta không yêu, ta cứ say-mê người ta không yêu được.
Về phần Thảo, sau khi từ giã Thúc, nàng cũng thấy bần-thần
trong người. Nàng thương hại Thúc, và chính nàng cũng nghĩ giá Thúc nhờ người
đánh tiếng với cha mẹ nàng có lẽ không bao giờ nàng từ-chối. Nàng cũng đã lớn
tuổi, sắp phải nghỉ học để ở nhà giúp đỡ cha mẹ như Tiệp. Nàng tự so-sánh nàng
với Tiệp, nàng thấy cũng không thua kém gì Tiệp về phương-diện gia-thế cũng như
về phương-diện tài-sắc. Phải chi không có Tiệp, chắc là Thúc phải để ý tới
nàng. Nàng ghen với Tiệp. Trong khi Tiệp còn đi học, nàng đã ghẻ lạnh với Tiệp
vì Khoan săn-sóc tới Tiệp nhiều, nay nàng lại thấy chỉ vì Tiệp mà Thúc không nhận
thấy nhan-sắc cũng như vẻ duyên-dáng của nàng.
Vừa đi nàng vừa vẫn-vơ nghĩ-ngợi như vậy, chẳng mấy chốc đã tới
nhà.
Mấy đứa em chạy ra đón. Chúng nó reo lên : « Chị Thảo
đi học về ».
Khác với mọi ngày, hôm nay nàng không trao sách cho các em cất,
và nàng cũng không bế thằng em út lên như mọi khi. Nàng thẫn-thờ nghĩ về Thúc.
Thằng em chạy theo đòi bế, nàng khẽ bảo em : « Hôm nay chị mệt chị
không bế được ».
Nàng vào trong nhà nằm cho tới bữa cơm. Mẹ hỏi, nàng đáp là
hơi nhức đầu. Tuy vậy, buổi chiều nàng lại đi học như thường. Nàng tự thấy mình
vô-lý buồn không đâu. Truyện của Thúc với Tiệp có can-dự gì tới nàng. Nếu Thúc
đau khổ đó là việc của Thúc, trừ khi nào Thúc quên được Tiệp, điều nàng rất
mong-mỏi, vì một khi đã quên Tiệp, Thúc sẽ phải để ý tới một người khác, và người
đó chắc phải là nàng.
Đến lớp học Thảo gặp Hoài. Nhìn sắc-diện của Thảo, Hoài hỏi :
« Chị Thảo làm sao mà trông người như thất sắc vậy ? »
Thảo đáp : « Buổi trưa em hơi nhức đầu, nhưng bây giờ đã
đỡ ».
Rồi nàng bảo Hoài : « Lúc tan học về em gặp anh Thúc.
Trông anh ấy buồn-rầu thiểu não quá ».
- Thất vọng vì tình mà ! Cho anh ấy đáng kiếp ! Còn
không biết chị Tiệp hay sao lại định bẻ quế cung hằng.
- Chị ác quá ! Người ta đau-khổ đã không thương lại còn
nói giọng moi-móc.
- Đâu có phải tôi moi-móc. Tôi nói thật đấy. Quế cung Hằng đã
dành cho người khác rồi. Sao anh Thúc lại choi-moi vào. Hàng ngày đi học ở đây,
anh ấy không thấy sao ?
- Chị định nói gì tôi không hiểu ?
- Tôi xin chị đi, vờ-vĩnh mãi. Chị không để ý đến những cái
nhìn đầu mày cuối mắt của ai với ai sao.
- Tôi cũng thoáng thấy, nhưng chủ-trương việc nhân-duyên của
chị Tiệp đâu phải là tự ý chị ấy. Quyền gả bán là ở thày chứ.
- Đã đành vậy, nhưng nếu chị Tiệp nhất quyết không ưng, nỡ
nào thày ép buộc. Nhưng thôi, mặc chị Tiệp đấy, chúng ta bận tâm tới mà
chi !
Lúc ấy Khoan cũng đã tới, và các học-trò khác cũng đã cùng
nhau lục-tục có mặt, Thảo và Hoài phải ngừng câu chuyện.
Trong lớp lại vang lên những tiếng chi, hồ, dã, giả. Hoài
cũng như Thảo, cả hai đều giở sách chăm chú xem.
Tiếng học trò ồn ào. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng roi mây của
ông đồ Ngư vun-vút quất xuống ghế ngựa hoặc vào mông đít một cậu trò nhỏ đã viết
chữ xấu hoặc đã giảng nghĩa sai một chữ nào.
Thảo và Hoài vừa học vừa đưa mắt nhìn trộm Khoan, rồi hai người
lại cùng nhau tủm-tỉm cười.
Khoan vẫn như thường-lệ thay ông đồ để dạy lũ trẻ. Thỉnh-thoảng
chàng liếc mắt nhanh đưa nhìn ra sân, mong thoáng thấy bóng Tiệp đi qua.
IX
Mấy hôm nay làng Kim-Đôi vào đám.
Nhất niên nhất lệ, làng này cũng như nhiều làng khác tại vùng
quê Bắc-Việt, tháng tám nhân dịp Thu tế thường mở hội để dân làng mua vui.
Người dân quê quanh năm bận bịu với đồng ruộng, hàng năm chỉ
được nhàn-rỗi về vụ giêng hai và tháng tám. Giêng hai ngày rộng tháng dài, lúa
chiêm đã cấy xong, việc làm mùa cũng vãn, người ta chỉ chờ ngày gặt hái. Tháng
tám lúa mùa cũng đã cấy, vụ nước lớn đã qua, người dân cũng rỗi rãi chờ vụ gặt.
Bởi vậy, các làng xã nhiều nơi mở hội vào đám trong những tháng giêng tháng hai
và tháng tám, gọi Xuân tế và Thu tế. Trong ngày hội có tế lễ, rước xách và có
nhiều trò vui để dân làng giải-trí và dân các làng lân-cận tới mua vui.
Làng Kim-Đôi mở hội từ mồng Mười tới Mười Lăm tháng tám. Các
bô-lão, các vị chức-sắc được làm chủ-tế hoặc phụ-tế hoặc phụ-tế đều phải lo sắm-sửa
quần áo cho chỉnh-tề để dự tế. Đó là một vinh dự lớn tại nơi thôn xã, khi ra chốn
đình-trung.
Các trai làng từ 18 tuổi trở lên được cử vào chân đi rước,
khiêng kiệu, cầm cờ hoặc chơi âm-nhạc. Các chàng được cử đi rước cũng phải sắm
y-phục cho thật đẹp, thật mới, vì ngày hội có nhiều gái làng và gái thiên-hạ tới
xem rước, xem tế. Đám rước thường đi từ đình tới chùa, hoặc từ đình xã tới đình
thôn. Ban ngày thì rước tế, ban tối thì có hát chèo ngay ở sân đình, có các cụ
cầm trống thờ. Mỗi tiếng tung, cắc vào mặt trống hoặc vào thành trống đều có ý
nghĩa thưởng, phạt, và khi chi tiền hát chèo, có thêm tiền thưởng, theo với số
tung, cắc.
Ngày hội, trai gái làng nô nức đi xem, và trai gái thiên-hạ
cũng kéo tới. Đó là một thông-lệ tại đồng quê, khi làng này kéo hội người làng
khác rủ nhau tới xem, và đến khi làng khác vào đám người làng này cũng kéo nhau
đến xem lại.
Đó là những dịp duy nhất để trai gái trong làng cũng như trai
gái thiên hạ gặp nhau, đấy là những dịp duy nhất để các cô thôn nữ thoát khỏi sự
kiềm tỏa của câu « nam nữ thụ thụ bất thân ».
Có lẽ người ta thấy sự quá khắt-khe đến khô-khan của đạo-lý
không cho trai gái được gần gũi truyện trò với nhau, cho nên trong những ngày hội-hè
đình đám người ta cố tình quên sự khe-khắt đó đi, để cho bọn nam nữ mới lớn lên
có dịp gặp-gỡ nhau trao đổi đôi ba câu chuyện. Lẽ tất nhiên có cả chuyện yêu
đương, nó đã làm đầu mối cho nhiều cuộc lương-duyên tốt đẹp.
Nhân dịp làng mở hội, học trò lớp học ông đồ Ngư đều được nghỉ
học. Các trò con trai lớn trên mười tám phải tham dự các cuộc tế rước còn các
trò nhỏ cũng như các nữ-sinh được dịp đi xem hội.
Khoan và Đáp cũng có chân đi rước. Và cả Thúc nữa.
Nhà Thúc sẵn tiền, bộ quần áo đi rước của chàng sang trọng lắm.
Đầu chàng chít khăn lượt tàu đen lánh, áo the ba-chỉ phủ
ngoài áo dài trắng, quần lụa mở gà. Chiếc thắt lưng điều thắt ngoài áo the đỏ
chói bằng nhiễu Kỳ-Cầu, một thứ nhiễu rất tốt. Khoan và Đáp cũng ăn mặc chỉnh tề
đúng lệ làng. Hai chàng phải cắt vào chân khiêng kiệu, còn Thúc nhờ thế-lực của
cha được làng cử vào ban âm-nhạc.
Trong lúc đi rước, các chàng trai tuy khiêng kiệu, hoặc cầm cờ,
hoặc phụ trách công việc khác, nhưng mắt vẫn không rời khỏi đám khán giả đi xem
rước, trong đó có các cô gái làng má đào yếm thắm, yểu-điệu thanh-tân, dáng điệu
dịu-dàng khả-ái, với những nụ cười kín-đáo đáng yêu. Và chính các cô đi xem rước,
không phải để xem cờ hoặc để nghe đàn nghe địch, nhưng cốt để cho các chàng
trai đi rước ngắm mình, và mình cũng ngắm lại. Các cô thường đi một bọn đôi ba
cô. Có đi như vậy, mới vui, mới khỏi ngượng-ngùng e-lệ. Các cô rúc-rích cười
cùng nhau khi một chàng trai trong đám rước nhìn mình bước hụt, rồi các cô cùng
góp ý kiến về trai làng ở thôn trên xóm dưới.
Thảo và Hoài cũng ở trong đám các cô đi xem rước. Mắt Thảo
không rời khỏi Thúc, tuy thỉnh-thoảng nàng cũng có ngắm các chàng trai khác.
Trông Thúc có vẻ sang trọng hơn những bạn cùng đi rước, với bộ quần áo đẹp và đắt
tiền. Thúc cũng để ý nhìn ra bên đường. Chàng cốt ý tìm kiếm Tiệp trong đám các
cô đi xem hội, nhưng chỉ thấy các cô gái khác, cô nào cũng trang-điểm mỹ-lễ quần
áo mới, yếm đào, giải lụa. Mắt chàng gặp mắt Thảo. Chàng mỉm cười Thảo cũng mỉm
cười theo.
Thảo chỉ cho Hoài : « Anh Thúc kia kìa ! Anh ấy
đánh đàn ».
Hoài ngó theo tay Thảo chỉ. Nàng bắt gặp Thúc đang nhìn về
phía mình và Thảo. Trông Thúc sang-trọng lịch-sự lắm. Vậy mà sao, ông đồ lại từ
chối không gả Tiệp cho Thúc.
Hoài bảo Thảo : « Trông anh Thúc ăn mặc sang
quá ! »
- Nhà ông Chánh-Tổng thiếu gì tiền.
Đám rước rầm-rộ đi. Hôm nay rước từ đình thôn Kim-Đôi đến
chùa làng. Theo tín-ngưỡng của dân làng, ngày hôm nay đức Thành-Hoàng tới yết-kiến
đức Phật.
Đi đầu đám rước là trống làng, một chiếc trống cái to do hai
người rước khiêng và một ông quan viên cầm dùi đánh từng tiếng một. Sau đó là mấy
thanh niên thập bát vác cờ đuôi theo ngũ hành, màu sặc-sỡ xanh, đỏ, trắng, tím,
vàng. Những lá cờ phấp-phới bay trước gió như mừng nền thái-hòa thịnh-trị của đất
nước.
Hết đoàn cầm cờ, tới đoàn thanh-niên mang những tự-khí gồm
đao kiếm, bát-bảo, lộ-bộ sơn son thếp vàng. Họ xếp thành hàng đôi, bước đi hùng
dũng theo nhịp trống.
Một tiếng trống, hai tiếng trống ! Họ bước đều !
Sau đoàn vác đao kiếm côn chùy là ban âm nhạc.
Có những chàng trai phồng mép thổi sáo, có những nhạc sĩ dẻo
tay đánh đàn, và lại có những chàng chơi sinh tiền hoặc đánh trống bưng. Sinh
tiền là một nhạc khí gồm những đồng tiền cổ, lồng vào một chiếc cán bằng sắt.
Chơi sinh tiền phải biết cách rung chiếc cán để những đồng tiền chạm vào nhau
gây nên những âm thanh hòa nhịp với tiếng đàn, tiếng nhị, tiếng trống bưng, tiếng
sáo.
Rồi một cụ già áo thụng khăn lam cầm hương đi trước kiệu. Hai
bên cụ già có hai quan-viên hoặc chức-sắc khác đi kèm, cũng khăn lam áo thụng.
Ba người này được hai thanh niên đi sau vác lọng che nắng. Những chiếc lọng mặt
ngoài màu đen, nhưng bên trong màu sặc-sỡ với những ngù kim-tuyến óng-ánh bên
những mảnh kính long-lanh. Lọng xòe rộng đến hai sải tay. Cán lộng bằng tre được
sơn đen bóng nhoáng. Vác lọng xem chừng nặng, chốc chốc lại có hai thanh niên
khác tới thay phiên nhau.
Kế bên cụ già cầm hương là kiệu của đức Thành-Hoàng. Chiếc kiệu
sơn màu đỏ chói có dát những hoa bạc điểm vàng rực rỡ. Kiệu hình một ngôi đền
nhỏ, bốn góc uốn cong. Trên đỉnh kiệu có vành nguyệt lấp lánh dưới ánh nắng thu
theo đà khiêng của đám thanh-niên khỏe mạnh. Trong kiệu, về mé sau có kê bài vị
của Đức thần linh. Ngay trước bài vị là bát hương khói trầm nghi ngút. Mé trước
và hai bên có rèm chỉ ngũ-sắc. Những dây tua xanh đỏ treo mé trên tăng màu sặc-sỡ
cho những chiếc riềm lung-lay trước gió.
Tám thanh-niên khỏe mạnh khiêng chiếc kiệu. Hai thanh niên
khác vác hai chiếc quạt lông thật lớn áp vào hai bên kiệu. Lại có thêm hai
thanh niên vác hai chiếc tàn bằng nhiểu nhiều màu, hoa sặc-sỡ đi theo che kiệu.
Chiếc kiệu tiến đủng-đỉnh. Các quan viên trong làng và các bà
các cô đi sau vừa đi vừa lâm-râm cầu-nguyện.
Có những chàng trai đội đồ lễ đi theo. Những đồ lễ này dùng để
đức Thành-Hoàng vào lễ Phật.
Đám rước kéo dài trong đường làng, người trong làng đi xem rước
rất đông. Họ đi ở hai bên đường để nhìn ngắm người đi rước, nhưng cũng còn nhiều
người đi sau kiệu, tiếp vào các vị quan-viên thành một khối.
Những con trẻ chạy tung-tăng sung-sướng hớn-hở. Các cô gái
làng miệng tươi như hoa, mắt sáng ngời cười nói chỉ trỏ.
Hoài và Thảo vẫn đi bên cạnh đường nhìn theo ban âm nhạc
trong đó có Thúc.
Chiếc kiệu thần lướt qua trước mặt các cô.
Một em nhỏ đứng cạnh nói với một em khác : « Kìa
anh trưởng tràng đang khiêng kiệu. Cả anh Đáp nữa mày ơi ! »
Hoài và Thảo nhìn vào quả nhiên thấy Khoan và Đáp, kẻ trước
người sau đang bước đều chân theo nhịp bước của các bạn đồng-hành. Hai cô không
thấy hai người nhìn ra, nhưng chính ra cả hai người đã thấy rõ hai cô đang chỉ
trỏ về phía họ.
Hoài bảo Thảo : « Hai anh ấy đi nghiêm-chỉnh quá,
không thèm nhìn ra bọn mình ».
Thảo chưa kịp trả lời thì bỗng có một người đi len vào giữa
hai cô. Hai cô quay lại là Tiệp. Tiệp cũng cần đi xem rước để được thấy mặt
Khoan, để được nhìn điệu bộ Khoan trong lúc làm bổn-phận trai làng.
Tiệp bảo hai cô : « Hai chị cũng đi vui nhỉ. Em vừa
ở nhà ra đây, may quá vừa kịp xem rước ».
Hai cô cùng cười. Hoài chỉ Khoan và Đáp nói : « Kia
kìa, anh Khoan và anh Đáp đang khiên kiệu, chị thấy chưa ? Và cả anh Thúc ở
ban âm nhạc, trông lịch-sự lắm ».
Tiệp nhìn vào đám kiệu. Vừa lúc ấy Khoan cũng nhìn ra. Bốn mắt
gặp nhau. Đôi lòng cùng rung-động.
Ba cô dắt nhau đi theo đám rước tới tận chùa. Ở cổng chùa, sư
cụ đã đứng đón kiệu thần.
X
Tối hôm ấy ở đình Kim-Đôi có hát chèo thờ thần. Mới chập tối,
trống chưa rung, giữa sân đình, hai bên sàn đình đã đông nghẹt những người, lớn
có, bé có, già có, trẻ có, trai có, gái có. Những hàng quà lâm-thời bán trong
những ngày hội cũng bày thêm nhiều quà bánh. Họ ngồi ở lối vào đình hoặc ở ngay
các góc sân đình.
Hoài và Thảo cũng có mặt trong đám khán giả đang đợi chờ buổi
hát khai diễn. Hai cô có hẹn gặp Tiệp để cùng đứng xem một nơi.
Từ ngày Tiệp nghỉ học, mối ghẻ lạnh giữa nàng và hai bạn như
đã biến mất, chỉ còn lại tình bạn cũ. Vả lại Tiệp cũng ít có dịp gặp các cô
lâu, có gặp chỉ đủ kịp trao đổi mấy câu chào hỏi, vì Tiệp còn bận việc của Tiệp,
các cô bận việc học của các cô.
Lúc ở chùa từ biệt các bạn sau đám rước, Tiệp nói :
« Có lẽ tối nay em cũng xin phép thầy em để ra đình xem chèo. Các chị có
đi cho em gặp nhé ».
Hoài và Thảo cùng đáp : « Chúng em sẽ chờ chị ở sân
đình. Tối hôm nay chắc vui lắm. Chắc các anh Đáp, Khoan và Thúc cũng đi
xem ».
Nhắc đến Khoan, Tiệp thấy vui vui, nhưng khi các bạn nói đến
Thúc, nàng hơi khó chịu. Nàng không muốn thấy mặt Thúc, nàng không muốn ai nhắc
đến Thúc trước mặt nàng. Tiệp nói : « Đi xem chèo, mình cốt xem chèo,
còn các anh ấy đi hay không có can hệ gì tới mình ».
Hai cô nhìn Tiệp, hóm-hỉnh cười và đồng-thanh nói :
« Có can dự lắm chứ ! ».
Tiệp không đáp lại.
Tối hôm đó, lúc trống phường chèo bắt đầu rung để mời các cụ
và các quan-viên tới dự khán, thì Tiệp lên xin phép ông đồ để được đi xem. Ông
đồ cũng khăn áo chỉnh-tề để sắp-sửa ra đình, nhìn con hơi suy-nghĩ rồi bảo :
« Ừ, con muốn xem, đi mà xem, nhưng con dắt thằng Mẫn cho nó cùng
đi ».
Mẫn là em trai Tiệp, lên chín tuổi. Ông đồ muốn Tiệp dắt Mẫn
đi để nàng bị bận em, không thể đua đàn cùng các bạn trong những truyện có hại.
Ông đồ hiểu lắm, đi xem hội, nhất là đi xem chèo buổi tối là những dịp trai gái
hẹn-hò để gặp-gở nhau.
Ông lại nói : « Chèo tối nay diễn tích Nam-Dương
Thành Ngũ-Vân-Thiệu bị vây, hay và có nghĩa lý đó. Vợ họ Ngữ hy-sinh cho chồng
là một tấm gương sáng cho phụ-nữ muôn đời. Con đi xem phải lắm ».
Tiệp dẫn Mẫn ra đình. Tiếng trống vẫn rung. Sân đình tấp-nập
những người, ồn-ào tiếng cười tiếng nói. Trẻ con xô nhau chạy nhảy, chen lấn
vào gần trước bàn thờ giữ chỗ tốt để xem cho rõ khi chèo khai diễn.
Ngay trước cửa đình, hai bên hai chiếc giá mỗi bên cắm năm lá
cờ đuôi nheo ngũ sắc. Trời tối không ai thấy màu cờ chỉ nghe thấy tiếng cờ bay
trước gió phấp-phới.
Buổi hát chưa khai diễn, Tiệp dẫn Mẫn đi tìm Hoài và Thảo. Ở
một góc sân đình, nàng thấy hai bạn đang đứng nói chuyện với một chàng trai, đó
là Thúc. Tiệp ngập-ngừng dừng bước, rồi nàng dắt em quay đi nơi khác.
Nàng tới trước cửa đình, nơi sắp diễn chèo : Chèo sẽ diễn
ngay trước bàn thờ đức Thành-Hoàng, nhưng ở ngoài sân.
Trừ phía bàn thờ, ba phía kia đều có chăng giây để ngăn khán
giả khỏi xem tràn lấn vào làm cản trở các diễn-viên. Với cái sân khấu tạm thời
bé nhỏ đó, dân chúng làng Kim-Đôi cùng nhiều khán-giả từ các làng lân-cận tới sẽ
mua vui với ban chèo.
Giờ khai-diễn đã gần tới nên các cụ và quan-viên đã tề-tựu hầu
đủ mặt, tại sân đình, hai bên tả hữu trước bàn thờ. Một chiếc trống cái lớn đặt
ngay dưới bục lễ dành để các cụ và các quan viên ban tư văn cầm chầu.
Trên bàn thờ khói hương nghi ngút, đèn nến sáng choang. Bức
hoành phi thiếp vàng chói lói với bốn chữ Thượng Đẳng Phúc Thần, treo cao trước
gần sát mái đình phản chiếu lại ánh đèn nến rung rinh. Mùi hương trầm ngào ngạt.
Chiếc y-môn sặc-sỡ riềm kim tuyến nhẹ nhàng lay động. Hai cánh y-môn được buộc
cao lên để lộ những đỉnh trầm hương bằng đồng đỏ ối với khói trầm cuồn cuộn
dâng lên. Những cây nến, những ống hương, những đài rượu bằng đồng bóng chói.
Trên những chiếc mâm đồng, có hoa quả bày biện rất gọn-ghẽ nhưng hào-nhoáng.
