Ký ức Đông Dương 2
TRÊN CAO NGUYÊN BÔ-LA-VÊN
Pác-Xế, tỉnh lỵ Cham Bát-xác nằm giữa cánh đồng Mường Cần phì
nhiêu, những cánh rừng ngây ngất xung quanh núi Ba Chiêng, núi Xa Lâu đỉnh phẳng
như xén và núi Giăng Màn lẫn lộn trong màn sương buông ngang; thoạt mới trông
đã thấy ra quang cảnh giàu có Nam Lào.
Quãng ấy, sông Xê Đôn từ cao nguyên Bô-la-vên chảy xuống Mê
Kông, từng khúc Xê Đôn uốn lên như rỡn, như múa mừng gặp sông mẹ. Thật là thú vị,
khách ngồi dưới bóng cây táo cổ thụ đợi máy bay, như ở vườn nhà.
Bô-la-vên, vùng cao nguyên mênh mang hàng vạn ki-lô-mét vuông
sừng sững và đột ngột giữa đồng bằng như một huyền thoại. Bô-la-vên mơ màng và
sâu thẳm ý nghĩa như huyền thoại! Nhưng trên dãy núi Tê-vê-rê-đa xanh như khói
trước mặt, ai biết mới năm năm trước, máy bay B.52 không quân đế quốc Mỹ đã đêm
ngày ném bom xuống đấy, rung chuyển rừng núi. Những trận chiến đấu ác liệt, mà
quân đội nhân dân Lào và tình nguyện quân Việt Nam đánh cho bọn quân đánh thuê
người Thái Lan không thể một phút đặt chân được lên cao nguyên.
Bây giờ Bô-la-vên chỉ có mênh mông im lặng.
Thấp thoáng, nhà mái tôn trong cỏ tranh, cỏ tranh cao ngang
cây và mây trắng ngổn ngang từng mảng trước mặt thấp xuống ngang cây. Những chiếc
xe bò mải miết xuống Pác-xế, trên chất bắp cải, khoai tây, dưa gang, su su… cả
những ôm hoa thược dược, hoa hồng đỏ hây.
Buổi sáng trên đồi A Chau Đê giữa thị trấn Pác Xoong. Sông suối
vờn trắng quanh làn cỏ tranh. Ai đã từng xuôi ngược nước Lào từ Nam lên Bắc, đến
cao nguyên này sẽ dễ dàng có một nhận xét lý thú: trên đất nước Lào không sao để
ý phân biệt kịp thời được con đường và dòng sông, bởi chi chít những nhánh sông
từ lưng Trường Sơn xuống phía Tây, đan ngang qua nước Lào ra hòa vào sông mẹ Mê
Kông, những mạng lưới đường nước ấy còn nhiều hơn đường đất, cứ đứt quãng lại
chắp nối với đường đất. Người ta đi trên đường, rồi người ta đi trên nước, đường
đất và đường nước nối nhau tự nhiên cứ thế chi chít khắp nơi.
Có lẽ vì được đất đai và nước hài hòa thế mà cao nguyên
Bô-la-vên đất đỏ sẫm. Rừng sa nhân và nương ngô bạt ngàn của người dân tộc Nha
Hớn, người dân tộc La-vên. Và từ ngày trước, cà phê các đồn điền Bô-la-vên đã nổi
tiếng nước ngoài.
Giữa thành phố mà chỉ có lặng im, không có gì cả. Xưa kia,
Pác Xoong đã từng là phường phố mà bây giờ hoàn toàn hoang tàn. Nhìn mãi tít
vào trong thung lũng mới thấy thấp thoáng một mái nhà, có bóng người đụng đậy
trước cửa. Rất lâu, nghe tiếng pang, pang xa xa đưa đến. Người đương chặt củi.
Chỉ nghe mỗi tiếng chặt củi, không một tiếng gì khác.
Mới hôm qua, tôi ở Pác-xế đi trong quang cảnh chợ cửa sông
trên bến dưới thuyền ngổn ngang những xe bò dưa hấu từ Pác Xoong xuống. Bây giờ
lại đương qua một vùng rừng vàng, hình ảnh lẫn lộn nơi trù phú xưa kia và những
công cuộc phát triển ngày nay, đâu đâu cũng thấy được những tội ác, tàn lụi và
những cái mới đương chen lấn nhau. Người đi với biết bao suy nghĩ.
Hồi đầu thế kỷ, khi Pháp mới xâm lược Đông Dương, nó đã chú
trọng ngay tới những tài nguyên khác thường của cao nguyên Bô-la-vên. Ở đây mỗi
gò đất đỏ xuộm đầy hàng trăm thước, màu mỡ như xắn ra được, từ các khuỷu sườn đồi.
Bởi vậy bọn thực dân Pháp đã không chịu chỉ cướp của giết người quanh các cánh
đồng và cửa sông. Nó đã đánh hơi thấy bao nhiêu của cải tiềm tàng nơi rừng
hoang. Thế là vùng đất đỏ bắt đầu được khai phá thành từng dải đồn điền cà phê.
Những người nông dân nghèo tận đồng bằng sông Hồng, sông Mã miền Bắc Việt Nam
cũng lũ lượt kéo sang Lào bán sức kiếm miếng ăn. Những cơ ngơi huy hoàng của kẻ
cướp và chúa đất thời ấy bây giờ họa hoằn còn dấu vết ở một mảnh tường đá chơ
vơ cạnh đồi, ở vài cây cà phê, mít và cây chè còn lại, tất cả như đương cố sống
nghểnh lên trên đám cỏ tranh, để cho cuộc sống mới biết đến ta.
Tưởng như cả đến mỗi làn mây trắng ngà bay trên cao nguyên đầy
truyền thuyết này cũng mang lại những cổ tích và mỗi phong tục cổ vẫn còn lại
trong từng gốc cây mà người nào cũng nhớ, ai cũng ao ước. Ai làm được nhà cho
trăm người con trai đến ở, nhà ai nhiều chiêng nhất, nhà ấy giàu… Mồ mả người
Bô-la-vên xưa nay chôn cất cả ở đầu xóm. Trên nấm mộ cũng cất lên nhà một gian
tề chỉnh, theo phong tục có trâu, bò, lợn, gà buộc quanh. Bô-la-vên, tiếng
La-vên có nghĩa: chỗ người La-vên ở, người sống và người chết cùng quây quần ở.
Bô-la-vên! Bô-la-vên! Trên vùng đồi của núi trông ra bốn phía
cao nguyên một màu xanh chắn ngang tầm mắt. Đường đi A-tô-pư vẫn hun hút màu
xanh ấy, trên màu xanh giàu có và đất đỏ phì nhiêu kia đã bắt đầu mọc lên những
công trình mới mẻ của nước Lào độc lập.
Các đội sản xuất của các nông trường rải rác trong thung
lũng. Những mái nhà tranh mới ở chụm dưới gốc mít cổ thụ, những cây mít rừng đã
có tuổi trăm năm trở ra. Những đàn bò nông trường nhấp nhô đi lẫn vào trong lùm
cỏ như sóng cỏ xanh và sóng lưng bò vàng nhau.
Nông trường 08 ở Mạc Nao, cuộc sống mới đã trỗi dậy từ 1978.
Sáu đội sản xuất gồm hơn tám trăm công nhân ở với gia đình. Đầu năm nay, trồng
xong 460 héc-ta cà phê, 60 héc-ta chè, 10 héc-ta canh-ki-na thí điểm… Nông trường
nuôi đợt đầu trên năm trăm bò… Gà lợn lúc nhúc táo tác quanh các khu nhà ở. Trước
cửa mỗi nhà, xanh mướt vườn lúa mố và những luống khoai tây và cả những cụm hoa
hồng, hoa lay ơn.
Tôi ghé vào đội 1. Cái vui tai đầu tiên, ấy là trong nhà trẻ
ríu rít những tiếng cười, tiếng trẻ hờn. Rồi những tách chè ngon của Bô-la-vên
được đưa mời khách.
Vẫn giữa những phì nhiêu còn đơn sơ mà những công trình con
người dựng lên chưa thấm tháp được là bao. Gió ào ào qua một vạt cỏ tranh nhô
lên tấm biển xi măng mốc rêu. Hàng chữ Pháp đắp nổi: Thành phố Pác Xoong. Nhưng
trước mặt vẫn không thấy nhà cửa đâu. Chỉ có cỏ tranh, cỏ tranh… Máy bay B.52
giặc Mỹ đã san bằng cả thành phố giữa cao nguyên này. Chỉ còn mấy nền nhà, cái
khung cầu chợ. Ngoài đầu ô, vài nhà người dân tộc Nha Hớn và ở chợ, một bà già
người Việt quê ở Phủ Lý, trước làm phu đồn điền, bây giờ đi buôn hoa trái xuống
Pác-xế.
Người ta kể, cho đến năm 1975, Pác Xoong cũng đã vắng vẻ,
nhưng vẫn còn một dãy phố, một cái chợ, một đài nước. Nhưng rồi cuộc xâm lược của
đế quốc Mỹ tràn đến. Bọn đánh thuê Thái Lan vượt sông Mê Kông sang. Lính bù
nhìn Thiệu nống lên. Máy bay B.52 rải thảm cả vào rừng núi, hỗ trợ cho bọn đánh
thuê tiến lên Pác Xoong. Pác Xoong chỉ còn có một tấm biển xi măng trơ trọi giữa
rừng cỏ tranh như thế. Nhưng quân xâm lược cũng không đặt chân tới được.
Ngày nay, phía ngoài thành phố đã bị tàn phá, trông sang bên
kia đồi có nghĩa trang liệt sĩ Lào-Việt - mối tình đoàn kết quốc tế thiêng
liêng. Những nấm mồ chiến sĩ tượng trưng cho hình ảnh và tinh thần bước mở đầu
cuộc sống Bô-la-vên hôm nay. Thường ngày có người đến đặt hoa mới viếng các liệt
sĩ.
Đứng cửa núi Pác Xoong mà thấy ra đêm cao nguyên trong vắt,
nhẹ thênh, ngỡ là tất cả đất trời thênh thang tụ lại ở chỗ chơi vơi này. Tự
nhiên, trời không cơn mà mưa, mưa như không biết từ đâu tới. Tiếng dào dạt thật
xa rồi thật gần. Cao nguyên bỗng ấm áp lên trong mưa đêm.
Thấy trên các phía lên đồi thấp thoáng ánh đèn trong mưa. Người
xách đèn đi tới. Điều lạ lùng là ban ngày chỉ có hoang vắng, thế mà, đêm đến,
người ở đâu kéo ra lắm thế. Đây là các nhóm người Nha Hớn, người La-vên, thanh
niên các nông trường, các cơ quan huyện, các bạn ấy nghe tin có khách xa đến, rủ
nhau lên múa hát vui với khách - phong tục quý của đất nước Lào, mà cả đến những
nơi khuất nẻo này cũng vẫn đượm nếp sống đẹp như giữa Thủ đô Viêng Chăn.
Đã quá nửa đêm, cuộc múa lăm vông vẫn đầm ấm trong tiếng mưa.
Tiếng hát, tiếng khèn, tiếng chiêng trộn lẫn tiếng mưa. Trên sàn nhà khách, những
vòng múa hát cứ nối tiếp triền miên tưởng không bao có thể dứt, không biết đến
đêm, mưa đêm. Bộ gõ rộ lên, bộ gõ bằng da trâu làm lấy. Lăm vông ở một vùng hẻo
lánh mà đã thấy khéo. Những chắp tay cám ơn, đôi mắt đắm đuối qua hai bàn tay
chắp. Những làn mắt đan vào nhau, tìm nhau, tiễn đưa và gặp lại, thấy ở bước nhảy,
ở những cánh tay, ngón tay. Ở cuộc múa ở Sây Khay trên Viêng Chăn, tôi đã được
nghe nói lăm vông Nam Lào múa phóng khoáng kiểu cách riêng, bây giờ mới được thấy
tận nơi.
Chúng tôi nghỉ một vòng, ngồi uống rượu và nếm ngô luộc - lớp
ngô đầu mùa, ngọt như mật, mỗi bắp to dài bằng cánh tay.
Đồng chí Nơn, bí thư huyện, người dân tộc Nha Hớn, cũng trạc
tuổi tôi, trải qua hai cuộc kháng chiến, tóc đã bạc, nhưng vẫn múa dẻo. Bước ra
vòng múa, chắp tay kéo áo, lịch sự với cô gái mời múa, như một chàng trai trẻ.
Bây giờ chúng tôi ngồi nói chuyện.
- Huyện tôi có bốn tà sẻng (xã) với 85 làng. Hơn hai vạn nhân
khẩu, không kể người các nông trường, công trường nhà nước.
- Tình hình bây giờ thế nào?
- Thế nào à? Đi học từ năm 1976 tới nay, đã ăn mừng xóa xong
nạn mù chữ cả huyện.
- Thưa đồng chí, tình hình có gì nữa?
- Chúng tôi có hợp tác xã thí điểm của 51 nhà ở Huổi Cong.
- Khó khăn ra sao nhỉ?
- Nào ngô, nào lợn gà, các nhà không ăn hết mà không có chợ,
không ai lên mua, chẳng nhẽ phải đưa xuống tận Pác-xế, xa quá không đi được.
Đồng chí Nơn cười hồn nhiên. Cái cười vui lây sang cả khách
và chung quanh. Chúng tôi cùng cười. Ngoài vòng lăm vông cũng cười hát với những
mùa xuân của đời người đã về trên cao nguyên trong đêm đầm ấm hơi mưa.
VIÊNG CHĂN HÔM NAY
Giữa mùa mưa, cơn mưa cơn nắng cứ nối nhau từng quãng, xanh
thẫm rừng Lào.
Trên sông Mê Kông, trông sang phố huyện Xi Xiêng Mai bên kia,
trông thấy liên tiếp một dãy nhà sàn mái tôn úp xuống kề mép nước.
Tiếng một bài hát Thái thánh thót như chui lên từ dưới mặt nước
đương vần vũ, đỏ ngầu. Nước lũ tràn vào đã lụt khắp tỉnh Nong Khai và vùng Đông
Bắc Thái Lan - bờ Mê Kông phía ấy, thấp chênh hẳn xuống.
Và nước cũng mấp mé vào thành phố Viêng Chăn.
Trên đảo Đon Chăn giữa sông, những vườn cây rậm rạp mọi khi,
bây giờ chỉ còn phơ phất mấy chòm lá đương bị ngọn sóng đánh táp đi. Mỗi lúc
nhìn ra đầu phố, những chiếc sà lan neo đấy hôm qua còn lấp ló, bây giờ đã bềnh
lên, trông rõ cửa bồng với chiếc ván gỗ bắc cầu.
Nước Mê Kông mênh mang lên, nước Mê Kông thong thả xuôi đi.
Những cây me, những cây bàng, những cây đề cổ thụ dọc bờ sông, nước lên cuốn
quanh gốc. Nhưng vòm lá vẫn xanh om.
Người trong phố ra những cái sa la - quán nghỉ chân, cỏ sàn gỗ
ngang ra mặt nước, nhìn nước lên trước mặt. Như mỗi buổi chiều nắng, cả nước
Lào đâu cũng thấy mặt trời lặn bên Tây sông.
Cây đại trước cửa chùa nở hoa trắng lốm đốm mặt nước. Những
chiếc thuyền đuôi cá từ ngoại ô tíu tít vào bến, đưa lên bờ những buồng chuối,
những mớ rau cải sớm. Cuộc sống thành phố ấy thật bình thường bên cạnh nước mấp
mé lụt lội đến nơi.
Viêng Chăn không lặng lẽ thế đâu. Mê Kông nguồn từ Tây Tạng, cùng
gốc với Dương Tử và sông Hằng, dài ba nghìn ki-lô-mét thân mình. Thế mà đã có cả
một nghìn tám trăm năm mươi ki-lô-mét đường nước qua đất Lào. Nhưng cũng không
thể đem cái lo toan của con người ở với sông suối dữ dội vùng sông Hồng quê tôi
đến đây mà trông, mà nghĩ về nước lên ở con trường giang này.
Đến mùa mưa, nước Mê Kông dù có lên tràn bờ rồi nước cũng lại
rút, xưa rày vẫn thế.
Con trạch đê chạy dọc bờ sông thành phố mới đắp năm ngoái.
Công trình của nhân dân lần đầu tiên biểu hiện sức mạnh con người chống nạn nước.
Bởi vì Mê Kông vốn chưa bao giờ cần có con đê. Năm 1966, nước ngập Viêng Chăn.
Cả thành phố một tháng chạy lên trú vùng đất cao quanh Tháp
Luông.
Năm nay, lại có nước lớn. Nhưng cách mạng bảo: Thành phố
chúng ta không thể bị lụt. Cả thành phố đã đi chặn nước.
Viêng Chăn như lặng tờ. Nhưng thật ra Viêng Chăn đương sôi nổi.
Viêng Chăn thế đấy.
Viêng Chăn của cảnh đẹp và di tích lịch sử, có sức sống với
dáng dấp riêng của mình. Mọi sinh hoạt bình thường, xe cộ, chợ búa, cửa hàng cửa
hiệu bên những hoạt động của cán bộ, các cơ quan, bộ đội, công nhân nhà máy, tự
vệ dân quân khu phố, học sinh nhộn nhịp ra canh giữ, đắp thêm những quãng đê yếu.
Từng đoàn ô tô đầy người với tiếng hát, tiếng trống. Không phải tiếng ngũ liên
rợn sông Hồng vào mùa nước, mà tiếng nhịp bằng hai bàn tay đệm thoang thoảng
cho tiếng hát.
Những tiếng trống bập bùng trên đoàn xe từ xa xa ra bờ sông.
Tiếng động cơ rền trong tiếng hát và tiếng trống. Đoàn người hộ đê vừa đi vừa
hát. Cuốc, xẻng vác vai cũng trở thành tiếng trống đệm tiếng hát.
Nước Lào chống lụt trong tiếng trống và tiếng hát bồng bột.
Trong nét hiền hòa của con người và thiên nhiên - ngay những
ngày mưa và cả mùa mưa tầm tã, những mưa cơn mưa trận ở đây cùng đượm một khuôn
mặt, một ánh mắt dìu dịu mỗi người tôi gặp - vẻ hiền hòa trầm tĩnh, kiên nghị.
Và một tình cảm cách mạng thật hồn nhiên.
Tôi đã hiểu như thế, từ lúc gặp ở sân bay Vạt Tày, một cô gái
Viêng Chăn vừa đi học nước ngoài về.
Tôi hỏi:
- Cô xa nhà đã mấy năm?
- Em xa nhà từ năm em lên mười.
- Đến bây giờ là bao nhiêu năm?
- Mười bốn năm.
- Em về thăm mẹ mấy lần rồi?
- Ngày ấy, em ra vùng giải phóng Sầm Nưa, học văn hóa xong,
em đi học bác sĩ.
- Đến bây giờ mới trở lại Viêng Chăn?
Cô cười thùy mị và gật đầu. Cô ghi vào sổ tay tôi một cách tự
nhiên “Cô Bun Hiêng, bác sĩ, số nhà 82 Sây Khay...”. Lúc chia tay, vẫn nụ cười
hiền và lặng lẽ ấy, cô thong thả xách va-li ra cửa ga, rồi cô lặng lẽ qua dưới
bóng những cây bàng, như người đi chợ về. Không thấy một thoáng ngơ ngác của
người đi mười bốn năm mới trở lại thành phố quê hương.
Ấy chỉ là cái trông thấy. Viêng Chăn còn bao nhiêu bề ngoài
ngỡ như trái ngược. Công việc khẩn trương của một thành phố hộ đê, người đã sắp
đẩy cả thuyền ngoài sông vào trong phố mà tất cả cứ tưng bừng trong tiếng hát.
Như cô bác sĩ Bun Hiêng đi học tốt nghiệp về phục vụ, biết bao xôn xao, sôi nổi,
thiết tha mà lại thể hiện trong những bước đi thanh thản, bình lặng.
Viêng Chăn - những tán bàng xanh mởn, con đường hoa ban đỏ,
những đầu đao mái chùa cong như những ánh lửa nhỏ rỡn lên. Cốt cách của thành
phố cổ kính xưa nay vẫn một nét, chỉ có một ấy, trước bao biến cố trái ngược
ngoài đời.
Những ngược đời, những nghịch cảnh mà tôi đã thấy ở miền Nam
đất nước tôi và ở Viêng Chăn càng cho tôi thấm thía rằng cách mạng Việt Nam
cũng như cách mạng Lào, sau hơn ba mươi năm chiến đấu chống kẻ thù chung, chúng
ta có những niềm, những thông cảm, những suy nghĩ và tâm sự như nhau từ Việt Bắc,
từ Hà Nội hay từ khu căn cứ trung tâm của kháng chiến Lào ở Hua Phăn đến Viêng
Chăn giải phóng ngày nay.
Viêng Chăn có nhiều xe kiểu du lịch của Tây Đức và Ý. Ở đống
rác bờ sông, có cả xác ô tô. Một dạo, các nước phương Tây đổ hàng hóa vào đây,
khoe của với rừng núi, các hãng đem ô tô đển bán chịu cho trả dần vừa biếu phiếu
mua xăng. Kỳ lạ, và bởi kỳ lạ vậy nên mới có những cảnh trái khoáy: một thành
phố hành chính bé nhỏ, khuất nẻo ở một nước nông nghiệp còn cày cuốc và chọc lỗ
gieo hạt, xung quanh phố xá vẫn còn đất chưa khai phá, thế mà có vô khối những
xe Fi-át 1974 đỏ nổi đuôi ở cửa chợ Hôm, chợ Mai, chợ Vạt Tày chen nhau với
hàng trăm cải sam-lô, cái xe lôi từ mồ ma thời Pháp thuộc hơn ba mươi năm trước
thấy ờ Sài Gòn, ở Phnôm Pênh mà nay vân lĩnh kĩnh đi trên đường phố nước Lào. Ô
tô mác mới có nhiều, nhưng cũng chưa nhiều bằng những cái xe lôi cổ lỗ ấy.
Ngót trăm năm thực dân Pháp chiếm nước Lào, cả nước Lào không
có nổi hai trường trung học. Trên hai mươi năm đế quốc Mỹ tràn vào Lào, phố xá
Viêng Chăn chưa có cống rãnh và hè phố thành hệ thống. Bên dãy nhà sàn ngập ngụa
trong lầy lội nhoi lên những tầng nhà ăn, nhà ngủ hiện đại. Cao lầu Tầu Tân Đào
Viên, hiệu ăn Nhật Také, những khách sạn Apollo, Inter... tiệm nhảy Lex... đứng
giữa ao rau muống. Đêm mưa, hôm tôi mới tới, đêm trên lầu khách sạn Apollo,
khuya vẫn chưa chợp mắt. Ngờ đâu đây vẫn còn xập xình nhạc hộp đêm. Hóa ra tiếng
ễnh ương, chẳng chuộc kêu trong mưa đầu mùa hạ.
Trong đêm tối, lại hiện ra một nước Lào đau thương đứng im giữa
bóng rừng. Thế mà, thời đế quốc Mỹ ở Viêng Chăn, có lúc chỉ riêng sứ quán Mỹ,
nhân viên ngoại giao và tình báo các loại đội lốt hành chính đã lên tới con số
nghìn. Chẳng ai lạ những mưu kế hòng đánh phá cách mạng Lào, khống chế và thủ
tiêu những lực lượng dân tộc tiến bộ, nuôi phỉ Vàng Pao. Đây là những thủ đoạn
hiểm độc to lớn. Bây giờ, người Viêng Chăn vẫn kể nhiều chuyện lặt vặt về người
Mỹ đến Viêng Chăn. Họ công tác ở những ngành nào không biết, nhưng ai cũng làm
ba việc giống nhau: một buôn lậu thuốc phiện; hai là buôn vàng đem về thị trường
vàng Sài Gòn; ba là quanh năm thuê thợ mộc đóng giường tủ, bàn ghế bằng gỗ tếch,
gỗ trắc, đóng từng kiện hàng tạ hàng tấn đồ gỗ như thế gửi về Mỹ, mà gửi theo
cách gửi hàng ngoại giao (khỏi bị thuế và cước). Ai ở Viêng Chăn cũng đều biết
ba việc làm quá quen ấy của người Mỹ thời Mỹ ở Viêng Chăn. Thời ấy, Viêng Chăn
như cái chợ đầu bến cưa rừng cho kẻ cướp Mỹ đi buôn.
Dọc bờ sông hôm nay, còn lác đác những nhà hàng khách ngồi ăn
uống kề ngay trên mặt nước. Những quán buổi chiều người ăn chơi ra hóng mát, ngắm
mặt trời lặn bên kia sông. Nhưng, cũng bây giờ vẫn còn thấy, trong cảnh nghèo
khó của người lao động, có nét ủ dột riêng: khắp phố phường, đi rều rễu những
chiếc xe ô kính hàng rong quà vặt đựng múi bưởi, khâu mía, nắm lạc luộc, cái
chuông lắc buồn bã... chỉ thấy đi không thấy dừng lại bán.
Hình thù những ngày tháng ê chề cũ...
Nhưng không phải Viêng Chân chỉ có thế. Một Viêng Chăn thật
Viêng Chăn của cô bác sĩ Bun Hiêng, kể cả trong những ngày tháng cũ, cũng không
chỉ rặt những éo le và phù phiếm bề ngoài.
Viêng Chăn với truyền thống nghìn năm phát triển của dân tộc
Lào trên hai bờ sông Mê Kông lúc nào cùng tỏ rõ sức sống của mình.
Thành phố trong rừng cây, Viêng Chăn mang hình bóng những
thành phố bờ sông đẹp một vẻ Lào, tất cả các con đường trong thành phố đều chạy
ra mép nước.
Ngót hai nghìn ki-lô-mét đường nước, Mê Kông chỉ có sông
nhánh từ một phía Trường Sơn đổ ra: Nậm Khan, Nậm Ngừm trên Bắc xuống, sông
Sê-ban-hiêng sông Sê Đôn dưới Nam rồi cái chấm cùng hùng vĩ là thác Ly-phi -
thác Khôn, cả một dòng sông lớn ào ạt luồn sáu đợt núi ra, tiếng nước quanh năm
rền như sấm.
Các thành phố Lào, các trung tâm kinh tế, văn hóa đều ngồi
trên bờ nước. Những dòng sông cả nước trở thành con đường giao lưu. Từ sông trục
Mê Kông vào các sông nhánh, bao nhiêu đường nước chằng chịt, man mác. Từ thuở
xưa, trên những đường nước ấy, người đi vừa trèo vừa hát đường trường. Bài khèn
sông Nậm U, bài khèn xuôi sông Sê-ban-hiêng, với những giọng khắp hát theo bờ
sông xuôi ngược. Tiếng đồn hát khắp Nậm Ngừm - tiếng hát Nậm Ngừm, khắp Khỏng -
tiếng hát sông Mê Kông, tiếng hát sông Mê Kông dạt dào xuống tận vùng Khỏng-sê-đôn
bốn nghìn hòn đảo rải trên mặt nước.
Viêng Chăn trong mùa mưa nước Lào. Mỗi ngày mỗi đêm, khi mưa
khi không chợt nắng, chợt rào rào. Hoa lá cũng như theo mưa nắng mà đậm nhạt từng
lúc. Những cây ban hoa đỏ. Những tán bàng xanh mởn. Những vừng hoa sen nở đỏ thậm.
Xanh lá xanh mượt, xanh thăm thẳm như kéo dài qua dòng sông sang tận bên kia nước
Thái Lan có rặng tếch mờ như khói trong làn hoa vàng rắc phấn. Viêng Chăn,
Viêng Chăn trước thiên nhiên vẫn nguyên khuôn mặt đáng yêu tưởng như đã tự bao
giờ. Bởi vậy, những nét khỏe của cuộc sống mới tô đậm vào trời đất ấy, là một
điều tự nhiên.
Trong bóng chiều, bóng cây xanh ngắt xanh ngơ, những chị em
đi hộ đê về, áo hồng, váy lượn sóng gấu tím. Các cô thong thả bước, vai vác cuốc,
cánh tay trần. Lời hát ngày xưa rằng:Chớp trên trời sáng trắng như cánh tay em
đung đưa - bây giờ vẫn trông thấy trong hình dáng em, em đi mà đã như em vui
múa.
Viêng Chăn, thành phố những chùa những tháp công trình nghệ
thuật dân gian. Từ những năm 1641 - 1642, đoàn thuyền của lái buôn Hà Lan
Giê-nít Van Oen-stôp ngược sông Mê Kông lên Viêng Chăn đã được dự một đêm hội
thuyền, người phương Tây có công nghiệp sớm cũng phải ngạc nhiên trước cảnh
hùng vĩ “Khi trời vừa tối, hàng mấy trăm chiếc thuyền người chèo người đốt đuốc,
cuộc bơi thi bắt đầu quanh những chiếc thuyền thắp nến sáng như kiệu hoa, thế
là cả dòng sông mênh mông rực rỡ như nổi lửa lên”.
Truyền thống huy hoàng ấy đã soi tỏ lịch sử nước Lào. Cho tới
ngày nay, lúc nào đời sống đất nước này cũng là lịch sử một dân tộc cả nghìn
năm phát triển trên bờ sông Mê Kông, từ những thời kỳ chum đá tiền sử, tới cốc
đời tụ hội thành mường. Biết bao câu chuyện cổ tích kỳ ảo còn kể lại rằng hai
mươi hai đời vua từ Khum Lò tới Phạ Ngừm quần tụ cho đến khi bị mất nước cũng
là ngót trăm năm. Cả dân tộc với những người con nước Lào trên khắp đất nước đã
chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt tới ngày ra đời nước Cộng hòa Nhân dân Lào
- quốc gia đầu tiên trong lục địa Đông Nam Á tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những truyền thống cổ kính như lòng mong ước và mơ ước của
dân tộc, của tâm hồn Lào mà bọn cướp nước, dù chúng mặc áo lái buôn thế kỷ trước
hay bọn đế quốc, bọn phản động quốc tế hiểm độc thời nay không bao giờ có thể
hiểu được.
Tháp cổ Thạt Luổng - nơi để di cốt những người tu hành, tượng
trưng cho đỉnh cao nhất công trình của người giữa thế gian. Quanh sân cỏ xanh
mướt, bước lên tầng hai, suốt bờ tường nở từng cánh sen mọc châu tuần vào ba
mươi ngọn tháp. Đứng đây ngước mặt nhìn ngọn tháp cao mọc giữa mười hai cánh
hoa quỳ, ngọn tháp như ngọn nến vàng thắp lên trời, vẳng tiếng khánh reo trong
gió. Nhưng cây cọ cổ thụ cùng ra đời với tháp từ những thế kỷ trước, giữa ngôi
nhà sàn thênh thang “một nghìn cửa” - cái sa la lớn nhất các chùa trên đất Lào.
Trên sân sa la nghìn cửa giữa vùng cỏ xanh biếc, những tàu lá
cọ như những chiếc dù che. Bao nhiêu năm đã qua, mỗi năm lại đến một cuộc vui
đêm ngày của đám hội chùa Thạt Luổng đã cắt nghĩa được tâm tình con người với
những nét yêu, nét tin vô vàn.
Có thể nhận ra những nét tin yêu ấy ở đâu cũng có. Một cánh cửa,
một bệ tượng Phật ngồi trên cánh sen, những lá cọ, những bông lúa nếp, cành lá
ban vừa trông thấy trong bức tranh và nét khắc, ngước mắt ra sân vẫn thấy những
người ấy, cây ấy, lá ấy. Phật ngồi niệm, tay bấm hư vô, tay buông thư thái. Phật
đi cất bước như người đi ngoài đường. Mọi hình tượng của tín ngưỡng cũng là
quang cảnh đời sống và tâm tư con người. Pho tượng thần mưa óng ả trong chùa Phạ
Kèo, cả dáng thân mình chảy dài như dòng nước, hai tay buông, năm ngón năm giọt
nước rơi giữa mùa mưa nước Lào. Mùa mưa nước Lào, vẻ ngoài ủ dột ấy của thiên
nhiên nhưng lại chính đương chứa đựng một mùa mong đợi, mùa sinh sôi...
Mùa mưa và cánh đồng, công việc đồng áng cùng với tiếng hát
tiếng khèn, tiếng trống ở những thiêng nà - nhà lều coi ruộng, thân thiết, gần
gũi người và cuộc sống hôm nay.
Năm ngoái, nước Lào bị hạn. Các cụ già đến trăm tuổi cũng như
chưa thấy một lần mất mùa mưa như thế. Cả nước đi làm thủy lợi. Làng xóm vốn
quen canh tác đơn giản, buông cây lúa xuống ruộng chỉ còn đợi gặt hay chịu mất.
Bây giờ cách mạng kêu gọi người ta biết đi đắp bờ, khơi nguồn, đem nước vào ruộng
- những con kênh đất đỏ còn ngang dọc trên nhiều cánh đồng. Thế là vụ gặt tưởng
mất lại đến như những năm được mùa.
Chỉ có cách mạng mới biết làm như vậy, người ta bảo thế. Cách
mạng với khí thế lao động sôi nổi, hoàn toàn mới. Viêng Chăn đã lập lại và phát
triển được hàng trăm xí nghiệp, lo tự túc vật dụng sinh hoạt hàng ngày. Nhà máy
thủy điện Nậm Ngừm hoàn thành đợt hai, thêm điện cho thành phố và công nghiệp,
các trạm bơm ngoài cánh đồng tỉnh Viêng Chăn. Hàng trăm xí nghiệp tư đã được
công tư hợp doanh. Các nhà máy bia, nước ngọt, gỗ dán, thuốc lá, chủ và thợ đều
trong công việc với tinh thần mới, khí thế của lực lượng công nhân trẻ nước
Lào.
Đứng trong sân cỏ trông lên tường chùa Si-sa-vẹt, từ các hiên
quanh chùa, vách nào cũng thấy những bức vẽ, dầu là sự tích Phật Ra-may-a-ra
hay Phật Véc-san-ta-ra, thì trông đấy người xem tranh cũng nghĩ ngay tới những
sinh hoạt hàng ngày của đời sống dân gian. Nền tranh vẽ hàng đàn voi đi, voi đứng,
như con trâu, con dê trong chuồng. Đường sá đất Lào là sông nước, đi đâu một bước
cũng ngồi thuyền, vậy là trên tường cũng ngổn ngang những tranh vẽ thuyền. Đêm
Lào là đêm của múa hát, tường chùa cũng thấy múa hát. Trên tường chùa cũng như
cảnh trong làng, êm ả những nhà sàn người ngủ nằm nghiêng trông ra, trẻ con
chơi ngoài hiên đầu cầu thang, người ngồi cửa sổ nhìn xuống tàu ngựa, ruộng cấy.
Tôi đứng trông ra cửa chùa trên bờ sông. Những chiếc xe vận tải
đưa đất từ ngoại ô vào, những đoàn thanh niên đi hộ đê, vừa đi vừa lấy tay vỗ
lên mặt xẻng làm nhịp trống và cất tiếng hát. Như cũng thoáng bắt gặp những cảnh
nhộn nhịp ấy trên những nền tranh tường chùa.
Viêng Chăn đương vào những nét mới của thời đại. Cuộc sống cổ
kính trầm tĩnh hòa hợp những hành động sôi nổi, thiết tha. Lại nhớ dáng cô bác
sĩ Bun Hiêng nhanh nhẹn và trầm lặng, gắn bó bao nhiêu với hình ảnh con người
Viêng Chăn ngày nay.
Có hai cô trong đội tự vệ đường phố, súng khoác vai, đứng
trong mái sa la dưới bóng cây đề trước cửa chùa Vạt Chăn. Chập tối, những toán
thanh niên tự vệ các phố bắt đầu triển khai đi tuần sông.
Bên kia, phố Thái huyện Xi Xiêng Mai đã lên đèn, sáng xanh ngập
trên mặt nước.
Dòng sông và ánh mắt những người thanh niên tự vệ thành phố
Viêng Chăn, bình tĩnh và hiền hòa, vẻ đẹp của người Viêng Chăn trong niềm tin
kiêu hãnh.
NHÌN QUÊ
I.
Cuối bãi biển Kép tỉnh Kam-pốt có một cái phố nhỏ nằm im
trong hàng dừa - dừa Kép đã nổi tiếng đẹp, trông xa như một bức mành buông viền
sát ngay bên bờ cát trắng mát. Đấy là những quán hàng bình thường cho khách
chơi biển.
Ở đấy, nhìn sang được Hà Tiên, trông thấy cả bóng dừa và cát
trắng bên Hà Tiên, cũng như đây.
Bỗng dưng tôi trông thấy Hà Tiên trong vòm cây mờ khói sóng vịnh
Thái Lan một ngày chợt nắng rất hiếm hoi giữa mùa mưa Kam-pốt nặng nề. Đây đến
đấy, ca-nô đi ngót một tiếng.
Bóng dừa và mép cát mà tôi thấy kia là đảo Kim Dự, đó cửa vào
Hà Tiên.
Kim Dự này là núi chốt then
Xanh xanh dựng đứng cửa Hà Tiên 1
Hà Tiên ở đầu kênh Vĩnh Tế có cảnh đẹp Tô Châu và hồ Đông.
Tôi chưa bao giờ được đến những Đại Tô Châu, Tiểu Tô Châu, những hang Thạch Động
và chơi trăng trên hồ Đông. Tôi chưa hề đi dạo dưới hàng dừa Hà Tiên nổi tiếng
như dừa Kép, chưa lần nào được nghe, tiếng hát trong vườn hồ tiêu của người gái
Hà Tiên đẹp đã nức lờí đồn đại. Tôi chưa có may mắn tới Hà Tiên. Nhưng văn
chương quả là có thần đã làm cho cảnh với người bất tử và tuyệt vời, cứ khiến
tôi những tưởng từ ngày nào đã biết:
Bãi khói dưới không hương lạ bủa
Hồ gương trong có gấm thêu rơi 2
Và ô hay, làm sao cứ vương vấn mãi với tâm hồn Nguyễn Cư
Trinh man mác một đêm trăng rải hồ Đông:
Đêm đến, ai mài giũa ra hai hòn sáng rõ
Một cho nhà trời, một cho cõi nước
Nước nói trời học đúc mâm bạc
Trời ngỡ nước điểm trang trước gương ngọc 3
Mà đây về tới đấy, về tới Hà Tiên đất nước Tổ quốc tôi chỉ
cách có vài mươi phút đường biển!
Tôi đến ngồi một nhà hàng ngay bên một gốc dừa ngả xuống mặt
biển, cho được trông thật rõ Hà Tiên. Hà Tiên với mình chỉ cách có một khoảng
nước xanh này mà thôi nhỉ? Trước cửa nhà hàng, một người đàn bà Việt từ bờ bể xách
một giỏ cua ghẹ lên đi về phía chúng tôi. Những con cua ghẹ lớn, mai xanh, thịt
đặc biệt ngọt thơm. Trong vịnh Thái Lan, thì ở Kép, ở Hà Tiên hay ở Rạch Giá,
đâu cũng có. Tưởng như ở đây, hay ở Rạch Giá, ở Hà Tiên lúc này đương mùa chơi
mát trên bãi bể, cũng đều có người đàn bà và những em nhỏ xách giỏ cua ghẹ vẫn
ngâm sẵn dưới bể, thấy khách lạ thì rón rén tới, ngọt ngào hỏi khách có mua
không.
Người đàn bà ấy quần áo đen, khuôn mặt hốc hác, lặng lẽ đến
trước mặt tôi. Đôi mắt ngơ ngác lo âu. Biết đâu đây chẳng phải là một người đàn
bà vốn dĩ hiền lành, một người mẹ của cô gái Hà Tiên trong vườn hồ tiêu nào đó,
xưa nay chỉ biết có nghề bán cua bờ biển, thế mà cũng phải bỏ quê Hà Tiên, quê
Rạch Giá, vừa trốn khỏi một cái ấp chiến lược nào đó, chạy đi, đành sống tha
hương. Cái tiếng nói nhỏ nhẹ, thanh thả của các chị, các em Nam bộ, cái tiếng
nghe thương nghe nhớ, như trưa nghe tiếngầu... ơ, ví dầu... êm ái ru con một
ngày rất xa rồi, đã bao nhiêu năm nay, một làng vắng vẻ đầu rừng miền Đông. Tôi
bỗng rưng rưng dại cả người và nghẹn ngào.
Những ngày này tôi đương trên đường xuống miền Nam
Cam-pu-chia, mỗi bước đi cũng mỗi nhích gần về miền Nam đất nước tôi. Trong
không khí, có một cái gì náo nức và bí mật và thiêng liêng nữa. Như ở những
ngày cuối năm sắp qua năm mới, như sắp gặp ai quen. Sự mong ngóng bồn chồn, thần
bí, không cắt nghĩa được. Quả là tôi đương có cảm tưởng tôi sắp gặp ai, nhưng
thật là ai thì không làm sao nghĩ ra. Trước kia, tôi cũng có những người quen đến
làm ăn ở đất Cần Vọt này. Nhưng bây giờ sắp gặp ai đây, thì lại không phải từ
xa xôi những khuôn mặt cuộc đời nghèo khó ngày cũ của tôi hiện trở lại. Thế thì
gặp ai, tôi chịu không nghĩ ra. Mà chỉ cứ phảng phất người nào mình quen biết,
không hẹn mà sắp gặp cũng nên. Mỗi bước đi, mỗi bước đưa dần cái mong ước gặp gỡ
lại. Tôi bắt đầu nhìn kỹ người đi trên đường. Tôi ngắm những nếp nhà tranh sơ
sài của những đồng bào Nam bộ của tôi bỏ quê lên đây nương náu. Ở chợ, tôi ngơ
ngác chờ, tìm nghe một tiếng nói của người mình. Tôi trông mặt, tôi đoán dáng,
đoán vóc người.
Nhưng rồi chẳng gặp. Nhưng rồi lại hy vọng, lại tưởng sắp gặp.
Không, không gặp ai đâu, nào tôi có gặp ai đâu. Ấy chỉ là một
nỗi tơ tưởng, khát khao đất nước quê hương mình mà mỗi bước anh đi đương mỗi
lúc một gần lại, thì đất nước quê hương anh lại hiển hiện như đứng lên cho anh
sắp thấy mặt, anh chỉ sắp được thấy mặt mà thôi.
Thế là thế nào? Lý trí và lương tâm con người bình thường và
ngày tháng không thể yên lòng hiểu như thế được, có phải vừa một năm trước đây,
tôi có dịp ra Hải Ninh. Từ bờ biển Trà Lộ ra, tôi đi trên mỏm đầu chữ S ven biển
Tổ quốc trông sang đất Trung Quốc, không một bỡ ngỡ, rồi đặt chân sang đây cũng
không một chút bỡ ngỡ. Thế mà hôm nay tôi phải đành ngồi bên ngoài cái mỏm cuối
chữ S ven biển Tổ quốc chấm đậm bằng cái chấm Hà Tiên kia, nhìn sang mà không đến
được, mà chưa đến được. Tôi ngồi đây, nghĩ các bạn Cam-pu-chia thiệt quý khách,
đã giúp tôi đi trong nhân dân và trên đất nước bạn, chí tình và tôi cũng không
có cảm tưởng một chút ngỡ ngàng, nhưng cứ nghĩ thế thì, cái đau Bắc Nam một dải
bị chia cắt cứ càng ngấm lại càng đau và càng rõ không để yên cho cái vô lý ấy
tồn tại được.
Tôi vẫn ngồi đây, ở quán nước cuối bãi Kép mà thấy Hà Tiên
xanh xanh lùm cây thưa trải dài trên mặt biển, mỗi lúc nhìn một bồi hồi: Hà
Tiên đấy. Ta phác một đường tay trái đi lên, theo kênh Vĩnh Tế từ Hà Tiên sang
Châu Đốc rồi suốt Tịnh Biên, Hồng Ngự, Tân Châu đến tận các chợ Trời bây giờ
nhan nhản ở Gò Dầu Hạ. Tôi không thể tả được những sôi nổi, đau đớn, chấn động
trong lòng khi tôi lại nhìn theo tay phác lên kia.
Quê hương tôi kia, mà không đến được!
Trong đau đớn hôm nay đứng đây, à tôi nhớ những Châu Đốc, Hà
Tiên, những Tịnh Biên, Hồng Ngự, Tân Châu, Gò Dầu Hạ... những tên quê hương
cũng là tên những trận chiến thắng trong thông cáo của nhân dân giải phóng quân
miền Nam, tôi thường nghe quen. Nhân dân miền Nam đương lấp bằng cái vô lý hôm
nay.
II.
Chúng tôi đến Tà-keo.
Tà-keo giáp giới Châu Đốc. Tà-keo của Cam-pu-chia cũng từa tựa
cảnh thị trấn miền Nam, cũng tiệm ăn, quán trà, cũng chợ, cũng bến sông.
Hương nói đùa: “Còn hai mươi ba cây, hay là ta ráng một chút,
về bên Tịnh Biên. Đất Châu Đốc ta có canh chua tuyệt diệu như canh chua cá vồ
Phnôm Pênh đấy”.
Phải, chẳng lâu la gì đâu, chỉ đi dấn hai mươi ba cây số nữa
là đến huyện lỵ Tịnh Biên, đến Châu Đốc và Châu Đốc lại kề sông Bát-sắc, sông
Bát-sắc ở đấy nước đỏ ngầu chảy xiết, ghe thuyền qua lại ồn ã, mải miết, cũng
như ta thấy lúc sáng ngay dưới cầu Mô-ni-vông trên Phnôm Pênh. Và cả nhánh sông
Sla-kou đầu tỉnh Tà-keo chúng tôi vừa tới cũng đương vội vã xuôi thẳng về thị
xã Châu Đốc. Một chùm hoa lục bình tím bơ vơ trôi đây, chốc lát đã về tới kia.
Hai mươi ba cây số! Những con số cứ chích vào người! Bằng nửa đường lên Sơn
Tây. Bằng Hà Nội qua Hà Đông, chưa đến Vân Đình, chưa được phần đường Phủ Lý.
Hai mươi ba cây số!
Nhưng chúng tôi vẫn lại chỉ có thể đứng đây nhìn về Tịnh
Biên.
Đầu thị trấn Tà-keo, một dải nước trên đồng lầy đương lên.
Chiếc đò dài lướt, có một người con gái đứng chon von đầu đò, khăn “rằn” phất
phới, bóng dừa và thốt nốt lủa tủa đằng xa. Chị ấy nói gì, tôi không rõ, chỉ vẫn
nghe cái giọng người con gái Nam bộ êm ái hết sức dễ thương. Đò về đằng kia mà
tôi cứ tưởng đò ấy, cô em đương khoan thai cho lướt sang Tịnh Biên và chỉ ngay
bên mép nước đã là Tịnh Biên, là Châu Đốc, là đất mình rồi.
Đây sang đấy, một việc thường. (Mà sao ta không thể). Chuyện
những ngày cũ nhắc lại vẫn còn nghe tiếng thở dài. Ngày ấy, có lần đi tìm công
việc làm, tôi đã đáp xe thổ mộ lần lần từ Sài Gòn lên Cam-pu-chia. Có gì đáng
nói đâu, cái cảnh một người chạy vạy kiếm kế sinh nhai qua ngày. Con ngựa lọc cọc
kéo lên Củ Chi, rồi Trảng Bàng, rồi Gò Dầu Hạ. Công việc không xong, tôi phải lần
sang Xoài Riêng. Sang Xoài Riêng thì cũng như từ Tà-keo này về Tịnh Biên, chỉ uống
rốn một ấm chè hay chịu khó đợi sang bên kia làm ly cà phê đá nhân thể, là đến
nơi thôi. Lần tôi đi ngày ấy là như thế. Bây giờ thì từ miền Bắc phải đi vòng
hàng nghìn cây số nhưng đến đây thì cũng đến được mà chỉ vài bước trở về miền
Nam đất nước mình lại không về được. Thế thì cái vô lý ấy làm sao mà sống được!
Lại như Hương, đồng chí Hương cùng đi trong bọn chúng tôi.
Hương đã từng chiến đấu ở miền Nam trước, có lần Hương lên chiến trường miền
Đông, đã từng trèo qua dãy Bảy Núi kia.
Trông thấy Bảy Núi, phải nhớ ngay nhà thơ Cử Trị. Hơn chín
mươi năm nay, những câu thơ buồn cất lên từ bến An Giang (Châu Đốc) của một tâm
hôn yêu nước vẫn còn xót xa day dứt lòng người.
“Linh đinh bèo nước biết là đâu
Đậu bến An Giang thấy những sầu
Bảy Núi mây liền chim nhíp cánh
Ba dòng nước chảy cá vênh râu...” 4
Bảy Núi, một dãy chùm bóng núi sừng sững ngay cuối cánh đồng
Tà-keo, miết dài một vệt thẫm xanh, trông còn gần hơn cả núi Kam-chảy sau lưng.
Bảy Núi, Bảy Núi của Châu Đốc thân yêu ta đó. Năm xưa đất Bảy
Núi làm vườn trồng chuối, thờ đạo Hiếu Nghĩa, trai gái để tóc dài, nhưng đều dốc
một lòng yêu nước và kháng chiến. Bây giờ Bảy Núi ra sao? Một câu hỏi khắc sâu
không lúc nào rời lòng những ai đã biết Bảy Núi. Bởi vì, ở vùng Thất Sơn bây giờ,
địch lập ấp chiến lược vào tận chân núi và ta phá ấp chiến lược khiến địch ở chỗ
nào cũng không thể yên. Cái trại huấn luyện “đặc biệt” của địch ở Thất Sơn luôn
luôn có hàng chục tướng tá Mỹ túc trực đã mấy lần bị quân và dân Châu Đốc tấn
công. Thế ra Bảy Núi vẫn tiếp tục và phát triển, càng ngày càng dũng mãnh, tinh
thần yêu nước và kháng chiến. Phải chăng, có phần của người Bảy Núi muốn đem lại
nỗi vui cho câu thơ buồn của Cử Trị và rửa hờn cho cha ông ta đã đổ máu chống
quân cướp nước?
Bảy Núi hiên ngang trước mặt chúng tôi khiến chúng tôi cảm động
như còn nhìn thấy cả người trên núi vẫy xuống. Và tôi trông lại thoáng thấy cả
nỗi ngây ngất ấy ánh trong mắt Hương. Hương đã qua Bảy Núi năm nào...
Con đường, con đường cứ ngang nhiên và vô tình dẫn người đi.
Buổi sáng, ở Kép, chúng tôi cách Hà Tiên bốn mươi ba cây số, rồi gần hơn còn
cách Hà Tiên hai mươi ba cây số, những cột cây số chỉ rành rành, rồi mười ba, rồi
mười, những chữ số cứ rập rờn trêu tức làm sao.
Kông-pông Trách rồi Tà-ni, Túc-miết, Cha-húc, Tram Sa-sa...
Nhánh sông Mak-prang nho nhỏ vừa qua ngang dưới chân chúng
tôi cũng đương mải miết chảy về Giang Thành trên kênh Vĩnh Tế.
Đã đến đường rẽ Tan-hon ra biên giới.
Tôi nhìn ra, thì chỉ thấy vẫn lơ thơ nhà và vườn cây, như
làng mạc ở những vùng đồng bằng khác. Trạm biên phòng của quân đội Khơ-me, mái
tôn bạc, xinh xắn bình yên. Đã thưa bóng thốt nốt, cái dáng cây thốt nốt vừa e
lệ vừa cứng cỏi đứng giữa đường như cô gái Khơ-me mới lớn, đến đây đã thấy vắng
hơn, mà dừa, lá dừa đan lên san sát chân trời. Nghe xa, không có tiếng súng,
không một làn khói đùn, như tôi hằng tưởng cảnh tượng bên kia biên giới
Cam-pu-chia thật khác thế. Đồng chí Đoàn Bá Từ, phóng viên thường trú của Thông
tấn xã nước ta ở Cam-pu-chia, anh đã nhiều dịp đi trong đoàn nhà báo nước ngoài
ở Cam-pu-chia, được Chính phủ Cam-pu-chia mời đến xem tận nơi xảy ra những vụ
binh lính miền Nam với cố vấn Mỹ xâm phạm và nhũng nhiễu biên giới Cam-pu-chia.
Chúng đã giết người cướp trâu bò, có khi ném bom, lủng cả cột biên giới. Anh đã
thấy tội ác và những thủ đoạn trơ tráo của giặc. Và anh thấy một sự thật đáng
suy nghĩ là ở biên giới Cam-pu-chia, Việt Nam nếu quân địch không càn quét đến,
nhân dân miền Nam Việt Nam không phải phẫn nộ và dũng cảm chống càn quét, khi
không có bóng giặc thì nhà cửa, ruộng vườn, kênh lạch đâu đâu cũng chỉ có cày
cuốc làm ăn, chỉ có bà con ta với ta, bên kia hay bên này biên giới, hai dân tộc
Khơ-me và Việt Nam cũng chỉ là một người nông dân cần cù. Nhưng khi giặc tới
thì nhân dân miền Nam đã đứng dậy và trong cái lặng lẽ và cần cù hàng ngày ấy
đã nhảy ra những anh hùng. Cuộc chiến đấu thiên la địa võng không có mặt trận
mà chỗ nào cũng là mặt trận, chỗ nào cũng khủng khiếp cho chúng, bởi vì chỗ nào
cũng có nhân dân, tôi hiểu cái êm lặng nhưng khác thường ở vùng bên kia biên giới
là như thế.
Đây này, chính ngày 29 tháng 10, khi chúng tôi trở lại Phnôm
Pênh, đọc báo, biết tin quân giải phóng và nhân dân Châu Đốc đêm ấy đã phá tan
ba ấp chiến lược huyện Tịnh Biên.
III.
Tôi đã nghe bạn nói lên Bô-ko thì trông thấy đảo Phú Quốc ở
ngoài khơi vịnh Thái Lan, đối mặt tỉnh Rạch Giá.
Bô-ko - tiếng Khơ-me nghĩa là cái vai bò, nơi nghỉ mát trên
dãy núi Kam-chảy cao hơn một nghìn thước ngoảnh mặt trông ra vịnh Thái Lan. Đường
dốc hơn hai mươi cây số vắt ngang qua những rừng, những suối. Chốc chốc, chúng
tôi lại đến một mỏm núi chênh vênh, nhìn hắt xuống thung lũng kề sát mặt biển.
Lên Bô-ko thì ngó được đảo Phú Quốc, tôi đã nghe nói thế!
Nhưng đến khi thật trông thấy thì vẫn là bất ngờ. Vừa vượt một thôi đường dốc rừng,
trông ra, mặt biển đã dâng bát ngát đầy mắt. Đảo Phú Quốc án ngữ ngay trước mặt.
Một đầu núi chàm biếc nhô lên, rồi lô xô một cánh đồng vàng lợt, rồi lại đợt đợt
núi mờ xanh vào trong xa. Đầu tiên, tôi không tin mắt tôi. Hạnh phúc đến sớm
quá, khiến mình ngơ ngác. Không, chính là Phú Quốc trước mặt đấy. Chao ôi, Phú
Quốc đây ư? Phú Quốc hiện ra như một cái gì ngậm sầu nuốt tủi những nhớ những
mong. Trong một cảnh ngộ thế này, tôi cứ ngây nhìn Phú Quốc chơi vơi giữa biển.
Lòng không buồn mà mắt rơm rớm lúc nào không biết.
Cũng là may, không ngờ. Cữ này, Kam-pốt, cái túi đựng mưa của
Cam-pu-chia, đương mưa nhiều, nhiều nhất mùa mưa. Mưa đã dọa chúng tôi từ trên
đường tới Kam-pốt, mưa giăng xám trời, che hẳn núi Sam bên Châu Đốc, và mờ cả
núi Kam-pốt chảy ven đồng. Mưa Cam-pu-chia lặng lẽ, đột ngột mà xối xuống rất dữ,
rất phũ. Nhưng chúng tôi càng tới, khi qua Kam-pốt rồi trên đường lên đây thì
trời đất cứ tỉnh dần. Khi lên đến lưng núi thì quanh tôi chỉ còn lại một buổi
chiều đẹp, bâng khuâng hết sức hiếm có. Chiều rồi mà còn trông thấy cả biển xa
lẫn chân trời.
Mỗi khi đường vắt bên này núi, vắt bên kia núi, lại thấy Phú
Quốc đuổi theo, nhấp nhô đốm biếc, đốm vàng ngang tầm mắt. Và mỗi lần như thế
Phú Quốc hiện ra một vẻ mới, một hình thù mới, như một con rùa, một con giải, nổi
lên mênh mông, đương ườn dài chân tay trên mặt biển sương chiều.
Chiều đã muộn rồi mà trở đi trở lại, vẫn Phú Quốc. Lúc thì
Phú Quốc lấp bóng ngay đầu núi, lúc thì Phú Quốc dang rộng giữa mù khơi, có khi
Phú Quốc loáng thoáng sau những mảnh sương, từng mảnh sương, những mảnh sương
bay luồn qua khe rừng thưa. Mỗi lúc một dáng. Mỗi phía một khác. Phú Quốc chiều
ấy khoe mình, hết sức khoe mình trước những con mắt khát khao đương ròi rõi
tình quê của chúng tôi.
Trời biển đã mờ chập vào nhau. Mà chúng tôi còn cố níu nhìn
Phú Quốc. Trên mỏm đá đen kỳ lạ nổi tiếng đầu chùa Năm-thuyền cheo leo nhìn xuống,
rõ ràng tôi vẫn thấy nhòa nhòa bóng Phú Quốc bơi lại phía này.
Đêm nay tôi thức, tựa lưng và cái đầu nặng trĩu vào Phú Quốc.
Trong tôi nhơ nhớ dung nhan Phú Quốc nguy nga và âm thầm những đồi, núi, những
rừng, ruộng. Có vạn chài đánh cá, như vạn chài vịnh Hạ Long, vạn chài Mũi Né,
những vạn chài ở khắp các cửa biển quê ta. Có quân giải phóng với nhân dân. Có
phải ngồi một mình giữa biển kia, đêm đêm Phú Quốc không ngủ? Nhưng Phú Quốc
không vò võ, không ngậm sầu nuốt tủi. Phú Quốc và cả miền Nam đương sôi sục trầm
mình ngày đêm vào cuộc chiến đấu giải phóng.
Gió biển đêm từ ngoài khơi thổi lên đầu núi, lùa dài qua những
khu cửa lớn, sôi lên, réo lên. Gió của Phú Quốc. Tôi thức nghe gió Phú Quốc vào
đây. Như nói rằng Phú Quốc vẫn thức, Phú Quốc hùng vĩ giữa đêm tối, thở hơi thở
của mảnh đất tuyệt vời từ biển cả và bao phủ lên chúng tôi.
Sáng sớm đã bổ ra sân thượng khách sạn, tôi lại vội vã nhìn
Phú Quốc.
Một đêm đợi sáng để lại trông ra Phú Quốc, thật là dài. Trong
đêm ấy, một giờ một phút ở Phú Quốc, ở Rạch Giá, ở Hà Tiên và trên hai sườn biển
bao quanh miền Nam thân yêu, những gì đã xảy ra? Những trận đánh, những cuộc
mít tinh ồ ạt biểu dương sức mạnh vô địch của quần chúng. Nhà máy điện của địch
ở giữa trấn trên đảo bị tấn công sập đổ. Những kho xăng cháy ngất trời.Cả ngàn
thuyền tiếp tế, tải quân chuyển động trên sông, trên biển. Những ấp chiến lược
bị phá, cả đàn máy bay lồng lộn đêm tối, và những đèn chiếu, những phuy-đê xanh
đỏ đầy trời… gì nữa, gì nữa. Đêm miền Nam cách mạng và kháng chiến bây giờ
đương hừng hực bời bời.Một đêm đã qua thế nào? Phú Quốc tuyệt nhiên không giống
hôm qua đâu.
Thật đấy, Phú Quốc buổi sáng nổi bóng xanh một màu xanh mới
nhất. Nắng lóe lên, xóa vội những đám mù trắng mỏng lững lờ còn sót lại. Rồi một
màu xanh khác trong muốt cứ đậm dần lên và thế là cả một thinh không xanh xanh
cũng hòa lẫn xuống với nền xanh nước ấy.
Lúc này, rừng biếc Phú Quốc và đồng vàng óng, rõ nét hơn chiều
qua.
Không cần ống nhòm cũng thấy mặt bể buổi sáng. Nước lượn vằn
vèo từng luồng quanh đảo. Nhưng quanh đảo Phú Quốc không có thuyền đánh cá như
những buổi sáng lặng biển quen thuộc và bình thường. Không một bóng thuyền đánh
cá.
Chỉ có những chiếc xuồng máy của địch canh biển chạy quanh, từng
chiếc đi mỗi phía, cô độc, thui thủi, lừ đừ như những con bọ dừa bơi trên mặt
nước bây giờ lại vàng ánh trời.
IV.
Tôi về Kép, đến cuối bãi biển Kép, và ngồi đây, ngồi nguyên
dưới gốc cây dừa ngả trông sang Hà Tiên. Trong ánh nắng đan bóng dừa, tôi đã thấy
Hà Tiên bên này và bây giờ lại thuộc bóng Phú Quốc xa xa. Những hòn đảo to nhỏ
lấm tấm trên biển Thái Lan vẫn hoạt động. Một lần nữa Phú Quốc rạng rỡ dáng mới.
Khác nào Phú Quốc vẫn vờn theo chúng tôi, còn cố vờn theo chúng tôi, trước khi
chia tay.
Từ đây nhìn ra thì thấy Phú Quốc ngả dài cả bốn mươi tám cây
số thân mình mượt mà trên mặt biển, uy nghi phủ phục như một con rồng trong
tranh cổ, đầu thì cất cao, rõi mắt vào đây. Dưới chân, biển vẫn xanh, càng
xanh, xanh sáng một vệt dài kẻ phóng ra biển Đông.
Chúng tôi sắp giã từ bóng đảo và Hà Tiên, với cả miền Nam anh
hùng, để đi ngược lên phương Bắc, để trở về Tổ quốc. Cái vô lý của chuyến đi
ngược đường lại bồn chồn trong lòng. Nhưng đi trở lại hàng nghìn cây số, mà tôi
đinh ninh rằng một ngày gần đây, nếu thăm Cam-pu-chia, mình sẽ ra chơi Phú Quốc
và về Hà Nội theo đường vào Rạch Giá rồi lên Sài Gòn. Nhất định thế.
Chúng tôi sắp đi, tình cờ gặp một chuyện.
Buổi trưa ấy, ở nhà hàng Xanh da trời trên bãi biển, khách ăn
đương đông.
Người bạn Khơ-me cùng đi, bỗng cười, bảo chúng tôi:
- Này, trong các anh, có ai đã đánh trận Điện Biên Phủ thì
nên đến làm quen với lão quan năm thầy thuốc kia. Người quen cũ đấy.
Câu hài hước thình lình hướng tôi nhìn sang góc cửa sổ, có một
đám người Âu, cả đàn ông đàn bà và trẻ con đương ngồi quanh bàn ăn. Trước mặt họ,
cả một bàn dài là những thức ăn cho khách chơi bể, đầy tú ụ, bày ràn rạn, kềnh
càng và phức tạp một cách thú vị, nào những cua ghẹ mai xanh luộc để cả con, những
đĩa tôm, những mực tươi, những đĩa sò nướng cứ vắt chanh vào mà hút tươi nguyên
xi như thế. Chen giữa mấy cái gáy béo nung núc đương cắm cúi, mải miết ăn, đột
ngột nổi gồ lên một cái đầu hói đỏ gấc, to đến bằng quả bí đại.
- Lão ta đấy.
- Thì ra, năm trước, lão ta là quan năm thầy thuốc trong quân
đội Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ “khủng khiếp”. Lão ta đã giơ cả hai tay
run rẩy dưới mảnh cờ hàng vải trắng, lão chui hầm ra đứng cúi đầu trước các chiến
sĩ quân đội ta. Từ ngày được thả, giải ngũ, lão ta xin đến trú ngụ kiếm ăn ở đất
này và làm việc cho cái nhà thương tư Boát-Si-E. Đã được bảy, tám năm nay.
Người bạn Khơ-me của tôi có nhận xét:
- Hồi mới về đây ông ấy gầy lắm. Bây giờ thì béo rồi.
Ngẫu nhiên mà câu chuyện vừa bi đát vừa hài hước về số phận một
con người ấy gợi lên trong tôi những hình ảnh rất khác nhau, nhưng rành rọt.
Kia là Hà Tiên, là Phú Quốc, là miền Nam thân yêu của chúng ta. Nhân dân miền
Nam đương nắm cổ dẫn bọn Mỹ xâm lược vào con đường tới Điện Biên Phủ, lại “một
Điện Biên Phủ khủng khiếp”!
Vậy thì lo trước rằng khi ấy chẳng có cái nhà hàng Xanh da trời
nào chịu chứa chấp người Mỹ ngồi ăn nữa đâu.
Chú thích:
Tô Hoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét