Thứ Ba, 4 tháng 1, 2022

Mười năm 4

Mười năm 4

XVI. Hơn một tháng sau, buổi trưa có một người đàn ông đội nón mê, quần áo nâu đã bạc đi vào làng Hạ. Nhưng trên đường làng dường như chẳng gặp ai. Đường vắng ngắt vắng ngơ. Mà dù có gặp người chăng nữa, thì đương cơn tao loạn này, ai còn sống được ngày nào cũng chỉ cắm mắt xuống đất, tìm cái ăn, chứ chẳng nhìn đi đâu.

Người ấy rảo bước, mỗi khi qua ngõ nào cũng đảo nhanh mắt ngó vào, như tò mò, như tìm ai.

Hai cánh cổng nhà bà Hương khép chặt. Không thấy cái cầu ao trong vườn trông ra mọi khi. Dù những nhà còn máu mặt, cũng chẳng ai dám ra cầu ao vo gạo và thổi cơm ban ngày. Cổng tán và cái chòi gác nhà bác cai Giắt oai thế, bây giờ trống hốc như cái miệng đương ngáp. Ngõ, nhà, vườn cây tuềnh toàng thông thống suốt ra tận cánh đồng

Đi đến cuối xóm, người ấy đứng lại, vào nhà lão Trương. Cái nhà lão Trương bỏ hoang cỏ mọc leo xanh um vào tận sân. Ngoài kia, ba cái mả mới trơ ra ba mô đất bị nước mưa rũi lở xuống, giợn lên, đỏ hon hỏn.

Người ấy đứng lại trước hè. Cuối gian nhà bỗng nghe đụng đậy, lịch kịch rồi thấy ngóc lên một cái đầu người, hệt một con cầy, con cáo nghển lên đánh hơi về phía có mùi lạ, rồi lừ đừ bước ra một người gầy cao lênh khênh, khòng khoèo hai khuỷu tay mốc đen và bàn chân phù bè bè dưới hai cẳng nứa tép óp hẳn lại. Tóc đâm kín tai, kín trán, như chiếc nồi đất úp chụp ngang xuống cái mặt nhọ nhem, lồi lõm, hai con mắt trô trố nhìn ra. Trong thoáng mắt, hai người nhìn nhau, rồi bỗng xô đến, bíu vào nhau, kêu lên:

- Lạp, Lạp!

- Trung ơi!

Lạp nắm áo Trung, đầu trĩu xuống, khóc như một đứa trẻ con. Một lúc thật lâu, Lạp mới hỏi:

- Mày ở đâu về?

Trung không trả lời, lại nói:

- Tao vào vùng trong tìm mày đứt hơi mà không thấy.

Trung nhìn quanh:

- Ông Trương còn ở nhà không?

Lạp trỏ ra góc vườn. Trung nhìn ra, không hỏi nữa. Nhưng Lạp nói:

- Ba bố con nằm ngoài vườn cả rồi. Tao cũng sắp chết, cả tháng nay không còn gì ăn, không biết làm thế nào.

Trung buông nón, ngồi xuống hè:

- Có Trung về đây, chúng ta có nhiều công tác phải làm. Không...

Câu nói tự nhiên, khơi gợi phút chốc làm cho Lạp tỉnh táo. Lạp trố mắt nhìn người bạn trai làng đi đã ngót hai năm. Nhớ hôm chia tay Trung ở vùng trong, giờ Trung ở đâu về... “Chúng ta có nhiều công tác phải làm...”. Câu nói nhiều ý nghĩa và cả lối nói hoạt bát những công tác, đã lâu Lạp mới lại được nghe.

Trung chạy đi một lúc, bưng ở chợ về một nón bánh đúc ngô. Lạp nhồm nhoàm ăn, mới thật tin mình còn sống.

Trung hỏi:

- Thằng An thế nào?

- Mất tinh thần đã lâu.

- Chúc?

- Nó hóa ra chó rồi.

- Thế còn cai Giắt?

- Vào mấy lần không gặp. Hình như lên tỉnh kéo xe, thỉnh thoảng mới về. Anh em, thằng thì chết, thằng thì chạy ăn mất mặt. Không ai còn bụng dạ nào để gặp nhau nữa. Cha bỏ con, vợ bỏ chồng, anh bỏ em. Tan nát cả.

Trung cắn môi đờ mắt suy nghĩ, khẽ nói:

- Chúng ta sẽ làm lại. Nhiều việc quan trọng sắp đến nơi rồi.

Trung điềm tĩnh, trông đã thấy tin tưởng. Mới ngày nào, hồi Bình dân, Trung còn ù ì hiền lành, đi họp chưa biết phát biểu và đêm nào cũng chịu khó tập đánh vần. Thế mà bây giờ...

Hồi ấy, Trung ở lại rồi sau cả vùng trong bị mật thám về khủng bố lần nữa, Trung phải bỏ dệt cửi, lánh đi. Trung được tổ chức đưa sang một cơ sở bên huyện khác. Rồi trên mở một lớp huấn luyện chương trình Việt Minh cho địa phương. Sau lớp, đoàn thể lấy Trung và một số đi thoát ly.

Hai tháng sau, Trung đã là người thợ làm đấu cho một lò gạch trong cánh đồng cuối sân bay Bạch Mai. Giữa cánh đồng liền như bát úp, một dãy năm cái lò gạch của lão chánh tổng chuyên thầu gạch bán cho sân bay. Chánh tổng mộ thợ nung các nơi về, mấy chục thợ và người nhà tấp nập công việc quanh năm. Trong thợ nung, thợ đấu ở các lò gạch đã bắt đầu thành hình những tổ cứu quốc làm binh vận. Mọi người được quảy gạch vào sân bay, gặp lính trong ấy, nghe được tin tức, có khi xin được đạn, kìm, búa và đưa báo bí mật Kèn gọi lính vào hẳn doanh trại.

Trung được đến làm đấu ở lò một ông thợ nung già, có cô con gái là cô Gạch. Ông lão không biết thời thế vuông tròn ra sao, cả ngày quanh cái khuôn gạch, xem màu khói lò biết gạch non, gạch già thế nào rồi ngồi với một chai con hươu rượu gật gù buổi chiều. Bởi ông là thợ giỏi nên lò ấy thường có nhiều thợ trẻ tới học việc.

Mỗi sáng sớm, từ ổ rơm lăn xuống đất, Trung đã nhảy ra vừa chạy vừa hát một câu chèo rồi trần trùng trục xuống hố xắn đất vác lên. Những tảng đất thó bết quánh to bằng cái thúng đại lắc lư ngoạm xuống vai, đất be bét khắp tóc tai. Dù rét như cắt, cũng chỉ vài lượt lên xuống thì lưng, trán đã đẫm mồ hôi. Cho đến nửa buổi, vác đã được một đống to, Trung lẳng nốt tảng cuối cùng lên sân, rồi ra nhảy òm xuống cái đầm nước gần đấy. Nước giá cóng, hơi người bốc khói. Bữa về ăn hàng chục bát cơm “ăn như thợ đấu”, rồi lăn vào ổ rạ đánh một giấc đến xế trưa, thì cô Gạch vào gọi dậy ra luyện đất lỏi.

Mới đầu, Trung đau sụn sống lưng. Đương sung sức, nhưng cũng như Lê hồi vào rừng cao su, vốn là anh thợ cửi, chỉ làm ăn trong nhà, không quen xốc vác nắng gió. Nhưng cái hăng hái và nhiệm vụ được giao đã thúc đẩy Trung chịu đựng được. Hễ sáng ra, nghe các sân bên nổi rộn tiếng hò hét gọi nhau vác đất, Trung lại cố ngồi dậy. Rồi quen dần. Sức vóc đương trai ào ạt lấn được mọi cái khó nhọc. Nhưng không phải suốt tháng chỉ vác đất, đạp đất vẹo sườn. Cũng có lúc nhàn, ấy là khi gạch đã vào lò, Trung nằm khoèo cả ngày, có tối đi khai hội, đi làm quen các nhà đến khuya mới ra ngủ lều canh lò. Nhất những đêm mùa hè, trên cánh đồng bay lẫn lộn sao đổi ngôi và đom đóm. Trung ngồi nằm chơi mát với cả lũ thợ các lò xung quanh đến trò chuyện.

Thế nào, những tối ấy, cô Gạch cũng ra. Gạch phải lòng ngay Trung, từ khi Trung mới đến.

Không ai biết ông chủ thợ lò ngày trước con cái thế nào và đã ở những đâu, nhưng từ năm về cánh đồng này chỉ thấy trơ trọi có ông lão và một cô con gái. Không bao giờ ông nói, nhưng người ta bảo ngày trước ông đã có mấy đời vợ, cũng đàn đống con cái đầy nhà mà rồi chỉ còn sót có một mủn cô Gạch. Gạch đã độ ngoài ba mươi. Người ta hay trêu chọc cô. Vì Gạch xấu - chưa chắc, khối người xấu xí mà lấy được chồng, nhưng Gạch hay nịnh tính. Cô thích ai khen đẹp “độ này cô Gạch trắng quá, người phấn ra, hai bàn tay thật xinh”. Nghe thế, bao giờ Gạch cũng tủm tỉm rút cái gương con ra soi, giơ tay lên vuốt miết lại hai bên mái tóc. Và hễ ai hỏi: “Hôm nào cho ăn giầu đấy? Anh ấy độ này có hay về chơi không?” Anh ấy là ai, nào biết, nhưng nếu người ta hỏi, rồi tỉ tê thêm vài câu bịa tạc nữa, thế là thôi thì nào trầu cau, nào khế chua, nào thuốc lào, nào tiền vay không phải trả lãi. Rồi ai mà chuyện những trai gái vợ chồng tằng tịu thì Gạch ngồi gẫu cả buổi được. Người ta bảo như thế cũng là cái bệnh đồng bóng của những cô muộn chồng “mình cao số nặng”. Đi lễ, đội bát hương thì khỏi và thường đến khi có chồng sẽ khỏi hẳn.

Cô Gạch mê tít Trung. Cái “bệnh” Gạch thế đã đành, vả lại, trai hàng lò ở đây toàn người đồng chua nước mặn ở Thái Bình, Nam Định kéo lên, ví thế nào được với Trung cao lớn, trắng trẻo, lại như con trâu kềnh nổi đình đám giữa đàn bò gầy. Hàm răng anh chàng trắng tểnh, con mắt sắc đưa đẩy như liếc dao. Bọn thợ các lò càng hay đùa chớt nhả gán ghép, càng gạ ăn giỗ được mọi thứ của cô.

- Ông Gạch kiếm được thằng chàng rể “khớ” đấy.

- Cuối tháng này cô Gạch cho anh em ăn trầu chứ?

- Cái nhà anh phải gió này!

Rồi Gạch đùng đùng chạy. Những nhịp cười đủ kiểu đuổi theo.

Gạch hỏi Trung:

- Anh Trung quê ở đâu, nói thật nào?

- Ai nói dối cô phải tội, tôi dân Thái Lọ.

- Thôi đi, nói cái đầu gối cũng không nghe được. Người Thái Bình đâu có hàm răng trắng như răng lợn luộc thế kia.

- Tôi thề...

- Thề bồi gì rồi nó vận vào người mà vợ con mất nhờ. Em đoán tướng cho anh nhé.

- Đoán đi.

- Chắc là anh lại hư đốn thế nào, bố đánh rồi bỏ nhà đi lêu bêu, chứ ngữ anh thì thiết gì cái nghề vác đất đốt lò này. Hôm nào đưa em về chơi cho biết nhà nhé!

- Nhà tôi xa lắm.

- Hay là ba bốn phòng rồi, không dám...

- Chẳng tin thì thôi, không nói chuyện nữa.

- Dở hơi à? Hay dỗi thế!

Bao giờ cũng vậy, chuyện vào đến quãng ỡm ờ thì Trung tìm cách lảng ra. Trung thừa biết Gạch có tình ý. Biết vậy mà cái tình thế và công tác không cho Trung lộ liễu sờm sỡ được. Và thật ra thì Trung cũng dửng dưng.

Nhưng Gạch càng mê mệt. Những tối không phải canh lò, Trung họp với anh em và dạy học chữ. Gạch cũng lăn vào học.

Cũng mua giấy, mua mực, chịu khó nhẩm vần. Có khi đêm khuya, Trung đọc sách, Gạch vào tận ổ nằm, ghé ánh đèn để hỏi chữ. Gạch thường khoe bâng quơ với mọi người:

- Rồi người ta lên tỉnh ở chứ đâu ở đây. Anh ấy thì đi hương sư dạy học. Vợ dọn ngôi hàng bán giầu vỏ. Tay chân người tỉnh thành nõn nà ra chứ đâu đen thủi đen thui như thế này.

Người kia hỏi lỡm:

- Anh giáo là người đâu thế?

Thì Gạch cười, ngượng lúng liếng cả mắt. Trung cũng biết. Nhưng Trung cũng không khó chịu. Bởi vì, ông lão quý Trung, như thế dễ hoạt động. Trung có ý định tuyên truyền giác ngộ ông lão, sau ngần ngừ, đắn đo, lại chưa dám.

Rồi người ta xì xào:

- Đứa nào nhìn kỹ cái con Gạch dạo này xem. Hai lông mày dựng ngược, nằm đâu ngủ chết đấy, ăn chanh ăn khế như quỉ, mặt mũi lúc nào cũng bần thần như đứa mất tiền, khác lắm.

Có người trêu thẳng Gạch:

- Dân hàng lò ở giữa đồng, chẳng có làng có họ nào bắt khoán đâu. Nhưng mà đừng thấy thổ công không bẩm báo mà nhờn, phải cho tôi ăn cỗ đường hoàng chứ ăn lợn cắt tai thì không được.

- Cô này bắt chước người Thổ, lấy chồng có con sẵn đem về!

Gạch lại chỉ cười. Trông dáng cô đi, có phần cái bụng hơi ưỡn ra đằng trước thật.

Trung cũng nghe cả những tiếng đồn ấy. Nhưng Trung tin ở anh em biết cho mình. Họ chỉ cười như một chuyện đùa nhả. Câu chuyện “cô Gạch chửa hoang, cô Gạch sắp cưới thằng Trung” cứ ầm lên, càng được thêu dệt ra nhiều nữa rồi, đến tai lão chánh tổng chủ lò. Lão này vừa tò mò, lại vừa muốn xem có đào tiền ngả vạ được không, một hôm, lão ra thăm lò rồi tạt vào ông Gạch. Hôm ấy thợ làm đất ngoài sân cả, chỉ có mình Trung vì đêm canh lò nên được nghỉ buổi làm, ở nhà. Lão chánh thấy một người nằm ngủ úp tờ nhật trình lên mặt. Lão nhấc cán ô đập đập tờ báo. Trung nhỏm dậy.

- Nhà đi đâu cả? Thằng này là ai thế này?

- Tôi là thợ đấu nhà cụ Gạch.

- Thợ đấu mà sẵn chữ nhỉ? Ngủ trưa cũng xem nhật trình. Nhật trình gì thế?

Lão cầm tờ báo Đông Pháp lên, rồi bỏ xuống. Trung đã kịp nhận ra ông chánh tổng. Trung nói:

- Tôi cũng bập bẹ, mới mượn được tờ nhật trình về tập đánh vần...

- Mày là con rể lão Gạch phải không?

Trung ơ mặt, “vâng” một tiếng. Lão chánh quay ra. Cái chuyện con rể lão Gạch cũng chẳng bận tâm lão. Nhưng thằng thợ đấu mà mặt mũi lém lỉnh, có chữ đọc nhật trình, mắt nhanh như chớp, hàm răng trắng đã làm cho lão hơi bận tâm.

Ngay hôm ấy, người nhà chánh tổng ra gọi Trung vào. Lão hỏi quê quán rồi sai con xem thẻ thân, ghi tên tuổi, số thẻ của Trung. Tay lão lần lần mở quyển sách tối mật của tòa sứ phát có in hình những chính trị phạm đương bị tầm nã. Rồi lão lạnh mặt, quát:

- Tuần đâu, điệu thằng này xuống chuồng trâu, cùm nó lại!

Mãi trưa, không thấy Trung về, ông Gạch vào mới biết Trung phải nhốt chuồng trâu, vì cái thẻ thân của Trung là thẻ năm ngoái. Trung chỉ có cái thẻ thân cũ lấy ở làng. Từ khi sang đây cũng không nghĩ xoay thẻ mới. Vì cho là mình chỉ từ nhà ra lò gạch, đi đâu thì đã mượn được thẻ thân của anh em.

Ông Gạch phải mất chè lá một con công 1 và hai chai rượu dâu mới chuộc được “thằng con rể” về.

Trung bắt đầu phân vân, lo ngại. Thế rồi cả đến ông Gạch suốt ngày ở ngoài nắng chỉ biết đóng gạch và xem khói lò đặc hay loãng để biết chừng gạch khê hay gạch chín rồi chiều về uống rượu ngủ kềnh, mà bây giờ những câu chuyện rắc rối thêu dệt cũng bò đến tai. Ông Gạch bảo Trung, một buổi tối, vừa rượu xong. Gạch dọn bát rồi ngồi nghe trộm ngoài đầu hè.

- Này anh Trung, đời tôi bao phen lên rừng xuống bể chẳng khác con cò lặn lội, thế mà cáo chung mọi nhẽ, bây giờ bạc hết tóc cũng chỉ còn có một cái khuôn đóng gạch với một mủn con gái. Tôi thấy anh là người ngoan, tôi cho anh đấy, cho không thôi. Cốt sao được người tốt, người biết điều, còn như tôi bây giờ không có thì thật không có, chứ cái mồm này sơn hào hải vị nào cũng đã qua cho nên tôi chẳng thiết bạc tiền, của nả, lễ nghĩa như thói thường thiên hạ. Tôi sẽ dạy anh nốt cái nghề đóng gạch cho có cái làm trợ thời nuôi nhau. Nhưng tôi cũng bảo thật, rồi lên tỉnh mà kiếm công ăn việc làm khác, đừng đeo đuổi cái nghề hun rơm đốt giời này. Nói thật đấy, chẳng ra gì đâu, cái nghề nhân nghĩa mà hóa ra nghề bạc, cả đời nung gạch xây nhà cho người mà mắt tao chưa thấy một thằng thợ nung gạch nào có nhà gạch. Hừ... hừ!...

Ông lão còn miên man nói một lúc nữa về nghề nung, về cách đóng gạch, giọng vừa cay lại vừa thích cái nghề bạc như vôi. Nếu Trung không trả lời, dễ ông lão đã lảm nhảm đến lúc chán miệng thì nằm ra đấy ngủ. Nhưng Trung cười, nói to:

- Bố ạ, lạy bố.

- Được, bố mẹ mày ở đâu, hôm nào đem tao về quê chơi. Thì là tao cho không, nhưng cũng phải để tao che mắt thế gian chứ.

- Bố ạ, tôi có vợ, có hai con ở nhà quê rồi.

Ông lão sặc hơi rượu, thở phè phè. Ngoài sân tối, bỗng “hức hức” lên mấy tiếng rồi tiếng chân huỳnh huỵch chạy ra bờ chuôm. Cô Gạch không thể rình nghe được nữa, cô vừa lao đi vừa khóc.

Ông cụ nói như quát:

- Được được, thì tao cho nó lấy lẽ. Chẳng nhẽ nó phềnh bụng ra rồi, chẳng nhẽ tao gọt gáy bôi vôi đem trôi sông nó. Cáo chung mọi nhẽ thì tao cho nó lấy lẽ mày...

Trung cười cười:

- Bố ơi! Bố ngủ đi!

Ông cụ nằm xuống ngủ luôn. Trung đi tìm bàn với mấy đồng chí ở trên. Câu chuyện, trước coi thường, giờ đâm khó gỡ. Không những việc cô Gạch dồn đến phải giải quyết mà cả cái sự lão chánh tổng để ý tình nghi nữa. Đã mấy hôm, chưa thấy tin tức trả lời về. Gay thật. Tổ chức quanh các cơ sở trại lính khó lòng rút người đi lúc này. Nhưng nếu để lôi thôi rắc rối nhỡ lộ.

Cô Gạch khóc hai mắt sưng đỏ như hai quả nhót. Rồi cô buộc thêm giẻ vào bụng dưới, đi khạng nạng hai chân. Cô ngồi đầu nhà, thoáng thấy người đi qua lại móc cổ oẹ oẹ cho người ta nghe tiếng. Người các lò lại được cười và thêu dệt thêm chuyện. Còn cụ Gạch hễ tỉnh rượu thì lầm lì đóng gạch, dọn lò, xem khói, không nói một câu. Nhưng rượu vào, lại hỏi, lại thúc Trung lấy Gạch, làm lẽ cũng được, làm lẽ ông cũng gả. Trung chối quanh. Nhưng Trung càng sợ. Dù người ta thì thào cô ấy không phải chửa đâu, cô ấy độn bụng - một lần, năm trước phải lòng một anh thợ mộc, cô đã làm thế, ai cũng biết - nhưng nếu nhân lúc này đứa nào nó ngủ với Gạch rồi đổ vấy cho Trung thì sao.

Nghĩ xa nghe gần, càng quẫn.

Hôm ấy, ông Gạch ra phố đóng mấy cái khuôn mới, đến chiều uống rượu ngoài quán xong mới ngất ngưởng về. Vừa vào đầu nhà đã thấy cô Gạch ngồi trước sân, bưng mặt hờ khóc. Cô khóc nỉ non, kể lể như nhà có ai làm sao. Ông quát: “Mày réo tông môn nhà mày lên thế, bố mày chết à?” Gạch vẫn khóc, mắt mũi đỏ hoe. Một bác thợ lò - một đồng chí trong tổ cứu quốc - sang chơi, nói:

- Anh Trung có tin ở quê lên gọi về có người nhà ốm nặng. Anh ấy băn khoăn một nỗi cụ đi vắng. Sau chúng tôi bàn anh cứ về đã có chúng tôi nói với cụ cho, bấy giờ mới dám đi mà vẫn khẩn khoản nhờ tôi nói cụ bằng lòng, vài hôm anh ấy lên, anh ấy có thư gửi lại thay lời, cô Gạch đòi giữ cái thư...

Ông cụ: “À, được! Được!” rồi đi ngủ. Gạch vẫn ngồi khóc tỉ tê. Cô Gạch cất kỹ thư trong dải yếm, quý như cái ảnh của nhân tình cho. Đôi khi, đem ra nhờ người đọc. Người ta hỏi: “Bao giờ thì anh ấy lên?” Gạch trả lời: “Cũng sắp sắp... Anh ấy dặn tôi chịu khó học chữ...” Rồi cười, lấy gương ra soi, rẽ lại đường ngôi.

Đoàn thể đã điều động Trung về làng công tác. Nạn đói từ các tỉnh miền dưới tràn qua Hà Đông, phá tiêu tan mất nhiều cơ sở. Lại nhiều nơi phải dồn cán bộ về quanh thành phố và các ngả đường cái quan. Trung đã được trở về với phong trào quê mình.

Buổi trưa ra đi, Trung chỉ nhờ nhắn lại ông cụ và cô Gạch. Gạch đương xoe quần lên tận bẹn, cắm cúi đạp, luyện than ngoài sân đóng gạch bên bờ ruộng. Trung đi tránh lối khác. Bấy giờ Trung mới thấy man mác thương. Từ tấm bé, Trung không cha không mẹ, thèm khát trìu mến. Người con gái kia yêu Trung, lâu nay Trung vẫn tưởng mình chỉ ái ngại người ta, lúc này mới thấy lòng cũng vấn vương ngậm ngùi.

Hơn một năm ở lò gạch, ăn làm và sinh hoạt với anh em, không đi đâu, thỉnh thoảng quảy gạch vào trường bay, Trung chỉ biết quang cảnh quanh đấy. Các nơi đổ xô đến lò xin việc, có ngày hàng trăm người đứng đợi được gánh gạch thuê. Thấy thế, Trung cũng đại khái biết có lẽ chỉ còn chỗ làm gạch xây sân bay cho đế quốc này còn cơm ăn, mà các tỉnh Bắc, tỉnh Đông đã khánh kiệt, rách tã, cơ man người đói bỏ làng đi.

Nhưng Trung cũng chưa tưởng tượng được cả những làng công nghệ trù mật vùng mình mà chết vãn đi như thế này.

Ngồi trước mặt Lạp lử lả đói, trông ra ba cái mả mới ngoài vườn kia và chuyện những xóm mạc tan tác mà Trung đi qua, một câu hỏi bật lên, láy đi láy lại trong đầu Trung: “Dân ta sẽ chết hết hay là Pháp Nhật phải chết? Tình hình này không thể giằng co hơn nữa đâu”.

Trung nói lại với Lạp, câu lúc nãy:

- Nhiều việc quan trọng đến rồi, Lạp ạ. Liên Xô đã đuổi phát xít Đức thua chạy về tận nước Đức, ở bên này, thằng Nhật càng gầm ghè cắn nhau với thằng Pháp. Chúng ta phải gây dựng ngay lại phong trào.

Lạp đứng dậy. Mấy cái bánh đúc ngô giờ mới ngấm no, đầu gối đã bớt run hơn lúc nãy. Lạp có cảm tưởng lại khỏe, lại có thể ngứa ngáy múa võ, đương co chân xử miếng phượng hoàng quyền. Lạp giơ cẳng tay ướm thử. Bắp thịt lỏng lẻo teo quắt trong chét bàn tay. Nhưng Trung đã về, anh em đã về. Thấy Trung, mà như ngày trước gặp anh Tần. Niềm phấn khởi ấy làm Lạp muốn khóc.

Lạp lại như thấy Nhàn cười, Nhàn cười như mếu.

Trong cái đêm mới tháng trước đây thôi, Lạp không thể cứu được Nhàn, ai oán chưa, giá mà Trung về kịp.

--------------------------------

1

Giấy năm đồng bạc vẽ hình con công của nhà Ngân hàng Đông Dương hồi Pháp thuộc.

XVII

Vảy trăng sừng trâu đỏ đòng đọc nhô ra ở phía trời mây vần vụ, chỉ một loáng rồi biến mất. Đằng chân trời thành phố bất cứ đêm nào cũng ửng lên một vừng sáng đục lờ đã hàng đời nay chỉ khiến cho những người chân quê các vùng xung quanh tỉnh Bắc, tỉnh Đông, tỉnh Đoài, cứ đêm đêm đứng trông về cái ánh sáng thị thành ấy, trong lòng nhộn nhạo bao nhiêu mong ước, lo nghĩ, bao nhiêu tưởng tượng về những hy vọng cuộc đời, giàu có như đất Kẻ Chợ chân giày chân dép kia. Chiều chiều ra đứng cửa chùa. Trông lên Hà Nội mà mua lấy sầu.

Thế mà, tối hôm ấy, phía thành phố không thấy vùng ánh sáng nhợt nhạt mọi khi hửng lên và người thính tai nghe âm lại những tiếng động như sấm rền. Có người tưởng sấm trời sôi bụng, sắp mưa rào đầu mùa. Đến khi tiếng nổ âm ỉ mãi thì lại ngỡ người ta bỏ mìn lấy đá trên núi Tam Đảo, núi Ba Vì dội lại. Rồi cũng không ai để ý nữa. Đêm đã xuống mịt mù trên cánh đồng, làng mạc, ngủ yên, mặc dù tiếng sấm, tiếng súng, tiếng mìn có khua vào tai cũng không chập chờn nổi được cơn thiếp lịm của người đói, của những người lao lực gồng quảy suốt ngày kiếm miếng, vừa đặt mình nằm đã lăn ra như chết.

Trong làng này, riêng An không ngủ được. Tiếng sấm? Hay là tiếng súng? Thì súng gì? Nhật, Pháp hay Pháp, Nhật? Thằng nào đánh nhau với thằng nào thì cũng lung tung, chỉ tổ kéo dài nỗi long đong của An mà thôi. Từ khi thôi học, không còn thiếu chỗ nào An không vác đơn xông đến xin việc. Đêm nằm, nghĩ nát óc. An đã mua về một quyển Tự học tiếng Nhật. Chẳng biết thế nào, nhưng dù cái thằng phát xít Nhật có là chiến tranh, là mổ bụng, là khủng bố bắt mười nhà chung một con dao như ở Cao Ly, thì đây An chỉ có học tiếng, mưu đồ một chân thư ký chấm công, một chân bán hàng, một chân sổ sách bàn giấy mà thôi. Ở nhà mãi thế này, nhiều cái o ép khổ quá.

Những nghiến ngả, kìm kẹp của mẹ đối với vợ chồng An, nhất là với vợ An, không đòn vọt mà đau. Rốt cuộc, An chưa kiếm đâu ra được một đồng trinh Bảo Đại. Đến độ đói này lại càng buồn. Nhà không đến nỗi phải ăn khô dầu, củ chuối, nhưng mẹ và vợ chạy chợ suốt ngày, quắt ruột lại. An đóng vai ăn bám, mỗi hôm cởi trần ra nấu cháo đặc và trông nhà.

Tiếng súng hay tiếng sấm xa xa đã làm An trằn trọc. Có sự thay đổi? Ừ, thay đổi, phải thay đổi chứ. Nhưng, Việt Minh ư? An không tin. An ngơ ngác mở mắt tìm trong bóng đêm. Xem trên đời này có cái cửa nào nữa? Nhưng thế giới bây giờ không còn một chỗ yên. Đến cái mỏm đất hút lòm ở xứ Libéria tận châu Phi mà quân Mỹ cũng đổ bộ lên sắp đánh nhau, còn nước Pháp thì từ sáu giờ rưỡi sáng cái ngày sương mù mùng sáu tháng Sáu năm ngoái quân Đồng Minh đổ bộ vào Tây Âu, nước Pháp bị kẻ ô như bàn cờ cho súng nổ bốn phía. Bên Liên Xô khói lửa quá, chẳng nói gì. Ở bên này, Mã Lai, Miến Điện, Phi Luật Tân, người Nhật từ trong rừng đánh ra. Bên Âu châu ban đêm chỉ có hai nước còn đèn sáng là Thụy Sĩ và Tây Ban Nha, còn thì cả châu Âu tối mò trong loa đèn phòng thủ. Đất Tây Ban Nha thì An ghét sẵn từ hồi hai thằng tướng Phăngcô, Môla được Hít và Mút giúp, chúng nó đã bóp cổ chết chính phủ Bình dân. Nước Thụy Sĩ nhỏ quá, xa quá, đông người đến đấy trú ẩn quá, chẳng bao giờ An chạy đến tận đấy được. Từ châu Âu sang châu Á, tiếng súng đương bời bời. An thở dài, trở mình. Phải, thế giới phải chạy loạn mà ta vẫn nằm đây là sướng thân rồi. Cho dù mẹ chửi, vợ khóc, thì âu là bắt chước ông Khổng Minh cứ bịt tai nằm cao, bao giờ thiên hạ thái bình bấy giờ ta mới bước ra, biết đâu chẳng đến thời hái ra tiền.

Qua mỗi cơn thảng thốt, lúc nào An cũng nghĩ sau này sẽ sướng. Như đêm nay nghe vẳng tiếng động như sấm, An đã vẽ ra trong đầu đủ những điều u ám và tươi vui cùng một lúc. Sau hết, An nghĩ: có lẽ có thay đổi. Ta cũng mong cho thay đổi. Mai ra tỉnh sớm, xem sao.

Chiều hôm sau, An ở tỉnh về. Câu chuyện tiếng sấm đêm trước mới rõ đầu đuôi.

Nhiều người xúm nghe An nói. An cảm thấy thú vị nhớ lại cái năm chống thuế, khi bọn An và Lê ở các tòa báo Tin tức về, người làng xúm xít lại, bây giờ đám người làng đói rách thất thểu nhiều lắm chạy lại.

An nói to như mắt trông thấy:

- Quân Nhật vào gô thằng Sứ, trói nó nằm dưới đất nguyên ở giữa cái buồng giấy mà mọi ngày nó vẫn ngồi làm việc ấy. Một lúc, thằng Tây mót đái, nó đái bừa ra quần. Đến lúc lính Nhật thấy ướt sàn mới hự cho một báng súng, nó lại càng đái tràn cả đến chân bộ ghế sa-lông.

Mọi người cười mếu máo.

- Còn nhiều cái lạ nữa.

Nhưng hết chuyện “quan Sứ đái ra quần”, người ta tản mác đi, vẫn chưa thấy gì lạ. Lão lý Dĩ lẩm bẩm: “Lạ! Lạ cái đếch! Ông biết từ lúc đèn điện phụt tắt ở ngoài Hà Nội kia. Muốn lạ à, người ta lại gông cổ đi như năm nào”. Nhưng lý Dĩ cũng không dám nói to, lão cũng ngại thằng An ở tỉnh về, có cái gì khác mà ta chưa biết chăng.

Còn “nhiều cái lạ” An vừa khoe, An biết rồi nhưng chưa nói hết. Về đến nhà An vẫn nói như khướu hót. Khác lúc sáng An lừ rừ đi, giờ An đỏ phừng mặt “hồng khí” say sưa:

- Chồng nhà cái Hiền bây giờ làm to lắm. Nó sắp về đây với tôi tổ chức cứu tế cứu đói cả làng ta.

Bà Hương hỏi:

- Làm thế có lương ăn không?

An khó chịu, nhưng còn cứng:

- Việc xã hội, việc chính trị không lèm nhèm...

- Thế thì rã họng ra làm à?

Câu nói ác như nhét quả bồ hòn vào mồm An. Bà Hương có biết gì Tây hay Nhật. Bà chỉ cần An có việc làm ông ký, ông phán và bao giờ lại thông đường Sài Goòng, có lái ra mua lụa, các khung cửi lại tưng bừng. Thế là An tiu nghỉu, chết điếng.

Bao nhiêu hùng hồn, dồn lại đến tối nói với vợ:

- Anh sắp ra làm cứu tế và nhiều việc rất quan trọng. Các quan Nhật đã tuyên bố nước Việt Nam đuổi Tây đi rồi. Mình đừng khóc, cố chịu khổ ít lâu. Anh sẽ có địa vị to trong xã hội, đợi hôm nào chồng cái Hiền về...

An còn nói nhiều. Vợ An chẳng biết chẳng hiểu nhưng không hỏi lại. An nói hăng, bốc máu lên đầu không ngủ được. Nhưng không trằn trọc, ngổn ngang như đêm trước, An đương xếp đặt từng việc một.

Cuộc độc lập của nước Việt Nam, như lời vua Bảo Đại ở tận đâu tuyên bố đuổi Tây sau hôm đảo chính Nhật, chẳng bận đến làng Hạ. Không thấy gì lạ cả.

Cho đến hôm chồng Hiền về. Thằng Chính về với cả quan phủ. Một cái ô tô ban cứu tế tỉnh mượn hộ, phần Chính giả tiền xăng và nói khó với một ông tài xế lái.

Ô tô về phủ lỵ trước. Chính đưa giấy giới thiệu và mời được quan phủ cùng đi. Mà quan phủ cũng mừng thầm nhờ được cuốc xe về làng hiểu dụ, trong tình hình mới. Ô tô xịch tận đầu làng bóp còi toe toe mấy cái rồi đỗ. Quan phủ vào thẳng cửa đình. Cũng vừa lúc, người lính lệ cắm cổ đạp xe đạp theo ô tô của quan và khách bon trước, xe đỗ lại thì người lính cũng vừa khéo đến cửa đình, nhảy xuống, hồng hộc dắt cái xe đạp như con trâu lồng vào nhà lý trưởng báo tin quan phủ về. Thằng mõ ở bên cầu, sau gốc đa lật đật đến nhà cụ từ lấy chìa khóa mở cửa đình rồi dóng một hồi trống.

Tiếng trống khoan thai, đĩnh đạc, uy nghi gọi các cụ kỳ mục, các ông chức việc ra đình.

Chính vào nhà bà Hương. Chưa bao giờ Chính về chơi nhà mẹ vợ mà ăn mặc lạ kiểu như vậy. Bộ quần áo tây xám, hai ống quần đút vào trong đôi bốt da ngắn, mỗi bước kêu òm ọp. Sau lưng áo, hình hình to bằng một cái ấm giỏ đeo. Người tò mò đoán anh ta có khẩu súng lục bí mật giắt trên đít. Mắt Chính, lên cái kính trắng thật to, sáng loáng. Và lúc chào An, Chính giở mũ ra thì cả bà mẹ vợ cũng lơ láo không tưởng tượng ra sự khác thường đến như thế, bà trông thấy cái đầu cạo nhẵn lông lốc như người con rể mới ốm trọc cả đầu. Nhưng đằng này Chính đầu trọc với bộ quần áo lạ kiểu và đôi kính trắng lấp lánh thì bà lại đon đả, mừng rỡ. An hỏi: “Chú về sớm thế?”, Chính đáp: “Tôi đi ô tô về đây” thì cả An luống cuống. Vừa rồi, An nghe còi ô tô, đã hơi ngờ ngợ, nhưng cũng chưa dám tưởng ra người em rể lại chóng oai đến thế. Rồi Chính lại nói: “Tôi đi ô tô về cùng với ông phủ” thì mọi người chỉ còn biết ớ ra, vừa phục vừa sợ, không ai dám hỏi nữa.

Chính giục:

- Tôi chỉ về được một lát. Mời anh An ra đình ngay, có việc.

An lúng túng mặc áo.

Ngoài đình đã nhiều người kéo đến. Đông đủ các cụ kỳ mục, các tiên thứ chỉ mỗi thôn, ông chánh phó hội cũ, các hàng tộc biểu, ông lý cựu, ông lý hào, các hàng phó lý và trương phiên, khán thủ bốn thôn.

Dưới sân đình đùn đùn tới mỗi lúc hàng chạ người nhôm nhếch, mặt bệch đất thó, mắt nhờ nhạc như mắt cá ươn, người nào cũng nghếch mặt lên, như nghe ngóng, như hớp mồi. Rặt những người đói kéo đến, vì có tin quan trên về phát chẩn. Quan phủ nghểnh ra, thấy người ùn ùn đẩy nhau vào tận bậc cửa đình, chốc chốc, mấy người tuần lại giơ roi đập vun vút, quan phủ có ý ngại. Người đến đông quá như thế, có khi lôi thôi. Những việc xảy ra ít lâu nay đã như thế. Việt Minh sẽ từ đám đông ló ra, và nếu thế thì chết! Lão hoảng, lão hỏi thầy lý Dĩ:

- Này, thấy hương lý các thôn đến đủ chưa?

Lý Dĩ tráo mắt quanh sân đình:

- Dạ, đủ.

- Các thầy ra đứng dàn cả trước mặt tôi đây. Bảo tuần nó bắc bàn ngáng cái cửa lại. Tôi sẽ đứng đấy, nói với các thầy, với bàn dân vài điều. Vẽ, chẳng phải ghế. Bây giờ độc lập không giống trước nữa.

Quan phủ đứng sau bàn, ở ngoài trông dưới thấy cái bụng áo sa tây và đôi mũi giày ban bóng loáng.

Quan phủ dõng dạc:

- Tôi công bố cho dân bản hạt biết rằng nước ta vừa độc lập. Thừa sức các quan tỉnh cho các thầy chức dịch tuân và dân bản hạt biết, từ nay không ai được gọi bản chức là quan tri phủ, trong đơn từ không được viết “lơ” quan tri phủ. Chữ quan, chữ Tây bãi bỏ. Ai có việc bẩm thì gọi bản chức là ngài phủ trưởng, trong giấy tờ cũng như lúc vào hầu ở công đường.

Ông quan phủ còn nói nhiều về những việc cải cách. Vua Bảo Đại ở trong kinh đã phế cái lạy sống rồi, dù chắp tay khấu đầu hay lên gối xuống gối cũng cấm. Mọi người phải tuân theo pháp luật, đi đâu phải có thẻ thuế thân dắt trong người. Chả là quân đội Nhật Bản không mắt xanh mũi lõ mà cũng máu đỏ da vàng như ta nên rất am hiểu tính nết từng người ta, ai chăm chỉ ai lười biếng, chứ không phải có thông ngôn mới biết được như Tây trước kia đâu.

Đám người ở ngoài vẫn đến càng đông, nhao nhao, ồn quá, nghe câu được câu chăng. Ông phủ trưởng nói:

- Tôi giới thiệu có ông cứu tế ở tỉnh về phát chẩn. Đây là một việc cải cách, làm cho mọi người được ăn no.

Mới nghe câu “...phát chẩn”... đã à à trống reo, người càng ních vào, đội cả hai chân cái bàn lên. Quan phủ chột dạ, quay lại nhìn, chỉ thấy gian đình và cái hậu cung tối om. Quan phủ rỉ tai lý Dĩ đương vòng tay áo the dài gật gật. Lý Dĩ lại ghé bảo thằng mõ vẫn đứng trực đấy rồi ông lý loay hoay trèo lên bàn đứng hét ra lũ người nhộn nhạo định chui vào trong đình.

- Quan phủ trưởng chưa phát chẩn hôm nay. Hôm nào phát thì có mõ đi chiềng các làng. Đồng dân ta hãy đâu về đấy.

Thầy lý nói xong, lập tức, thằng mõ xô ra ầm ầm đóng cửa đình. Và thầy lý Dĩ nhanh trí, để khỏi vướng chân các vị, sai mở cửa hậu cung để quan phủ, ông cứu tế Chính và An cùng các cụ ra lối đằng ấy.

Các cụ tiễn ông phủ đến tận xe rồi chắp tay cúi rạp đầu. Quan phủ chắc là quên trông lại xem thế là chào hay là lạy. Ô tô nổ máy nổi còi toe toe, tõe người rạt sang hai bên đường. Đằng sau, anh lính lệ lúc nãy lại cong lưng đạp xe trong làn bụi đỏ theo ô tô. Trên ô tô có cả An mà Chính đã mời đi luôn. Để cho ông anh vợ được thưởng thức một tua ô tô, lại oai với dân làng. An cảm động, chốc lại vuốt áo.

Chính dẫn An đến chào ban cứu tế tỉnh. Ở đấy người ta bàn chia cho làng Hạ đợt đầu được một xe bò ba tạ sắn, nấu cháo sắn phát chẩn. An về sửa soạn trước, ghi tên những người đói để sẽ phát lần lượt.

Chính bảo An:

- Chúng ta gọi cả làng ra, tôi thay mặt tỉnh diễn thuyết về mục đích cứu tế. Làm như vậy mới vang dội.

Rồi, để làm cho anh vợ phấn khởi hơn nữa, Chính nói:

- Việc cứu tế xong thì anh được tín nhiệm và có tiếng. Tôi chạy cho anh một chân đi cân thóc - Nhật vẫn cân thóc tạ như thằng Tây. Việc này bở to. Rồi anh lên làm thanh niên tỉnh, ông bộ trưởng Phan Anh bộ Thanh niên mới ra Hà Nội, anh sẽ được vào yết kiến ông bộ trưởng. Cái lão Trần Văn Chỉ thu thuế chợ và gá bạc mà giờ còn sắp lên đốc lý, lên tỉnh trưởng, nữa là thanh niên trí thức chúng ta. Phải, thời thế đến tay rồi, phất cờ lên. Tôi chú ý giúp anh, cho nên mới chọn làng ta làm nơi cứu tế trước nhất toàn tỉnh.

An không mảy may để ý câu nói bề trên của em rể, mà An thấy Chính tài ba, không như mọi khi lúc nào cũng chỉ thấy ngồi lau xe đạp, hát nghêu ngao và chim gái thành thần. Cho nên, bấy giờ An chỉ biết rúm tay lại, bắt tay Chính, bắt tay Chính.

Hai xe bò sắn của tỉnh được kéo về làng Hạ đổ đầy một gian đình. An hãnh diện. An đương là người thế lực nhất làng.

Mõ làng rao: “Cốc cốc chiềng làng nước, đồng dân ra đình nghe hiểu thị việc cứu tế...”. Các xóm dán tai lắng nghe. Ai cũng đã biết đứng đầu phát chẩn làng này là An. Nhiều người đã vào nói lót trước. Nhiều người đói ngồi sẵn ngay ở ngõ, An đi qua thì chắp tay lạy. Trước An còn hăng hái giơ tay giảng giải dông dài, sau vì người đến nhiều, đâm gắt, đuổi bùi bụi.

Lúc ấy, Lạp đi vào nhà bà Hương. Người nào trông thấy Lạp cũng lạ, vì đã lâu không thấy, tưởng Lạp đói chết rấp ở chỗ nào rồi, nhiều người đói đã mất tích tự nhiên thế. Nhưng rõ ràng Lạp đương vào sân, giữa đám người ngồi. Lạp không xạm quá như hôm gặp Trung, nhưng mặt Lạp vẫn tái ngắt. Tóc, râu bù xù, nham nhở như vừa được lôi ở bếp gio ra. Hai cẳng chân khô đét chắp vào cái đầu gối gộc tre thui làm cho dáng Lạp đi ngất nghểu.

Thoạt trông, An giật mình: cái ám ảnh khó chịu đương lù lù đến. Nhưng khi An trông tận mắt con người ốm đói cò cử thì An lại nghĩ khinh mã thằng này chỉ vào xin cứu tế. An lặng lẽ, hơi nhíu mày, rồi chững hàm hỏi:

- Cái gì thế?

- Tôi gặp anh thảo luận tý việc.

Con mắt nhìn xoi mói của Lạp khác những người từ nãy vào lạy lục van xin, và hai chữ “thảo luận” gọn gàng làm An trợn.

An khẽ nói:

- Mời... anh... mời...

Hai người vào đầu phản nhà trong. Nét mặt An biến đổi mau chóng theo câu chuyện. Lúc tròn miệng lại, lúc cắn móng tay, mắt chớp chớp, nhay nháy lia lịa.

- Tôi báo cho anh biết hai cái xe bò và sắn để ở đình, Việt Minh đã tịch thu chia cho người đói.

- Á!

- Và cuộc họp làng ở cửa đình anh đã cho mõ rao gọi dân, tôi cho anh biết là Việt Minh sẽ lên nói chuyện với đồng bào.

Lạp dừng lại, im lặng dò thái độ An. Nhưng An không sửng sốt kêu “á” lên nữa, mà An trố mắt. Lạp nói tiếp:

- Anh cũng là người hiểu biết, tôi không phải nói nhiều. Anh không được ngăn trở việc tịch thu sắn, không được lộ bí mật này cho thằng Việt gian Chính biết. Anh cũng là người tốt, anh phải đứng về hàng ngũ Việt Minh.

Mỗi tiếng Lạp nói như ném vào mặt An. Bây giờ thì An đã rõ. An bắt đầu kinh sợ cái gầy gùa lom nhom của Lạp.

An nói:

- Các anh xét xem, các anh tịch thu sắn nhỡ trên tỉnh biết...

- Có thế tôi mới bảo anh không được tiết lộ với thằng Chính.

- Nhật người ta biết sẽ về khủng bố.

Lạp toan nói: “Mày sợ bị khủng bố thì đúng hơn”, nhưng không nỡ chọi đau một người, mà Lạp vẫn thấy có cảm tình một cách chua chát. Lạp cười khẩy, nói:

- Không có gì phải sợ cả. Tình thế này dân ta càng phải mau chóng đánh Nhật. Cứu tế kéo dài cũng không thể được. Mỗi ngày húp một húp cháo sắn chỉ thêm ngắc ngoải rồi cũng chết cả mà thôi. Phải võ trang khởi nghĩa thì mới thoát chết được. Anh có biết các nơi đương thế nào rồi không? Sẵn sàng hết rồi. Ngay ở vùng ta, anh không nghe tự vệ, du kích các làng tập quân sự ngoài tha ma, cả đêm hô ầm ầm đấy à?

Giữa lúc ấy, ngoài ngõ có tiếng táo tác qua. An và Lạp đứng dậy, thấy ngoài đường cái chen chân những người tay thúng tay mẹt, ới nhau, xô nhau. Bà Hương hớt hải ra, bảo An:

- Người ta đi cướp sắn ở ngoài đình kìa!

Bà xuống bếp, gọi rối rít: “Nhà cả ơi nhà cả! Cầm cái thúng này này!”, rồi mẹ chồng nàng dâu vác thúng đi. An nhìn trộm Lạp rất nhanh, thấy khuôn mặt xanh xao của Lạp tươi lên, miệng cười mỉm, nửa tự nhiên, nửa giễu cợt, thì An ngớ ra, nghĩ: “Thế này thì chết mình rồi”. Những chuyện Lạp nói từ nãy đã phá tan tành cái cứu tế đương tiếng tăm của An, bây giờ chia sắn cướp sắn lại còn lung tung nữa.

- Thế là thế nào, hả anh Lạp?

- Là Việt Minh đã chia hết sắn cho những bà con đói. Cả kho thóc trong đình rồi cũng sẽ chia. Chia thóc và tuyên truyền rộng cho ai nấy biết công cuộc võ trang khởi nghĩa đánh Nhật. Sáng mai, Việt Minh diễn thuyết xong, anh mới được ra bảo thằng Chính phải mang sắn về nhiều nữa.

An nhăn nhó, khẩn khoản:

- Anh cho tôi nghĩ.

Trước khi vào nhà An, Trung đã bàn nên lôi kéo An. Không như Lê trước kia, ghét An, Lạp nể An. Lạp đáp:

- Ừ, anh cứ nghĩ kỹ đi.

Lạp đưa cho An tờ truyền đơn Kháng Nhật cứu nước và tờ Chống nạn chết đói của Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). “Anh phải đứng về hàng ngũ Việt Minh, đừng u mê theo Nhật. Tình thế đã sáng rồi. Quân Đồng Minh sắp đổ bộ vào Đông Dương, tàu bay ném truyền đơn báo tin rồi đấy”.

Cho đến tối, An không đứng, ngồi chỗ nào yên. Lại nỗi bà Hương và con dâu ra đến đình thì đã hết tiệt sắn, nghe làng dưới đương phá kho thóc, lại chạy xuống, nhưng chậm quá, người đã đến chia hết cả rồi. Bà vừa đi vừa rỉa róc, không biết nói con dâu hay nói ai, cứ đay đi đay lại: “Thời buổi này hạt thóc hạt vàng, mà không kiếm nổi một đồng kẽm gãy. Đến chết hết cả thôi, giời ơi!” An lại mất cả oai! Phút chốc An chỉ thoạt nghe mẹ rền rẫm mà rức đầu cồn ruột lên.

Thật ra, cũng không nghĩ gì được. Cái cứu tế thế là vứt đi. Không oán Việt Minh, mà An sợ. Nhưng An còn dợn gáy hơn, nếu như mất sắn rồi, lại để Việt Minh ra diễn thuyết, vô phúc Nhật biết thì nó về tóm cổ đi chứ còn thế nào nữa. Đế quốc Pháp bắt người còn tra tấn, Nhật bắt người chỉ có cắt đầu thôi. Những tưởng tượng ấy hốt hoảng hiện ra chen lẫn, nhoi nhói với những câu móc máy của bà Hương. An ngồi gục đầu. Có lúc An bịt tai, cắn chặt hai hàm răng. Lát sau, An từ từ mở tay ra. Nhớ Lạp nói: “Tự vệ các làng ra đồng tập quân sự hô ầm ầm cả đêm...” An lắng tai nghe. Trong đêm nguồn lên từng trận gió giải đồng đầu mùa hạ lồng lộng thổi qua cánh đồng, trên thành tre bờ giếng. Có lúc An thấy rì rào ngỡ như tiếng reo hò thật. An sờ tay vào tờ truyền đơn để trong túi, nhớ rành rọt từng câu. Quân Đồng Minh sắp vào Đông Dương giết nốt phát xít Nhật. Quân du kích cách mạng Việt Nam đã nổ súng kháng Nhật cứu nước tại nhiều nơi 1 . Thì An lại thoáng một hy vọng mới. An mong Việt Minh nổi lên, mau mau lên. Thế giới hết chiến tranh, chiến tranh tàn khốc quá và như những năm xưa ta đã hằng ước là thế giới sẽ yên hàn, mọi người rồi ra đều sung sướng.

Bỗng, đằng sau thành tre đằng kia rực sáng. Rồi lửa ngọn lên ù ù. Tiếng lửa nổ đốp đốp như ống lệnh. Trong các làng, tiếng tù và nổi. Đâu cháy nhà? Gió giải đồng đương rào rạt thế này thì đến cháy cả xóm mất. Có tiếng người ngoài bờ ao, An đứng trước sân, hỏi với ra:

- Cháy ở đâu đấy?

- Trại ngựa Nhật.

Giữa đồng xa có mấy dãy lều của Nhật. Những khi máy bay Mỹ ném bom ngoài thành phố, lính Nhật vẫn lùa ngựa về buộc ở đấy.

An trông bóng lửa, nói:

- Gió này thì đến vèo hết.

- Vèo hết ngay chứ lỵ!

Rồi tiếng cười rúc rích, tinh nghịch, khoái chí của những người chạy về phía đầu làng đón bắt ngựa vỡ chuồng chạy về đấy. An tưởng họ đùa tự nhiên, nhưng chợt An bối rối nghĩ ra. Thôi lại Việt Minh đốt lều ngựa của Nhật. Nếu không, sao chúng nó lại cười, sao bỗng dưng lều giữa đồng lại cháy? “Còn nhiều việc sẽ xẩy ra...” - Lạp lẩm bẩm thế... - “Nhiều việc xảy ra...” Đích rồi. Sớm mai Nhật về bắt người ăn thịt ngựa sẽ làm cỏ cả làng. An còn chưa nghĩ ra cách nào để trả lời Lạp. Lại thêm những rắc rối nữa tới.

Một đêm trắng qua. An không chợp mắt.

Mới tờ mờ sáng, bỗng nhiên Chúc đến nhà An. Chúc bảo:

- Mời cả bà Hương lên đây, việc này cần.

Rồi Chúc nói:

- Chỗ anh em, tôi bảo thật. Bà với anh có biết trong một ngày hôm qua, chúng nó phá hai kho thóc, kho sắn, đến cả dãy lều ngựa của người ta. Chỉ có bọn Việt Minh mấy làng này thôi, lại những thằng Lạp với lũ xóm dưới. Có cả thằng Trung mới lông bông ở đâu về. Tôi biết hết. Thế chúng nó có liều không. Cách mạng không phải là ăn cướp nhé. Tôi đã làm cách mạng tận U Đon bên Xiêm, tôi lạ gì. Dại như chúng nó, chỉ tổ chết. Tây với Nhật cũng một duộc, sổ sách mật thám nó truyền cho nhau cả. Tên tuổi những đứa nào cộng sản ở làng này, Tây thua trận phải giao cho Nhật, có cả tên tôi, tên anh. Tôi biết rồi. Ta phải tính trước mới kịp. Nhật cũng là Tây, cứ tiền là xong tuốt. Bà chạy cho anh ấy một trăm, tôi một trăm cộng vào, biện cái lễ hai trăm lên tỉnh. Không thì nó về tận đây truy đấy. Anh nhớ hồi anh và tôi bị bắt giải tỉnh. Chỗ anh em, tôi bảo thật, chứ còn mấy thằng bố láo kia, mặc xác chúng nó. Có cả thằng Lạp họ nhà tôi đấy, tôi cũng chớ thây!

Nghe Chúc nói, bà Hương rủn cả người. Bà mếu máo: “Anh ơi! Anh bảo em nó làm thế nào bây giờ? Thằng chồng con Hiền có cứu được anh nó không?”. Chúc văng tự nhiên:

- Cứu cái con khẹc. Cứ đứa ra một trăm thì xong.

- Chạy đâu ra một trăm giời đất này?

Từ nãy, An ngồi im. Nét mặt nhơn nhơn và cái kính trắng nhìn nghếch lên của Chúc gợi một cảm giác khó chịu, vừa sợ vừa ghét mà An đã gặp. Cái lần ấy ở sở mật thám. Đúng, Chúc cũng leo lẻo thế này. An còn nhớ câu Chúc nói: “An ơi! Chúng ta không làm gì can phạm mà phải giấu. Khai đi”. Thằng mật thám Tây lại gọi Chúc là “ông Chúc”, hôm sau Chúc được thả ngay. Từ khi bị bắt về, An không đàn đúm với ai trong làng nữa, còn mọi người đều biết Chúc làm chỉ điểm, làm ma cô bán tin ăn tiền, lên đồn lên phủ luôn. “Vì thế, hồi đói này mày mới ung dung được”. An thật thấy Chúc lộ tẩy, đây là một đòn tống tiền. Ở xà lim số 3, An đã nghe biết nhiều những chuyện loại này, thèm một mồi thuốc lào cũng có thể bán anh em.

An gắt mẹ “Việc gì mà khóc!” rồi bảo Chúc:

- Anh cứ về. Tôi bàn với u tôi sau.

Chúc cười gằn:

- Đã nếm mùi đòn xăng tan rồi đấy. Bao giờ thì có?

- Còn để cho người ta lo chứ!

Bà Hương chen:

- Anh thương tôi, thương em nó, trăm sự bây giờ...

Chúc lạnh lùng:

- Tôi làm phúc thôi, không muốn cũng được. Việc sống việc chết không phải nài!

Chúc đã đi khỏi. An ngồi thừ, mặt nóng bừng, như lên cơn sốt. Việc sống, việc chết thật! 

Nhưng phải lên tỉnh báo cho Chính đừng về làng nữa.

Lát sau, Lạp đến. An đương mong Lạp. An đã quả quyết. An bảo Lạp vào trong buồng. An nói:

- Thằng Chúc vừa vào tống tiền u tôi. Nó nói Nhật sắp về khủng bố. Anh bảo bây giờ làm sao?

- Bây giờ không như hồi anh bị Tây bắt đâu. Nhật đánh đổ Tây rồi không còn sức khủng bố.

- Thế nghĩa là thế nào?

Lạp không trả lời, mà lại hỏi:

- Hồi Bình dân, anh đã hoạt động, bây giờ có hoạt động được không?

An đáp nho nhỏ:

- Được.

Lạp vỗ vai An:

- Chả trách trước thằng Lê nó chúa ghét cậu lừng khừng nước đôi.

Câu nói sỗ, nhưng An đã không thấy khó chịu, lại đượm vẻ thân thiết ngay.

- Có gì khác, tôi sẽ tìm anh. Thằng Nhật lọt vào đây cũng chẳng làm trò trống gì. Ta vận động chạy ra đồng nấp.

Quãng xế trưa có hai chiếc cam nhông bắt kín phóng mù bụi, từ trên đê, rẽ qua cánh đồng, theo đường đất vào đầu làng. Xe vừa xịch đỗ, một toán hiến binh Nhật, quần áo vàng khè nhảy vọt xuống, xách súng xông vào, như đã thông thạo đường.

Tổ tự vệ bí mật gác đã báo vào từ lúc ô tô đỗ. Trung, Lạp với một số thanh niên các xóm, cả nhà An cũng được người đến bảo, chạy thoát cả ra cổng đồng. Hiến binh Nhật vào đẩy lão lý Dĩ đưa xuống cái nhà hoang của ông Trương Ba rồi vòng lên nhà bà Hương, lại sục liền mấy nhà khác. Nhưng không tóm được ai có tên đã ghi trong sổ.

Người quan Nhật cầm tờ giấy, bảo thông ngôn hỏi lại lý Dĩ làng này có những ai tên Lạp, tên Lê, tên Trung, tên An, tên Ba, tên Nhàn, nhà chúng nó đâu?

- Có đứa đã chết đói, có đứa bỏ làng đi mấy năm nay rồi.

- Đứa nào tên là An?

Cả bọn vừa ở nhà bà Hương ra, đã biết An “đi tỉnh” vắng từ sáng sớm. Nhưng người quan Nhật vẫn bắt thông ngôn hỏi vặn:

- Còn thằng nào tên là An?

Ông lý Dĩ lật đật lấy quyển sổ đinh thôn Hạ, đeo kính vào, cúi xuống, mở ra xem.

- Vâng... vâng... Tên An... Tên An...

Rồi ngẩng lên, run rẩy:

- Có một đứa tên là An, Bùi Văn An ngụ cư, nhiêu An năm mươi tư tuổi.

- Đến nhà thằng An!

Nhà lão nhiêu An ở xóm dưới. Lão này cả đời chưa bước chân ra đến tỉnh. Ai cũng đã biết, đến đi ỉa lão cũng chạy vì sợ mất việc. Thế mà lâu nay khốn đốn, đói quá, phải cậy dần sân và dỡ gạch tường hậu đem bán.

Lúc đó, cái lão nhiêu An keo kiệt nhất làng Hạ đương cởi trần, mấy bố con đóng khố một xúm xít trong bếp quanh nồi cháo cám trộn rau sam.

Hiến binh Nhật giơ tay hỏi:

- Đứa nào là thằng An?

- Bẩm quan lớn, con là thằng nhiêu An.

Bọn hiến binh kéo ông lão An ra gốc đa cửa đình. Xả hai nhát kiếm, lão nhiêu An đứt vai, ngã xuống. Chúng vất cái xác lên ô tô, phóng về chợ Cầu, ròng dây treo lủng lẳng lên cành cây gạo trước cổng chợ.

Người vào chợ Cầu phải chui qua dưới cái xác lão Nhiêu bị chết chém vì tội làm hội kín.

--------------------------------

1

Truyền đơn: “Lời kêu gọi của Việt Nam Độc lập Đồng Minh chống nạn chết đói”.

XVIII

Vài ngày sau, những người làng Hạ chạy Nhật đã lác đác trở về làng. Chỉ mỗi mình An vẫn trốn nán lại bên kia sông. Nghe ông nhiêu An bị chém chết, An quá hãi, không dám về. Ở ngoài tỉnh, chồng cô Hiền cũng đã nghe biết hiến binh Nhật về bắt người làng treo lên cây gạo. Cái cậu Chính “đầu trọc như Nhật ấy” cũng sợ Nhật, sợ Việt Minh không bén mảng về nữa.

Bấy giờ các kho thóc trong vùng, Việt Minh hô hào người đói ngày nào cũng đi phá. Đã trông thấy cám mới và hạt thóc, có được “hạt ngũ cốc” cầm hơi. Nhưng các làng cứ nôn nao, nháo nhác, phấp phỏng, chờ đợi. Sự gì sắp đến, sắp đến. Nếu không thì còn chết. Điều mừng chỉ thoảng một cái rồi tắt, vì thóc chiêm sớm đồng xâu còm cõi vừa gặt thế mà quan phủ, quan tỉnh, các người thu thóc liên đoàn có lính Nhật vác súng kèm, đã vào làng vét, không cần cân như mọi khi. Cơ mầu này thì khó lòng còn một hạt. Người nói dăng dăng: chết, còn chết nữa...

Nhưng cũng dạo ấy, những tổ tự vệ chiến đấu, đội du kích, đội danh dự Việt Minh đêm đến kéo ra tập luyện ngoài đồng. Tiếng hô, tiếng hét lắm đêm thanh vắng, thuận gió, vẳng vào làng. Hồi còn mồ ma lão Trương Ba, các ông bà già trong làng vẫn nhớ khi quân Cờ Đen đánh Tây, trong làng có những tay ngỗ ngược đã nổi tướng “tế cờ đi làm giặc” đêm nào cũng chiêu binh mãi mã hô “ba quân thiên hạ” ngoài đồng, bây giờ có lẽ cũng sục sôi như vậy, hơn vậy. Làng nào cũng thế, bề ngoài điêu tàn, nhưng trong lòng người thì nhốn nháo, xôn xao, nung nóng, đêm đêm giáo mác kéo ra.

Nhà ông Trương Ba cuối xóm vẫn là nơi hội họp bí mật. Từ khi đói, cố đạo ở Nhà Chung ở làng Đông không dám xuống, không biết bố con ông Trương đã chết cả. Địa điểm ấy thành một trạm liên lạc của Xứ 1 . Lạp ở ngay tại đấy. Trung bận nhiều việc khác, khi đi khi về. Cũng ở đấy, họp xã, họp tổng Việt Minh, nhiều khi liên miên thì thào suốt đêm. Chặp tối có hàng đoàn người, mỗi người một gánh nặng, không biết từ đâu lại tắt cánh đồng vào. Đó là người ở những cơ sở cứu quốc trong tỉnh, các nhà máy, các xưởng và ở các trại lính bảo an đã vượt nhiều chặng Nhật gác quảy ra trạm liên lạc rồi chuyển đi những máy chữ, cưa giũa, đạn các cỡ, khuôn chì đúc và giấy in báo, súng trường tháo báng, thuốc súng...

Họ đi, chặp tối đến trạm, có khi nghỉ lại, có khi đi ngay. Những tổ cứu quốc, đội tự vệ lại tiếp vai quảy ra bờ sông Cái. Ở đấy, cho hàng xuống thuyền, đi đường nước. Đêm nào cũng từng đoàn qua các cánh đồng, cả những đêm sáng trăng. Người trong làng nhìn ra, thấy đám người nhô nhốp, in bóng dài khắp trên bờ ruộng cao không lúc nào ngớt. Người ta lại đồn đấy là Việt Minh kéo đạo quân trên rừng núi đường ngược về đánh phát xít Nhật, quân về mang theo súng, lương thực, đêm nào cũng rầm rập, suốt sáng chưa hết. Người thì sợ, người thì mừng. Bọn tuần tráng, bảo an chỉ đứng trong khoanh tre trông ra. Khi những đám ấy đi thật xa rồi, ông khán thủ mới cầm canh lấy lệ, rúc lên một hồi tù và ngắn ngủn.

Trời vừa buông tối, có một toán gánh hàng về trạm. Trung đi họp vắng. Đã có hẹn trước, Lạp ra nhận hàng giao. Lạp nhấc thử gánh, thấy nặng và thoáng mùi khét, đoán là thuốc súng. Trong nhà không có đèn đóm. Năm người quảy hàng ngồi cả ngoài hè. Họ cầm nón, im lặng quạt. Nghe tiếng thở và hơi mồ hôi nồng nặc, biết từ xa tới. Tiếng nói nặng tựa tiếng Sơn Tây, nhưng không đoán hẳn được người vùng nào.

Lạp nói:

- Có chĩnh nước mưa ở ngoài sân ấy, các đồng chí ai khát thì ra uống. Chẳng có đèn, chẳng có nước chè đãi khách, tệ quá!

Một người trong bọn:

- Vẽ! Nước giời là tốt rồi! Không có đèn càng giữ được bí mật. Mấy lị đám cưới đâu mà cần tỏ mặt, phải không hai họ?

Trong bọn rinh rích cười. Một chị hỏi Lạp:

- Tôi hỏi câu này lộ bí mật, khí không phải...

Người bên cạnh khẽ nói:

- Cứ hỏi không sao!

Chị kia dường cũng không để ý, hỏi luôn:

- Đây có phải làng Hạ không?

- Phải, làng Hạ.

- Làng ta có ai tên là Trung?

- Trung nào nhỉ?

- Trung người ngăm ngăm đen, trạc ngoài hai mươi, răng trắng, hồi đầu đi làm thợ đấu lò gạch ở sân bay Bạch Mai.

Lạp ngẫm nghĩ, rồi nói:

- Ở đây làng công nghệ, không ai biết cày, cũng không ai đi thợ đấu. Mà không có ai tên là Trung.

Chị ấy thôi không hỏi thêm. Lát sau, cả năm người đứng dậy. Cử chỉ thân thiết và rất mới như nhiều đám khác, họ giơ nắm tay lên đầu chào rồi lại bắt tay Lạp, vác đòn gánh trở ra. Khuya, Trung về, cùng với ba người ở tổ cứu quốc làng dưới lên gánh hàng đi tiếp.

Lạp hỏi:

- Có gặp toán đi qua cánh đồng đấy không?

- Tối quá, chỉ đoán ba nam hai nữ.

- Phải đấy.

- Giao hàng rồi chứ?

- Giao rồi.

- Trạm ta cũng đi ngay thôi, sao tua rua đã ngang đầu rồi, khéo kẻo về thì sáng mất.

Lạp kéo Trung ra góc sân, thì thào:

- Có một chị trong đám ấy hỏi mày.

- Tao?

- Chứ lại ai!

- Sao lại thế?

- Chị ấy nói đúng tên, tả đúng hình dạng. Đen đen, răng trắng. Chỉ khác mỗi cái bảo mày một hồi đi làm thợ đấu lò gạch ở sân bay Bạch Mai. Tao không biết mà cũng giữ bí mật, không dám hỏi lại, tao chỉ nói ở đây không có ai là Trung.

- Người trông thế nào nhỉ?

- Tối không thấy, nhưng mà là đàn bà con gái. Thôi đi anh ả, đúng anh ả rồi, có gì thì khai ra.

Trung điềm nhiên bảo Lạp:

- Nhầm tên thôi. Tao có làm thợ đấu bao giờ!

Rồi hai người trở vào nhà hút thuốc. Nói vậy, nhưng Trung đương bồi hồi. Cô Gạch, đúng là Gạch. Cũng không lạ. Thế ra cơ sở xóm lò gạch ấy đã phát triển mạnh thế, Gạch cũng giác ngộ rồi. Đấy chắc là những gánh thuốc súng của binh lính đã lấy được trong sân bay ra, giao cho thợ lò gánh đi. Trong một lúc, Trung thoáng nhớ lại Gạch. Không như mọi khi thấy bóng dáng một người con gái luống tuổi, răng vẩu, nịnh tính, chỉ thèm lấy chồng. Bây giờ hình ảnh Gạch làm cho Trung thấy người con gái ấy có duyên thầm và tấm lòng chung thủy.

Mơ màng, Trung hỏi Lạp:

- Họ về chưa nhỉ?

- Về từ tám hoánh, đằng ấy đi đường đã gặp đấy thôi. Mê bóng người ta rồi à?

Trung cũng tự thấy buồn cười phút đãng trí thơ mộng.

- Ừ nhỉ, chúng ta đi nào.

Cả Lạp và Trung, năm người gánh thuốc súng ra bờ sông. Một người tay không đi trước dò đường. Như một toán buôn lậu, họ biến vào bóng tối nhập nhoạng.

Rồi mấy hôm sau lại chỉ có Lạp ở nhà. Trung càng đi vắng luôn. Khi vào khu tập quân sự, khi lên tỉnh. Lạp đã thay hẳn Trung phụ trách trạm liên lạc.

Càng rộn rập người qua lại, cả nhiều người ở tỉnh ra, bàn chân chưa đi đất bao giờ còn nổi gân xanh và những người ăn mặc lạ, tiếng trọ trẹ xứ Nghệ. Chỉ trông khách qua lại trạm liên lạc cũng thấy ra mọi hoạt động. Càng ngày càng nhiều các thứ đem đến, đưa xuống bờ sông nửa đêm chuyển lên chiến khu, trong bóng núi Ba Vì, Tam Đảo xa xa.

Buổi trưa, thoáng có người qua ngoài bờ ao vào. Lạp vội cất mấy hòn đá li tô bọc lá chuối khô vừa đem về hồi đêm, vẫn để đấy. Lạp đương bưng mảnh đá, nhìn thấy Hai Tâm quảy đôi thúng thủng thỉnh vào. Cái dáng tay vắt vẻo, nhận được ngay.

Hai Tâm ríu rít nói:

- Thôi mà, thôi mà. Việc gì phải cất dọn, người quen đây chứ ai đâu.

Lạp đứng ngớ ra, vì sợ. Tuy đã nhác mắt ra ngoài không thấy có người vào theo, và, Lạp tin ở tổ tự vệ canh gác, nhưng Lạp cứ cầm nguyên cả miếng đá, mắt thao láo không chớp nhìn Hai Tâm.

Mấy năm nay, Hai Tâm bỏ làng đi với Khiết. Lúc đầu, cả làng xôn xao, nhưng rồi cơm ai người ấy ăn, chuyện cũng đến nhạt. Hai Tâm bặt mất, sau cũng quen dần.

Thỉnh thoảng, đôi khi chị Hai có tạt về làng. Một lần, chị Hai thuê người nhắn thằng Tâm ra cổng đồng. Tâm trông thấy mẹ, Tâm khóc. Nhưng sau Tâm cáu kỉnh, có lần chửi thằng Khiết bố mìn, chửi mẹ, xé áo, yếm mẹ. Cả hai mẹ con lại khóc, rồi mẹ cho con tiền ăn quà, mẹ lại đi. Tâm ở với bà nội. Cháu đích tôn dòng họ bố nó. Chị đã ra người ngõ ngoài rồi. Có lần chị Hai gọi con ra cổng đồng, bà lão Đôi biết, bà vác gậy ra đánh chửi chị. Hai mẹ con táo tác vừa chạy vừa khóc. Nhưng, bao giờ chị Hai cũng chạy đi, mà thằng Tâm thì chạy trở lại trong xóm.

Hai Tâm ở đâu, không ai rõ. Chị Hai thường về làng vào buổi chiều, buổi tối và không một lần nào có Khiết. Người ta bảo thằng Sở Khanh đã đem ký chị ta ở ngoại ô trên đầu tỉnh. Khiết làm ăn gì, có vợ con khác hay là còn chim chuột quàng xiên đám nào, chị Hai không biết. Chị Hai ở cái xóm xa lạ ấy như ở trong lồng. Người lối ngõ coi chị là vợ lẽ của một lão có của, tính hay dăng dện, lại có con vợ cả Hoạn Thư. Khối người ở lậu như thế trong ngõ. Những vợ con lính tráng, những cô đầu hoàn lương, cô nào cũng nhong nhóng đợi lương tháng của những thằng đàn ông cõng mình đến chốn ấy.

Nhưng chị Hai quen làm ăn, ngồi không ngứa chân ngứa tay, không chịu được. Chị xoay ra làm hàng bánh chưng, buôn quả quít, củ đậu, hồng bì, bán dông dài mùa nào thức ấy. Ngày mới bước chân đi được ít lâu, chị Hai đã cảm mình như con Kiều mắc tay bợm già rồi. Nhưng đâm lao đành theo lao, nấn ná, tính toán. Rồi ngày lại ngày...

Dẫu sao, việc của người ta, đời người ta, chị ấy đi theo giai là tại chị ấy đi theo giai, chẳng mảy may bận đến Lạp. Bây giờ thì Lạp giật mình: con Hai Tâm vợ thằng mật thám Khiết trên tỉnh. Nó mò về, lại vào tận đây, lọt qua cả tổ tự vệ. Nó định kéo Nhật về bắt cách mạng hay sao?

Hai Tâm đã lại lả lớn tươi cười:

- Kìa anh đồ, cất hòn đá đi chứ. Hay đem ghế đá ra để mời khách ngồi cho quen mùi nhà đá 2 thì bảo nào.

Lạp tái mặt vì câu pha trò ghê rợn. Lạp dựng mảnh đá li tô xuống chân cột, hai tay lăm lăm co lại. Định trêu gan, định chỉ điểm dò xét, hay vốn tính đĩ thõa quen bỡn cợt thế? Ả vẫn vừa nói vừa cười. Lạp cáu lắm. Được, Lạp sẽ vặn trái cánh tay ả. Nhưng tay chị Hai Tâm đương giơ ra đưa cho Lạp một mảnh giấy gấp tư.

- Tôi chẳng biết chữ mù nào, anh xem hộ cái.

Lạp hầm hầm, cau có cầm giấy. Nhưng nét mặt Lạp lại giãn dần ra, trong khi Hai Tâm liếc nhìn trộm Lạp, đôi mắt tinh quái một vẻ thú vị. Vì đó là giấy giới thiệu “chuyến hàng” của một cơ sở ở tỉnh gửi ra trạm giao thông này. Hai Tâm là Việt Minh, Hai Tâm quảy tài liệu Việt Minh. Quá sức tưởng tượng! Nhưng Lạp đã dịu mặt và bây giờ Lạp mới nhận thấy, dù mấy năm dầu dã, chị ta vẫn ve vé không khác mấy với ngày Lạp dệt cửi ở đấy. Lại con mắt, lại cái cười, vứt đi không hết lẳng!

Lạp nói:

- Chị hẵng ngồi chơi.

- Cái giấy ấy thế nào thì hãy bảo người ta ngồi chứ.

- Được rồi.

- Được rồi là thế nào?

Chị Hai lên giọng hạch:

- Ô hay, sao không cất hàng đi, để tênh hênh thế này a? Làm hội kín mấy năm nay rồi mà vẫn hở thế?

Dù miễn cưỡng thì Lạp cũng phải bê hai cái thúng ấy giấu ra bụi cây sau nhà - như mọi tài liệu khác. Lạp mở qua xem thấy toàn các cuộn giấy xanh như giấy in báo và truyền đơn. Rồi Lạp ra, định hỏi câu nọ câu kia. Nhưng Lạp lại thôi. Trước kia Lạp cũng có lúc trò chuyện với chị Hai. Nhưng Lạp thì đụn và hiền lành, chị ấy táo bạo, xấn xổ. Và cái nghi ngại chị ta đi theo mật thám Khiết vẫn nhoi nhói trong đầu. Thành thử, Lạp bần thần không biết chuyện thế nào. Nhưng sau áy náy, cũng tò mò:

- Hồi này chị Hai làm gì?

- Buôn nhằng bán nhịt qua ngày thôi. Tôi cũng sắp về ở làng.

- ... Ấy có về không?

- Toi rồi.

- Chết à? sao thế?

- Đã bảo toi mà lỵ.

- Hừ... Bao giờ?

- Mới.

- Hừ!

- Hừ với hầm nỗi gì! Vẫn nhấm nhẳng cau có như cái thói ngày trước ấy thì mang tiếng Việt Minh tài giỏi chỗ nào. Anh còn cái tội đã ở nhà tôi mà không bảo cho tôi biết chữ, biết chính trị tý gì.

Chị Hai lại cười. Môi, má đỏ đậm. Đôi mắt lá dăm mơ màng lừ đừ vì miếng giầu thuốc đương cay. Mà chị ta không buồn bã lo lắng. Cũng chẳng áo xổ gấu khăn khố đâu, mặt mũi cứ nhơn nhơn. Lạp băn khoăn thế, lại hỏi một câu ngẩn ngơ:

- Chị định về lại làm cửi à?

- Anh này chuyện như người Âm Phủ. Giờ mà cửi canh nỗi gì. Làm cái hàng quà nước đầu làng. Tôi đã đút tiền, lý Dĩ cho làm rồi. Bao giờ tiệt giống giặc lùn, Việt Nam độc lập thì mới lại làm cửi. Anh lại về dệt cho tôi. Nhưng đừng để sáng nào tôi cũng phải chạy khắp làng đi tìm. Nói đùa chứ, bấy giờ anh Lạp đã tiến bộ lên đường tranh đấu mãi đâu, ai lại chịu ngồi xó dệt cửi! Này thôi, giờ tôi còn phải đi...

- Thế hả?

- Thế anh quên không cho giấy biên nhận của trạm, tôi về ăn nói với các đồng chí thế nào.

Lạp cười dễ dãi:

- Thì giấy đây.

- Anh viết thế nào nào? Mù chữ nên phải hỏi làm cái đạo chắc. Ngượng chết đi, lần nào đem hàng đi cũng phải giở mẹo hỏi.

- Viết trả lời “bác xã Toản” rằng tôi đã nhận được đủ số bánh thuốc lào của bác gởi nhờ bán hộ.

- Úi giời, thế mà từ nãy không viết ngay cho người ta, cái nhà anh phải gió này!

Chị Hai đã đi khỏi một lúc, mà Lạp còn nghĩ theo. Vẫn thế, cái dáng nho nhỏ, tiếng lau chau, hay cười. Cùng một lúc, Lạp lo. Thằng Khiết là thằng chó. Nó đã chết hay còn sống. Nghe nói thế thì nó toi rồi. Con mẹ Hai là ta hay nó là mật thám? Nhưng tài liệu đầy đủ, cả một gánh giấy và tín hiệu, khẩu hiệu thì rõ ràng. Nghi hay không? Có thể xảy ra lôi thôi chăng? Cẩn thận, phải cẩn thận. Tốt hơn hết, tối nay hãy ra nằm ngoài đồng.

Lạp ra đồng ngủ, đem theo túi ngô rang. Mấy lâu nay, mỗi ngày làm một nắm ngô rang, chiêu ngụm nước lã. Lạp vẫn miên man nghĩ về những người giác ngộ, mỗi người một khác. Hiền thoáng hiện, lại mờ đi trong chua chát, bùi ngùi. Nhàn, Nhàn ơi! Làm sao cho nguôi được, đêm nay Nhàn lại về với anh. Nguồn cơn khủng khiếp, thương đau vẫn như mới đêm qua. Nhàn mà còn sống thì chị em cứu quốc làng ta chắc sẽ nhiều hơn đông hơn. Đêm mùa hè ngồi đồng rộng, Lạp nằm ngửa trên cái bệ thờ ở miếu ông thần gò trông lên, trời đầy sao, ánh sao rơi xuống bóng tối cánh đồng, gió vuốt như bàn tay ai mơn man qua mặt.

Rồi Hai Tâm về làng ở thật. Chị Hai đã về quì lạy xin bà Đôi tha tội. Những khi chửi rủa đuổi đánh chị thì sao bà lão dữ dội thế, mà bây giờ chị Hai về lạy bà, bà mủi lòng thương ngay. Bà lão nghĩ: “Nhà ta người hiếm của kiệm!” Thế là chị Hai đưa thằng Tâm ra tỉnh, đến hôm về, mẹ quẩy đôi thúng đi trước, Tâm đeo cái bu đựng mấy con gà lóc nhóc theo sau.

Bà lão Đôi mua thẻ hương ra miếu lễ tạ. Dù rằng lạy thánh đã mấy năm, nay mới được linh ứng, nhưng bà giữ như năm trước đã mang mũ mã ra lễ, bây giờ dù khó khăn đến thế, bà lão Đôi lòng thành, cũng chạy được mấy nén hương. Gặp ai bà cũng kể giáo đầu: “Này, cái ma cái quái nó ám nhà Hai, giờ mới bói ra khoa thấy. Nó mình cao số nặng, tôi thì trước cũng như sau, tôi thương nó...” Những kẻ độc miệng nói: “Thương miệng thương môi, ả nọ còn tiền nên bà lão mới hỉ hả thế. Ai lạ gì, thời buổi này...”

Hai Tâm xin làng cho góc cái cầu để mở hàng quà. Cứ làm thế nào kiếm ra ăn là được, chẳng ai còn rỗi hơi cười. Chị Hai đánh liếp bịt nửa gian cầu lại. Nhà bà Đôi đã phải rỡ bán để ăn chạy đói gần hết, chỉ còn một chái. Mẹ con chị Hai ngồi hàng và ăn ngủ ngay ở cầu. Đôi khi khang trang nhất hàng có nải chuối và cái mẹt độ chục chiếc bánh ngô đổ ra khuôn bát mỏng như cái lưỡi mèo. Rồi thì, lại những món ăn quen của mùa đói kém: nộm củ chuối, cám nấu muối, đu đủ xanh, một chồng bánh khô dầu. Tuy vậy, nhà hàng cũng trữ một vò rượu ngang cất trong nhà. Buổi chiều ngày phiên chợ lụa - chẳng nhà nào còn một khung cửi - nhưng người ta vẫn quen lệ, đến chiều phiên, không hiểu vì sao đói chết lăn ra bao nhiêu thợ cửi tơ trai trẻ thế mà có mấy cụ khọm vẫn sống sót, lại lần ra mua ngụm rượu, rồi ngất ngưởng ngồi hàng buổi, tưởng nhớ những chuyện về khi hàng đắt, chiều tà tà này đầu làng ầm ĩ trong quán thịt chó, hàng nước chè tươi và hơi rượu sực nức tỏa theo tiếng cười nói râm ran.

Chưa lần nào Lạp vào quán chị Hai. Một lần, chị Hai gọi Lạp, hỏi:

- Anh Trung về chưa?

Lạp sửng sốt. Nhưng, nhớ ra chị Hai vừa đi giao thông mang “hàng” thì Lạp trả lời nước đôi:

- Lâu không thấy.

- Mình cần gặp tướng ấy hỏi một cái. Thấy về thì bảo ngay nhé.

Những lời lẽ ăn nói chớt nhả, táo bạo. Lạp nghĩ: “Con mẹ này cho ở trại con gái làm binh vận thì khéo”.

Trung về. Mỗi lần Trung đi về, thế nào cũng có những cái mới, những sôi nổi công tác mới. Trung ghé tai Lạp khoe:

- Thằng Khiết chết rồi.

- Thế ra ông giời có mắt, ông giời cũng theo cách mạng! Nó chết thế nào?

- Đội Danh dự 3 khử.

- À...

- Này cậu, cái nhà Hai Tâm ấy cũng góp một tay tiêu thằng Sở Khanh.

- Thảo nào! Nói tỉnh như không. Khá thật.

- Chính nó ở đội Danh dự, vợ con mật thám cũng giác ngộ. Thằng Nhật hết người rồi.

Trung kể việc Khiết chết. Các sở, ty mật thám, đảo chính rồi, Tây mất ngôi, giao chó săn lại cho hiến binh Nhật. Những mật thám Sinh, Cai Long ở Hà Nội, những Đỉnh, Phong già ở Nam Định đều được Nhật cho lên chức to. Khiết càng quan trọng, lại ung dung bốt lửng, quần áo Nhật ka ki vàng, thuốc lá thơm phì phèo. Cơ sở cứu quốc trong cái ngõ đầu ô cổng tỉnh đã giác ngộ được chị Hai. Ai cũng hiểu nghịch cảnh của chị Hai, chẳng qua chị trót dại, đành liều. Khiết đặt mỗi nơi mỗi vợ. Thường nói ra miệng: “Tao có trong tay sáu con nàng hầu ở sáu tỉnh. Đứa nào tử tế thì ông cho tiền, đứa nào hư, chim giai thì ông đánh”. Khiết đã mấy lần bệnh tim la, chẳng thể có con, nên Khiết cáu, lại càng hay đánh vợ.

Trước kia, chị Hai cũng không để ý công việc Khiết. Khi bước chân theo Khiết, tưởng nhà nó làm ba khung cửi, đến lúc biết bị lừa, chị Hai cũng đành nhắm mắt. Người đàn bà hay sẵn sàng chịu một bề, chị nghĩ cầm bằng đời mình đã trót vớ phải cái đứa đốn mả. Từ đảo chính Nhật, Khiết đi biệt hàng tháng, khi về nhà lại kéo theo một lũ đến đánh bạc, uống rượu ầm xóm. Chính bọn họ đã kháo với nhau: Khiết sắp quắp được con gái ông Hai Cua 4 chủ sòng bạc - “xừ Khiết bây giờ dựa Nhật quyền thế ghê lắm”.

Chị em biết tình cảnh Hai Tâm, đến lân la chuyện, rồi đọc sách báo cho nghe. Hai Tâm đã hiểu chỉ có cách mạng mới đem đến sự thay đổi. Cách mạng mới cởi cho người ta mọi cái đau đớn. Chị Hai như người đau mắt, vừa cắt quang được màng mộng.

Trung nói:

- Đến khi trên quyết định cho địa phương tiêu thằng Khiết, chị Hai đã thành một tay đắc lực. Bây giờ, trên cho chị ấy về làng giúp chúng ta. May, ta đương cần. Phong trào phụ nữ còn ọp ẹp lắm. Mai cậu ra thảo luận với chị ấy rồi đưa sang sinh hoạt với tổ phụ nữ thôn dưới.

Lạp nghĩ về những cái khác ở Hai Tâm. Có người ở ngay bên cạnh, hàng ngày không để ý, nay khác trước, nhiều khi ta ngạc nhiên. Lạp không thấy ngại chị Hai như cái đêm nằm ngủ ngoài đồng nghĩ thế nữa.

Trung bảo:

- Chúng ta chuẩn bị họp Việt Minh tổng. Có nhiều nghị quyết quan trọng, tình hình biến chuyển mau lắm. Vùng ta phải quét sạch chó thì mới đỡ lo. Xem có những mặt nào.

Đã nhiều lần bàn khi điểm đến “những mặt nào” thì các tổ đều nói như nhau: Chúc, lý Dĩ, cai Giắt. Rồi cũng nhiều lần cân nhắc về từng trường hợp ba người ấy.

Lý trưởng Dĩ thì chỉ làm ác thôi. Lão ta có tội giết người. Nhưng là cuống quá, lão tra sổ phun văng mạng ra ông nhiêu An trùng tên, chứ không phải lão đem nộp Việt Minh cho hiến binh Nhật - như người ta đồn. Và cái tội của lão ta xưa nay hay bắt nạt những kẻ thân cô thế cô và dân ngụ cư. Cái ngày ta phòng thuế, lão phải bán một cái vườn tre để nộp đậy vào đấy. Những chức dịch đất công nghệ chỉ quỵ lụy đồng tiền và là đầy tớ nhà giàu, không hét ra lửa như chánh, lý các nơi thuần quê, xa phủ xa tỉnh. Như người ta thường nói là người có của mua chân lý hào, mua hương, mua nhiêu khỏi phu phen tạp dịch ung dung sướng bằng vạn những thầy lý, ông chánh cả đời đem đầu cúi luồn cửa quan. Hồi này, từ khi làm nhiêu An chết oan lý Dĩ sợ lắm, cả ngày không dám ra ngõ. Cái hạng chánh, lý như lý Dĩ chỉ ném cho một cái truyền đơn đã rúm khoeo, không biết có nên thủ tiêu không.

Còn cai Giắt? Người bảo làm phản, người nói đã thành mật thám, không biết thật thế nào. Cũng không ai rõ đích xác hay chỉ bởi bác mất tinh thần, bác xấu hổ, bác sợ việc mà không liên lạc với ai nữa. Lần cuối cùng cai Giắt đến họp tổ, ấy là hồi sắp đói tràn lan, mỗi khi vào được nhà gọi cai Giắt, là một khó khăn. Mụ vợ thần nanh đỏ mỏ lại chửi bóng gió. Có cuộc họp liên xã của phụ nữ, tổ tự vệ cắt cai Giắt canh gác. Bác ta vùng vằng: “Ở nhà ông làm mê lên không hết việc, hơi sức đâu mà ra gác cho giai gái chúng mày chim chuột nhau”. Thế là cai Giắt bỏ về, từ ấy gọi cũng không đi nữa. Rồi đó, rồi tan tác. Nhà cai Giắt phải bán dần mòn, mặc dù bác ấy xoay xỏa đủ vành. Khi đi quảy hàng thuê, khi thì lên tỉnh kéo xe. Người quen gặp, bác tránh mặt. Không hiểu vì làm điều gì khuất tất hay xấu hổ vì đeo cái đèn kéo xe thu lu đằng đít?

Nhà bác cai có hai vợ chồng và bốn con bé. Cả nhà đói. Chỉ mỗi đứa con trai nhỏ được no. Bố mẹ gầy nhom, ba chị gái những đôi mắt trong leo lẻo đếm được từng cái xương sườn. Cả nhà ăn cám, không đứa nào dám động đến nắm cơm để phần “chú”. Người trong nhà cốt sống để thấy thằng bé con trai bụ bẫm. Nhưng chẳng may, trời trở gió, cu bé sốt, đi ỉa rồi chết.

Bác cai Giắt là người chỉ biết vui không biết buồn, thế mà nằm liệt nửa tháng, không nói một câu. Khi trở dậy, bác lại giắt cái đèn sau đít quần, lên tỉnh kéo xe. Thỉnh thoảng lắm mới tạt về làng, đem cho vợ và ba đứa con gái một mẻ cám, một mẻ ngô - tùy từng khi. Bác gầy rộc không nói, mặt đen như cơn mưa.

Có người bảo trông thấy cai Giắt đội cái mũ một mẩu của lính Nhật, tay cầm chiếc côn gỗ, như những người Cao Ly trong đám lính Nhật, toàn cầm côn dắt ngựa, không được cầm súng. Thế thì mũ ấy côn ấy đi ăn mày hay đi lính Nhật? Không biết. Dù sao cũng phân vân, nhiều cái chưa rõ nhưng cái nào thì cũng chỉ những ai oán mà thôi. Không nỡ.

Lạp hỏi Trung:

- Còn thằng Chúc?

- Đã báo cáo lên tất cả, đợi ý kiến trên. Làm thế nào sửa nó cho gọn như vùng trong tỉnh đã thịt thằng Khiết. Trách nhiệm cả ở cậu đấy.

Lạp ngần ngừ.

- Hỏi trên có lâu không, Trung?

- Nếu phải quét dọn sạch sẽ ngay thì chắc không lâu. Cậu thấy thế nào?

Lạp đáp:

- Không.

Nhưng Trung đoán Lạp có vẻ ngại.

Tình hình chuyển biến, mỗi lần các tổ họp đọc báo Cứu quốc, báo Cờ giải phóng, ai cũng bồn chồn. Tin tức các chiến khu, các nơi rầm rộ. Tỉnh Nguyễn Thái Học tuần hành thị uy võ trang vừa đi vừa ca hát cách mạng, tỉnh Tán Thuật mít tinh tịch thu đồng triện sổ sách của lý trưởng và các chức dịch, Lý Thường Kiệt và Ngô Quyền 5 phá kho thóc; ở Bắc Giang, Việt Minh đã đánh chiếm huyện lỵ, bắt tri huyện, thu súng ống, giải thích cho anh em binh lính rồi tha. Trận hạ đồn trên núi Tam Đảo vẫn trông thấy đây kia đã diệt hết quân Nhật cứu được một số người Pháp ở Hà Nội bị Nhật đem lên giam trên ấy. Cao, Bắc, Lạng và Thái, Hà, Tuyên sáu tỉnh đường ngược đã thành khu giải phóng, bầu ra các ủy ban nhân dân cách mạng.

Ở trạm liên lạc, hàng đi qua, mỗi lần mỗi nhiều, người lấy giao thông ban ngày đưa ra bờ sông ngược lên chiến khu nhộn nhịp hơn hẳn trước. Các bộ phận cơ quan của Tỉnh, của Xứ dần dần từ các vùng trong chuyển ra áp gần các thị trấn, ở những chỗ đông đúc, trà trộn người qua lại. Một cơ quan “ấn” 6 về, chuyển đồ đạc vừa tải đến. Quảy xuống làng dưới hai bồ những đá, những ống lăn, hộp mực, giấy in.

Ở trạm đón một chuyến đồ nữa của cơ quan “ấn”, nhận xong, rồi Lạp mới đi. Từ chiều, một cơn mưa lớn ập đến. Nhà cửa, cây cối, cánh đồng cuốn vào trận dông xoáy giựt lên, rồi thì mưa như ném nước xuống và tối liền ngay lúc ấy. Nhưng, ngủ được một giấc thì tạnh mưa. Và những khi cuối hè sang thu, trời đất hay đột nhiên. Từ cuối xa kia chuyển đến từng mảng trời sao le lói sáng rợn dần dần tràn ra khắp, đuổi những tảng mây cuối cùng bay thấp là là rạt về phía tây. Thế là trời trở lại một đêm mùa hè sáng sao, bất cứ bình yên hay loạn lạc, no hay đói thế nào, bao giờ mặt đất cũng ngây ngất dậy lên mùi hoa thiên lý, hoa mộc, hoa sói tỏa ra ở các bờ rào, các đầu vườn, càng khuya càng ngào ngạt lan xa.

Từ giữa cánh đồng hiện ra một đám người đi vào cuối xóm. Đấy là những tự vệ làng dưới chuyển đồ đạc cho cơ quan ấn về trạm.

Họ đã đi từ lúc mưa sang lúc tạnh rồi đến khi trời đầy sao. Không gặp một ai. Không bóng một người tuần. Tuần đinh, bảo an làng này, nhiều người đã vào Việt Minh. Anh nào sợ, tối tối phải đi tuần chỉ lên ngủ trên chòi gác rồi rút thang không ai trèo được. Có anh nhát quá, nằm ngay trong nhà, treo cái tù và lên đầu giường chốc chốc lấy xuống, thổi một hồi. Từ đã lâu, chẳng một ông trương, ông khán, chẳng có ông phó lý nào đương đêm đi đốc tuần nữa.

Đám người ấy vào đến tận trong sân, mà trước mặt vẫn tối om như cái gò đất.

Trung đã quen bóng, chạy ra.

- Sốt ruột quá. Sao chậm thế?

- Trời mưa khó đi. Lắm lúc ếch kêu như người quát trước mặt, phải đứng lại nghe.

- Có ai về không?

- Không, chỉ có hàng.

- Cho dỡ xuống thôi.

Hàng là mấy cái bồ con con, vừa bỏ vào trong nhà đã xong. Đám người không ai trông thấy mặt ai, lại đi ngay. Công tác nhiều, họ đi việc khác, cả đêm. Bóng người lại lẫn vào tiếng ếch nhái uôm oạp ven bờ ao.

Trong nhà tối, chỉ còn có Trung và Lạp. Hai người im lặng dọn những cái bồ gọn vào góc nhà. Xong đâu đấy, Trung nói:

- Ta cũng sắp đi thôi, kẻo giăng lên. Trên đã trả lời tổng, cho thịt thằng chó Chúc. Địa phương sẽ làm lấy.

Trung đã bàn nát đất với Lạp và từ hôm qua, lo liệu, sắp sẵn.

Chúc nghiện rượu, nhưng ít uống ở nhà. Chúc hay uống rượu vụng, giấu vợ. Chúc thường vào quán, uống buổi sáng, nhưng không nhất thiết vào hàng nào. Chúc không muốn ai biết mình uống rượu ngữ - đương lúc đói kém, tiền đâu mà rượu luôn. Vả chăng, la cà chỗ nọ chỗ kia, cũng là thói quen của Chúc. Từ khi Hai Tâm về mở quán, Chúc hay ra ngồi hàng chị vào những sáng phiên chợ.

Họ đã bàn với chị Hai, hạ thằng Chúc ngay ở đấy. Chị Hai chỉ cười, gật đầu.

Tối nay Lạp ra hàng chị Hai trước.

Lạp hỏi lại Trung:

- Có gì khác không?

- Không. Cứ như ta đã bàn.

Đã mấy lần nói lại rồi mà còn hỏi có gì khác không. Sao Lạp phải hỏi thế? Im lặng. Tiếng ễnh ương gào ngoài bờ ao đưa vào váng tai. Trung đã đoán đúng. Càng dịch đến phút cuối, Lạp không nói ra, nhưng Lạp ngại. Mấy lần ngay lúc Trung nói về nhiệm vụ, Lạp tưởng có thể cầm con dao đâm suốt ngực thằng Việt gian, thế mà sau lại nghĩ lại, Lạp có thể đánh Chúc - có thể nện cho nó ốm đòn, đấm vỡ cái kính cho chảy máu mắt nó, bẻ gẫy tay nó. Nhưng bây giờ, cách mạng không cho thằng Chúc ở trên đời này nữa. Không, Lạp không xót thằng Chúc, Lạp còn thù nó là đằng khác. Nó đã đem thân làm chó thì nó phải chết, chết như con chó. Nhưng chính tay Lạp sẽ khử nó thì Lạp phân vân.

Trung thấy phải nói lại, nói thêm với Lạp:

- Ta cứ nên bàn kỹ nữa. Đây là nhiệm vụ to nhất của chúng ta. Ta kể là to, bởi vì ta chưa làm thế, chứ bọn đế quốc Tây Nhật thì từ xưa tới nay nó đã giết đồng chí, đồng bào ta biết bao nhiêu mà kể. Đây ta mới trừ được có cái tay sai, chưa mùi gì. Lạp có sốt ruột không, nếu lệnh khởi nghĩa ra một cái, chúng mình đều cầm súng xông lên bắn phát xít Nhật và chó săn. Vậy có cơ hội thế này, được quen với chạm trán kẻ thù.

Rồi Trung vỗ vai Lạp:

- Này cái nhà Hai Tâm mà ghê nhé. Một tay nó tiêu thằng Khiết đấy.

- Á!

- Mẹ ấy bóp dái, thằng kia chết thẳng cẳng. Một đồng chí khác bổ cho nó một nhát búa vào giữa trán.

- Gớm chưa!

- Trùm tờ rốt kít cũng bị vô sản thế giới cho một búa vỡ sọ như thế. Thủ tiêu có kiểu cả đấy.

- Khá thật.

Tiếng ễnh ương sau cơn mưa lại dội lên, vang vang bên tai. Lạp không bùi ngùi thoáng lại hình ảnh Chúc hay mặc cái xà roỏng sặc sỡ. Mà Lạp đương nghĩ theo câu Trung nói, ghê cho cái nhà chị Hai gan liền. Đột nhiên, Lạp nhớ rất rõ lại một lần trước hôm mít tinh chợ Cầu, hồi ấy Ba còn sống, Lạp với Ba đi trong làng, nghe tình hình, giữa đám rượu ở quán, Chúc cà nhau lối khiêu khích với hai người, Lạp đã đe “mày là thằng tờ rốt kít, ông đánh vỡ sọ mày”.

Vừa hay, Trung chợt hỏi:

- Có phải cậu đã dọa đánh vỡ đầu thằng Chúc? Chắc bây giờ cậu nhớ chuyện anh Bân kể ngày trước vô sản thế giới đã đánh búa chết tờ rốt kít chứ gì.

Lạp đáp:

- Phải đấy.

Nói xong, Lạp thấy hăng hái có thể choảng Chúc một búa ngon như thế.

Trung thì thào:

- Tớ đem cái “tỏi gà” về đây này.

Trung đặt vào tay Lạp khẩu súng lục cỡ 6,35 hiệu Bờ rô ninh 7 . Khẩu súng bé xinh, đen nhánh như một hòn đá ném chó, lạnh mát trong lòng bàn tay Lạp. Một lần ở chợ Cầu, Lạp trông thấy một chị cán bộ lên diễn thuyết giắt thắt lưng một cái súng lục bé bóng nhoáng thế này. Mỗi lần chị ấy giơ tay, mới thoáng thấy trong sườn áo.

Lạp thích ngay từ bấy, cách mạng ta đã có súng, ước gì có thể xem một cái. Bây giờ được cầm thật, Lạp cảm động, hấp tấp hỏi:

- Có súng này kia à?

Trung nói:

- Đưa cho đằng ấy ngắm thôi. Xử thằng này cũng chưa cần đến súng, phí. Đạn để cho thằng Nhật ăn hơn. Lúc cậu vật nó xuống, mình cho nó chén cái này.

Lạp lại mó vào thỏi sắt Trung vừa giơ ra. Thỏi sắt bù loong, có cái đinh ốc vấu ra như đầu búa. Lạp nói:

- Cái này chắc lắm.

Trung có cảm tưởng Lạp đã khác lúc nãy.

Hai người đi thẳng lối cổng làng. Nhưng, tránh điếm canh, họ vòng ra sau đình, xuống cầu hàng Hai Tâm.

Ba tiếng gõ khẽ vào phên nứa. Ngay lúc ấy, tiếng chị Hai ló ra, như vẫn đợi sẵn trong cửa:

- Các anh à...

Trung nắm tay Lạp, nắm chặt, như hai người từ biệt nhau, như sắp đi xa. Lạp lách vào cái phên vừa mở hé. Trung quay ra.

Trăng đã lên đến lưng cây đa. Tiếng ếch nhái trong các bờ ao lúc nãy sau mưa còn uôm oạp, giờ đã dịu dần, rồi tan mất vào bầu trời trong vắt. Sáng trăng lóng lánh trên những tụm lá nhãn đẫm nước mưa. Trên đầu hồi cầu, chỗ ở của chị Hai ngăn với nơi bán hàng một cái phên liếp, có một vũng trăng sáng lọt vào đọng lại.

Mắt Lạp đã quen với bóng tối lờ mờ, một khoảng choen hoẻn bằng hai sải tay, đằng kia là gác bếp, đằng này có mấy thanh tre bắc ngang mặt đất, chỗ chị Hai ngủ.

Thằng Tâm còn thức, ngồi chồm hỗm. Nó nắm tay Lạp kéo ngồi xuống. Như đã hẹn từ trước, không ai nói. Bởi vì cái quán ở ngay bên đường cái. Lạp ngồi tựa cột, cạnh Tâm. Chị Hai ra nằm ở cái phên gian ngoài. Chị Hai trở vào, dúi tay Lạp một gói hai cái bánh ngô. Lạp ngước lên, thấy trong bóng tối lẫn lộn ánh trăng hai con mắt long lanh. Tự dưng, Lạp thấy lo ngại, phấp phỏng. Thằng Tâm ngồi cạnh, đưa cả chiếc bánh ngô vào miệng anh. Rồi Lạp nằm xuống, bên thằng Tâm, trên những cái dòng tre lủng củng. Trời khuya êm, man mát. Nhưng, trong nhà lúc bấy giờ dường như im lặng một cách bức bối, gượng gạo. Lạp cố nhắm mắt, không nghĩ. Chỉ có thằng Tâm đã ngáy ngon lành, một chân gác lên bụng Lạp.

Bỗng Lạp trờn trợn. Lạp thấy một bóng người. Không ngạc nhiên, Lạp hé mắt nhìn chị Hai. Điều nghi ngại quả nhiên đương chập chờn vào.

Chị Hai đến trước chỗ Lạp nằm thì ngồi xuống. Chị ngồi lâu lắm. Lạp trông lên không rõ chị ngồi quay ra hay quay vào, chỉ thấy hình vồng hai cái vai, thì Lạp đoán chị ấy cởi trần. Lạp sợ thêm. Lạp rờn rợn nhớ lại ngày trước, sáng trăng như thế này, những đêm dệt cửi đầu hôm khuya, chị xuống ao tắm xong lên vẫn cởi trần đứng quạt trước sân, bên bụi hoa đơn. Chưa bao giờ Lạp để ý chị Hai, dù Lạp biết hồi Lạp dệt cửi nhà chị ấy, chỉ ới một tiếng cũng ăn thua. Nhưng Lạp không ới. Người ta phải lòng nhau không vì dễ hay vì khó. Khi bé, bà mẹ thủy chung một đời của Lạp hay kể những chuyện xấu về đám gái góa, đám lộn chồng, Lạp sinh ghét từ đấy những người như chị Hai.

Cái bóng trước mặt dần dần áp lại. Hơi ấm nồng trùm lên bóng tối mát dịu lúc nãy. Trước mắt Lạp chỉ còn đọng lại một màu đen sẫm. Chị Hai dần dà sát đến tận nơi. Chị lại ngồi như thế lâu lắm, lâu lắm. Rồi chị cúi xuống, Lạp nhắm mắt lại. Nhưng Lạp vẫn thấy rõ làn môi, hơi thở cái miệng nóng rực hơ là là trên cổ, trên mặt và suốt cánh tay, bàn tay - hơ đến đâu, người Lạp dợn đến đấy - rồi lại lơ lửng bay xa đi. Lạp lé mắt. Thế mà vẫn ngủ được, người đâu mà ngủ như chết. Hai Tâm trở ra.

Lát sau, chị Hai lại vào. Lạp cựa mình, nằm sấp, úp mặt xuống. Chị Hai ngồi áp vào Lạp, hai ống chân ngay bên cánh tay Lạp. Hơi thở chị Hai bổi hổi trên gáy Lạp. Lạp ứa nước mắt nhớ lại cái đêm ngủ với Nhàn, đau quặn trong lòng. Chị Hai vẫn cúi xuống, rà rà mặt trên gáy, trên lưng Lạp, như con rắn hổ mang ủ con mèo cái, trong khi những thương, những xót người đã chết, người đã ra ma, cái lúc ăn nằm với nhau ấy cũng đã là những con ma, tất cả cứ rộn rực trong lòng Lạp. Lạp nhẹ nhẹ thở, thở, bấy giờ mới biết đã nhịn hơi lâu, đến nỗi đầu óc như sởn đứng cả lên.

Không biết đến bao lần chị Hai đi vào, đi ra. Lạp căng óc không thể chợp mắt. Có lúc Lạp muốn tối mãi thế này để được vờ ngủ... Có lúc Lạp lại mong sáng ngay. Rồi trời dần dần sáng thật. Buổi sáng ở trong làng, vắng lặng. Vách ngoài, tiếng lược thưa Hai Tâm chải tóc se sẽ, vẫn nghe rào rạo. Ánh sáng mát rợi luồn qua khe vách. Lạp ngồi dậy, hai vai nhẹ như vừa trút được cơn mê hoảng vật vã suốt đêm.

Thằng Tâm cũng đã thức. Trông thấy Lạp, Tâm ngẩng mặt, toan nói một câu gì. Sau chợt nhớ các anh đã dặn im lặng. Tâm chỉ nháy mắt, cười. Chị Hai vào áp môi vào tai Lạp, thì thầm:

- Ngồi dịch sang góc bếp cho khuất. Đừng thò cổ ra thế, ai trông thấy thì chết.

Rồi quay sang bảo con:

- Mày ra ngoài kia.

Lạp nhìn chị Hai tươi tắn tự nhiên giữa mớ tóc đen ánh, dài thướt gót. Dường như trong con mắt người đàn bà phong tình có đôi chút đùa giỡn và trách móc, tinh ý có thể rõ cái vẻ não nùng đêm qua.

Sáng nay, hàng chị Hai kéo hé có nửa phên cửa. Chị ngồi trong, gỡ tóc, trả lời những người đi qua hỏi mua nộm củ chuối, mua cám: “Tiệt cả rồi, mai mới có”. Những người đói tìm ăn lại lờ rờ đi lên chợ xám ngắt, lũ lượt.

Hôm trước, Trung đã giao cho Tâm nhiệm vụ sáng nay đứng bên vách nhòm ra hai phía đường, xem tình hình.

Trung bảo Tâm: “Thằng Chúc làm mật thám ta phải rình nó. Em giúp các anh một tay”. Thì Tâm làm ngay. Cũng không hiểu những việc thế nào sẽ xẩy đến. Tâm chỉ thích các anh, Tâm làm. Vả lại, Tâm cũng sẵn ghét Chúc, từ cái năm làng diễn kịch thổ công Chúc đến trêu mẹ, Tâm đã túm áo đấm Chúc. Thế mà tận giờ, trông thấy mặt Chúc, thằng Tâm còn tức.

Tâm hớt hải nói lại sau lưng: “Nó ra đấy”. Chị Hai ngừng lược chải đầu, đứng nhìn lên. Chúc đương đi, lững thững rồi dừng lại, hỏi trống không qua liếp:

- Chưa dọn hàng à?

- Chẳng dọn.

- Còn món ta đấy chứ?

- Còn.

- Để lên chợ mua bìa đậu cái đã.

Chị Hai mở thêm cái phên, nói:

- Có lạc rang đấy. Lạc rang nhắm rượu đậm bằng mấy đậu phụ.

- Lạc rang à?

- Cả hũ cũng có.

- Muốn cả người có không? Sao không mở cửa?

- Tiệt hàng rồi, mở lại mất công mở công đóng.

- Thế thì này này thằng cu nhớn, ra đóng hẳn cửa lại, tao cho mày một xu, lên chợ ăn bát nộm chuối.

Chúc ngồi xuống cái bệ đất lót mảnh tre làm ghế trước chiếc bàn nan tre bày hàng. Chị Hai bê vò rượu và chai đựng lạc ra đặt trước mặt Chúc, với cái bát rót rượu.

- Đây, uống thế nào thì cứ tự nhiên.

Tiếng rượu rót xuống bát chảy tong tong. Ở cửa trong, Tâm ngồi chẻ tăm lặng lẽ. Chúc bảo thế, nhưng Tâm không đi, bởi lão ta cũng không đưa Tâm đồng nào. Chị Hai đứng dịch lại phía liếp, nhìn ra ngoài, hai tay giơ lên bới đường ngôi rồi ngật đầu lắc mớ tóc đen nhánh chảy tỏa xuống hai bên vai. Bàn tay vuốt tuột xuống đuôi tóc rồi vắt lên, quấn thoắt thành búi giữa đỉnh đầu. Vừa quấn, lắc thử lại búi tóc, chị Hai vừa liếc nhìn Chúc tợp ngụm rượu rồi thở khà. Chị Hai thít chặt thêm tóc lại. Chúc ngước mắt kính cận nhấp nhem nhìn hai cánh tay trần của người đàn bà giơ lên quấn búi tóc, khiến cái ngực yếm chồi ưỡn ra đằng trước.

Chúc cười, hỏi:

- Tôi trách nhà Hai câu này nhé. Sao chẳng chít cho thằng chồng mảnh khăn đẹp. Nhà cứ nhởn nhơ như con gái mười tám ấy thì nó nằm dưới đất nó nhắm mắt thế nào được?

- Anh này về làng cộc trán rồi mà không thuộc lệ làng? Tôi rổ rá cạp lại mà họ hàng không được miếng giầu, làng không được một hòn gạch cheo. Tôi chít khăn trắng bây giờ, người ta sẽ lôi tôi ra gọt gáy bôi vôi, hỏi tội ngủ với ai, bấy giờ anh có phá được lệ làng cứu tôi không?

- Bây giờ nước Việt Nam khác cái An Nam hủ lậu rồi.

- Anh Chúc này, bảo độc lập độc lẽo thế nào mà vẫn chết đói tợn thế.

- Chuyện! Những đứa ngay xương muốn ăn không muốn làm thì thời nào chẳng chết đói.

- Bố con ông Trương Ba cả đời làm bán xác đấy à? Có anh lười vãi thây thì có!

- Bậy nào! Bố con Trương Ba? Chúng nó làm gì đâu! Chỉ độc đi làm Việt Minh, mà làm Việt Minh thì chết đói phải quá.

- Việt Minh cứu quốc mà bảo người ta chết đói phải quá là thế nào?

- Làng này lắm thằng dại. Nó về sục chuyến nữa thì khối thằng mất đầu như lão nhiêu An. Đếm xoàng ra cũng trông thấy mười cái đầu đáng đem treo cây gạo chợ Cầu. Nhà mày nữa, ai mớm cho mà ăn nói ra giọng thế?

- Anh nghi tôi là Việt Minh à?

- Nhà mày là Việt Minh thì nhà mày chết chứ tội gì tao phải nghi!

Chúc vẫn đủng đỉnh, khà khà uống. Mấy lần, chị Hai giơ tay quấn lại búi tóc vẫn chặt mà chị tưởng nó sắp xổ xuống vướng mắt. Nghe cái giọng Chúc nói hệt thằng mật thám Khiết, chị phải dằn lòng lắm, mới tự nhiên được.

Trong buồng, Lạp tức sôi lên, phải bấm chân xuống bếp tro, hai tay co lại. Lần đầu tiên Lạp nghe mật thám chửi Việt Minh và đếm những cái đầu người. Bao nhiêu ý nghĩ loáng thoáng về họ hàng, về cảm tình ngày Chúc mới về với những hy vọng còn đặt vào nó đã tan từ lâu, rất lâu. Chỉ còn một cách cho nó phải đền mạng.

Tiếng Chúc cất lên khê nằng nặc.

- Tớ thế mà hóa ra may, nhà Hai ạ.

- May làm sao?

- Cái ngày thằng Khiết nó cướp được nhà ấy mà, nếu bấy giờ tớ tranh được nhà ấy thì chắc đã xuống suối vàng rồi. Nhà Hai cao số quá, khỏe quá. Hai cái gò má nhô ra những thế kia mà. Cho nên hai ông cưỡi mới ngã ngựa cả. Có lẽ hóa tam ba bận, phải đến ông thứ ba mới xong. Bây giờ tôi đăng tên làm ông quan ba, liệu có chu không? Thật đấy, ái tình tự do không bao giờ cò kè mặc cả, từ ngày ấy tôi vẫn thèm nhà ấy, có biết không. Ngày ấy tôi quẩn quá, nói sai thì ngọn đèn tắt tôi chết, tôi đã mê em. À đây nhé, vẫn cái sẹo suốt đời kỷ niệm trên trán, đêm hát chèo diễn kịch tôi đóng ông giáo ấy mà. Tại em đấy, đây này thử sờ tay vào mà xem đằng này chung tình với đằng ấy nhiều hay ít, ra đây sờ mà xem.

Lúc ấy thằng Tâm nghé ra liếp, vào nói:

- Chú Trung đến hàng nhà ta, u ạ.

Chúc đặt bát rượu, sửng sốt:

- Trung này? Thằng Trung tù xổng lẩn quất ở đây à?

- Phải, anh Trung làng ta.

Rồi chị Hai nửa đùa nửa thật:

- Các anh đừng có sinh sự đánh nhau vỡ hàng tôi ra nhé. Này bảo thực, biết điều thì tôi cho anh tránh mặt vào trong nhà, xem cái anh Trung này hỏi gì, xong người ta đi thì lại ra mà gật gù tán tỉnh.

Quả tình, Chúc cũng ngại chạm trán với Trung, mà xem ra còn vì câu chuyện tán tỉnh của Chúc đương có chiều cắn câu. Thế là cắn câu rồi. Nghe chị Hai nói gãi vào chỗ ngứa, Chúc cầm bát rượu đương uống dở với lọ lạc, lui vào gian trong. Vẫn còn ngoái cổ lại, nhìn chị Hai một lần thêm.

Chúc vừa quay đầu vào thì Lạp, như một con trâu chọi đương điên máu, nhảy lên bóp cổ Chúc. Bát rượu văng vào bóng tối, vỡ cạch một tiếng, giữa tiếng người ngã huỵch như cây chui đổ. Chị Hai xộc vào, nhảy phắt lên người Chúc. Một tiếng thở “hộc” ngắn, khô khốc, như con lợn sặc nước. Hai chân Chúc nguôi ra ngay đơ.

Trung rút thanh bù loong, cúi xuống. Trên mặt đất ẩm tối, hiện lên hai con mắt Chúc trợn trắng nhờ như nước vo gạo. Không biết Chúc còn sống hay chết, Trung nắm tóc, giơ thẳng cánh, nện hai thanh sắt vào giữa trán.

Chỉ một thoáng, xác Chúc đã vùi dưới đống tro trong bếp. Tâm ngồi canh ngoài, mở cửa cho Lạp đi trước. Rồi Trung ra sau, đặt một bàn tay lên đầu Tâm, bảo Tâm: “Các anh đã thủ tiêu thằng Việt gian. Em phải bí mật nhé”. Cũng như lúc đêm qua, Lạp tới, Tâm chỉ cười - Tâm thích cả Lạp và Trung.

Hôm ấy trời nắng to. Mẹ con chị Hai ở nhà cả ngày, nhưng chỉ ngồi ngoài cửa. Có lúc chị Hai ra ao tắm giặt, về phơi quần áo ngoài bờ rào. Chị gội đầu nước bồ kết với lá sả. Tóc chị tốt dầy, lâu khô, chốc lại bước ra bãi cỏ gốc đa, mùa sả thơm quay tóc vun vút.

Chặp tối, Lạp và Trung khiêng một bọc hàng ra bờ sông Cái. Nhưng bọc hàng không đem sang sông mà đến quãng bờ lở, có nước xoáy sâu dưới dòng, lẳng xuống.

Nửa đêm, trăng lên cao, người đi nổi bóng trên cánh đồng thì Trung và Lạp đã về đến bờ ao, mặt nước láng ánh trăng. Lạp bảo Trung:

- Tắm một cái.

Hai người lội ì ỏm dưới ao. Tắm xong, họ ra ngoài cầu xem thế nào. Liếp cửa nhà chị Hai buộc trái. Mẹ con chị Hai đã dọn về ngủ trong làng. Lạp bảo Trung:

- Mẹ con Hai Tâm sợ ma, cậu ạ.

Lạp quên ở cái nhà ấy đã làm cho chính Lạp một ngày một đêm qua có những lúc khiếp.

Trung nói:

- Phụ nữ được thế đã cừ quá rồi.

Câu nói tình cờ làm cho Lạp chạnh lòng. Lúc nãy Lạp rủ Trung xuống ao tắm, nói mình cũng dát, vì mình muốn tắm rũ hơi hướng người chết.

Từ lúc tắm lên, Lạp gây gấy, mệt rũ. Tưởng mà nằm xuống bây giờ chắc không đủ sức ngóc dậy được. Còn gì, suốt một đêm căng người vì chị Hai. Lại từ sáng tới giờ, bao nhiêu gân sức hạ thằng Chúc, khiêng thằng Chúc. Mấy tháng nay ròng rã, mấp mé chết đói. Hơi sức còm cõi chống chọi lúc nào cũng mon men quật Lạp xuống. Bao nhiêu người như Lạp, tưởng chết đến nơi, nhưng vẫn có một sức kích thích cố sống, cố làm, tưởng như nếu vượt nốt bước này thì nhất định sẽ thay đổi, thay đổi hết. Tất cả tin tưởng và cái sống còn dồn vào.

Trung hỏi:

- Lạp đi được không?

- Làm gì?

- Xuống dưới làng.

Lạp biết Trung muốn xuống dọn nốt đồ đạc của cơ quan “ấn” và cũng đưa người của cơ quan ấy đi ngay đêm nay. Lạp đã lử lắm. Nhưng Lạp vẫn gượng đứng lên, đầu váng, hai gối run, rập vào nhau.

Nhưng Lạp vẫn nói:

- Nào đi!

Đi đường, Trung bảo Lạp:

- Mai ta bàn nhau viết cái tin giết chó gửi báo Cứu quốc.

- Ừ nhỉ?

- Mày còn nhớ thằng Lê, thằng An hay viết bài đăng báo?

Lạp nhớ. Hồi đó, Trung và Lạp mới đương học đánh vần. Suốt đêm, ở nhà Ba, và sau này, vào vùng trong, hí hoáy trên cái bảng hội Ái hữu úp sấp xuống, hai đứa tập viết. Nghĩ lại, sự đổi khác trong lòng hây hẩy vui. Lạp cố bước được là vì sức sống ấy.

Lạp và Trung về nhà ông Trương, đã có hai người đến ngồi đợi. Trung và Lạp đi với họ, mỗi người bưng một hòn đá li tô. Bốn người lùi lũi tắt qua ruộng. Quá nửa đêm rồi, chỉ còn ánh trăng dưng dưng.

Xa xa trước mặt, sông Cái đương lên, càng khuya càng nghe nước ầm ầm như sấm. Bấy giờ vào một đêm đầu tháng Tám năm một nghìn chín trăm bốn mươi lăm.

--------------------------------

1

Tên tắt chỉ Xứ ủy Đảng bộ Bắc Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương.

2

Nhà ngục Hà Nội của Pháp xây tường đá nên cũng có tên là Nhà Đá.

3

Đội Danh dự Việt Minh (có nơi gọi là đội ám sát, đội quyết tử) là những tổ chức tuyên truyền võ trang, lúc sắp khởi nghĩa, làm nhiệm vụ tiêu trừ Việt gian.

4

Hai Cua là trùm gá bạc lậu ở Hà Nội hồi ấy, trong tay có lâu la hàng trăm.

5

Bí danh các địa phương: Vĩnh Yên (Nguyễn Thái Học), Hưng Yên (Tán Thuật), Bắc Ninh (Lý Thường Kiệt), Sơn Tây (Ngô Quyền), Hà Nội (Hoàng Diệu).

6

Cơ quan in sách báo bí mật.

7

Browning, một kiểu súng lục nhãn hiệu nước Bỉ.

XIX

Tùng... tùng... tùng...

Tháng Tám, nước muộn, mà sông Cái lên to quá. Đứng trong các cánh đồng nhìn ra tựa hồ thấy nghìn vạn con ngựa phi nước đại trên nền trời xám ngòm mây đen vẩy ốc lởm nhởm. Trống ngũ liên các làng thúc tráng đi đê lẫn tiếng nước réo.

Tùng... tùng... tùng...

Từ trong xóm chạy ra cái điếm đầu làng Hạ một đám người tay thước, đinh ba, thiết lĩnh, quắm. Lạp đi trước tay xách kiếm dài, lưỡi cong sắc nhoáng. Đám người ra đến điếm canh đê thì đứng lại. Thằng Tâm vác chiếc gậy dài hơn người nó. Vừa chạy, Tâm vừa nói: “Các anh để đấy tôi! Để đấy tôi”. Rồi Tâm hai tay bê cái trống, nhảy tót lên bệ gạch trong điếm. Mấy người xúm lại đỡ, thằng Tâm mới khỏi bị cái trống vật ngã xuống đất.

- Trống đi, trống... Tù và nữa!

Tùng... tùng... tùng... Tu... u... tu tu tu...

Ngũ liên, tù và rung vang động khắp các xóm. Ai cũng giật mình, lắng tai về phía ấy. Đương mùa nước cả mà trống thúc với tù và như sôi lên thì chỉ có vỡ đê vỡ đường đến nơi. Thế là, tất cả nhớn nhác ra điếm. Nhiều bà nạ dòng chưa kịp khoác yếm áo, vú vê lõng thõng, cũng chạy. Chỉ có người đói là đứng đầy đường ngơ ngẩn nhìn, nghe xem có phải trống đi phá kho thóc không.

Ra đến nơi, ai cũng trông thấy từ trên đám rễ đa buông xuống một cái cờ đỏ sao vàng. Giữa ngàn lá xanh thậm và tụm rễ mốc meo, cờ đỏ quá, vàng quá, chóa mắt, bay trong gió, trong tiếng trống tiếng tù và nguồn lên. Người đã đổ ra đông nghịt đường cái. Tiếng đồn có cờ đỏ treo cây đa càng làm người ta tuốn nữa ra.

Lạp đứng lên cổng điếm, nói to:

- Thưa đồng bào, tôi xin báo tin đồng bào rõ. Việt Minh đã khởi nghĩa đứng lên lật đổ tám mươi năm nô lệ và hai ách phát xít Pháp, Nhật. Cuộc huyết chiến với quân phát xít Nhật đã bắt đầu, phát xít Nhật đã phải hàng ta ở nhiều nơi!

Tiếng nhao nhao trong đám đông lủa tủa quắm, tay thước, gậy bẩy giơ lên.

- Ai có giáo mác, dao gậy thì được nhập vào đội ngũ Việt Minh. Những ai chưa có thì về lấy. Mỗi người cần có một thứ để đánh giặc, cái gậy cũng được. Các đồng chí tự vệ chiến đấu! Tất cả theo tôi đi tịch thu đồng triện, giấy tờ sổ sách của đế quốc và bắt phản động về đây.

Chị Hai Tâm chạy lên. Hai Tâm chít khăn vuông mỏ quạ, đeo kính râm - hệt chị cán bộ diễn thuyết ở chợ Cầu. Không biết Hai Tâm đã tảo đâu được cái thắt lưng da to bản của lính khố xanh, thít quanh bụng, xòe vạt áo lụa nâu ngắn trên hai ống quần xắn móng lợn gọn sát đầu gối. Hai Tâm giơ kiếm lên, đỏ gay mặt, quát to “Ai đi bắt phản động thì theo tôi!” Đông người xô theo chị Hai, xúm xít hơn cả đi với Lạp. Thằng cu Tâm vẫn khư khư cái gậy, chạy.

Họ kéo vào tất cả các nhà lý trưởng, phó lý, tiên chỉ, tộc biểu, chánh phó hương hội, hộ lại, chưởng bạ, khán thủ, trương phiên lục lọi, khiêng vác, đội ra sân đình từng gánh, từng thúng sổ sách. Tập Gia Long địa bạ dày cộp, những cuốn sổ thuế, những quyển lưu sinh tử giá thú, những sổ sách, giấy má, các sách Tứ dân văn uyển, Âu tây tư tưởng, chẳng biết từ bao đời nay trên phủ bán về chất chồng la liệt ở nhà lý trưởng bên cạnh lão lý Dĩ bị trói giật cánh khuỷu, hai du kích dẫn ra đứng tây ngây đấy, cùng với một rổ như rổ ốc, những hộp triện đồng triện gỗ tròn, méo, vuông, hình gối quạ của các loại chức việc trong làng. Bốn con mã tấu vừa thu được ở nhà khán thủ, mới trông thấy đấy, mà không biết ai đã nhặt đi rồi.

Một đám nữa kéo về, với chị Hai Tâm, vẫn cái kính râm bí hiểm, chị xách kiếm bước thoăn thoắt. Người reo: “Lại bắt được phản động nữa kia!” Trông ra thì thấy bác cai Giắt cao lênh khênh giữa đám. Bác cai Giắt, quần quấn xà cạp nịt như lính khố xanh, lưng đeo cái gậy dài quàng thừng vào hai đầu như thể lính đeo súng. Lại như thể cai Giắt đến mít tinh cướp chính quyền, nhưng hai tay bác thì bị thừng trói ghịt lại. Mặt, mắt, râu ria trố ra, không hiểu sao.

Tiếng ngũ liên đổ hồi trong tiếng tù và. Người người càng tấp nập, tíu tít, cả làng đã ra cửa đình. Hình như, bắt đầu từ lúc ấy, trong thinh không và trong người nhộn nhạo, rào rạt, nhấp nhổm, không ai ngồi trong nhà được.

Bỗng nhiên, người đứng mé ngoài nhao nhao chỉ trỏ ra cánh đồng. Có một con như con trâu hay con ngựa đương bồn tới. Lúc sau trông rõ ra là con ngựa, con ngựa nhảy nghiêng ngả lao qua các bờ ruộng, lúc sau nữa thì lại nhận rõ đấy là con ngựa không có yên, không có người cưỡi. Những tiếng hỏi cất lên: Ngựa nào?

Có tiếng hét:

- Đích rồi, con ngựa xổ ra ở trại Nhật bị Việt Minh đánh. Việt Minh đánh tan cả tỉnh rồi con ngựa sổng về!

- Ngựa ở trại Nhật!

- Không phải, ngựa thằng quan phủ. Ta đánh được phủ rồi!

- Đánh được phủ rồi!

Con ngựa càng phi tới gần thì trong con mắt mọi người làng Hạ càng trông thấy bốn phía chân trời đương hoa lên, rợp những cờ đỏ và súng ống, dao gậy, và đâu cũng những người là người.

- Bắt lấy con ngựa, bắt lấy!

Con ngựa sắp đến, đám người càng xôn xao. Rồi con ngựa đã lừng lững gần trước mặt. Không phải là một con ngựa giống Nhật to tướng mà bọn lính Nhật mọi khi vẫn dắt về buộc ở vườn nhãn ngoài chùa tránh bom, con ngựa này bé loắt choắt, bốn cái khoeo gầy ngoẹo như sắp gãy đôi. Ngựa gầy, lưng bợt lông từng đám trơ ra đỏ hỏn. Nó chạy lồng lên thế mà không biết cơ man ruồi nhặng vẫn đậu, vẫn bay vù vù theo.

Có thể đây là một con ngựa đã thải chỉ dùng để thồ thường thấy bọn tù binh Ăng Lê hốc hác cao lêu đêu dắt đi tải gạo theo sau lính. Dáng hẳn một tốp lính Nhật và tù binh Ăng Lê tải gạo vừa bị Việt Minh đem người đói ra đánh lấy gạo, chỉ còn có con ngựa sổng được chăng. Nhưng có một điều chắc chắn là con ngựa này chạy từ xa đến đây, gặp những chuyện khủng khiếp lắm. Hai tròng mắt nó trắng bợt như hòn sành. Mồ hôi rỏ tong tỏng dưới bụng, chảy bết từ bờm tới móng chân. Thấy đám đông trước mặt, ngựa nghếch mõm đứng lại. Rõ ràng con ngựa đương khát đến với con người chứ không sợ người. Nó mê man ngỡ đây cũng như trại lính lố nhố quanh nó. Lúc đó, ở trong sân đình đương ngùn ngụt lửa thiêu các giấy má, sổ sách, các văn tự, thần phả của làng chất cao bằng cây rơm, tàn giấy bay đen ngòm. Con ngựa mệt mỏi càng hoáng mắt, tưởng thật sự vừa đi tải về. Mấy người lính dắt ngựa đương đốt rơm hun muỗi và sắp lom khom bê từng chậu thóc ra cho ngựa ăn. Ngựa lử lả, đờ đẫn, bé tóp lại. Bốn chân run rẩy, mỗi bước, lại líu vào nhau.

Nhưng chẳng ai chú ý đánh giá cái mã con ngựa ốm, mà người ta đương mải mừng cuồng lên. Con ngựa ở đâu lạc đến đã làm nhiều người thích quá, coi là một điềm giời ứng cho việc tế cờ nghĩa. Đích thị con ngựa ấy vừa bị sa vào trận rồi sổng được, đích thị con ngựa ấy đã phi nước đại qua biết bao nhiêu vùng gươm giáo, súng ống nhung nhúc, mà đâu đâu người ta cũng quyết bắt lấy nó để lập công, cớ làm sao nó vẫn băng băng thoát tất cả, để phi về đến tận cái chỗ làng ta vừa mới kéo cờ hô quân này con ngựa mới chịu dừng lại hàng phục, nhất định phải có cái cớ linh ứng làm sao!

Đội tự vệ chiến đấu coi ngay đây là một trận đánh đầu tiên. Con ngựa của thằng Nhật, thằng phát xít Nhật, nhất quyết bắt sống con ngựa cho quân cách mạng. Bắt sống con ngựa! Đã nhốn nháo lại nhốn nháo hơn!

- Ngựa phát xít Nhật, các đồng chí bắt lấy!

- Nó đá cho thì bỏ mẹ!

- Ta có cách! Đã có cách!

- Vật bò thế nào thì vật ngựa cũng thế.

- Phang vào khoeo một tay thước cho nó kềnh xuống rồi nhảy ra vồ.

- Con ngựa chứ con ếch đâu mà vồ!

- Chết chửa, nó lại sắp chạy mất kìa.

- Quật chết nó đi, không để nó chạy mất, mất cái lộc.

- Đừng phang, đừng phang. Chết ngựa chỉ được ăn thịt chứ không được việc cách mạng. Phải bắt sống mới được.

Có người nói to:

- Chỉ có cai Giắt đã đi lính dắt ngựa mới bắt nổi nó.

- Phải rồi, cai Giắt. Cai Giắt đâu?

- Cởi trói cho lão ấy ra bắt con ngựa!

- Không được thả phản động!

Hai Tâm chạy đến quát lên, nhưng hàng chục người đã xúm lại cởi trói cổ tay cai Giắt.

- Để cai Giắt ra bắt con ngựa phát xít!

- Cho lão “nhất bộ nhất bái” lập công chuộc tội.

Mấy trăm con người bỏ cả đám đốt tàn tích đế quốc chạy ra bỗng im bặt, hồi hộp dồn mắt vào bác cai Giắt đương bước về phía con ngựa vẫn đứng nghếch mõm, rồi dường như mỏi, lại buông mõm lỉu xuống, rớt rãi chảy ròng ròng. Cai Giắt từ từ bước ra. Không ai được thấy bác Cai năm xưa đi đánh trận “Mạc Đình Kim” ở Ma Rốc thì tung hoành trên sa mạc châu Phi thế nào, chứ lúc ấy nhìn cái dáng khoan thai nhưng hai mắt chăm chắm như người đô vật giơ tay múa lên đài sắp tiến vào keo vật, rất điềm nhiên, đĩnh đạc thì mọi người đều nín thở, dán mắt theo bác ta. Bác hơi chúi bắt chước đầu ngựa lắc lắc khi giận dỗi, rồi bác lái giơ tay vẫy khe khẽ, tinh quái, thân thiết như ta vẫy đùa dỗ đứa trẻ đương đập bĩnh. Hai con mắt u buồn của bác lâu nay nằm sâu trong hai hố mắt đói sâu hoắm, bây giờ tươi hẳn, ánh lên, sung sướng tựa lâu ngày mới gặp lại tri âm. Con ngựa đứng yên. Vẫn giơ hai tay đón, cai Giắt đàng hoàng, lặng lẽ đến xỏ ngón tay trỏ vào một bên lỗ mũi ngựa sùi đầy bọt, dễ dàng như không. Rồi bác cai quay ra, phớn phở vênh ria nhìn đám đông. Hai ngón tay vẫn móc vào mũi ngựa một bàn tay vỗ vỗ, vuốt vuốt lưng ngựa, bác cai thong thả kéo con ngựa bước lại trước mặt mọi người, dáng che chở như ta dắt bé em tập đi. Lập tức, tiếng reo ầm ầm bật lên.

Tiếng reo bần bật. Sướng quá, ai nấy nhảy cẫng như được của. Mà được của thật. Cuộc khởi nghĩa mới mở cờ đã thắng to. Bắt được một con ngựa của quân phát xít, cũng như bắt được thằng phát xít đế quốc, bắt được một khẩu súng trận quí báu, càng nức lòng, càng hăng.

Giữa lúc ấy, một cái bóng xe đạp loang loáng ngoài cánh đồng vào. Không khí lại căng thẳng. Bao nhiêu gậy, tay thước, quắm, câu liêm nhăm nhăm đối phó với quân phát xít cưỡi xe đạp.

Quân Nhật đi xe đạp về đánh nhau với ta, cẩn thận!

Nhưng một người nhanh trí, quỳ xuống, nhìn nghiêng ra trông cho rõ hơn, rồi kêu lên:

- Xe đạp anh An!

Mũ trắng, áo trắng lốm lốp đã rẽ xe vào cổng làng. Anh An thật.

An nằm trốn bên kia sông từ hôm lão nhiêu An chết chém, không dám về nhà. Thỉnh thoảng, vợ sang tiếp cái ăn. Đến sớm hôm nay, An sốt ruột, vừa mò ra tỉnh thấy cả tỉnh rợp trời cờ đỏ.

Không kịp dựa xe vào gốc cây. An cuống quít bỏ chiếc xe đạp chỏng gọng quay tròn hai bánh giữa đường cái. An cầm mũ phất phất quạt trán đẫm mồ hôi, rảo bước về phía mọi người.

An giơ mũ, giơ mũ:

- Đồng bào đã được tin gì chưa? Tôi xin báo tin quân Nhật đã hàng Đồng Minh không điều kiện rồi 1 . Lính Nhật trên tỉnh đương chặt gươm, xé mũ, xé áo, vừa khóc vừa mổ bụng nhau. Cờ đỏ sao vàng ta lên khắp nơi rồi. Tôi đạp xe về đây, chính mắt trông thấy các làng đã lên cờ Việt Minh hết.

An nhận thấy mình nói hôm nay rất đông người xúm xít nghe nhiều; không vắng như hôm ở tỉnh về báo tin Nhật đảo chính. Những lời nói thật quan trọng, ta đây cũng đương quan trọng. Một người đến quát vào tai An: “Làng ta đã lên cờ Việt Minh kia kìa!” An giật mình nhìn lên lá cờ trên cây đa. Mặt An bỗng nghiêm lại, hỏi:

- Ai lên cờ ở làng ta thế? Anh Trung hả?

- Đồng chí Lạp.

An chạy lại. Lạp đứng trong điếm đương sôi nổi nói với mấy tay thanh niên thôn dưới, và cả chị Hai Tâm. Ủy ban Khởi nghĩa đương bàn kéo lên phủ, lên cướp phủ - như kế hoạch Trung đã bàn, Trung bên phủ trước.

Chỉ còn một việc khó là cai Giắt bây giờ vẫn cứ móc tay vào mũi giữ con ngựa, với một lũ thanh niên quây lại xem ngắm, chốc lại reo loạn lên. Cho cai Giắt đi cướp phủ, hay trói cai Giắt lại như lúc nãy?

Hai Tâm khăng khăng:

- Phải trói thằng phản động lại!

Lạp thì trù trừ. Từ lúc chị Hai bắt cai Giắt ra, Lạp cũng chưa dàn mặt, Lạp không muốn đến. Tuy muốn thả cai Giắt, nhưng Lạp chỉ nói:

- Chúng ta cần mang cả ngựa theo. Nếu có việc khẩn cấp thì còn phải chạy ngựa đưa tin. Mà rõ chết tiệt, ai cưỡi được ngựa bây giờ?

- Cưỡi ngựa như cưỡi cái xe đạp chứ gì.

An vừa đến, hùng hổ nói. Hai Tâm nói to:

- Thế thì đồng chí An đi với chúng tôi.

- Để tôi về cất xe đạp cái đã.

Chị Hai Tâm xăm xăm đến quát một tiếng rồi đẩy cai Giắt bước ra. Cai Giắt vẫn khoác cái gậy du kích trên lưng. Lần này không bị trói, nhưng phải ngồi một chỗ trong điếm, nhìn ra con ngựa một cách ngao ngán.

Trong khi ấy, An đã chạy ra nhảy phốc lên lưng ngựa. Tiếng reo nổi ầm quanh. Nhưng con ngựa cứ đứng trơ, lũm lưng xuống. Nó ốm quá, người đi chịn vào tận đít cũng chẳng buồn đá hay cất cái đuôi. Nhưng nó chỉ uể oải nổi vài bước. Rồi đấm đá, quát thế nào cũng không nhúc nhích. Mà đoàn người các làng bên đã ầm ầm đi qua. Bực quá, An lôi bờm ngựa trở lại, đẩy vào điếm, buộc cửa lại. Cai Giắt ngồi thu lu, ngước mắt nhìn con ngựa, không nói.

Thế là An tất tả chạy theo đám người đã ra giữa cánh đồng. Lá cờ trên cành đa được gỡ xuống, hơn một trăm người làng Hạ kéo cờ đi với giáo mác, đinh ba, thùng lùng, tay thước, gậy bảy, câu liêm, dao găm, mã tấu... Cả những bà vẫn cởi trần như lúc nãy, loi thoi chạy theo xách thúng, xách rá. Mấy bà ấy ngỡ phá được phủ thì vào chia thóc, hôi của như ngày xưa các cụ ta đánh nhau với Tây.

Bụi đường bốc đỏ mù mịt giữa cánh đồng. Nước sông Cái đằng xa vẫn réo à à. Trong nhiều làng, tiếng ngũ liên rồn rập, không biết trống hộ đê hay trống mít tinh cướp chính quyền. Đội tự vệ chiến đấu và những người làng Hạ thì vừa đi vừa bàn tán hớn hở, chỉ trỏ vào các lũy tre xung quanh đoán các nơi ấy đâu thúc trống, đâu đương lên cờ, đến sổ sách, thu đồng triện, trói bắt phản động như làng ta.

Từ đằng kia, đi lại một tốp người. Lấp loáng như lính khố xanh vác súng. Cả đoàn người chững lại, lao xao. Tự vệ chạy quanh đám, giơ tay thước, hét:

- Đâu yên đấy! Lính phủ! Quân cách mạng hạ lệnh bắt sống cả bọn lính phủ!

- Như bắt con ngựa lúc nãy!

- A ha!

Đương bốc hăng, đoàn người xông lên. Lạp giơ xòe tay, nheo mắt, quan sát. Rồi chửi, nói một câu thật to:

- Quang gánh bọn đi chợ! Thế mà rối cả lên!

Những người ấy lên phố phủ bán mía về, đi vác ngược cái đòn ống. Họ chạy tất tưởi. Không hiểu sao, trông thấy đám người làng Hạ, họ càng lao tới, tung cả áo, cả nón. Họ quát tháo những gì, chưa ai nghe rõ. Gần đến nơi, đã loáng thoáng:

- Ta được... rồi... ta...

- Ta được phủ rồi á!

- Ới giời ôi!

- Trên phủ bây giờ đông chật mấy chục mẫu người. Chúng tôi... về gọi làng... lên...

Họ lại ba chân bốn cẳng, nháo nhác qua.

Như một sức thúc ghê gớm, hơn trăm con người làng Hạ chạy lên phủ. Thúng mủng, giáo mác giơ loạn xạ trong tiếng hét, tiếng kêu, tiếng hô. Nhưng không ai nghe ai nữa.

Khi cả làng Hạ vào được phố phủ thì đã nhiều làng kéo lên trước. Lão tri phủ - cái lão phủ hôm về làng Hạ hiểu dụ việc độc lập thì phải bỏ chữ quan và bỏ lạy ấy và lão tri huyện tư pháp đã trốn về Hà Nội, sau khi đọc xong cái thư dụ hàng và tờ truyền đơn Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức Việt Nam của Việt Minh. Cái phố phủ ụp xụp, bụi bậm, suốt từ cửa hàng “đề bô” cụ ký Rượu đầu đằng kia quanh mấy quán hàng cơm xuống đến dãy nhà cô đầu cuối phố, đường cái chỗ nào cũng đông ních các làng, những tự vệ, du kích và gậy gộc, đòn càn, giáo mác, quần áo nâu nhôm nhếch, mặt vêu vao ảm đạm, những người chân đất, quần lá tọa mà bao nhiêu đời nay, đôi bên hàng phố chỉ rặt thấy những hạng cùng đinh này kéo lên hầu quan, đi chạy kiện, đi tù rượu lậu, tù đánh nhau, bây giờ thấy cũng chính họ lên chiếm phủ, thì các hàng quán nháo nhác, suốt lượt nhà nhà đóng cửa rồi chạy ra đường xem sao.

Người ta kéo vào trong phủ nghe diễn thuyết. Người vòng vào trong xem tòa công đường vàng chóe hoành phi, câu đối và cái nhà lão phủ ở có bộ ghế tân thời lùn, ai cũng đến ghé đít ngồi thử một tý. Người ta gặp nhau giơ nắm tay ngang trán chào, như là làm một điều mới lạ mà tự nhiên. Tiếng hô rầm rầm “Việt Minh muôn năm”, “Đả đảo giặc Nhật” lẫn với tiếng hát cách mạng bay lên từ những đội tự vệ đứng ngổn ngang cửa nhà trạm dây thép.

Đoàn quân Việt Minh đi... chung lòng cứu quốc... 2 Trong khi ấy, trên hai cái bàn chồng nhau ngang giữa cửa phủ, một cán bộ lên hô hào xong, nhảy xuống. Người làng Hạ vừa mới đến nhác trông, đã kêu choang choác “Anh Trung làng ta... anh Trung...”.

Lạp vào đến cổng trong phủ, gặp Trung. Hai người ôm chầm lấy nhau. Mới hôm qua mà như xa cách nhau đã lâu lắm, lâu lắm. Mới hôm qua, khi Trung đi, cả vùng còn u ám hôm nay đã lấy được phủ, sào huyệt đế quốc phong kiến mà tự khi mất nước, nghe các cụ kể lại, bao nhiêu các ông đề, ông lãnh, ông thống, ông xuất nổi quân cũng không lấy được, cả đến quân Cờ Đen của ông Lưu vác cờ móc câu cũng không vào được. Thế mà bây giờ ta lấy được phủ, quan phủ phải bỏ trốn, bao nhiêu giấy má sổ sách trong phủ đương đốt khói bay ngùn ngụt lên giời kia. Lạp và Trung vỗ mãi vai nhau. Ở đây, ở chính chỗ “cửa quan” mà năm trước cả bọn kéo nhau đi xin giấy phép lập hội Ái hữu, ra vào mãi mà không được - khi hai người thoạt trông thấy nhau thì trong óc họ nhớ lại những hình ảnh xa xa từa tựa thế. Lạp lắc tay Trung, không nói được, ngắm như mê Trung trong bộ quần áo nâu cũ, như người các làng nhưng trên lưng oai vệ đeo cái súng trường vừa tịch thu được của lão đội lính cơ. Câu đầu tiên Trung nói:

- Ở vùng trong kia cũng đương ra lấy tỉnh rồi!

Lạp ngơ ngẩn:

- Sướng quá, cách mạng thành công đến nơi.

Trung cười khoát tay ra trước mặt.

- Thành công đây rồi, chứ còn đến nơi nào nữa!

Lạp kể Trung nghe mọi việc. Trung đương bảo: “Bọn lý Dĩ thì bắt ra trước dân làng thề từ giờ không làm việc cho đế quốc rồi cho về... Cai Giắt thì hỏi xem thế nào rồi thả... Các làng đều đã làm thế”.

An vừa vào xem trong phủ ra, len qua, kêu: “Trung! Trung!” rồi đến bắt tay ôm tay rối rít, Trung cười nói:

- Việt Minh vùng trong đương ra lấy tỉnh!

An reo:

- Tôi phải báo tin này cho bà con biết!

Rồi An chạy ra chỗ người làng Hạ, Trung bảo Lạp:

- Được đấy. Để An vào Ủy ban khởi nghĩa. Giờ thì tinh thần nó đương hăng.

An ra trước đám đông người làng Hạ, giơ nắm tay lên đầu chào rồi nói to:

- Thưa các đồng chí, đồng bào, ta đã lấy được tỉnh, ta đã lấy được cả Hà Nội.

Một vùng người reo lên, nhảy lên.

Lúc các làng lại kéo về, thằng Tâm nằng nặc ở lại với anh Trung và bốn anh tự vệ làng vào đội có nhiệm vụ canh phủ. Chị Hai quát thế nào Tâm cũng lẩn, không theo mẹ.

Chiều tối ấy, sân đình làng Hạ rộn rịch cảnh lạ mắt. Những người đi cướp phủ về, vào hậu cung đình, nơi đóng kho thóc của liên đoàn, phá cửa khiêng ra mấy chục thúng thóc, với lổng chổng những cối xay, cối giã của xóm làm ruộng thôn dưới khuân đến.

Người cười, nói, cối xay ù ù, cối giã cộc cộc. Chị Hai và các cô tự vệ tuần phòng quanh sân, đuốc dong vằn vèo đi lại. Xa xa, tiếng ngũ liên và tiếng ốc càng nổi rộn, át cả tiếng nước sông Cái trong đêm vẫn hung hăng ầm ầm rú lên.

Cơm chín. Cả chục nồi ba mươi dỡ ra cánh cửa đình vừa lót lá chuối ngả xuống. Hàng trăm người xúm lại, trong khói thơm ngọt ngào, ăn bốc ăn bải, toàn cơm không. Cả làng vui sướng, bao nhiêu lâu nay mới lại được thấy mặt hạt gạo, mà nhiều cơm thế này, mà ăn cả làng, cả đàn bà con gái.

Lúc ấy, Lạp ra chỗ cai Giắt ngồi lủi thủi trong điếm.

Một ngọn đuốc nan vách cháy ánh sáng lom đom vàng vọt vào mảnh lá chuối đựng cơm của hai tự vệ đương nghiến ngấu bốc ăn. Bên ngoài, con ngựa vẫn yên như cái cột. Bóng ngựa nghêu vươn lên vách sau lưng cai Giắt ngồi bó gối ngoẹo đầu, râu ria trên mặt trổ xồm xoàm, giống tượng ông Giê-su đóng đinh câu rút. Chỉ khác, mắt ông Giê-su thì cúi xuống nhìn đất, còn bác Cai lại đăm đắm trông vào miệng nhai nhồm nhoàm của hai người tự vệ ngồi ăn trước mặt.

Trông thấy Lạp, cai Giắt bô bô:

- Ơ kìa thằng Lạp, tao đợi mày suốt từ trưa tới giờ, tao chỉ đợi hỏi mày một câu thôi. Thế thì tại làm sao không cho tao đi đánh phủ mà con mẹ Hai Tâm lại trói tao, lại bắt tao ngồi đây. Tao là Việt Minh hay tao là mật thám?

Cai Giắt vươn cổ, hai mắt loáng trong ánh đóm, giận dữ ghê gớm. Lạp không trả lời câu cai Giắt, Lạp hỏi:

- Thế lâu nay bác đi đâu?

Cai Giắt cười khẩy:

- Mày nghi ông à? Mẹ kiếp, thằng quan tư bên Ba Di nói thế mà nghiệm, nó bảo cái ngữ những như tao mà mãn lính về An Nam thì chỉ đi cu li kéo xe. Ông đi kéo xe lấy gạo ăn chứ ông đi đâu...

- Gặp ai bác cũng tránh mặt là nghĩa làm sao?

- Mày nói chó cũng không nghe được. Tao có là quan tri phủ thì tao mới thích gặp người ta. Chứ tao là thằng cu li xe nhân thân có cái đèn đeo đít thì tao phải hóa ra con cuốc lủi chứ.

Rồi, không chịu được những câu hỏi lơ dớ của Lạp. Cai Giắt nói sấn sổ:

- Ơ thế ra chúng mày nghi ông. Ông thử vặn lại xem mấy tháng đói vừa rồi mày cút đi đâu? Mày có phải đi kiếm cơm, chẳng thế thì mày cũng chết nhăn răng ra rồi. Ông nói thật chứ, cái lúc bố con ông sắp chết kia, mà ông còn một tay đi đào huyệt chôn thằng Ba, một tay ông móc tiền máu tiền ruột của ông ra đưa cho con Nhàn ăn cầm hơi. Chẳng may cái số nó cũng như cái số con ông, không được sống làm người thì đành thôi thôi. Chứ những như mày, cái mặt mày đi đâu, lúc ấy đã cho anh em được đồng gãy nào.

Câu nói dữ như một ngọn roi quất xuống gáy Lạp, buốt thót lên tận óc. Một bên vai Lạp thấy lại vết răng Nhàn cắn ứa máu. Nước mắt lã chã, Lạp bước lại hai tay nhấc bác cai đứng lên. Bác cai làm bàm nói:

- Cái con ngựa này, cấm không cho đứa nào động đến. Tắm ngay, bôi thuốc ngay, ăn thóc ăn cỏ tẩm bổ vài hôm là nó lại sức. Phải đến tay thằng cai Giắt thì mới xong.

Lạp nói khẽ:

- Bác lên đình ăn cơm!

Như không nghe tiếng Lạp, cai Giắt ra bẻ phên vách làm một bó đóm. Cai Giắt lên sân đình lấy một nồi chã, đổ ba đấu thóc, trộn xâm xấp nước. Rồi, tay đuốc đóm, tay xách nồi thóc vào, cai Giắt đặt xuống trước mõm ngựa. Con ngựa nghếch lên, điệu như biết ơn, nghiêng cái bờm xơ xác vào tận mặt cai Giắt, sau đó mới vục lỉu đầu vào chã thóc. Cai Giắt đứng vuốt lưng, vuốt bờm đập đập con ngựa, áp má vào má ngựa. Trong khi ngựa ăn, cai Giắt đã mê man chuyện với Lạp về con ngựa, các giống ngựa, ngựa Nước Hai, ngựa Tây, ngựa Nhật, ngựa Ma Rốc và con lừa, con “sa mù” con la, con ngựa đực đạp con lừa cái thì đẻ ra con la... Lại bàn cách tối nay cho con ngựa này ngủ đâu để tránh sương, che vết đau nó khỏi loét thêm, mai đi tắm ngựa, rửa nước muối cho ngựa.

Mặc cho bác cai Giắt nói rồi lại nghe một mình, quên cả ăn cơm, Lạp cúi mặt, chạy trốn bóng dáng Nhàn từ nãy cứ lững thững về, trong đám chị em ríu rít ăn cơm.

Đêm ấy, cai Giắt bện một cái thừng. Lại trữ sẵn mấy chiếc đũa. Cái này để buộc mõm ngựa. Cái này để lúc tắm, gỡ đám bờm và cái đuôi rối cho con ngựa.

Sáng ra, cai Giắt lên điếm sớm.

Nhưng con ngựa đã đâu mất. Bao nhiêu người đương đổ đi tìm. Cai Giắt ngơ ngẩn xách thừng, ngắm theo vết móng chân nó trên cỏ. Lốt móng mờ bụi đường, rồi mờ mịt.

Bỗng cai Giắt quật cái thừng xuống, quát:

- Mả mẹ chúng nó, đứa nào làm thịt mất con ngựa rồi!

Cũng chịu không đoán được! Con ngựa bị dắt trộm hay nửa đêm nó lại tế đi? Cai Giắt chạy lên sân đình. Buổi sáng, sân đình ồn ào giã gạo, thổi cơm ăn tập đoàn. Đội tự vệ đương tập, bước quân sự răm rắp. Cai Giắt cứ đứng chõ vào quát chửi đứa nào dắt trộm con ngựa đi làm thịt.

Lạp toan bảo cai Giắt vào họp với đội tự vệ. Nhưng thấy cai Giắt đương quát tháo dữ quá, Lạp lại thôi.

Lát sau, cai Giắt bần thần ôm cuộn thừng về. Dáng lủi thủi, buồn rũ, như hôm bác khiêng xác con đi chôn. Lạp nhìn thấy, lại muốn gọi. Nhưng rồi lại ngại bác ta đương cơn giận.

--------------------------------

1

Nhật hàng Đồng Minh 12 giờ trưa ngày 13 tháng Tám 1945.

2

Bài Việt Minh ca (Tiến quân ca) của Văn Cao. Lời cũ, trước khi thành Quốc ca.

XX

Cả tháng rồi mà vẫn như mấy hôm đầu khởi nghĩa, suốt làng nhộn nhịp, linh đình. Lạp mê mải công tác gì cũng ồ ạt cuốn như nước lũ, toàn những mới mẻ. Chỉ một lần, có một việc lèm nhèm khiến Lạp khó chịu.

Nửa đêm, phó chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời Lạp đi tuần về. Điếm vắng, không ai, mọi người đã được cắt canh, đi tuần theo giờ giấc. Quen chỗ, Lạp đến cái xó ổ lá chuối khô cuối sàn gạch, toan ngả lưng xuống. Nhưng Lạp rợn mình, có người nào đã lù lù nằm đấy. Lạp hỏi:

- Ai?

Im lặng. Một mùi ấm nồng tỏa lên, Lạp đoán ra rồi. Lạp trỗi lên, quay ra. Một tiếng hỏi lanh lảnh rỡn theo.

- Đồng chí Lạp đã về đấy à?

Tiếng chị Hai Tâm. Nhưng Lạp vẫn lặng lẽ đi.

Từ hôm ấy, gặp Hai Tâm, Lạp chỉ nhìn lét nửa mắt. Chị Hai cười cười, vẫn vờn vỡ như không. Một hôm, Trung tự dưng lại nói: Tao sẽ làm ông tơ xe duyên cho. - Công tác đương rối canh hẹ, tơ với cửi gì! - Đâu có đấy chứ. Này hỏi thật, cái đồng chí Hai Tâm mê mày quá! Có được không? - Thôi đi...

Trung im. Rồi cười. Nhưng Lạp thì áy náy. Khó chịu vì ả đeo đuổi mãi. Lạp có thể phải lòng Hiền, yêu Nhàn, ăn nằm với Nhàn cả lúc ốm đau. Nhưng, không, không...

°
°     °

Hôm ấy ngày giỗ ông Hương. Bao giờ cũng vậy, ngày giỗ chồng, bà Hương đều lo tươm tất, mặc dầu còn đói kém lắm, nhưng bà Hương cũng cố được vài mâm chỉ gọi là cho có. Năm nay, giỗ ông Hương, An mời Lạp, ông lý Dĩ, thêm Trung ở trường quân chính trên Sơn Tây mới về.

Ông lý Dĩ đã vào từ lúc nãy. Chưa thấy Lạp và Trung, An sinh lo: hay là ăn uống bày vẽ thế này là phạm đời sống mới. Nhưng, ban sáng, khi mời, cả Trung cũng cười vui vẻ cơ mà.

Hai Tâm xăm xăm qua sân, vào bếp. Chị đến rủ vợ An chốc nữa đi họp phụ nữ. Bà Hương đứng dưới ao, nói mát:

- Bận quá nhỉ, chị Hai!

Bà cười, hỏi. Nhưng chị Hai vừa đi khuất, mặt bà Hương đã lạnh ngắt nguýt theo. Bà chẳng ưa cái của mèo mả gà đồng ấy. Giá không phải là Việt Minh, là uỷ ban thì không đời nào bà để cho ả bén đến cửa. Bà lẩm bẩm: “Nhà người ta có việc mà cũng xồng xộc vào. Rõ con gái con đứa, cái đồ vô ý vô tứ lại tìm nhau”. Nhưng lên nhà, bà Hương lại tươi tỉnh:

- Anh cả xem thế nào, giờ chưa thấy các ông ấy nhỉ?

An ra đình. Trong đình vang ra thoáng tiếng nói. An vào, lố nhố nhiều người đứng dậy. Lạp, Trung, mấy người làng dưới và cả Hai Tâm đã lại thoắt ra đây rồi.

An nhăn nhó:

- Các cậu họp gì thế?

Lạp lúng túng chưa biết trả lời thế nào. An tinh ý, biết mình hỏi lỡ lời. Rồi An buồn hẳn đi, buồn nghẹn ngào trong cổ.

An biết cuộc họp riêng, có cả Trung về. Họ họp Đảng. An nghĩ một cách chua xót và ưng ức. An là người nhiều chữ nhất. An là một trong những người đầu tiên ở làng này biết cộng sản, đã hoạt động Bình dân, chống thuế, lập Ái hữu, đi rải truyền đơn phản đối Nhật và Đông Dương, lại có sáng kiến ném vào mỗi nhà lý dịch một cái truyền đơn. Ừ thì sau này Việt Minh là khác, nhưng có Bình dân thì mới có Trung, có Lạp bây giờ. An đã viết bài đăng báo Tin tức của Đảng Cộng sản Đông Dương và việc gì An cũng đem về làng trước, tin Pháp Đức chiến tranh, tin Nhật đánh Tây, tin Nhật hàng Đồng Minh, chỉ có An báo về chứ ai. Còn nỗi phải tù, bị tra điện suýt chết, lại còn An bị Nhật giết hụt... Ừ thì cũng có một quãng An xa anh em...

Nhưng từ hôm cướp chính quyền, An làm việc không kể ngày đêm. Một tay An dựng lại làng này. Tổ chức tự vệ. Kiểm tra thanh niên vào Giải phóng quân. Ban tuyên truyền, ngày nào cũng có báo Cứu quốc đọc. Lại vệ sinh các ngõ không còn một ngọn cỏ. Cả đến dạy nhi đồng học hát cũng công tác của An. An làm chủ tịch Ủy ban rất xứng đáng, không ai có thể thay. Thế mà An không được họp Đảng. An giác ngộ lâu rồi. Ừ thì Trung và Lạp, sau họ thì đến mình, không ai khác được. Thế mà cái con mẹ giăng há Hai Tâm cũng được làm Đảng viên... Cả mấy thằng cắn hột cơm không vỡ ở làng dưới, chẳng biết chúng nó hiểu biết những gì, mà cũng được họp với Trung.

Từ khi mít tinh lên chiếm phủ, An toàn vui, toàn hăng, hôm nay mới gặp nỗi buồn hẫng xuống, vai muốn sụp.

Nhưng Trung đã ra, hỏi đùa An:

- Nghĩ gì mặt nghiêm thế, đồng chí Chủ tịch?

- An ngoảnh nhìn Trung, tỉnh ngay. Tiếng “đồng chí Chủ tịch” ở miệng cán bộ trên nói, đã xóa tan cả cái khó chịu đương lởn vởn và An lại thấy hăng hái.

An nói to:

- Làng ta tối nay có kịch. Cậu Trung còn nhớ tối kịch năm nào không?

- Hát Nào anh em nghèo đâu... Nhớ thằng Lê quá!

Lát sau Lạp và Trung vào nhà An.

Thấy Lạp và cả Trung, cả đám giỗ ồn ào vui mừng. An giới thiệu vợ chồng Chính vừa mới tới. Cái đầu tóm cún của chồng cô Hiền mới được một lần húi cua lởm nhởm. Mặt Chính ngượng đỏ rừ, Chính nghĩ mọi người đã nhìn thấy hôm Chính đi với lão phủ về đình hiểu dụ, cái đầu Chính trọc tếu, chân đi bốt và đít đeo bao súng độn giẻ.

Nhưng may, An gỡ:

- Vợ chồng chú nó bận nhiều công tác ở tỉnh. Chú nó lại mới thêm chân ban Tuần lễ Vàng...

Hiền thì ngượng, chỉ ấp úng chào. Lạp thản nhiên, xa lạ hẳn. Hiền chít khăn vuông kín tai, Lạp thấy Hiền xấu khác xưa. Thói quen, Lạp không bao giờ thấy người đàn bà có chồng lại đẹp, và Lạp không để ý. Như chưa hề một lần bận tới nhau. Vả chăng, từ ấy tới nay việc đời và lòng người, thời gian nước chảy qua cầu.

Trung nói:

- Tôi về làng lần này cũng luôn để chào anh chị em. Tôi được đoàn thể cho đi Nam tiến.

Chính nói góp:

- Ở phố em rất nhiều chiến sĩ đi Nam tiến. Có mấy thằng bạn đương rủ em đi.

Lý Dĩ ngồi điểm chuyện, chốc chốc lại đánh trống chầu mồm bằng một tiếng “à”, một tiếng “ồ”:

- Ồ, gớm thế. Sướng quá, cờ đến tay ai người ấy phất. Phải, tội gì không đi Nam tiến - làm như cái gì lão cũng biết và không biết.

Bà Hương hỏi:

- Nam tiến là đi đâu a?

- Là vào trong Sài Goòng.

- Vào tận Sài Goòng à? Thế thì các anh đi đi cho mau chóng bình yên. Gớm thế, vào tận Sài Goòng... Mai kia tàu Sài Goòng sẽ ra, lụa Hà Đông lại vào Nam.

Bà Hương cười khớ khớ.

An nhìn Trung, bỗng nhận thấy Trung một vẻ hiên ngang và bí mật. Chiếc mũ ca lô dạ tím với bộ quần áo nâu dưới lưng áo thò nòng khẩu súng ngắn. Thì An thèm. Nhưng chỉ thoáng thôi. Bởi vì, ăn xong, An lại tất tả ra đình cùng thanh niên sửa soạn tối kịch. Việc của An ở làng Hạ cũng đã thích và bận lắm.

°
°     °

Ăn cỗ ở nhà bà Hương ra, Trung và Lạp đi dạo quanh làng trong ráng chiều dần dần đỏ ửng. Trung sẽ đi ngay tối nay. Nhưng Trung cảm chuyến này đi xa, đi lâu, tự dưng Trung thấy cái gì xung quanh cũng gần gũi, thân thiết giống khi tấm bé. Những thằng bạn từ lúc để chỏm đã mấy lần xa nhau lại gặp nhau và mỗi lần một khác. Giờ đây Trung còn muốn bàn với Lạp nhiều chuyện. Vả chăng, ở làng bây giờ cũng chỉ có mỗi nó trụ cột mà thôi.

- Bao giờ tao về, chắc làng đã khác lắm. Con đường này đã lát gạch hết. Nhưng nên bỏ lệ lấy gạch cheo của con rể làng. Đời sống mới rồi.

Trăng vừa lên. Hai người trẻ tuổi đương vẽ ra một làng Hạ mai sau, trong khi họ qua những xóm ngõ trống hốc, hoang vắng, không một tiếng chó cắn, gà gáy, còn nguyên dấu vết cái đói khủng khiếp mà làng Hạ chưa gượng lại được. Cả đến hai người đương khoác tay đi đấy cũng còn gầy xác xơ phờ phạc. Cái vui cái mới lấn át đưa người ta lên mà thôi. Thế mà ánh trăng đêm thu muộn trong leo lẻo, rời rợi mùi hoa thiên lý, hoa cau, hoa móng rồng từ các bờ rào nào thoang thoảng ra, như hy vọng trong lòng người. Những chòm lá xoan, những cành tre và tàu dừa phe phẩy, lấp lánh không biết nước mưa hay sương, hay ánh trăng đọng. Ánh trăng thu gọn và tô đậm những bụi cây như người ngồi người đứng với nhau trên bờ ao nước loáng sáng.
Xa xa, trên vòm tre, trống rộn rã gọi các xóm ra sân đình xem diễn kịch.
Trung nói:
- Ta lại nhà thằng Ba.
Trước khi ra đi, Trung muốn nhìn lại cái trạm liên lạc mà cả nhà Ba đã chết ở đấy, cũng ở đấy năm xưa có một cái phản mọt, khi đầu tiên chống thuế, khi mới có tờ cứu quốc, ngày đêm họ nằm ngồi quanh trên cái phản ấy. Những chuyện cũ đương gợi lại. Tuy vậy, không ai muốn nhớ chuyện cũ và buồn.
Trung bảo Lạp:
- Này, hôm nọ Hai Tâm có chuyện với tao về mày. Xem ý thì ả ấy quấn mày lắm. Tao nghĩ bây giờ đã hết thời phong kiến mày làm bố thằng Tâm được đấy.
Lạp im lặng, không trả lời. Thì, Trung lại hỏi một câu khác:
- Mày còn nhớ năm trước có một đêm có chị liên lạc quảy hàng đến trạm rồi hỏi thăm tao.
- Nhớ.
Trung tần ngần kể lại chuyện cô Gạch ở xóm lò gạch cạnh sân bay Bạch Mai, nơi Trung công tác dạo ấy. Lạp ngớ ra nghe. Thật cảm động. Lạp cũng không nhớ lại được mặt cô Gạch đi giao thông đêm ấy mà chỉ thấy là bùi ngùi một mối tình tuyệt vời. Nhưng Trung nói:
- Tao sắp đi xa rồi, thôi bỏ hết. Còn mày thế nào thì phải giải quyết đi. 
Lạp không hiểu “thế nào”, Trung muốn hỏi gì. Câu chuyện lạ lùng Trung vừa kể đương cuốn Lạp man mác theo mối tình đẹp đẽ ở con người tưởng như khô khan như Trung ấy. Im lặng. Nhưng rồi Lạp lắc đầu nhẹ nhẹ:
- Tao không, không mà.
- Cũng chẳng hơi đâu tao ép, tao chỉ báo trước mai mày đi cùng đường lên huyện dự lớp huấn luyện chính trị, thể nào Hai Tâm nó cũng bắt mày trả lời. Tự do thảo luận nhé!
- Đừng nói nữa. Tao vẫn chưa nguôi được những nỗi đau.
Rồi Lạp lảng chuyện khác:
- Mày đi Nam tiến chắc sẽ gặp thằng Lê.
- Ờ cái thằng chúa tả khuynh ấy bây giờ chắc đương được đánh quân xâm lăng, hả lắm.
Trên cái phản mọt nhà Ba, mộng lập Ái hữu, mộng làm thơ, viết báo, anh Tần về huấn luyện say sưa từ ngày ấy rằng sau này chúng ta hết nghèo khổ, có phải bây giờ thế này là thế giới đại đồng rồi không? Biết bao công việc xa lạ. Lạp đương tưởng tượng Nam tiến, Trung sắp đi là con đường dài tít tắp, đoàn quân giải phóng vừa đi vừa chiến đấu.
Hai người đến bên bờ ao, cả khu nhà bây giờ chỉ có cỏ mọc. Bóng trăng in hình người và bờ nước xuống mặt ao trong. Bên kia vườn xanh thẫm. Lạp đương ngờ ngợ, chiêm bao. Lạp tưởng như không phải mộ Nhàn trong vườn. Mà Lạp trông thấy Nhàn đương đứng dưới gốc cây táo bên ấy đợi Lạp. Như sớm sương hôm nao, người tắt cánh đồng đi mít tinh chợ Cầu. Cảm giác mênh mông, rờn rợn tràn ngập lòng Lạp.
Lạp đã kể Trung nghe cái đêm Lạp từ vùng trong trở về với Nhàn, yêu Nhàn. Đêm ấy giống đêm nay không. Cũng ông trăng này, nhưng ông trăng đêm ấy, đục đờ như miệng con mèo gào rồi lặng ngắt.
Trung im lặng. Không ngờ mà lại éo le, thảm thương đến thế. Trung không nói những câu đùa cợt Lạp như lúc nãy nữa.
Hà Nội 1957
 Hoài
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Chùm thơ thiếu nhi của Ngọc Khương Nhà thơ Ngọc Khương tên thật Nguyễn Ngọc Khương, sinh ngày 26.11.1949 tại Quảng Lộc, Ba Đồn, Quảng Bì...