Trên những hàng cột, những đôi câu đối sơn đen chữ vàng treo
thõng từ cao xuống.
Đã tới giờ khai-diễn. Một hồi trống cái nổi lên. Cụ tiên chỉ
ra trước bàn thờ khấu đầu làm lễ rồi lâm-râm khấn để trình cùng đức Thượng-Đẳng
buổi diễn chèo tối nay. Một cụ bô lão cao niên được mời cầm trống khai-mạc.
Hồi trống dứt cụ tiên chỉ cũng làm lễ xong. Chèo hát giáo đầu.
Mé ngoài sân người ta chen nhau ồn-ào như muốn làm át cả tiếng hát của diễn-viên
cũng như tiếng đàn nhị của ban âm-nhạc.
Diễn chèo ở đây không có hậu-trường sân-khấu.
Ban chèo được dân làng dành cho một góc nhỏ, ngay gần sân
đình để làm nơi hóa-trang.
Tiệp đã tìm được nơi gần ngay sân diễn để hai chị em cùng đứng.
Đứng xem chèo nhưng tâm trí Tiệp vẫn nghĩ đi nơi khác. Nàng đang nhìn quanh để
tìm Khoan, thằng Mẫn đứng xem chèo, nhiều đoạn không hiểu, hỏi chị thì chị trả
lời một cách rất mơ-hồ. Bực mình, nhiều lúc nó kéo tay Tiệp đòi về. Nó bảo nó
không thích xem chèo. Tiệp lúc ấy lại phải dỗ khéo, nó mới chịu đứng lại.
Chèo vẫn tiếp-tục. Tiếng trống chầu vang trong đêm khuya. Các
vai trò thay nhau ra lại vào, hết than đến hát, rồi lại than.
Vai đào nữ đóng vợ Ngũ-Vân-Thiệu rất khéo, tiếng than siết
bi-ai não-nuột, khiến nhiều bà, nhiều cô thôn-nữ đứng xem phải rấm-rứt rơi lệ.
Đứng giữa đám đông người như muốn ngộp hơi, thằng Mẫn đòi ra
ngoài cho mát. Thật đúng với ý Tiệp. Nàng cũng đang muốn ra ngoài để nhân dịp
xem có gặp Khoan không.
Trên trời trăng thu vằng-vặc. Gió đêm thu hơi lạnh lạnh. Một
vài chiếc lá già trên cây cổ thụ trước đình, gặp gió rời khỏi cành chập chờn
bay. Từ đám chèo vọng ra tiếng trống, tiếng đàn, tiếng ca và tiếng ồn-ào của
khán giả.
Ra khỏi đám hát chèo, Mẫn vươn-vai thở mạnh như thấy người
khoan-khoái. Tiệp cũng thấy nhẹ người. Năm ba người khác dáng chừng cũng vì
chen-chúc quá nên cũng rời khỏi đám hát chèo ra đứng ở nơi sân đình rộng-rãi.
Tiệp để ý nhìn, không thấy Khoan và cũng không thấy bọn Hoài
Thảo đâu. Nàng chán-nản không biết có nên lại vào xem chèo hay dắt Mẫn về.
Giữa lúc nàng phân-vân thì Khoan ở đám hát chèo đi tới, Khoan
chào Tiệp, Mẫn chào Khoan và hỏi : « Anh trưởng tràng cũng đi xem
chèo ? Em không thấy hay ».
Mẫn nói đúng. Cái tuổi lên chín của Mẫn đã hiểu sao được cái
hay của chèo cổ mà thưởng thức. Khoan bảo : « Không hay nhưng cũng
vui ».
Mẫn cười. Mẫn xưa nay rất mến Khoan. Ở lớp chính Khoan vẫn viết
tập cho Mẫn tô và giảng bài cho Mẫn học.
Tiệp hỏi Khoan : « Anh trưởng tràng ra đây từ bao
giờ ? Từ tối tôi không gặp ? »
- Tôi ra từ lúc ban chèo rung trống. Tôi cũng để ý nhưng
không thấy cô, chỉ thấy cô Hoài, cô Thảo và anh Thúc.
Tiệp mân-mê tà áo. Nàng không biết nói gì với Khoan tuy nàng
muốn nói với Khoan nhiều lắm. Khoan cũng vậy, chàng cũng muốn nói với Tiệp rất
nhiều, nhưng cũng chẳng biết nói gì. Hai người nhìn nhau giây lâu rồi Tiệp bảo :
« Trời về đêm lạnh anh trưởng tràng nhỉ ».
- Vâng, trời hơi lạnh. Chúng ta xem chèo, có hơi người sẽ hết
lạnh.
Thấy nói lại vào xem chèo. Mẫn không chịu. Nó nói :
« Em không vào đâu, chị Tiệp cho em về ».
Tiệp bảo : « Đi xem hội mà đòi về ! Có ăn quýt chị
mua cho ».
Tiệp chạy lại hàng quà mua cho em mấy quả quýt. Có quýt ăn, Mẫn
không đòi về nữa.
Tiệp và Khoan vẫn đứng bên nhau, nhưng không ai biết nói gì với
ai. Tuy đôi người cũng một ý, nhưng họ chưa hề bao giờ dám thổ-lộ với nhau. Mối
tình câm thắm-thiết trong lễ-giáo khiến hai người càng kính-ái nhau.
Khoan hỏi vẫn-vơ : « Cô sắp về chưa hay còn xem
chèo ? »
Tiệp đáp lững-lờ : « Xem chèo đông lắm, chen vào bây giờ
sao được. Em cũng chưa muốn về ».
Họ lại im lặng.
Giữa lúc ấy, Thúc ở trong đình đi ra. Thấy Khoan và Tiệp đứng
nói chuyện với nhau, Thúc nổi ghen. Thúc giận Tiệp đã từ hôn mình, đã không tiếp
chuyện mình khi gặp-gở, nay lại đứng nói chuyện với Khoan.
Thúc lại gần hai người, rồi nói rất lớn : « Hai bên
tình-tự ở đây với nhau hả ? Làng mở hội để dân làng đi xem mua vui, hai
người lại dám nhân dịp này tính truyện hoa-nguyệt với nhau chăng ? »
Lời nói buộc tội của Thúc làm Khoan nóng mặt. Khoan bảo :
« Anh Thúc không được hồ-đồ. Tôi đi xem hội, cô Tiệp cũng đi xem hội, cô lại
dắt cả em Mẫn đi. Gặp cô tôi chào hỏi đó là lẽ tự nhiên của học trò đối với con
thày ».
Thúc giọng mỉa-mai : « Phải học trò đối với con
thày. Rồi thì nguyệt-hoa, hoa-nguyệt chứ gì ? »
Tức quá Khoan nói : « Anh đừng ăn nói láo. Ở đây còn người
nọ người kia ».
Thấy Thúc kiếm cớ gây sự. Tiệp dẫn Mẫn đi về, nhưng Thúc gọi
Tiệp lại bảo : « Kìa, sao cô Tiệp lại về. Hay cô sợ « nam nữ thụ
thụ bất thân ».
Tiệp không trả lời, cứ dẫn em đi. Thúc nói thêm :
« Mồm nói thì hay lắm, nhưng sự thực vẫn cứ « nam nữ đồng thân »
như thường ».
Tiệp đã đi xa. Một vài người làng thấy Thúc to tiếng chạy lại
xem.
Trước thái độ thiếu lịch-sự, kém lễ-độ của Thúc, Khoan không
nói gì thêm. Chàng không muốn người làng chê cười, và nhất là không muốn Tiệp
mang tiếng, nên trước mọi lời khiêu-khích của Thúc, chàng chỉ cười không đáp.
Thấy không gây sự được với Khoan, Thúc hậm-hực bỏ đi, và
Khoan cũng bước lẫn vào đám người xem hát.
XI
Đêm rằm tháng Tám, hội làng Kim-Đôi chỉ còn buổi nay nữa là
rã đám. Ban chèo đã thôi hát từ bữa trước. Tối nay chỉ còn các bô-lão, các
quan-viên và ban tư văn ra đình làm lễ, sau đó thừa lộc thánh thưởng trăng. Sân
đình không còn đông những khách đi xem hội nữa. Ai nấy đều ở nhà để lo bày cỗ
trông trăng, hoặc rủ nhau tới một vài đám hát trống-quân lập nên ở một vài xóm.
Tháng Tám là mùa hát trống-quân. Tại các làng vùng Kinh-Bắc,
đồng thời dân làng mở hội trong dịp thu tế, các trai gái thường tối tối lập trống-quân
đối đáp hát với nhau.
Trống-quân lập rất dễ. Chỉ cần một thùng gỗ rỗng, thường là
những thùng đựng chè cũ của người Trung-Hoa, một cuộn dây thừng và mấy chiếc cọc
là đủ. Dây căng trên thùng gỗ, hai đầu buộc vào hai chiếc cọc tre đóng chặt xuống
đất cách xa hai bên chiếc thùng đều nhau. Dây đó lại được chống lên trên mặt
thùng bằng hai chiếc cọc nhỏ cho thật căng để khi dùi trống – một thanh tre vừa
tay – đánh vào sẽ văng ra những tiếng « thình-thùng-thình » nhịp cho
tiếng hát của đôi bên nam nữ.
Trống-quân lập nên, những chàng trai quê, những cô thôn nữ
cùng nhau mua vui với tiếng hát, trai xóm này hát cùng gái thôn khác. Họ ganh
nhau tiếng ca, họ thách nhau câu đố, họ vặn nhau trong những lời ứng khẩu.
Các cô thôn nữ có những câu hát để tròng ghẹo các chàng
trai :
« Trống quân, trống quýt, trống còi.
Ta chẳng lấy nó, nó đòi lấy ta ».
« Trống quân có đĩa thịt bò,
Những anh chưa vợ đi mò cả đêm ».
Và các chàng trai cũng có những câu để hát đùa các cô thôn nữ :
« Trống quân có đĩa thịt bò,
Chưa chồng em phải đi mò trống quân ».
« Trống quân hai cọc một dây,
Chưa chồng, em phải đến đây tìm chồng ».
Tối hôm đó, cũng như các thôn nữ và trai tráng khác trong
làng Kim-Đôi, Hoài và Thảo cũng rủ nhau tới những đám trống-quân. Họ đã hẹn hò
với Thúc từ trước.
Tiệp cũng muốn đi nghe hát trống-quân, vì tâm lý các cô gái mới
lớn, cô nào chẳng muốn tới những nơi đông vui ấy, nhưng nhà ông đồ có khách, Tiệp
phải ở nhà hầu-hạ cha. Hơn nữa, tuy là tục-lệ dân làng, nhưng ông đồ cũng không
muốn Tiệp a-dua đàn-đúm quá với chúng bạn, e có thể xảy ra những điều đáng tiếc.
Cho Tiệp đi xem chèo, ông đồ cũng đã ngần-ngại rồi, nhưng vì chẳng lẽ hội làng,
ông lại ngăn cấm con, ra mình quá nghiệt.
Khách của ông đồ là ông Khóa Hữu, bạn học ngày để chỏm của
ông đồ. Ông đỗ Khóa-Sinh và làm ăn ở tỉnh xa, nay nhân quê nhà mở hội, ông Khóa
về thăm nhà và nhân thể gặp các bạn cũ.
Ông Khóa Hữu là bác họ của Khoan. Thấy Khoan hiện là trưởng
tràng của ông đồ Ngư, ông Khóa cũng mừng. Như vậy chứng tỏ Khoan học-hành khá
và tính nết cũng dễ ưa nên mới được thày yêu bạn mến, mới xứng đáng làm trưởng
tràng. Nói chuyện với bố mẹ Khoan, ông Khóa có bàn tới việc lập gia-đình của
Khoan, Điều đó bố mẹ Khoan muốn lắm, nhưng vì gia cảnh không được sung-túc, nên
việc hôn-nhân của con cũng chậm lại. Ông Khóa ngỏ ý là ông sẽ tính giúp.
Gặp ông đồ Ngư ở đình, ông Khóa được ông đồ mời tới uống rượu
thưởng trăng đêm hôm rằm tháng tám. Lâu ngày không gặp nhau, ông đồ cũng như
ông Khóa đều muốn nhân tiệc rượu thưởng trăng ôn lại truyện cũ, ngâm lại những
bài thơ xưa, bàn về văn-chương kinh-sách. Hai ông vẫn là đôi bạn tương-đắc tự
thủa nào.
Vì bận tiếp ông Khóa Hữu, nên ông đồ không dự bữa tiệc thưởng
trăng của làng dành riêng cho các bô-lão, chức-sắc, quan-viên và nhân-viên
trong ban tư văn. Dự bữa tiệc thưởng trăng của dân làng tại đình là một điều
hãnh-diện đối với thôn xã. Dự tiệc tại đình làng tuy vinh dự nhưng đâu có thú bằng
được đối-ẩm với một người tri kỷ, một bạn tâm giao từ ngày để chỏm.
Vì lâu ngày mới gặp nhau, nên câu chuyện giữa hai bạn già rất
nồng nàn. Và ông đồ Ngư cũng thết bạn một bữa tiệc thật là đặc-biệt không phải
vì cao-lương mỹ-vị, nhưng vì tính cách cầu-kỳ, và thích hợp với đêm trăng.
Hai ông cùng nhau ăn ốc trông trăng. Ốc đây không phải là thứ
ốc mua ở chợ đem về hay vớt ở ao ở đồng lên, mà là thứ ốc gác trên gác bếp. Ốc
mua từ hơn một tháng trước, đựng trong rổ, gác lên bếp. Xin chớ ai tưởng rằng ốc
gác lên bếp sẽ bị chết ! Ốc không chết mà lại béo ra vì trong thời gian ở
trên gác bếp, ốc ăn bồ-hóng. Với thức ăn khác thường nầy, loài ốc không những
béo mà khi ta ăn lại có vị, vừa thơm vừa bùi, vừa béo vừa ngậy. Muốn ăn ốc chỉ
cần đem luộc với lá chanh, không cần phải nấu nướng khó khăn gì. Những nhà dư dật
miền quê Bắc-Việt thường mua ốc để dành đến rằm tháng tám thưởng trăng, bằng
cách gác lên bếp.
Ông đồ Ngư mời ông Khóa Hữu uống rượu với ốc luộc thưởng
trăng. Món ăn thật rẻ tiền nhưng thật ngon, và thật hợp với đêm rằm tháng tám.
Rượu ngon, bạn hiền, đồ nhắm tốt, trăng trong gió mát. Hai ông bạn già chén tạc
chén thù cho mãi tới khuya, các ông mới thưởng-thức bánh trung-thu trước khi
tan tiệc.
Hai ông cùng nhau hàn-huyên truyện cũ, truyện mới, trong làng
trong xóm, truyện gần, truyện xa, thật là tâm-đầu ý-hiệp.
Rồi ông đồ Ngư nói tới truyện lớp học và truyện nhà :
« Con cháu lớn nhà tôi có con ông Chánh-Tổng hỏi xin, nhưng tôi đã từ chối.
Thằng đó có học tôi, học không dốt nhưng cũng không giỏi, và có lẽ cũng sẽ chẳng
đỗ-đạt gì. Tôi xem nhà ấy không được vượng phúc-đức, nên tôi không muốn cho
cháu vào cửa đó. Không hỏi được con gái tôi thằng đó đã nghỉ học ».
Ông Khóa Hữu gật-gù nói : « Con ông Chánh-Tổng sau
này lại theo nghiệp cha làm hương-chức hoặc tổng-lý để cầu công-danh. Cứ kể ra
như vậy cũng được, nhưng gả bán con cái ta cần xem phúc-đức nhà chồng
hơn ».
Rồi ông hỏi : « Cháu bác năm nay bao nhiêu tuổi ? »
Ông đồ đáp : « Cháu hãy còn nhỏ lắm, năm nay vừa được
đôi tám. Cháu hiện nghỉ học ở nhà giúp việc mẹ cháu ».
Ông Khóa ngẫm-nghĩ, rồi bảo ông đồ : « Con gái 16
thì cũng đã lớn, cũng đến tuổi xuất-giá rồi. Hay nếu bác không chê thì chúng
tôi muốn xin cháu cho thằng Khoan, con chú nó, hiện đang là trưởng tràng của
bác ».
Ông đồ đáp : « Bác cũng hiểu, tôi có kén chọn gì đâu. Gả
chồng cho con tôi trông vào phúc-đức nhà trai nhiều hơn. Ông Chánh-Tổng làm việc
quan, đôi khi vì nhiệm-vụ phạm đôi điều thất-đức. Tôi sợ những điều đó ảnh hưởng
tới con cháu. Hơn nữa tôi trông tướng thằng Thúc con ông Chánh-Tổng tôi cũng
không ưng nên tôi đã lấy cớ so đôi tuổi không hợp mà từ chối. Còn thằng Khoan,
tôi thấy nó học hành được, tư cách cũng khá. Nó sẽ biết thương vợ thương
con ».
- Nếu bác thương tới cháu thì may-mắn lắm, nhưng xin nói thật,
bác cũng chẳng lạ gì, nhà chú nó không sung-túc.
Ông đồ vuốt mấy sợi râu cằm, cười khà khà bảo :
« Giá-thú bất luận tài. Sung-túc hay nghèo-khó có làm sao. Đàn bà con gái
làng ta xưa nay có ai chê chồng nghèo bao giờ. Bác về nói chuyện với ông em,
tôi vui lòng, nếu ông em bác cũng thỏa ý ».
- Tôi tin chắc chú nó sẽ sung sướng được thông gia với bác và
thằng Khoan chắc cũng hài lòng.
Câu chuyện còn tiếp. Ngày sinh tháng đẻ của Khoan ông đồ đã
ghi từ ngày Khoan nhập học. Ông lấy so với tuổi của Tiệp thì thấy đôi bên rất hợp,
không bị sung hoặc khắc.
Trong lúc hai ông nhắm rượu xơi bánh thưởng trăng, Tiệp vẫn
phải lui tới để chờ ông đồ sai khiến nên luôn luôn nghe rõ câu chuyện của hai
người về mình. Lòng nàng hồi hộp sung-sướng. Nàng thấy nóng bừng đôi má. Nàng
lăng-xăng chạy xuống bếp vẻ mặt hớn-hở như người bắt được của. Tim nàng đập mạnh,
nàng thấy đêm thu như tưng-bừng tươi đẹp.
Thằng Mẫn ở trên nhà loăng-quăng chạy xuống. Lòng tràn ngập nỗi
hân-hoan, nàng không để ý đến em, nên trong lúc đi lại nàng đã giẫm lên chân Mẫn,
Mẫn khóc, nàng vội vàng lấy miếng bánh trung thu dúi vào tay em.
Nàng mang tiếp thêm bánh trái lên để ông đồ mời ông Khóa.
Hai ông vẫn còn đương rất tương-đắc trong câu chuyện.
Thoang-thoáng nghe, nàng thấy ông Khóa Hữu khen nàng : « Trông cháu
nhanh-nhẹn đấy. Sánh với thằng Khoan nhà tôi thực là đẹp đôi lắm. Việc này thế
nào cũng thành. Như vậy bác với tôi ta càng thêm than ».
Trăng lên đã cao. Trời trong. Quầng trăng tỏa ngũ sắc qua làn
sương thu mỏng như tăng vẻ thơ mộng cho đêm rằm.
Xa xa tiếng thình-thùng-thình của một đám trống-quân vọng lại
đánh nhịp cho lời ca đầy yêu đương đằm thắm :
« Đôi ta như chỉ mới xe.
Như trăng mới mọc, như tre mới giồng,
Đôi ta như lúa đòng đòng.
Đẹp duyên mà lại đẹp lòng mẹ cha ».
XII
Đám ăn hỏi Khoan lấy con gái ông đồ Ngư được nhiều người ở
Kim-Đôi nhắc-nhở tới. Ai cũng khen hai trẻ đẹp đôi, trai tài gái sắc. Khoan học-hành
khá, con nhà lương-thiện, còn Tiệp nhan-sắc lại con nhà nho.
Họ nói : « Ừ, cô Tiệp lấy cậu Khoan hơn là cậu Thúc
nhiều. Nhà cậu Thúc danh-giá, nhưng cậu Khoan học-giỏi lại là cháu ông Khóa Hữu
cũng là tay văn-học đạo-đức ».
Có người đáp : « Nhưng cậu Khoan nhà nghèo, e sau
này cô Tiệp vất-vả ».
Thì lại có người nói : « Nghèo hay giàu có làm gì.
Cốt là thương yêu nhau. Thuận vợ thuận chồng rồi nghèo cũng hóa giàu. Tự tay kiếm
ăn lấy làm nên mới sướng, hưởng của bố mẹ có khi rồi cũng hết ».
Có người bàn thêm : « Cậu Khoan sau này đổ đạt càng
hay. Cho rằng số phận cậu không có công-danh, cậu sẽ lại dạy học như bố vợ, làm
ông đồ ở trong làng chẳng danh giá hay sao. Còn cô Tiệp sẽ là bà đồ, tha hồ
sung-sướng, ai cũng phải nể vì ».
Tóm lại cuộc hôn-nhân của cặp Khoan, Tiệp đều được mọi người
tán thành, duy chỉ có Thúc là căm-giận. Thúc thù Khoan, Thúc oán Tiệp. Thúc
nguyện nếu có dịp sẽ cho Khoan và Tiệp biết tay mình.
Ông bà Chánh-Tổng thấy con buồn cũng thương, và cũng hơi oán
ông đồ Ngư sao lại quá vin vào số mệnh để từ-chối không gả Tiệp cho con trai
ông bà.
Bà Chánh-Tổng bảo Thúc : « Bây giờ con Tiệp nó sắp
lấy cháu ông Khóa Hữu, con cũng phải lấy vợ cho nó hiểu rằng con lấy đâu cũng
được vợ cứ gì phải lấy nó ».
Thấy lời mẹ nói cũng phải, và cũng muốn như ganh đua với
Khoan, Thúc xin mẹ cưới Thảo cho mình.
Bà Chánh-Tổng thấy Thảo cũng mỏng mày hay hạt, con nhà giàu,
lại là bạn học của Thúc ưng ý ngay. Bà hỏi Thúc : « Có phải con Thảo
cùng học với con không ? Con ông bà Phong xóm dưới chứ gì ».
Bà lại nói : « Con ấy, u trông còn hơn con gái ông đồ
nhiều. Nhà nó lại giàu có, sau này con cố có chút công danh nữa, lo gì không
hơn thằng Khoan. Con gái ông đồ lấy thằng Khoan rồi tha hồ lo ăn chạy gạo. Nhà
nó nghèo xác-sơ, đâu bằng được nhà mình ».
Bà Chánh-Tổng chỉ so sánh tiền của, so sánh địa-vị, bà cũng
như tất cả mọi người cùng thế-hệ quan niệm hôn nhân ngoài tình yêu.
Thúc thấy lời mẹ nói cũng đúng, nhưng Thúc vẫn thấy ghen-tị với
Khoan. Thúc có thể có địa-vị sau này hơn Khoan, giàu có hơn Khoan nhưng chàng vẫn
cảm thấy không lấy được Tiệp là kém Khoan, Thúc cũng lại cảm thấy dù chàng có
giàu có đến đâu, có công-danh trong làng trong Tổng, nhưng so sánh với Khoan,
chàng vẫn tự thấy kém ở một điểm nào. Có lẽ Khoan sẽ nghèo, nhưng Khoan văn hay
chữ tốt, Khoan sẽ dạy-học và Khoan sẽ được sự kính-trọng của người trong làng
ngoài xã.
Ông Chánh-Tổng cũng đồng ý với vợ về việc cưới Thảo cho Thúc.
Ông nói : « Hay lắm. Mình thông gia với nhà ấy cũng
môn-đăng hộ-đối. Nhà mình giàu có danh giá, phải kén vợ cho con ít nhất cũng
vào hạng con cái ông bà Phong. Cái thằng Thúc nó cứ lẩn-thẩn mê say con Tiệp,
chứ nhà ông đồ Ngư đâu bằng được nhà này. Nhà người ta nào nhà ngói cấy mít,
nào sân gạch vườn hoa, lại sẵn của ăn của để, ruộng lắm nương nhiều ».
Việc hôn-nhân đã được quyết-định. Ông bà Chánh-tổng nhờ người
mai mối. Lẽ tất nhiên Thảo bằng lòng lấy Thúc, cũng như gia-đình nàng được lấy
làm vinh dự để thông gia với gia-đình Thúc.
Thảo đã trả lời cha mẹ khi nàng được hỏi ý kiến :
« Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Phận con là gái xin tùy thày u định-đoạt ».
Mai mối xong là lễ dạm rồi đến lễ hỏi.
Lễ ăn hỏi đã cử hành rất linh đình. Tuy nhà gái không thách
gì, nhưng nhà trai muốn rửa mặt vì truyện Tiệp không chịu lấy Thúc, đã dẫn lễ hỏi
một cách rất sang-trọng.
Ngày ăn hỏi, dân làng đứng chen nhau ở đầu xóm để xem đám dẫn
hỏi.
Ông Bà Chánh-Tổng đã thuê người từ Hà-Nội về để đội các quả lễ.
Những người này đều khăn lượt, áo the, quần trắng, thắt lưng điều buộc ra ngoài
áo, xếp hàng một đi từ nhà ông bà Chánh-Tổng tới nhà Thảo. Mỗi người đều có đội
trên đầu một quả hoặc một mâm đồ-lễ. Những chiếc quả, ông bà Chánh-Tổng cũng
thuê từ Hà-Nội mang về.
Đây toàn những quả sơn son thiếp vàng. Còn những chiếc mâm đựng
cau chè, đều là mâm thau trạm trên có phủ nhiễu điều. Lại có mấy người khiêng
những chóe rượu, những chiếc chóe Giang-Tây có hình long ly quy phượng hoặc mai
lan cúc trúc đặt trên những chiếc đế gỗ gụ đen lánh trạm trỗ.
Đám ăn hỏi đi như một đám rước. Lũ trẻ trong làng chạy theo,
vừa reo cười vừa khen ngợi :
- Ăn hỏi to quá chúng bay ơi !
- Những chiếc chóe trông đẹp quá !
- Những phu quả trông lịch-sự thật !
Đấy mới chỉ nói tới bề ngoài. Còn đồ lễ, ông bà Chánh-Tổng
cũng đã kén chọn toàn những món hảo hạng : rượu mai bánh kép, cau Thanh,
chè nhỏ cánh xanh nước.
Ông Chánh-Tổng hãnh diện khoe với mọi người : « Đã
lo vợ cho còn ngại chi tốn. Tôi muốn làng nước trông vào, xem con tôi có ế vợ
không ».
Ý ông muốn nhắc tới việc từ-chối của ông đồ Ngư, không gả Tiệp
cho Thúc, và ông có ý so-sánh đám ăn hỏi của con mình với đám ăn hỏi của Khoan.
Ông nói : « Tôi đã làm gì phải đường-hoàng, nhất là
truyện vui mừng của con cái không lúi-sùi được ».
Thúc cũng hãnh-diện về sự sang-trọng của nhà mình. Có như thế
chàng mới trả thù được Tiệp. Đám ăn hỏi của Khoan đã cử-hành rất giản-dị, bì
sao được với đám ăn hỏi linh-đình của chàng.
Thảo cũng mát mặt. Lấy chồng có cưới hỏi to-tát vẫn hơn.
Với đồ lễ của nhà ông Chánh-Tổng, nhà gái đã đủ chia khắp
làng, nhà thân thì bánh trái, nhà sơ thì chè cau.
Mấy cô em Thảo cùng với mấy cô cháu họ lĩnh việc đi chia phần.
Tới đâu các cô cũng nhắc lời : « Chị Thảo chúng
cháu sắp ra ở riêng, thầy u cháu gọi có chút trầu cau kính biếu ông bà ».
Chia phần cưới có ý nghĩa báo cho dân làng biết là con gái
mình có cưới xin. Nhiều người khi gả con bỏ sót một thân-thuộc bạn bè nào không
chia phần cưới thường bị trách-móc : « Nhà bác có tin mừng mà không
cho chúng tôi được ăn trầu ».
Việc chia phần cưới rất cần ở nơi thôn xã, vì vậy nên những
gia-đình nào dù không sung-túc cũng phải có trầu cau chia cho bạn-hữu thân-quyến
khi có việc vui mừng cưới gả.
Dân làng Kim-Đôi bàn tán nhiều đến đám ăn hỏi sang trọng của
Thúc. Người ta so-sánh với đám ăn hỏi của Khoan. Có người chê, cũng có người
khen. Cưới con hay khoe của ? Việc hôn nhân cần có đủ lễ thì thôi, cần đâu
phải linh-đình. Cốt làm sao cho đôi trẻ thương yêu nhau.
Sự so-sánh đến tai Khoan và Tiệp. Tiệp cũng như Khoan đều cho
đó là một sự thường. Nhà ông Chánh-Tổng lắm tiền ông cứ việc chi tiêu, còn nhà
Khoan nghèo, của đâu để thi với nhà giàu cho kịp.
Thúc cứ việc hãnh-diện, còn Khoan, điều cần nhất là cưới được
Tiệp.
Riêng ông đồ Ngư, ông hiểu thâm ý của ông bà Chánh-Tổng. Ông
bảo Tiệp : « Nhà thằng Khoan không giàu, nhưng nó có đức. Đám cưới
con không to, nhưng các con sẽ có hạnh-phúc gia-đình. Thày trông thấy các con
thương yêu nhau, thày mừng ».
--------------------------------
Ríu rít chim |
CHƯƠNG II
I
Tháng Tám bắt đầu mùa cưới. Người ta không cưới hỏi trong mấy
tháng Hè, mùa của cô-hồn chúng-sinh, và tháng bảy tuy sang thu nhưng người ta
kiêng tháng Ngâu, nên việc cưới xin là việc tốt-lành, không ai cử-hành trong
tháng đó. Việc trăm-năm đâu phải việc một ngày, trước sau một tháng có đâu chậm
trễ, vội gì chẳng đợi tháng tốt chọn ngày lành.
Gió thu mát, trời thu trong, tiết thu êm-dịu, cúc thu nở vàng
khắp vườn ngỏ trong làng báo hiệu mùa cưới tới.
Làng Kim-Đôi, với tiết trời tháng Tám đã có nhiều đám dạm hỏi.
Con ông Bá Nhất hỏi con gái ông Cả Huân, con ông Nhiêu Cư lấy con gái ông Lý Liệu
và nhiều đám nữa, trong đó có hai đám ăn hỏi của Khoan và Thúc. Những ngày tốt
có khi có hai ba đám cưới. Tiếng pháo đưa rể đón dâu nổ từ xóm này qua thôn
khác. Xác pháo hồng như tô-điểm cho những cặp má ửng hồng của các cô thôn-nữ
vu-quy. Những chàng trai sung-sướng trong đám cưới, chú rể sung-sướng vì được vợ
đã đành, cả những anh phù rể cũng sung-sướng vì được dịp ngắm các cô phù dâu
xinh đẹp để kén vợ. Có chàng trai mấy bữa trước đóng vai phù rể, mấy bữa sau đã
chính mình là chú rể.
Các vị-hôn-thê nhộn-nhịp sắm-sửa đồ cưới. Nào áo quần, nào
nón quai thao, nào dép cong kinh kỳ. Và các chàng trai sắp cưới vợ cũng lo may
mặc, lo mua khăn, mua giày không thua các cô thôn-nữ.
Họ nhà trai sửa-soạn đồ dẫn cưới, họ nhà gái cũng sắm sanh chờ
ngày vu-quy cho con gái.
Thúc may mặc toàn đồ sang. Áo đoạn kim ngân, phủ áo the La Cả,
khăn nhiễu Kỳ-Cầu, giày Gia-Định.
Đồ dẫn cưới ông bà Chánh-Tổng cho người ra tận Hà-Nội để kén
từ bánh trái đến chè cau. Và Thảo cũng lo trang điểm cho mình thật diêm-dúa, vượt
hẳn các chị em trong làng. Một đời người mới có một lần, tội gì có tiền không
trang-điểm cho hơn người. Mỗi lần mua bán được thứ gì tốt đẹp, Thảo lại rủ bạn-bè
tới xem, chúng bạn nhiều cô thèm muốn số phận của nàng.
Một bữa nàng rủ Hoài tới xem chiếc vấn đầu nhung gửi mua tận
phố Hàng Đào Hà-Nội. Sờ mặt nhung mịn-màng, nhìn sắc nhung đen óng-ánh, Hoài
không ngớt lời khen. Hoài nói : « Chị sung-sướng thật ! Cái gì của
chị cũng tốt cũng đẹp ».
Thảo hỏi thăm Hoài về Tiệp : « Chị có thấy chị Tiệp
có sắm-sửa gì không. Chị ấy ăn hỏi trước em, nhưng có lẽ sẽ cưới sau em ».
- Em không thấy chị ấy nói chuyện và cũng chẳng thấy chị ấy
mua bán gì. Ai sắp tới ngày cưới cũng sắm-sửa, riêng chị ấy, em chẳng thấy động
tĩnh gì.
- Còn anh Khoan ?
- Anh Khoan em cũng không thấy sửa-soạn. Nhà anh ấy nghèo lấy
tiền đâu may mặc như anh Thúc.
Thảo cũng hiểu nhà Khoan nghèo, nhưng nàng cứ hỏi Hoài cốt để
nhắc đến sự sang trọng của Thúc, và nàng cũng muốn để Hoài so-sánh Thúc với
Khoan, cũng như nàng với Tiệp.
Đám cưới của nàng đã cử hành linh-đình vào một ngày đầu tháng
chín. Nhà Thúc đã mổ bò giết lợn để mời hàng tổng xã. Khách tới mừng đông-đúc đến
nỗi chật cả mấy căn nhà ngói, lại chật cả rạp dựng tạp ở ngoài sân.
Những đồ mừng của bạn-bè ông Chánh-Tổng cũng sang-trọng.
Nhưng bức trướng màu hồng, màu đỏ, màu vàng rực-rỡ được treo khắp hai bên tường
nhà. Bao nhiêu là lời chúc tụng tốt đẹp trên những hàng chữ thêu kim-tuyến
óng-ánh hoặc trên những hàng chữ đen biếc, mực quốc-bảo thơm phức.
Tiệc-tùng rã-rích ba bốn ngày liền. Những tràng pháo liên-tiếp
nổ. Xác pháo hồng bay đỏ rực từ cổng vào tới sân nhà Thúc.
Ai cũng khen vợ chồng ông Chánh-Tổng tốt phúc. Và người ta
tưng-bốc ông bà với những lời-lẽ làm cho ông bà rất mực sung-sướng. Ông bà
không tiếc tiền chỉ cốt cho người ta trông vào, và không ai có thể dị nghị.
Trong nhà ba bốn bàn tổ-tôm để các cụ mua vui, và cụ nào
không có tiền điều được ông Chánh-Tổng cấp vốn để thừa tiếp các cụ khác. Lại có
cả bốn bàn đèn để các cụ ưa làm bạn với phù-dung hút sách. Thuốc phiện toàn thuốc
ty hạng tốt, hộp Rồng Vàng. Mùi khói thuốc bốc lên thơm ngát, át cả mùi hương
trên bàn thờ ngào-ngạt.
Các cụ cười to nói lớn, các cụ tán-dương những bức trướng mừng,
các cụ khen ngợi sự rộng-rãi của ông bà Chánh-Tổng.
Và ở đằng nhà Thảo cũng cổ bàn tấp nập. Từ hôm tiên-thường,
tiếng lợn bị thọc tiết kêu eng-éc đã kéo bà con tới làm giúp nhộn-nhịp.
Như muốn ganh đua với nhà trai, nhà Thảo cũng ran pháo nổ,
cũng ồn-ào khách-khứa, khách trong làng, khách thiên hạ. Cô dâu đã nhận được những
đồ mừng rất quý : có nhẫn vàng, có ống vôi bạc, có những rổ trầu cau xinh
xinh bằng bạc nạm vàng, có trâm cài, có giải yếm lụa hồng và nhiều lắm…
Khách ăn cổ ở nhà trai sang nhà gái. Ở đây cũng mấy bàn tổ-tôm,
và các cụ vui chơi, được thua cũng đều là tiền chủ cấp vốn. Cũng mấy bàn đèn sực
mùi thuốc Cống-chạp, Rồng Vàng. Tiếng chúc-tụng cô dâu và mừng ông bà Phong
vang lên trên những mâm rượu. Vui-vẻ tưng-bừng. Gia chủ vui, khách khứa cũng
vui.
Rồi ngày đưa rể đón dâu, hai họ đều hoan-hỷ. Pháo càng nổ nhiều.
Mặt chú rể hồng màu rượu, mặt cô dâu đỏ vì sung-sướng, và xác pháo đỏ như tăng
vẻ huy-hoàng cho tiệc cưới.
Để trả thù Khoan và Tiệp, Thúc đã mời Khoan đến dự tiệc cưới,
và Thảo cũng đã mời Tiệp đi phù dâu. Khoan đã đến mừng Thúc với lòng chân thành
và chúc vợ chồng Thúc được bách-niên giai-lão, con cháu đề huề và luôn luôn hạnh-phúc.
Nâng chén rượu mừng, Khoan không nghĩ đến sự Thúc vẫn căm mình vì không lấy được
Tiệp.
Tiệp cũng đến mừng Thảo như các bạn đồng học khác, nhưng nàng
đã từ-chối không đi phù dâu, nàng muốn tránh mặt Thúc không muốn thấy Thúc để
nhớ lại buổi Thúc cợt ghẹo nàng ở bên sông. Nàng đã không thuận lấy Thúc lẽ nào
nàng còn đi phù dâu.
Trong tiệc cưới có người nhắc tới cuộc hôn-nhân của Khoan. Một
bạn học hỏi khoan : « Hôm nay chúng tôi được uống rượu mừng anh Thúc,
bao giờ đến lượt anh trưởng tràng cho chúng tôi say sưa ».
Khoan ngay thẳng nói : « Anh em lo gì điều đó. Có
điều xin nói trước là bữa tiệc rượu của tôi không linh-đình được như bữa rượu
hôm nay của anh Thúc đâu ».
Lời khiêm tốn chân thật của Khoan khiến Thúc bằng lòng.
Thúc tự nghĩ Khoan có bắc bẩy tầng cầu cũng không bằng được sự
sang-trọng của Thúc.
Chính Khoan cũng chưa biết ngày cưới của mình định vào bao giờ.
Điều đó còn tùy thuộc cha mẹ chàng và ông Khóa Hữu. Chàng thấy nhà mình nghèo,
cưới xin lại tốn kém. Đã đành rằng ông đồ Ngư thương không thách cưới gì, và mọi
lễ-nghi đều giản-tiện, nhưng không nhiều thì ít cũng phải có tiền mới dám tính
đến lễ cưới.
Khoan cũng mong chóng được gần Tiệp để phỉ nguyền sánh phượng,
đẹp duyên cưỡi rồng, sớm chừng nào hay chừng ấy. Và chính Tiệp, nàng cũng
ngóng-đợi nhà trai xin cưới để chấm dứt mọi sự bàn ra tán vào của bạn bè cùng
làng nước.
Ông đồ Ngư hiểu rõ lắm. Ông biết rõ tâm-lý của Tiệp cũng như
tình trạng của Khoan. Đã có lần ông tỏ cho Khoan biết mọi sự dễ-dãi của ông để
Khoan về thưa lại cùng cha mẹ.
Đã có hỏi tất phải có cưới, cha mẹ Khoan luôn luôn nghĩ đến
việc hôn-nhân của con. Ông bà định chờ xong vụ gặt tháng mười, có tiền ông bà sẽ
cố làm cho xong đi.
Khoan vẫn đi học, và sự học vẫn ngày càng tấn-tới. Chàng
tin-tưởng vào sự học cũng như ông đồ tin-tưởng ở chàng.
Thời gian chầm chậm đi ! Tháng Tám hết rồi tháng chín.
Dân quê đã bắt đầu gặt lúa sớm…
II
Vụ gặt tháng Mười ! Ngoài cánh đồng, những ruộng lúa mùa
nặng trĩu những bông vàng như tơ ánh, và mùi lúa chín bốc lên thơm dìu-dịu. Những
cơn gió tạt qua lung-lay những bông lúa nhẹ cọ sát vào nhau như những tiếng
rì-rầm, và hương thơm của lúa chín tỏa rộng một mùi mát mát êm êm.
Từ sáng sớm, thợ gặt đã kéo nhau khắp cánh đồng để gặt lúa.
Những ruộng lúa vàng, trước những lưỡi liềm lưỡi hái cứ vơi dần. Các cô thôn nữ,
chít khăn mỏ quạ, váy xắn cao cùng những chàng trai quần nâu áo nâu gọn-gàng
cũng cắt lúa.
Các cô tay cầm liềm, tay nắm mấy cây lúa, đưa lưỡi liềm cắt
lúa kêu soèn-soẹt. Những bông lúa cắt rồi, các cô xếp ngay trên mặt ruộng, khi
được thành từng đống, các cô bó lại thành từng con, từng lượm bằng ngay những
ngọn rơm ở ruộng lúa. Các chàng trai cũng cắt lúa, cũng bó thành con thành lượm,
nhưng các chàng trai sức-vóc khỏe mạnh hơn, các chàng phải bó những con lúa
thành từng bó lớn. Rồi người ta chia nhau gánh lúa về nhà. Những chiếc đòn sóc
nhọn hai đầu, thọc sâu vào bó lúa và người thợ gặt ghé vai vào nhấc lên để quảy
đi một cách nhẹ nhàng.
Trong khi cùng gặt cùng hái, các cô các cậu trò truyện với
nhau, tiếng nói vui-vẻ, tiếng cười ròn-rã khiến cho công việc đỡ mệt-nhọc. Thỉnh
thoảng một vài cô lại cất giọng hát một vài câu. Tiếng hát như thúc đẩy cho
công việc, và khiến cho mọi sự mỏi mệt tiêu-tan :
« Bao giờ cho đến tháng Mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta ».
Cũng có khi các cô hát những câu yêu-đương tình-tứ để nhắn-nhủ
người yêu, thì lập tức có những chàng trai đáp lại bằng những câu thật là khả-ái.
Đã có nhiều cuộc nhân-duyên bắt đầu bằng những câu hát trong buổi gặt.
Cảnh mùa gặt ở ngoài đồng thật vui. Xen vào những đám thợ gặt
có các cô con gái nhà chủ ruộng đi trông nom. Các cô cũng gặt, cũng nói cười và
ca hát, thật là bình-đẳng với các anh chị em thợ gặt. Lại còn có những người đi
đổi đồng. Đây là mấy người trong làng nhân vụ gặt mang quà bánh, nước nôi ra đổi
lấy lúa cho anh chị em thợ đồng.
Đi làm từ sớm, công việc nặng nhọc, trời tháng Mười lại nắng
hanh, anh chị em thợ đồng thường đói bụng khát nước. Mấy người đổi đồng đưa quà
bánh cho họ ăn, đổi lấy vài con lúa. Việc đổi đồng được các chủ ruộng mặc-nhiên
ưng-thuận, miển là anh chị em thợ gặt không ăn uống quá đáng đến đỗi phí phạm mất
nhiều lúa đổi.
Nhà Khoan cũng có ít ruộng mùa, nên vụ gặt tháng Mười, Khoan
cũng thỉnh-thoảng có mặt tại cánh đồng sau buổi học. Cả Tiệp cũng bận-rộn ở
ngoài đồng để trông nom thóc ruộng nhà. Nhờ vậy đôi lúc Khoan và Tiệp lại được
cùng nhau trao đổi vài mẩu chuyện, những mẩu truyện tuy ngắn nhưng khiến lòng
đôi bên đều vui vui trong khi chờ đợi chính thức cùng nhau như chim liền cánh,
như cây liền cành.
Ruộng tốt, lúa nhiều, người dân làng Kim-Đôi yên lòng với vụ
gặt. Người thu-hoạch được nhiều nhất về vụ lúa chín nầy là ông bà Chánh-Tổng.
Ông bà nhiều ruộng lắm, ruộng đồng nhà lại ruộng ngoại canh.
Thảo được ông bà giao cho việc trông coi gặt hái tại cánh đồng
nhà. Thúc cũng luôn có mặt tại cánh đồng với vợ. Chàng hãnh-diện về sự thu hoạch
của nhà mình, và có ý dè bỉu khi nói tới Khoan.
Lẽ tất nhiên, cũng có mặt tại cánh đồng Thúc vẫn gặp Khoan
cũng như Thảo vẫn gặp Tiệp. Thúc thường tỏ ý coi thường Khoan, nhưng trái lại
Khoan không hề bao giờ có một hậu ý gì không tốt đối với Thúc.
Thảo gặp Tiệp ở ngoài cánh đồng thường khéo khoe khoang trong
câu chuyện giàu có của gia đình nhà chồng, và nàng kể lại cùng Tiệp cái cảnh
sung túc đầy đủ nàng sống với Thúc. Nàng lấy làm tự mãn được lấy chồng giàu.
Đôi khi nàng hỏi tới ngày cưới của Tiệp. Bao giờ Tiệp cũng trả lời một câu rất
không đâu : « Bao giờ cưới thế nào em chẳng phải mời chị. Chị nhớ mừng
em thật sang đấy nhé ».
Với lúa tháng Mười gặt xong là mùa xêu của các chàng rể đã dạm
hỏi vợ nhưng chưa cưới. Và cũng là mùa để học-trò mang biếu thày nhân dịp cơm mới.
Gia-đình Khoan cũng đã sắm-sửa đủ đồ lễ để Khoan mang xêu đằng
nhà Tiệp.
Đồ lễ tuy đơn sơ, nhưng đủ chứng tỏ sự thành-kính của Khoan đối
với ông đồ, vừa là thầy học lại vừa là bố vợ chưa cưới.
Chiều hôm đó, sau buổi học, Khoan cũng người nhà mang tới nhà
ông đồ một thúng gạo nếp và hai chục con chim ngói cùng với trầu cau.
Về mùa lúa chín này, chim ngói bay ra rất nhiều, và được người
ta dùng làm đồ xêu vào dịp cơm mới.
Người nhà Khoan thưa cùng ông đồ : « Nhân dịp cơm mới,
nhà chúng tôi gọi có chút đồ lễ tới xin ông bà Đồ nhận cho để chứng lòng thành
của bên ông bà chúng tôi ».
Lẽ tất nhiên ông bà Đồ vui vẻ nhận, nhưng ông vẫn xã giao
nói : « Bên đằng ông bà nhà bày vẽ quá. Chúng tôi xin thành-thật cảm
ơn ».
Rồi ông đồ nhắc tới việc cưới xin của Khoan và Tiệp :
« Chỗ tôi với ông Khóa Hữu thân mật, việc trăm-năm của các cháu chúng tôi
dễ-dàng. Nhờ ông về thưa lại với ông bà bên nhà rõ. Chúng tôi muốn cho đôi trẻ
sớm phối-hợp, kẻo chúng phải chờ-đợi mãi tội-nghiệp ».
- Ông bà đồ thật quý-hóa quá. Bên ông bà chúng tôi cũng đang
tính ngày.
Khi Khoan và người nhà về, mấy bọn học-trò của ông đồ tới. Họ
cũng mang biếu ông đồ gạo nếp và chim ngói.
Hằng năm vào những dịp mồng năm tháng năm, rằm tháng tám, cơm
mới tháng mười, bao giờ ông đồ cũng nhận được nhiều đồ lễ của học-trò.
Ngày xưa, học-trò đối với thày ân tình rất trọng, không bao
giờ họ quên ngày tư ngày Tết của thày. Giàu nghèo họ cũng cố lo có chút ít đồ lễ
mang biếu thày vào những dịp tháng năm ngày Tết. Một mình lo không xong, họ
chung nhau rủ bạn-bè. Thày dạy học mở trường ngày xưa không lấy tiền học, hàng
năm thường chỉ trông vào những đồ biếu sén. Khi còn đi học, học-trò tết biếu
thày đã đành, ngay khi thôi học rồi, các học-trò cũng vẫn nhớ ơn thày.
Cha mẹ có công sinh-dưỡng, tác-thành cho mình nên người, ấy
chính là công của thày.
Vợ chồng Thúc cũng mang biếu ông đồ gạo nếp và chim ngói như
khi còn đi học.
Ông đồ nhận đồ lễ rồi bảo Thúc : « Thày cảm ơn anh.
Thày mong anh không giận thày về việc em Tiệp. Chẳng qua cũng là duyên-số. Bây
giờ anh lấy con gái ông bà Phong, thày thấy thật là đẹp đôi. Thày mong anh chị
loan phụng hòa-minh, bách-niên giai-lão, con đàn cháu đông ».
Thúc chỉ biết vâng dạ. Sự thật, tuy cưới Thảo, nhưng lòng
Thúc vẫn mang mang muốn yêu Tiệp.
Thúc vẫn oán ông đồ về chuyện không gả Tiệp cho chàng. Lẽ ra
dịp cơm mới này, Thúc đã thôi học, Thúc không muốn trở lại nhà ông đồ nữa, phần
vì ngượng-ngùng sợ gặp Tiệp, phần vì nỗi oán-hận của chàng chưa nguôi, nhưng
chàng bị ông bà Chánh-Tổng bó buộc phải mang biếu ông đồ gạo và chim.
Ông Chánh-Tổng, tuy hơi không bằng lòng ông đồ ở chỗ không hỏi
được Tiệp cho Thúc, nhưng ông lại không muốn bị ai chê cười là không hiểu lễ-nghĩa,
nên trong dịp cơm mới ông bắt Thúc phải cư-xử đúng đạo thầy trò.
Thúng gạo nếp, vài chục chim ngói đối với nhà ông có nghĩa-lý
gì, nhưng tiếng-tăm bề-thế của ông, đó mới là quan-trọng.
Trước khi Thúc ra về, ông Đồ lại bảo : « Thày gửi
nhời về cám ơn ông bà Chánh-Tổng nhé ! Năm nay được mùa, chắc đằng nhà gặt
hái được bội thóc lúa đấy nhỉ ».
Thúc ra về. Lại vài bọn học-trò khác tới biếu thầy.
Tiệp luôn luôn vất-vả vì phải đun nước pha trà để ông đồ tiếp
khách. Đối với bạn học, nàng cũng chạy lên chạy xuống chào hỏi, nhưng riêng khi
Thúc tới, nàng đã ở lỳ ở dưới bếp cho tới lúc Thúc ra về.
III
Khoan vừa bước chân vào tới sân thì Tiệp đã chạy ra đón. Nàng
bảo Tiệp : « Thày đang chờ anh ».
- Thế nào thày đã đỡ chưa ?
- Bệnh thày vẫn vậy, không thuyên-giảm chút nào. Từ sáng thày
đã uống thêm hai bát thuốc của ông lang Thiệu, nhưng bệnh tình thày không thấy
khác. Anh vào ngay đi, thày mong anh lắm.
Ông đồ Ngư ốm nặng. Lúc đầu ông chỉ cảm sốt xoàng nhưng không
ngờ bệnh một ngày một trọng. Tuổi già, sức yếu, ông tự thấy trong người suy kém
nhiều.
Từ ngày ông ốm, đã hơn nửa tháng nay, Tiệp luôn luôn ở bên
cha và hàng ngày Khoan tới thăm ông ít nhất hai ba lần. Lớp học ông vẫn mở,
Khoan đảm-nhiệm dạy các học-trò nhỏ thay ông, còn các trò lớn đều nghỉ học.
Con trai lớn ông đồ, anh cả Vinh, đang làm việc tại dinh
Án-Sát Sơn-Tây, cũng đã về thăm ông, và cũng luôn hầu-hạ chầu-chực ông. Các trò
lớn thay phiên nhau tới túc-trực để nhờ ông sai bảo. Các trò cũ được tin cũng
nhiều người tới thăm và mang sâm nhung lại để ông dùng.
Trước sự săn-sóc tận-tình của người nhà cũng như của đám học-trò
mới cũ, bệnh ông không bớt lại cứ một ngày một tăng.
Ông đã bảo bà đồ và các con : « Tôi biết mình tôi lắm.
Tôi cũng đã nhiều tuổi, có được các cụ gọi về cũng phải. Tôi xét đời tôi đã gây
dựng được cho nhiều học-trò thành đạt, tôi có nhắm mắt cũng mãn-nguyện lắm rồi ».
Rồi ông lại nói về Tiệp : « Tiệp con, chết đi thày
chỉ thương con. Thày sẽ bảo nhà thằng Khoan cưới chạy tang. Lẽ ra đám cưới của
con cũng phải được đàng-hoàng. Nhưng số con vất-vã, thày chết đi giữa lúc cuộc
nhân-duyên của con sắp hoàn-thành ».
Ông quay lại bà đồ và cả Vinh : « Bà cho nhà trai
cưới chạy tang để con chúng ta khỏi phải chờ đợi. Nhà thằng Khoan nghèo, nhưng
nó là người có tư-cách. Vinh con sau này phải giúp đở các em ».
Ông lại nhắc tới thằng Mẫn : « Thằng Mẫn nó còn nhỏ
dại. Phải cho nó đi học cho đến lớn. Thằng Khoan sẽ trông nom cho nó ».
Bà đồ bảo chồng : « Ông cứ yên-tâm nằm nghỉ đi, thuốc
thang rồi ông sẽ khỏi hơi đâu mà nghỉ truyện đường xa ».
Tiệp ngấn lệ long-lanh trên đôi mắt, nói : « Xin thày cứ
nằm nghỉ, ngày một ngày hai thày sẽ bớt dần ».
Vinh cũng nói : « Thày đừng lo nghĩ điều gì cả. Chúng
con lớn cả rồi. Chúng con biết thương yêu nhau ».
Ông đồ bảo : « Thày hiểu lắm. Thấy các con thương
yêu nhau thày rất mừng, thày biết mình có lẽ khó qua khỏi bệnh này, nhưng thày
cũng sung-sướng nhắm mắt, vì chẳng thọ thày cũng đã già. Các con phải nghe lời
thày dặn bảo. Thày chết đi các con phải đối với mẹ con cho hiếu kính và anh em
phải hết sức thương nhau, đùm-bọc với nhau, đừng bao giờ vì lợi ghẻ-lạnh
nhau ».
Rồi ông đồ hỏi tới Khoan : « Thằng Khoan chưa tới
à ? »
Tiệp đáp : « Từ sáng anh ấy đã có ở đây hai lần, có lẽ
anh ấy cũng lại sắp tới nữa ».
Ông đồ nói : « Thày thương nó lắm ! Nó chỉ phải cái
nhà nghèo, chứ nó thực xứng đáng làm rể thày. Tư cách nó khá, đạo-đức nó hơn
người ».
Chiều hôm đó Khoan tới. Gặp Tiệp ở ngoài sân, Khoan hỏi thăm
ngay đến bệnh tình của thày học. Ông đồ ốm, Khoan cũng lo lắng. Ông đồ có mệnh-hệ
nào, thật là một điều đau-đớn cho Tiệp ; và cho cả chính Khoan. Chàng biết
ông đồ thương mình và muốn gây dựng cho.
Ông đồ đang thiu-thiu nằm ngủ. Gian buồng đóng cửa tối mờ-mờ.
Chiếc màn nâu buông hai cánh thõng nửa chừng, móc lên hai móc màn, khẽ
rung-rung khi Khoan mở cửa buồng bước vào. Trên chiếc ghế kê ở đầu giường có
bát thuốc ông đồ vừa uống hết.
Trông ông đồ gầy lắm, gầy trơ xương dưới bộ quần áo lụa mỏng.
Ông thở nhè nhẹ.
Khoan đứng lặng ngắm ông ngủ. Chàng không dám đụng mạnh vì
chàng biết mỗi phút ngủ được đối với người ốm là một phút hay. Ông đồ nằm
nghiêng quay mặt vào trong tường lưng hơi cong-cong, chân nọ đè lên chân kia.
Có lẽ đã lâu, Khoan cứ đứng lặng ngắm ông đồ nằm ngủ như vậy.
Tiệp thấp-thoáng ở ngoài cửa buồng. Khoan ra hiệu cho nàng biết ông đồ đang ngủ
không nên đánh thức.
Chợt ông đồ trở mình rồi ho mạnh một tiếng. Sau tiếng ho mạnh
tiếp một cơn ho kéo dài.
Chưa kịp nhìn thấy Khoan, ông gọi Tiệp : « Tiệp cho
thày hớp nước ».
Tiệp ở ngoài cửa buồng chạy vào, rót nước đưa ông đồ uống.
Lúc đó ông mới để ý tới Khoan đứng ở đầu giường.
Ngẩng đầu lên uống xong hớp nước, ông đồ lại nằm xuống. Ông
ra hiệu cho Khoan lại gần giường nghe ông nói.
Khoan ghé lại bên, ngồi trên một chiếc ghế đẩu ở ngay cạnh
giường, cúi sát người xuống ông đồ. Ông đồ bảo : « Khoan ạ, thày thấy
mình yếu lắm rồi, khó qua khỏi lắm. Việc của con thày đã dặn đẻ và anh Vinh
con. Con nói với các cụ lo cưới chạy tang để các con khỏi chờ-đợi. Sau khi ma
chay thày xong, con giữ lấy lớp học của thày dạy bảo các em. Học lực của con
cũng đã khá, có thể vừa dạy học vừa tự học để chờ khoa thi. Con trông nom em Mẫn
cho thày ».
Lời ông đồ nói trầm trầm đều đều, không có vẻ gì là buồn, giọng
rất chân-thật, đúng với lòng ông vẫn thương Khoan xưa nay.
Mọi việc Khoan đều vâng dạ, và hứa sẽ tận-tụy trông nom Mẫn.
Nói một hồi, ông đồ mệt lại ho, sau cơn ho ông lại bảo Khoan
rót cho mình hớp nước. Uống xong hớp nước, ông nằm nghỉ để thở.
Trong lúc ông nói chuyện với Khoan, Tiệp vẫn thập-thò ngoài cửa
buồng. Mắt nàng luôn luôn dưng-dưng ngấn lệ.
Một lát sau một số đông các học-trò kéo nhau tới thăm, trong
số đó có cả Đáp. Thấy họ kéo nhau vào, Khoan ra hiệu bảo họ im lặng để ông đồ nằm
nghỉ, nhưng bước chân dù nhẹ nhàng của họ cũng đủ làm cho ông đồ mở mắt nhìn
ra. Ông đưa tay ra hiệu vẫy họ lại gần.
Họ kéo nhau lại đứng khoanh tay bên giường. Ông đồ nói :
« Các con đến thăm thày tốt lắm. Thày chắc không sống được nữa đâu. Thày
khuyên các con cố gắng học-hành để mai sau trở nên những người hữu-ích. Thầy chết
đi, lớp học của thày sẽ do anh Khoan đây thay thày dạy-dỗ các con ».
Ông đồ lại bảo mấy anh học-trò lớn.
Còn các con đã lớn, học-lực đã khá, các con có thể đi học
thêm với một thày đồ khác, hoặc các con có thể họp nhau lại với anh Đáp, anh
Khoan cùng nhau học-tập, ôn luyện văn bài đợi khoa thi.
Anh em học trò đứng yên lặng nhìn thày, không ai có một cử chỉ
nào.
Đáp thay mặt tất cả anh em nói : « Thưa thày, chắc
là thày yếu đau ít bữa rồi đây thày sẽ khỏi. Chúng con đội ơn thày nhiều lắm,
những lời thày dạy chúng con xin ghi xương khắc cốt ».
Ông đồ mỉm cười, một nụ cười héo-hắt trên một khuôn mặt gầy
guộc, ông bảo : « Thày biết bệnh của thày. Các con cầu mong cho thày
bình-phục đó là lòng quý-mến thày. Thày rất cảm động. Sinh ký, tử quy, trong cuộc
sống gửi trên trần-thế, gây dựng được cho các con, thày mãn-nguyện lắm. Nay gần
nhắm mắt, lại có các con ở cạnh thày càng vui mừng, sung-sướng hơn. Sau này các
con nhớ thương yêu nhau, coi người hơn tuổi như anh, người kém tuổi như em, làm
sáng tỏ nền đạo-đức, thày ở dưới suối vàng cũng thỏa dạ ».
Nói mệt ông lại nghỉ, rồi ông lại nói. Tình thày trò thật là
thâm trọng. Trông thấy lũ học-trò ông cũng ham sống để dạy bảo thêm, nhưng sinh
tử có mệnh, ông chỉ đành theo định số.
Học-trò có người dơm-dớm lệ trước những lời ân-cần của thày.
Không lúc nào bằng lúc này, họ cảm thấy ông đồ thương họ lắm.
Nhưng rồi bọn học-trò cũng rút lui để thày nằm nghỉ. Và Khoan
cũng trở ra. Trong gian buồng mờ mờ tối chỉ còn ông đồ nằm một mình thở nhè nhẹ
trong một giấc ngủ không say.
Tiệp vẫn luôn luôn túc trực ở ngoài cửa buồng. Bà đồ tuy bận
công việc nhà nhưng lát lát lại vào thăm ông và hỏi Tiệp về bệnh-tình của ông.
Đến giờ uống thuốc, bà đồ và Tiệp vào đánh thức ông đồ dậy.
Ông đồ có vẻ mỏi-mệt hơn trước, không muốn uống nhưng nể vợ và thương con ông lại
cố uống cho hết bát thuốc.
Trong làng nhiều bạn-bè tới hỏi thăm, nhưng bà đồ và Vinh chỉ
tiếp ở nhà ngoài, trừ những người nào rất thân-mật bà đồ mới để vào buồng ông đồ.
Gặp lúc ông đồ ngủ mệt thì người đó cũng chỉ rón-rén đến cạnh rồi lại lui ra.
Bệnh tình ông đồ ngày một trầm-trọng, không chút thuyên-giảm.
IV
Thuốc thang không chuyển, bệnh ông đồ càng nặng hơn cho đến một
buổi chiều. Ông cho gọi hết vợ con trong nhà lại để ông trối-trăng lời cuối
cùng. Lúc ấy ông thấy tỉnh vô cùng, không mơ hoảng li-bì như mọi ngày. Ngọn đèn
sắp tắt, vụt lên sáng tỏ, người ta sắp chết cũng trở nên sáng-suốt.
Bà đồ, vợ chồng Vinh, Tiệp, Mẫn và cả Khoan nữa đã có mặt đủ
bên giường ông đồ. Gian buồng mờ tối. Ông đồ bảo Tiệp mở cửa rộng cho sáng. Ông
nói : « Nằm mãi trong bóng tối người đâm mê sảng. Hôm nay thày tỉnh,
mở cửa cho thày nhìn thấy ánh-sáng ngoài trời lần cuối cùng ».
Cửa mở ra, trông ông đồ gầy đét, da bọc xương, nước da đen sạm,
không còn sinh khí.
Ông thấy bà đồ nước mắt ràn-rụa đứng ngay sát bên giường nhìn
ông. Ông lắc đầu thương hại vợ. Ông lại đưa mắt nhìn các con, các con đều có ngấn
lệ trên má.
Ông bảo bà đồ : « Làm gì bà phải khóc. Sống chết có mệnh,
sinh ký tử quy có ai mà sống mãi được đâu. Bà nên giữ-gìn sức-khỏe kẻo lại đau ốm
thì khốn. Và các con nữa, cũng đừng khóc làm chi. Thày biết các con thương
thày, nhưng trước số-mệnh các con có khóc cũng chẳng ích gì. Hôm nay thày tỉnh
táo, có mặt đủ các con đây và mẹ các con, thày sung-sướng, thày chết đi, các
con hãy nhớ lấy những lời thày đã dặn. Hôm nay thày muốn bảo thêm các con phải
ăn ở với xóm giềng làng nước cho đứng-đắn, có nhân-nghĩa có thủy-chung đừng để
cho ai chê cười. Còn anh Khoan, anh nhớ trông nom em Mẫn cho thày, và anh nên
giữ lấy lớp học của thày ».
Rồi ông tự đặt lấy tên hèm là Thái Thụy :
« Tên hèm còn gọi là tên thụy hoặc tên cúng cơm, tức là tên người
ta đặt cho người chết, hoặc người sắp chết tự đặt lấy. Trong trường hợp hấp-hối
người chết không còn tỉnh-táo hoặc không còn đủ sức để nói rõ ý muốn của mình
thì người nhà đặt cho một tên hèm và nói cho người hấp-hối hay.
Tên hèm này sẽ được khấn tới trong tang lễ cũng như trong những ngày
giỗ ngày Tết hàng năm ».
Đặt xong tên hèm cho mình, ông đồ nói với bà đồ :
« Việc ma chay của tôi bà liệu tùng-tiệm cho đỡ tốn. Nếu các môn sinh muốn,
họ sẽ góp nhau làm ma, còn nếu không bà đừng nên xa-xỉ. Để tiền cho các con.
Con chim sắp chết kêu lên tiếng đau thương, con người sắp chết bao giờ cũng nói
lời nói phải. Những điều tôi nói, bà và các con phải nghe ».
Bà đồ mắt vẫn ràn-rụa lệ rơi nhìn chồng gật đầu và lũ các con
cũng đều vâng dạ trước mọi lời trăng-trối của ông đồ.
Bỗng ông đồ bảo : « Thôi bà ở lại tôi đi ! Các con ở
lại thày đi. Ông lim dim nhắm đôi mắt yếu ớt lại. Bà đồ và Tiệp òa khóc ra tiếng ».
Nghe tiếng khóc của vợ và con, ông đồ lại mở mắt ra và nhắc lại
: « Tôi đã bảo bà và các con đừng khóc để tôi đi cho được yên-tâm ».
Ông bảo Vinh : « Con sờ chân thày mà xem, lạnh tới đầu gối
rồi ».
Vinh đưa tay sờ đầu gối ông đồ quả nhiên cả hai bên đều lạnh
ngắt. Sự lạnh cứ lên dần-dần, lên tới đâu ông đồ biết tới đó.
- Lạnh tới bẹn !
- Thày chết tới bụng !
Lạnh tới đâu người chết tới đó. Trong lúc đang chết ông đồ vẫn
sáng-suốt. Ông hết đưa mắt nhìn bà đồ lại nhìn sang các con : « Thày
chết quá bụng rồi ! »
Sau đó, ông không nói được nữa. Mắt ông vẫn mở. Ông nhìn bà đồ
lưu-luyến, nhìn lũ con âu-yếm, nhất là nhìn Tiệp và Mẫn.
Bỗng môi ông nở một nụ cười như để chào vợ rồi đôi mắt ông nhắm
nghiền lại.
Ông đã chết hẳn. Vinh thắp một nén hương kề khói vào mũi ông,
không thấy khói hương lay động gì nữa, chứng tỏ rằng ông đồ đã tắt thở.
Vinh bảo mẹ : « Thày đã đi hẳn ! »
Bà đồ gào khóc ! Tiệp cũng khóc òa lên, cả vợ Vinh cũng
khóc.
Vinh ra hiệu cho mẹ, vợ và em nín khóc. Chàng cùng Khoan
khiêng ông đồ từ trên giường đặt xuống đất. Hành động này của thân nhân có ý hi
vọng rằng sinh khí rải-rác trên mặt đất sẽ hồi-sinh người chết.
Đặt ông đồ nằm dưới đất giây lát thấy không có triệu chứng gì
của sự hồi-sinh, Vinh và Khoan lại khiêng ông đồ đặt lên giường như cũ.
Liền đó, Vinh sai người nhà lấy một chiếc áo dài của ông đồ vẫn
mặc, leo lên mái nhà, gọi ba hồn bảy vía 1 đích
danh ông đồ ba lần rồi lại leo xuống.
Người Việt-Nam tin rằng người chết hồn vía chưa đi xa, còn lẩn
quất quanh nhà nhớ thương con cháu, nên khi có người mang chiếc áo lên mái nhà
gọi hồn vía người chết, hồn vía có thể nhập vào chiếc áo để trở lại vào thân
xác.
Người nhà leo xuống, mang chiếc áo dài vào, nhưng hồn vía ông
đồ vẫn không trở lại xác. Ông đồ đã chết hẳn.
Bà đồ gào thét gọi tên ông, Tiệp và vợ Vinh cũng khóc-lóc gọi
cha. Xưa nay, người ta vẫn tin người chết có khi sống lại, nếu người nhà, nhất
là vợ con khóc lóc kêu gào. Tình thương vợ nhớ con đã khiến cho người chết
không thể dứt tình đi hẳn.
Trong những trường hợp người chết bất-đắc-kỳ-tử, chết sông,
chết đò, chết đạn lạc, tên bay, khi có cha mẹ anh em hoặc con cháu tới nhận xác
thường trào máu ra miệng. Linh cảm thiêng-liêng giữa tình máu-mủ ruột thịt đã
khiến có sự trào máu đó.
Bà đồ khóc, vợ Vinh kêu gào, Tiệp vừa lạy xác ông đồ vừa gọi,
người nhà đứng quanh đều rơm-rớm lệ, nhưng ông đồ vẫn không hồi lại.
Vinh bảo mẹ : « Thôi, đẻ đừng khóc-lóc quá nữa !
Thày con đi hẳn rồi ».
Ông đồ đi thật. Số mệnh của ông đã đến ngày phải về bên kia
thế giới cùng tổ-tiên.
Bà đồ bảo Khoan : « Thôi thày đã đi hẳn rồi, anh nhớ lời
thày dặn về nói với các cụ bên nhà lo cưới chạy tang trước khi phát phục ».
Cưới chạy tang tức là đám cưới cử hành trước đám tang. Đấy là
một tục-lệ cổ-truyền để cho đôi trai gái có thể kết hôn với nhau, không phải đợi
mãn tang người chết. Trong trường-hợp này, người chết được coi như vẫn còn sống,
và hôn-lễ tuy được cử-hành giản-dị hơn, nhưng đối với người chết nằm đấy, phải
dùng những lễ nghi như đối với người còn sống.
Nghe lời bà đồ, Khoan vội-vã về nhà lo việc cưới chạy tang.
Cưới là một việc vui mừng, nhưng cưới chạy tang, mọi lễ-nghi
được giảm bớt rất nhiều, và do đó sự cưới xin cũng cử-hành rất mau lẹ. Sự kén
chọn ngày cũng bớt cẩn-thận. Người ta chỉ cốt làm sao cho đám cưới mau xong để
còn lo tới đám tang.
Với đám cưới, Tiệp sẽ được gần Khoan. Tuy nhiên nàng cũng
đau-đớn trước cái chết của cha. Phải chi cha nàng còn sống, đám cưới không
linh-đình cũng tấp-nập, có phải cha nàng cũng vui-vẻ và nàng cũng sung-sướng
không.
Trong lúc Khoan ra về, tại nhà ông đồ, Vinh và người nhà lo tắm
rửa thay quần áo cho ông đồ.
Tiệp đã đem nồi nước vị-hương thơm phức để lau mình cho cha,
và sau đó, bà đồ đích thân mặc cho ông đồ bộ quần áo đẹp nhất xưa nay ông đồ vẫn
ưa mặc.
Theo đúng tục lệ, Vinh khẻ cậy mồm cha để đặt vào một nhúm gạo
nếp và ba đồng tiền, tượng trưng cho thức ăn của người chết và tiền đò để qua Cửu-tuyền
về bên kia thế giới. Sau đó một tấm giấy bản được phủ lên mặt ông đồ.
Việc phát phục, phải đợi lễ chiêu-hồn và lễ chiêu-hồn chỉ thực-hiện
sau đám cưới chạy tang của Tiệp.
Vì chưa phát phục nên người nhà dù có thương xót cũng chỉ
khóc dấm-dút, không dám khóc to. Đối với làng nước, ông đồ vẫn được coi như còn
sống, tuy với lễ cưới chạy tang của Tiệp ai cũng biết là ông đồ đã chết.
Tiệp thương cha vô cùng. Nàng khóc sưng cả đôi mắt. Từ bé
nàng vẫn được cha mẹ thương chiều, và chưa bao giờ nàng phải xa cha mẹ. Nỗi
sinh ly nàng chưa biết, nhưng nay nàng đau-đớn biết bao nhiêu với câu tử-biệt.
Bà đồ báo tin ông đồ mất cho mấy người em ông đồ và em bà để
nhờ họ đi sắm sửa đồ ma chay.
Bà buồn, nhưng tuân lời ông đồ lúc lâm-chung, bà bình-tĩnh lo
việc ma chay. Bà nhờ người này chạy đi khai tử, xin phép làng để động-thổ đào
huyệt, nhờ người kia lo mua bán trầu cau rượu gạo cần-thiết cho một nhà đám. Lại
còn việc đặt nhà táng, minh-tinh, lo mua sô gai vải bố để liệm cũng như xé khăn
cho con cháu sau khi phát phục.
V
Đám cưới của Khoan và Tiệp đã cử hành rất dản dị và cũng rất
mau chóng. Họ nhà gái chỉ mong đám cưới cho xong để còn lo việc chiêu-hồn cho
ông đồ và phát tang.
Lễ cưới cũng đơn sơ. Nhà gái không đòi hỏi gì ở nhà trai
ngoài lễ cúng gia-tiên, lễ gửi các nhà thờ họ và một ít cân chè để chia cho bạn
bè thân quyến.
Nhà ông Chánh-Tổng cũng nhận được trầu cau chia. Ông cười hà
hà bảo người nhà : « Bay xem, con ông đồ Ngư, giá lấy thằng Thúc nhà
này có phải đám cưới linh-đình không. Bây giờ lấy thằng cháu Khóa Hữu, cưới chạy
tang lúi-sùi như con nhà bách-tính ! Cho đáng kiếp ! Nhà thằng Khoan
nghèo rớt mùng tơi, con ông đồ về làm dâu nhà ấy tha hồ vất-vả. Rồi bay sẽ thấy,
nó sẽ ao ước số phận của nhà Thúc ! »
Thúc cũng bảo Thảo : « Em đi đưa dâu đám cưới con Tiệp
không ? Đám cưới long-trọng nhỉ ? »
Thảo cười nhìn chồng rồi nói : « Mình riễu người ta
làm gì ! Duyên ai phận nấy chứ. Thày đồ chẳng may mất đi, chị Tiệp mới phải
lấy chồng cưới chạy tang ! »
- Em muốn binh con ấy hay sao ? Có dịp anh sẽ cho vợ chồng
nó biết tay !
Người làng được tin ông đồ mệnh chung, Khoan cưới Tiệp chạy
tang đều có vẻ ái-ngại. Có người nói : « Số cô Tiệp thế mà vất vả !
Một đời người mới có một lần lấy chồng lại cưới chạy tang ».
Người khác nói theo : « Rồi ra cô ấy sẽ vất-vả suốt
đời. Cái trò cưới chạy tang thường không tốt đẹp ».
Lại có người nói : « Các ông bà chỉ bàn nhảm !
Cốt vợ chồng người ta thương yêu nhau thì thôi. Hạnh-phúc sung-sướng ở đời đều
do mình tạo lấy hết. Vất-vả về đường vật-chất có hại gì ! Sung-sướng về
tinh-thần mới thật là sung-sướng ».
Lúc Khoan dẫn lễ cưới tới nhà gái, lễ cưới được cử-hành như
thường lệ, nhưng không có trẻ nhỏ chăng giây và cũng không có đốt pháo. Cưới chạy
tang, trong nhà người chết còn nằm đó, ai lại đốt pháo.
Sau khi Vinh thắp hương để Khoan lễ gia tiên, cả Khoan lẫn Tiệp
đều tới lễ trước thi hài ông đồ như lễ người còn đang sống. Sau đó, đôi vợ chồng
lạy mừng bà đồ.
Lễ mừng trong đám cưới có ý nghĩa rất đẹp. Người con gái lễ
cha mẹ để đền ơn sinh dưỡng. Cha mẹ nuôi nấng mình nên người, nay ra đi làm dâu
con nhà khác phải có lễ mừng trước để tạ ơn. Còn chàng rể lễ bố mẹ vợ cũng cốt
để tạ ơn cha mẹ vợ đã gây dựng nuôi nấng cô dâu. Khi cô dâu về nhà chồng cũng lễ
bố mẹ chồng với ý nghĩa xin từ nay được làm dâu con trong nhà. Và chính chàng rể
cũng phải lễ bố mẹ mình trước khi đi rước dâu để đền bù lại công sinh-dưỡng.
Lễ mừng ông bà đồ xong, mấy người em họ Tiệp đưa Khoan đi lễ
vài nhà thờ chính trong họ. Việc lễ nhà thờ này coi như một sự trình diện của
chú rể với tổ tiên họ hàng nhà vợ.
Ngày cưới là ngày vui mừng, nhưng Tiệp buồn rười-rượi. Nổi
vui sướng của ngày vu-quy không át nổi sự đau-đớn mất cha ! Nàng yêu chồng,
nhưng nàng lại rất thương cha.
Bà đồ nhìn con thương hại. Bà tự nghĩ thấy ái-ngại số phận
kém may mắn của con. Ngày vui mừng nhất đời của con lại chính là ngày sắp chôn
người cha yêu dấu.
Sau những cuộc lễ theo đúng tục lệ tại nhà gái, nhà trai xin
đón Tiệp về để giữ đúng phép cưới. Cuộc đón dâu cũng vội-vàng hấp-tấp như cuộc
đưa rể.
Lại lễ gia-tiên nhà chồng, rồi đến lễ mừng bố mẹ chồng.
Nhà trai, tuy là cưới chạy tang, nhưng vì đám tang về nhà
gái, nên có mời họ hàng thân thuộc tới dự lễ cưới. Trong nhà cũng có vẻ tấp-nập
nhộn-nhịp.
Lúc cô dâu tới nhà chồng, bà mẹ Khoan vội vàng xách ông bình
vôi lẩn sang nhà hàng xóm trong một lát. Hành động này theo đúng cổ-lệ, người vợ
là nội tướng trong gia-đình và bình vôi tượng-trưng cho căn bản của gia-đình.
Khi cô dâu mới tới, bà mẹ chồng lánh mặt đi với bình vôi có ý nghĩa là nội tướng
cũ nhường quyền cho nội tướng mới, vì thường khi có nàng dâu, bà mẹ chồng giao
việc quán-xuyến nhà cửa cho nàng dâu. Trách-nhiệm của cô dâu thật là nặng-nề, lấy
chồng gánh vác giang sơn nhà chồng.
Trong lúc mẹ Khoan lánh mặt đi thì đám rước dâu đi vào trong
nhà. Một chiếc hỏa-lò hông lửa đặt ngay trước cửa ra vào. Tiệp phải bước qua
chiếc hỏa lò đó, để những tà ma ám ảnh nàng sẽ bị đốt trừ hết.
Sau khi lễ gia tiên xong, thân mẫu Khoan cũng đã ở bên hàng
xóm trở về để cùng chồng nhận lễ lạy mừng của Tiệp.
Nhà trai làm cổ mời nhà gái, trong khi cô dâu được đưa đi lễ
các nhà thờ họ.
Tiệp như cái máy làm theo sự điều-khiển của mọi người. Nàng
không nghĩ gì cả. Phải chi lễ cưới được cử-hành trước khi ông đồ thở hơi cuối
cùng có phải tưng-bừng nhộn-nhịp bao nhiêu không. Thôi, âu là tại số !
Ngay buổi chiều hôm đó, Khoan và Tiệp liền trở lại nhà ông đồ
để dự lễ chiêu-hồn phát phục của ông.
Lần này, Khoan và Tiệp đi cạnh nhau. Trước pháp-luật cũng như
trước tôn-giáo, đôi bên đã thành vợ thành chồng.
Vài người làng thấy vợ chồng Khoan đi qua chỉ trỏ
bàn-tán : « Cậu Khoan và cô Tiệp thật đẹp đôi, trông xứng với nhau
quá. Ấy thế mà phải cưới chạy tang cũng đáng tiếc ».
- Cậu Khoan nhà nghèo, cô Tiệp lấy cậu ấy sẽ vất-vả. Biết đâu
cưới chạy tang chẳng biến-đổi nổi số phận của hai người.
Có người nói : « Cậu Thúc con ông Chánh-Tổng mê cô
Tiệp lắm đấy. Không lấy được cô Tiệp cậu ta mới lấy cô Thảo con ông
Phong ».
Lại có người tiếp : « Tự nhiên cô Thảo sung-sướng
thêm. Con nhà giàu lại lấy chồng giàu ».
Vợ chồng Khoan đang đi thì gặp Hoài. Hoài chào hai người và
nói : « Em và mấy chị cũng được tin anh chị làm lễ thành-hôn, nhưng rất
tiếc không được đến mừng anh chị. Rồi Hoài hỏi thăm về lúc ông đồ qua đời cùng
việc ma chay ».
Tiệp nói : « Lúc mất thày tôi tỉnh lắm. Thày tôi có trối-trăng
lại chúng tôi phải cưới chạy tang. Cũng là số mệnh của chúng tôi, lấy nhau
không được đàng-hoàng nên không được mời các anh các chị ».
Khoan nói : « Ấy thế mà anh Đáp cũng tới mừng tôi
và đóng vai phù rễ để đi đón dâu đó ».
Vừa nói Khoan vừa nhìn Tiệp tủm-tỉm cười, Tiệp cũng gượng cười
theo chồng.
Khoan lại nói thêm : « Việc cưới xin của chúng tôi đã
xong, giờ đây tôi đưa nhà tôi trở lại bên nhà để lo việc chiêu-hồn và phát phục ».
Hoài nói : « Em và các anh chị khác cũng đã định tới để
giúp đỡ cô trong việc tang thày, nhưng vì còn vướng lễ cưới của anh chị ».
Tiệp đáp : « Bây giờ chúng em về để dự lễ chiêu-hồn thày
em. Rồi sau đó là lễ phát-phục. Đẻ em và người nhà cũng đã lo sắm-sửa đủ mọi thức
cần dùng rồi ».
Khoan và Tiệp từ giã Hoài nhưng Hoài đi theo họ đến tận nhà.
Hoài cho họ biết là các bạn-bè nhiều người ái-ngại cho Tiệp và họ đều rất mến
tiếc ông đồ.
Thực ra thì khi ông đồ ốm, học-trò cả mới lẫn cũ đều đã lũ lượt
tới thăm thày và khi họ được tin ông đồ mất, họ đã cắt cử người tới hầu hạ thường-trực,
và họ cũng đã trù-tính việc tham dự tang lễ.
Tình thày trò xưa nặng như tình cha con. Thày chết trò phải để
tang trong lúc đi đưa. Các môn-sinh phải cắt nhau tới chầu-trực tại đám tang
như con cháu trong nhà.
Khi vợ chồng Khoan và Hoài tới nhà, trong nhà đang đông
khách-khứa tới hỏi thăm chia buồn. Bà đồ tiếp khách với đôi con mắt mọng lệ.
Các con cháu ông đồ đều túc-trực sẳn để dự lễ chiêu-hồn.
Một pháp sư đã được mời tới để cầm đầu đám tang.
Lũ học-trò ông đồ cũng có mặt rất đông, trong số đó có cả
Thúc lẫn Thảo.
Vợ chồng ông Chánh-Tổng cũng đã tới hỏi thăm chia buồn.
Ông Chánh-Tổng tuy không hài-lòng với ông đồ về việc hôn-nhân
của Thúc, nhưng là kẻ cả trong hàng tổng, ông luôn luôn tỏ ra mình có một
thái-độ đứng-đắn. Tới chia buồn cùng bà đồ và vợ chồng Vinh, ông Chánh-Tổng
săn-đón hỏi-han đủ mọi việc và sẵn-sàng giúp đỡ tang gia bất cứ về phương diện
gì.
Trong lúc ông đồ ốm, không những ông bắt vợ chồng Thúc phải
luôn luôn thăm nom, chính vợ chồng ông cũng đã tới thăm và thường mua quà biếu.
VI
Có hai cách chiêu-hồn 2. Thày pháp có thể niệm chú chiêu-hồn người chết
qua một tuần hương để hồn nhập vào một tàu chuối cắt thành hình người, nhưng đối
với ông đồ, người nhà đã xin thày pháp làm phép « chiêu-hồn bạch ».
Thày pháp đắp trên mặt ông đồ một tấm lụa trắng dài 7 thước ta 3 rồi khấn-khứa để hồn vía người chết nhập
vào. Tấm lụa trắng được tết nhang-nhác hình người và sẽ được thờ tại linh-sàng.
Lễ chiêu-hồn ông đồ đã xong. Ông thày đã bấm giờ lâm-chung của
ông đồ để biết ông đồ có bị nặng giờ không. Ông đồ đã may-mắn chết vào giờ
lành, không bị các ác thần ám-ảnh lại còn được hai cái nhập mộ, tức là chết nhằm
giờ có linh thần phù hộ để giữ-gìn chống thần trùng cho người chết.
Theo quan niệm của người Việt-Nam và người Trung-Hoa người chết
có thể gặp giờ xấu bị thần trùng tới tra-khảo để bắt chết thêm người nhà, nhất là
vợ con, hoặc được những giờ tốt các thần linh phù-hộ, không sợ bị thần trùng.
Những người bị thần trùng ám, thường thần này tra khảo tại mộ
bắt chỉ cho con cháu. Muốn trị thần trùng phải có pháp-sư làm bùa phép cúng.
Ông đồ không bị nặng giờ, con cháu đều mừng.
Sau lễ chiêu-hồn tới lễ khâm-liệm.
Tự tay Vinh quấn vào người ông đồ một tấm vải trắng dài suốt
từ cổ tới chân. Trong lúc liệm, thày pháp cũng khấn vái để vong-hồn người quá cố
được rõ.
Liệm xong là lễ nhập-quan. Lễ nhập-quan rất quan-trọng. Cả gia
đình đều có mặt tại lễ này. Bà đồ và các con khóc-lóc thảm-thiết. Đã nhập-quan,
người nhà không còn được nhìn mặt ông đồ nữa. Từ đây thật là vĩnh-biệt. Tiệp sấn
tới bên thây cha lăn-lộn khóc-lóc. Nàng như cố muốn níu lấy hình dáng của cha
già để ghi trong tâm-khảm lần cuối cùng. Rồi đây tiềm thức của nàng sẽ luôn
luôn có bóng người cha thân mến.
Lũ học-trò ông đồ cũng tham-dự lễ nhập-quan. Các cô học-trò
cũng khóc-lóc như Tiệp. Tình thày trò sâu nặng, thày còn hơn cha.
Lễ nhập-quan xong, người nhà và bọn học-trò ông đồ chia nhau
canh gác áo quan. Chiếc áo quan của ông bằng gỗ vàng tâm, sơn son thiếp vàng do
chính ông đồ đã sắm từ trước.
Đó là một tục lệ lo xa của người Việt. Mỗi khi tới tuổi già
thường tính đến ngày về cõi chết, và thường sắm sẵn bộ áo quan mà các cụ gọi là
cỗ thọ.
Trong áo quan có lót một lượt chè mạn thơm. Chè này dùng để ướp
xác người chết, giữ cho xác lâu phân chất, và khỏi tỏa ra mùi hôi-hám.
Xác ông đồ được người nhà khiêng đặt vào trong áo quan, trong
khi thày pháo niệm chú khẩn-khừa.
Người nhà cho đặt vào áo quan tất cả những đồ dùng thường nhật
của ông đồ : quần áo, sách vở, kính, giày v.v… Ngoài ra, thày pháp lại lấy
một cổ tổ-tôm rắc lên khắp người ông đồ trước khi nắp áo quan đóng lại. Theo sự
tin-tưởng cổ tổ tôm có thể trừ được tà ma.
Áo quan đã đậy nắp. Một bát cơm bông đặt trên nắp áo
quan : đấy là một bát cơm thật đầy, có một quả trứng luộc bóc vỏ để trên.
Một thanh que tre nhỏ, một đầu được vót dua như một bông hoa cắm qua quả trứng
thấu tới bát cơm.
Sau lễ nhập-quan là lễ thành-phục. Nhiều nơi, người ta
chiêu-hồn người chết, làm lễ nhập-quan rồi, nếu có con cháu cần cưới chạy tang,
lễ cưới mới cử hành. Lễ cưới chỉ cần xong trước lễ thành-phục tức là lễ phát phục,
nói nôm là lễ phát tang. Nếu đám cưới không kịp cử hành trước lễ phát tang, đôi
trai gái phải chờ cho đoạn tang mới được lấy nhau.
Bà đồ khóc-lóc kể-lể thảm-thiết, ôm lấy áo quan kêu gào, rồi
lăn-lộn bên cạnh. Các bà con xúm nhau khuyên-giải nhưng nỗi đau đớn của bà phải
đâu mỗi lúc vơi được ngay. Bà vẫn khóc. Mắt bà sưng mọng lên.
Tiệp cũng thương cha. Nàng cũng ôm lấy quan tài. Nàng không
kêu gào nhiều, nhưng nhìn nàng người ta biết nàng đau-đớn.
Từ bé, luôn luôn ở cạnh cha mẹ, nay mất cha, tuy còn mẹ,
nhưng nàng cũng vẫn thấy thiếu-thốn sự trìu-mến nghiêm-khắc, chỉ còn lại sự
trìu mến dịu dàng.
Khoan tìm lời an-ủi, nhưng an-ủi nào làm nguôi cho ngay được
nỗi đau tử biệt.
Vợ Vinh cũng khóc, nhưng khóc rất lớn và kể-lể rất dài. Nàng
tuy có thương cha chồng, nhưng đau-đớn sao bằng bà đồ và Tiệp. Nàng phải khóc
theo tục-lệ tang-chế của Việt-Nam, nhưng vì không thấy thấm thía sự xót thương,
cho nên trong tiếng khóc, nàng phải lấy lời kể-lể thay vào sự bi ai buồn thảm.
Họa cùng tiếng khóc của mấy mẹ con bà đồ, có những tiếng khóc
và lời than của các chị em ông đồ bà đồ, của bà cô bà thím họ hàng xa gần và của
cả các cô học trò vẫn được ông đồ thương mến.
Kể từ lúc nhập quan, người nhà phải luôn luôn có người ngồi cạnh
để canh chừng không cho một sinh vật nào nhẩy qua. Người ta tin rằng, nếu người
chết đặt nằm một chỗ, chẳng may có một con vật nào nhẩy qua như con mèo, con
chuột hoặc bất cứ một con gì, người chết có thể bị quỷ-nhập-tràng, nghĩa là bừng
sống lại, nhưng đây không phải là hồn người trở lại, mà chính là hồn quỷ sẽ nhập
vào xác người. Trong trường hợp này phải có thày pháp cao tay mới ếm bùa trị nổi.
Người nhà họ hàng bà đồ đông, lại thêm học-trò ông đồ cũng
nhiều, nên luôn luôn có người ở cạnh áo quan.
Một ban nhạc đám đã được mời tới để thổi kèn đám tang.
Giọng kèn « tò e tí ỏi » dài dài buồn buồn bắt đầu
vang lên theo tiếng khóc kể từ lúc tang gia có lễ phát-phục, tức là lễ phát quần
áo khăn tang cho con cháu.
Khi ông đồ vừa nằm xuống bà đồ đã nhờ người nhà mua sẵn vải
xé khăn và may sẵn tang-phục cũng như mua giàu cau và mọi thứ cần dùng cho
tang-lễ.
Có hai loại vải để xé khăn.
Vải sô xé cho vợ, con và dâu. Ngoài khăn tang còn y phục để
tang nữa.
Theo lễ ngũ phục, quần áo tang có năm loại khác nhau tùy theo
người để tang là con cháu hoặc họ xa gần với người chết.
Vợ, con trai, con gái và dâu người chết ăn mặc « đại
tang » và để tang 3 năm. Tang phục của những người nầy gồm một chiếc áo và
một chiếc quần bằng vải thô sổ gấu, lưng có may trái sống nghĩa là đường chỉ ở
giữa sống lưng may ngược ra ngoài. Trên lưng lại có miếng vải bấu hình vuông tượng
trưng sự đau đớn của người để tang. Đằng trước ngực cũng có một miếng vải bấu gọi
là thôi, tượng trưng sự nát tim não ruột của kẻ làm vợ làm con. Người để tang
còn mặc ở ngoài bộ quần áo tang, một chiếc áo sô bằng vải màn, cũng may theo kiểu
chiếc áo tang để mặc trong lúc tế lễ và đưa đám, và phải thắt ở ngoài cùng một
chiếc giây lưng bằng giây chuối. Chít trên đầu là một chiếc khăn sô, quấn quanh
đầu có một vòng và thắt múi dài ở đằng sau, thõng xuống lưng.
Người con trai người chết phải đội một chiếc khăn quấn bằng
giây chuối và chống một chiếc gậy tre hoặc gậy vông tùy theo cha hay mẹ chết,
trong lúc tế-lễ cũng như trong khi đưa người chết tới nơi an nghỉ cuối cùng.
Người đại tang đi giày cũng phải dùng màu trắng.
Những quần áo đại tang, tang chủ phải giữ trong ba năm. Sau
đám tang, tang phục nầy được để ngay dưới bàn thờ người chết và chỉ đốt đi khi
đoạn tang sau lễ trừ phục.
Cháu gọi người chết bằng ông bà, con rể để tang bố mẹ vợ,
cháu để tang chú bác, bố mẹ để tang con hoặc dâu, anh chị em ruột để tang nhau
gọi là tang « cơ niên ». Người để tang phải chịu tang một năm.
Tang-phục gồm khăn trắng và quần áo trắng may theo kiểu thường, bằng một thứ vải
nhỏ mặt đỡ thô hơn loại vải đại tang. Ngày nay người ta thường dùng loại vải
thường.
Sau tang cơ niên là tang « đại công », mang trong
chín tháng. Chắt để chở các cụ, anh chị em rể để chở nhau, cháu để chở cô chú họ,
anh em con chú con bác để chở nhau mang tang đại công. Trang phục giống như
tang cơ niên, duy có chắt để tang cụ thì chít khăn vàng.
Kế đó là tang « tiểu công » mang trong năm tháng.
Cháu để chở cậu và dì, anh em cô cậu hoặc cháu chú cháu bác để chở lẫn nhau,
chú và cô để chở cháu mang tang tiểu công. Tang phục cũng giống như tang cơ
niên.
Sau cùng là tang « ty ma » mang trong ba tháng. Người
ta còn gọi tang này là tang mọn. Chút để chở các kỵ, cậu và dì để chở cháu, anh
em cháu cô cháu cậu để chở lẫn nhau, bố mẹ để chở chàng rể, con để chở mẹ ghẻ
hoặc nhủ mẫu mang tang ty ma. Tang phục màu trắng bằng vải thường, nhưng chút để
chở kỵ thì chít khăn đỏ.
Ngoài năm loại tang trên, học-trò cũng để tang thày và hàng
xóm cũng để tang nhau trong ba ngày, đúng như câu ca dao :
« Hàng xóm để chở ba ngày.
Chồng cô vợ cậu một ngày cũng không ».
Nếu người chết không có con trai, người ăn thừa-tự sẽ để đại
tang như chính người con, cũng như trường hợp người cháu đích-tôn phải để tang
ông theo đại tang nếu cha mình đã chết.
Bà đồ đã cho xé khăn và phân-phát quần áo tang cho con cháu họ
hàng đúng theo tục-lệ.
Tên họ và tên húy ông đồ được viết trên một tấm lụa hồng dài
cùng với chức-tước của ông, để treo lên minh-tinh khi đưa đám.
Đồng thời một tấm lụa màu đỏ cũng viết những chữ như tấm lụa
trên, được dán vào bài vị ông đồ.
Linh-sàng và linh-tọa, tức là giường và ghế của người khuất
đã được thiết-lập.
Trong lúc làm lễ phát-phục, tất cả quần áo tang được đặt trước
bài vị ông đồ. Nén hương được thắp lên và các con cháu lần lượt mặc tang-phục đứng
trước linh-sàng dự lễ.
Lễ phát-phục xong, toàn thể người nhà đều mặc màu trắng. Tiếng
kèn kéo dài của dàn kèn, màu trắng đục của quần áo vải sô như tăng nỗi đau-đớn
của bà đồ và Tiệp.
Từ đây âm-dương đôi ngả, ông đồ đã ra người thiên cổ. Bộ
tang-phục phải chăng đã ngăn cách kẻ khuất với người còn.
VII
Suốt từ trong nhà tới rạp dựng ngoài sân, hai bên tường treo
la liệt những câu đối, những bức trướng của con cháu trong nhà, của bạn-bè
thân-thuộc và của học-trò kính viếng ông đồ.
Câu đối của con cháu trong nhà viết bằng chữ đen trên vải trắng,
còn những bức trướng và câu đối của bạn-bè thân-thuộc và học-trò đều bằng vải
màu xanh, vàng, trắng hoặc đen có thêu hay dán chữ. Chung quanh lại có viền chỉ
màu sặc-sỡ và có thêu những cảnh Bát-tiên quá hải, hoặc sơn thủy để tăng vẻ thẩm-mỹ
cho đối-trướng.
Người đến viếng ông đồ đông lắm, người trong làng, người hàng
tổng và cả bạn-bè các tỉnh xa nữa.
Tin ông đồ chết được loan đi, học-trò cũ của ông kẻ xa người
gần đều về viếng lễ thày, chỉ những người nào thật mắc bận, không thể về được mới
phải chịu. Thày học cũng như cha. Đạo thày trò nghĩa trọng, về viếng tang thày
cũng là một cách để tỏ lòng kính mến và biết ơn.
Trong nhà đám đông những người. Tiếng nói ồn-ào. Khách tới viếng
cùng nhắc lại những tính hay điều tốt lúc sinh thời của ông đồ.
Con cháu trong nhà chạy tíu-tít để pha trà, bưng trầu và cơm
rượu.
Những mâm rượu đặt ngay ở hai bên áo quan, ở ngoài rạp, ở cả
những căn nhà ngang, và ngay cả nhà học.
Mỗi lần có khách tới viếng, phường kèn trống lại nổi lên một
điệu kèn trống thờ nghe buồn và kéo dài tiếng ngân áo-não.
Cùng với tiếng kèn trống, tiếng khóc của người nhà cũng vang
lên, rền-rỉ đau-thương.
Kèn không thể thổi suốt đám tang, cũng như con cháu không thể
khóc suốt ngày, chỉ lúc nào có khách viếng kèn mới lại nổi lên, và con cháu mới
luân-phiên nhau khóc theo nhịp kèn thờ. Tuy vậy, có người gào khóc nhiều đã
khan tiếng, và đôi mắt đỏ mọng sưng húp.
Đám thợ kèn thợ trống ngồi ở một góc nhà, trông ngay ra trước
linh-sàng. Có khách tới viếng họ thấy ngay. Trống rung lên, và tiếng kèn cũng bắt
đầu.
Nghe tiếng trống rung kèn thổi, con cháu dù đang ăn uống hoặc
tiếp một bọn khách khác cũng phải cắt người ra để khóc theo tiếng kèn, và cử
người đứng đáp lễ.
Tục lệ như vậy, có người viếng phải có tiếng khóc. Bởi thế
nên nhiều đám tang, thiếu con cháu phải thuê người khóc mướn. Người khóc mướn
chỉ kêu gào kể-lể, và tiếng khóc chỉ có chiều dài, không có tình thương.
Người viếng sau khi trao lễ viếng, đứng lễ trước bàn thờ người
chết. Con cháu người chết phải đáp lễ. Khách viếng sau khi lễ người chết, được
người sống đáp lễ, cũng phải quay về phía người đáp lễ vái lại.
Xác người chết còn nằm trong nhà, khách viếng chỉ phải lễ hai
lễ và ba vái như khi lễ một người sống. Khi đã cất đám, khách đến viếng sau đám
tang, lễ trước bài vị người chết bốn lễ ba vái, như trong một đám cúng hoặc đám
giỗ.
Khách viếng thường mang theo đồ lễ, nhưng cũng có khách gửi đồ
lễ tới trước và tới viếng sau. Đồ lễ viếng gồm câu đối, trướng, trầu cau, trà nến,
vàng hương, và ở nhà quê chỗ thân tình người ta thường dùng lễ viếng bằng cả cỗ
xôi con gà hoặc cỗ xôi thủ lợn. Cũng có người viếng bằng tiền. Đây là một cách
giúp đỡ tang-chủ, và cũng là một cách để dành, vì sau này nếu người đi viếng có
việc hiếu hỷ, tang chủ lúc đó sẽ lại mang tiền tới chia vui hoặc chia buồn.
Bà đồ, vợ chồng Vinh và Tiệp thật vất vả. Nào tiếp khách, nào
lo cỗ bàn mời khách, nào lo việc khóc mỗi khi có trống kèn nổi lên.
Đáp lễ khách thường là Vinh, nhưng nhiều lúc Vinh mệt quá.
Khoan phải đứng lễ thay anh vợ. Mẫn tuy bé cũng phải đứng đáp lễ. Đôi khi, có
những học-trò của ông đồ đã làm nên cũng mặc tang-phục, quần áo trắng, khăn trắng
đứng đáp lễ những người tới viếng lễ thày.
Trên giường thờ khói hương nghi-ngút. Người nhà chạy đi chạy
lại, xen lẫn vào trong đám khách viếng, mời khách trầu, nước và cơm rượu.
Ma chê cưới trách, người nhà đám phải luôn luôn săn sóc khách
khứa để tránh mọi sự chê-bai.
Thỉnh-thoảng mệt mỏi quá, bà đồ, vợ Vinh và Tiệp lại chia
nhau vào trong buồng nằm nghỉ.
Đã hơn một ngày nay, Tiệp mệt quá, không ăn cơm. Nàng chỉ ăn
cháo. Phần vì mỏi-mệt không muốn ăn, phần vì đau-đớn thương cha, ăn không thấy
ngon. Đôi mắt nàng mọng sưng. Trông nàng trong bộ sô gai thật đáng thương hại.
Khoan bảo nàng : « Em phải cố gắng ăn uống, kẻo nhịn
ăn mệt-mỏi, ốm đau thêm khổ ! »
Tiệp nhìn Khoan âu-yếm. Lòng tràn ngập yêu đương, nàng thầm
cám ơn Khoan. Phải chi ông đồ còn sống, những ngày mới cưới của nàng sẽ tươi đẹp,
tưng-bừng bao nhiêu. Nỗi sung-sướng ngày nay không sao át nổi sự đau đớn mất
cha của nàng.
Nàng bảo Khoan : « Trong mình mệt em muốn ăn không được.
Vả lại khách khứa luôn luôn, người ta tới lễ thày phải có người
khóc ! »
Thật ra cả nhà đám ai cũng mệt-mỏi, nhưng bà đồ và Tiệp vất-vả
hơn cả.
Khách viếng đông và tới luôn luôn. Rồi hàng ngõ, hàng xóm,
hàng phe, hàng giáp đến, nhóm nào cũng muốn tế ông đồ một tuần rượu.
Lúc sinh thời, mỗi khi trong làng có đám tang, ông đồ vẫn là
người viết câu đối giúp tang chủ, cho chữ những ai xin câu đối hoặc trướng đi
viếng. Cũng lại chính ông làm những bản văn-tế để dân làng tế người quá cố. Dân
làng ai cũng kính mến ông. Nay ông mất, nghĩa tình lân-lý, tình hàng phe hàng
giáp, tình thôn trên xã dưới, họ đều mong được tế ông một tuần gọi là tiễn đưa
ông đồ về cõi Phật.
Lẽ ra, đám tang đã cử hành sớm, nhưng vì có nhiều cuộc tế-lễ,
người nhà phải đình lại một ngày.
Một cuộc tế, người nhà lại phải khóc trả lễ, khóc vì nghi-lễ
cũng có nhưng cũng khóc chính vì những lời thống-thiết chân-thành trong các bài
văn-tế.
Và đám học-trò cũ của ông đồ đã làm nên, lại đám học-trò đang
học, ai cũng muốn dâng hương hồn ông đồ một tuần hương để gọi là tỏ chút lòng biết
ơn đối với thày học đã tác-thành cho mình.
Khách tới nhà đám sau khi lễ viếng, thường cùng nhau thưởng-thức
bình phẩm những đôi câu đối viếng treo hai bên tường nhà hoặc hai bên vách rạp.
Những câu đối viếng ông đồ đều là những đôi câu đối hay rất
nhiều ý nghĩa, của các tay đại-khoa có, danh-sĩ có và của cả những học-trò giỏi
của ông đồ.
Và người ta cũng nhắc lại những câu trong văn-tế đã nêu lên
bao nhiêu đức-tính của ông đồ, bao nhiêu sự giúp đỡ lân-bang làng xóm của ông,
và tất cả những sự-nghiệp tiếng tăm ông đã có.
Các bà trong làng gặp bà đồ, thường an-ủi : « Ông đồ
đã tới số về với các cụ, bà cũng chẳng nên quá ưu-sầu ».
Bà đồ cảm ơn họ, đôi giòng lệ tràn ra theo lời nói. Tình chồng
vợ, kẻ khuất, người còn nguôi sao được.
Cũng như khi ông đồ còn sống, ngày hai lần tới bữa có lễ cúng
cơm. Trong lúc lễ cử-hành, lại kèn trống, lại tiếng khóc. Chủ lễ là Vinh. Vinh
là con trưởng, được đứng mời hương-hồn ông đồ dùng bữa.
Người sới cơm hoặc là bà đồ hoặc là vợ Vinh. Đó là bổn-phận của
người vợ và người con dâu trưởng, nhưng đây cũng là đặc quyền của những bực
chính-thất và của nàng dâu.
Trong những buổi lễ dâng cơm như vậy tất cả tang-quyến đều đến
lễ trước bàn thờ. Lòng thành-kính thương nhớ của người sống đối với người chết
được chứng tỏ trong mọi lễ-nghi.
Xác ông đồ quàn ở trong nhà đã hai ngày, kể từ khi lễ thành
phục. Chỉ còn đêm nay nữa, sớm hôm sau đám tang sẽ cử-hành. Suốt trong hai
ngày, nhà đám luôn luôn tấp-nập nhộn-nhịp cho tới khuya. Tiếng kèn trống, tiếng
khóc than, tiếng chuyện trò ồn-ào của khách-khứa. Nhà trên, nhà ngang, nhà bếp,
những người là người. Người ăn cỗ, người làm giúp, người hầu-hạ !
Khuya, khách khứa vãn, cảnh tang-gia đượm một vẻ buồn.
Chiếc quan tài nằm giữa nhà nhắc-nhở sự chia-ly vĩnh-viễn kẻ
khuất người còn. Mùi hương tỏa ra ảm-đạm.
Lúc khuya này vãn khách viếng, con cháu mới lần lượt nhờ phường
kèn thổi những bài kèn thờ để tỏ nỗi lòng thương nhớ. Tiếng kèn kéo dài não-nuột,
vang trong đêm vắng lan mãi xa xa.
Vợ khóc chồng bằng một bài kèn, con khóc cha cũng một bài
kèn, rồi cháu khóc chú, em khóc anh đều có bản kèn riêng.
Phường kèn thổi những bài khóc này đem hết tài nghệ để điệu
kèn nghe càng buồn-rầu, hòa với tiếng khóc lúc đêm hôm thảm-thiết. Mỗi bài kèn
khóc thờ đều có tiền thưởng riêng của gia chủ.
Nhà càng vắng, các bài kèn nghe càng buồn thấm-thía, và cảnh
tử-biệt càng thấy bi-ai.
Trong hai đêm quàn xác ông đồ ở trong nhà, con cháu và học-trò
phải cắt phiên nhau thức canh chừng. Hương hết phải thắp thêm nén khác, nến hết
phải nối ngay ngọn sau.
VIII
Chỉ còn đêm cuối cùng nữa, ngày hôm sau là ngày đám ông đồ.
Đêm nay có lễ chuyển-cữu và lễ yết-tổ, đúng theo như gia-lễ
Việt-Nam.
Lễ chuyển-cữu tức là lễ sê dịch quan-tài, mang quan-tài từ
nơi tang gia vẫn để từ trước trong lúc làm ma đến gian nhà thờ. Và ở đây cử-hành
lễ yết-tổ, tức là lễ báo cho gia tiên biết người chết từ nay đã từ giã con cháu
để về cùng các cụ.
Trong lễ chuyển-cữu có thày pháp khấn vái và các con cháu phải
khiêng linh-cữu người quá cố.
Vinh, Mẫn, Khoan cùng tất cả anh em con cháu ông đồ có mặt đều
xúm khiêng chiếc quan-tài. Cả một số học-trò lớn của ông đồ cũng dự lễ này.
Quan tài của ông đồ được khiêng tới nhà thờ. Ở đấy đèn nến vẫn
thắp sáng chưng.
Vinh, nhân danh là gia-trưởng, vào thắp hương khấn vái báo với
các cụ sự từ-trần của ông đồ để về âm cõi.
Kèn trống lại nổi lên, và con cháu lại khóc-lóc kể-lể.
Quan-tài ông đồ đặt trước bàn thờ.
Vinh lễ gia tiên. Các con cháu ông đồ cũng lễ theo, và sau đó
mọi người lại xúm vào khiêng chuyển linh-cữu về chỗ cũ.
Theo sự tin tưởng của mọi người, kể từ lúc đó, ông đồ đã được
gặp lại và đoàn tụ cùng những người đã chết về trước. Cuộc sống tại âm cõi bắt
đầu.
Sau lễ chuyển-cữu, con cháu và học-trò ông đồ vẫn chia nhau
canh chừng bên áo quan như hai đêm trước, và nếu có khách tới viếng muộn-màng,
lại vẫn kèn trống và tiếng khóc nổi lên, Vinh cũng lại phải ra đáp lễ.
Nhưng đêm nay khác đêm trước ở chỗ người nhà và họ-hàng lo sửa-soạn
việc cất đám ngày hôm sau.
Đám tang ông đồ là một đám tang trọng ; ông là người có
danh-giá và học-trò ông đông-đảo, ai cũng muốn làm ma thày cho thật linh-đình.
Bởi vậy, đưa đám ông đồ, người nhà phải dùng đòn kiệu đầu và đuôi rồng. Số
đô-tùy khiêng đòn gồm tất cả 36 người đặt dưới quyền điều-khiển của một vị chấp-lịnh,
nghĩa là một người gõ hai thanh tre đập vào nhau. Những đô-tùy nghe theo tiếng
lệnh tùy nặng nhẹ mà nâng cao cỗ đòn trên tay hay đặt lên vai.
Việc khiêng đòn cũng khó-khăn, nên tối hôm trước phải có sự
luyện-tập, người ta gọi là tập đòn, để đô-tùy ăn ý với người chấp-lịnh, ngõ hầu
ngày hôm sau trong lúc đưa đám việc khiêng đòn được điều-hòa và ăn-nhịp.
Theo ý muốn của số đông học-trò ông đồ, việc tập đòn phải rất
cẩn trọng. Ban đô-tùy đã được Vinh trả tiền thưởng hậu để họ chịu khó luyện tập
với người chấp-lịnh.
Thường ra, ở thôn quê, việc khiêng đòn không phải thuê người.
Dân làng vào một hạng tuổi nào trong hàng phe, hàng giáp, hoặc hàng thôn, được
phe giáp hoặc thôn cử tới giúp việc đưa đám, họ chia nhau khiêng đòn, khiêng
minh-tinh, cầm cờ, cầm câu đối hoặc phụ-trách tất cả những công việc khác trong
lúc đưa đám.
Đám-tang ông đồ Ngư lẽ ra cũng do hàng giáp và hàng thôn phụ
trách, nhưng vì cỗ đòn rồng to lớn, phải có sự ăn ý giữa các người khiêng, nên
tang chủ phải trình với hàng thôn để xin phép mướn đồ-tùy cho có mệnh-lệnh
trong lúc khiêng đòn. Và cũng do đó có sự tập đòn trước ngày đưa đám.
Sáng sớm hôm sau !
Đám tang ông đồ đã được sửa-soạn chu-đáo.
Học-trò và họ-hàng bè-bạn đã tề-tựu đủ mặt tại tang-gia.
Cỗ đòn đầu rồng đã được lắp và xếp ngay trước xóm, bên lề đường.
Hàng giáp, hàng thôn đã cho mõ đi rao để mời các người trong
hạn tuổi tới phụ giúp trong đám tang.
Trong lúc đó con cháu quây quần-quanh áo quan. Giờ đây sắp là
giờ vĩnh-biệt, người đi sẽ được vùi sâu ba thước đất để lại mối đau thương cho
người ở lại.
Lễ kiến-diện được cử hành để bà đồ, vợ chồng Vinh, vợ chồng
Khoan, Mẫn và tất cả các con cháu từ-biệt ông đồ.
Người người đều tới trước áo quan để tế lễ ông đồ lần cuối
cùng trước khi đưa đám.
Đã đến giờ đám khởi hành. Thày pháp làm lễ cúng lộ-thần, tức
là thần đường để xin phép cho đám tang được ra đi từ nhà tới huyệt.
Đám tang thật là long-trọng.
Đi đầu có đoàn phường tuồng dẫn đường trị huyệt. Đây là những
người trong ban hát-bội hàng tổng đã được tang gia mượn để đóng các vai
Thiên-tướng đi dẫn đường đám tang. Những người này trong khi đi đường sẽ hát những
câu hát, mà chính là những câu chú để trừ tà-ma muốn ám-ảnh quấy nhiễu người
quá cố. Những điệu múa của họ cũng là những điệu riêng, múa lên thành những nét
bùa vạch vào không khí để trấn áp những ác-thần.
Phường tuồng dẫn đường đám tang cho tới huyệt. Tất cả bọn họ
có năm người, một người đóng vai thần Hổ nhảy-nhót tứ phía, đi từ bên này đường
sang bên kia đường, tiến lên trước lại lùi trở lại, như muốn tìm kiếm những hồn
ma quỷ nào lẩn-quất quanh lối đi. Còn bốn người kia đóng bốn vai Thiên, tướng,
vẽ mặt đeo râu, áo quần nai-nịt, giáp-trụ đường-hoàng với đủ khí giới đao
thương như muốn ngăn cản các âm-hồn không cho xâm-nhập tới lộ-trình của đám
tang.
Khi tới nghĩa-trang, bọn phường tuồng lại đọc chú vẽ bùa làm
phép chung quanh ngôi huyệt. Họ múa, hát, đi quanh huyệt năm bảy lần. Vai thần
Hổ nhảy xuống huyệt, gầm thét vờn trước vờn sau.
Những đám tang có phường tuồng dẫn đường trị huyệt, huyệt phải
đào rất sâu và phải đào tam-cấp nghĩa là có ba bậc để thần Hổ và các Thiên, tướng
làm phép bùa trấn-áp.
Bọn phường tuồng sau khi dẫn đường trị huyệt một đám tang,
lúc trở về phải chia nhau năm người đi năm ngả, và không được trở về bằng lối
đi, e các ác-thần tà-quỷ đón đường triệt hại. Ngoài ra tay quyết phải luôn luôn
giữ chặt cho đến khi về tới nhà.
Người ta thuật truyền có những kép hát, đóng vai trị-huyệt
khi trở về sơ-ý, hoặc buông lỏng tay quyết đã bị các tà-thần đánh chết ở dọc đường.
Có nhiều kép hát cẩn-thận, trên đường về đã lột bỏ những mũ
mãng giáp trụ mặc lúc ra đi. Và một khi về tới nhà, họ phải vội vàng thay ngay
quần áo, rửa mặt bỏ râu để trở thành một người thường như những người khác.
Đoàn phường tuồng dẫn đầu đám tang. Đàn bà trẻ con trong làng
đi xem đám xúm quanh bọn họ ngay từ lúc họ mới tự trong nhà ra.
Dân làng cũng vây quanh và khen ngợi chiếc nhà táng hình thuyền
bát-nhã đặt trên đòn rồng.
Đòn này đã lắp sẵn ở ngoài cổng xóm, chờ các đô-tùy vào trong
nhà khiêng quan-tài.
Chiếc nhà táng rất cầu kỳ làm bằng giấy mầu sặc-sỡ trông mé
trên như một ngôi nhà sang-trọng và mé dưới là hình con thuyền. Thợ mã đã
khéo-léo làm các cửa sổ bằng giấy trang-kim và gắn trên thành thuyền những hình
các linh-vật : long, ly, quy, phượng.
Ngay từ bữa trước, họ đã phải đo theo cỗ đòn rồng để làm cho
ăn khớp với thành đòn, và sáng nay trước khi đám tang cử hành chiếc nhà táng đã
được mang tới đầu xóm chờ quan-tài khiêng ra.
Người xem đứng đợi đám tang đều khen chiếc nhà táng công-phu
và đám tang thật linh-đình.
Đã lâu lắm mới lại có một đám tang to như vậy tại làng
Kim-Đôi. Người ta nô-nức kéo nhau đi xem, nghỉ cả công việc và không tiếc thì
giờ chờ đợi.
Từ trong nhà bọn phường tuồng đã khởi-hành.
Tiếng khóc vang lên, tiếng trống rung và kèn tang từ trong
nhà dội tới.
Đàn bà trẻ con chen-chúc ở trước nhà ông đồ. Họ chờ xem đám
tang, và họ sẽ đi theo đám tang tới tận huyệt.
Hàng xóm, hàng phe đã túc-trực sẵn để phụ trách mọi công việc
nhà đám nhờ theo tục-lệ trong làng.
IX
Phường tuồng dẫn đường trị-huyệt đi đầu, sau đó là pháp-sư.
Pháp-sư cũng yểm đường trị-huyệt bằng bùa chú của mình.
Đám tang nào cũng có pháp-sư. Chỉ những đám tang long-trọng mới
có phường tuồng dẫn đường trị-huyệt.
Pháp-sư đi nghiêm-chỉnh tay cầm cờ phép, vẻ mặt đăm chiêu, miệng
lâm-râm tụng-niệm đọc những câu chú.
Liền ngay sau pháp-sư, có hai người vác hai Phương-tướng, tức
là hai hình nhân bằng giấy màu sặc-sở với nét mặt dữ-tợn. Hai Phương-tướng này
đã được pháp-sư niệm chú hộ phép. Tà-ma quỷ-quái gặp hai Phương-tướng này đều
phải tránh xa, nhường đường cho đám tang đi yên ổn.
Sau hai Phương-tướng là một lá thế-kỳ bằng vải trắng chữ đen
lồng treo vào một chiếc khung. Hai bên khung lủng lẳng hai chiếc đèn lồng tròn
như hai quả bóng có ghi chức tước và địa vị của ông đồ.
Kế tiếp thế-kỳ là minh-tinh do bốn người khiêng. Minh-tinh kết
bằng lụa hồng dài tám thước. Minh-tinh giống như biển căn cước của người khuất.
Trên tấm lụa minh-tinh có ghi danh-tính địa-vị của ông đồ.
Minh-tinh treo trong một chiếc khung cao bằng tre phết giấy
trắng có vẽ màu sặc-sở. Những chữ viết trên tấm lụa minh-tinh, tang chủ phải
tính sao để số chữ có thể chia được với bốn, hoặc chia xong với bốn còn thừa lại
ba. Theo sự tín-ngưỡng của người mình khi viết những chữ đó, người ta đếm theo
bốn chữ « Quỷ Khốc linh thính ». Minh-tinh phải mang một số chữ đủ để
tránh chữ cuối cùng không đúng vào hai chữ « Quỷ » và « Khốc »,
nếu chẳng may chữ cuối cùng rơi vào hai chữ này, tang quyến sẽ gặp nhiều sự
không may.
Đi theo minh-tinh là những người hàng xóm, hàng xã mang đối
trướng.
Đám tang ông đồ Ngư nhiều đối trướng lắm. Dân làng xem nhìn
không chán mắt những bức trướng đủ màu, có dán những mảnh gương tròn óng ánh,
hoặc những mảnh giấy trang-kim vàng chói-lọi. Người ta khen ngợi bức trướng này
đẹp, người ta ngắm-nghía đôi câu đối kia mỹ-thuật.
Rồi người ta đọc những vế câu đối, những chữ đại tự trên các
bức trướng. Văn đã hay, chữ lại tốt, những hàng chữ ca tụng đủ mọi đức tính của
ông đồ, đề cao mọi sự nghiệp của ông.
Nhiều đối trướng lắm. Một hàng dài, đi song song hai người một
mà mãi không hết. Câu đối của con cháu, câu đối của học-trò, trướng của dân
làng, trướng của bạn-hữu.
Hết hàng câu đối, tới một hương-án, trên có bày một bộ đồ thờ
thất sự bằng đồng sáng choang. Trầm hương bốc khói, tỏa qua nắp đỉnh, và hai ngọn
nến cháy chập-chờn như muốn tắt trước gió ngoài trời.
Hương-án dẫn trước để các thực-án theo sau. Nhiều thực-án lắm.
Đây là những chiếc án-thư, trên có để những đồ ăn cúng hương-hồn người quá-cố.
Những thức ăn này, lúc đám tang trở về, tang chủ sẽ dùng làm phần biếu các quan
viên trong làng và hàng phe, hàng giáp đi đưa đám.
Qua những thực-án, ai cũng khen ông đồ Ngư tốt phúc, sống sao
chết vậy, lúc chết vẫn được con cháu, học-trò và bạn-bè quý mến như lúc sống,
ma-chay linh-đình, cỗ bàn to-tát.
Đây là một chiếc án-thư trên đặt một con lợn quay vàng rộm,
mùi thơm phưng-phức như đánh thức dạ-dày của người đi xem đám ; đây là một
cỗ xôi gạo nếp cái vừa dẻo vừa ngon, và trên cỗ xôi nằm hiên-ngang một con gà
thiến béo ngậy da căng những mỡ.
Rồi những án-thư hoa quả, những án-thư bánh trái. Rất nhiều,
nhiều lắm. Phần nhiều những đồ ăn trái quả bày trên các thực-án đều là những lễ
viếng của bạn-bè và nhất là học-trò cũ ngày nay đã làm nên danh vọng.
Hết lượt các thực-án, ban nhạc đám dẫn-diệu đi. Cùng với ban
nhạc đám hôm nay lại có cả phường bát âm của hàng xã đưa tiễn ông đồ đến nơi
an-nghỉ cuối cùng.
Tiếng trống kèn của ban nhạc hòa hợp nên một điệu buồn thảm,
nhắc cảnh đau thương tử-biệt. Tiếng trống lẫn tiếng kèn, thợ trống trước thợ kèn.
Trong khi người thợ kèn phùng má trợn mép, vừa đi vừa thổi những điệu kèn
« tò e tĩ ỏi » thì người thợ trống cũng luôn tay dùi, lựa cho tiếng
trống ăn với tiếng kèn.
Những hồi kèn trống dứt, là điệu bát-âm ai-oán nổi lên. Dân
làng muốn tiễn đưa ông đồ trong tiếng đàn tiếng sáo, nhưng đàn sáo đây phải nhiễm
màu tang-tóc đau-thương.
Phương bát âm đi ! Họ đi trước hai người vác hai chiếc
đan-biển mang hai chữ « Trung-tín » để biểu tả lòng trung-thực của
người khuất.
Liền sau hai đan-biển là chiếc linh-xa, trên có bát hương tỏa
khói nghi-ngút, trước một tấm hình thô-sơ trong y-phục chững-chạc của ông đồ.
Gió rung tấm lụa linh-xa. Khói hương uốn theo gió nhẹ.
Bốn người khiêng chiếc linh xa đi chậm chậm, vừa đi vừa như cố
ý đợi chiếc đòn rồng đi kế sau, do ba mươi sáu đô-tùy khiêng theo mệnh-lệnh người
chấp-lệnh. Trên cỗ đòn rồng là chiếc quan-tài gỗ vàng-tâm, cỗ hậu do ông đồ đã
sắm từ lúc sinh-thời để khi chết yên-nghỉ trong đó. Phủ lên chiếc quan tài này
là chiếc nhà táng hình thuyền bát-nhã màu sặc-sỡ.
Một tấm lụa dài buộc vắt qua nhà táng từ bên này sang bên kia
cỗ đòn. Đi liền ngay cỗ đòn, hai người mang hai chiếc phù-phất áp lấy hai bên
nhà táng. Hai chiếc phù-phất này sẽ cắm trên mộ ông đồ.
Vinh và Mẫn đầu đội khăn quấn bằng giây chuối, áo tang chống
mỗi người một chiếc gậy tre đi dật lùi đằng trước quan-ải. Có nơi thì
« cha đưa mẹ đón » nghĩa là khi đưa đám cha thì theo sau áo quan, khi
đi đám đưa mẹ thì chống gậy đi lùi đằng trước, nhưng tục làng Kim-Đôi, cũng như
phần nhiều các xã tỉnh Bắc-Ninh, dù đám tang cha hay tang mẹ, các con trai cũng
đều chống gậy tre đi đón trước áo quan.
Cùng đi lùi trước áo quan, nhưng không chống gậy, đầu chít
khăn tang trắng và y phục trắng là Khoan và mấy người học-trò cũ của ông đồ.
Khoan là con rể phải đi trước áo quan theo tục lệ, còn mấy người kia là do tình
thày trò thâm trọng. Thờ thày cũng như thờ cha mẹ, lúc thày chết, trò cũng mặc
tang phục để tỏ lòng thành-kính biết-ơn.
Trông Vinh buồn-rầu lắm. Đôi mắt Vinh sưng mọng lên, chứng tỏ
Vinh đã khóc nhiều. Vinh có vẻ mệt-nhọc, hai bên có hai người học-trò của ông đồ
sốc cánh để Vinh đi.
Mẫn tuy ít tuổi, nhưng Mẫn cũng đau đớn trước tang cha. Một
người học-trò khác đi kèm với Mẫn trong đám tang.
Sau cỗ đòn tới một chiếc màn trắng, gọi là « bạch-mạc »
hoặc « phương-du ». Chiếc màn để che cho con cháu ông đồ đi đưa đám.
Bà đồ khóc lăn lộn. Tiệp cũng khóc-lóc như mẹ. Rồi đây chỉ
trong vài giờ nữa, ông đồ sẽ được vùi sâu dưới ba thước đất, và âm-dương sẽ
hoàn-toàn cách-biệt. Ai là không đau-đớn, ai có thể thản-nhiên trước cảnh tử-biệt
của người thân.
Bà con, chị em, họ hàng cũng khóc-lóc đau thương. Tiếng khóc
vang dội một quảng đường. Nhiều người đi xem cũng mủi lòng rơi lệ.
Đám tang đi từ từ dần dần, bước một.
Sau chiếc bạch-mạc với con cháu ông đồ là tất cả bạn-bè hàng
xóm láng giềng, người quen thuộc, học-trò cũ mới của ông đồ. Nghĩa tử là nghĩa
tận, ai cũng muốn đi đưa ông đồ một quãng đường tới nơi an-nghỉ cuối cùng.
Sau cùng là các cụ bà cùng nhau đội một chiếc long-kiều bằng
vải vừa đi vừa niệm Phật tụng kinh để cầu cho hương-hồn ông đồ được siêu-sinh tịnh-độ.
Long-kiều là một chiếc cầu vải, có chữ nhà Phật.
Những người theo Phật giáo, các bà già đi quy, lúc chết được
các bà già đồng-đạo đi đưa, đội chiếc long-kiều có ý muốn cầu chúc cho người chết
mau tới cõi Phật.
Các cụ bà vừa đi vừa niệm Phật. Tiếng niệm Phật lâm-râm,
nhưng không át nổi tiếng khóc xót-thương của con cháu.
Đám tang đi, đi chậm chậm từ đầu đến cuối, và tạm ngừng khi tới
nhà trạm.
Đàn-bà trẻ con đi xem cũng rầm-rộ tiến theo đám tang. Và cũng
có những người đàn ông nữa. Đàn ông thì đọc và phê-bình những đôi câu đối, câu
nào hay, câu nào nhiều ý-nghĩa, câu nào lắm điển v.v…
Còn đàn-bà thì nghe người nhà đám khóc rồi cùng nhau bàn tán.
Nào tiếng khóc của bà đồ thì thảm-thiết, tiếng khóc của Tiệp thì não-nùng, còn
tiếng khóc của vợ Vinh thì thờ-ơ. Những tiếng khóc nhạt như nước lã là của các
bà cô bà dì, chỉ có chiều dài chẳng có chiều thương.
Trẻ con chạy theo đám phường tuồng dẫn đường để xem họ hát và
nhảy múa. Chúng cùng nhau cũng chỉ trỏ như người lớn.
Có nhiều đứa chăm chú vào chiếc nhà táng, dự-định lát nữa tới
mộ, chúng sẽ cướp lấy những mảnh giấy đẹp, những cánh cửa trang kim, những chiếc
hoa ngũ sắc, và tất cả những chiếc dua đang rung-rinh theo đà bước của bọn
đô-tùy.
Đám tang tiến tới nhà trạm.
Trong lúc đám tang dẫn diệu đi, tang-gia thuê những người
gánh theo nước uống để các người đi đưa đám có khát thì dùng. Thỉnh thoảng lại
có người nhà bưng cơi trầu tới mời từng người.
Đám tang đã tới nhà trạm. Có một người nhà mang theo một gánh
những thỏi vàng hồ để rắc ở dọc đường cho các tà-thần, ma, quỷ chia nhau.
X
Nhà trạm cất lên ở giữa đường từ nhà đến huyệt. Đây là một
ngôi nhà nhỏ mới cất lên bởi tang gia. Nhà bằng tre vách nứa lợp lá, nhưng đã
được trang-hoàng rất xứng-đáng với đám tang.
Chung quanh vách, bên trong nhà đều căng vải mới. Bên ngoài
có cắm cờ ngũ sắc và treo đèn kết hoa.
Ở giữa nhà có đặt bài-vị của ông đồ, trong đó có hai chữ thần
chủ thì chữ chủ mới có ba nét như chữ tam.
Ông Tiên-chỉ làng Kim-Đôi, một vị hưu quan có danh tiếng đã
được tang-gia mời tới để làm đề-chủ.
Trong nhà trạm có sẵn trầu nước, điếu thuốc để mọi người đưa
đám tạm dùng trong lúc nghỉ-ngơi.
Cỗ đòn rồng ngừng ngay trước nhà trạm. Tiếng khóc vẫn không
ngừng.
Người nhà tang chủ thận trọng mời mọc mọi người đưa đám vào
trong nhà trạm hút thuốc sơi nước. Những người nào không vào nhà trạm đã có người
mang cơi giầu bình nước tới tận nơi mời. Tang chủ thật đã chu-đáo.
Ông tiên-chỉ giữ vai đề-chủ đã có trước ở trong nhà trạm.
Việc mời đề-chủ để viết trọn chữ chủ chỉ thấy có trong những
đám tang long-trọng, nhất là của các tay văn-tự.
Người đứng đề-chủ phải là một vị quan đang tại chức hoặc một
vị hưu-quan nhưng đã đỗ đại khoa. Vị này chỉ lấy bút mực chấm chữ tam thành chữ
CHỦ, nghĩa là phải chấm một nét trên đầu và xổ một dọc thẳng ở dưới.
Đề-chủ có một người phụng-chủ phụ-tá. Người phụng-chủ này
bưng bài-vị người chết từ bàn thờ tới chỗ ông đề-chủ ngồi, đợi ông đề-chủ viết
xong lại mang bài vị trở lại bàn thờ.
Ông đồ Ngư là một tay văn-học, lại là thày học có nhiều học-trò
đã làm nên, bởi vậy dù tang-chủ muốn giản-tiện cũng không được, các học-trò muốn
đám tang thày được linh-đình với đủ mọi lễ-nghi để tỏ lòng biết ơn đối với
thày. Mọi sự tốn kém các trò cũ mới đều chia nhau chịu.
Lễ-vật đối với vị đề-chủ rất sang-trọng. Thường thường ngoài
tiền nong và lễ-vật riêng, vị đề-chủ được hưởng hết những vải lụa căng quanh
vách trạm, những đồ-đạc bàn ghế bày trong nhà trạm.
Lễ đề-chủ rất long trọng. Ông tiên-chỉ trịnh trọng cầm bút chấm
mực, thoạt đầu chấm nét trên đầu rồi vạch nét xổ.
Tang-chủ, các bạn-hữu ông đồ và cả những học-trò của ông đồ đều
xúm quanh vị đề-chủ để xem vị này viết xong nét chấm và nét xổ cho chữ CHỦ.
Sau đó vị phụng-chủ lại bưng bài-vị trở lại bàn thờ.
Tang-chủ cám ơn hai vị đề-chủ và phụng-chủ, một lần nữa mời mọi
người ăn trầu, hút thuốc và uống nước, trước khi đám tang lại tiếp-tục diễn-hành.
Đám tang thẳng phía nghĩa-địa làng tiến tới.
Phường tuồng dẫn đường vẫn đi đầu với lũ con trẻ rất đông chạy
theo từng bước. Những lá cờ, những câu đối, những bức trướng phấp-phới bay. Tiếng
trống tiếng kèn, nhạc bát-âm hòa điệu cùng tiếng khóc.
Mặt trời đã lên cao. Ánh nắng rung-rinh phản chiếu trên những
mặt kính, trên những tờ trang-kim long-lanh của chiếc nhà táng đang chầm chậm
tiến theo bước của bọn đô-tùy.
Các cụ bà đội long-kiều mồm không ngớt niệm Phật, cầu kinh.
Đám tang đi bước một, nhưng thủng-thẳng cũng đã tới huyệt.
Bọn phường tuồng nhảy vào huyệt múa hét. Vai thần Hổ chồm
lên, bước xuống ngửi từ phía huyệt như tìm kiếm tà-ma.
Các Thiên tướng đi chung quanh huyệt vừa múa vừa hát những
câu bùa trấn-áp.
Sau khi nhảy múa hò-hét một lúc bọn phường tuồng cả năm người
đều vội-vã bỏ ra về, mỗi người đi mỗi ngã, không ai trở về lối đã đi.
Bọn đô-tùy cũng vừa khiêng đòn tới huyệt. Họ từ từ hạ cỗ đòn
theo hiệu của người chấp-lệnh rất điều-hòa ngay-ngắn.
Bây giờ là lúc phải làm lễ Thổ-thần tại nơi cất mộ.
Đồ lễ cúng Thổ-thần gồm có gà xôi vàng mã. Vị pháp-sư tụng niệm
khấn vái, cầu xin với Thổ-thần cho linh-hồn người chết được nương-tựa nơi đây.
Cùng trong lúc ấy, người nhà tang-chủ mang hương tới cắm tại
những ngôi mộ ở chung-quanh như có ý để vong-hồn ông đồ làm thân cùng vong-hồn
những người đã khuất trước.
Sau đó là lễ hạ-huyệt. Lễ hạ-huyệt cũng có văn-tế riêng.
Những người đô-tùy nâng chiếc nhà táng đặt sang một bên. Chiếc
nhà táng sẽ bị hỏa-thiêu để biến thành nhà ở cho ông đồ dưới cõi âm, nhưng cũng
như thường xẩy ra, khi hàng giáp mang nhà táng ra đốt, các trẻ em xô nhau vào
cướp từng mảnh : đứa này được cái cửa nhà, đứa kia được mảnh giấy sặc-sỡ
có dán mấy mảnh kính tròn, đứa thứ ba được cái cuốn góc nhà v.v…
Người ta cũng ngăn cấm chiếu-lệ, và một chiếc nhà táng chỉ
cháy được một phần, còn đều bị lũ trẻ nhỏ chia nhau cướp hết. Người ta tin rằng
lấy những giấy nhà táng của những đám tang ông già bà lão thì được khước bởi vậy
ít có đám tang giữ chiếc nhà táng được hoàn-toàn hỏa-thiêu.
Khi những người đô-tùy nâng chiếc nhà táng đi, còn trơ trên
đòn rồng chiếc áo quan sơn son thiếp vàng, đầu và đuôi có khắc chữ thọ. Trên mặt
áo quan những ngọn nến đang cháy dở, có ngọn đã tắt, nhưng nhiều ngọn khác mặc
dầu ra trước gió vẫn leo-lét cháy. Giữa mặt áo quan là bát cơm bông với quả trứng
luộc đã bóc.
Cả bát cơm lẫn quả trứng đều có người bưng lấy ngay. Theo sự
tin-tưởng xưa nay, cơm bông này có thể chữa được bệnh sài mòn cho con trẻ.
Trong đám tang hay có những người tới nhắc bát cơm bông lấy về chữa bệnh cho
con.
Sau lễ cúng Thổ-thần, những người đô-tùy cởi thừng chăng chiếc
áo quan vào đòn, khiêng để hạ-huyệt.
Lúc này bà đồ kêu gào thảm-thiết, và Tiệp cũng rầm-rì khóc.
Thôi từ đây thật là cách biệt kẻ âm người dương.
Bà đồ lăn cả xuống huyệt, phải có người kéo lên. Bộ quần áo
tang của bà lấm-lem màu đất. Tóc bà rũ-rượi, đôi mắt bà sưng mọng.
Tiệp cũng lăn-lộn thương cha. Nàng như muốn ngăn những người
đô-tùy không cho chôn xác cha. Người ta phải kéo nàng ra, cũng như kéo bà đồ
sang một bên mới hạ-huyệt được chiếc áo quan của ông đồ.
Chiếc áo quan sơn đỏ của ông đồ từ từ hạ xuống nhờ mấy sợi
giây thừng bắt ngang và do mấy người đô-tùy vừa buông dần dần xuống.
Pháp-sư lại tụng-niệm một hồi nữa. Tiếng kèn trống lại vang
lên ở nghĩa-địa.
Sau hồi tụng-niệm, những đống đất cao ở hai bên huyệt được
cào xuống, và dần dần, một sẻng đất lại một sẻng đất, một nhát cuốc lại một
nhát cuốc, ngôi mộ được đắp xong. Nấm mộ đã cao cao. Những đô-tùy đi đánh thêm
những vừng cỏ đặt phủ lên mộ.
Trên đỉnh mộ hai chiếc phù-phất được chống chéo vào nhau.
Bà đồ và Tiệp lại khóc-lóc lăn-lộn trên mồ. Người nhà phải đỡ
bà đồ và Khoan phải vào kéo Tiệp ra.
Khoan bảo vợ : « Thôi em, đằng nào thày cũng chết rồi,
thày được mồ yên mả đẹp thế này là tốt, em khóc-lóc làm gì quá, lăn-lộn làm gì
nhiều, thày có sống lại được đâu ».
Một nắm hương đốt cắm trên đỉnh mộ.
Bây giờ làm lễ thành-phần, tức là lễ hoàn-tất ngôi mộ.
Tang-quyến lần-lượt đưa nhau vào lễ trước mộ, mỗi người hai lễ
rưỡi. Sau tang-quyến là học-trò ông đồ, rồi tới bạn-bè thân-thuộc. Ai cũng vào
lễ để từ-biệt cùng người khuất.
Cũng như ở nhà Vinh, Mẫn và Khoan lại đứng đáp lễ những
thân-bằng cố-hữu.
Sau cuộc lễ, người ta lại đặt bài vị trên linh xa để khiêng
ra về.
Tiếng kèn trống nghe buồn tênh. Lúc này người đi xem đã về hết,
chỉ còn lại một số người đi đưa đám.
Họ lặng-lẽ ra về. Cùng tiếng kèn trống uể-oải và một vài tiếng
khóc mỏi-mệt của bà đồ và của Tiệp.
Ông đồ đã ra người thiên-cổ, để lại xót-thương cho con cháu.
XI
Linh-xa ông đồ đã khiêng về tới nhà.
Hàng thôn, hàng giáp, dự cuộc đưa đám cũng lần lượt về dần.
Câu đối trướng lại được treo lên vách.
Bài-vị ông đồ được đặt lên bàn thờ đã kê sẵn từ trước dành để
thờ ông cho đến ngày giỗ hết.
Những trai-tráng trong thôn, trong giáp đã phụ-trách trong
công việc đưa đám ông đồ, sau một tuần nước cũng ra về.
Chấp-lệnh và đô-tùy khiêng đòn đã rở cỗ đòn đầu rồng cất vào
nhà đòn hàng xã.
Đám táng hầu như đã xong.
Giờ đây, tại nhà đám, có lễ « tế ngu » tức là một
cuộc tế để cầu nguyện cho linh-hồn người khuất được yên-nghỉ bình yên.
Lại tiếng kèn, tiếng trống, tiếng khóc của tang-gia.
Lễ tế ngu xong khách-khứa không còn ai, chỉ còn lại những người
trong tang-quyến.
Nhà cửa như vắng-vẻ, mối đau buồn như muốn lan-tràn rộng hơn
và ăn sâu vào tâm-hồn mỗi người.
Thỉnh-thoảng cũng còn một đôi người khách phương xa tới viếng,
trống kèn lại rung lên và tiếng khóc lại rầu-rĩ kể-lể nỗi nhớ thương của những
người còn sống.
Buổi chiều hôm đó, lúc bữa cơm, con cháu làm lễ dâng cơm lên
hương-hồn ông đồ.
Bà đồ khóc-lóc sới cơm đặt lên bàn thờ chồng. Bà run-run vì
đau đớn, bà tê-tái vì nhớ thương. Bữa dâng cơm này, bà đồ đã cho nấu nướng những
món ăn khi sinh-thời ông đồ ưng-ý. Các con cháu vẫn khóc-lóc theo điệu trống
kèn.
Và cả đám học-trò cũng lại có người có mặt để lễ thày. Bữa
cơm chiều xong, Vinh, Khoan và mấy người nhà trở ra mộ ông đồ để ấp-mộ nghĩa là
đem tình thân quyến lại cho ngôi mộ đỡ lạnh-lùng.
Việc ấp-mộ thực-hiện luôn trong ba ngày sau đám tang. Mỗi buổi
sáng và mỗi buổi chiều con cháu ông đồ đều ra viếng mộ, thắp hương cắm lên mộ,
và mỗi ngày đều cuốc đất chung-quanh đắp cho mộ thêm to.
Trong mọi đám tang thường thường sau lễ tế ngu, tang-chủ trả
tiền cho phường kèn trống ra về, nhưng đám tang ông đồ là một đám long-trọng,
nên ngoài lễ tế ngu, gọi là sơ-ngu còn lễ tái-ngu và lễ tam-ngu nữa.
Lễ tái-ngu cử hành ngày hôm sau, và lễ tam-ngu cử hành ngày
thứ ba sau ngày đưa đám.
Trong những cuộc tế sơ-ngu, tái-ngu và tam-ngu, ngoài tang
gia, học-trò ông đồ cũng có mặt đông lắm.
Luôn trong ba ngày, mỗi khi tới giờ cơm, bữa sáng cũng như bữa
chiều lại có lễ dâng cơm.
Và chiều ngày thứ ba, sau bữa dâng cơm cuối cùng Vinh, Khoan,
Mẫn và một số các người nhà cũng ra mộ để ấp-mộ lần chót.
Hôm nay, mộ được đắp kỹ-lưỡng lắm, vì từ đây chỉ tới những
ngày mồng một hoặc ngày rằm người nhà mới lại đi thăm mộ.
Tang-lễ được kể như chấm dứt.
Sáng ngày thứ tư cảnh nhà ông đồ thật là buồn vắng. Trên bàn
thờ mùi hương như nhắc nhở lại mọi hình ảnh cuộc sống đã qua của ông đồ. Hương
hồn ông như hình phảng-phất đâu đây.
Người sống còn luyến thương người chết, tất nhiên người chết
dù có qua cõi Phật cũng không mỗi lúc hết ngay sự quyến-luyến với người thân.
Bà đồ buồn-bã ít nói. Ngày ngày thắp hương ở bàn thờ nhìn lên
tấm ảnh thô-sơ của chồng bà lại òa khóc.
Ôi ! mấy chục năm chung sống, giờ đây chỉ là dĩ-vãng. Ngọn
gió hiu-hiu lung-lay khói hương đang bốc tỏa. Mùi hương ngào-ngạt, ngọn nến
trên bàn thờ le-lói. Phải chăng hương-hồn ông vẫn về để nhận cơm canh vợ con
thường dâng ! Phải chăng hương-hồn ông đồ chưa thể lìa khỏi nhà mình vì
tình quấn-quít với vợ con. Cảnh nhà càng hiu-quạnh. Bà đồ càng buồn. Lắm lúc
nhìn Mẫn bâng-khuâng ngó lên bức ảnh cha trên bàn thờ, lòng bà đồ càng se lại.
Mẫn còn thơ dại lắm, đã biết chi đâu, ấy thế mà đã mồ côi, tang tóc.
Nghĩ lại lúc ông đồ lâm-chung, nghĩ lại những lời trối-trăng của
chồng, bà đồ không thể cầm được giọt lệ. Chết đi ông đồ vẫn như chưa yên-tâm vì
đứa con thơ. Ông đã căn-dặn mọi người phải săn-sóc Mẫn. Ông đã giao phó cho
Khoan nhiệm-vụ dạy bảo Mẫn học-hành.
Nghĩ tới Khoan bà lại liên-tưởng nghĩ tới Tiệp, Tiệp thật là
ngoan-ngoãn. Trông nét mặt thật là hiền-hậu, vậy mà cũng chẳng gặp may-mắn gì.
Cả đời chỉ có một việc vui-mừng trọng đại nhất là lấy chồng thì nàng lại cưới
chạy tang. Chẳng hiểu sau này, đời nàng có được sung-sướng không, hay đã không
may trong việc cưới, nàng sẽ gặp nhiều không may khác trong tương-lai.
Ngày hai buổi bà đồ thắp hương khấn chồng. Bà không quên những
sở-thích thường ngày của ông, nên trong những buổi thắp hương bà vẫn dâng cúng
ông những món ăn xưa ông ưa-thích, bà vẫn pha thứ trà xưa ông hay dùng.
Sống ở trong nhà vợ hầu con hạ, nay thác đi trên nấm mộ lạnh-lùng
ngoài nghĩa-địa ai là người săn-sóc cho ông. Thật là cô-quạnh, thật là lạnh-lẽo !
Bà đồ lại càng buồn.
Vinh thấy mẹ buồn thường khuyên giải. Nghĩa tử sinh sống gửi
thác về, ai không phải chết. Mặc những lời khuyên-giải bà đồ quên làm sao được
những ngày chung sống với chồng.
Cũng có hôm Tiệp thắp hương khấn cha thay mẹ và anh. Nàng
cũng nhìn ảnh cha, nàng cũng đau-đớn nhưng nhờ mối duyên mới, nỗi đau khổ cũng
đỡ được phần nào.
Từ ngày ông đồ chết, Tiệp vẫn đi về đằng nhà chồng hoặc ở nhà
mình.
Thực ra bà đồ cũng muốn Tiệp thỉnh thoảng lui tới nhà mình
cho đỡ hiu-quạnh, nhưng bà vẫn luôn nhắc Tiệp phải về nhà chồng để cho tròn bổn-phận
nàng dâu.
Tiệp về nhà chồng thấy lạ-lùng bỡ-ngỡ nhất là những lúc Khoan
đi vắng. Ở đây nếp sống khác hẳn ở nhà nàng, nhưng nàng bao giờ cũng tỏ ra
khéo-léo đối với bố mẹ chồng cũng như đối với Khoan.
Thường khi nàng nói chuyện với bà đồ, bà đồ vẫn dạy bảo nàng
mọi cách ăn ở đối xử với nhà chồng cho phải đạo và đúng theo nền nếp của con
nhà có giáo dục.
Học-trò của ông đồ nghỉ học trong ít lâu thì Khoan lại tuân
di mệnh ông đồ tiếp-tục việc dạy bảo các đàn em.
Học lực của Khoan đã cao, nên chỉ có mấy anh học-trò lớn như
Đáp mới nghỉ học, còn phần đông các trò bé khác vẫn đi học đông như cũ.
Khoan vẫn dạy học ở gian phòng học trước, và vẫn với những
sách của ông đồ để lại.
Mỗi lần lui tới nhà học, Khoan lại nhớ tới cha vợ, với nét mặt
nghiêm khắc nhưng đầy phúc-đức. Khoan không bao giờ quên được lòng thương của
ông đồ đối với mình, và chính cũng vì lòng thương ấy mà mối lương-duyên giữa
chàng và Tiệp thành-tựu. Chàng nguyện sẽ ăn-ở sao cho xứng-đáng với đạo-đức của
ông đồ cũng như xứng-đáng với sự tác-thành của ông.
Đối với Mẫn, Khoan đặc biệt săn-sóc, theo rõi cho Mẫn học.
Nhờ lớp học, ban ngày bà đồ cũng thấy nhà đỡ vắng-vẻ, và thỉnh-thoảng
bà cũng ngó qua lớp học để nhìn thấy gương mặt sáng-sủa của các trò nhỏ như muốn
nhớ lại dĩ-vãng thời xa xưa khi bà cũng còn là cô đồ như Tiệp ngày nay.
Và Tiệp những khi trở lại nhà mình cũng thỉnh-thoảng ghé vào
lớp học.
Vẫn những « chi hồ dã giả », vẫn những giọng ê-a
như ngày xưa, chỉ khác ngày nay ông đồ không còn đây, và trên chiếc sập gụ của
ông đồ ấy là Khoan.
Khoan cũng áo the khăn lượt, cũng vẻ mặt nghiêm-trang như cha
vợ xưa. Ngày ngày chàng dạy bảo lũ trò nhỏ, và không bao giờ chàng quên trau-dồi
học-thức riêng cho mình.
Khoan nghĩ tới ngày « vãng anh đi trước, vãng nàng đi
sau ».
XII
Thật đúng, như ta thường nói sống lâu mà chết chóng ! Thời
gian thấm-thoát trôi qua rất mau lẹ. Kể từ ngày ông đồ nhắm mắt, tang ma xong
chẳng mấy chốc tới ngày rằm đầu tiên, rồi lần lần rằm này qua, mồng một đến
thoi đưa vùn-vụt đã tới tuần tứ-cửu.
Ngày rằm đầu tiên, bà đồ cho sửa lễ trịnh-trọng để cúng chồng.
Cúng ở nhà rồi lại cúng ở mộ. Bà đồ lại khóc-lóc đau-đớn, và Tiệp cũng lại
than-van kể-lể.
Mới có mấy ngày, nghĩa vợ chồng, tình ruột thịt phải đâu dễ
khuây trước cảnh đau buồn tử-biệt.
Rằm trước rồi đến rằm sau qua ngày mồng một. Mỗi lần mồng một
hay rằm, nhà bà đồ đều có lễ cúng ông đồ, và có mời sư tới tụng kinh cầu nguyện
cho vong-hồn ông.
Trong những buổi lễ này, ngoài người nhà cũng có một số học-trò
tới cúng thày, chia nhau ra thăm mộ thày.
Thỉnh-thoảng, một người bạn quen ở xa, một người học-trò cũ
đang trọng-nhậm tại một nơi sơn cùng thủy tận nào được tin tới viếng lại là một
dịp để bà đồ kể-lể nỗi thương đau.
Trước nỗi buồn của bà đồ, khách viếng không khỏi mủi lòng.
Người bạn cũ nhắc lại sự thân-mật, tình liên-lạc giữa mình với ông đồ, và bao
nhiêu kỷ-niệm cũ được nói tới để khen ngợi người đã khuất và để an-ủi người còn
sống.
Còn các học-trò cũ, nhờ ông đồ tác-thành, mà lúc ông đồ trăm
tuổi lại không được dự lễ tang tống chung, ai nấy đều ân-hận. Họ lễ trước bàn
thờ thày, họ nhờ người nhà bà đồ đưa ra mộ để họ được lễ mộ thày, đắp thêm một
nắm đất, cắm một nén hương.
« Nhất tự vi sư, bán tự vi sư » huống chi ông đồ đã
dạy họ suốt ngày này sang ngày khác, rèn luyện để cho họ nên người !
Ngoài những buổi có khách hoặc học-trò cũ của ông đồ tới viếng,
cuộc sống ở nhà bà đồ luôn luôn đượm vẻ u buồn, và những buổi chiều tà, những
đêm vắng lặng, bà đồ lại càng nhớ thương chồng, và rất nhiều lúc bà không sao cầm
được giọt lệ.
Cảnh nhà hiu-quạnh càng hiu-quạnh thêm, trong những lúc Tiệp về
nhà Khoan, trong lúc người nhà phải ra đồng để trông nom ruộng mạ, săn sóc lúa
ngô.
Cuộc sống bình-thường sau đám tang bắt buộc phải trở lại.
Bà đồ nhiều lúc như chán-nản, không muốn trông nom lấy việc
nhà, giao mọi quyền cho vợ chồng Vinh.
Bà chỉ ngày ngày quanh-quẩn trong nhà lo đèn dầu hương nến
bàn thờ chồng. Có những lúc bà ngắm ảnh ông đồ rất lâu trên bàn thờ rồi òa lên
khóc.
Vinh cũng như Tiệp luôn luôn an-ủi mẹ.
Tuần tứ-cửu của ông đồ đã tới.
Tứ-cửu là bốn chín ngày sau đám tang. Những người theo đạo Phật
thường nhân ngày này làm chay để cho hương-hồn người chết được siêu độ. Trong
buổi lễ, bài-vị người chết được mang tới chùa làng. Ở đây, các vị sư tụng kinh
sám hối để cầu xin Đức Phật tha-thứ cho mọi tội lỗi của người qua.
Lễ tứ-cửu của ông đồ được cử-hành long-trọng.
Bà đồ muốn vong-hồn chồng được ăn mày nương cửa Phật, và các
học-trò đều muốn dự phần trong buổi lễ tứ-cửu của thày.
Ngoài lễ trên chùa, trong nhà cũng làm cỗ bàn để mời dân xã,
nhất là những người đã giúp đỡ trong đám tang hoặc đã phụ trách một công việc
gì trong buổi đưa đám. Tình đoàn-kết trong dân xã bao giờ cũng có, và sự giúp đỡ
của dân làng trong những lúc hoạn-nạn tang ma thật là quý-báu. Nhân ngày tứ-cứu,
nhà bà đồ làm cỗ để mời họ hàng làng nước như để tạ ơn mọi sự giúp đỡ trong buổi
tang.
Cỗ ở nhà, cỗ ở trên chùa.
Trên chùa là cỗ chay mời thân-bằng cố-hữu cùng các cụ bà đã đội
long-kiều và tụng kinh hôm đưa đám ông đồ.
Ngay từ buổi sáng, bài-vị ông đồ đã được đưa lên chùa. Người
nhà chia nhau túc-trực ở chùa để tiếp khách và để sửa lễ cúng theo lời chỉ dẫn
của các vị sư.
Sau khi lễ-vật đã bày đủ, các vị sư, đúng là bảy vị cùng nhau
đọc kinh sám hối. Người nhà luôn thay phiên nhau vào lễ Kinh.
Các khách-khứa, con cháu và học-trò lần lượt vào lễ Phật lễ
Kinh rồi lễ cả bài-vị của ông đồ.
Bọn học-trò nam hôm đó có mặt cả Thúc, và trong bọn học-trò nữ
thì có Thảo và Hoài. Tiệp trông gầy đi, nhưng trong cái gầy mảnh-rẻ, nàng càng
có duyên hơn và vẻ đẹp càng như quyến-rũ. Đôi mắt long-lanh lệ, trông nàng càng
xinh hơn với dáng điệu êm-ái dịu-dàng xưa nay.
Tiệp đưa các cô bạn vào lễ.
Hoài nói : « Trong chị gầy đi. Chắc chị lo nghĩ nhiều ».
Tiệp đáp : « Em thương thày em lắm. Lắm lúc em tưởng
như thày em còn sống ».
Thảo hỏi : « Chị đã về đằng nhà anh Khoan
chưa ? »
- Em vẫn khi đi khi về. Đẻ em độ rày buồn, nếu em ở lại luôn
đằng kia, nhà vắng vẻ, đẻ em càng buồn thêm.
Lễ Phật, lễ Kinh xong hai cô vào lễ bài-vị ông đồ.
Đứng trước bài vị thày học, Hoài nhớ thày hơi rơm-rớm lệ. Tiệp
cũng thấy nước mắt tự trào ra.
Từ lúc đến chùa, Thúc vẫn để ý đến Tiệp. Tuy chàng cũng lễ
các bàn thờ như những người khác nhưng mắt chàng thường hướng về phía Tiệp.
Chàng thấy Tiệp đủ mọi vẻ đẹp, người yểu-điệu thanh-thoát, điệu-bộ duyên-dáng dịu-dàng,
lời nói hiền-từ khả-ái. So-sánh, chàng thấy Tiệp hơn Thảo nhiều quá. Chàng tự
nghĩ nếu Tiệp là vợ chàng có phải cuộc đời chàng đầy-đủ hạnh-phúc biết bao
nhiêu !
Tiệp biết Thúc vẫn nhiều theo mình nên vẫn cố ý tránh tầm mắt
của Thúc. Tự nhiên nàng thấy sợ Thúc vô cùng. Có Thảo đấy mà Thúc vẫn cứ nhìn theo
nàng. Nàng tránh tầm mắt của Thúc, nhưng Thúc lại cố tìm cớ để tới gần nàng. Thật
là khó xử. Ngộ Thảo hiểu lầm thì thật là một điều phiền.
Nàng bảo Thảo : « Anh chị sống với nhau sung-sướng
nhỉ ! »
Thảo cười nói : « Vợ chồng mới, ai chẳng vậy, cứ
riêng gì em ».
Tiệp nói : « Ấy thế mà em khác, em chưa sống hẳn
bên đằng nhà em. Đẻ em bảo hết tuần tứ-cửu này của thày em, em sẽ về ở hẳn bên
đó ».
Khách-khứa càng đến đông. Tiệp và mấy cô học-trò chia nhau ra
tiếp khách mời giàu nước. Trong lúc ấy, Vinh và Khoan vẫn đứng đáp lễ ở bên
bài-vị ông đồ, thỉnh-thoảng mới chạy ra.
Tiệp đang mải với các khách, bỗng Thúc tới cạnh. Thúc bảo
nàng : « Chắc chị Tiệp ghét tôi lắm nhỉ ? »
Tiệp không nhìn lên đáp : « Xin anh đừng nghĩ vậy.
Tôi chẳng để ý gì cả. Dứt lời, nàng bỏ đi chỗ khác ».
Sau mấy tuần kinh, các khách-khứa ở lại chùa dùng cơm chay,
cho đến gần chiều ai nấy mới ra về.
Ở lại chùa chỉ còn tang-quyến lo dọn-dẹp.
Chú thích:
1 |
Đàn bà thì chín vía. |
2 |
Từ đây cho đến hết chương II, tác giả có ý trình bày rõ tang lễ Việt-Nam qua đám tang ông đồ Ngư. |
3 |
Tức là 2th. 80 bây giờ. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét