Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

Hồi ký Đoàn Duy Thành: Làm người là khó 3

Hồi ký Đoàn Duy Thành:
Làm người là khó 3

CHƯƠNG 5
Thời kỳ đổi mới ở Hải Phòng
Sau 29 năm, từ tháng 6-1950, tôi sang làm Bí thư quận uỷ Ngô Quyền.
Hai mươi chín năm, hơn một phần tư thế kỷ đối với một đời người là dài. Trải biết bao thăng trầm, tôi luôn rèn luyện đạo đức, đặc biệt là học tập, làm thế nào để khi mình làm cán bộ lãnh đạo, cấp dưới không phải phàn nàn: “làm đầy tớ thằng khôn, hơn làm thầy thằng dại”. Làm đầy tớ thằng dại, thì còn khổ biết bao nhiêu!
Tháng 8-1979 tôi được bầu làm Chủ tịch UBND Thành phố. Lúc này tôi đã học xong đại học quản lý kinh tế, học xong bằng C tiếng Anh, và học thêm 2 năm chương trình đại học Anh văn. Về lý luận chính trị, kinh tế tôi đã học tập nghiên cứu và đọc kỹ các tác phẩm kinh điển của các bậc hiền triết thời phong kiến, thời tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là các học thuyết về Chủ nghĩa cộng sản, Chủ nghĩa xã hội và cả học thuyết của các nhà triết học trước Marx... cộng thêm những vốn liếng có được qua 35 năm tham gia cách mạng. Tôi đinh ninh trong dạ khi có điều kiện sẽ thực hiện những kiến thức đã học và kinh nghiệm đã trải qua.
Hoàn cảnh kinh tế, chính trị nước ta nói chung và Hải Phòng nói riêng lúc đó gặp nhiều khó khăn. Về chính trị, cuộc chiến tranh biên giới Việt Trung và Tây Nam Nam Bộ đang lên đỉnh điểm. Kinh tế bước vào thời kỳ khủng hoảng, viện trợ từ bên ngoài cắt giảm nhiều, trật tự xã hội trong thành phố hết sức rối ren. Trong thời bình mà riêng phường Vạn Mỹ (Cầu Tre) có 53 lối đi trong phường, phải rào bớt 36 lối còn lại 17 lối để dễ kiểm tra người qua lại. Ban đêm ở thành phố cũng như ngoại thành phải dùng 3 công cụ, lúc đó gọi là: cái gậy an ninh, cái đèn an ninh, cái kẻng an ninh. Người đi đêm là người ngay thẳng phải mang 1 trong 3 công cụ trên để phòng thân, gặp công an, bảo vệ đi tuần tra sẽ cho đi ngay, chẳng khác gì thời loạn lạc.
Cảng Hải Phòng phải quân sự hóa, tất cả bộ đội vào làm bốc vác. Đại tá Võ An Đông, Tư lệnh F350, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Hải Phòng được cử làm Giám đốc cảng. Còn thành phố, một số cán bộ cao cấp ở Trung ương cũng đề nghị xem xét có nên quân sự hóa thành phố không (gọi là quân quản như thời kỳ mới vào tiếp quản), hoặc phải giới nghiêm từ 10 giờ tối đến 5 giờ sáng.
Trong lúc đó mọi việc tôi bàn với đồng chí Bí thư Bùi Quang Tạo, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương, mới được cử về làm Bí thư Thành uỷ. Đồng chí mới về, nên cần nắm tình hình thành phố, mọi việc điều khiển đồng chí Tạo phân cho tôi cứ làm bình thường.
Cảng Hải Phòng khi chưa có vấn đề “Nạn kiều” (Trung Quốc kêu gọi người Việt gốc Hoa về nước), công nhân bốc xếp ở cảng chủ yếu là người Việt gốc Hoa, rất quen với bốc vác hàng có trọng lượng 100 kg/kiện. Thế mà lúc đó cứ 3 tháng, có khi 1, 2 tháng, đồng chí Đỗ Mười, Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng) lại phải xuống cảng để giải tỏa cảng. Hàng bốc ra để rải rác khắp đường phố, nhất là khu bãi cổng cảng và vườn hoa Bon-nan. Lãng phí và ăn cắp rất ghê gớm. Chuyển hàng ra khỏi cảng còn để ở ngoài trời, trong cảng hàng hóa đã đến tiếp. Không bốc dỡ kịp, tàu nước ngoài có khi đậu tại cảng chờ giải phóng hàng tháng. Họ kêu ca, ta phải nộp phạt cho một ngày tàu chậm bốc xếp khoảng 13 kg vàng/ngày tùy theo tàu to nhỏ, hết sức lãng phí.
Trong những lần giải tỏa cảng, Chính phủ cử các bộ trưởng, thứ trưởng, cán bộ thuộc các bộ liên quan xuống theo. Một số tỉnh thành có liên quan đến vận tải hàng hóa như Hà Nội, Quảng Ninh cũng đến Hải Phòng họp hàng tuần... Thành phố bận rộn, lại phục vụ các cuộc họp giải tỏa. Họp giải tỏa nhiều quá cũng nhàm, ít tác dụng. Anh Mười rất vất vả về công tác giải tỏa hàng mấy năm liền...
Lúc đó ở Hải Phòng, mỗi đợt giải tỏa xong, đoàn xe Anh Mười rời Hải Phòng về Hà Nội, công nhân Cảng và nhân dân thành phố đùa tếu nói: “Ông Mười đã đi xa, mọi việc ở Cảng trở lại bình thường...”. Hàng hóa lại ùn tắc, bốc hàng lên không có chỗ để, tàu cứ điều vào, đỗ hết cầu tàu. Tàu vào sau phải đậu ở dọc sông Bạch Đằng, Cửa Nam Triệu ra đến phao số 0. Đêm đến đèn các tàu bật lên sáng như một thành phố trên biển.
Đến khi công nhân bốc xếp là người Việt gốc Hoa rút về Trung Quốc hết, còn lại toàn công nhân Việt Nam sức yếu, chưa quen việc, xảy ra đổ vỡ mất mát rất nhiều... Bởi vậy trên mới có sáng kiến quân sự hóa Cảng cho bộ đội vào bốc thay công nhân. Nhưng tình hình không được cải thiện. Sau gần 2 tháng quân sự hóa, thì xảy ra vụ cháy kho 5, thiệt hại rất lớn, vì đây là kho vải. Ai cũng biết vải lúc bao cấp nó quan trọng đối với mọi người như thế nào. Chính quyền thành phố phải chịu trách nhiệm hoàn toàn chuyện giải quyết hậu quả. Đã khó khăn lại thêm khó khăn. Vậy mà Trung ương cho Hải Phòng các loại vải bị cháy dở, hoặc đã bị vòi cứu hoả phun nước hoặc hóa chất vào, thì cả nước có câu ca dao:
Cả nước đau lòng
Hải Phòng phấn khởi (?)
Đấy là bề nổi. Mọi nơi nghĩ như vậy, còn chúng tôi thì cực khổ suốt hàng mấy tháng trời, xử lý bao nhiêu công việc do cháy kho 5 sinh ra. Đồng chí Cao Văn, Phó Chủ tịch Uỷ ban phải bận vào công việc này 6 tháng liền mới giải quyết xong hậu quả.
Nhưng cả nước không bị thiệt, vì kho của ta có mua bảo hiểm. Khi cơ quan bảo hiểm nước ngoài đến xác định thiệt hại để đền bù, số tiền đền bù vượt hơn thiệt hại chút ít.
Sau khi đã giải quyết xong hậu quả cháy kho 5, Ban Thường vụ Thành uỷ họp, kiến nghị với Trung ương thôi quân sự hóa Cảng và giao việc tổ chức bốc xếp cho địa phương phụ trách. Chính phủ đồng ý ngay. Khi có quyết định, anh Bùi Quang Tạo bàn với tôi tổ chức lại việc bốc xếp Cảng. Hàng ngày sáng nào cũng giao ban tại Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Tạo và tôi cùng dự, anh Tạo rất say sưa với công việc này. Chúng tôi bàn nhau, đặt chỉ tiêu bảo đảm bốc một vạn tấn hàng/ngày. Chỉ sau hơn một tháng chúng tôi đạt mục tiêu đề ra, và những tháng sau từng bước tăng lên. Công nhân có thu nhập, trộm cắp giảm hẳn, tàu không phải chờ đợi, ta không bị nộp phạt. Mọi người hào hứng phấn khởi, và cũng kết thúc ách tắc trong khâu bốc dỡ.
Xong việc giải tỏa Cảng anh Tạo và Thành uỷ, UBND thành phố, Cảng đều vui mừng, sự quản lý Cảng đã sang trang, kết thúc giai đoạn lịch sử “giải tỏa”.
Trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý kinh tế, kế hoạch tập trung, tôi có rất nhiều suy nghĩ về cách quản lý của ta. Làm thế nào để xây dựng được cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, cho dân giàu lên, không thiếu thốn như hiện nay? Làm thế nào cho “dân giàu, nước mạnh”, nghe khẩu hiệu này khi tôi mới nói ra, đã có người phản đối. Thực lòng ai cũng muốn khá giả, nhưng nói chữ “giàu” hình như ai cũng coi là mất lập trường, rất kiêng kỵ. Có đồng chí cán bộ cao cấp còn uốn nắn lại thành: “Nước giàu, dân mạnh”. Tôi buồn cười, nhưng không dám cười, chỉ lắng nghe.
Có lần xuống xã, một đồng chí bí thư xã mời tôi về nhà chơi. Vừa vào đến sân đồng chí ấy nói: “Tôi rất tự hào báo cáo với đồng chí Bí thư Thành uỷ: Trên 30 năm tham gia cách mạng, đến nay tôi cũng chỉ có một gian nhà tranh, vách đất, và cái giường 3 xà...”. Tôi hiểu ý đồng chí muốn nói mình liêm khiết. Tôi buột miệng: “Tôi tưởng đồng chí khoe với tôi là cả xã đồng chí đều có nhà xây, có tiện nghi... và đồng chí cũng như vậy thì mới đáng lự hào. Chứ hòa bình bao nhiêu năm rồi mà vẫn nghèo như thế này là chúng ta dốt, ai còn theo chúng ta, nói gì đến xây dựng Chủ nghĩa xã hội...”.
Tôi chậm được ra nước ngoài. Tháng 9-1974 lần đầu tôi thăm Quảng Châu và Hải Nam Trung Quốc. Tháng 8-1978 sang Nhật bản, tháng 10-1980 sang Liên Xô. Ba cuộc đi ra nước ngoài giúp tôi có sự so sánh và cách nhìn vấn đề khá lý thú.
Tôi sang Trung Quốc thời kỳ đang cách mạng văn hóa rất mạnh ở Trung ương. Nhưng ở Quảng Đông, đồng chí Triệu Tử Dương, Bí thư Tỉnh uỷ thì làm khác, chỉ tập trung làm kinh tế, còn cách mạng văn hóa làm qua loa... Tôi xem nông dân Trung Quốc đào giếng trên các đồi ở Hải Nam để dự trữ nước tưới cho lúa. Lúa Hải Nam rất tốt do không làm theo các Công xã Trung ương. Đoàn chúng tôi được tiếp đón rất trọng thị...
Rồi tôi thăm Thành phố Yokohama của Nhật do Thị trưởng Thành phố Asô-ka-ta mời. Sau một tuần tham quan nghiên cứu tôi thấy phong cách làm ăn của Nhật thiết thực, lời nói đi đôi với việc làm. Những nơi tôi được tiếp mục sở thị đều đẹp hoặc bằng trên ti-vi giới thiệu. Tinh thần khắc phục sau động đất của Thành phố Yokohama thật xúc động, đáng cảm phục. Tất cả đều hằn sâu trong ký ức tôi.
Năm 1980 tôi đi hội thảo khai thác vùng Si-bi-ri Liên Xô, ở Kha-ba-rốp, thủ phủ Si-bi-ri, do đồng chí Trần Phương, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch làm trưởng đoàn. Đoàn viên có đồng chí Phan Văn Khải, lúc đó là Phó Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Nguyễn Văn Hiệp, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội và tôi là Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, cùng một số Thứ trưởng và chuyên viên cấp vụ của một số ngành Trung ương. Máy bay đưa thẳng đoàn từ Hà Nội đến Kha-ba-rốp, hết gần 7 giờ. Qua eo biển Nhật Bản, được 2 máy bay khu trục của Nhật Bản lên “nghênh tiếp”, hai bên cánh đeo 2 quả tên lửa sơn vàng chói.
Lần đầu tiên được sang Liên Xô, tôi nghiên cứu khá tỉ mỉ. Đặc biệt ở Kha-ba-rốp, tôi xuống các hộ nông dân tập thể, có gia đình chỉ còn các cụ già ở nhà, con cái đi lao động ở nông trường. Tôi hỏi thăm cuộc sống của các cụ hàng ngày, được biết các cụ chỉ ăn bánh mì với bơ, khoai tây. Riêng nho rất nhiều. Nhà ở xếp gỗ thành tường, mái lợp da thú như những cái lều, cái hầm... Chúng tôi trao đổi riêng với nhau: Nhân dân Liên Xô thế này mà giúp đỡ Việt Nam mỗi năm hàng tỷ rúp vàng, tương đương một tỷ đô la Mỹ, điều đó thật đáng suy nghĩ. Còn hội thảo chẳng đi đến kết quả rõ rệt. Các đồng chí Bộ Ngoại thương Liên Xô phát biểu rất bảo thủ, không những thế còn tỏ thái độ uốn nắn Việt Nam... Sau cuộc hội thảo, tôi có rất nhiều băn khoăn về kinh tế Liên Xô lúc đó...
Với tất cả những gì hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, tôi suy nghĩ xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế và xã hội cho thành phố Hải Phòng mà tôi đã ấp ủ từ lâu. Nhưng tôi tự nhủ phải thận trọng, nhất là đối với Bí thư Bùi Quang Tạo, một uỷ viên Trung ương từ khóa II, hơn tôi 16 tuổi. Anh cũng bị tù trước 1945. Trong một thời gian rất ngắn làm việc, anh em tỏ ra “ý hợp tâm đồng” rất dễ làm việc. Công việc tôi đề xuất anh Tạo ủng hộ rất nhanh. Còn ý kiến anh nêu ra tôi chấp hành nghiêm chỉnh, nếu có cái gì cần bàn thêm anh cũng nghe theo ý tôi.
Vấn đề đầu tiêu là an ninh trật tự, ổn định đời sống nhân dân. Còn các vấn đề kinh tế xã hội, văn hóa, giáo dục. tôi đã hình thành trong các bản dự thảo, tùy theo tình hình, thời cơ sẽ đưa ra Ban Thường vụ hoặc Thành uỷ bàn. Những vấn đề này trong các buổi giao ban hàng tuần giữa Bí thư và Chủ tịch Thành phố vào chiều thứ 7, sau khi kết thúc những việc chính, tôi đưa vào câu chuyện ngoài, nói với Bí thư để từng bước tạo sự nhất trí giữa 2 cán bộ chủ chốt của Thành phố, về con đường đi lên CNXH.
Trong 30 tháng làm bí thư Thành uỷ Hải Phòng, cứ đến chiều thứ 7 giao ban xong, anh Tạo về Hà Nội, vì gia đình anh ở Hà Nội cả, chỉ có một người phục vụ ăn uống là ở Hà Nội xuống, còn lái xe cũng do Hải Phòng cử. Dù giao ban xong sớm 5, 10 phút; tôi ra về để anh về Hà Nội, nhưng anh bảo tôi: “Chưa hết giờ..., ở lại bàn thêm”. Chúng tôi ở lại nói chuyện quốc sự mà hai anh em cùng quan tâm...
Việc đầu tiên tôi làm là xóa bỏ các rào dậu của một số phường, để các ngõ ngách thông thóang cho dân đi lại bình thường, tăng cường lực lượng kiểm tra của bộ đội, công an, tự vệ về ban đêm, tổ chức phục kích một số bọn trộm cắp có tổ chức với lực lượng chiến sĩ ở các đồn công an Máy Chai, dọc sông Cấm. Ba công cụ “an ninh” thời chiến được xóa bỏ. Tôi trực tiếp vào trại giam xem xét 12 tên tù tử hình còn giam giữ nhiều năm ở trại giam mà không thực hiện án. Có tên đã trốn tù, mất bao công sức truy tìm mới bắt lại được. Qua đọc hồ sơ tội ác của bọn chúng, và trực tiếp gặp một số tên để cân nhắc, tôi bàn với anh Tạo đề nghị Chủ tịch nước (lúc đó là anh Trường Chinh) và Ban Bí thư giảm tội cho 6 tên xuống chung thân, còn 6 tên gian ác nhất cho thi hành án. Chủ tịch nước và Ban Bí thư đồng ý, giảm án cho 6 tên, còn 6 tên tàn ác nhất đã giết 2 người trở lên để cướp của... cho xử ngay trong một tháng.
Thành phố tổ chức thi hành án tên đầu tiên để rút kinh nghiệm. Anh em Sở Công an và cơ quan thi hành án đem phạm nhân đến Tràng Cát, xa thành phố khoảng 6 km, bắn vào lúc 5 giờ sáng, chỉ có vài chục người đến xem, tác dụng giáo dục rất ít... Tôi nhắc các đồng chí, những tên xử tiếp, phải đem đến Nhà hát nhân dân xử cho toàn thành phố xem. Gọi 600 tên tiền án, tiền sự ngồi chung quanh nơi hành án, còn nhân dân đứng vòng ngoài. Xử vào lúc 7 giờ sáng, thông báo cho nhân dân biết trước đến xem. Nhân dân kéo đến xem tới hàng vạn người, đứng cả đường ngoài sông, ngăn cách với Nhà hát nhân dân. Sau vụ xử có những tên “tiền án, tiền sự” đái cả ra quần, có tên sợ quá chết ngất đi. Quần chúng đi xem, hả hê, thấy pháp luật Nhà nước nghiêm minh. Khi công bố tội trạng tên tử tội, có người nói: “Tên này phải bắn đến 3 lần mới đúng” hoặc “phải xử bằng hình thức cho dân tùng xẻo chúng hoặc phải lăng trì theo kiểu cổ điển của phong kiến mới hả dạ”. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng không nên xử ở Nhà hát nhân dân, nên chọn một chỗ khác. Có người còn làm ca dao đả kích cho thêm sức mạnh thuyết phục:
“Biến nơi văn hóa thành nơi pháp trường...”
Nhưng tôi nói với Thành uỷ và cán bộ chủ chốt là trong tình hình đặc biệt, phải có biện pháp tốt để giáo dục rộng rãi nhân dân. Chế độ ta nhân đạo, bắn một người để cứu hàng vạn người. Người xưa có câu “Sát nhất nhân, thiên vạn nhân cụ”. Việc ngăn ngừa tội phạm phải được giáo dục, răn đe, ngắn ngừa từ gốc... Theo tôi lúc này, nếu Nhà hát lớn thành phố dựng được bức tường tránh đạn lạc, còn 3 tên tội phạm sẽ xử tiếp ở Nhà hát lớn mới có tác động tốt hơn cho cả thành phố và các tỉnh lân cận.
Nhưng thế cũng là đủ, còn 3 tên nữa cho xử tiếp ở Nhà hát nhân dân, giải thích cho người làm ca dao, thấy hết ý nghĩa việc làm của thành phố “quang minh, chính, đại” để họ đồng tình. Thành uỷ và UBND Thành phố hy vọng rằng từ nay về sau không còn phải xử đại hình ở nơi văn hóa này nữa. Quả là từ đó đến khi tôi rời khỏi Hải Phòng không còn án tử hình.
Tình hình trật tự trị an dần dần tốt lên, trộm cắp giảm hẳn. Nhưng vệ sinh đô thị chưa tốt, cuộc sống của dân, nhất là nông thôn, “tháng ba ngày tám” thành phố phải phân chia cán bộ xuống xã để chống đói cho nông dân... Lúa chín nông dân không chịu thu hoạch, thành phố phải huy động cán bộ công nhân viên chức đi gặt giúp. Lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và khu phi nông nghiệp rất khó khăn. Do đó, một mặt phải đi mua lương thực ở miền Nam, mặt khác tìm cách khuyến khích nông dân tăng vụ, trồng màu, rau khoai chống giáp vụ... biết bao công việc đặt ra cấp bách.
Tôi quyết định trước hết phải xuống với nông dân, đi vào thực chất xem tại sao trên đồng ruộng vựa thóc, một năm hai vụ chiêm mùa, xen một vụ mầu mà cứ đói triền miên. Những năm trước, tôi xuống theo dõi nông nghiệp cũng rất sâu, chứ không phải “cưỡi ngựa xem hoa”. Tôi nghĩ do quản lý, nếu có cày bừa máy vào làm, có giống mới... chắc năng suất có thể lên cao. Nhưng cày bừa máy, khoa học kỹ thuật, giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu...tất cả hợp lực hỗ trợ mà năng suất vẫn tụt. Có nơi ngày công 300gam/ngày. Quê tôi đồng đất Hải Dương “ruộng tốt, cau sai”, không chua mặn, cũng vậy.
Tháng 9-1977, cụ thân sinh ra tôi mất. Tôi đưa cụ ra cánh đồng loại nhất đẳng điền, lúa sắp chín mà trông như cỏ may. Khi tôi còn nhỏ, loại ruộng này, nhà tôi cày cấy bình thường cũng được 100 kg/sào. Nay chưa chắc được 40kg/sào. Tôi hỏi các bậc lão nông tri điền họ cũng nói như vậy.
Tôi nghĩ tất cả do khâu quản lý, khi nào có điều kiện tôi sẽ đề xuất thay đổi cách quản lý mới xem sao. Tôi đi kiểm tra tất cả các huyện ngoại thành, từ những hợp tác xã làm ăn giỏi như Phục Lễ huyện Thủy Nguyên, Cổ Am huyện Vĩnh Bảo. Có cán bộ được nhân dân tín nhiệm như đồng chí Công, Bí thư Đảng uỷ xã Phục Lễ, có năng lực, có uy tín. Đánh một hồi trống họp Đảng bộ là 100% đảng viên đến họp. Họp hợp tác xã cũng vậy, xã viên đến đủ 100% trừ người ốm đau nặng. Thế mà năng suất cũng thất thường, ngày công cũng không khá, chỉ được trên 1 kg/ngày. Xem ra xã viên làm nhanh cho xong công việc hợp tác xã, còn công sức tập trung vào ruộng 5% và đi bắt tôm cá ngoài sông, biển, hoặc đi buôn bán lặt vặt. Kinh tế hợp tác xã chỉ cung cấp khoảng 20% cho cuộc sống của gia đình họ, bởi vậy họ phải bươn chải bên ngoài là chính.
Một hôm tôi xuống xã Hòa Nghĩa thuộc huyện An Thuỵ, xã lớn gần 600 ha, giáp với con đường 14 ra Đồ Sơn (nay là đường 353). Tôi vào thăm một số gia đình, thấy nhà nào cũng đói. Tôi đến một gia đình có 3 cháu đang đói, nằm ở trên giường. Tôi hỏi: “Bố mẹ cháu đi đâu?”. Các cháu trả lời: “Bố mẹ chúng cháu ra bãi biển bắt tôm, cá về bán đong gạo”... Đồng chí Bí thư, Chủ tịch, Chủ nhiệm hợp tác xã, cùng đi với tôi cho biết: “Xã có đất canh tác 500 ha, nhưng năm nào cũng không cày cấy hết, bỏ hoang cho cỏ năn mọc trên dưới 100 ha. Nông dân không cấy vì thu nhập thấp, lúa chín cũng không chịu đi thu hoạch, bỏ ruộng ra bãi biển kiếm sống. Tôi hỏi: “Các cháu bị đói là tại ai?”. Đồng chí thì trả lời do nhà thiếu lao động, bố mẹ không chịu lao động cày cấy. Đồng chí Bí thư tự nhận là tại xã quản lý kém v.v.. Tôi nói: “Là tại tôi, tại Chủ tịch thành phố...” Các đồng chí nhìn tôi tỏ vẻ sợ! “Tôi nói thật đấy. Tôi sẽ cho lái xe về ngay nhà lấy mấy cân gạo cho các cháu, nấu cho các cháu ăn kẻo bị đói lả”. Các đồng chí vội ngăn lại, bảo xã có gạo. Rồi đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã vội về xuất kho lấy gạo nấu cơm cho các cháu. Mấy hôm tiện đường, tôi rẽ vào xã Hòa Nghĩa thì được biết thóc quỹ hợp tác xã còn, các đồng chí xuất cho những gia đình khó khăn vay. Thành phố hỗ trợ một ít, qua vụ đói. Các xã khác ngoại thành cũng làm tương tự, nhất là huyện Tiên Lãng và huyện An Lão, huyện thuần nông rất nghèo, gặp rất nhiều khó khăn trong đời sống.
Từ những vấn đề thực tế của nông dân, với cương vị Chủ tịch UBND thành phố, tôi đề xuất thay đổi cách quản lý nông nghiệp. Tôi đem vấn đề bức xúc này bàn với anh Bùi Quang Tạo, anh tỏ ý đồng tình. Hai anh em trao đổi ngày này qua ngày khác, những buổi chiều thứ bảy hàng tuần, ngoài những việc phải giải quyết ngay, chúng tôi tập trung suy nghĩ và trao đổi vấn đề “khoán hộ”. Anh Tạo nói: “Khó nhất là anh Trường Chinh. Vụ khoán chui của anh Kim Ngọc tỉnh Vĩnh Phúc, lúc đó tôi ở Ban Tổ chức Trung ương thấy găng lắm!” Tôi đề nghị anh ở Hà Nội thăm dò xem liệu Vĩnh Phúc làm cách đây 15 năm rồi, nay có thể khác không. Tôi nói vui: “Vạn vật biến chuyển, con người tư duy cũng phải biến chuyển. Nhất là lúc này lương thực không đủ ăn, ruộng nông dân bỏ hoang, ta phải vay đô-la nhập lương thực, nhập phân bón bao nhiêu dân vẫn đói, cán bộ công nhân viên phi nông nghiệp chỉ ăn mì. Rõ ràng có ruộng cấy ra thóc, mà không có gạo ăn”.Anh Tạo suy nghĩ, tỏ ra rất buồn. Tôi tin tưởng anh Tạo đã đồng tình với tôi. Anh nói chúng ta sẽ liệu và anh bảo tôi: “Anh thân với anh Ba, anh thăm dò ý anh Ba xem. Còn tôi sẽ thăm dò những anh em thân quen anh Trường Chinh”. Chúng tôi đi đến thống nhất tạm thời cho khoán màu ở ngoại thành, lấy xã Hưng Đạo làm thí điểm... rồi từng bước ta mở rộng sau. Còn những nơi khoán chui ruộng như Tiên Lãng, ta lờ đi, nhắc báo Hải Phòng không phê bình Tiên Lãng quá đà trệch hướng, Huyện cho khoán màu, xã lợi dụng khoán cả lúa. Đồng chí Lựu Bí thư Huyện uỷ thấy báo Hải Phòng phê bình, lo quá, đồng chí thanh minh với tôi. Tôi bảo cứ yên lâm, đừng cấm nông dân. Chúng ta sẽ xin với trên cho làm thử khoán lúa tới người lao động và nhóm lao động...
Trong lúc lương thực thiếu, trên cung cấp không đủ, tôi và đồng chí Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch cùng một số cán bộ của Văn phòng UBND thành phố vào miền Nam chạy gạo, bằng cách đổi hàng công nghiệp. Chúng tôi đến tỉnh Cửu Long kết nghĩa, được tiếp đón trọng thị, nhưng khi bàn đến mua thóc đổi hàng công nghiệp thì rất khó khăn. Trong lúc đồng chí Sáu Ức, Chủ tịch UBND tỉnh đang bàn giao để đi làm chuyên gia bên Campuchia, giao cho đồng chí Tuấn, Phó Chủ tịch bàn với chúng tôi. Tôi và đồng chí Hưng bàn đi bàn lại với tỉnh kết nghĩa, có cả đồng chí Văn Hiến tỉnh uỷ viên nguyên là Thành uỷ Hải Phòng làm Giám đốc sở nông nghiệp Cửu long, nhưng đồng chí Phó Chủ tịch chặt chẽ quá. Tôi nghĩ chắc tỉnh cũng có khó khăn về lương thực, nên tôi đề nghị thôi không mua lương thực của tỉnh Cửu long nữa. Về sau các đồng chí nghĩ sao không rõ, đồng chí Tuấn lại bán cho Hải Phòng 1.000 tấn thóc. Tôi nói với đồng chí Văn Hiến rằng, chúng tôi thông cảm, anh không nên áy náy về vấn đề này.
Hôm sau Đoàn chúng tôi sang Hậu giang, gặp đồng chí Chủ tịch Bảy Mạnh, đồng chí Đặng Toàn, Phó Chủ tịch, nguyên Chủ tịch thành phố Hải Phòng vào tăng cường cho Hậu giang. Chúng tôi chỉ bàn 2 tiếng đồng hồ, đồng chí Chủ tịch bán cho 2.000 tấn gạo bằng cách đổi hàng rất thuận lợi cho Hải Phòng.
Kết quả mua được 2.000 tấn gạo và 1.000 tấn thóc. Chúng tôi ra về bằng đường bộ. Trong dịp đi công tác này, tôi gặp một số tỉnh để vừa học lập, vừa thăm dò việc “khoán” nông nghiệp. Có đồng chí rất bỡ ngỡ vì việc quá mới, có đồng chí trả lời: “Chúng tôi phải tổ chức hợp tác xã xem sao đã. Chưa biết hợp tác xã ra sao, nói gì đến khoán”. Tỏ thái độ không đồng tình là Bến Tre và Thuận Hải, còn đa số trả lời chung chung: “Các anh cứ làm trước, nếu tốt chúng tôi sẽ làm”. Tôi chỉ dám trao đổi khéo léo, sơ sơ thôi, chứ không dám nói thẳng ra, vì vấn đề này vẫn là vấn đề “quốc cấm”.
Trên đường về, chúng tôi làm việc với Khánh Hòa, đêm ngủ tại Cam Ranh. Bộ Tư lệnh Hải quân mời đến xem tàu ngầm Liên Xô. Sáng hôm sau trên đường về qua thành phố Nha Trang một sự cố đau lòng xảy ra: đồng chí Nguyên Văn Sinh, chuyên viên Văn phòng Uỷ ban bị nhồi máu cơ tim chết ngay trên xe trong lúc đang đi cùng với đồng chí Trịnh Thái Hưng. Chúng tôi đưa ngay đồng chí Sinh đến Bệnh viện Nha Trang, nhờ bệnh viện khám lại tử thi để xác định nguyên nhân. Đồng chí Sinh bị đau tim đã lâu. Khi đi vào miền Nam đồng chí Sinh đi bằng máy bay, đồng chí có cháu là bộ đội Hải quân nên kết hợp đi thăm cháu. Trước khi ra Bắc bằng đường bộ, tôi đã bảo đồng chí Sinh xem lại sức khoẻ rồi hãy đi. Đồng chí Sinh nói với tôi: “Anh yên tâm, sức khoẻ tôi khá rồi”.
Tôi đến gặp đồng chí Hồ Ngọc Nhường, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Khánh đề nghị giúp đỡ. Đồng chí Nhường giúp hết sức tận tình, chỉ thị cho bệnh viện làm mọi thủ tục, đóng cho một quan tài trong bằng kẽm, ngoài bằng gỗ, giải phẫu và làm vệ sinh tử thi đồng chí Sinh rất chu đáo. Chúng tôi nghỉ lại một đêm ở thành phố Nha Trang, một đêm biết bao buồn bã, không ai ngủ, chỉ mong sao chóng sáng để đưa đồng chí Sinh về Hải Phòng. Sáng sớm hôm sau, đồng chí Hồ Ngọc Nhường và Văn phòng UBND tỉnh Phú Khánh tiễn chúng tôi với sự cảm thông sâu sắc về chuyến công tác gặp nhiều trắc trở. Đoàn chúng tôi ra về với một xe tang bí mật (xe khách do Khánh Hòa chở giúp) trên chở quan tài đức Sinh và một vài cán bộ ngồi phía trước. Còn xe tôi lúc đi trước, lúc lùi lại sau để bảo đảm thời gian và tốc độ đi vừa phải. Nó là cái xe Volga mầu mận tím trước của Giáo sư Tôn Thất Tùng (Giáo sư mua xe mới, chiếc xe cũ cho Hải Phòng). Đoàn xe đến Lăng Cô thì xe của tôi bị chết máy, đồng chí Chức lái xe chữa mãi không được. Tôi bàn với anh Hưng gọi điện cho anh Trần Hoàn, Uỷ viên Thường vụ Bình Trị Thiên, đề nghị cho xe đến đón, và kéo xe của tôi về Huế. Đồng chí Trần Hoàn lập tức mượn xe của đồng chí Vũ Thắng, Chủ tịch UBND tỉnh đến đón tôi, và cho một xe U-oát kéo chiếc xe hỏng về Huế. Thật là:
“Phúc bất trùng lai,
Hoạ vô đơn chí!
Về đến Huế, đồng chí Vũ Thắng đã đón tôi tới khách sạn và mời cơm toàn đoàn. Chúng tôi giữ bí mật về chiếc xe khách chở hàng “đặc biệt” đi theo. Vì cả đêm chiếc xe đó phải đỗ ở sân khách sạn Sông Hương, ngại nói ra anh em khách sạn lại sợ, sinh “rách việc”, cứ lặng yên không ai nói gì cả.
Hôm sau chúng tôi cảm ơn, chào tạm biệt đồng chí Vũ Thắng, đồng chí Trần Hoàn, về Hải Phòng. Nhưng các đồng chí ở Huế cũng biết là chiếc xe khách trong chở quan tài, thấy chúng tôi không nói gì, các đồng chí “tế nhị” cũng không hỏi. (Sau này đồng chí Vũ Thắng và đồng chí Trần Hoàn có nói lại với tôi). Viết đến đây, tôi muốn một lần nữa cảm ơn ba anh: Hồ Ngọc Nhường, Vũ Thắng, Trần Hoàn. Nhưng ba anh đã qua đời! Rất buồn và nhớ các anh, những “chiến hữu” không bao giờ quên nhau. Nhất là anh Trần Hoàn, một con người năng động, sôi nổi, tình cảm... luôn coi Hải Phòng là quê hương thứ hai của mình.
Đến 15 giờ cùng ngày, đoàn xe chúng tôi về đến Hải Phòng. Gia đình đồng chí Sinh và Văn phòng Uỷ ban, Văn phòng Thành uỷ, các cơ quan, bạn bè thân thuộc đã đón đồng chí Sinh ở bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp. Vừa buồn vừa tủi, vừa mừng lẫn lộn. Những ngày qua chị Sinh và các cháu lo lắng không biết bác Thành, bác Hưng... có mang được bố các cháu về không? Hay phải mai táng tại Nha Trang? Hôm sau, đám tang đồng chí Sinh được cử hành long trọng. Thi thể đồng chí do Khánh Hòa làm vệ sinh và ướp lạnh tốt, nên hình dáng vẫn như người nằm ngủ. Cả gia đình đều gặp tôi cảm ơn. Tôi bảo đây là trách nhiệm, là tình cảm của đồng chí với nhau, chỉ khi không còn điều kiện mới phải bó tay.
Một thời gian đi công tác dài ngày ở các tỉnh phía Nam, tôi có thêm những suy nghĩ mới về đất nước. Trước đây so với 3 nước như: Nhật Bản, Trung Quốc, Liên Xô thì Việt Nam vẫn có ưu thế hơn. Thế mà sau hơn 5 năm thống nhất đất nước, dân vẫn cứ nghèo, thành phố Hồ Chí Minh mấy năm đầu thấy khá hơn các tỉnh phía Bắc nay xuống cấp quá nhanh, xe máy hết dần, chỉ còn xe cũ với loại Honda 50 là phổ biến, xe đạp xuất hiện nhiều. Từ ăn mặc, đến nhậu nhẹt giảm hẳn. Quần áo nâu sồng, dép lốp xuất hiện.
Các tỉnh miền Trung còn khó khăn hơn. Đến Phan Rang, nóng ơi là nóng! Đồng chí Thư ký thấy tôi mồ hôi nhễ nhại, mệt mỏi, tìm mãi trong cặp ra đưa cho tôi một gói sâm chè cao ly và một cốc nước, nói khẽ: “Anh vào góc kia uống”. Đồng chí hướng dẫn tôi xé bao chè sâm, dốc vào miệng, uống cho đỡ mệt. Đúng là lần đầu tiên tôi uống chè sâm, uống xong thấy dễ chịu thật. Tôi suy nghĩ làm sao để dân giàu lên, mình được uống chè sâm với dân thì sướng biết bao! Phải làm và làm cho được.
Về đến Hà Nội, buổi trưa nắng hè oi ả, lại thấy rặt xe đạp là xe đạp, với dép cao su. Nhiều người còn mặc quần áo vá. Tôi nghĩ bao giờ thì lên đến chủ nghĩa xã hội? “Phải quyết tâm làm cho nó đến...”
Là người Hải Phòng không ai không hiểu Hải Phòng là thành phố Cảng, thành phố công nghiệp, và đường lối chung phải ưu tiên phát triển công nghiệp. Nhưng giữa lúc ngành công nghiệp đang đứng trước những thách thức lớn, công nghệ lạc hậu, vốn không có, nguyên liệu nhập về không đủ, phải chia nhau từng tấn sắt thép, mà Uỷ ban kế hoạch Nhà nước cũng quên Hải Phòng là thành phố công nghiệp, nên những năm cuối thập kỷ 70, phân chia nguyên liệu sắt thép chỉ ngang Quảng Ninh và Thái Bình. Vậy Hải Phòng phải tìm hướng đi nào cho phù hợp và có hiệu quả nhất, không giáo điều, máy móc? Chúng tôi tạm thời vẫn duy trì những ngành công nghiệp khó khăn và phát triển những ngành công nghiệp có điều kiện, chờ thời. Khởi đầu bằng nông nghiệp lúc đó là thuận nhất, vì ngân sách trống rỗng, lương thực Nhà nước cấp có hạn. Đầu tư vào nông nghiệp là nhanh nhất. Sau 1 vụ khoảng 3, 4 tháng là có ăn. Thực tế phương hướng này rất đúng và đã giải quyết được nhiều khó khăn cho thành phố. Ấy thế mà lại có người cho Hải Phòng đi chệch hướng. Đến khi Hải Phòng được Trung ương đồng tình, ủng hộ và khuyến khích, thì họ lại tức tối, chống phá. Thế mới biết vận dụng sáng tạo đường lối của Đảng đã là khó, nhưng vượt qua rào cản của những người thiển cận, bảo thủ còn phức tạp hơn nhiều.
Hiện lương thực cung cấp cho cán bộ công nhân viên thiếu quá, hết 10 ngày đầu tháng đã không có gạo bán. Trong khi tầu gạo đã đến Cảng. May gặp anh Đinh Đức Thiện, Bộ trưởng Giao thông vận tải kiêm Bộ trưởng Dầu khí (lúc đó là Bộ, sau này là Tổng cục Dầu khí), Thành uỷ và UBND đề nghị anh Thiện tạm xuất cho ít gạo để bán cho cán bộ, công nhân. Anh Thiện đồng ý xuất ngay cho Hải Phòng 2.000 tấn. Một tháng sau anh Thiện xuống Văn phòng Uỷ ban, vừa bước vào phòng làm việc của tôi, anh vừa nói: “Có thằng Bộ trưởng nào như tao không? Kiêm hai Bộ trưởng mà không cho lấy hai vợ. Có thằng Bộ trưởng nào như tao phải đến Chủ tịch thành phố hàng ngày? Chủ tịch bảo xuất gạo, phải xuất gạo ngay. Lập trường giai cấp ở chỗ đó đấy! Thế mà họp Chính phủ họ bảo tao xuất vô nguyên tắc, chưa nhập kho lương thực chưa có phiếu xuất kho đã xuất cứ xồn xồn như các bà hàng cá. Phê bình tao, tao bảo nếu để công nhân đói, họ lên kéo sụp “cổng nhà đỏ” này thì các anh không yên đâu. Để tôi làm Thủ tướng 15 phút, tôi sẽ giải quyết xong các vấn đề rắc rối, trì trệ của các anh. Tao nói xong, không họp nữa ra về, xuống thẳng Hải Phòng vào nói cho cậu biết...” Tôi chỉ còn biết cảm ơn anh đã gánh chịu những lời phê bình cho nhân dân Hải Phòng, chứ không dám bình luận gì thêm...
Anh Đinh Đức Thiện, con người thông minh, tính tình thẳng thắn, bộc trực. Khi làm Bộ trưởng Giao thông vận tải, môi khi xuống Hải Phòng, anh đến thăm tôi, kể rất nhiều chuyện trong nhà tù, trong kháng chiến chống Pháp, nhất là trong chiến tranh chống Mỹ. Khi anh phụ trách hậu cần, chuẩn bị chiến dịch Hồ Chí Minh, những sáng kiến táo bạo của anh trong việc tích trữ đạn pháo các loại, nhất là đạn pháo 130 ly. Anh nói: “Mình chuẩn bị đánh chúng sao cho ba đời chúng còn khiếp pháo của tao. Anh hay đọc thơ cho tôi nghe. Thơ anh viết hay, có nhiều góc cạnh châm biếm rất vui, kể cả thơ châm biếm ông anh Lê Đức Thọ làm tổ chức...
Tôi rất quí anh và anh cũng mến tôi. Khi sinh thời, đã nghỉ hưu, anh cũng hay đến tôi chơi và bảo tôi lại nhà chơi. Nay thi thỏang tôi cũng đến thắp hương cho anh, tưởng nhớ một con người hết lòng cho đất nước.
Tôi bàn tiếp với anh Tạo để ra nghị quyết về “khoán sản” trong nông nghiệp. Anh Tạo đưa ra Thành uỷ bàn nhiều kỳ họp. Vẫn còn 4 Thành uỷ viên không đồng ý. Anh Tạo trao đổi với tôi tiếp tục tranh thủ sự đồng tình của anh Trường Chinh. Tôi đã hỏi ý kiến anh Lê Duẩn, Tổng Bí thư, sau 3 giờ báo cáo. Anh Ba nghe rất kỹ và đồng tình ngay (tôi sẽ nói kỹ trong chương anh Ba với Hải Phòng). Anh Phạm Văn Đồng coi như đã đồng ý rồi. Anh rất vui, chỉ hỏi anh Ba, anh Trường Chinh ý kiến thế nào? (Tôi sẽ nói kỹ trong chương các đồng chí Bộ Chính trị lúc đó với Hải Phòng).
Để từng bước xoay chuyển tình hình, tôi bàn với anh Tạo cho chia huyện An Thuỵ ra, huyện Kiến Thuỵ nhập với thị xã Đồ Sơn vừa có thị xã vừa có huyện, gọi là huyện Đồ Sơn. Huyện An Lão cũ nhập với thị xã Kiến An, gọi là huyện Kiến An. Trước mắt giải quyết mâu thuẫn triền miên của huyện An Thuỵ. Bước sau sẽ tách hai thị xã Kiến An và Đồ Sơn đưa lên thành Quận. Còn hai huyện Kiến Thuỵ, An Lão trở lại huyện cũ theo truyền thống. Thành uỷ và Uỷ ban thành phố mời đồng chí Vũ Trọng Kiên, Trưởng ban Tổ chức Chính phủ xuống Hải Phòng làm việc một ngày, đồng chí Vũ Trọng Kiên đồng ý trình Chính phủ phê duyệt.
Tháng 3-1980 hai huyện mới được thành lập. Đồng chí Vũ Ngọc Làn, Bí thư Huyện uỷ Kiến An, sẽ nhận chỉ đạo điểm nghị quyết khoán. Đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Bí thư Thị xã Đồ Sơn về làm Bí thư Huyện uỷ Đồ Sơn.
Tôi đã báo cáo anh Trường Chinh 2, 3 lần, anh tỏ vẻ không phản đối. Một lần anh Trường Chinh đi xem bắn tập tên lửa thật ở Hải Phòng, tôi đưa anh đi xem tại Đồ Sơn. Trưa ăn cơm chỉ có hai người, tôi lại đem vấn đề khoán ra xin ý kiến anh. Tôi cảm giác anh không vui, nhưng anh không nói vào khoán. Anh kể chuyện huyện Xuân Trường, quê anh với thái độ gay gắt, phê bình huyện này buông lỏng quản lý, để hợp tác xã khoán lung tung, không có kỷ cương gì... Tôi biết là anh phê bình tôi. Tôi chuyển sang báo cáo công việc khác, về làm kinh tế, về Cảng...
Anh Tạo kể lại hôm họp Quốc hội, (anh Tạo và tôi đều là đại biểu Quốc hội khóa VII) giờ nghỉ giải lao, anh Trường Chinh gọi anh Tạo ra ngoài phê phán rất gay gắt: “Anh định phá hết hợp tác xã nông nghiệp ở Hải Phòng và cả nước à?.”. Anh Tạo bảo tôi gay lắm! Nhưng tôi một mặt mời anh Trường Chinh về thăm Hải Phòng, lấy thực tế thuyết phục, mặt khác bảo đồng chí Nguyễn Đình Nhiên ra nghị quyết của Huyện uỷ về khoán, dựa vào nghị quyết dự thảo của Thành uỷ mà viết.
Anh Nhiên do dự, nhưng sau hai, ba ngày anh lên Hải Phòng gặp tôi, mời tôi về Huyện bàn việc ra nghị quyết. Tôi báo cáo anh Tạo việc này, anh Tạo tỏ ý không đồng tình và bảo: “Cậu Nhiên không ổn đâu. Hồi tôi làm Tổ chức Trung ương, tôi biết cậu này”. Tôi trình bày lại với anh Tạo. Việc khoán đã chín muồi lắm rồi, cứ cho một huyện ra nghị quyết trước, để lấy ý kiến từ cơ sở, thêm áp lực với trên. Anh Tạo nể tôi, bảo “Thôi tùy anh”. Tôi nói với anh Tạo nếu trên có hỏi, anh cứ bảo chủ tịch thành phố cho làm. Anh tỏ vẻ không vui, nói “Nếu có trách nhiệm là trách nhiệm chung”. Hôm sau anh Nhiên lên thành phố hỏi tôi: “Anh Tạo có đồng ý không?”. Tôi nói anh Tạo đồng ý rồi, nhưng có vấn đề đấy, cần làm thận trọng, đừng để xảy ra phức tạp.
Huyện Đồ sơn ra nghị quyết được 32 ngày thì Ban Thường vụ ra nghị quyết 24 nổi tiếng về “khoán” trong nông nghiệp, làm cơ sở cho chỉ thị 100 của ban Bí thư tháng 1-1981 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp cho nhóm lao động và lao động xã viên và làm cơ sở cho nghị quyết khoán 10 tháng 4-1988 của Bộ Chính trị khóa VI về “khoán 10”.
Cuộc đấu tranh cho một cái mới ra đời thật quá vất vả, khó khăn. Trong thời kỳ chuẩn bị ra nghị quyết, các huyện ngoại thành, nhất là huyện Tiên lãng, xã Đoàn Xá Đồ sơn, xã Hưng Đạo, huyện An Lão nghe thành phố bàn khoán, tình hình sản xuất bức xúc, hợp tác xã cứ tạm cho khoán từng phần, mỗi xã để dành một số ruộng khoán để rút kinh nghiệm.
Các đoàn kiểm tra của Trung ương về Hải Phòng ngày càng đông, đoàn đồng tình, đoàn lưỡng lự, đoàn phản đối, đủ các loại. Quần chúng thì phán khởi. Tỉnh Hải Hưng, một tỉnh nông nghiệp lớn bên cạnh Hải Phòng. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tuyên bố “Nếu có dây thép gai tôi sẽ rào luồng gió độc của Hải Phòng thổi sang”. Nhưng các huyện của Hải hưng. các đồng chí Bí thư, chủ tịch lén lút xuống Hải Phòng học kinh nghiệm khoán.
Các anh trong Bộ Chính trị như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh Nguyễn Duy Trinh, anh Trần Quốc Hoàn... đều xuống nghiên cứu khoán. Anh Giáp, anh Trinh tỏ ý đồng tình ngay. Anh Trần Quốc Hoàn hỏi rất sâu và tỏ vẻ lưỡng lự, nói: “Thiếu lương thực thì phải làm thôi”. Các anh uỷ viên Ban Bí thư và uỷ viên Trung ương như anh Hoàng Tùng. anh Vũ Oanh, anh Trương Kiện thì ủng hộ rất nhiệt tình. Anh Vũ Oanh còn tuyên bố: “Đây là chìa khóa vàng” làm một số người chống khoán phản đối quyết liệt. Đến mức đồng chí Vũ Duy Hiệu, đảng viên năm 1930, nguyên chủ tịch Uỷ ban cách mạng lâm thời tỉnh Hải dương 1945, nguyên phó tổng giám đốc ngân hàng Việt Nam, anh ruột anh Vũ Oanh phải đến hỏi tôi “Khoán ra sao, mà chú Vũ Oanh lại mạnh mồm nói như vậy?”. Tôi báo cáo với anh Vũ Duy Hiệu “Anh Oanh nói đúng đấy! Anh yên tâm”. Sau này ta đã xuất được trên 3 triệu tấn gạo, tôi lại chơi, nói vui với anh Vũ Duy Hiệu: “Nay đã là kho vàng rồi, không chỉ có chìa khóa vàng...” Anh Hiệu rất vui. nay anh đã 95 tuổi.
Ba mươi tết năm 1980, anh Đỗ Mười xuống thăm và chúc tết nhân dân Hải Phòng. Tôi mời anh đi xem sản xuất nông nghiệp. Ngồi trên chiếc xe Commăngca anh thấy ngày 30 tết, nông dân cấy rợp đồng, anh cười vui vẻ nói: “Chỉ có khoán mới có chuyện làm ăn chăm chỉ của nông dân như thế này...”
Trở lại khoảng tháng 9-1980, nghị quyết 24 về khoán trong nông nghiệp đã được hơn 3 tháng. Thành uỷ tổ chức sơ kết. Một số tỉnh và ngành Trung ương cùng đến dự. Một số tỉnh không được mời cũng đến. Các báo càng đến đông. Những nhà báo như Lê Điền, Thái Duy, Hữu Thọ ủng hộ khoán ngay từ đầu, rất sốt sắng viết bài, tuyên truyền cho khoán. Những nhà báo còn do dự hoặc chưa đồng tình cũng đến đông để nghe ngóng tình hình.
Lúc đó anh Trường Chinh đã đồng ý cho khoán trong lần thứ năm tôi xin ý kiến anh. Ý kiến anh góp tôi đã ghi kỹ và đọc lại cho anh nghe (tôi sẽ nói trong chương anh Trường Chinh với Hải Phòng). Khi họp hội nghị, tôi hỏi ý kiến anh Tạo, đề nghị cho tôi phổ biến ý kiến anh Trường Chinh, anh Tạo tỏ ra ngại ngần, nói: “ấy chê - ết! ấy chê - ết! Để xem đã”. Mặc dù tôi đã đọc ý kiến anh Trường Chinh đồng ý cho khoán để anh Tạo nghe, nhưng có lẽ anh chưa tin, và sợ không đúng ý anh Trường Chinh. Tôi đành không phổ biến, nhưng cũng tiếc!
Đến khoảng tháng 11-1980. Ban nông nghiệp Trung ương họp các trưởng ban nông nghiệp toàn quốc, có mời anh Tạo và tôi lên dự. Anh Tạo bảo tôi đại diện, anh không đi. Tôi cùng đồng chí Trưởng ban Nông nghiệp đi họp. Đồng chí trưởng ban nông nghiệp Hải Phòng lúc đó chưa đồng ý khoán. Khi đến cuộc họp, đồng chí Võ Thúc Đồng là trưởng ban bảo tôi: “Hôm nay Hải Phòng cử “gà nòi” đi họp đây”. Mấy đồng chí phó ban chống khoán, cũng đùa vài câu và cười hơi “mỉa mai”. Tôi vui vẻ bắt tay các anh và các đồng chí trong hội nghị.
Vào cuộc họp, sau lời tuyên bố lý do cuộc họp, là nghe việc khoán nông nghiệp của Hải Phòng, anh Võ Thúc Đồng mời tôi phát biểu trước. Tôi lên phân tích lý do làm khoán, cơ sở lý luận, kết quả và tồn tại, khoảng 45 phút. Sau đó các tỉnh phát biểu. Tất cả đều phản đối khoán, phê phán các mặt tiêu cực của nó, lên án gay gắt. Có những lời nói thiếu văn hóa nữa. Duy chỉ có đồng chí Huy, Viện phó Viện nông nghiệp thì ủng hộ một vài ý nhưng rụt rè. Hôm đó tôi thấy cần phải đem ý kiến anh Trường Chinh ra phổ biến, tôi đọc nguyên văn lời anh Trường Chinh mà tôi đã ghi vào sổ... Tôi vừa đọc thong thả, vừa theo dõi thái độ hội nghị. Thấy nhiều bộ mặt ngơ ngác, có bộ mặt nghi ngờ, có người thì thầm với nhau, nhằm nói to cho tôi nghe thấy, như: “Kỳ này tay Thành sẽ chết với ông Trường Chinh... dám bịa, ghê thật!”. Tôi vẫn tỏ ra như không nghe thấy, và cứ nói một cách phấn khởi về ý anh Trường chinh...
Khi kết thúc hội nghị, anh Võ Thúc Đông tiễn tôi, vỗ vai tôi nói: “Tôi ủng hộ ý kiến anh, nhưng trong lúc này điều kiện tôi không nói công khai được...”. Còn các đồng chí Vụ trưởng ủng hộ khoán như: Lê Công Thiện, đồng chí Phước thì tỏ ra phấn khởi và bảo tôi: “Cứ yên tâm, chúng tôi sẽ ủng hộ triệt để Bài phát biểu của anh hôm nay thuyết phục lắm!”.
Đến nay, đồng chí Võ Thúc Đồng đã 90 tuổi với 75 tuổi Đảng, thỉnh thỏang gặp đồng chí, tôi nói vui: “Chiến sĩ Côn Đảo mà nhát, không dám công khai ủng hộ khoán ngay từ đầu”. Anh cười và đấm tôi: “Cậu hay nhớ dai...”.
Làm thế nào để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và dần dần nâng cao đời sống nhân dân?
Đây là câu hỏi cực khó trong đầu thập kỷ 80 đối với toàn quốc. Đặc biệt là Hải Phòng, nơi còn khó hơn nhiều vì thành phố vừa công nghiệp vừa có Cảng. Nông nghiệp tuy đã bước đầu làm khoán, nhưng vẫn rất nghèo, do đồng ruộng chua mặn!
Bài toán trong đầu tôi tuy một phần đã có phác thảo, nhưng bước đi cụ thể ra sao? Cái nào làm trước, cái nào làm sau? Biết bao con toán. Trong lúc ngân sách thành phố không còn gì, gạo chạy từng ngày, nguyên liệu dùng trong công nghiệp Trung ương cho rất ít, thất nghiệp, ăn mày ăn xin các nơi kéo về, lũ lượt đi ngoài phố. Giờ trưa ăn cơm, người ăn xin gõ cửa vào cả nhà ông Chủ tịch!
Tôi đề nghị anh Tạo, Thường vụ Thành uỷ và Thường trực Uỷ ban chọn lựa một số công trình thủy lợi loại vừa, hỗ trợ cho nông dân làm khoán, vừa giải quyết việc làm, vừa tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, cung cấp nước cho nông nghiệp, tổ chức lấn biển với qui mô lớn để tăng diện tích cho nông nghiệp và lấy đất xây dựng công nghiệp. Tôi luôn quan niệm rằng: xây dựng CNXH tất nhiên phải có những công trình lớn như nhà máy Thủy điện Hòa Bình, cầu Thăng Long., nhưng đối với người dân không phải ai cũng biết. Cái mà họ cần là nơi đang sống phải ngày một tốt hơn. Từ cái ngõ vào nhà sao cho không lầy lội mỗi khi trời mưa, cái nhà đang ở không dột nát, cái hố xí mỗi khi đi vệ sinh không phải một nón che đầu, một nón che phía trước... Vì vậy, phải xây dựng, chỉnh trang và làm sạch đẹp thành phố, phá bỏ những hố xí không có mái che ở các khu lao động như Thượng Hạ Lý, An Dương, Máy Chai, Trại Chuối... Tôi cũng cho phá dỡ những tàn tích chiến tranh còn lại như bộ khung nhà máy lọc nước của xí nghiệp xi măng, bên cầu Thượng Lý, trông rất khó coi, các lô cốt thời Pháp còn ngăn cản đường giao thông ở đường số 5 như tháp canh Dụ Nghĩa lấn 1/4 lòng đường; tháp canh Đồn Riêng, đường 14 ra Đồ Sơn v.v... Những khu nhà tranh tre nứa lá, lợp tôn lụp xụp ở các phố lao động, tôi bảo cán bộ vận động nhân dân sửa chữa cho ngăn nắp, từng bước bỏ hố xí thùng, xây hố xí tự hoại, nhà nước cấp kinh phí một nửa. Ngoài ra, những công trình văn hóa sẽ cùng lúc được khởi công như xây dựng nhà văn hóa Việt Tiệp, cung văn hóa thiếu nhi, sửa chữa phục chế Nhà hát lớn thành phố, trang bị nhạc cụ và dàn âm thanh hiện đại cho Đoàn ca múa, tạo mọi điều kiện cho Đoàn kịch nói dựng vở “Nhân chứng và lịch sử” nói về Bác Hồ, tổ chức hội thảo về danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, thay nhạc hiệu của Đài phát thanh và truyền hình Hải Phòng bằng bài “Thành phố Hoa Phượng đỏ” thơ của Hải Như, nhạc của Lương Vĩnh... Ở ngoại thành phát động phong trào “ngói hóa” nông thôn, xây dựng cụm văn hóa xã, thị trấn huyện khang trang, phấn đấu xây dựng Hải Phòng từ các công trình ở xã lên đến huyện và nối vào thành phố.
Tất cả những dự định trên, tôi đều viết thành đề án đưa ra thành uỷ và Hội đồng nhân dân bàn, ra nghị quyết. Triển khai ý tưởng đó, cùng với việc luôn luôn báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Trung ương tôi đã tham khảo các đồng chí lãnh đạo ở một số tỉnh, thành phố, như các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, thành phố Hồ Chí Minh; mời các học giả, nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ đóng góp ý kiến như: học giả Nguyễn Khắc Viện, Vũ Khiêu, Trần Bạch Đằng, kiến trúc sự Khôi Nguyên La Mã, Ngô Viết Thụ, người thiết kế dinh Thống Nhất Sài Gòn, các giáo sư Vũ Tuyên Hoàng, Võ Tòng Xuân, các văn nghệ sĩ như nhà văn Nguyên Hồng, Học Phi, nhạc sĩ Văn Cao...
Để thử nghiệm khả năng chỉ đạo của mình, tôi cho làm một công trình nhỏ đầu tiên, đó là con đường phường Vạn Mỹ, đoạn từ cầu Tre đến Đoạn xá. Đường cũ rải nhựa mỏng đã bong hết, chỉ còn cát đá, sỏi, đất lại là lối xuống cảng, xe cộ đi lại nhiều, dân cư đông đúc, rất bụi. Quần chúng kêu ca, oán trách chính quyền thành phố đã lâu, không ai giải quyết đoạn đường dài 800m này. Tôi hỏi sở nhà đất và đô thị, sở giao thông và sở tài chính họ đều nói không có tiền. Trong khi đó công nhân làm đường thất nghiệp, máy móc bỏ không. Tôi nghĩ chỉ còn cách đi vay. Tôi biết xí nghiệp vận tải đường sông III trực thuộc bộ Giao thông vận tải, đơn vị làm ăn khá, đồng chí Nghiệp giám đốc xí nghiệp có quan hệ tốt với thành phố. Tôi đến gặp đồng chí Nghiệp xin vay một triệu đồng, 6 tháng sẽ trả. Đồng chí Nghiệp đồng ý ngay và nói: “Nếu chậm một năm Chủ tịch trả cũng được”. Tôi cảm ơn. Hôm sau, tôi cho triển khai ngay, với nguyên tắc phải làm tốt, rải nhựa bảo đảm đường thành phố cấp cao, khẩn trương thi công trong 40 ngày, kết thúc con đường đầy bụi bặm cho nhân dân. Báo chí, đài, không cần nói, chỉ khi hoàn thành xong đúng kỳ sẽ nói. Các đơn vị ra quân phối hợp làm chặt chẽ. Thiết kế, sơ đồ tiến độ thi công làm rành mạch rõ ràng. Hàng ngày hết giờ làm việc tôi đến kiểm tra xem anh em làm có đúng như lời nói không? Và mệnh lệnh của chủ tịch, anh em có chấp hành nghiêm chỉnh chỉnh không?
Không kể những ngày chuẩn bị, tính từ ngày thi công, đúng 39,5 ngày con đường nhựa phẳng lì, đen bóng hoàn thành. Tôi cũng thấy phấn khởi. Anh em đề nghị tổ chức khánh thành, tôi bảo thôi vì chỉ có khúc đường ngắn, làm rút kinh nghiệm. Nếu cần thì cho đài, báo thông tin cho nhân dân biết. Đợi khi nào có công trình lớn sẽ tổ chức khánh thành. Mọi người vui vẻ đồng tình. Tôi lại nghĩ: “Tiền đâu? Ở đầu mà ra cả”. Từ đó ai hỏi tôi xin vốn, xin tiền, tôi bảo các đồng chí hỏi cái đầu của các đồng chí. Đến nay trở thành thành ngữ: “Tiền đâu? Ở đầu mà ra”. Hải Phòng có cảng là thế mạnh, Hải Phòng phải tận dụng thế mạnh này chứ.
Nhân dịp Tổng Bí thư Lê Duẩn về thăm Hải Phòng, tôi dựa vào ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư thường nói: “Mỗi tỉnh thành phải tự lo, phải coi mình như một nước nhỏ, phải tìm cách làm sáng tạo...” Tôi đề nghị anh Lê Duẩn cho Hải Phòng mua một con tàu biển, chở hàng đi bán ở những thị trường gần. Anh Lê Duẩn đồng ý ngay và còn khuyến khích nữa. Tôi lại đề nghị anh nói với anh Lê Khắc, Bộ trưởng Ngoại thương giúp.
Sau một tuần được ý kiến của anh Ba (tên gọi thân mật của Tổng Bí thư Lê Duẩn), chúng tôi mời anh Lê Khắc xuống làm việc ở Hải Phòng. Anh Khắc đồng ý cho Hải Phòng mua tàu theo ý anh Ba. Thế là ngành vận tải biển do Trung ương độc quyền, nay Hải Phòng, đơn vị đầu tiên có tàu biển xuất dương.
Ngay sau đó, tôi nhờ chị Trương Thị Nhân - giám đốc Công ty Vận tải và thuê tàu (Vietfract) của Bộ Ngoại thương mua giúp một tàu biển cũ của Nhật Bản. Đồng thời tôi khẩn trương xây dựng cảng Cửa Cấm, Cảng riêng của Hải Phòng, để khi mua được tàu về là có Cảng đậu ngay, không phải thuê cầu Cảng của Trung ương, khỏi bị động và tránh cước phí rất đắt. Không những thế khi đã có Cảng, nếu tàu nhà không đậu hết, cho thuê cũng tăng được ít nhiều ngân sách địa phương. Vì Cảng Trung ương lúc nào cũng chật ních tàu, tàu phải chờ đợi lần lượt vào Cảng rất nhiều. Khi mua được tàu về, chị Nhân bảo tôi: “Anh nghĩ xa thật. Có cảng cho tàu đậu ngay, còn có cảng để kinh doanh nữa”. Tuy cầu cảng Cửa Cấm mới có một cầu tàu dài 105m, nhưng tàu mới, đỗ cảng mới cũng thấy vui! Tàu cũ mua về cho sơn lại, với cái tên “Sông Cấm”, ngành Hàng hải Việt Nam có thêm một “bạn mới”, “người địa phương Hải Phòng”.
Chúng tôi chuẩn bị chuyến hàng đem bán cho Hồng kông. Hàng hóa đủ loại: tương, cà, mắm, muối... Vì là lính mới, dân “local”, bỡ ngỡ mọi thứ. Từ thuyền trưởng đến thủy thủ đều nhờ Công ty Vietfracht giúp đỡ. Chuyến hàng đầu tiên chạy từ Hải Phòng đến Hồng kông, mua bán xong, trở về hết một tuần. Cả một tuần không đêm nào tôi ngủ được. Tôi lo đủ mọi thứ. Hồng kông lúc đó là thị trường tư bản duy nhất ta có đại diện thương mại. Tôi rất sợ bị sự cố xảy ra: sợ đắm tàu, sợ bị bắt, bị lừa. Vì toàn cán bộ mới ra buôn bán với nước tư bản, hàng ngày các đồng chí trên tàu “Sông Cấm” đều báo cáo công việc của mình cho Chủ tịch. Chủ tịch Uỷ ban thành phố như một anh Giám đốc công ty, lo từng ly từng tý. Từ giấy thông hành (Passport), đến cuộc sống thủy thủ, đến hàng hóa đem bán v.v... Tôi nhớ không kỹ lắm, tổng số hàng bán giá khoảng trên một triệu US đô la, do công ty dịch vụ du lịch là đồng chí Vân Nam chuẩn bị. Hàng mua về, bán lãi được gấp đôi. Thật là thành công rất đáng phấn khởi.
Tôi chỉ đạo anh em rất chặt chẽ. Ai buôn lậu, lợi dụng tham nhũng, kỷ luật nghiêm minh. Việc kinh doanh rất có hiệu quả, nhất là những chuyến đi Nhật sau này, chở hàng của ta đi bán, mua hàng cũ về bán lại cho dân, thành ra xe máy rất rẻ (lúc đó chỉ việc ra bãi rác chọn, trả cho công an Nhật mỗi chiếc 5 -10 $US là được giấy phép xuất). Xe máy của Nhật đem về định giá phải chăng ở thị trường Việt Nam đắt như “tôm tươi”. Đi vài chuyến đã có tiền thực hiện chương trình lấn biển, làm thủy lợi, mua hàng hóa cung cấp cho cán bộ công nhân viên, nhất là mặt hàng vải vóc. Nhà nước phát phiếu nhưng không có vải bán, thành phố có vải nhập về bán thu tem phiếu, bị lỗ một ít, nhưng nhân dân phấn khởi. Năm 1981-1982 làm ăn khá lên, nhân dịp 2-9 và Tết âm lịch, thành phố biếu cán bộ công nhân viên, các lực lượng võ trang, học sinh trung học, đại học mỗi người 5m. Vì lúc này Nhà nước không còn vải để bán theo tem phiếu nữa, coi như xóa bỏ tem phiếu.
Năm 1981 tôi cho mua thêm con tàu thứ 2 mang tên “Hoa Phượng”, trọng tải 2.900 tấn, có một khoang chở hàng đông lạnh, với giá gần 200.000 đô la. Khi đoàn đi mua tàu ở Nhật Bản điện về xin ý kiến quyết định, tôi phải điện đi, điện lại và gọi điện trực tiếp. Vì giá một con tàu có một khoang chở hàng đông lạnh 1.000 m3, mới có 6 tuổi giá chỉ như vậy là quá rẻ. Tôi sợ bị lừa, bảo các đồng chí fax cả lý lịch tàu về xem. Tôi vẫn lo bị lừa, nhờ các đồng chí Tổng cục Hàng hải xác minh giá cả và kỹ thuật giúp. Các đồng chí đều nói đúng, tôi mới đồng ý mua. Đúng là rẻ thật. Giá cước 1 m3 hàng lạnh là 600 $US, ta đang thiếu loại tàu này. Khi tàu về có hàng chở từ Nhật, nên chỉ sau chưa đầy một năm đã thu xong vốn. Xem ra ngành hàng hải địa phương có vẻ làm ăn tốt. Từ đó Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng cũng mua tàu kinh doanh. Còn Bình Trị Thiên thì liên doanh với Hải Phòng mua con tàu thứ 3, tên là tàu “Huế- Hải Phòng”, 2.600 tấn còn rất mới và đẹp. Hôm tàu về cảng Cửa Cấm, anh Vũ Thăng Bí thư Tỉnh uỷ từ Huế ra đón tàu. Chúng tôi rất hài lòng về con tàu đẹp, giá cả phải chăng.
Đến lúc này, bộ máy của công ty vận tải biển Hải Phòng nhỏ bé (Haiphong ship), đã đi vào nề nếp với 3 con tàu kinh doanh có hiệu quả. Tôi cho là bước dầu đạt được yêu cầu.
Tôi chuyển sang khôi phục sản xuất công nghiệp địa phương, từ lâu do thiếu nguyên liệu bị trì trệ. Trước hết là hợp tác với nhà máy xi măng, mua than cốc cho nhà máy, chỉ yêu cầu trả lại thành phố xi măng bao, để thành phố xây dựng công trình. Sau nữa tôi tìm cách thúc đẩy cho phát triển mạnh nghề giày dép xuất khẩu, ngành may mặc, ngành giấy, hóa chất Sông Cấm, nhập thiết bị xây dựng nhà máy chế biến ô xy, phát triển ngành tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp truyền thống, tạo công việc làm cho nhân dân.
Tiếp theo tôi mở công trình lấn biển lớn, kết hợp với xây dựng đường xuyên đảo đi trên đất Hải Phòng, không phải qua đất tỉnh Quảng Ninh, một công trình mà tôi ấp ủ từ lâu. Theo dự kiến, tuyến đường đi thẳng từ ngã 5 qua đường Đà Nẵng, xuyên qua doanh trại quân đội (nhà tù Đoạn Xá) qua Hạ Đoạn, Sâm Bồ, đắp đập ngăn sông Cấm, nối với đảo Đình Vũ, qua phà Đình Vũ, sang xã Hoàng Châu huyện Cát Hải cũ để xuyên qua huyện này ra bến phà Gót sang Cát Bà, ra đến Bến Bèo thị trấn Cát bà, tất cả dài 53 km.
Đoạn đường từ cảng Đoạn Xá ra Đình Vũ được thi công trước, với hai lực lượng: lực lượng hàng vạn lao động làm đường đất và lực lượng các loại tàu thuyền chở 25 vạn khối đá từ Thủy Nguyên, Cát Bà về làm đập Đình Vũ.
Công trường mở ra thu hút được rất nhiều lao động nông thôn, kể cả nông dân Thái Bình, Hà Nam Ninh cũng ra làm với công mỗi ngày là 1 đồng và 1 kg gạo. Lao động các nơi xếp hàng xin việc, làm cho thành phố sôi động hẳn lên.
Trong dịp đi kiểm tra cắm tuyến con đường “xuyên đảo”, tôi ghé thăm xí nghiệp muối Phù Long. Các anh chị em cán bộ công nhân viên kể lại bao nhiêu chuyện về cuộc sống trên hòn đảo xa đất liền, chuyện đồng chí Kích giám đốc xí nghiệp bị sét đánh, anh chị em vô cùng thương tiếc. Trước khi ra về, tôi hỏi anh chị em có đề xuất gì với thành phố không. Các chị em nữ nhao nhao đề nghị: “Cho chúng cháu về công tác ở thành phố để lấy chồng. Chúng cháu ở đây ế chồng hết”. Tôi trả lời chị em: “Cứ yên tâm. Hôm nay có một mình tôi không thể giải quyết được”. Chị em cười ồ lên! Tôi cũng hơi ngượng, vì câu nói sơ hở! Tôi vội nói tiếp: “Tôi sẽ tìm mọi cách để giải quyết nguyện vọng chính đáng của chị em...”.
Trên đường về, tôi ghé vào trung đoàn 174 bàn với đồng chí Thông trung đoàn trưởng, đồng chí Khóat chính uỷ, đưa trung đoàn đóng từ Mốc trắng Hiền Hào, chuyển dần về đóng gần xí nghiệp muối Phù Long để tạo điều kiện cho chiến sĩ làm quen với tự vệ nữ xí nghiệp.
Năm 2003 nhân dịp ra kỷ niệm ngày thành lập trung đoàn 174 ở thị trấn Cát Bà, tôi gặp lại đồng chí Thông, đồng chí Khóat và hàng trăm chiến sĩ của trung đoàn đã lập gia đình với nữ công nhân muối xí nghiệp Phù Long. Khi nói chuyện với hội nghị, tôi nhắc lại chuyện này, mọi người đều vui lắm. Nay xí nghiệp muối Phù Long đã giải tán, nhưng công nhân xí nghiệp ở lại Cát Bà làm ăn rất đông, góp phần tăng lao động cho Cát Bà để xây dựng khu trung tâm du lịch của thành phố và quốc gia.
Đối với nông nghiệp, sau khi cải tiến một bước quản lý “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và lao động xã viên” (cách nói và viết lúc đó phải như vậy. Cấm không được dùng cụm từ “khoán hộ”, nhưng thực chất là khoán cho gia đình), việc đầu tiên về kỹ thuật là phải giải quyết nước ngọt, vì các huyện nông nghiệp Hải Phòng, đất đều bị nhiễm mặn. Để ngọt hóa đất canh tác, tôi quyết định cho xây các cụm thủy nông, bơm nước ngọt từ các sông đầu nguồn, như trạm bơm Trung Trang (có 24 máy bơm, mỗi máy 4.000 m3/giờ. Thường gọi là “Cống Trung Lương”). Cống Thượng đồng, cống Rỗ, cống Dương Áo, cống An Sơn đều có trạm bơm. Một số cống lớn có từ 4 đến 12 cửa như: cống Cổ Tiểu 2, cống Cái Tắt. Ba cống ở đê lấn biển trên đường 14 là những cống chuyên dùng tiêu mặn và ngăn nước mặn. không có Trạm bơm.
Các cống từng bước xây dựng, đã thực sự “ngọt hóa” đồng ruộng Hải Phòng. Sau này cụm từ “ngọt hóa đồng ruộng” đã được nhiều người dùng, thành quen thuộc.
Sau khi cơ bản hoàn thành con đường xuyên đảo đi từ ngã 5 ra đến Đình Vũ, và quai đê lấn biển khu Tràng Cát, đắp chặn cửa sông Cấm nối sang sông Lạch Trạy, giáp với Thủy Giang, diện tích đất được mở rộng là 2800 ha.
Để tiếp tục công cuộc lấn biển, tôi đề nghị Thành uỷ và UBND thành phố quyết định lấn biến nữa. Đồ Sơn, từ Cầu Rào đến xí nghiệp muối Đồ Sơn, nối với đê “Cầm Cập” mở rộng thêm 2050 ha.
Tuyến đê này rất quan trọng, vì nó mở cho khu du lịch Đồ sơn một diện tích rộng lớn, nối liền với nội thành, tạo ra khu kinh tế tổng hợp: du lịch, chăn nuôi, trồng trọt,... phục vụ cho nội thành và xuất khẩu.
Nhưng trên thực tế về mặt địa lý, việc này rất khó khăn. Kinh nghiệm lấn biển qua các năm, tháng khi đất bồi lên độ +2 trở lên so với “cost 0” Hòn Dấu là an toàn. Nhưng dự án lấn biển lần này phải đắp một con đê mới dài 15 km, có đoạn sâu 0,8 vào quãng giữa đê, đúng gió hướng Đông.
Tuy được thông qua, nhưng nhiều đồng chí còn lo lắng và do dự. Đến ngày khởi công, có những đồng chí lãnh đạo vắng mặt, vì sợ vỡ đê, không thành công sẽ liên đới chịu trách nhiệm! Quả nhiên, gặp rất nhiều khó khăn, phải thay 3 lần chỉ huy công trường. Đầu tiên là đồng chí Công Đông, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp, sau đến đồng chí Trần Đảm, Giám đốc Sở Thủy lợi, một đồng chí xông xáo, nhiệt tình, lăn lộn với công trường, biết kỹ thuật, nhưng sau trận bão năm 1981, đê đã hàn khẩu xong bị vỡ 14 chỗ. Có chỗ vỡ rộng hàng trăm mét, sâu 14-15m. Đồng chí Trần Đảm đến gặp tôi, xin rút lui Trưởng ban chỉ đạo công trình. Tôi hỏi han rất kỹ, thì đồng chí Trần Đảm nói vẫn quyết tâm làm tiếp, nhưng phải tìm đơn vị khác thi công.
Tôi tiếp tục cùng các đồng chí Phó Chủ tịch Nguyễn Dần, Cao văn, Trịnh Thái Hưng, Nguyên Mạnh, Trần Hạnh v.v... đi khảo sát thực địa mấy ngày liền. Từ khi khởi công tôi thường xuyên có mặt tại hiện trường. Cứ sau giờ làm việc buổi chiều tôi đến ngay công trình, trừ những ngày đi họp ở Hà Nội.
Tôi mời các đồng chí chỉ huy quân sự gồm đồng chí Võ An Đông, Tư lệnh trưởng F350, đồng chí Nguyễn Chất, Phó Tư lệnh, đồng chí Trường Xuân, Chính uỷ... đi khảo sát tiếp. Tôi quyết định giao cho đồng chí Võ An Đông làm chỉ huy trưởng công trường. Những kinh nghiệm trong quá trình đắp con đê dài 15km và những khuyết điểm tồn tại cũng được tổng kết. Địa hình, thủy triều, cũng được xác định cho rõ. Tất cả phương án kỹ thuật chi tiết được thông qua, lịch thi công từng tuần, từng tháng cũng được thông qua. Đặc biệt tháng “hạ long”, chỗ vỡ sâu nhất phải được thực hiện trong tháng 3-1982.(Tháng có 3 con nước, và thủy triều lên, có biên độ thấp nhất trong năm).
- Mọi lực lượng công nghiệp của thành phố, lao động, được huy động tối đa cùng với lực lượng vũ trang quyết tâm hoàn thành con đê trong năm 1982. Lực lượng vũ trang điều tất cả khả năng cơ giới của mình để phục vụ tốt nhất. Hàng ngày có 2 trung đoàn thay phiên nhau đắp những đoạn đê xung yếu.
- Thành phố huy động 10 tàu hút bùn thường xuyên phun cát, tạo chân đế bằng cát cho những đoạn đê xung yếu.
- Chuẩn bị 10 sà lan giải bản, chở đến khu “Hạ Long”, mỗi sà lan chất đầy đá, kéo thành một đoạn đê sắt, đánh đắm, làm thành một thân đê vững chắc.
- Ban chỉ huy cho đan rọ tre, rọ sắt, rồi dùng phà và thuyền chở đất củ, đất sét, xa công trường hàng chục km, đem về cho vào rọ thả chìm để phục vụ “Hạ Long”.
Để chuẩn bị cho “Hạ Long” đúng tháng 3-1982, mọi việc phải làm trong khoảng 6 tháng, từ tháng 10-1981, hết sức khẩn trương vất vả. Các lực lượng ra quân, phối hợp rất đúng tiến độ. Hai đồng chí Phó Chủ tịch Nguyễn Dần, Cao Văn, lúc nào cũng có mặt ở hiện trường cùng với các đồng chí khác và Ban chỉ huy công trình, bảo đảm chính xác các công đoạn thi công. Để giảm áp lực nước cho khu “Hạ Long”, ta đã phải khoanh các vùng chứa nước trong 2050 ha đất mới lấn biển mở rộng ra nhiều ô nhỏ, có đê nhỏ và thấp để giữ nước khi xuống, không đổ dồn vào điểm “Hạ Long”, tạo cho cửa “hạ long” có dòng chảy vừa phải, không chảy xiết, khoét sâu, gây khó khăn cho công việc.
Điểm chính giữa nơi “Hạ Long” là chỗ bị vỡ đê dịp bão tháng 9-1981, sâu tới 14-15m, phải dùng các loại bạch đàn dài trên 10 mét làm cọc. Việc đóng cọc này cũng nhờ ta biết được quá khứ, khi ngài Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên bằng cách đóng cọc gỗ lim trên tuyến sông Bạch Đằng, sông Giá (mà ngày nay đã tìm thấy hàng bãi cọc). Ngài đã nhờ quy luật thủy triều tạo nên chiến thắng quyết định cho dân tộc.
Từ thực tế cuộc sống ấy, anh em bộ đội dùng phà chở gỗ bạch đàn, đợi khi nước thủy triều cân bằng thả cọc xuống. Mỗi cọc có một đòn gánh buộc ngang thân cây, tùy theo mức nước nông hay sâu mà để đòn gánh cao hay thấp. Hai chiến sĩ đặt cây cọc từ phà xuống nước, đúng điểm đã định, rồi mỗi người đu vào một đầu đòn gánh, nén cọc xuống cho vững chắc. Còn cọc xuống được sâu nhờ nước chảy vào khi triều dâng, chảy ra biển khi thủy triều xuống, lắc đi, lắc lại làm cho cây cọc xuống đến thềm đất cứng. Cứ như thế hàng ngàn cây cọc đóng xuống điểm “Hạ Long”.
Đúng đến 3 ngày thủy triều thấp nhất, Ban chỉ huy bố trí lực lượng đánh đắm sà lan sắt. Sau đó mỗi kíp một tiểu đoàn làm 4 tiếng liền, chuyển các rọ đất, đá lấp vào điểm “Hạ Long”. Trong 3 ngày liền tiến công liên tục, nâng cao điểm “Hạ Long” lên +4, đạt yêu cầu đề ra. Hết thời hạn thủy triền thấp nhất, toàn tuyến đê 15 km đều đạt cao trình +4m trở lên, kết thúc thời kỳ khó khăn nhất của tuyến đê lịch sử này.
Khi mới khởi công, các cụ già xã Hòa Nghĩa, Anh Dũng gần đó nói: “Nếu ông Thành đắp được con đề này, chúng tôi sẽ đi bằng đầu. Chúng tôi ở đây hàng trăm năm, nếu lấn được chúng tôi đã lấn rồi, không phải đợi đến các ông. Nơi này nguy hiểm lắm, đang đêm gió đông thổi vào thân đê, thủy triều lên là đê vỡ. Đời này qua đời khác, không làm được...”.
Khi đê hàn khẩu xong, các cụ kéo nhau lũ lượt đi xem. Các cụ gặp tôi đều cười vui vẻ, nói: “Chỉ có các ông cộng sản mới làm được...”. Tôi nói với các cụ: “Nhờ hồng phúc của Bác Hồ, chúng tôi mới làm được...”.
Hàng tháng trời, các cụ, bà con nông dân ở các huyện ngoại thành rủ nhau đến xem như xem cuộc triển lãm. Lúc đó còn hàng nghìn lao động đang bồi trúc cho đê lên cao hơn. Quả là con đê đã làm chấn động nhân dân Hải Phòng với chiều cao 6,5m so với “cost” Hòn Dáu, chân đê rộng 60m, mặt đê rộng 5m, độ xoải bên ngoài 1/3 độ, trong đê 1/2, ngoài lát đá hoặc bê tông lưới thép. Đoạn đê biển này hàng năm vẫn được gia cố, đã trở thành đường giao thông đi tham quan biển Đồ Sơn, nó tồn tại như một minh chứng cho sự quyết lâm, lòng dũng cảm của lãnh đạo và nhân dân Hải Phòng.
Đã hơn 20 năm kể từ ngày khánh thành “không kèn, không trống”, nhưng tôi không thể quên những năm đầu, đêm mưa bão, tôi thắc thỏm đến mất ngủ. Khi bão lớn nhất, tôi ra đê để kiểm tra độ bền vững của đê ra sao?
Nhớ lại lúc đó, khi quyết toán kinh phí chưa đến 1 đồng/m2, (nay 1 m2 lên hàng triệu đồng). Những đồng chí ngại không dám ra dự lễ khởi công, sợ liên quan trách nhiệm, nay cũng rất hoan nghênh. Có đồng chí nói với tôi: “Phải hiểu biết khoa học, kỹ thuật, có quyết tâm và lòng tin mới làm được...”. Tôi không dám nhắc lại chuyện cũ, và coi như tôi không nhớ. Có nhớ tôi cũng không bao giờ nhắc lại sự “thận trọng” đó, làm mếch lòng đồng chí mình. Khi tôi và đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch UBND thành phố đưa đồng chí Đỗ Mười đi thăm đoạn đê “xung yếu” này, đồng chí Đỗ Mười bảo tôi và đồng chí Dần: “Đê này mà vỡ thì Bí thư với Chủ tịch đi tong!”. Tôi và đồng chí Dần cùng cười.
Sau khi hoàn thành xong hai dự án lấn biển lớn, và rất nhiều khó khăn, mở rộng hơn 5.000 ha, bằng diện tích một huyện, chúng tôi mở thêm công trường lấn biển khu Gia Minh, Thủy Nguyên gồm 1300 ha. Thành phố chỉ đạo cho các huyện Vĩnh Bảo, Kiến Thuỵ, Tiên Lãng... tổ chức lấn biển từng vùng nhỏ 300-500 ha, có sự viện trợ của thành phố. Các huyện ra quân làm rất tốt, mở rộng thêm diện tích canh tác, đẩy nước mặn ra xa những thửa ruộng phía trong đã thuần hóa, đưa năng suất lúa lên rất nhanh.
Để từng bước nâng dần đời sống của nhân dân, theo qui luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội: “Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao, làm cho chủ nghĩa xã hội từng bước được thực hiện”. Tôi chỉ đạo các đơn vị sản xuất kinh doanh phải hết sức tiết kiệm, nhất là công ty xuất nhập khẩu, Haiphong Ship, Cảng... là nơi tạo ra giá trị gia tăng. Có chỉ thị của Thành uỷ cấm các cấp không được biếu xén cấp trên, hoặc khao thưởng “ăn nhậu” phung phí... để có tiền góp với thành phố lo cho cán bộ công nhân viên chức, lực lượng võ trang, các học sinh trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học đóng trên địa bàn thành phố gồm hơn 25 vạn suất (250.000 người), trong dịp quốc khánh 2-9, Tết âm lịch có túi quà, và mỗi năm 5 mét vải thông dụng như ka ki, pô-pơ-lin, vải đen may quần cho phụ nữ v.v... Đồng thời phải tìm kiếm công việc làm cho người thất nghiệp. Kiên quyết, nhưng làm từng bước, xóa 6 tệ nạn xã hội như: mãi dâm, cờ bạc, ăn mày, trẻ em lang thang, văn hóa truỵ lạc, mê tín dị đoan, ma chay giỗ Tết ăn uống linh đình tốn phí.
Về giao thông vận tải, cầu Rào đã qua 3 đời Chủ tịch là: Đồng chí Lê Đức Thịnh, đồng chí Đỗ Chính, đồng chí Đặng Toàn, đến tôi là Chủ tịch thứ 4 mà cầu Rào vẫn chưa hoàn thành. Nhân dân kêu ca: “làm quá chậm, như kéo Rào”. Tôi cùng các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Uỷ ban và đồng chí Lê Bảo, nguyên Phó Chủ tịch, cố vấn xây dựng cho UBND, ngày đêm tìm mọi cách xử lý các sự cố kéo dài đó. Cầu đã khởi công cuối năm 1973 sau khi ký hiệp định Paris về Việt Nam, mà đến 1979 mới xong các mô và trụ. Lắp được mỗi bên một nửa dầm đúc hẫng dự ứng lực, thép dự ứng lực mua từ chiến lợi phẩm ở sân bay Tân Sân Nhất đã bị han rỉ. Kỹ thuật làm cầu kiểu mới này của Pháp, ta chưa quen nên cầu khánh thành 1980 thì đến cuối năm 1987 bị đổ. Do dự đoán được tình hình nên khi cầu sụp đổ không bị thiệt hại gì thêm, ngoài cầu đổ. Cây cầu đầu tiên làm theo kỹ thuật “dự ứng lực” ở Việt Nam sau 7 năm bị đổ, làm cho nhiều người không tin tưởng. Nhưng sau các cầu: Niệm Nghĩa, An Dương, Phù Long đến vẫn vững. Đến nay, cả nước có hàng chục cầu đúc dầm hẫng, dự ứng lực, có cầu dài hơn 2km vẫn tồn tại vững vàng.
Thực là vạn sự khởi đầu nan. Cầu Rào do đội cầu địa phương thực hiện, Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo kỹ thuật. Thời gian làm cầu quá kéo dài, vệ sinh công nghiệp không đảm bảo. Cầu Rào đổ, cũng gây ra sự đàm tiếu trong một thời gian. Tôi chỉ là người hoàn thành cầu trong giai đoạn cuối với thời gian 6 tháng. Khi cầu đổ tôi đã về công tác ở Trung ương, nhưng sự đàm tiếu đổ dồn vào tôi. Âu cũng là qui luật xã hội “túm người có tóc, chứ ai túm người trọc đầu”. Tôi chỉ cười không giải thích, chỉ nói ngắn gọn: “Nếu ai muốn nghiên cứu kỹ, hãy xem nhật ký công trình”. Mãi đến khi Bộ Giao thông vận tải kết luận sự cố này, thì dư luận mới không đổ dồn vào tôi. Nhưng nay vẫn còn 3 cầu: Niệm, An Dương, Phù Long, nên thơ Tố Hữu vẫn giữ được tính chính xác của nó, kể cả cầu Rào đã được làm lại thành 4 cầu (4 cống 3 cầu, 5 cửa ô...).
Từ những việc làm thực tế ấy, tôi hình thành một mô hình xây dựng CNXH, dựa trên đường lối của Trung ương vận dụng vào Hải Phòng, đề ra bước đi thích hợp cho thành phố. Từng bước bổ sung, hoàn chỉnh về lý luận, kết hợp điều kiện cụ thể cho một thành phố đi lên CNXH. Ý tưởng thì rất lớn, nhưng thực hiện lại vô cùng khó khăn. Nhất là về lý luận, Nghị quyết của các kỳ đại hội, của các khóa Trung ương cũng chưa đặt rõ tiêu chuẩn cho từng giai đoạn tiến lên CNXH phải làm những việc gì, bước đi theo kế hoạch từng năm, dài hạn 5 năm ra sao. Cái có định lượng thì thiếu định lính, cái có định tính lại không có định lượng. Đọc tài liệu các nước bạn cũng thế. Vậy ta lấy cơ sở gì xây dựng cho Hải Phòng một nền tảng, một lý luận thuyết phục để mọi người ra sức tập trung trí tuệ, sinh lực, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH? Tôi suy nghĩ trăn trở, vừa lắng nghe những tư duy, ý tưởng của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương, dần dần từng bước hình thành mô hình xây dựng CNXH ở Hải Phòng. Mô hình đó, tư tưởng bao trùm là phải vì con người. Sau nữa thuyết phục mọi người tin là làm được. Cái được trước hết là đem lại lợi ích cho chính mình. Khi tham gia công sức để tạo ra của cải vật chất, văn hóa tinh thần, kết quả trở lại với họ, họ có thể nhìn thấy, sờ thấy, đếm được. Cách đây 5.000 năm Kinh Thi đã nói: “Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử” (Văn hóa, vật chất dồi dào, sau đó mới có người tử tế). Nhưng sau 5.000 năm các vua chúa Trung Quốc vẫn để người dân nghèo đói, nói nhưng không làm, muốn làm lại do cơ chế không có, không làm được. Đến đời Xuân Thu, Khổng Tử đã viết Kinh Xuân Thu để quản lý Nhà nước, với nội dung lấy nhân nghĩa làm đầu, “Quốc dĩ dân vi bản, dân dĩ thực vi tiên” (Nhà nước lấy dân làm gốc, người dân lấy ăn làm trước). Nói hay như vậy nhưng cũng không làm được là bao. Khổng Tử còn nói: “Nhân dục vô nhai” (lòng tham không có đáy). Vua chúa lúc ấy chỉ biết lợi dụng triết lý đó để phục vụ lợi ích của họ, không tận dụng động lực này để phục vụ cho từng người, tức là phục vụ cho cả cộng đồng. Thời kỳ cận đại, các khẩu hiệu của giới cầm quyền đưa ra trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản dân quyền như: “Tự do, bình đẳng, bác ái”; “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc” rất hay, rất nổi tiếng. Nhưng rốt cục vẫn là một thiểu số dân được hưởng những tư tưởng triết học tiến bộ đó.
Trở lại các triết lý xa xưa của các vị Thánh “Tâm linh” như Đức chúa Jésu, đức Phật Thích Ca, đức Thánh Mohamatt v.v..., tư tưởng học thuyết đẹp đẽ của các ngài nhằm dạy cho loài người thương yêu nhau, đùm bọc giúp đỡ nhau khi hoạn nạn. Rồi do lòng sùng kính, nhân loại cúng bái, tế lễ, cầu nguyện các đấng “Chí tôn” phù hộ... dần dần trở thành những tôn giáo, đạo giáo khác nhau đi vào cuộc sống của dân lành. Kết quả là tùy theo phong tục tập quán của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ, những tín đồ kế thừa giáo lý mở rộng tư tưởng chính thống ra nhiều chi phái khác nhau.
Nhưng một điều đáng tiếc là tất cả những lý tưởng ban đầu của các đấng “Chí tôn” vẫn không được thực hiện dù ở bất cứ nước nào.
Từ khi chủ nghĩa Marx ra đời, giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đặc biệt là dân tộc bị mất quyền độc lập, làm nô lệ cho ngoại bang như Việt Nam, trông chờ tin tường vào chủ nghĩa Marx rất lớn. Bác Hồ của chúng ta, người đặt niềm tin vào chủ nghĩa Marx hơn ai hết, đã đem tư tưởng, triết học của Marx vào Việt Nam, với những lời nói ngắn gọn, xúc tích, rất dễ hiểu, rất chân thành, đi vào lòng người như: “Nước có độc lập mà người dân vẫn còn nghèo đói, thì độc lập đó cũng không có ý nghĩa gì!”. Lời nói đó đã chỉ ra cho chúng ta phải hành động, không nói suông, lừa dối quần chúng để nắm chính quyền, dùng quyền hành cho mình sống “Vinh thân, phì gia”.
Tôi rất tâm đắc với tư tưởng chỉ đạo của Tổng Bí thư Lê Duẩn: “Mỗi tỉnh phải coi mình như một nước, phải chủ động sáng tạo, không ỷ lại trông chờ cấp trên...” “Tỉnh uỷ, Thành uỷ là gì? Là lo cho dân ăn gì, mặc gì, mỗi năm được ăn bao nhiêu quả trứng, bao nhiêu kg thịt? Chứ Tỉnh uỷ, Thành uỷ cũng chung chung như Trung ương thì dân tin vào Đảng sao được...?” Vận dụng số vốn lý luận về học thuyết Marx-lénine, duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, có tham khảo kinh dịch của Trung Quốc, các triết gia trước Marx như Hê-ghen, Phơ-ec-bách, Di-đơ-rô, Ê- pi-quya v.v... Tôi nhận ra rằng Hải Phòng cần phấn đấu xây dựng từng bước lên CNXH với sự lãnh đạo, giúp đỡ của Trung ương, chắc chắn sẽ thành công. Để có thực tế phục vụ đúc kết lý luận, tôi tiếp tục suy nghĩ, nhiều đêm, ngày hình thành ra mô hình CNXH ở Hải Phòng, quê hương thứ hai biết bao yêu dấu của tôi.
Làm Bí thư Thành uỷ
Đúc kết trong thời gian hơn 30 tháng làm Chủ tịch UBND Hải Phòng, tôi đã cùng đồng chí Bùi Quang Tạo và tập thể Thành uỷ, UBND Thành phố, cùng cán bộ công nhân viên, lực lượng vũ trang, nhân dân Hải Phòng làm được một số công việc mang tính mở đầu cho Hải Phòng từng bước đi lên CNXH. Việc lớn nhất là xây dựng được một đội ngũ cán bộ tin cậy lẫn nhau và xây dựng được lòng tin của nhân dân đối với lãnh đạo Thành phố.
Trước hết, đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã hình thành một tổ chức thực hiện hiệu quả mọi chính sách, chủ trương đề ra gồm UBND và các cán bộ chủ chốt của sở, ngành. Các Phó Chủ tịch lúc ấy là đồng chí Nguyễn Dần (sau làm Chủ tịch thay tôi), đồng chí Võ Thị Hoàng Mai, đồng chí Cao Văn, đồng chí Trịnh Thái Hưng, đồng chí Nguyễn Mạnh, sau đó là các đồng chí Nguyễn Đình Nhiên, Trương Quang Được, Trần Hạnh, Đào An, Nguyễn Thị Bảy. Bên Thường trực Đảng có đồng chí Lê Thành Dương, Lê Danh Xương. Cấp sở có những cán bộ bị kíp lãnh đạo trước đánh giá là trung bình, thì qua những công việc làm cụ thể, nay đã hoàn thành nhiệm vụ, được nhân dân khen ngợi như các đồng chí Dương Khắc Thụ, uỷ viên Thường vụ, Giám đốc Sở Công an, đồng chí Nguyễn Anh Đề, Giám đốc Nhà đất và công trình đô thị, đồng chí Trần Đảm, Giám đốc Sở Thủy lợi, đồng chí Lê Vân, Giám đốc Sở xây dựng, đồng chí Phạm Văn Diệt, Giám đốc Sở Giao thông vận tải, đồng chí Hồ Chu, Giám đốc Sở văn hóa v.v... các Giám đốc những công ty chuyên trách như đồng chí Vân Nam, Giám đốc Công ty Du lịch dịch vụ, đồng chí Cần, Giám đốc Công ty vệ sinh đô thị v.v... đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành công việc của thành phố lúc ấy.
Đối với ngoại thành, khu vực nông nghiệp phải kể đến các đồng chí Vũ Ngọc Lan, Bí thư Huyện uỷ Kiến An (thị xã Kiến An + huyện An Lão), đồng chí Đào Hướng, Bí thư Huyện uỷ Thủy nguyên, đồng chí Lựu, Bí thư huyện Tiên Lãng, đồng chí Nguyễn Kỳ, Nguyễn Việt, Bí thư Huyện uỷ An Hải, đồng chí Rường, Bí thư Huyện uỷ Vĩnh Bảo, đồng chí Trần Khóat, Bí thư Huyện uỷ Cát Hải, cùng các đồng chí Chủ tịch UBND huyện đã góp phần to lớn vào phong trào khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị 100 của Ban Bí thư và Nghị quyết 24 của Ban Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng. các quận nội thành có các đồng chí Bí thư Quận uỷ, Chủ tịch UBND như quận Lê Chân có đồng chí Nguyễn Thị Xuân Mỹ, và quận Hồng Bàng có đồng chí Nguyễn Văn Cảnh, đồng chí Hiến, quận Ngô Quyền, đồng chí Vịnh, Bí thư quận uỷ đều là nòng cốt của các mũi tiến công. Riêng lực lượng vũ trang địa phương, lực lượng chủ đạo lấn biển khai hoang có Đại tá Võ An Đông, Đại tá Nguyễn Chất, Thiếu tướng Trường Xuân, Đại tá Nguyễn Đình Thản, Đại tá Vũ Văn...
Ngoài ra còn phải kể đến một đội ngũ cán bộ “thầm lặng”, nhưng sự đóng góp của anh chị em rất quan trọng cho sự phát triển của thành phố. Đó là các tổ chức quần chúng, các Ban của Đảng và Văn phòng Thành uỷ. Họ làm tham mưu cho cấp uỷ, viết bao nhiêu công văn, chỉ thị, nghị quyết để chuyền đạt những tư tưởng chỉ đạo của Thành uỷ xuống cơ sở Đảng và quần chúng. Các đồng chí đã làm việc ngày đêm, nhưng ít ai biết đến như các đồng chí Trần Mạnh, Chánh Văn phòng Thành uỷ, đồng chí Quản Đức Khiêm, Thư ký của Chủ tịch và Bí thư Thành uỷ, đồng chí Nguyễn Lộ, đồng chí Nguyễn Văn Đồng, Phó Văn phòng Thành uỷ. Đồng chí Phạm Văn Phách, Chánh Văn phòng và Bùi Mạnh Tưởng, Phó Văn phòng Uỷ Các đoàn thể quần chúng như chị Trần Thị Thanh Thọ, Uỷ viên Thường vụ, Bí thư Hội phụ nữ, đồng chí Trần Sáng, Bí thư Thành đoàn, chị Thịnh, Uỷ viên Thường vụ, Trưởng ban Kiểm tra, và nhiều các đồng chí lãnh đạo khác thuộc khối dân vận và công tác Đảng, cũng đã góp phần rất lớn vào công việc xây dựng phát triển cơ sở Đảng và phong trào quần chúng, hướng vào mục tiêu xây dựng thành phố. Ngoài ra sự kết hợp chặt chẽ với Quân khu 3 cũng góp phần thắng lợi không nhỏ. Mặt trận này có Đại tướng Nguyễn Quyết, Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên và các đồng chí tướng, tá khác. Bộ Tư lệnh Hải quân có Thiếu tướng Đoàn Bá Khánh, Tư lệnh Hải quân, các đồng chí Tướng Trà, Tướng Phát... Sư đoàn phòng không 363 và các quân binh chủng của Bộ Quốc phòng đóng tại địa phương, tất cả đều hăng hái, triệt để hợp tác ủng hộ Hải Phòng vô điều kiện, hưởng ứng phong trào thi đua “làm giàu, đánh thắng” của Quân khu 3 một cách nồng nhiệt.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 (2-1982)
Tôi được Đại hội bầu làm Uỷ viên Trung ương dự khuyết khóa V (lúc ấy còn có uỷ viên dự khuyết, uỷ viên chính thức - nay chỉ bầu uỷ viên). Tôi được phân công làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Anh Bùi Quang Tạo về Trung ương làm Chủ nhiệm Thanh tra Chính phủ.
Sang năm 1983, tôi và đồng chí Nguyễn Tấn Trịnh được chọn trong số uỷ viên dự khuyết vào uỷ viên chính thức (do các đồng chí uỷ viên chính thức bầu)
Với thực tế của hai năm, bốn tháng làm Chủ tịch, từ những ý tưởng đã tổ chức thực hiện thành những công trình, những sản phẩm to nhỏ ở khắp thành phố, điều đó đã giúp tôi hình thành cơ chế xây dựng một mô hình XHCN ở địa phương, Thành phố Hải Phòng. Gần 32 năm được điều động đến Hải Phòng, khởi đầu là Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, nay làm Bí thư Thành uỷ, tôi lo lắng đêm ngày, đem hết sức lực, trí tuệ, suy nghĩ làm cho được ý tưởng mình đã theo đuổi từ khi được kết nạp vào Đảng, với bao hy vọng sẽ thành công. Mặc dù sức khoẻ tôi không phải là tốt lắm, năm 1982-1983 bệnh tôi kéo dài, chữa mãi không khỏi, công việc lại quá nhiều, nhất là sau khi tổ chức thành công Đại hội Đảng thành phố lần thứ 8 nhằm quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5 để thống nhất tư tưởng và hành động toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố. Sau đó, tôi bị sưng màng phổi, viêm họng hạt, chuyển sang “hen xuyễn”. Nhờ các bác sĩ Đông, Tây y, và tự rèn luyện nâng thể lực lên, nên tôi đã qua khỏi. Cũng từ đó sức khoẻ được nâng lên, đủ sức chống chọi với bao gian nguy thử thách về mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chính trị, để tồn tại đến ngày hôm nay...
Để triển khai Nghị quyết Đại hội 8 của thành phố, tôi chỉ đạo Uỷ ban Nhân dân thành phố và các ngành thực hiện thật tốt các công trình làm dở dang. Tôi cũng xây dựng quy chế làm việc giữa Đảng và Chính quyền, không chồng chéo giẫm chân lên nhau. Khi đã có nghị quyết của Đảng, chính quyền cụ thể hóa và triển khai thực hiện. Đảng không “lấn sân” của chính quyền. Khi có khó khăn chính quyền không thể khắc phục được, Đảng sẽ giúp đỡ. Công việc của Đảng là trực tiếp nghiên cứu xây dựng các Nghị quyết trên bình diện mô hình XHCN, đi từng bước có chọn lọc, Nghị quyết nào ra trước, Nghị quyết nào ra sau cho phù hợp. Trước khi ra Nghị quyết, tập thể Thành uỷ đi thực tế khảo sát tình hình, tổ chức thí điểm làm được khoảng 30% có kết quả rồi mới họp Thành uỷ ra Nghị quyết. cách làm đó coi như qui trình ra các Nghị quyết của Đảng, nó tránh tình trạng duy ý chí và giáo điều của đồng chí lãnh đạo chủ chốt. Chưa khảo nghiệm, mới nghe báo cáo, mới nảy sinh ý nghĩ hay hay trong đầu đã vội vàng ra Nghị quyết, như vậy Nghị quyết sẽ không sát với thực tế, quần chúng không chấp nhận, làm mất uy tín của Đảng, mất công sức của cán bộ cấp dưới.
Trong 4 năm 3 tháng làm Bí thư Thành phố, tôi đã chủ trì đề ra 46 Nghị quyết về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, văn hóa, đời sống, dịch vụ du lịch... Tính bình quân hơn một tháng ra một Nghị quyết, nhưng không Nghị quyết nào trùng với Nghị quyết nào, được nhân dân, Đảng viên hoan nghênh thực hiện rất nhiệt tình, chưa có ai kêu là Thành uỷ ra quá nhiều Nghị quyết! Tất cả Nghị quyết đó, cái nọ bổ sung cho cái kia hình thành một mô hình XHCN về lý luận và thực tế. Có những Nghị quyết như: Ngói hóa nông thôn; Xóa bỏ hố xí thùng, xây dựng hố xí tự hoại, giải phóng cho chị em làm vệ sinh thường phải vất vả suốt đêm, kể cả ngày 30 Tết; Nghị quyết bê tông hóa ngõ xóm trong nội thành, không để tình trạng đi lại lầy lội trong các xóm ngõ; Nghị quyết xóa bỏ “6 tệ nạn xã hội” trong một năm, không còn ăn mày, ăn xin và trẻ em lang thang trong thành phố; Nghị quyết tiếp tục cải tiến quản lý nông nghiệp; Nghị quyết về giao thông; Nghị quyết về Công nghiệp và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động; Nghị quyết về Văn hóa quần chúng; Nghị quyết về Thương nghiệp và thu mua lương thực; Nghị quyết về Xây dựng cơ bản, về lấn biển khai hoang mở rộng thành phố hướng ra biển; Nghị quyết về Xây dựng Đảng, các Tổ chức quần chúng v.v...
Tất cả các Nghị quyết được thực hiện đến nơi, đến chốn từ 70% trở lên. Tất cả những kết quả thực hiện các Nghị quyết được người dân nhìn thấy, sờ thấy, đếm được...
Có những việc làm của Thành uỷ, UBND Thành phố, đến nay tôi đã rời khỏi Thành phố về Hà Nội công tác gần 20 năm nhưng mỗi khi về Hải Phòng gặp nhân dân, cán bộ, là anh em nhắc đến như gói quà Tết hàng năm của Thành phố vào những dịp 2-9 Quốc khánh, Tết âm lịch... Những kỷ niệm không bao giờ quên!
Rồi công trình lấn biển, hố xí tự hoại, đường lát bê tông hoặc tấm đan... đi đến đâu nhân dân cũng nhắc tới...
Hôm 30-5-2004 vừa rồi tôi ra Đình Vũ xem đường xuyên Đảo. Đến phà Đình Vũ, anh em phụ trách bến phà, cũng như nhân dân xúm lại quanh tôi hỏi thăm sức khoẻ. Đồng chí Vang phụ trách ở đó nói: “Bác để lại “lộc” cho chúng con được hưởng, ai cũng nhớ công ơn của bác...”. Tôi rất cảm động, nói: “Đảo Đình Vũ với đường xuyên Đảo đã góp phần làm cho hàng vạn người giàu có đấy! Các đồng chí quản lý tốt sẽ giàu to. Đồng chí rất trẻ, tôi gặp đồng chí lần đầu, trông chiếc thẻ đeo trên ngực mới biết tên tuổi. Vậy mà, đúng như sách cổ đã dạy: “Vi ân bất cầu báo, thụ ân bất năng vong...” (làm ơn không cần mong được báo đáp lại, chịu ơn không nên quên). Cảm ơn đồng chí đã thể hiện tinh thần đó”. Tối hôm ấy tôi về làm việc ở Thành phố, đồng chí Then, nguyên Bí thư Huyện uỷ An Lão, nay là Uỷ viên Thường vụ Trưởng ban Tuyên giáo Thành uỷ Hải Phòng (Đồng chí Then người thôn Đại, xã An Thọ, huyện An Lão) anh em tâm sự, đồng chí nhắc lại bao kỷ niệm hồi làm khoán trong nông nghiệp, lúc chưa khoán dân đói như thế nào, một số người phải đi tha phương cầu thực, sau làm khoán phấn khởi như thế nào, và nay cả huyện An Lão đều khá giả. Thật là bao nỗi buồn vui sâu sắc thời kỳ quá khứ...
Những năm 1983-1984 nông nghiệp Hải Phòng phát triển rất nhanh. Lương thực coi như đã tự túc được cho cả phi nông nghiệp. Hàng năm không phải lên Trung ương xin gạo, xin mỳ. Ngoài mua thóc nghĩa vụ (giá 0,2 đ//kg thóc) Hải Phòng được đồng chí Tố Hữu, đồng chí Trần Phương đồng ý cho mua thóc của nông dân sau khi làm xong nghĩa vụ với Nhà nước với giá 1,70đ/kg. Tuy giá ngoài cao so với giá nghĩa vụ nhiều, nhưng với giá nhập bằng đô la Mỹ chỉ bằng gần 1/2, Nhà nước lại không phải lỗ vốn bán lương thực cho Hải Phòng, còn Hải Phòng có thêm lương thực trả cho lao động ở các nơi về thành phố tham gia lao động lấn biển với giá 1kg và l đồng/ ngày công lao động. Mọi người phấn khởi lắm.
Thời gian đó Hải Phòng được coi như mô hình phát triển kinh tế năng động của cả nước. Khách đến tham quan ngày một đông. Báo chí ca ngợi, có ngày báo Nhân Dân đăng 4 bài về Hải Phòng. Bí thư Thành uỷ Hải Phòng cũng được cấp trên các ngành quan tâm. Nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt như Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch nước Trường Chinh... cũng rất quan tâm, đã có những dự kiến này dự kiến khác về tương lai của Bí thư Thành uỷ (những dư luận đó cũng làm cho một số người lo lắng và dần dần trở nên đố kỵ, ghen tỵ. Sự ác ý ấy hình thành dần dần từ nhỏ đến lớn, đến ngày 2-8-2003 mới bộc lộ hết để khách quan nhìn nhận có cơ sở khoa học kết luận chính xác, có căn cứ, không suy diễn... Việc này khá dài, 20 năm sau, mới hiểu thấu được sự tình...).
Trong khi phong trào đang lên, biết bao nhiêu đoàn các địa phương, các ngành đến Hải Phòng học tập, rút kinh nghiệm, tổng kết, thì giữa năm 1983, đồng chí Đỗ Mười nhân danh Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cử 3 Đoàn sắp xếp công nghiệp về 3 thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh.
Đoàn về Hải Phòng do đồng chí Tô Duy làm trưởng đoàn. Về Hải Phòng trong lúc tình hình chính trị, tư tưởng và các mặt hoạt động rất tốt đẹp... Đồng chí Tô Duy xuống không làm việc với Thành uỷ mà chỉ làm việc với UBND thành phố. Đồng chí còn nói với đồng chí Bắc, cán bộ Văn phòng Uỷ ban và một số đắc trong Đoàn là: “Tôi không gặp anh Thành, anh Thành có đến gặp tôi thì gặp...”. Đồng chí Tô Duy cử đồng chí Phí Đức Phong, cán bộ của Đoàn đến gặp tôi nói: “Kỳ này Đoàn xuống sắp xếp công nghiệp để giúp cho Hải Phòng phát triển cả công, nông nghiệp...”.
Mới mấy tháng trước đây, đồng chí Tô Duy xuống Hải Phòng gặp tôi rất thân mật. Nhất là đầu năm 1982, khi tôi làm Bí thư Thành uỷ, đồng chí Tô Duy cùng với vợ là chị Lê Thu, các cháu đến thăm Hải Phòng, chúc mừng tôi. Trong bữa cơm thân mật, chị Lê Thu còn nói: “Mình với Duy có nhiều kỷ niệm với cậu Thành lắm! Sau đám cưới chúng mình, chúng mình còn đến thăm cậu ở Hồ Lao (nơi căn cứ địa của Thành uỷ Hải Phòng thời kháng chiến ở huyện Sơn Động, Bắc Giang)”. Vợ chồng đồng chí Tô Duy tổ chức cưới ngày 8-7-1951, đám cưới tập thể, ngoài đồng chí Tô Duy và chị Lê Thu, còn có đồng chí Lê Xuân Thịnh với chị Kiệm; đồng chí Nghĩa (tức Linh) với chị Phụng Dương. Hiện nay 5 người còn sống, chỉ có anh Thịnh hy sinh tại Thái Bình năm 1952. Không những thế, từ ngày tôi về công tác ở Hải Phòng (tháng 6-1950), quan hệ giữa tôi và đồng chí Tô Duy vẫn tốt đẹp. Trước khi đi công tác Hà Nội (khoảng năm 1960- 1961) đồng chí Tô Duy còn đến thăm tôi ở cơ quan chào “tạm biệt”. Trong các năm sau, mỗi năm một vài lần lên Hà Nội công tác, tôi thường vào thăm đồng chí Tô Duy. Năm 1980 khi tôi học lớp quản lý kinh tế do giáo sư Liên Xô giảng, khóa I tại trường Hành chính Trung ương, lúc đó tôi là Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng, đồng chí Tô Duy còn mời tôi về Xuân Cầu chơi, còn trực tiếp trẩy bưởi mời tôi ăn. Khi đi trên chiếc cầu tre vào Xuân Cầu, tôi còn dắt đồng chí, vì đồng chí nói với tôi đang bị 6 bệnh nên chân đi bị run. Khi tôi ra về đồng chí đề nghị tôi giúp cho 60 tấn xi măng để làm cây cầu này, và sửa chữa nhà lưu niệm của đồng chí Tô Hiệu, là chú ruột đồng chí Tô Duy. Tôi giải quyết ngay cho xã về Hải Phòng lấy xi măng sau một tuần. Lúc đó xi măng mua khó khăn lắm! Hải Phòng dùng ngoại tệ mua than “cốc”, gia công cho nhà máy xi măng để đổi thành phẩm mới có. Đồng chí Tô Duy rất phấn khởi.
Cả một quá trình thân thiện với nhau, đột nhiên có cuộc sắp xếp công nghiệp, đồng chí Tô Duy làm Tổ trưởng với thái độ “bất thường” đối với tôi... Tất nhiên tôi phải đánh dấu hỏi (?).
Nhưng thái độ của tôi vẫn bình thường. Muốn nói gì thì nói, đồng chí Tô Duy đã có thời kỳ là cấp trên của tôi, tôi gặp đồng chí Chủ tịch Nguyễn Dần dặn làm việc, hợp tác chặt chẽ với đồng chí Tô Duy.
Qua giao ban hàng tuần với đồng chí Nguyễn Dần, tôi biết được là các đồng chí đi sắp xếp công nghiệp thì ít, nhưng xuống nông thôn, tìm hiểu điều tra tình hình thì nhiều, với thái độ cố tình moi móc khuyết điểm... Qua báo cáo của các đồng chí Bí thư, Chủ tịch các huyện mà đoàn đồng chí Tô Duy đến làm việc, thì thấy ý định của đoàn không phải trọng tâm sắp xếp công nghiệp, họ tìm hiểu tình hình nông nghiệp là chính.
Cuối năm 1983 đầu năm 1984 thì đoàn rút về Hà Nội, sau cuộc làm việc với Ban Thường vụ Thành uỷ. Trong cuộc họp vui vẻ, thân mật, đồng chí Tô Duy nhắc lại ý đồng chí Phí Đức Phong là: “giúp Hải Phòng phát triển công nghiệp như nông nghiệp...” rất thiện chí!
Sau ít ngày, đồng chí Đỗ Mười mời tôi và đồng chí Nguyễn Dần lên số 8 Chu Văn An làm việc.
Trưa hôm đó đồng chí Đỗ Mười mời cơm chúng tôi rất chu đáo. Buổi sáng làm việc, khi đọc báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp, tôi thấy rõ ý đồ của Tổ, trong đó có câu: “Hải Phòng chú trọng phát triển nông nghiệp là trệch hướng, sai đường lối của Đảng”. Khi phát biểu với đồng chí Đỗ Mười, tôi phân tích Hải Phòng là thành phố công nghiệp, Thành uỷ rất coi trọng phát triển công nghiệp, đồng thời rất coi trọng phát triển nông nghiệp để giải quyết lương thực cho công nhân là rất đúng với thực tế. Khoán sản phẩm, một mô hình đã được chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng cho thực hiện trong toàn quốc, sao lại bảo Hải Phòng đi trệch hướng? Thái độ của tôi nói rất găng, nhưng đồng chí Tô Duy hơi mỉm cười, khiến tôi phải đánh dấu hỏi (?) lần thứ hai. Sau đó tôi xin phép anh Mười ra về, vì chiều có cuộc họp. Anh Mười bảo tôi ăn cơm rồi sẽ về và nói: “Bí thư về thì làm việc với ai?”. Tôi báo cáo anh Mười có Phó Bí thư - Chủ tịch và Văn phòng ở lại ghi chép, ý anh thế nào tôi sẽ thực hiện nghiêm chỉnh...
Nhưng rút cục tôi chỉ biết về báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp còn ý anh Mười thế nào tôi không được biết.
Ngày 14-4-1984 Bộ Chính trị và Ban Bí thư triệu tập tôi lên Hà Nội làm việc hai ngày. Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì, các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ... cùng dự, tổng số khoảng hơn 60 người đủ các ngành của Trung ương. Anh Mười không đến dự, nhưng cử người của Văn phòng đến theo rõi tình hình hội nghị. Về phía Hải Phòng còn có đồng chí Trịnh Thái Hưng, Phó Chủ tịch cùng tham dự với tôi. Qua nghe báo cáo tình hình, tôi trình bày khoảng 2 giờ, các đồng chí phát biểu đánh giá rất cao việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 5, nhất là Hải Phòng đã vận dụng sáng tạo, phát triển công, nông nghiệp có bước tiến mới, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế cả nước, mặc dù trước đó đã có báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp do đồng chí Tô Duy gửi đến, vẫn giữ nguyên như cũ, vẫn ghi: “Hải Phòng thành phố công nghiệp mà chú trọng phát triển nông nghiệp là trệch hướng...” Hội nghị không ai nói đến vấn đề này cả.
Khi các đồng chí nhắc nhiều và đánh giá cao việc phát triển nông nghiệp Hải Phòng, nhân có ý kiến hỏi, tôi báo cáo bổ sung, có nói một ý như sau: “Thế mà đồng chí phụ trách Tổ sắp xếp công nghiệp Hải Phòng lại phê bình Thành uỷ phát triển nông nghiệp là trệch hướng...”. Anh Lê Duẩn nói chen vào: “Nói tầm bậy...”.
Sau khi tan hội nghị, tôi nghĩ mọi chuyện vậy là bình thường, và như vậy Trung ương đã bác bỏ báo cáo của Tổ sắp xếp công nghiệp ở Hải Phòng.
Tối hôm đó, tôi và đồng chí Trịnh Thái Hưng đến thăm anh Mười, thâm tâm tôi nghĩ chỉ có thân tình thôi. Ai ngờ hai chúng tôi đến nhà, anh Mười tỏ vẻ không bằng lòng, không bắt tay chúng tôi. Anh đứng dậy đi đi, lại lại nói gay gắt: “Cậu Thành phê bình mình, nói đồng chí phụ trách công nghiệp phê bình Hải Phòng trệch hướng, cứ nói đi nói lại mãi”.
Tôi và đồng chí Hưng nhìn nhau. Anh Hưng hỏi tôi: “Chúng mình có nói gì anh Mười đâu nhỉ?”. Tôi rất phân vân suy nghĩ, không rõ anh Mười nghe ai phản ảnh mà phẫn nộ đến như thế. Tôi để anh Mười nói cho hết cơn nóng rồi mới nói: “Tôi báo cáo anh Mười, có anh Hưng làm chứng, tôi chỉ một lần nói: “Đồng chí phụ trách Tổ sắp xếp công nghiệp Hải Phòng của Trung ương phê bình Hải Phòng làm nông nghiệp là trệch hướng, không nêu tên ai...”. Hai chúng tôi kể lại cuộc họp ngày hôm nay cho anh Mười nghe, mãi anh mới vui vẻ nói chuyện với chúng tôi... Khoảng 40 phút, chúng tôi xin phép ra về (Lúc này tôi vẫn nghĩ anh Mười nghe nhầm).
Hôm sau đến họp, mọi người lại chia buồn với chúng tôi về cơn lốc tối vừa qua, lật úp một thuyền ở bến Bính, phía bên Thủy Nguyên làm chết hơn 20 người... Tôi rất buồn.
Tại sao anh Mười lại nổi nóng với mình? Tôi tìm hiểu thêm ở Văn phòng Trung ương mới biết chính anh Mười là người phản đối Hải Phòng, lấy nông nghiệp làm trọng là trệch hướng, coi nhẹ công nghiệp... Tôi bắt đầu có “ấn tượng” về cách làm của Tổ sắp xếp công nghiệp do anh Tô Duy làm Tổ trưởng. Phải chăng cách làm ấy có mục đích của nó? Trên đường trở về Hải Phòng, tôi nhắc anh Trịnh Thái Hưng: “Anh Mười đối với Hải Phòng không như trước nữa đâu! Anh em mình làm ăn cần thận trọng” (đồng chí Trịnh Thái Hưng đã mất năm 1996). Đồng chí Hưng cũng bổ sung cho tôi thêm một số tình hình của Tổ sắp xếp công nghiệp khi làm việc ở Hải Phòng, có nhiều hành vi xoi mói, tìm khuyết điểm, giống như đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch thành phố đã phản ảnh với tôi.
Sau sự việc đưa Hải Phòng ra đấu về khoán sản phẩm nông nghiệp là sai đường lối phát triển của một thành phố công nghiệp không thành công, nhóm người của anh Tô Duy còn tung ra dự kiến sẽ “hạ bệ” tôi hoặc điều về Trung ương để đe doạ tôi. Tôi vẫn làm việc và làm việc tích cực hơn. Đối với anh Mười tôi vẫn một mực quí trọng là Thủ trưởng cũ, không nghi ngờ, dù dư luận nói đến tai tôi những điều nhận xét về tôi của anh Mười không có thiện chí. Anh Mười thỉnh thỏang còn gọi đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch UBND lên báo cáo tình hình Hải Phòng. Anh răn đe anh Dần không được nghe Đoàn Duy Thành và nói: “Bỏ tem phiếu là có tội”. Anh Dần về kể lại với tôi, tôi bảo: “Phát tem phiếu mà không có hàng bán cho dân mới là có tội, lừa dối dân, tạo cho mậu dịch viên và cán bộ tham nhũng”. Đến nay anh Dần thường kể lại chuyện này. Ngày 19-6-2004 anh Dần còn kể chuyện này cho đông người nghe ở nhà khách số 2 Bến Bính Hải Phòng.
Qua việc này và nhiều việc khác về thái độ của anh Mười đối với tôi, nhất là sau khi có những nhận xét đánh giá cao về tôi của Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch nước Trường Chinh và các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị khác, tôi cảm thấy có điều gì đó chẳng lành.
Tôi bàn với nhà tôi sẽ tập trung làm việc thật tốt cho Thành phố, đến 13-5-1985 kỷ niệm 30 năm giải phóng, tôi xin nghỉ. Tôi đã có đơn đề nghị từ lâu, rằng sẽ làm cho đủ 40 năm tham gia cách mạng là xin về hưu. Nhà tôi hỏi tại sao? Tôi nói:
- Nhân dục vô nhai” (lòng tham vô đáy), mình cũng như người khác, phải biết dừng ở điểm nào nên dừng. Mình lại là nhà nho, thấm nhuần đạo lý của Khổng Tử, của Tư tưởng Bác Hồ, mình làm chỉ vì mục đích vì dân vì nước, không vụ lợi. Làm Chủ tịch rồi Bí thư Thành uỷ một thành phố đi đầu trong xuất nhập khẩu đến hôm nay nhà mình có một đồng đô-la nào đâu? Anh chỉ cầm 200 USD năm 1978 làm Trưởng đoàn đi thăm Nhật Bản. Được cấp 200 đô la để chi cho cả đoàn, khi về không tiêu một xu lại trả lại tài chính đủ 200 USD. Không những thế, Nhật Bản còn cho mỗi người 300 USD do không phải lấy vé máy bay lượt về, do phía Nhật đài thọ, cũng đem về nộp cho Uỷ ban đủ 2.100 USD. Mình sống đến hôm nay và làm được một số việc cho dân, cho nước. Đó là hạnh phúc lắm rồi! Mình càng làm tốt bao nhiêu thì sẽ càng phát sinh đố kỵ kèn cựa bấy nhiêu! Đó cũng là lẽ thường tình dễ hiểu. Người “quân tử” biết tiến biết thóai, không nên dấn sâu vào con đường “danh vọng”. Nguyễn Trải đã về nghỉ, lại nể vua ra giúp đời, nên bị chết oan. Ở đời khó lắm! Nếu theo cách mạng như vậy là “tiêu cực”. Trong lúc dân cần ta phục vụ, đem lại lợi ích cho dân, ta lại nghỉ, phải chăng ta thóai thác công việc cá nhân chủ nghĩa... Nói thế nào cũng được. Ta phải làm chủ mình để quyết định. Anh nghĩ ý “lên Hà Nội” chưa xuất hiện trong giai đoạn này thì hơn, không phải ai xa lạ khác “đánh” mình đâu, sẽ là những người thân đánh mình trước, em theo rõi mà xem. Cho nên ta không nên xin bất kỳ một thứ gì mang tính “lợi và danh” với anh Mười, sau này sẽ khó xử. Có xin thì xin công việc làm cho dân, cho nước... Với người khác cũng vậy thôi, không phải chỉ với anh Mười!
Sau cuộc họp của Bộ Chính trị, ý định đưa vấn đề “Hải Phòng đi trệch hướng” không thành công, chắc chắn sẽ có những việc làm mới khác, kể cả vu khống chính trị, tôi lại nói với nhà tôi như vậy Nhưng thực sự chúng tôi không quan tâm, chỉ mong làm sao cho dân ta giàu lên, không phải làm nô lệ ngoại bang.
Ngẫm lại lịch sử trong hơn 1.000 năm giữ nước, kể từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê... đến nhà Nguyễn, nước ta đã trải qua 8 lần bị xâm chiếm của phương Bắc. Họ bị thất bại 7 lần, chỉ có một lần họ chiếm được nước ta 20 năm, do nội bộ mất đoàn kết (thời kỳ cuối nhà Trần). Vì nước xâm chiếm nước ta phương thức sản xuất không hơn ta là bao nhiêu. Nhưng từ năm 1862 Pháp bắt đầu đô hộ nước ta, một nước tư bản phát triển, phương thức sản xuất nổi trội hơn nước ta nhiều lần, nên dân ta phải chịu khuất phục chúng, làm nô lệ suốt 83 năm ròng rã. Chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biết tận dụng thời cơ, với sự lãnh đạo thông minh tài tình, với ý chí kiên định, mới đưa dân tộc ta thóat ách nô lệ: Nhưng khi đó ta vẫn là một nước rất nghèo, phương thức sản xuất rất lạc hậu. Đã vậy Pháp lại đến, tái xâm lược Việt Nam thêm 9 năm, sau đó Pháp nhường cho Mỹ xâm chiếm một nửa nước ta 20 năm, tổng cộng lại là 113 năm dân lộc bị nô lệ. Miền Bắc tuy được giải phóng sớm 20 năm, nhưng đóng góp cùng miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, tổn thất về người và của biết bao nhiêu mà kể. Một nước nghèo, lạc hậu, không có vũ khí tối tân để bảo vệ đất nước, đó là nỗi đau của cả dân tộc, của từng người Việt Nam, không một người yêu nước nào không “cám cảnh” điều ấy.
Thành phố Hải Phòng đang trong khí thế thi đua đẩy mạnh sản xuất công, nông nghiệp, dịch vụ, “Ngói hóa nông thôn, ngọt hóa đồng ruộng”, xây dựng thành phố “khang trang sạch đẹp, lịch sự văn minh”, xây dựng đường xá, cổng, ngõ, xóa bỏ hố xí thùng, xây hố xí tự hoại, thực hiện chủ trương nhà nước và nhân dân cùng làm (Nhà nước cấp 1/2 số tiền xây hố xí tự hoại cho dân), xây dựng nhà cửa khang trang nối nội thành đến các thị trấn, huyện, đường nội thành sang Kiến An qua Cầu Niệm mới khánh thành, hai bên phố xá được qui hoạch xây dựng trước, những ngôi nhà 2 tầng trở lên, hoặc mái bằng nếu làm 1 tầng v.v...
Trong khi đó bất ngờ ở Hà Nội có chỉ thị “Z30” rất mật, tịch thu nhà từ 2 tầng trở lên, bất kể to nhỏ, trị giá bao nhiêu. Chỉ thị “Z30” không được phổ biến cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chỉ có chỉ thị bằng “miệng”. Hải Phòng cũng được 1, 2 đồng chí Bộ Chính trị nhắc nhở rằng Hà Nội làm trước, Hải Phòng theo Hà Nội mà làm. Bên Sở công an cũng được mấy đồng chí Thứ trưởng nhắc Giám đốc Sở Công an Hải Phòng triển khai, đề nghị Thành uỷ thông qua chủ trương cho làm...
Tôi triệu tập Ban Thường vụ Thành uỷ để bàn việc này. Tôi đề nghị mọi người suy tính thật kỹ mọi mặt, vì vấn đề này liên quan đến pháp luật, không thể tùy tiện tịch thu nhà của dân được, nếu họ không phạm pháp. Hải Phòng cần đợi chỉ thị chính thức bằng văn bản của Trung ương hoặc Chính phủ sẽ làm cũng không muộn. Mà tiến hành cũng phải có phương pháp. Trung ương chỉ thị rõ nguyên nhân tịch thu... mới tiến hành được.
Tôi trực tiếp lên Hà Nội xem việc tịch thu một số nhà. Tôi thấy chẳng khác gì Cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất còn đấu tố rồi mới tịch thu, nhưng Z30 chỉ đọc lệnh là tịch thu, bốc cả gia đình gia chủ lên xe đi ở chỗ khác. Tôi đi 3 lần xem được 3 nhà. Tôi đến Văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Chính phủ xin xem chỉ thị Z30. Hóa ra chẳng ai biết cả và tỏ vẻ giữ bí mật, thái độ người được tôi hỏi cũng sợ sệt, e dè nói “nước đôi”, không bảo làm, cũng không bảo không! Tôi thấy rất lạ lùng. Đang thời buổi hòa bình xây dựng, mọi người đang phấn khởi làm ăn, cớ sao lại có việc làm “kỳ lạ” này? Nhất là tôi thấy tận mắt một gia đình bị tịch thu, cả nhà đội khăn tang bị đẩy lên xe, khóc sướt mướt...
Về đến Hải Phòng tôi lại thấy dân chúng xao xuyến lo sợ. Nhiều người chạy đến Bí thư Thành uỷ hỏi han... Còn những gia đình đang xây dựng thì dừng lại không xây, hoặc thu nhỏ lại, định xây 2 tầng thì rút còn 1 tầng thôi v.v... Ngày nay, khi tôi đi từ Hải Phòng sang Kiến An, tôi vẫn thấy buồn phiền về “Z30” đã làm cho con đường này mất đẹp. Nhà cửa hai bên, xây dựng thời kỳ “Z30”, không xứng với con đường mở rộng!
Tại các cuộc Hội nghị lớn của Thành phố, tôi nói: “Đây là vấn đề quyền công dân, thành phố sẽ không làm việc này với bất kỳ gợi ý của ai. Chỉ khi có chỉ thị chính thức, đóng “dấu son” búa liềm, hoặc dấu Quốc huy, thì Hải Phòng sẽ thực hiện nghiêm chỉnh”...
Dư luận sức ép 4 phía với Hải Phòng. Thành phố Hồ Chí Minh điện ra hỏi: “Hải Phòng có làm không?”. Tôi trả lời: “Đợi chỉ thị chính thức”. Trong khi đó Hà Nội đã lịch thu tới 105 nhà. Có những đồng chí phê bình Giám đốc Sở Công an Hải Phòng mất lập trường, mất quan điểm, vì đồng chí Giám đốc Sở Công an Hải Phòng trả lời: “Hải Phòng chưa làm, vì Hải Phòng có cách làm khác...”.
Một buổi chiều sắp hết giờ làm việc, đồng chí Nguyễn Văn An, Bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam Ninh (nay là Chủ tịch Quốc hội) gọi điện thoại cho tôi nói: “Có việc cần, tôi và đồng chí Thuật, Chủ tịch UBND tỉnh muốn ra Hải Phòng trao đổi với anh. Anh chuẩn bị cho chúng tôi ăn cơm tối, xong việc là về ngay...”.
Tôi chuẩn bị cơm tối và đón đồng chí An, đồng chí Thuật ở nhà khách số 13 Trần Hưng Đạo. Đến 20 giờ, hai đồng chí đến Hải Phòng. Chúng tôi bàn công việc ngay.
Đồng chí An, đồng chí Thuật trao đổi với tôi về việc tịch thu nhà ở thành phố Nam Đinh, thị xã Ninh Bình, thị xã Hà Nam... Qua trao đổi phân tích việc Hải Phòng không làm, nếu không có chỉ thị của Ban Bí thư, hoặc chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, hai đồng chí tỉnh bạn rất tâm đắc. Tôi lấy tình lấy lý phân tích mọi mặt cho hai đồng chí nghe. Thứ nhất là phi đạo lý, sai pháp luật. Cuộc sống của nhân dân còn khổ sở, tích cóp được ít tiền làm nhà cho cha mẹ, con cái ở không dễ dàng gì. Nay ta tịch thu, thế thì CNXH, người dân ở vào đâu? ở bằng cái gì v.v. và v v.
Hai đồng chí rất đồng tình với quan điểm của tôi. Tôi nói: “Tháng 6-1983 họp Hội nghị Trung ương tôi sẽ phát biểu về vấn đề này...”.
Hai đồng chí vui vẻ, yên tâm ra về, sau khi ăn cơm xong. Đồng chí An bảo đồng chí Thuật đưa cho tôi xem 100 quyết định ký tên, đóng dấu sẵn để ngay hôm sau tổ chức các đoàn đi tịch thu nhà ở 3 địa điểm trên. Anh An nói: “Tôi thấy không yên tâm nên điện ra trao đổi với anh. Chúng tôi sẽ đốt ngay các quyết định này tối nay”. Các đồng chí ra về.
Tôi tiễn các đồng chí, khi quay lại, nghĩ ngợi băn khoăn vô cùng. Thành phố Nam Định, hai thị xã Ninh Bình và Hà Nam mà có tới 100 quyết định tịch thu nhà, hỏi lấy đâu ra nhà mà tịch thu? Tôi phân vân quá! Các đồng chí mình đơn giản thật! Coi sinh mệnh chính trị của người dân như thế nào mà lại có “Z30”. Hai cuộc kháng chiến trường kỳ, bao sự hy sinh, nay “ký cóp” xây dựng được căn nhà, bị tịch thu với quan điểm cho rằng “làm ăn bất chính”, tài sản không rõ ràng... Nghĩ mà rơi nước mắt!
Về đến nhà đã 24 giờ. Nhà tôi hỏi tiếp khách gì quan trọng mà khuya thế? Tôi kể hết chuyện cho nhà tôi nghe. Tôi nói: “Tôi sẽ trình bày cặn kẽ vấn đề này ở Hội nghị Trung ương sắp tới...” Nhà tôi hỏi lại: “Anh định đương đầu đến bao giờ?” Tôi trả lời: “Tôi sẽ đương đầu đến khi còn cái đầu này”. Hai vợ chồng tâm sự, đến lúc mệt quá, ngủ lúc nào không biết.
Lúc đó Hải Phòng đã có một vài nhà tư nhân xây dựng 2, 3 tầng, như nhà anh Thêm, thủy thủ tàu Viễn dương, xây dựng ở xã Đằng Lâm, gần sân bay Cát Bi; nhà anh Bút lái xe, xây dựng ở Quán Toan, bên đường 5. Anh Thêm rất sợ. Hôm đến dự tổng kết ở công ty VOSCO, khi nói chuyện, anh em xôn xao hỏi tôi Hải Phòng có tịch thu nhà như ở Hà Nội không? Có hai thủy thủ Viễn dương làm nhà ở Hà Nội đã bị tịch thu. Tôi trả lời: “Khi có lệnh chính thức sẽ làm”. Tôi cũng nói ý kiến riêng tôi thì không nên làm vậy. Tôi khuyên các thủy thủ tiết kiệm được tiền cần xây nhà cao và đẹp hơn nhà anh Thêm. Tới Hội nghị Trung ương tháng 6-1983 này, tôi sẽ tình bày quan điểm của tôi về vấn đề trên.
Nghe thế mọi người phấn khởi lắm.
Một hôm anh Mười về làm việc với Hải Phòng. Làm việc xong, tôi và đồng chí Nguyễn Dần, Chủ tịch, đưa anh Mười đi xem nhà máy đóng tàu bến Kiền. Qua Quán Toan, anh Mười trông thấy nhà anh Bút lái xe, anh Mười hỏi nhà ai mà to thế! Tôi báo cáo đó là của một lái xe Đoàn 12. Anh Mười nói: “Nếu tôi là Bí thư, Chủ tịch Thành phố, tôi sẽ tịch thu cái nhà này làm nhà mẫu giáo...”. Tôi và anh Dần nhìn nhau lặng im. Khi anh Mười về rồi, anh Dần bảo tôi: “Thế là cụ Mười cũng đồng ý tịch thu nhà...” Tôi không nói gì. Anh Dần nói thêm: “Đợi chỉ thị chính thức sẽ bàn việc này anh Thành ạ”!
Tôi gật đầu và suy nghĩ...
Nay, nếu ai qua Quán Toan nhìn lại cái nhà anh Bút (mà tôi thường gọi là “Hàn Bút” vì cách đấy khoảng hơn một km có nhà “Hàn Điềm”, địa chủ, cũng có cái nhà 2 tầng); nhà “Hàn Bút” và cả nhà “Hàn Điềm” nữa, so với nhà nông dân ở khu vực đó hiện nay, không ý nghĩa gì, chỉ như những “chuồng chim to” mà thôi.
Nhân chuyện liên quan đến nhận thức, thực thi luật pháp và quyền công dân, tôi nhớ lại một việc, đối với nhà cầm quyền có thể là chuyện nhỏ, nhưng đối với một người dân là cả cuộc đời và sự nghiệp của họ.
Hôm ấy, với cương vị là Chủ tịch thành phố tôi nhận được một lá đơn kêu cứu của một sinh viên trường Đại học Hàng hải. Nội dung trình bày sự việc và tha thiết đề nghị Chủ tịch can thiệp để nhà trường nhận cháu vào học. Số là bố cháu một cán bộ của “Haiphong Ship” đã nhận vận chuyển một loại hàng hiếm vào thành phố Hồ Chí Minh, bị công an tình nghi là buôn lậu đến khám nhà. Khi ở trường về thấy vậy, như một phản ứng tự nhiên, cháu đã vứt một túi sách sang nhà bên cạnh. Thế là cháu cũng bị bắt. Xét trong túi xách chỉ có quần áo cũ, không có gì liên quan đến vụ việc trên, vài ngày sau cháu được tha. Khi cháu trở lại trường thì trường không cho cháu tiếp tục học nữa, với lý do là đã bị bắt, bị tù. Tôi cho kiểm tra lại, và ghi ý kiến gửi tới giáo sư Lê Đức Toàn, hiệu trưởng: “Luật pháp chưa kết luận, các đồng chí cứ để cho cháu tiếp tục học, nếu sau này có bị tù, thì một người tù có học vẫn còn hơn một người tù vô học”. Tôi được biết sau đó cháu đã tốt nghiệp đại học và hiện nay đang là một thạc sĩ, một nhà kinh doanh giỏi.
Cuộc kiểm tra tài chính toàn diện của Đoàn Chính phủ
Tiếp theo Tổ sắp xếp công nghiệp của đoàn anh Tô Duy vừa kết thúc, thì đoàn kiểm tra tài chính toàn diện của Chính phủ về Hải Phòng do đồng chí Ngô Thiết Thạch, Thứ trưởng Bộ Tài chính làm trưởng đoàn. Lúc đó Hải Phòng đang nổi lên như một điển hình làm kinh tế giỏi, một “Con chim én báo hiệu mùa xuân”. Nhiều lời khen, chê lẫn lộn. Có dư luận tung ra: Hải Phòng lấy đâu nhiều tiền thế để xây dựng cầu, cống, đường xá? Họ đưa ra 3 yếu tố để có tiền:
- Buôn lậu.
- Ăn cắp của kho Cảng.
- Gián điệp cho ông Thành tiền để xây dựng, nhằm nâng cao uy tín ông Thành, nhờ vậy sau này được lựa chọn vào vai trò chủ chốt quốc gia để “khuynh đảo” đất nước.
Đoàn đồng chí Ngô Thiết Thạch đến gặp Bí thư Thành uỷ ngay và với thái độ đúng đắn. Tôi tiếp họ cũng rất thẳng thắn.
Trong buổi gặp đầu tiên, tôi đã nói ngay rằng: “Đồng chí Trưởng đoàn và các đồng chí trong đoàn cứ làm việc đến xong thì thôi. Từ thành phố đến quận, huyện và cả xã nữa, các đồng chí đi đâu cũng được, xem gì cũng được. Ai cản trở việc kiểm tra cứ cho tôi biết, tôi sẽ kỷ luật người đó ngay. Còn chế độ ăn nghỉ, tùy các đồng chí:
1) Ăn chế độ chung là 5đ/ngày. Nếu cần ăn thêm đoàn sẽ chi thêm, thành phố phục vụ.
2) Thành phố sẽ chi hoàn toàn 35đ/ngày như mức ăn bình thường của các đoàn đến Hải Phòng từ trước.
Tôi nói thêm đó là sự minh bạch của địa phương. Chúng tôi có những nghị quyết về tiếp khách, chi tiêu, bán hàng cho khách rất rõ ràng. Thí dụ bán xe gắn máy cho khách cũng giảm 5% theo thời giá lúc bán. Thành uỷ viên và con cái uỷ viên Thường vụ thành uỷ cấm không được mua...
Tôi lại nói:
- Tùy các đồng chí lựa chọn, kẻo sau này bảo thành phố đối phó, cho ăn 5đ/ngày để cuộc sống khó khăn phải rút sớm. Hoặc bảo cho ăn 35đ/ngày là mua chuộc đoàn, để bao che lỗi lầm cho địa phương...
Đoàn làm việc một thời gian, với những kết luận đúng đắn: Hải Phòng làm ăn minh bạch rõ ràng, sổ sách ghi chép từ cái nhỏ nhất như biếu xén cấp trên chỉ bằng hiện vật cũng đều ghi lại cho ai, tặng ai, biếu ai, đều ghi sổ sách, tiếp tân, bán hàng... đều có nghị quyết và ghi chép ngày, tháng, rõ ràng. Đoàn đã xác minh một số đối tượng, đều công nhận là đúng...
Khi đoàn rút, thành phố biếu mỗi đoàn viên 5m vải, còn tiền ăn, ở thành phố thanh toán cho đoàn chu đáo với mức 35đ/ngày. Sau cuộc kiểm tra dài ngày đó không có dư luận gì xấu về Đoàn, cũng như của địa phương.
“Chưa hết kiểm tra đâu” - tôi nghĩ. Đoàn kiểm tra của đồng chí Ngô Thiết Thạch chưa kiểm tra ngân sách Đảng. Quả nhiên tiếp sau đó đoàn kiểm tra ngân sách Thành uỷ lại về Hải Phòng do đồng chí Hoàng (Hoàng Lửa), Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương làm Trưởng đoàn và 5 cán bộ. Trước khi xuống Hải Phòng, anh Hoàng gọi điện thoại cho tôi, nói: “Tôi được ý kiến của Ban Bí thư xuống kiểm tra ngân sách Thành uỷ. Tôi dự định làm trong 45 ngày, đề nghị anh giúp đỡ...” Tôi trả lời: “Mời anh cứ xuống làm việc, tôi sẽ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho anh kiểm tra...”.
Hôm sau anh Hoàng xuống thẳng Văn phòng Thành uỷ làm việc với Chánh, Phó Văn phòng và gặp đồng chí Lê Danh Xương, Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ. Anh Hoàng nói khi kết thúc sẽ gặp anh Thành. Tôi chỉ thị cho Văn phòng Thành uỷ cung cấp mọi tài liệu về tài chính cho Đoàn, không có việc gì phải hỏi ý kiến tôi cả. Có việc gì cần, hỏi anh Xương giải quyết.
Điều thuận lợi cho Đoàn làm việc là Thành uỷ Hải Phòng vốn cấm không cho Văn phòng Thành uỷ, các Ban của Đảng, tổ chức quần chúng, cơ quan công an, viện kiểm soát, quân sự, tham gia làm kinh tế. Những ngành không có chức năng làm kinh tế không được làm kinh tế. Mặc dù Ban Bí thư có chỉ thị số 12 về việc Đảng làm kinh tế, nhưng Thành uỷ Hải Phòng có công văn gửi Ban Bí thư xin phép cho Thành uỷ Hải Phòng không làm kinh tế. Với lý do là Đảng cầm quyền, ngân sách của Đảng do chính quyền cung cấp. Quan điểm này tôi vẫn giữ đến hôm nay, mặc dù sau 1986 tôi rời Hải Phòng, Thành uỷ Hải Phòng bắt đầu làm kinh tế và thành lập Ban Tài chính quản trị, (cũng đẻ ra phức tạp và dư luận không hay), dù nay trong cả nước Đảng đã làm kinh tế, tôi vẫn giữ ý kiến là quyết định đó không phù hợp với một Đảng cầm quyền...
Trở lại với đoàn kiểm tra Đảng của đồng chí Hoàng dạo đó, Đoàn mới làm được 20 ngày đã hết việc, không còn việc gì phải xem xét nữa. Sổ sách chứng từ đầy đủ, Văn phòng Thành uỷ và đồng chí Lê Danh Xương đã báo cáo kỹ càng với Đoàn. Anh Hoàng vui vẻ kết thúc kiểm tra và gọi điện thoại cho biết: “Không có vấn đề phải gặp tôi, tất cả đã trao đổi với anh Xương và anh Trần Xuân Mạnh, Chánh văn phòng rồi”. Và Đoàn xin phép rút về Hà Nội. Tôi mời anh ở lại để gặp nói chuyện cho vui thôi, nếu kiểm tra không còn vấn đề gì. Anh Hoàng nói hôm sau phải họp Uỷ ban Kiểm tra không thể ở lại. Tôi cảm ơn anh Hoàng trước khi Đoàn lên đường. Hôm sau đồng chí Lê Danh Xương, đồng chí Trần Xuân Mạnh báo cáo lại: Đoàn rất phấn khởi. Khi ở Hà Nội nghe nhiều dư luận không hay, nay Đoàn qua thực tế thấy Văn phòng Thành uỷ giúp cho Thành uỷ chi tiêu rõ ràng, rành mạch, không có vấn đề gì. Riêng quà biếu thì hơi rộng, thí dụ cho 5 chai nước mắm, thì nên rút xuống 2, 3 chai/người thôi...
Tôi về nói chuyện với nhà tôi: kinh tế họ nói sai, tung dư luận xấu về Hải Phòng nhưng sự thật đã được kết luận. Vấn đề tiếp chắc là vấn đề chính trị. Với ý định của họ, qua hành động, thái độ, tôi cũng dần dần hình dung ra họ sẽ làm gì những bước tiếp. Nhưng nội dung cụ thể thì tôi không thể tưởng tượng được.
Cuộc họp Hội nghị Trung ương tháng 6-1983
Cuộc họp nội dung kiểm điểm công tác 6 tháng đầu năm và đề ra nhiệm vụ hoàn thành kế hoạch 1983 do Tổng Bí thư Lê Duẩn chủ trì. Đồng chí Tổng Bí thư đọc lời khai mạc xong, phiên họp đầu tiên do đồng chí Phạm Hùng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ Trưởng Bộ Công An điều khiển. Báo cáo tình hình 6 tháng đầu năm và kế hoạch thực hiện 6 tháng cuối năm, Văn phòng Trung ương đã gửi cho các Uỷ viên Trung ương đọc, nghiên cứu trước, đến Hội nghị là phát biểu ngay. Đồng chí Phạm Hùng chỉ định tôi phát biểu trước.
Tôi phát biểu một số ý kiến ngắn gọn về Dự thảo báo cáo, còn dành thì giờ cho vấn đề “Z30”, về tịch thu nhà ở Hà Nội. Tôi nói “Z30” đã ảnh hưởng rất lớn tới các mặt chính trị, tư tưởng của Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng, nhất là nội thành.
Tôi nói một mạch 2 giờ liền.
- Rõ ràng không có cơ sở gì đặt ra việc tịch thu nhà của người dân, khi họ không phạm pháp luật, không bị pháp luật xử. Chỉ một Quyết định của Chính quyền địa phương là xông vào đuổi người chủ ra khỏi nhà, rồi tịch thu. Trong lúc này nhà cửa cho dân ở thiếu thốn, ngay cán bộ CNVC cũng không thuê được nhà ở, hoặc có thuê được nhưng nhà hỏng không có tiền sửa chữa. Đối với những khu nhà Nhà nước quản lý thì dân xin sửa không cho, dân xin mua không bán, càng để càng dột nát, xuống cấp... Nay người dân (chủ yếu là cán bộ công nhân viên chức ở một số ngành đi công tác nước ngoài, như thủy thủ tàu viễn dương, cán bộ đi công tác nước ngoài) tích cóp được ít tiền để dựng gian nhà cho vợ con ở, thực sự phải nhìn nhận là việc tốt. Đất chật, người ta làm nhiều tầng, nhưng cũng không to tát gì. Tôi đã trực tiếp xem tịch thu 3 nhà ở Hà Nội thì thấy thảm thiết lắm. Họ kêu khóc, đội “khăn tang”, khi đội công tác đẩy họ lên xe chở đi. Tôi xin đặt ra một câu hỏi với Trung ương: “Chúng ta làm cách mạng để làm gì? Người cộng sản hy sinh suốt đời cho nhân dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, thử hỏi ta đã đem lại cho nhân dân cái gì, sau khi đất nước đã được thống nhất 8 năm? Những việc của chúng ta làm là trái đạo lý. Bác Hồ trong di chúc đã nói: “Sau khi nước ta được thông nhất, chúng ta sẽ xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn... “ Ta chưa xây dựng thì để cho dân xây trước, còn ta sẽ xây dựng lớn hơn, cả nước thành công trường, xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Thành uỷ Hải Phòng chủ trương “ngói hóa nông thôn”, mai đây sẽ xây nhà 2, 3 tầng, lại bị tịch thu hay sao? Năm 1950 khi tôi làm Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, cơ quan đóng ở huyện Kinh Môn, địa phương mời tôi nói chuyện về Chủ nghĩa cộng sản để chuẩn bị Đảng ra công khai hoạt động vào đầu năm 1951, tôi đã nói với nông dân xã Châu Xá: “Khi kháng chiến thắng lợi, bà con sẽ hết cảnh nghèo khổ, không còn ở nhà tranh vách đất, mà ở nhà xây”. Họ vỗ tay hoan hô không ngớt. Nay độc lập thống nhất rồi, mình không có tiền xây nhà cho dân ở, họ xây ta tịch thu, hỏi còn đạo lý gì nữa?
Hội trường im phăng phắc. Tôi nhìn anh Ba, anh Hai Hùng... Cả hai anh tỏ thái độ suy nghĩ, theo dõi ý kiến của tôi. Cuối cùng tôi đề nghị: “Hải Phòng chờ ý kiến chính thức của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ sẽ thi hành nghiêm túc. Còn điện thoại nhắc nhở của một số đồng chí bảo nên bắt chước Hà Nội mà làm để có phong trào, thì chúng tôi không làm. Chúng tôi chịu trách nhiệm trước Đảng và trước dân. Có một đồng chí phê bình Hải Phòng không làm theo là vấn đề quan điểm, lập trường, chứ không phải cách làm. Tôi cho những lời phê bình đó “hồ đồ”. Tôi đề nghị Hội nghị Trung ương cần bàn rõ, để thực hiện thống nhất cả nước. Hiện nay nhân dân đang do dự, suy nghĩ về chính sách của chúng ta...
Sau khi phát biểu xong, đồng chí Phạm Hùng đứng dậy thong thả, hượm, hượm vài cái, cười và nói: “Rất sáng tạo, rất sáng tạo! Tôi ủng hộ ý kiến anh Thành... Có đồng chí nào phát biểu gì, cứ nói...”
Mấy phút im lặng, rồi anh Ba đứng dậy phân tích đạo lý của Đảng ta, của dân tộc, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Sau đó anh hỏi: “Có đồng chí nào phân tích đạo lý hơn thì phát biểu tiếp...”.
Tôi hồi hộp.
Không ngờ hai anh lại ủng hộ mạnh mẽ ý kiến của tôi đến thế. Tôi sợ quá! Nếu cứ nghe theo mấy đồng chí làm “Z30” thì thật chết, sai cả ý Đảng và lòng dân. Không hiểu cái chỉ thị “Z30” ấy ở đâu mà ra? Bây giờ Tổng Bí thư, Uỷ viên Bộ Chinh trị phụ trách nội chính lại đồng tình một cách triệt để với tôi. Biết bao suy nghĩ về vấn đề này...
Sau đó một số đồng chí Thành phố Hồ Chí Minh và phía Nam, đồng chí Quất, Bí thư Hà Bắc... phát biểu, hoan nghênh, ủng hộ ý kiến tôi. Thế là hết cái “Z30” mà sau này Hà Nội phải giải quyết hậu quả đến năm 1992-1993 mới xong.
Hội nghị Trung ương năm 1991 đồng chí Phạm Hưng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã đặt cho sự kiện “Z30” cái tên mới là “Chết rét”... Khi phát biểu xong ngồi xuống, trông thấy đồng chí Hồng Hà, Tổng biên tập báo Nhân dân ngồi ghế sau, tôi quay lại nói với đồng chí Hồng Hà: báo Nhân dân ngày... 6-1983 có đăng 6 bài phê bình các địa phương không tịch thu nhà. Trong 6 bài đó có 5 bài phê bình Hải Phòng, một bài phê bình Hà Bắc... Tôi xin nhắc anh Hồng Hà, anh có đăng một triệu bài, nhưng không có chỉ thị đóng dấu búa liềm và quốc huy tôi cũng không làm đâu...” Anh Hồng Hà đính chính: “Đó là Tổ ý kiến bạn đọc cho in, tôi không biết...”.
Giữa thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước mà có những việc làm kỳ lạ như vậy, thật đáng làm một bài học cho các thế hệ cấp uỷ mai sau suy nghĩ và thận trọng. Khi sai sẽ gây ra bao oán thù, nó sẽ tích tụ chồng chất dần lên, thành những hận thù sâu xa đến tận đời con, đời cháu... Khi có biến cố chính trị, những người bị xử sai này dễ ngả về phe chống đối cách mạng mà ta không thể coi thường.
Khi chúng ta ở thế “thượng phong”, phải nghĩ đến lúc “hạ mạt”. Trách nhiệm của người đi trước, phải biết để lại “hồng phúc” cho người đi sau. Chớ để xảy ra chuyện: “Cha ăn mặn, con khát nước” như dân gian thường nói. Những người cầm cân nảy mực một quốc gia càng phải nắm lấy những điều răn dạy của tổ tiên, và của các bậc hiền triết đã để lại cho nhân loại biết bao châm ngôn, tục ngữ... Chúng ta cần đọc kỹ, suy ngẫm kỹ. Bất kỳ hoàn cảnh nào cũng có thể ứng dụng, cho chuẩn mực, cho đúng đạo lý.
Kinh nghiệm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi chỉnh đốn tổ chức, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, tưởng rằng những bài học lớn lao đó chưa xa lắm. Tôi vẫn thường nghiêm khắc xem xét chính mình việc vận dụng học thuyết của Marx-Lénine, tư tưởng Hồ Chí Minh, với quan điểm chính trị, lập trường giai cấp cho nhuần nhuyễn, phù hợp với đạo lý muôn thuở mà tổ tiên ta để lại.
Có như vậy mới hy vọng tạo nên sự hòa hợp đoàn kết với tầm cao hơn, sâu rộng hơn, không chỉ có lý trí mà còn tình cảm của người đối với người... xây dựng một nước giàu, đủ sức bảo vệ lổ quốc, không bao giờ để ngoại bang xâm chiếm, nô dịch bằng bất kỳ hình thức nào.
Tổ chức kỷ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng
Từ 13-5-1955 đến 13-5-1985, tôi đã chứng kiến biết bao đổi thay của thành phố Cảng Hải Phòng. Tiếp quản, xây dựng rồi chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ kéo dài từ 8-1964 đến tháng 2-1973, ròng rã 9 năm liền. Chín năm ấy giặc Mỹ đã tàn phá gần 3/4 thành phố công nghiệp lớn thứ hai miền Bắc. Hàng nghìn chiến sĩ và nhân dân hy sinh do bom Mỹ giết hại, không kể hàng vạn con em Hải Phòng vào miền Nam chiến đấu, góp phần giải phóng miền Nam để rồi hàng nghìn chiến sĩ nằm lại trên chiến trường miền Nam máu lửa. Trung đoàn Hải Phòng chi viện cho Đà Nẵng, khi giải phóng Đà Nẵng, đã không còn một chiến sĩ nào của Trung đoàn trong số quân đi vào đợt đầu... Vậy mà sau 10 năm, quân dân Hải Phòng dưới sự lãnh đạo của Thành uỷ, sự chỉ đạo của Trung ương và Chính phủ, đã khôi phục, xây dựng lại Thành phố khang trang hơn, lịch thiệp hơn, từng bước thực hiện Di chúc của Bác Hồ.
Để đón nhận Huân chương Sao vàng của Nhà nước trao tặng, Thành uỷ, Uỷ ban Nhân dân Thành phố tổ chức ngày kỷ niệm với đầy đủ ý nghĩa lớn lao của nó. Trước hết phát động phong trào thi đua xây dựng thành phố, tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội, khơi dậy một tinh thần tự lực tự cường, không ỷ lại trông chờ, mà phát huy từ tiềm năng của thành phố, cùng với sự giúp đỡ của Trung ương, sự hợp tác với các tỉnh, thành trong cả nước, đồng thời tận dụng sự hợp tác quốc tế để xây dựng một mô hình XHCN của một địa phương, góp phần kinh nghiệm cho Trung ương.
Thành uỷ, UBND thành phố, tổ chức kỷ niệm 30 năm giải phóng rất long trọng. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Chính phủ, phân công nhau về các địa phương dự, vì dịp này cả nước cũng kỷ niệm 10 năm giải phóng, thống nhất đất nước. Thủ tướng Phạm Văn Đồng về dự với Hải Phòng, còn đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn xuống chúc mừng Hải Phòng trước một ngày. Đồng chí Chủ tịch Trường Chinh gọi điện cho tôi chúc mừng Hải Phòng và nói thêm: “Tôi cũng muốn đi Hải Phòng nhưng không được phân công, nên gọi điện chúc mừng Hải Phòng. Đồng chí chuyển lời tôi đến Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Hải Phòng giúp tôi”. Giọng nói và lời văn của Chủ tịch Trường Chinh đến hôm nay nhớ lại tôi còn rất xúc động về tình cảm của đồng chí.
Anh Đỗ Mười cũng rất nhiệt tình. Anh gọi điện cho tôi, nói rằng anh sẽ xuống dự và sẽ giục anh Đồng Sĩ Nguyên với các đồng chí khác cùng xuống dự...
Ngày lễ lớn trên lễ đài Thành phố, Đoàn chủ tịch chỉ thiếu vắng Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch Trường Chinh, còn hầu hết các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư đều đến dự và tham gia Chủ tịch đoàn. Ngày kỷ niệm có diễu hành của lực lượng quần chúng, diễu binh của thủy, lục, không quân rất hoành tráng. Các đoàn đại biểu tỉnh bạn kết nghĩa của Campuchia và Lào khi thấy máy bay phản lực bay qua lễ đài đã nói: “Chúng tôi kỷ niệm ngày Quốc khánh cũng không bằng Hải Phòng...”.
Các đồng chí lãnh đạo Hải Phòng và Kiến An qua các thời kỳ đều được trân trọng mời về dự. Các đồng chí về khá đông đủ.
Ngày tổ chức kỷ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng, Kiến An thành công rất tốt đẹp, gây được không khí vui tươi, hào hứng cho mọi tầng lớp nhân dân Thành phố.
Đến cuối năm tôi cùng Ban Thường vụ Thành uỷ chủ trì hoàn tất 46 Nghị quyết của Thành uỷ và Ban Thường vụ Thành uỷ. Tôi lên báo cáo với anh Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách tổ chức, rằng hết năm 1985 tôi xin nghỉ. (Dự định này tôi đã chuẩn bị từ lâu, chuẩn bị cả cho vợ tôi cùng các cháu. Tôi phục vụ cách mạng đã tròn 40 năm, sức khoẻ do tù đày bệnh tật hiện suy giảm, vả lại cũng chưa bao giờ tha thiết quyền chức, danh lợi. Các cụ xưa đã răn dạy phải biết rút lui đúng lúc mới là người hiểu đời).
Tôi bị đồng chí Lê Đức Thọ phê phán là thiếu ý chí vươn lên. Tôi thưa lại rằng hàng năm tôi đã báo cáo Tổ chức là đến năm 56 tuổi tôi xin nghỉ, để Tổ chức biết trước, khỏi bị động... Anh Thọ lại tỏ ra nóng giận:
- Cậu nói thế khác nào cậu nói chúng mình. Cậu mới hơn 50 tuổi, chúng mình đã 70 tuổi... Cậu đã được xếp vào đội ngũ kế cận... Tại sao lại nghĩ như vậy.
- Tôi lại thưa với anh, tôi cũng được anh Nguyễn Đức Tâm cho biết như vậy. Nhưng tôi báo cáo với anh kẻo có người lại nghĩ tôi được trên chú ý, quên lời hứa của mình, anh em địa phương sẽ coi thường...
Anh Thọ đứng dậy nói:
- Thôi, bỏ cái ý định ấy đi. Cậu ở Hải Phòng làm tốt, tôi đã hỏi cung Hoàng Trừ, Trường Xuân, cậu gìn giữ lắm, gìn giữ lắm.
Rồi anh hỏi sang việc khác. Anh Thọ không chỉ nói riêng với tôi, mà còn nói với cán bộ giúp việc. Anh Đạt, thư ký của anh, đã đôi lần nói với tôi: “Tôi ít thấy anh Lê Đức Thọ khen cán bộ cao cấp trước mặt đông người, nhưng anh Thọ đã khen anh trước nhiều người: Cậu Thành cậu ấy gìn giữ lắm!.”.
Giờ đây tôi đã có thể nói rất thành thực rằng: “Anh Thọ cũng làm tôi khổ nhiều lần”. Tôi vẫn rất kính trọng cái “tài” và tính “quyết đoán” của anh, nhưng tôi thấy anh còn khá độc đoán chuyên quyền về công tác Tổ chức cán bộ.
Việc tôi xin nghỉ sau tổ chức lễ kỷ niệm 30 năm giải phóng Hải Phòng bị lọt ra ngoài. Những kẻ xấu tung tin tôi sợ lên Trung ương bị “vạch mặt” nên “ăn non”. Kỳ này vào Đại hội Đảng toàn quốc sẽ “lột lon”, hoặc điều đi để “điệu hổ ly sơn”. Có như vậy mới trị được những tay chân như Trưởng Xuân. Nào là kỳ này nếu không đánh bật Đoàn Duy Thành ra khỏi Trung ương thì cũng làm cho mất nhiều phiếu bầu, để không đủ vào Bộ Chính trị, không có điều kiện ngoi lên cao. Trong số những kẻ xấu bụng ấy, tôi biết rõ nhất là anh Tô Duy, anh Nguyễn Thắng, còn có tên là Thắng Rỗ, Thắng Lầm. Họ đi gặp các cơ sở quận Ngô Quyền và những anh chị em bị bắt, kêu gọi, kích động, để họ vu khống tôi. Nhiều anh chị em được anh Tô Duy đến tận nhà phát động như anh Sửu, cô Định v.v... Nhưng không ai theo họ cả, lại vào báo tin cho tôi biết. Trừ anh Hoàng Chữ đã viết một lá thư gửi cho đồng chí Đỗ Mười. Đồng chí Đỗ Mười xem xong chuyển cho anh Nguyễn Đức Tâm, uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Các anh ấy làm có lớp lang, bài bản, khá chu đáo... Mặt khác các anh ấy kéo thêm một số bạn bè, cán bộ dưới quyền (nhưng chẳng ai bị tù, trừ anh Hoàng Chữ, một nhân chứng sống của các anh ấy. Sau nay anh Hoàng Chữ khi đối chất đã phải xin lỗi tôi, nói rằng mình bị tác động. Tôi sẽ nói kỹ vấn đề đối chất ở chương khác).
Về phía gia đình tôi, vợ tôi và các cháu đều nói do tôi quyết định mọi việc. Các cháu là đảng viên, cán bộ trung cấp, chúng nói: chưa đủ độ “chín” để tham gia vào việc của bố! Riêng cụ thân sinh ra nhà tôi đã gần 90 tuổi, cụ khuyên tôi: “Trèo cây đã đến buồng rồi, không nên nghỉ...”.
Bè bạn, đồng chí thân thiết cũng khuyên tôi không nên nghỉ sớm, nếu Đảng và Nhà nước còn sử dụng.
Tôi cũng thấy khó xử. Mối quan hệ xã hội cũng ràng buộc tôi, để đáp ứng cả người có động cơ xấu và người có động cơ tốt với mình. Xem ra không cách nào khác là về Hà Nội, nhận một công việc thích hợp với khả năng, nhất là không chen vào ai, đặc biệt là anh Mười. Tôi nghĩ không bao giờ tôi chen lấn vào anh, vì anh là Thủ trưởng cũ của tôi, hơn nữa trong tư duy của hầu hết các “vị bô lão” ít ai dám mạnh bạo cho lớp trẻ vượt lên trên. Đặc biệt là anh Mười. Qua nhiều năm làm việc với anh, tôi hiểu ý anh rất sâu sắc. Đôi khi anh mới nói nửa lời tôi đã biết anh định nói gì rồi, chỗ nào nói thật, chỗ nào nói chỉ để động viên người khác. Tôi đã có ý định nếu được xếp vượt lên trên anh Mười là tôi kiên quyết rút, nhường anh Mười ngay.
Cũng như đối với anh Bùi Quang Tạo, khi trên có ý định điều anh Tạo về Trung ương, tôi tha thiết đề nghị anh Tạo ở lại làm Bí thư, tôi chỉ làm Chủ tịch là đủ. Tiếc rằng anh Tạo đã qua đời, chỉ còn anh Nguyễn Đức Tâm biết rõ chuyện đó.
Tôi thường suy nghĩ nhiều và đôi khi rất buồn về những kỳ chuẩn bị Đại hội Đảng ở địa phương cũng như toàn quốc. Đã có lần tôi trực tiếp nói với anh Ba, anh Trường Chinh, anh Lê Đức Thọ, anh Nguyễn Đức Tâm là việc phê bình, tự phê bình, nên làm thường xuyên hàng năm đối với cán bộ lãnh đạo các cấp.
Khi tổ chức Đại hội chỉ tập trung bàn công việc phải làm trong nhiệm kỳ và hàng năm của nhiệm kỳ đó, không nên cứ đến nhiệm kỳ 5 năm mới làm kỹ về phê bình. Làm như vậy mất thì giờ, những người cơ hội muốn lật nhau, thường tìm mọi cách nói xấu, vu khống để tranh giành địa vị trong các kỳ bầu cử của Đại hội. Các đồng chí lãnh đạo các cấp nhiều khi cũng lợi dụng các cuộc phê bình, tự phê bình, để loại trừ những người không ăn cánh với mình. Điều đó khiến cho việc chuẩn bị đại hội thường căng thẳng, không hồ hởi phấn khởi như ý nghĩa ngày hội lớn của Đảng. Những người muốn vào địa vị này, địa vị khác, chạy chọt, tranh thủ, buồn vui... không xứng với tầm cao của một đảng tiên phong, vì nhân dân mà làm cách mạng, không đúng với tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ, tạo nên một thói hư trong Đảng.
Nghe tôi trình bày những suy nghĩ trên rất mừng là các đồng chí không có phản ứng gì, nhưng việc làm vẫn không thay đổi, vẫn làm theo cách làm cũ, nặng nề và mệt mỏi. Nhất là những Đại hội thay đổi cán bộ chủ chốt, thật là mệt và buồn. Như Đại hội 6, anh Linh thay anh Trường Chinh, Đại hội 7 đưa anh Văn ra kiểm điểm những việc mà anh Trường Chinh nói với tôi nhiều lần, đã giải quyết từ năm 1941-1942. Đại hội 9 thay anh Lê Khả Phiêu v.v... Ta không có chính sách đào tạo nhân tài, cứ “nước đến chân mới nhảy”. Anh Nguyễn Văn Linh đã nói nhiều lần ở Hội nghị Trung ương: “Tôi có được chuẩn bị làm Tổng Bí thư đâu”, và lúc cần quá, phải đi tìm người, anh Linh ví: “Chẳng khác gì cầm bó đóm đi tìm ếch, tìm không được ếch, lại bắt được nhái”. Anh Nông Đức Mạnh cũng than phiền là không được đào tạo làm Tổng Bí thư, Đại hội cử thì phải làm thôi...
Chúng ta đều biết “nhân tài” là nguyên khí của quốc gia. Một nước có 80 triệu dân thì nhân tài không phải hiếm. Có chính sách và có cơ chế đúng, cộng thêm người đứng đầu đất nước quan tâm là ra nhân tài. Nhưng đào tạo nhân tài quốc gia mới là chuyện quan trọng nhất. Phải có cơ chế rõ ràng, dân chủ tuyển dụng, đồng thời không những nâng cao dân trí, truyền thống văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới cho mọi người hiểu được tiêu chuẩn thế nào là nhân tài. Phải qua khảo nghiệm thực tế, hành động thiết thực, ứng phó lúc khó khăn, liêm khiết, bình dân, gần quần chúng, đã được kiểm nghiệm như kiểu Bin Clinton đã qua mấy nhiệm kỳ Thống đốc bang làm rất giỏi, Hồ Cẩm Đào qua các vùng tự trị cam go nhất, qua nơi kinh tế lập trung, giải quyết các công việc phức tạp, được kiểm nghiệm là có tài. Như vậy người ta ở một nước lớn, đông dân, mà có Tổng thống 47 tuổi, Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước 59 tuổi.
Đương nhiên còn bao vị tiền bối, trưởng lão muốn giữ quyền, nhưng với tài năng, đức độ của nhân tài được quần chúng suy tôn mến phục, thì các vị trưởng lão cũng tránh cho nhân tài đi lên. Lịch sử Việt Nam những Triều đại có “Vua sáng, tôi hiền” vẫn chọn được nhân tài đó thôi. Bước vào chuẩn bị Đại hội VI, công việc rất khẩn trương như bao kỳ Đại hội khác. Nhưng lần này đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã qua đời, đồng chí Trường Chinh được tái cử làm Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu lại, tham gia Bộ Chính trị... Những việc đó có liên quan đến vấn đề nhân sự chủ chốt của Đại hội.
Về phần tôi, càng gần đến Đại hội những người có ý định không tốt càng tìm mọi cách làm giảm uy tín tôi, bịa đặt nhiều chuyện ly kỳ ngoài hậu trường. Còn chính trường thì những động tác của một hai đồng chí chủ chốt, có trách nhiệm về nhân sự, như anh Lê Đức Thọ, với cương vị phụ trách Tổ chức Đại hội, nói góp thêm trong các cuộc họp lớn của cả nước.
Tôi nhớ có hai lần:
- Lần thứ nhất ở Hội nghị cán bộ chủ chốt các địa phương, Anh Thọ nói về chuyện mấy đồng chí Bí thư Tỉnh, Thành uỷ, xuất bản Tuyển tập để tuyên truyền đề cao cá nhân. Tôi được biết có 3 Tuyển tập của 3 Bí thư là: Anh Nguyễn Văn Linh - Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, anh Hoàng Minh Thắng - Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam Đà Nẵng, và tôi là Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Ba tác phẩm này đều xuất bản đầu năm 1985 để kỷ niệm 10 năm giải phóng miền Nam và 30 năm giải phóng Hải Phòng. Về lý do xuất bản tuyển tập của hai đồng chí trên thì tôi không rõ, còn quyển sách của Hải Phòng do Ban Tuyên huấn Trung ương chỉ đạo. Đồng chí Hoàng, Phó ban xuống Hải Phòng, chọn lựa bài nói của tôi, cộng với Nhà xuất bản Hải Phòng cho in cuốn: “Hải Phòng trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ” (Đoàn Duy Thành), Nhà xuất bản Hải Phòng. Đồng chí Hoàng giải thích là 30 năm kỷ niệm Hải Phòng giải phóng, cần có cuốn sách của lãnh đạo Thành phố để tuyên truyền giáo dục cho Đảng viên và nhân dân. Mọi việc đều do đồng chí Hoàng và Ban Tuyên huấn làm cả. Đồng chí Nguyễn Hữu Huân, Giám đốc Nhà xuất bản (nay đang ở Hải Phòng) chỉ đưa tôi duyệt qua những đầu bài tôi viết. Tôi không hề quan tâm một chút nào đến quyển sách này, nhất là ý đồ đề cao uy tín cá nhân...
Sau khi anh Lê Đức Thọ nói xong, một số cán bộ “dịch” ra là: anh Thọ ám chỉ Đoàn Duy Thành đấy! Như anh C.V.T, cấp thứ trưởng cùng nhiều anh em nói cho tôi biết, tôi chỉ cười vui vẻ và cảm ơn.
- Lần thứ hai là: Hội nghị Ban Tuyên huấn toàn quốc, gồm các đồng chí Trưởng, Phó Ban Tuyên huấn các tỉnh, thành phố và các Bộ ngành Trung ương dự họp. Trong buổi đến nói chuyện, anh Lê Đức Thọ nói: “Đồng chí Trưởng ban Tuyên huấn Hải Phòng về nói với anh Thành, Bí thư Thành uỷ biết là anh Tố Hữu tặng Hải Phòng bài thơ có 8 câu, 4 câu khen, 4 câu phê bình, anh Thành chỉ phổ biến 4 câu khen, cắt 4 câu phê bình...”.
Nghe anh Lê Đức Thọ nói, cả Hội nghị xôn xao bàn tán...
Đồng chí Tô Ngạc, quyền Trưởng ban Tuyên huấn đi họp về phản ảnh cho tôi biết. Sau một tuần, tôi đến nhà anh Lê Đức Thọ, mang theo bài thơ: “Mừng Hải Phòng” của anh Tố Hữu gồm 8 câu, in giấy trắng bóng, rất đẹp có ký tên Tố Hữu:
Bốn cống, ba cầu năm cửa ô
Đào kênh lấn biển mở cơ đồ,
Làm ăn hai chữ à ra thế
Chèo chống nghìn tay một tiếng hô.
Nhộn nhịp Sáu kho vui đất Cảng
Khang trang Tam Bạc rạng Thành Tô
Giá còn nữ tướng Lê Chân nhỉ?
Ắt cũng khen con cháu Bác Hồ!
Ký Tố Hữu
Ngoài ra anh Tố Hữu còn làm thêm 4 câu, dặn đồng chí Lê Danh Xương - phó Bí thư Thường trực, đồng chí Tô Ngạc, quyền Trưởng ban Tuyên huấn, đồng chí Vũ Long,Tổng Biên tập báo Hải Phòng, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm, về báo cáo với tôi là: “Bốn câu thơ này làm ngoài, chỉ đọc cho Ban Thường vụ Thành uỷ nghe không đăng báo, không phổ biến rộng rãi”. Nhưng tôi đã phổ biến cả 4 câu, gồm 12 câu cho cán bộ Hội nghị và toàn thể hội viên Hội nhà văn Hải Phòng cùng nghe:
Triều dâng sóng dậy đời ca lát,
Gió tự Đồ Sơn mát Thủ đô,
Tám nghề, bảy chữ đừng ham nhé!
Chín chắn mười mươi cũng chớ phô.
Tôi báo cáo với anh Thọ và đưa cho anh xem toàn bài thơ. Anh xem xong tỏ vẻ nghĩ ngợi, không nói gì, bắt tay tôi. Tôi chào anh ra về, cũng không nói gì thêm (Tôi sẽ nói kỹ việc này ở chương anh Tố Hữu với Hải Phòng).
Thế đấy! Đến Đại hội, có nhiều chuyện tương tự như câu chuyện của tôi. Nhiều đồng chí phàn nàn, còn tôi đã có quan điểm riêng, nên tôi coi những vấn đề này như mình đã dự đoán trước, không có gì phải suy nghĩ cả.
Trong lúc ấy, tôi thấy anh Mười gặp tôi rất vui vẻ. Tôi biết anh đã nắm chắc vấn đề gì về tôi rồi. Anh Tô Duy đã tìm ra ngón đòn “hiểm” đánh vào sinh mệnh chính trị của tôi, nhất là thư của anh Hoàng Chữ (cùng tù với tôi ở Cát Bi) gửi anh Mười, tố cáo tôi không bị tra tấn gì, mặc quần áo trắng, đọc nhật trình, xem địch tra tấn anh em. Anh Hoàng Chữ được coi là một nhân chứng sống duy nhất.
Anh Tô Duy dùng vấn đề kinh tế không lật được tôi, chuyển sang chính trị cũng rất có bài bản. Nhưng vì bịa chuyện nên dễ sơ hở. Tôi ở trong tù không ai biết tên tôi là Đoàn Duy Thành, mà chỉ tên là Duy, không ai biết tôi làm chức vụ gì ở ngoài cả. Thế mà anh Hoàng Chữ dám nói: “Tôi trông thấy một anh đẹp trai, trắng trẻo, mặc quần áo trắng, đọc nhật trình. Tôi hỏi ai đấy? Anh em tù bảo đó là anh Đoàn Duy Thành, Bí thư quận uỷ Ngô Quyền...”.
Sau này đối chất, kết luận xong, các đồng chí sao cho tôi một bản thư anh Hoàng Chữ, thấy chữ anh Mười ký ở dưới (chữ ký tắt ít người biết là chữ ký anh Mười), cùng với ý kiến chuyển thư của anh Hoàng Chữ cho anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương xem xét.
Lúc đó tôi bị tiến công tứ phía. Anh Tô Duy lúc này đã tập hợp thêm được một số người. Ngoài người cũ là anh Tô Duy, Nguyễn Thắng (Thắng Lầm), Hoàng Chữ, có thêm anh Nguyễn Mạnh Ái, nguyên Cục phó cục bảo vệ quân đội, nguyên Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền, anh Trịnh Đình Hoành, nguyên Quận đội trưởng quận Ngô Quyền, anh Lê Quang Tuấn, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, anh Trần Đông, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng...
Tôi buộc phải suy nghĩ.
Những người này trước đây cũng là những đồng chí tốt, thân thiết với mình, sao nay bỗng nhiên cùng nhau tố giác mình trước ngày sắp diễn ra Đại hội lần thứ 6? chắc có thế lực nào đứng sau, đủ sức mạnh thuyết phục mới kéo được đông cán bộ chủ chốt Hải Phòng vào tố cáo mình, dùng đa số để quật ngã mình đây. Nhưng ai là người đứng sau họ? Tôi vẫn còn phân vân chưa xác định...
Những tháng đầu năm 1986, tôi phải đương đầu với bao nhiêu “cuộc chiến”.
Tôi nhớ nhất vào tháng 3-1986, cuộc họp tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng đấu Bí thư Thành uỷ Hải Phòng theo cơ chế thị trường, do cố vấn Liên Xô Pascard báo cáo. Trước khi có cuộc họp này, một buổi chiều vừa làm việc xong, tôi được điện thoại của anh Hồ Nghinh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó Ban Kinh tế Trung ương cho biết:
- Tối hôm nay tôi và các anh Vũ Quang, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chánh văn phòng Trung ương xuống bàn với anh một việc rất cần. Anh chuẩn bị cho chúng tôi ăn cơm tối, bàn công việc xong là chúng tôi về Hà Nội ngay.
Tôi chuẩn bị cơm tối, chờ hai anh xuống cùng ăn và làm việc. Chín giờ tối các anh mới đến nhà khách số 13 Trần Hưng Đạo. Lúc đó đường số 5 còn xấu lắm, phải qua 2 cầu, nếu có xe lửa qua phải đợi, thường phải đi 3-4 giờ từ Hà Nội mới tới Hải Phòng. Nhưng vì hai anh hết lòng ủng hộ cuộc đổi mới của Hải Phòng nên đã cấp tốc xuống Hải Phòng thông tin cho tôi biết có cuộc họp quan trọng, để tôi chuẩn bị chu đáo. Một số người dự định sẽ đánh bại Hải Phòng trong kỳ họp này. Hai anh bảo tôi phải chuẩn bị kỹ báo cáo, có lập luận vững chắc để phản bác lại luận điệu bảo Hải Phòng đi theo kinh tế “thị trường”...
Tôi thấy anh Hồ Nghinh, anh Vũ Quang tâm huyết với Hải Phòng quá cũng rất xúc động. Làm cho dân giàu nước mạnh mà vất vả thật! Chúng tôi vừa ăn cơm, vừa bàn những phương sách đối phó, đến hơn 12 giờ khuya mới ăn cơm xong. Tôi tiễn hai anh về Hà Nội và nói: “Hai anh cứ yên tâm, tôi sẽ chuẩn bị kỹ và nói đầy đủ sự thật của Hải Phòng từ sau đổi tiền đến nay”. Đúng như hai anh thông báo, hôm sau tôi nhận được điện hoả tốc lên Hà Nội họp ở nhà số 10 khu biệt thự Hồ Tây. Lúc này anh Ba yếu, thường nghỉ ở đây. Họp ở Hồ Tây anh Ba dự cho thuận tiện. Hôm sau tôi đi sớm từ Hải Phòng lên, đúng 8 giờ sáng ngày 23 hay 26-3-1986, tôi không nhớ chính xác, đã tới nơi họp.
Tôi đi đến trạm gác khu biệt thự, trông thấy một đồng chí đi lén ở sau nhà và vẫy tay ra hiệu gọi tôi. Tôi cho dừng xe lại, bước xuống. Đó là đồng chí Nguyễn Lam, Ban Bí thư, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Bắt tay tôi và ghé vào tai tôi, anh nói rất nhanh: “Hôm nay Bộ Chính trị đấu Hải Phòng đi theo kinh tế thị trường, do đồng chí Pascard, cố vấn Liên Xô báo cáo với Bộ Chính trị. Anh liệu mà báo cáo”.
Cảm ơn anh Nguyễn Lam, Hồ Nghinh, Vũ Quang phải lo lắng cho Hải Phòng. Còn với tôi, tôi đã chuẩn bị kỹ những việc làm, tôi cảm thấy rất tốt, và rất đạt kết quả, đặc biệt sau đổi tiền. Tôi đã báo cáo kỹ với đồng chí Pascard khi đồng chí xuống Hải Phòng cuối năm 1985, xem xét kết quả đổi tiền. Đồng chí còn khen Hải Phòng giải quyết sáng tạo, không bị động như một số nơi đồng chí đến nghiên cứu. Không biết vì sao mà phải có cuộc họp quan trọng này?
Tôi bước vào Hội nghị vẫn bình thường như bao cuộc họp khác mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư gọi lên báo cáo.
Tôi thấy Hội nghị ngồi im phăng phắc, như đang đợi một cái gì đó. Tôi đến chào và bắt tay đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn và tất cả các đồng chí dự Hội nghị, khoảng hơn 40 người.
Anh Ba nói vài lời tuyên bố lý do và bảo tôi báo cáo tình hình Hải Phòng và các giải pháp giải quyết sau đổi tiền. Tôi báo cáo với Hội nghị gần 3 giờ, kể cả trả lời một vài câu hỏi chen ngang của vài đồng chí, Đến gần 11 giờ thì xong.
Anh Ba đứng dậy không nói gì thêm, chỉ hỏi có đồng chí nào bổ sung hoặc hỏi thêm tôi gì không. Hội nghị ngồi im không ai nói gì. Anh Ba tuyên bố: Hội nghị nghỉ trưa, chiều họp tiếp.
Chiều họp tiếp, anh Ba nhắc hỏi đồng chí nào có biện pháp hay hơn thì phát biểu. Anh Nguyễn Thanh Bình đứng lên, nói đại ý biện pháp giải quyết sau đổi tiền của Hải Phòng như vậy là tốt, cần rút kinh nghiệm chung, anh cũng bổ sung thêm một số kinh nghiệm của Hà Nội... Một vài đồng chí khác phát biểu đều ủng hộ cách giải quyết sau đổi tiền của Hải Phòng cho là sáng tạo, linh hoạt nên không ách tắc do thiếu tiền lẻ gây ra. Nhất là chỉ đạo đổi tiền tháng 9-1985, Thành uỷ đã phân công tất cả Uỷ viên Thường vụ trực tiếp chỉ đạo từng huyện, quận, nên không có sai sót gì đáng kể, sản xuất vẫn phát triển, dân không kêu ca thiếu tiền lẻ như các nơi, lưu thông phân phối không trì trệ...
Hội nghị với mục đích “đấu” Hải Phòng đi theo kinh tế thị trường, trở thành Hội nghị bàn biện pháp khắc phục sau đổi tiền.
Khi ra về tôi bắt tay chào anh Nguyễn Lam, anh Hồ Nghinh, anh Vũ Quang, anh Tiệp, cán bộ theo rõi Hải Phòng. Các anh ấy đều phấn khởi. Anh Hồ Nghinh nói: “Thế là ta đã thắng...”. Anh Nguyễn Lam bắt tay tôi thật chặt và nói: “Đúng là Đoàn Duy Thành”. Còn đồng chí Tiệp thì xuýt xoa “Tôi lo quá! Lo cho anh, lo cho Hải Phòng. Mấy ông găng lắm đấy! Không hiểu sao, sau khi nghe báo cáo của anh lại không thấy nói gì...”.
Nhưng chưa hết gian khổ. Càng đến gần Đại hội, càng nhiều việc. Anh Lê Đức Thọ gọi tôi lên chất vấn về tàu “Hoa Phượng Đỏ” của Hải Phòng đi buôn lậu hàng cũ ở Nhật Bản. Chỉ do một số thủy thủ mua mấy cái xe máy cũ của Nhật Bản về cảng, trốn thuế bị bắt, trong đó có con rể đồng chí Nguyễn Dần mua 2 cái. Chính vì việc này mà đồng chí Lê Đức Thọ kiên quyết không để anh Dần làm Bí thư Thành uỷ và không được đi dự Đại hội 6.
Tôi trình bày có tính tranh luận với anh Thọ về tàu “Hoa Phượng Đỏ” buôn lậu. Anh Thọ nói:
- Các anh không ra quyết định hủy tổ chức đội tàu, tôi sẽ bảo Ban Bí thư ra quyết định bác bỏ quyết định của các anh. Tôi đã hỏi anh Đồng Sĩ Nguyên rồi...
Tôi cãi lại, tôi làm đúng chỉ thị của đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư và đã được Chính phủ cùng Bộ Ngoại thương ra văn bản đồng ý. Chúng tôi không làm sai. Nếu bây giờ lại bảo sai và có văn bản của Ban Bí thư bác bỏ quyết định của địa phương, tôi cũng chấp hành nghiêm chỉnh. Tôi nói đến đấy, anh Thọ bảo: “Thôi được, tôi sẽ xem sau”. Thế là kết thúc Sau đó anh Thọ cũng không nhắc lại việc này nữa.
Tôi còn một lần nữa tranh luận với anh Thọ là việc xử vụ Trường Xuân. Không rõ anh Thọ nghe phản ánh ở đâu, bảo Trường Xuân buôn bán xe tăng, buôn xác lính Mỹ (!?) đủ tội để xử tử hình. Tôi gặp anh Linh, Tổng Bí thư, thái độ anh không rõ rệt, bảo anh Thọ phụ trách việc này.
Anh Lê Đức Anh thì ủng hộ, bảo tôi:
- Anh với tôi cứu nó khỏi mất cái đầu đã, rồi sẽ tính sau.
Tôi gặp anh Mười thì anh phân vân, cũng muốn cứu, nhưng nói:
- Hình như cậu này là thành phần tiểu thương, chẳng có huân chương, huy chương gì cả...
Tôi nói:
- Thành phần thì tôi không biết, nhưng huân, huy chương tôi thấy cậu ta đeo đầy ngực...
Anh Mười suy nghĩ. Tôi hiểu ý anh cũng không muốn xử mức án cao nhất. Tôi gặp anh Trần Xuân Bách, người được anh Thọ giao cho hỏi cung Trường Xuân, anh Bách bảo tôi: “Mình hỏi 3 lần, nhưng chẳng có gì, mình thôi rồi...”.
Mọi người bảo tôi, việc bây giờ là ở anh Thọ.
Các anh bên Bộ Quốc phòng cũng bảo tôi như vậy. Anh Văn Tiến Dũng muốn cứu nhưng nói hơi khó. Mọi người bảo tôi muốn cứu Trường Xuân thì phải gặp anh Thọ. Anh Thọ đã hỏi cung Trường Xuân và khen tôi “giữ gìn lắm”. Tôi biết, làm kinh tế liên quan đến tiền, hàng. Muốn làm giàu cho đất nước, người lãnh đạo phải ý tứ gương mẫu từ những cái nhỏ nhất. Khi tổng kết các chương trình của quân đội, anh em đều gửi tặng phẩm cho tôi, tôi nhận hết và gửi lại tặng chiến sĩ có thành tích nhất. Quân đội làm biết bao công trình quai đê, lấn biển cho thành phố, thành phố trả công chu đáo, nhưng không bao giờ tôi nhận một gói chè của anh em. Tôi đến gặp anh Thọ trình bày chủ trương của Thành uỷ đã chỉ thị cho lực lượng vũ trang làm công trình quai đê lấn biển cho thành phố, cấm buôn bán, có nghị quyết của Thành uỷ rành mạch. Còn Bộ chỉ huy Hải Phòng làm kinh tế, là do Bộ Quốc phòng cho phép. Còn họ lợi dụng tham ô như thế nào đã được cơ quan điều tra xác minh. Theo tôi được biết thì 16 người liên quan tham ô 3,6 triệu đồng, trị giá bằng một bộ video cassette. Tất nhiên họ có tội, nhưng tôi biết một Uỷ viên Bộ Chính trị sang Nhật được tặng 5 bộ video cassette, đem về chia cho một số Uỷ viên Bộ Chính trị chưa có tivi loại tốt. Tôi không dám coi đó là tham ô, nhưng tôi nghĩ về việc bọn họ tham ô không lớn lắm, nên hạ án cho họ. Còn tôi, chắc anh Lê Đức Thọ đã rõ, tôi không liên quan dính dáng đến chủ trương và vật chất với anh em này. Anh Thọ chỉ nghe, không nói gì. Tôi lo nhất là đã nhắc đến 5 bộ video cassettee, sợ phật ý anh Thọ. Nhưng rất may, anh đứng dạy bảo tôi: “Tôi giao việc này cho anh Đỗ Mười, cậu gặp Đỗ Mười để bàn...” Tôi mừng quá, thế là ý tôi và anh Lê Đức Anh sẽ thực hiện được bước quan trọng nhất.
Ra về, gặp lại anh Đạt, thư ký của anh Thọ, các anh cũng lo cho tôi. Anh Đạt nói: “Tôi chưa thấy cán bộ cao cấp nào dám cãi tay đôi với anh Thọ. Có anh chỉ cãi lại một câu thôi mà cũng đã khốn khổ...”. Tôi nói: “Mình tranh luận với anh Thọ có tình có lý, ngay việc tàu “Hoa phượng đỏ” anh Thọ cũng thôi. Vì mình trình bày với mục đích phục vụ nhân dân, không có cá nhân...”. Anh Đạt hiện nay sinh sống ở Hà Nội.
Trong thời gian tôi làm Bí thư Thành uỷ, ngoài việc lo cuộc sống của nhân dân, cán bộ cùng công nhân viên chức nói chung, tôi chú ý nhà ở cho cán bộ lãnh đạo từ chuyên viên I (lương lúc đó 105 đồng/một tháng) trở lên, vì những cán bộ này tập trung công việc hàng ngày ít có điều kiện lo việc nhà. Tôi đã cùng Ban Thường vụ Thành uỷ bàn và đưa ra Thành uỷ, Hội đồng nhân dân cùng bàn, ra Nghị quyết xây dựng khu nhà chung cư “Đồng tâm quốc tế” cho cán bộ. Môi hộ được từ 40 m2 đến 64 m2/hộ, có ít vườn, có khu nhà giữ trẻ, vườn hoa công cộng. (Đến nay vẫn là khu chung cư cho cán bộ Trung sơ cấp duy nhất ở Hải Phòng. Nhiều nhà đã xây lấn ra vườn, nhưng nói chung vẫn còn giữ được quy hoạch ban đầu).
Những năm tháng công tác ở Hải Phòng, tôi rất chú trọng học hỏi các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhất là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các anh lãnh đạo ở hai thành phố lớn là những đồng chí có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh như anh Lê Văn Lương, anh Nguyễn Văn Linh, anh Võ Văn Kiệt, anh Mai Chí Thọ... Các anh lại là những người khiêm tốn và tôi cũng quen biết các anh từ lâu, như anh Lương, anh Linh, những người cùng tù ở Côn Đảo. Tuy là các bậc đàn anh lớp trước, nhưng các anh rất mến tôi. Khi tôi làm Bí thư Hải Phòng, anh Lương làm Bí thư Hà Nội, cứ 3, 4 tháng một lần, anh Lương lại đưa cán bộ chủ chốt của Thành phố xuống Hải Phòng trao đổi kinh nghiệm xây dựng, quản lý thành phố. Nhiều lần anh Lương còn tâm sự với tôi: “Tôi sẽ xin anh về Hà Nội làm Bí thư thay tôi”. Rồi chuyện đó đã xảy ra thật. Nhưng tôi xin với anh Ba Duẩn cho tôi ở lại Hải Phòng. Nếu anh Ba không đồng ý, thì 1984 tôi đã phải về làm Bí thư Hà Nội. Sau trên cử anh Nguyễn Thanh Bình về làm Bí thư Hà Nội. Anh Bình gặp tôi nói: “Đáng lẽ việc này là của anh, không phải của tôi...”. Còn anh Nguyễn Văn Linh, khi anh làm Bí thư Trung ương Cục, mỗi lần ra Hà Nội báo cáo anh thường xuống Hải Phòng nghỉ, vì anh ở Hải Phòng từ lúc 6 tuổi, học tập, hoạt động cũng ở Hải Phòng rất sớm, 16 tuổi đã bị bắt. Anh coi Hải Phòng là quê hương thứ hai. Mỗi lần anh đến Hải Phòng, tôi thường được phân công đưa anh đi thăm thành phố. Tuy giữ bí mật, nhưng anh em trò truyện rất nhiều về công việc, quá khứ, hiện tại... Khi anh làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần ra họp Trung ương anh thường xuống thăm Hải Phòng và cũng thường mời tôi vào thăm thành phố Hồ Chí Minh. Tôi nhớ có một lần anh mời tôi nói chuyện về kinh nghiệm đổi mới ở Hải Phòng với Thành uỷ. Lần đó ăn cơm chiều xong, anh hẹn tôi 7 giờ tối đến trao đổi thêm. Anh em trao đổi rất nhiều việc của hai Thành phố và một số việc chung trong cả nước. Đến 10 giờ anh em phục vụ đem lên hai bát cháo lươn, rất ngon. Anh Linh bảo tôi: “Đây là do tài chính của Đảng lo đấy!” Tôi buồn cười, nhưng không dám cười. Ăn xong tôi mới nói: “Hải Phòng, Đảng không làm kinh tế, với lý do là Đảng cầm quyền, ngân sách Nhà nước phải cấp đủ cho cấp uỷ chi tiêu như bên UBND Thành phố. Vì Đảng làm kinh tế là không có lợi”. Anh tranh luận với tôi. Cho đến khi làm Tổng Bí thư, anh cũng còn tranh luận với tôi chuyện ấy. Nhất là khi Liên Xô sụp đổ, anh bảo tôi: “Nếu chính quyền sụp đổ, thì Đảng còn tiền đâu mà tiêu, nếu không làm kinh tế?”. Tôi bảo anh: “Nếu chính quyền Việt Nam sụp đổ thì đầu anh và đầu tôi cũng mất, còn đâu mà làm kinh tế? Ta phải dồn sức giữ lấy chính quyền”. Tuy tôi phản đối Đảng làm kinh tế, nhưng tôi vẫn giúp kinh tế Đảng rất nhiều. Khi tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, cả nước chỉ có quota nhập 2.000 xe con, tôi đã cấp cho Ban Quản trị Tài chính Trung ương do đồng chí Lê Đức Thịnh làm trưởng ban, với lời quyết của đồng chí Thanh Bình, Thường trực Ban Bí thư. Lúc đó chưa có thuế xuất nhập khẩu, lãi rất lớn. Anh Thịnh đã đem bán quota thu mấy triệu đô la Mỹ, để xây dựng khách sạn Tây Hồ. Nếu trực tiếp nhập sẽ lãi lớn hơn nhiều. Việc bán quota này cũng có dư luận không hay.
Tối hôm ăn cháo lươn với anh Linh xong, tôi nói vui với anh Linh: “Hôm nào đi họp Hà Nội, anh xuống Hải Phòng chơi, tôi chiêu đãi anh 2 bát cháo lươn, mặc dù ở Hải Phòng Đảng không làm kinh tế”. Hai anh em cùng cười. Anh Linh bảo sẽ bàn tiếp chuyện ấy.
Đối với anh Võ Văn Kiệt tôi được nghe tiếng anh nhiều, song ít được gặp. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn bảo tôi vào thành phố Hồ Chí Minh rủ anh Sáu Dân cùng đổi mới. Tôi vào thành phố, anh Sáu Dân đi vắng. Tôi gặp anh Mai Chí Thọ cũng bàn được một số công việc ở nhà riêng. Khi về tôi báo cáo anh Ba, anh Ba bảo tôi cần gặp trực tiếp anh Sáu Dân. Lần thứ hai tôi gặp anh Sáu Dân ở Hà Nội. Gặp anh lần đầu, tôi có cảm tình ngay. Anh vui vẻ thân mật, bàn công việc rất sôi nổi. Tôi trình bày các việc làm của Hải Phòng và đề nghị anh giúp đỡ. Anh nói: “Chúng ta hợp tác với nhau. Tôi đồng ý những ý kiến của anh. Chủ nghĩa thực dụng nó xấu, chúng mình cứ bước chân vào bước chân của nó, nhưng bước nhanh đi là được”. Đó là câu nói khiến tôi đánh giá anh Sáu Dân có tư tưởng đổi mới mạnh mẽ.
Tôi rất say sưa với công tác ở Hải Phòng, chỉ mong sao làm hết khóa, đến cuối năm 1986 sẽ về nghỉ. Nhưng anh Lê Đức Thọ, anh Nguyên Đức Tâm đã trực tiếp gặp tôi để trao đổi, điều tôi về Trung ương công tác, cũng không được các anh cho biết về làm công việc gì. Khi gặp anh Tâm lần cuối, tôi đề nghị anh: “Về Trung ương làm gì cũng được, nhưng đừng xếp tôi làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương”.
Thế là theo yêu cầu mới tôi phải rời Hải Phòng - nơi tôi đã gắn bó suốt 36 năm và luôn coi là quê hương thứ hai của mình; nơi tôi đã quen thuộc từng phố phường, xóm ngõ trong nội thành, đến các làng mạc thôn xã ở ngoại thành và hải đảo; nơi tôi có biết bao nhiêu đồng chí cùng chiến đấu, lao động, và đồng bào thân quen với biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn. Tôi nhớ lại những ngày hoạt động đầy căng thẳng trong nội thành, ngày đêm giáp mặt với quân thù, những năm tháng bị bắt, bị tù đầy, tra tấn chết đi, sống lại, rồi tiếp quản thành phố, xây dựng trong hòa bình, trong chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ... Tôi càng không bao giờ quên thời gian là lãnh đạo chủ chốt thành phố, cùng các đồng chí trong Ban Thường vụ, trong Thành uỷ, các đồng chí Bí thư, Chủ tịch các huyện, trưởng phó các ngành, giám đốc các doanh nghiệp... Họ đã cùng tôi đoàn kết, say sưa làm việc không kể ngày đêm, mà đến nay mỗi khi trở lại Hải Phòng, nhiều bà con vẫn còn nhớ, còn nhắc lại, nhiều cánh tay vẫy chào ở khắp nơi. Tôi tự nhận thấy đã làm được một số việc cho thành phố, cho dân, nhưng vẫn còn bao nhiêu ý định dang dở, chỉ với hòai bão xây dựng Hải Phòng sớm trở thành một thành phố văn minh, hiện đại, nhân dân giàu có, văn hóa phát triển...
Ngày 23-6-1986 trên đường từ Hải Phòng lên Hà Nội họp, đến cầu Lai Vu lúc 6 giờ chiều, nghe đài Tiếng nói Việt Nam công bố quyết định của Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng, trong đó có tôi là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương...
Tôi lên đến số 8 Chu Văn An, có đồng chí gặp tôi đã chào Bộ trưởng và chúc mừng. Trong lúc đó tôi chỉ buồn vì sau 36 năm tôi lăn lộn sống chết với đất, với người, nay phải rời xa Hải Phòng, chẳng khác gì phải rời tổ ấm.
Đúng 36 năm chẵn! Tháng 6-1950 tôi đến Hải Phòng - Tháng 6-1986 tôi ra đi.
Sao mà bâng khuâng, buồn thế! Nhớ Hải Phòng, nhớ nhiều công trình còn làm dở dang, bao nhiêu nỗi nhớ! Phải chăng đó cũng là cái “tật” của tôi. Khi ở Hải Phòng, mỗi lần thay đổi công tác là tôi rất buồn, có lúc rơi nước mắt, mặc dù được lên chức lên quyền. Tôi làm việc gì, ở đâu tôi cũng yêu mến say sưa với công việc, ra đi còn những công trình làm dở dang nên rất nhớ người, nhớ việc...
Hôm sau đến họp Trung ương, đầu tiên là tôi gặp anh Nguyễn Đức Tâm, phàn nàn việc tôi đã đề nghị không làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương nhưng không được xem xét. Anh Tâm bảo tôi: “Bộ Chính trị bàn kỹ rồi. Không có người. Còn anh làm Bộ nào mà chẳng được...”
Tôi phải chấp hành. Sau một tháng bàn giao, tôi về làm Bộ trưởng Ngoại thương, một lĩnh vực mới, một địa bàn mới...
Hồi ký Đoàn Duy Thành - Chương 7
Tòng chính tại thủ đô
Tháng 7-1986 tôi về Hà Nội nhận nhiệm vụ Bộ Trưởng Bộ Ngoại thương.
Đến Hà Nội được 2 ngày, đồng chí Lê Đức Thọ gọi tôi đến nhà riêng để bảo ban công việc mới. Sau một vài câu hỏi han về sự bàn giao công việc ở Hải Phòng, anh Thọ đi ngay vào công việc. Anh nói:
- Cậu lên Hà Nội, bây giờ chưa nên đi vào công việc của Bộ ngay, mà cần đi xuống cơ sở các tỉnh, thành phố để nắm tình hình. Khi nắm được tình hình các địa phương rồi, sẽ về Bộ nắm tình hình bộ máy tổ chức của Bộ. Vì ở trên Trung ương bảo thủ trì trệ lắm! Nếu không, sẽ bị bộ máy trên này bao vây, mình lại làm theo lối cũ, sa vào tình trạng quan liêu bàn giấy, xa rời quần chúng như một số cán bộ ở địa phương được điều lên Trung ương, không phát huy được tác dụng!
Anh kể tên một số cán bộ làm ví dụ. Tôi cảm ơn anh và làm theo chỉ thị của anh. Nhưng ý tôi hơi khác. Mình ở địa phương mới lên, muốn ở lại Bộ nắm tình hình chung, không riêng gì Bộ mà cả Trung ương, Chính phủ, các ngành, xem cung cách làm ăn ở trên này ra sao, rồi sẽ đi địa phương thì tốt hơn. Tuy vậy tôi vẫn chấp hành ý kiến anh Thọ Sau một tuần ở Văn phòng Bộ, họp sơ kết 6 tháng hết 3 ngày - Bàn giao công việc với anh Lê Khắc, nguyên Bộ trưởng và nắm sơ qua tình hình Văn phòng Bộ hết 3 ngày.
Tôi với anh Lê Khắc biết nhau từ lâu, nên việc bàn giao, trao đổi công việc thuận lợi, vui vẻ. Anh tâm sự với tôi: “Mình được anh Nguyễn Lam, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế cho biết là mình vẫn ở lại làm Bộ trưởng. Hôm nghe thông báo trên đài, mình mới biết ông lên thay mình...”. Rồi anh nói sang chuyện bàn giao công việc. Anh Lê Khắc nguyên là Phó ban Tổ chức Trung ương, sang làm Ngoại thương, nên anh chú ý nhiều về công tác cán bộ, rồi mới đến công tác nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Anh kể đã sang làm Bộ trưởng được 6 năm 6 tháng. Nhưng không làm được nhiều việc rõ rệt, vì quân của “Lý Ban” nó phá quá! Mình với cậu Tu, Thứ trưởng tổ chức hướng dẫn nhân dân trồng được 2 vạn ha cây điều ở Tây Nguyên và Nam Bộ (đào lộn hột) là đáng kể hơn cả. Anh phân tích cho tôi nghe về năng lực trình độ từng Thứ trưởng.
Khi tôi về còn 4 thứ trưởng là các anh: Nguyễn Tu, Hoàng Trọng Đại, Nguyễn Mạnh Cầm, Tạ Cả. Còn các anh Nguyễn Văn Đào, Nguyễn Chanh đã về hưu hoặc chuyển công tác. Rồi anh nói về đội ngũ cán bộ chủ chốt: Vụ Trưởng, Vụ Phó, Chánh Phó Giám đốc các Tổng công ty... Nghe anh em kể lại, anh rất nghiêm khắc với cán bộ, nhất là những cán. bộ quan hệ nhiều với anh Lý Ban, Thứ trưởng Thường trực cũ. Trong bộ có một văn vần, do anh em sáng tác:
Thời tiết năm nay Khắc nghiệt ghê
Chanh rụng, Đào rơi, hoa Đại héo!
Cầm về, Tu sửa, chốn vườn hoang...
Anh bảo tôi:
- Các tay thứ trưởng này đá lẫn nhau ghê quá! Tôi đã bảo các cậu ấy không khác gì đàn ngựa nhốt chung một chuồng...
Qua anh nói, tôi vừa buồn cười, vừa nhớ mấy anh em bạn làm ngoại thương khuyên tôi đừng nhận làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, rắc rối lắm, nhất là mình ở nhà quê lên, không “đọ” nổi họ đâu.
Nhưng biết làm thế nào? Tổ chức đã quyết rồi cứ làm đã...
Sau một tuần ở văn phòng Bộ, tôi vào nắm tình hình các tỉnh miền Nam, nơi có nhiều hàng hóa xuất nhập khẩu, các công ty lớn của Bộ cũng đóng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đúng chỉ thị của anh Lê Đức Thọ, tôi công tác ở miền Nam khoảng hai tháng. Khi anh Ba sắp mất tôi mới ra Bắc.
Dự lễ tang anh Ba xong (10-9-1986 anh Ba qua đời) tôi tiếp tục đi các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ.
Trong dịp đi công tác các tỉnh phía Nam tôi nhận thấy có rất nhiều việc thuộc Bộ Ngoại thương phải giải quyết, trong đó nổi bật việc xuất cà phê sang các nước Liên Xô và Đông Ấu. Tổng số lượng xuất có 15.000 tấn/năm mà năm nào ta cũng không hoàn thành, năm sau phải trả nợ năm trước. Trong chuyến đi này có đồng chí Tu, Thứ trưởng, đồng chí Nguyễn Xuân Quang, Tổng Giám đốc Tổng công ty Tổng hợp II của Bộ, đồng chí Nhật Hồng, Giám đốc Vietcombank Sai gon, đồng chí Vinh, Chánh văn phòng Bộ, và một số cán bộ của Bộ. Vấn đề bức xúc lúc đó là cà phê sắp đến mùa thu hoạch, nhưng giá thu mua quá rẻ, mua chịu của dân Dark-Lak, Gia Lai, Kontum, nhất là Dark-Lak, thì không thu mua được. Có gia đình tôi đến thăm còn 4, 5 tấn cà phê vụ trước, đóng vào bao, vào cót, để chờ giá cao mới bán. Trong khi đó giá bán cà phê cho các nước tư bản đang lên, từ 2.000 USD/tấn đến 2.700 USD/tấn. Còn giá cà phê ta mua, dùng hàng hóa đối lưu, tính ra khoảng 600 USD/tấn, mà ta lại mua chịu. Tôi quyết định mỗi gia đình có cà phê bán cho Nhà nước 50%, còn 50% cho bán sang thị trường các nước tư bản. Mọi người lúc đó mới đổ cà phê ra bán chịu cho Nhà nước 50%, còn 50% bán cho thị trường tư bản. Nhân dân phấn khởi, các đồng chí Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Dark-Lak phấn khởi. Tôi nhớ lúc đó đồng chí Tư Trương, Phó chủ tịch UBND tỉnh Dark-Lak phụ trách kinh tế và đồng chí Chính, Giám đốc công ty xuất nhập khẩu tỉnh, vô cùng phấn khởi về chủ trương này. Hàng ngày mua được cà phê là cho chuyển xuống thành phố Hồ Chí Minh để xuống tàu Liên Xô đang đợi ở cảng...
Trong lúc đang say sưa vận dụng linh hoạt việc mua cà phê rất có hiệu quả, tôi được điện của Văn phòng Chính phủ cho biết là phiên họp Thường vụ Hội đồng bộ trưởng anh Đỗ Mười bảo: “Ông Thành đang làm hỗn loạn tình hình mua cà phê ở Tây Nguyên, làm loạn thị trường v.v...”. Tôi lờ đi, không trả lời, vì đó chỉ là thông tin. Văn phòng Bộ cũng điện vào tương tự như vậy.
Hôm sau tôi nhận được điện thoại trực tiếp của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng, hỏi về việc này. Tôi báo cáo tóm tắt tình hình với anh Tô, cách giải quyết cụ thể và có kết quả rõ rệt. Còn ai đó bảo tôi làm loạn thị trường là không có căn cứ, nếu làm sai, tôi xin cách chức Bộ trưởng Bộ Ngoại thương. Anh Tô nói: “Tôi cũng nghe có người nói như vậy, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Đồng chí cứ giải quyết xong công việc, về báo cáo...”.
Không ngờ kết quả vượt quá yêu cầu, đến giữa tháng 12-1986 ta đã giao xong cà phê cho Liên Xô và các nước Đông Au, không những thế mà còn trả hết nợ cà phê những năm trước tồn đọng lại... Thế mà mãi hết vụ cà phê 1987, cũng theo phương thức năm 1986, còn làm tốt hơn nhiều, do đó mới hết dư luận “ông Thành làm loạn thị trường miền Nam”. Ngày nay thỉnh thỏang gặp lại anh Tư Trương, anh Chính, anh Ba Quang chúng tôi còn nhắc lại câu chuyện xuất cà phê sang thị trường Liên Xô và Đông Âu năm 1986 và 1987.
Ra đến Hà Nội được 2, 3 ngày thì anh Ba mất. Tôi chạy lại gia đình anh. Chị và các cháu xúm lại hỏi tôi đi đâu mấy tháng: “Lúc anh Ba yếu nặng chú không lại?”. Tôi nói chuyện đi công tác miền Nam nên thất lễ với anh Ba trong những ngày cuối cùng. Cả nhà anh Ba lo lắng, nhất là mấy cháu gái: Cừ, Muội, Hồng, các con rể Lê Bá Tôn, Hồ Ngọc Đại. Nói là cháu, nhưng các cháu chỉ kém tôi 5,7 tuổi. Tất cả xúm lại hỏi tôi và lo lắng:
- Ba cháu mất rồi, liệu họ... có giết gia đình nhà cháu không?
Tôi nói:
- Tại sao các cháu lại có ý nghĩ lạ như vậy? Ai dám hại nhà mình? Ba cháu là con người vĩ đại, một nhà hiền triết mới kế nghiệp được Cụ Hồ, giải phóng miền Nam. Không có Ba làm sao giải phóng được miền Nam, thống nhất được đất nước, không để xảy ra lắm máu? Ai dám hại gia đình nhà mình? Đừng nghĩ linh tinh. Đảng mình là Đảng vĩ đại, nhân dân yêu quý Ba các cháu, sao lại nghĩ vớ vẩn như vậy? Các cháu yên tâm, chú nghĩ không bao giờ có chuyện đó. Còn bao nhiêu người có mặt... ai dám làm bậy?
Bấy giờ các cháu mới yên tâm. Hồ Ngọc Đại nói chen vào:
- Còn bao nhiêu các chú... Họ chẳng dám làm bậy đâu!
Sau đó, tôi mới tìm hiểu, tại sao có chuyện hoảng loạn tại gia đình anh Ba như vậy, khi anh qua đời... Đó là những người có dụng ý chia rẽ, nói phe cánh anh Lê Đức Thọ và Trần Xuân Bách định ám hại gia đình anh Ba. Tôi nghĩ không bao giờ có thể như thế được Đảng ta được Bác Hồ xây dựng và lãnh đạo đội ngũ cốt cán cách mạng, đã làm nên bao kỳ tích, không thể có những hành động “đồi bại” như thế được. Mấy ngày đó tôi thường xuyên lại nhà anh Ba, để ổn định tư tưởng cho các cháu, nhất là cháu Cừ, vợ đồng chí Lê Bá Tôn, lo lắng nhất...
Tôi cũng chỉ mới biết có sự bất hòa giữa anh Ba và anh Lê Đức Thọ, cách đấy khoảng 4, 5 tháng. Vì tôi ít quan lâm, tôi tin các anh đã có quá trình rèn luyện, lại là người gần gũi Bác Hồ, chắc chắn các anh luôn luôn đoàn kết bên nhau để thực hiện và xây dựng sự nghiệp Bác để lại.
Khoảng tháng 5-1986 tôi đến thăm anh Ba ở Hồ Tây, gần đến khu biệt thự tôi gặp xe anh Thọ đi ra. Tôi vào thăm anh Ba, có anh Bùi San ở đó. Thấy tôi đến, anh Bùi San chào anh Ba ra về. Tôi bắt tay anh Bùi San và vào thăm anh Ba. Anh Ba tỏ vẻ hơi bực tức nói:
- Đấy nó đấy, tôi vừa đuổi nó ra rồi...
Tôi suy nghĩ mãi mới biết là xe anh Thọ vừa ra... Tôi không nói gì, chỉ thăm sức khoẻ anh, nói tóm tắt một vài việc lớn của Hải Phòng để báo cáo với anh, vì lúc này tôi thấy anh Ba mệt nhiều. Tôi muốn để anh nghỉ ngơi, nên xin phép ra về. Nhưng anh Ba bảo tôi ngồi lại nói chuyện, rồi anh nói:
- Mấy anh lại đây bảo tôi viết di chúc, tôi nói không cần. Việc viết di chúc chỉ dành riêng cho Bác. Còn tôi, tôi nghĩ Trung ương các đồng chí đã trưởng thành cả rồi, viết di chúc chỉ gây khó khăn cho các đồng chí. Mình nói thế này, nhưng khi Trung ương bàn lại khác, sinh ra phức tạp, mất đoàn kết. Các đồng chí viết sẵn di chúc bảo tôi ký, tôi không ký.
Rồi anh bảo tôi:
- Tôi đã bàn với một số đ/c Bộ Chính trị, kỳ Đại hội này đưa anh Linh hoặc anh Võ Chí Công thay tôi làm cả khóa hoặc nửa khóa rồi để đồng chí Thành làm. Còn anh Tố Hữu sau đổi tiền không còn khả năng làm Tổng Bí thư...
Tôi đợi anh Ba nói hết, và suy nghĩ. Những lần trước, khi về thăm Hải Phòng hoặc anh gọi tôi lên nhà chơi, anh Ba có nhắc vấn đề này, tôi đều nói:
- Nước ta còn ảnh hưởng lễ giáo phương Đông, lớp trẻ không thể qua mặt các đồng chí lão thành đi trước mình hàng thập kỷ...
Anh Ba ngắt lời tôi, mỉm cười và nói:
- Tôi đã bàn với một số đồng chí Bộ Chính trị, đồng chí Thành thì các đồng chí đồng ý...
Lúc đó anh mệt, tôi không dám nói dài với anh, chỉ nói gọn:
- Rất cảm ơn anh, nhưng theo tôi nghĩ thì rất khó...
Anh lại vui vẻ đứng dậy, vỗ vai tôi và nói: “Cứ làm việc cho tốt...”. Tôi chào anh ra về, chỉ nghĩ nhiều về bệnh tật của anh, và cũng hơi buồn vì trong các anh đã có sự rạn nứt... sẽ gây ảnh hưởng xấu đến đoàn kết nội bộ của Đảng.
Sau lễ tang Tổng Bí thư Lê Duẩn, tôi làm việc ở Bộ ít ngày, lại tiếp tục đi nắm tình hình các tỉnh thành phố phía Bắc. Trong lúc đó tình hình chuẩn bị Đại hội 6 khẩn trương. Đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bổ sung vào Bộ chính trị và Thường trực Ban Bí thư, cùng chuẩn bị Đại hội Đảng, chủ yếu là về văn kiện Đại hội, còn chuẩn bị tổ chức cán bộ do anh Lê Đức Thọ phụ trách.
Đi các tỉnh miền Bắc, nắm tình hình một vài ngày, tôi lại về Bộ làm việc. Các tin tức về việc chuẩn bị Đại hội 6 rất sôi nổi, nhất là vấn đề nhân sự Đại hội. Những đồng chí thân thiết với tôi đến chơi, thông tin cho tôi biết về thế lực chống tôi, đang hoạt động rất ráo riết với mục tiêu:
- Số một: đánh bật tôi ra khỏi Trung ương
- Thứ hai: phải làm mất rất nhiều phiếu để tôi không được giới thiệu vào Bộ Chính trị. Đồng thời các đồng chí bảo: Giá là các anh khác, họ sẽ ở lại Hà Nội theo rõi tình hình để đối phó. Tôi cứ bỏ nhiệm sở đi về các tỉnh nắm tình hình, đó là mắc mưu anh Lê Đức Thọ.
Tôi cười và nói: “Mình đã có quan điểm của mình rồi...”. Có đồng chí còn nóng với tôi, nói: “Ông định bỏ chúng tôi hay sao?” Thế mới khó. Tôi phân tích lại cho các đồng chí nghe: “Chúng ta phải làm cho thành công chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, không bị mất nước. Chứ tranh giành chức vụ, mất đoàn kết thì rất lôi thôi...”.
Trong lúc gần đến Đại hội, đồng chí Tạ Cả, thứ trưởng phụ trách tổ chức đến nói với tôi: “Một đồng chí lãnh đạo lâu năm ở Ban Tổ chức Trung ương, nói qua đồng chí cán bộ Ban Tổ chức Trung ương theo rõi Bộ Ngoại thương, bảo tôi nói lại với anh: Anh phải rất cảnh giác với những lời khen của anh Mười. Tất cả đều là “đãi bôi”. Anh Tạ Cả là đồng chí quen biết tôi từ lâu, nay đã qua đời, còn hai đồng chí kia vẫn khoẻ mạnh và đang sinh sống ở Hà Nội. Tôi nói với anh Tạ Cả, cảm ơn hai đồng chí đã thông tin cho tôi biết để cảnh giác... Còn tôi quan hệ với anh Mười vẫn bình thường, không tỏ ra một sự khác biệt nào, vẫn như khi tôi còn là cán bộ dưới quyền trực tiếp của anh ấy.
Anh Trường Chinh tuy làm Tổng Bí thư, nhưng tôi cảm thấy chung quanh anh có nhiều người không thực lòng ủng hộ anh. Anh chỉ chủ trì chủ yếu về văn kiện, Báo cáo chính trị trước Đại hội... Tôi cảm thấy anh bị lấn át. Anh thường gọi tôi sang nhà trao đổi những nội dung “đổi mới”, nhất là cách quản lý, lý luận về kinh tế thị trường, kinh tế kế hoạch hóa, hỏi kinh nghiệm xây dựng kinh tế của Nhật Bản và một số nước khác.
Khi trao đổi về nhân sự, anh bảo tôi rằng việc ấy anh Thọ chuẩn bị, chưa đưa ra bàn ở Bộ Chính trị, còn phân tán ý kiến ở những vị trí chủ chốt. Suy nghĩ một lát, anh nói với tôi:
- Nếu tôi tiếp tục làm Tổng Bí thư, tôi đề nghị anh Văn làm Chủ tịch nước, đồng chí phụ trách bên Chính phủ.

Tôi nghĩ có thể anh Ba đã bàn với anh Trường Chinh, hoặc tự anh Trường Chinh chọn tôi, tôi không rõ. Tôi thưa với anh Trường Chinh là:
- Theo tôi nắm được tình hình thì thế lực không muốn để anh làm tiếp Tổng Bí thư rất đông. Tôi thấy rất khó đấy! Tôi xin chân thành cảm ơn anh và đề nghị nên cử anh Mười làm Thủ Tướng vì anh Mười đã làm Phó Thủ tướng lâu năm!
Anh Trường Chính nghiêm nét mặt, tỏ vẻ không đồng ý và nói:
- Anh Mười anh ấy võ biền lắm, đồng chí thấy đấy? Các cuộc họp, tôi nói, anh ta thường chẹn họng tôi.
Và anh nói thêm một vài nhật xét khác về anh Mười...
Tháng 11-1986 Trung ương họp để thông qua các văn kiện chính thức đưa ra Đại hội 6. Tôi đang họp, chiều về thì được đồng chí Trung Thành, chuyên viên cao cấp của Ban Tổ chức Trung ương, làm công tác Tổ chức cán bộ từ 1951, theo dõi vụ việc của tôi cho biết là có thư tố giác tôi khai man lý lịch gồm 9 điểm, trong đó anh Thọ giao cho phải xác minh ngay hai vấn đề mới là: ngày bị bắt và ngày được tha từ Côn Đảo về. Tôi hỏi anh Trung Thành có phải là anh Tô Duy tố giác tôi? Anh Trung Thành hỏi lại tôi:
- Sao anh biết?
- Tôi biết lâu rồi, anh em Hải Phòng nói cho tôi biết, anh Tô Duy, anh Thắng, anh Ái đi sưu tầm hàng năm nay về việc tôi bị bắt, bị tù ở Hải Phòng. Quá nhiều người biết, họ đều nói đến tai tôi. Tôi vẫn còn nghi ngờ, vì tôi đánh giá anh Tô Duy không đến nỗi hành động trái lương tâm như vậy! Nhưng từ hôm anh Đức Lạc, Trưởng ban Tổ chức Thành uỷ Hà Nội, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội (bạn tù với tôi ở trại giam Cát Bi) lại tôi chơi, nói chuyện tỉ mỉ về việc này, tôi mới tin là anh Tô Duy đã làm việc ấy.
Anh Trung Thành bảo tôi đúng là anh Tô Duy. Tôi cung cấp thêm cho anh Trung Thành những vấn đề mới của anh Tô Duy nêu ra và thư của anh Hoàng Chữ gửi cho anh Đỗ Mười. Tôi chỉ được anh Trung Thành ghi sổ tay nói lại, tôi không được xem bản chính.
Mãi sau ngày đối chất 26-2-1993 tôi mới có bản photocopy thư vu khống tôi của anh Tô Duy và anh Hoàng Chữ. Anh Trung Thành và một số cán bộ phải làm khẩn trương hơn một tháng mới có báo cáo chính thức với anh Lê Đức Thọ là mọi việc đã rõ ràng như kết luận 897 ngày 24-10-1984 do anh Võ Chí Công ký.
Thế là ngón đòn vu khống chính trị do anh Tô Duy làm tham mưu bị bước đầu bẻ gãy. Nhưng chưa phải kết thúc. Họ còn đeo đuổi vấn đề này cho đến hôm nay, từng thời kỳ hành động của họ, tôi sẽ trình bày tiếp ở những phần sau...
Trong khi đó những anh chị em cùng cánh với anh Tô Duy dùng cơ sở quen biết của mình ở các tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương ở toàn quốc, thông tin cho các đoàn Đại biểu đi dự Đại hội về những tin thất thiệt liên quan đến lý lịch của tôi. Có những đồng chí Đại biểu đã phẫn nộ về những hành động tuyên truyền xuyên tạc bỉ ổi của họ, như chị Ba Thi đoàn Đại biểu thành phố Hồ Chí Minh, anh Quý - uỷ viên Thường vụ Phó chủ tịch tỉnh Hải Hưng, anh Đức Lạc - Hà Nội v.v... Họ đã trực tiếp gặp tôi thông tin cho biết, và các đồng chí đã phản bác lại những luận điệu vu khống trong các đoàn Đại biểu đi họp Đại hội.
Riêng ở Hải Phòng, Đại hội Đảng Thành phố bầu đại biểu đi họp Đại hội 6 (lúc đó các Uỷ viên Trung ương cũng phải do Đại hội cấp dưới bầu, không như hiện nay Uỷ viên Trung ương là đại biểu đương nhiên) do những người thuộc phe cánh anh Tô Duy, họ tuyên truyền lôi kéo được một số đại biểu, nên tôi bị mất hơn 40 phiếu bầu cử Đại biểu đi họp Trung ương ở Đại hội Hải Phòng.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc, họ tiếp tục tìm cách tuyên truyền xuyên tạc. Anh Tô Duy công khai phát biểu ở đoàn, vu khống lý lịch tôi nhưng đã bị Đoàn ngăn lại, không cho phát biểu vô nguyên tắc.
Họ rỉ tai, nhỏ to thông tin xuyên tạc, vận động các đại biểu Đại hội không bầu cho tôi. Nhiều đồng chí Đại biểu thông tin cho tôi biết. Không những thế, họ còn dung túng cho bà Dung đeo băng trước ngực “đả đảo Đoàn Duy Thành” được đi chung quanh nhà họp Đại hội Ba Đình. Bà Dung là người thế nào? Bà Dung là đảng viên và là mậu dịch viên công ty bách hóa Hải Phòng, bị bệnh thần kinh phân liệt, có mâu thuẫn với chị Đỗ Thị Mận, Phó Chủ nhiệm công ty, là vợ đồng chí Đặng Toàn, Chủ tịch UBND thành phố. Đã nhiều năm bà Dung đến công ty đánh chửi chị Mận, đeo băng đả đảo anh Đặng Toàn. Tôi được phân công giải quyết vụ này. Xét về đời sống bà Dung, không có chồng con, nhà ở không có, phải đi ở nhờ, tôi đã dàn xếp với công ty xếp cho bà Dung một gian nhà ở, nâng cho một bậc lương v.v... Bà Dung không đến cơ quan gây sự đánh chửi chị Mận được khoảng nửa năm, sau đó lại đến tiếp diễn, rồi đi khắp phố chung quanh công ty bách hóa chửi vợ chồng anh Toàn chị Mận. Anh Đặng Toàn lại chạy đến tôi cầu cứu. Tôi mời các đồng chí Bí thư Đảng uỷ công ty và Giám đốc công ty, giao nhiệm vụ phải kiểm điểm và có hình thức kỷ luật với bà Dung. Thế là bà Dung bỏ việc đi kiện khắp nơi, và đeo băng đả đảo tôi.
Ban Tổ chức Đại hội nhiều người biết rõ căn nguyên việc này, đáng lẽ phải dẹp đi mới phải, trái lại cho đó là “dân chủ”, “quyền công dân”, cho đến nơi tiếp dân của Đại hội, đeo băng đả đảo tôi, được đi ngoài đường quanh Hội trường Ba Đình nhằm làm cho các Đoàn đại biểu nhìn thấy. Đó cũng là một việc làm của nhóm anh Tô Duy. Mặc dù khi tỉnh táo, bà Dung vẫn nói tôi là ân nhân của bà ta. Nghĩa là các anh ấy không thực hiện được việc gạt tôi ra khỏi danh sách giới thiệu của Trung ương, thì dùng đủ mọi thứ có thể, tác động vào lá phiếu, không bầu tôi vào Trung ương khóa 6, để đạt được mục tiêu thứ 2 của các anh ấy đề ra.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 khai mạc. Cũng như các lần Đại hội trước, chủ yếu là bàn nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, còn bàn về báo cáo chính trị, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm đã bàn kỹ ở Đại hội các cấp, đến Đại hội chính thức chỉ bàn những vấn đề lớn còn tồn tại đưa ra thảo luận. Thời gian còn lại là bàn về tổ chức nhân sự.
Trong Đại hội, anh Vũ Oanh nói với tôi:
- Anh Lê Đức Thọ “mót” làm Tổng Bí thư lắm đấy!
Lúc đó tôi mới biết. Vì nhiều lần anh Thọ gặp tôi đều nói là Anh “ bị nhiều bệnh không thể đảm đương được nhiều công việc”. Anh Thọ cũng nhiều lần hỏi tôi Tổng Bí thư nên là ai, tôi đều trả lời là tùy Bộ Chính trị quyết định, giới thiệu ra Trung ương chúng tôi sẽ bầu thôi. Ngay trong Đại hội, khi anh Vũ Oanh cho tôi biết ý anh Thọ, tôi cũng vẫn trả lời anh Thọ như vậy. Hôm Ban Chấp hành bàn về nhân sự, anh Thọ gọi tôi sang nhà riêng hỏi tôi về chuyện các đồng chí Trung ương bàn nhân sự Tổng Bí thư thế nào, đã giới thiệu ai chưa? Tôi báo cáo anh Thọ, tổ Trung ương của tôi các đồng chí đều nói không nắm được cụ thể, nên không giới thiệu ai, đợi Bộ Chính trị giới thiệu. Anh Thọ lại hỏi tôi: “Ý cậu thế nào?”. Tôi cũng báo cáo anh Thọ như lần trước và nói thêm vấn đề vị trí Tổng Bí thư rất quan trọng, đặc biệt trong lúc này là phải có uy tín mới qui tụ được toàn Đảng, nhất là anh Ba mới qua đời. Còn chọn ai tùy tiểu ban nhân sự chọn và báo cáo Bộ Chính trị. Tôi không nắm được cụ thể nên không dám giới thiệu cụ thể ai cả. Anh Thọ không nói gì thêm và hỏi sang việc khác...
Khi Đại hội đang họp ở các Đoàn và Tổ, (Đoàn Hải Phòng với Hà Nội là một Tổ, họp ở Văn phòng Ban Tổ chức Trung ương), tôi được đồng chí Đỗ Mười gọi ra ngoài và cùng sang số 4 Nguyễn Cảnh Chân, Văn phòng Trung ương Đảng. Đồng chí dẫn tôi vào một phòng. Khi đi lên đường tôi suy nghĩ không rõ anh Mười có việc gì. Tôi đoán có lẽ anh Mười làm tư tưởng cho tôi để rút lui khỏi danh sách Trung ương giới thiệu. Một số đồng chí thôi Uỷ viên Trung ương khóa này, đều được từng đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị gọi đến làm tư tưởng để rút lui. Tôi nghĩ có lẽ tôi cũng vậy. Nhưng khi vào một phòng, ngồi nói chuyện, anh Mười nêu vấn đề anh Võ Nguyễn Giáp (anh Văn) ra nói về lý lịch anh Văn, năm 16 tuổi đã được thực dân Pháp cho sang Pháp học 6 tháng. Anh Mười bảo tôi về nói cho Đoàn Đại biểu Hải Phòng biết và những ai quen biết ở Đoàn khác cũng nói cho các đồng chí ấy biết... Rồi anh Mười đi ngay.
Tôi lại trở lại tổ họp tiếp. Tôi suy nghĩ, không hiểu tại sao lúc này anh Mười lại nêu vấn đề lý lịch anh Văn ra. Việc này anh Trường Chinh đã nói với tôi mấy lần, và anh Trường Chinh đã kết luận về tiểu sử anh Văn từ năm 1941 - 1942, kể cả việc làm con nuôi Martin, Chánh mật thám Đông Dương, cũng được kết luận là không có, chỉ do những phần tử xấu tung ra. Nay lại có vấn đề đi Pháp học 6 tháng. Tối hôm đó tôi đến nhà anh Trường Chinh hỏi việc này anh Trường Chinh bảo tôi: “Làm gì có việc đó...”. Tôi về nhà, kể lại chuyện cho nhà tôi nghe. Lúc này chúng tôi ở nhờ một phòng của Bộ Ngoại thương. Tôi mới lên, nhà tôi đi theo để nấu nướng cho và nhà tôi cũng là đảng viên lâu năm, rất quan tâm đến việc một số người vu khống tôi. Nghe tôi kể xong, nhà tôi nói ngay:
- Em đã nói với anh nhiều lần, anh thương người và tin người quá đáng, lại thêm tính “phổi bò”, có gì nói hết. Sống ở Hà Nội họ khôn lắm, anh phải đề phòng. Còn việc anh Mười nói với anh, anh cứ lờ đi. Có khi anh Mười chỉ tung ra tin như thế, để anh biến thành cái loa cho anh ấy. Anh Văn và những người thân anh Văn chỉ biết anh đi tuyên truyền xuyên tạc lý lịch anh Văn, họ sẽ quay sang đánh anh. Như vậy anh Mười bắn một phát tên, được cả hai đích.
Tôi cười và khen nhà tôi:
- Em cảnh giác hơn anh.
Nhà tôi bảo:
- Từ hôm cái ông tổ chức báo cho anh biết ông Mười khen anh chỉ là “đãi bôi” thôi, nên em thấy anh Mười nói gì với anh mà em biết, em đều phải suy nghĩ xem ý tứ anh Mười thế nào, không tin ngay như anh đâu.
Khi bầu cử Ban Chấp hành Trung ương, tôi vẫn trúng Trung ương chính thức, nhưng phiếu thấp, chỉ hơn đồng chí thấp nhất cuối cùng (đồng chí Lữ Minh Châu có 42 phiếu). Như vậy nhóm người chống đối vu khống tôi đạt được yêu cầu. Với hơn 50% số phiếu bầu thì ít ai giới thiệu vào Bộ Chính trị, thường phải là 70% trở lên. Nhưng theo tôi được biết cũng có nhiều đồng chí uỷ viên Trung ương giới thiệu tôi vào Bộ Chính trị, nhưng ban nhân sự không giới thiệu.
Đến tháng 1-1987, Trung ương bầu bổ sung Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (Phó Thủ tướng), Bộ Chính trị lại giới thiệu tôi để đưa ra Trung ương lấy ý kiến. Lúc này tôi thấy anh Lê Đức Thọ chú ý tôi khác thường.
Ngay hôm họp Bộ Chính trị tôi được mời dự, anh Thọ nói:
- Anh Thành nay đã là Phó Thủ tướng, cần nắm tình hình và đi vào công việc...
Tôi rất bỡ ngỡ, hỏi các đồng chí Tổ chức Trung ương, vì tôi không biết gì về tin này cả. Các đồng chí Tổ chức cho biết là Bộ Chính trị đã nhất trí tất cả rồi, trừ anh Mười, nói để suy nghĩ thêm, chưa có thư trả lời chính thức.
Đến ngày 17-2-1987 tôi được Hội đồng Nhà nước phê duyệt là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trương. Tôi vẫn kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương vì chưa có người thay.
Khi tôi nhận thêm nhiệm vụ mới, phụ trách lưu thông phân phối, thì cũng là lúc giá-lương-tiền đang bê bối, kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát phi mã 780% năm 1986.
Tôi cùng với văn phòng Trung ương Đảng và Văn phòng Chính phủ chuẩn bị dự thảo Nghị quyết Trung ương lần thứ hai khóa 6, họp vào tháng 4-1987. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Mình mới lên nhận nhiệm vụ, ngân sách cạn kiệt, dự trữ ngoại tệ tại Ngân hàng Nhà nước chỉ còn hơn 1 triệu $US. Lương thực rất khó khăn. Liên Xô và các nước Đông Âu viện trợ rất hạn chế... Tôi chủ trì biên tập dự thảo Nghị quyết với nội dung 4 giảm:
- Giảm bội chi ngân sách.
- Giảm tốc độ lạm phát.
- Giảm tốc độ tăng giá.
- Giảm khó khăn về đời sống của người ăn lương, của lực lượng võ trang và nhân dân lao động nói chung.
Các biện pháp đẩy mạnh sản xuất, nới lỏng đầu bán ra, giá nguyên liệu bán cho xí nghiệp vẫn giữ giá như cũ, nhưng bán ra theo giá thị trường, nhập một số hàng tiêu dùng và cho phép cán bộ công nhân viên đi công tác nước ngoài được mua hàng hóa theo tiêu chuẩn quy định không phải nộp thuế, để tăng thêm hàng hóa đang khan hiếm.
Về nông nghiệp:
- Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo chỉ thị 100, cải tiến quản lý nông nghiệp theo hướng mở rộng khoán ra toàn quốc.
Sau khi Nghị quyết được chính thức thông qua tháng 4-1987, tổ chức Hội nghị phổ biến cho cán bộ chủ chốt toàn quốc ở Hội trường Ba Đình, tôi phổ biến xong, có một số nhà kinh tế, và anh em hỏi tôi: trong điều kiện khó khăn này lấy gì mà làm được? Có nhà kinh tế bảo tôi là nên sửa 4 tăng như đồng chí Trần Nhật Quang v.v. Mọi người hoan nghênh nghị quyết, nhưng không biết dùng cách gì mà giảm được. Khi tôi đến Câu lạc bộ Thăng Long nói chuyện, các đồng chí lão thành cách mạng cũng lo lắng cho tôi. Phụ trách lưu thông phân phối, ngân hàng, tài chính lúc này là vô cùng khó khăn. Tôi nói vui và cũng là lời hứa hẹn. “Nếu thành công, sang năm 1988 tôi sẽ đến báo cáo với các cụ”. Không những lo lắng, mà có người làm ca dao châm biếm Nghị quyết Trung ương 2:
Trăm năm trong cõi người ta,
Đầu vào thì cứng, đầu ra thì mềm
“Hộp đen” thì cứ phồng lên,
Cấp dưới cứ dẫy, cấp trên cử đè
Anh Phạm Hùng gặp tôi nói: “Nghe người ta nói, anh làm bài ca dao này phải không? Vì bài này từ Hải Phòng mà ra”. Tôi thưa, với anh là tôi không làm bài này, nhưng khi anh em đọc cho nghe, tôi có sửa vài từ cho bớt “tục”.
Ngay kỳ họp Quốc hội tháng 7-1987 anh Nguyễn Văn Linh, anh Phạm Hùng đều có bài vịnh lại bài ca dao trên, đọc trước Quốc hội cho Đại biểu cùng nghe.
Tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được 6 tháng thì Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng nghỉ, anh Phạm Hùng lên thay vào tháng 7-1987.
Trong thời gian làm việc với anh Tô (tên thân mật của anh Phạm Văn Đồng), anh hay bàn chuyện trọng đại quốc gia với tôi. Anh biết tôi đã là cán bộ đón anh ở hội nghị Fông-ten-nơ-bơ-lô từ Pháp về qua ga Lai Khê, quê tôi; và sau đó cũng tham gia việc chuẩn bị đưa, đón anh qua đường 5 thuộc đất Kim Thành để đi Việt Bắc. Sau đó tôi lại cũng tù ở Côn Đảo, dù tôi là lớp tù sau anh nhiều thập kỷ và như người xưa thường nói: “Đồng bệnh tương lân”, anh cũng bị bệnh phổi lúc 17, 18 tuổi rất nặng, tưởng không qua được. Tôi thì bị địch đánh gẫy xương sườn số 9, sưng phổi, nước vàng chảy ròng rã 5 năm mới hết. Bởi vậy trong các cuộc đến làm việc với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tuy anh hơn tôi 26 tuổi nhưng anh em bàn chuyện rất vui. Anh đáng tuổi đẻ ra tôi, nhưng tôi vẫn gọi anh bằng anh hoặc Chủ tịch, hoặc Thủ tướng. Có lúc vui chuyện, tôi nói: “Trong cái nhà Chủ tịch phủ, bao nhiêu năm không trang bị lại gì cả, vẫn những quạt trần Marelly của Ý sản xuất, kêu “cọc..., cọc... cọc”, hố xí, vệ sinh cũng vậy, tất cả đều thể hiện tính “bảo thủ không đổi mới”. Anh Tô cười khà khà vui vẻ nói: “Các đồng chí còn trẻ, phải đổi mới cả chỗ làm việc này nữa mới được” rồi anh lại cười. Tôi vẫn nghĩ anh là nhà “hiền triết”, nhà ngoại giao, hơn là nhà quản lý. Có hôm ngồi chờ đón khách ngoại ở phòng khách lớn của Chủ tịch phủ, tôi hỏi anh kỳ họp Quốc hội tháng 7-1987 anh sẽ nghỉ, anh đã chọn xong người thay chưa? Anh bảo: “Còn đang bàn...”.
Tôi hỏi: “Anh Đỗ Mười thế nào?” Anh suy nghĩ đến 2,3 phút, rồi trả lời gọn có 3 từ: “Chỉ có phá!” Tôi ngồi yên không hỏi gì thêm, anh cũng không nói gì thêm... rồi chúng tôi chuyển sang câu chuyện khác, khi khách chưa đến.
Cách đánh giá của các anh lãnh đạo chủ chốt với anh Mười ra sao tôi đều biết cả, từ anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh, anh Lê Đức Thọ, anh Nguyễn Văn Linh... Nhưng anh Đỗ Mười vẫn làm cả Thủ tướng và Tổng Bí thư hơn 10 năm. Nhất là anh Phạm Văn Đồng biết rất rõ anh Mười, anh lại là người qua đời sau các anh trên. Sau này tôi mới hiểu một chi tiết nhỏ, là anh Mười làm thêm khóa thứ hai Tổng Bí thư, anh Tô phản ứng rất gay gắt. Tuy thế phản ứng của nhà lãnh đạo có tầm cỡ, nhà hiền triết, nhà ngoại giao cũng khác những người khác. Anh đã nói với 5 đồng chí là cấp tướng, nếu anh Mười không chịu thôi giữa nhiệm kỳ các đồng chí phải tham gia “hạ” anh Mười xuống... Việc này qua cơ quan nắm tin tức, anh Đỗ Mười đã được báo cáo lại. Như vậy sự phản ứng của anh Tô cũng quyết liệt. Nhưng lời nói việc làm của anh nhẹ nhàng, không thô bạo như những người thiếu học vấn...
Tháng 7-1987 Quốc hội chuẩn y để anh Tô nghỉ, vì tuổi cao. Anh Phạm Hùng thay làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Anh Đỗ Mười thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về thường trực Ban Bí thư.
Tôi cũng có số “hên” và không “hên”. Làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có 15 tháng, một nửa thời gian làm với Chủ tịch Phạm Văn Đồng, một nửa thời gian làm với Chủ tịch Phạm Hùng. Tôi làm việc với hai Chủ tịch họ Phạm để lại trong tôi nhiều kỷ niệm, nhiều “dấu ấn” sâu sắc, không bao giờ quên. Tôi cũng học được ở hai anh những kinh nghiệm trường đời, nhân tình thế thái, mà cả hai đã trải qua. Các anh đã kể lại mọi chuyện cho tôi nghe, như tài sản quí bàn giao cho thế hệ trẻ. Ba anh em cùng tù Côn Đảo. Anh Phạm Hùng còn được đọc báo cáo của tôi năm 1953 khi anh làm Bí thư Đặc khu uỷ miền Đông Nam Bộ.
Cuối năm 1987, có cuộc họp liên tịch giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng để kiểm điểm thực hiện nghị quyết 2 của Trung ương và phương hướng thực hiện tiếp...
Tôi trình bày báo cáo kiểm điểm thực. hiện nghị quyết 2 và biện pháp thực hiện tiếp. Về biện pháp có nhiều vấn đề, tôi nêu một vài vấn đề chủ yếu:
- Xuất Nam, nhập Bắc về lương thực, đỡ tốn phí về vận tải.
- Xóa bỏ các trạm ngăn sông, cấm chợ, cho lưu thông hàng hóa trong cả nước, cả nước là một thị trường thống nhất.
- Nhập vàng, kinh doanh vàng bạc, tạo ra thị trường vàng, để vàng làm “kim bản vị”.
- Chấp nhận đồng đô-la Mỹ được chuyển đổi theo giá thị trường, có hướng dẫn của Ngân hàng...v.v.
Thảo luận trong 2 ngày, các vấn đề khác được chấp nhận, riêng nhập vàng bị anh Đỗ Mười phản đối. Khi tôi trình bày xong báo cáo, anh Phạm Hùng đứng dậy cười vui vẻ:
- Ông Thành chơi sang nhỉ, nhập vàng cơ à?
Khi kết luận Hội nghị, anh Nguyễn Văn Linh - Tổng Bí thư chỉ kết luận những vấn đề không có ai phản đối, còn vấn đề “vàng” anh không nhắc đến.
Kết thúc hội nghị tôi lo quá? Vì vấn đề nhập vàng tuy là một mặt hàng nhập, nhưng nó có nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch nhau lớn. Ta cấm tư nhân kinh doanh vàng bạc, nhà nước được phép kinh doanh, nhưng không được phép nhập vàng thỏi, chỉ khai thác tại nội địa được mỗi năm khoảng 2 tấn vàng cốm (sa khoáng), đem ra kinh doanh, nên giá vàng trong nước và thế giới chênh lệch nhau ba lần. Nhập vàng sẽ lãi lớn, bổ sung ngân sách, chống được lạm phát.
- Kinh doanh vàng bạc, tạo ra mặt hàng mới phong phú, bổ sung cho quỹ hàng hóa. Mặt hàng đặc biệt này được nhân dân ta ưa thích, dùng vàng làm đồ trang sức, tích trữ vàng...
- Phá bỏ được thị trường coi vàng như thứ cấm kỵ, chỉ có giai cấp giàu có mới dùng, còn người lao động không được dùng, tự mình đẻ ra kỳ thị dân lộc mình, coi vàng là thứ ghê gớm quá.
Trong thời tạm chiếm ở phía Nam, người dân bán trầu cau cũng có hàng đấu vàng. Như mẹ vợ chú Đào Hữu Thăng, di cư vào miền Nam, chồng chết, chỉ bán trầu cau, khi giải phóng gả chồng cho con gái lấy chú Đào Hữu Thăng là bạn tù của tôi, bà mẹ vợ cho con gái một đấu vàng toàn nhẫn là nhẫn, đào ở gốc cây đu đủ lên. Chú Thăng được một đấu, cân được hơn 1 kg, khoảng 30 cây. Khi tôi vào chơi nhà ở thành phố Hồ Chí Minh, chú Thăng mở tủ cho tôi xem. Thế thì việc kinh doanh vàng bạc để mở rộng kinh doanh, trước hết quốc doanh thu lãi cho ngân sách nhà nước, sau cho tư nhân kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, ta có thêm dự trữ vàng trong dân, vị thế kinh tế, vị thế chính trị của nước ta có kim loại quí bảo lãnh cho nền kinh tế, điều đó rất cần thiết cho kinh tế thị trường.
Đêm về nằm ngủ tôi buồn quá. Sáng hôm sau, tôi lại trình bày tiếp với anh Phạm Hùng. Anh Hùng bảo tôi: “Sang báo cáo anh Linh, còn tôi đã đồng ý với anh từ hôm anh trình phương án”. Tôi đề nghị anh Phạm Hùng bảo anh Sáu Dân cùng đi với tôi sang báo cáo với anh Linh cho mạnh. Anh Phạm Hùng xua tay: “Đừng, đừng, mình anh sang là đủ. Anh Sáu cùng đi có khi lại không hay”... Hôm đó tôi mới hiểu giữa anh Linh và anh Sáu có vấn đề với nhau. Sau này tìm hiểu, tôi mới biết được ý của anh Phạm Hùng.
Tôi sang trình bày với anh Linh ngay. Vì vấn đề này tôi đã suy nghĩ từ lâu, nhất là những lý luận về tài chính tiền lệ của Keynes, nhà kinh tế tư bản nói nhiều về kinh tế thị trường và sự can thiệp của nhà nước vào thị trường như thế nào.
Tôi đến nhà anh Linh. Sau 15 phút tôi trình bày, anh Linh đồng ý ngay. Tôi vội nói:
- Hôm qua sao anh không kết luận cho tôi dễ làm việc. Vì có quyết định tập thể của Bộ Chính trị rất quan trọng.
Anh Linh ngắt lời tôi:
- Ấy chết, nếu hôm qua tôi kết luận, có người phản đối thì hôm nay tôi sao dám đồng ý với anh. Anh thấy đấy, những “tay to mồm” phản đối là khó xử lắm!
Tôi thầm phục anh. Tổng Bí thư thông minh, thế mà chị Huệ cứ hay nói với tôi, có lần có mặt cả anh Linh: “Anh Linh nhà tôi “đần” lắm, anh làm việc với anh Linh, anh giúp đỡ anh ấy...”. Anh Linh vỗ vai tôi, vừa cười vừa nói: “Bà Huệ ấy mà...?”
Anh đứng dậy bắt tay tôi và bảo:
- Anh với tôi cùng anh Hai Hùng chịu trách nhiệm trước Trung ương. Cứ làm, không cần phổ biến rộng. Đây chỉ là một mặt hàng, anh Hùng quyết là đủ. Nhưng nó là mặt hàng “vàng” nên Tổng Bí thư phải có ý kiến.
Anh rất vui tiễn tôi ra cửa...
Tôi ra về rất phấn khởi, báo cáo lại với anh Phạm Hùng và anh Võ Văn Kiệt. Hai anh phân công tôi phụ trách. Tôi đề nghị: Bộ Ngoại thương làm cũng được, nhưng mặt hàng vàng để Ngân Hàng nhà nước làm thì phù hợp với chuyên ngành hơn. Anh Phạm Hùng bảo tôi sang bàn với anh Lữ Minh Châu, Tổng Giám đốc Ngân hàng Nhà nước, lúc đó chưa gọi là “Thống đốc”. Tôi sang bàn với anh Lữ Minh Châu, anh Châu nói: “Đây là vấn đề mới, nên để bên Bộ Ngoại thương làm. Anh là Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, phụ trách trực tiếp tốt hơn...”. Tôi về báo cáo lại anh Hai Hùng. Anh Hùng, anh Sáu Dân cùng nói: “Ông Thành và Bộ Ngoại thương làm là hợp lý...” Tôi phải nhận và tổ chức bộ phận chuyên trách nhập vàng do đồng chí Đinh Phú Định, thứ trưởng, đồng chí Uyển, Vụ trưởng xuất nhập khẩu giúp tôi thực hiện cụ thể. Để lấy thực tế chứng minh, tôi giao đồng chí Lạc, Tổng Giám đốc Tổng công ty xuất nhập khẩu Kỹ thuật dầu khí (Petechim) nhập nhanh một chuyến để rút kinh nghiệm.
Công ty đã nhập lần đầu từ Hồng kông, chở bằng máy bay 15 tấn vàng 999 JSC của Thuỵ Sĩ về Thành phố Hồ Chí Minh. Các doanh nghiệp Nhà nước, tư nhân đến xếp hàng mua từng thỏi vàng từ 5 kg đến 50 kg về chế biến ra từng cây vàng bán lẻ. Chuyến đầu lãi tới 3 lần, có liền trả nợ chuyến trước và nhập chuyến sau, một phần nộp vào ngân sách. Mọi người yên tâm là nhập vàng có lãi lớn cho Ngân sách Trung ương và địa phương. Sau đó mở rộng ra cả nước nhưng chủ yếu vẫn là Thành phố Hồ Chí Minh và các công ty xuất nhập khẩu các tỉnh phía Nam. Còn các tỉnh phía Bắc chỉ có Hà Nội xin nhập 10 tấn. Nhưng thủ tục vay tiền, mở L/C cũng như giao dịch chậm trễ, phải hết 6 tháng mới nhập được 900 kg từ Hồng kông, bằng tàu thủy về Hải Phòng. Đồng chí Vũ Ngọc Phương thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Trần Tấn, Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội. Khi chở vàng về Hà Nội, các đồng chí sợ đi đường số 5 bị cướp, các đồng chí phải cử công an áp tải đi qua Nam Định, qua đường số 1 về Hà Nội để đánh lạc hướng bọn trộm cướp dọc đường số 5. Về Hà Nội ban đêm, nên để tạm ở văn phòng UBND Thành phố một đêm, làm cho một số người tò mò, thắc mắc tại sao không đem gửi Ngân hàng ngay mà lại để ở văn phòng UBND Thành phố...
Khi tôi biết việc này, tôi bảo đồng chí Vũ Ngọc Phương: “Có gần một tấn vàng, cho vào cái xe U oát chạy một mạch ban ngày về Hà Nội, rồi đem đến Ngân hàng gửi, làm gì phải đi đêm, qua Nam Định về Hà Nội, vòng vo tốn thì giờ, lại sinh thắc mắc cho một số người... Chú là người cảnh giác cao độ, thời bình mà cứ làm như thời chiến...”.
Các công ty xuất nhập khẩu miền Bắc cũng được thông báo, nhưng vì không kinh doanh quen, còn sợ mọi thứ, nên không dám nhập. Ngay Hải Phòng, tôi gọi báo mấy lần, nhưng cũng không dám nhập vàng. Riêng các tỉnh phía Nam chạy xô ra Bộ Ngoại thương xin quota nhập vàng. Để thuận tiện cho Thành phố Hồ Chí Minh, anh Sáu Dân ký uỷ nhiệm cho đồng chí Nhật Hồng, Giám đốc Vietcombank Sài Gòn, ký giấy phép nhập cho thành phố là 50 tấn. Còn tỉnh khác vẫn phải ra Bộ Ngoại thương xin quota. Tính đến tháng 4-1990, trước khi tôi thôi giữ chức Bộ Trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, cả nước nhập được khoảng 160 tấn, tính ra USD Ngân sách Trung ương và các tỉnh, thành phố có nhập vàng lãi khoảng hơn 1 tỉ USD góp phần rất quan trọng vào chống lạm phát, từ 780% năm 1986, năm 1990 còn 67% giảm hơn 10 lần.
Xin từ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Sau 8 tháng thực hiện Nghị quyết 2 của Trung ương, tôi thấy xu hướng và thực hiện bước đầu có kết quả, tôi đề nghị Trung ương cần ra một Nghị quyết toàn diện chuyển kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế Thị trường định hướng XHCN.
Hội nghị liên tịch Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng định vào ngày 1 và 2-2-1988. Đồng chí Phạm Hùng giao cho tôi cùng 6 Bộ trưởng trong ngành và một số chuyên viên kinh tế chuẩn bị. Tôi đã chủ trì xây dựng một phương án, có mô hình để dễ chỉ đạo.
Mô hình này thể hiện chuyển dần từng bước, toàn diện của cả nền kinh tế sang kinh tế thị trường. Việc chuẩn bị rất công phu. Khi được quyết, bất cứ đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị nào cũng có thể chỉ đạo theo mô hình đó được. Nó vừa đồng bộ, dễ nhìn thấy diễn biến tình hình qua ngày tháng cập nhật, các ngành các cấp không lúng túng. Thực sự tôi rất phấn khởi khi đưa ra Hội đồng Bộ trưởng tham gia. Các thành viên Chính phủ đều hoan nghênh, anh Phạm Hùng phân công tôi báo cáo dự thảo Nghị quyết 4 này trước hội nghị liên tịch (gọi là liên tịch nhưng thực chất là Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng).
Ngày 1-2-1988 tôi trình bày xong, Hội nghị có 14 uỷ viên Bộ Chính trị họp, 12 đồng chí phát biểu đồng tình, đồng chí Nguyễn Văn Linh sơ kết ý kiến của 12 đồng chí đã phát và phát biểu bổ sung, anh Linh cũng đồng tình với dự thảo Nghị quyết 4.
Đến cuối giờ chiều ngày 1-2-1988 anh Đỗ Mười phát biểu. Anh không đi vào đề án, anh phát biểu phê phán trực tiếp tôi, với những ý chính sau đây:
- Một Phó Thủ tướng và 5, 6 Bộ trưởng không chịu đi cơ sở, cứ ngồi ở bàn giấy nghiên cứu mô hình nọ, mô hình kia để làm gì? Vấn đề mới quá, tôi đề nghị gác lại đến tháng 9-1988 sẽ bàn.
Vân vân và vân vân, xoay quanh phê phán tôi.
Hội nghị nghỉ, hôm sau bàn tiếp. Tôi nghĩ vấn đề tôi và các Bộ trưởng trong khối đã tính toán bàn kỹ, được cả Hội đồng chính phủ thông qua. Dự thảo nghị quyết 4 mang tính lý luận cao và mô hình chuyển dịch nền kinh tế có cơ sở khoa học. Nghị quyết này tiếp nối Nghị quyết II rất có hệ thống. Nay đồng chí Thường trực Ban Bí thư đề nghị để tháng 9-1988 mới bàn, các đồng chí Bộ Chính trị cũng đồng ý, tôi thấy không còn cơ sở để làm việc có hiệu quả cho việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 6 đổi mới, có tầm sâu rộng, khắc phục nhanh khủng hoảng kinh tế, đưa kinh tế nhanh ổn định và phát triển. Tôi quyết định sẽ xin từ chức vào ngày hôm sau.
Tối hôm đó tôi trao đổi kỹ với nhà tôi và đồng chí Ngô Hải thư ký của tôi về thái độ của anh Đỗ Mười. Anh Đỗ Mười không thực hiện được ý định loại tôi khỏi Ban Chấp hành Trung ương khóa 6, tôi lại còn làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, như vậy sẽ cản bước tiến của anh Mười. Nếu tôi từ chức vừa thỏa lòng anh Mười và giữ được đoàn kết nội bộ, vừa cũng là tấm gương chung: Khi không còn điều kiện để thực thi nhiệm vụ thì nên rút lui cho người khác thay thế, mình làm việc khác, nếu hết việc thì về nghỉ, vì lúc này tôi đã 59 tuổi. Nhà tôi và chú Ngô Hải hiểu ý tôi và lòng anh Mười nên cũng đồng tình với tôi.
Tôi viết đơn xin từ chức để đọc vào chiều mai 2.2.1988. Tôi dự kiến phát biểu bổ sung, sau đó sẽ đọc đơn xin từ chức.
Sáng 2-2-1988 thế nào tôi cũng phải báo cáo đồng chí Tổng Bí thư và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng trước, để bảo đảm ý thức tổ chức, kỷ luật...
Sáng hôm sau vào giờ giải lao, tôi báo cáo với anh Linh việc tôi xin từ chức để giữ gìn đoàn kết nội bộ. Anh Linh bảo tôi cần suy nghĩ thêm. Tôi nói đã suy nghĩ kỹ rồi. Anh Linh không nói gì thêm. Khi tôi báo cáo anh Hai Hùng, anh Hùng nói: “Không nên, để bàn thêm”. Tôi báo cáo rằng đã suy nghĩ kỹ rồi. Tôi không thể làm việc tốt được nếu anh Mười còn cản trở. Tôi đề nghị anh cho phép tôi từ chức, anh Hùng hơi cười vui: “Để xem, xem...”.
Khi tôi đọc đơn từ chức, hai anh mới cho là thật. Các anh cứ tưởng tôi bực tức với anh Mười nên nói vậy thôi. Anh Hùng còn bảo: “Tôi tưởng anh nói đùa”. Vì khi đề nghị xin từ chức, thái độ tôi vẫn vui vẻ bình thường, không có thái độ tức giận gì cả, nên anh vẫn nghĩ tôi chỉ nói cho đỡ bực mình với anh Mười thôi.
Khi tôi đọc đơn xin từ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, hội nghị có khoảng hơn 60 người, họp ở Hội trường T78, tại thành phố Hồ Chí Minh, mọi người đều lắng nghe với vẻ bất ngờ. Sau đó, anh Linh đứng lên luôn, phê bình anh Đỗ Mười một cách nghiêm khắc, với mấy ý chính sau đây:
- Ông Mười tưởng rằng Uỷ viên Bộ Chính trị là to lắm, muốn nói gì cũng được, muốn phê bình ai cũng được. Hồi tôi làm Bí thư Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi lần vào Thành phố là ông Mười đòi gặp tôi. Nhiều lần tôi từ chối không gặp. Ông tưởng là Uỷ viên Bộ Chính trị muốn làm gì thì làm...
Khi anh Linh dứt lời, anh Mười nói:
- Tôi nói đó là tinh thần Bôn-xê-vích...
Tôi xuýt nữa bật cười to...
Tối hôm đó tôi sang chào anh Trường Chinh (Anh Trường Chinh đang nghỉ ở T78), đồng thời xin ý kiến anh về đôi câu đối, tôi định viết ở lăng cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Cao Lãnh. Vì ngày hôm sau, 3-2 ngày thành lập Đảng, tôi xuống thắp hương tại nhà lưu niệm cụ Phó bảng và viết ngay tại đó cho có ý nghĩa. Nội dung:
“Thiên hồng địa tử đô Sinh Sắc
Giải phóng sơn hà hiển Chí Minh”
Đọc xong hai câu thơ và tôi nói thêm ý của nó, anh Trường Chinh nghe xong khen: “Hay lắm! hay lắm! Khí phách lắm! Khí phách lắm!” Tôi yên tâm. Anh Trường Chinh mà Đảng ta và nhân dân ta thường gọi anh là: “Anh Thận” vì anh rất cẩn thận trong từng lời nói và bài viết, đối nhân xử thế, việc gì cũng thận trọng, nên mới được nhân dân và cán bộ đặt cho anh chữ “Thận” làm tên gọi thân mật, nay anh đã khen thì tôi có thể yên tâm.
Câu đối này tôi cũng đưa cụ Minh, một nhà “uyên thâm túc Nho” xem trước. Cụ Minh góp ý với tôi thay chữ “giai” bằng chữ “đô”, chữ “rực” bằng chữ “hiển”. Cụ giải thích chữ “đô” đắt nghĩa hơn chữ “giai”, dù chúng đều có nghĩa là “đều”. Chữ “hiển” thay chữ “rực” để khỏi hiểu lầm đối với người ít biết chữ Hán. Vì trong câu đối viết chữ “rực” là bay lên; nhưng đọc mà không trông chữ viết thì nghĩ chữ “rực” là “rực rỡ”, hiểu sai ý, nên thay bằng chữ “hiển”. Tôi đồng ý với cụ Minh.
Năm 1987 mất mùa nên ảnh hưởng đến năm 1988. Lương thực lúc đó chỉ dựa vào sản xuất trong nước, tiền nhập lương thực không có, viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu về lương thực không đáng kể.
Ảnh hưởng vụ mùa thất thu đã kéo dài đến năm 1988, nhất là những nơi mất mùa nặng như Thanh Hóa, Nghệ An. Tết âm lịch, đầu năm 1988, Thanh Hóa đã có hơn 100 người chết đói. Anh Phạm Hùng dự định về miền Năm ăn Tết, nhưng tình hình lương thực căng thẳng, anh ở lại Hà Nội ăn Tết, đến mùng 6 Tết mới vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày mùng 2 Tết anh đến thăm tôi. Vì không được báo trước, nên tôi về Hải Phòng. Sáng 4 Tết tôi đến chúc tết anh ở nhà riêng, anh bảo tôi: “Mấy hôm nay ở lại Hà Nội lo gạo, lương thực cho Thanh Hóa và những tỉnh thiếu đói nặng. Nay đã hòm hòm, mốt tôi vào Thành phố.”. Tôi thấy anh vất vả quá.
Mới làm Thủ tướng được hơn 6 tháng mà anh già hẳn đi. Hai anh em ngồi nói chuyện gần hết buổi sáng, hết chuyện nước, đến chuyện nhà, rồi lại đến chuyện tù Côn Đảo... Tôi thấy anh dáng vẻ mệt mỏi và buồn, đôi khi nói đến tình hình đói ở Thanh Hóa anh lại rơi nước mắt. Rồi anh nhắc lại chuyện tôi xin từ chức tuần trước. Tôi động viên anh rằng tôi vẫn ra sức làm việc, không vì xin từ chức mà nản việc. Anh bảo tôi: “Tôi mừng vì anh vẫn giữ được thái độ bình thường. Việc anh từ chức là độc nhất vô song”. Tôi nói: “Tôi xin từ chức là thực sự có lỗi với anh, vì anh mới làm Chủ tịch được hơn 6 tháng. Tôi từ chức có thể có người hiểu sai, mong anh thông cảm”. Anh nhắc lại một vài ý hôm họp và vài ý trách anh Mười. Rồi anh nói: “Tôi hoàn toàn thông cảm với anh. Trong điều kiện này rất khó làm việc với anh Mười...”.
Không ngờ ngày 6 Tết anh vào Thành phố Hồ Chí Minh ăn Tết với gia đình và thăm bà con bạn bè thân thiết, ngày mồng 8 Tết, một cơn đau tim đột ngột đã cướp đi người chiến sĩ cách mạng lão thành. Ngày xưa giặc Pháp kết án anh với án tử hình, sau giảm án đày ra Côn Đảo nhưng chúng không cướp được sinh mạng anh. Với sức khỏe tốt, được rèn võ, luyện “gồng trà kha”, nay anh đang say mê với công việc mới, đầy trọng trách, trong hoàn cảnh kinh tế đất nước đang gặp nhiều khó khăn, anh mất đi để lại bao thương tiếc cho nhân dân, cho Đảng. Tôi thực sự quí mến anh và anh cũng yêu mến tôi như những người ruột thịt thân thiết. (Tôi sẽ nói kỹ về anh ở chương các đồng chí Bộ Chính trị với Hải Phòng).
Anh Phạm Hùng qua đời, anh Võ Văn Kiệt làm quyền Thủ tướng, đến tháng 6-1988 Quốc hội họp bầu anh Đỗ Mười làm Thủ tướng.
Tháng 3-1988 Bộ Ngoại thương sát nhập với Uỷ ban hợp tác Lào - Kampuchia, do anh Đặng Thí làm Chủ nhiệm, Uỷ ban Hợp tác đầu tư với nước ngoài do anh Võ Đông Giang làm Chủ nhiệm. Bộ mới ra đời có tên là Bộ kinh tế đối ngoại do tôi làm Bộ trưởng.
Còn tôi đến 2-5-1988 được chuẩn y miễn nhiệm cùng với hai đồng chí Nguyễn Ngọc Trìu, Nguyễn Văn Chính (Chín Cần), cũng không tuyên bố rõ lý do tôi xin từ chức, mà chỉ nói chung: cả ba người thôi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng để nhận nhiệm vụ khác. Tôi thấy viết thế nào cũng được, miễn là mình được thôi chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng.
Hôm đưa ba đồng chí Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ra Quốc hội phê chuẩn, tôi thấy anh Nguyễn Ngọc Trìu, hai tay vắt sau, vừa đi vừa suy nghĩ trong giờ giải lao. Tôi mời anh Trìu vào uống cà phê và bảo: Suy nghĩ làm gì cho tổn thọ, “nhất đại vi quan, vạn đại vi dân”. Khi hai anh em ngồi uống cà phê, thấy có cảnh có tình, tôi làm 4 câu thơ tặng anh Trìu:
“Hai thằng miễn nhiệm uống cà phê,
Thế sự xem ra vẫn ê chề.
Dân đói, dân no còn lắm chuyện
Việc nhà, việc nước vẫn còn mê”.
Anh Trần Hoàn ngồi bàn bên cạnh, thấy tôi đọc thơ ngó sang bảo đọc to cho nghe. Tôi nói đùa: “Muốn kiểm duyệt phải không?”. Anh Trần Hoàn cười. Tôi đọc to cho anh Trần Hoàn nghe, anh Hoàn nói: “Hay đấy? vẫn còn có hậu”. Tôi nói lại: “Bọn tớ làm cách mạng đến cùng, không bao giờ nản chí”.
Tôi làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế, anh Mười làm Thủ tướng, tôi vẫn giữ thái độ bình thường. Anh Mười đối với tôi bề ngoài cũng thấy dễ chịu hơn, nhưng tôi nghĩ sẽ có ngày cũng phải chia tay. Chắc anh Mười cũng không muốn tôi làm lâu.
Đúng như vậy, khi tôi nhập vàng anh còn là Thường trực bên Đảng, nay sang làm Thủ tướng, hàng năm đi đâu anh cũng rêu rao: “Đoàn Duy Thành Bộ trưởng Kinh tế đối ngoại đấy, không nhập phân bón, nguyên liệu, đi nhập vàng...” Anh em các ngành, các địa phương thông tin cho tôi biết, tôi thấy chẳng có gì phải suy nghĩ, vì đó là tất yếu. Anh Mười không hiểu rằng lúc đó lấy tiền đâu mà nhập phân bón, nguyên liệu? Phải nhập vàng chịu, trả nhanh; vòng sau có lãi để nhập phân bón, nguyên liệu. Khi họp Hội đồng Bộ trưởng, anh tuyên bố: “Anh Thành nghỉ Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nhưng tôi vẫn thực hiện bài của anh Thành”. Họp Thường vụ Hội đồng bộ trưởng anh cũng tuyên bố như vậy.
Nhưng sang năm 1989 tình hình khá hơn. Anh gặp tôi hai lần khi họp Hội đồng bộ trưởng, anh Mười nói: “Bài của cậu tính cũng sai”. Tôi nghiêm nét mặt nhưng không nói gì. Lần sau có mặt anh Đoàn Trọng Truyến, anh Mười lại nói: “Bài của cậu cũng tính sai...” Tôi hơi khó chịu, trả lời anh Mười: “Anh đã nói nhiều lần, anh thực hiện bài của tôi. Bài của tôi, tôi tính rất kỹ. Chỉ có thể do người thực hiện sai, còn tôi tính không sai”. Anh không nói gì và đi chỗ khác.
Tính tỷ suất lãi ngân hàng với đồng Việt Nam và tỷ giá giữa đồng Việt Nam với đồng đô-la Mỹ và ngoại tệ khác, là vấn đề khó trong quản lý kinh tế. Điều này lúc nào tôi cũng quan tâm suy nghĩ. Khi có lạm phát phi mã lại càng khó. Lúc đó Hội đồng bộ trưởng họp nhiều lần, có những đề xuất rất táo bạo, phi kinh tế, như đưa lãi suất đồng Việt Nam lên 20%/tháng của anh Nguyễn Cơ Thạch. Anh còn nói mạnh mẽ rằng phải đem bom đánh tan nhà máy in bạc đi, in quá nhiều để gây lạm phát. Tôi rất thích tính anh Thạch. Tuy là nhà ngoại giao có tài, nhưng anh rất quan tâm đến kinh tế, đặc biệt là công nghệ thông tin. Tôi nói với anh Thạch đưa lãi suất lên 20% tháng thì bán cả nước Việt Nam đi mà trả lãi. Anh tranh luận với tôi rất thoải mái. Anh luôn luôn giữ chữ “lên” với tôi. Cái gì hứa, làm đúng lời hứa. Anh Nguyễn Cơ Thạch và anh Mai Chí Thọ hay bảo tôi là có hai ông Thành. Ông Thành ở Hải Phòng thì thóang, còn ông Thành lên Trung ương lại quá chặt chẽ. Tôi nghĩ các anh rất có tình cảm với tôi nhưng các anh ít nghiên cứu sâu về kinh tế. Trong lúc khủng hoảng kinh tế, sản xuất đình đốn, vay tiền của dân, cho ai vay lãi được 5%/tháng? Doanh nghiệp không ai dám vay vì làm sao ra lãi 5%/tháng để trả nợ ngân hàng? còn Nhà nước lấy tiền đâu bù chênh lệch khoảng 15%/tháng? Tôi nói vui với anh Thạch: “Nghe anh chỉ có đổ thóc giống ra mà ăn...” Anh cười vui vẻ, nhưng vẫn tranh luận tiếp.
Sau đó anh Mười quyết định lãi suất 12%/tháng. Hỏi ý kiến tôi, tôi bảo: “Chống lạm phát mà nâng lãi suất như thế này thì chỉ kéo dài được chu kỳ lạm phát”. Nhưng chu kỳ sau sẽ lạm phát cao hơn chu kỳ trước. Nếu nâng lãi suất đồng nội tệ lên quá cao để chống được lạm phát và kinh tế khủng hoảng thì thế giới họ đã làm từ lâu rồi, và không bao giờ có khủng hoảng kinh tế cả. Theo ý tôi trong trường họp đặc biệt này chỉ nên 4% một tháng là đã quá bạo tay rồi. Thử hỏi có xí nghiệp nào làm ra lãi 2% tháng không? Khi tôi làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, năm 1985, Thành phố đã vay của nhân dân Hải Phòng 150 triệu với lãi suất 4%/tháng, được Ngân hàng Trung ương đồng ý. Chúng tôi dự kiến trong một tháng rưỡi vay đủ số tiền trên. Nhưng thật bất ngờ chỉ trong một tháng nhân dân đem đến cho vay tới 200 triệu. Chúng tôi phải kết thúc ngay. Sau tháng 9-1985 Thành phố phải trả hết cho nhân dân, vì sợ đồng tiền Việt Nam đang bị mất giá sau đổi tiền nhân dân sẽ thiệt thòi. Từ kinh nghiệm và thực tế lúc đó, tôi đề xuất lãi suất không nên quá 4%/tháng. Nhưng Hội đồng bộ trưởng vẫn quyết định 12%/tháng.
Có một số anh chị em quen thân đến hỏi tôi lãi suất gửi tiền tiết kiệm cao, có nên gửi không? Tôi trả lời anh chị em nên gửi, lãi lớn đấy.
Có anh chị em gửi chỉ hơn một năm đã lãi 2, 3 lần. Vì vàng bán lúc đó rất đắt, lấy tiền mặt gửi ngân hàng, khi rút ra mua vàng giá rẻ. Ngay đồng chí Quản Đức Khiêm, thư ký của tôi ở Hải Phòng, gửi tiết kiệm hơn một năm, khi rút ra cũng lãi gần 3 lần, được 10 lạng vàng.
Tôi làm Bộ trưởng Kinh tế công việc đang suôn sẻ, đưa doanh số xuất khẩu từ 600 triệu Rúp và đô la/năm, nay lên hơn 2 tỉ đô la và Rúp. Kinh tế đất nước đang đi vào thế ổn định, thì lại có kế hoạch sát nhập các bộ, Bộ kinh tế đối ngoại sát nhập với Bộ Nội thương và Bộ Vật tư thành Bộ Thương mại. Việc này đúng như tôi dự đoán, có sát nhập mới có lý do để loại tôi ra khỏi thành viên Chính phủ.
Trong khi đang chuẩn bị, anh Hoàng Minh Thắng sang bàn với tôi, đề nghị tôi nhường cho anh làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Anh Thắng nói: “Anh làm việc gì cũng được, nhường tôi làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Tôi chỉ thích làm Bộ trưởng Bộ Thương mại...”. Tôi với anh Thắng là bạn với nhau, khi tôi làm Bí thư Hải Phòng, anh Thắng làm Bí thư Quảng Nam - Đà Nẵng, có quan hệ hợp tác với nhau rất chặt chẽ. Nhất là trong kháng chiến chống Mỹ, Hải Phòng kết nghĩa với Đà Nẵng quan hệ chúng tôi càng khăng khít hơn. Anh Thắng khi làm Bộ trưởng Bộ nội thương, tôi làm Phó chủ tịch phụ trách khối Lưu thông phân phối, Tài chính, Ngân hàng. Nay anh Thắng đã đề nghị, tôi đồng ý ngay. Vì anh đã là cấp dưới của tôi, nay có việc này tại sao tôi lại không nhường anh? Anh Thắng rất phấn khởi.
Nhưng công việc không phải bình thường như thế. Hôm họp Hội nghị Ban chấp hành Trung ương ở nhà “Con rùa” bên bờ Hồ Tây, anh Đỗ Mười gặp tôi trao đổi việc nhân sự. Qua trao đổi, anh Mười bảo tôi về chuẩn bị tổ chức, để tiếp tục làm Bộ trưởng Bộ Thương mại. Tôi rất phân vân, nhưng điều trước hết là tôi phải thông tin cho anh Hoàng Minh Thắng biết. Tôi gặp anh Thắng báo chuyện anh Đỗ Mười bảo tôi tiếp tục làm Bộ trưởng.
- Anh liệu mà chạy, kẻo lại thất vọng, rồi lại bảo tôi tranh nhau với anh cái chức Bộ trưởng Bộ Thương mại.
Chúng tôi vẫn nhắc lại chuyện này với nhau một cách đùa vui. Nhưng việc anh Mười bảo tôi làm tiếp Bộ trưởng Bộ Thương mại cũng chỉ là câu chuyện “làm quà” cho vui vẻ thôi. Vì trước và sau khi quyết định anh Thắng làm Bộ trưởng Bộ Thương mại, anh Mười không hề nói lại với tôi một lời. Đó cũng là điều dễ hiểu.
Trong 3 năm 8 tháng làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương rồi làm Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, biết bao công việc phải làm.
Trước hết là ổn định tổ chức, xây dựng cơ sở vật chất của Bộ Ngoại thương quá cũ, xây dựng Nghị định 164 của Chính phủ về xuất nhập khẩu - đầu tư. Tôi đã cùng các đồng chí lãnh đạo Bộ lo toan công việc, rồi lo từ bữa ăn sáng, ăn trưa cho cán bộ công nhân, viên chức thuộc Văn phòng
Khi còn ở Hải Phòng, tôi nghĩ lên Bộ Ngoại thương chắc chắn sẽ có tiện nghi tốt hơn. Không ngờ lên đến Bộ cái gì cũng thiếu, tôi không thể tưởng tượng được. Ở Hải Phòng phòng làm việc của Bí thư, Chủ tịch Thành phố... đều có điều hòa. Lên Bộ chỉ mỗi phòng khách ngoại trên lầu 2 nhà 31 Tràng Tiền là có điều hòa nhiệt độ do Liên Xô sản xuất. Các phòng làm việc thì che chắn. Riêng phòng tròn ở nhà chính của Bộ, ngăn làm 2, một phòng dành cho Vụ xuất nhập khẩu, còn một nửa để nguyên liệu xây dựng xi măng, sắt thép...
Lối lên phòng khách ngoại trên lầu 2 có hai lối. Lối cho khách đi lên bằng cầu thang chính, vì là nhà “băng” cũ nên tầng rất cao. Có lần ông Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Phi-líp-pin đến gặp tôi, khi đến phòng khách ông thở rất to và nói: “Tôi không cảm động đâu, nhưng cầu thang cao quá, tôi mệt”.
Còn một lối riêng cho Bộ trưởng đi lên tiếp khách, với một cầu thang phụ chật hẹp, phải đi qua cửa “hố xí” quá hẹp, phải đi nghiêng để quần áo chỉnh tề tiếp khách, không bị nhàu. Hôm anh Lê Khắc dẫn tôi đi xem lần đầu để bàn giao, tôi bật cười nghĩ lại chuyện bàn giao với đồng chí Nguyễn Quốc Hiếu, Giám đốc Sở Thương nghiệp Hải Phòng, cơ quan cũng phải có lối phụ lên phòng Giám đốc. Lần này có khác là lối phụ để lên tiếp khách nước ngoài...
Trong 44 tháng công tác tại Bộ, tôi đã vạch kế hoạch cho từng năm và ba năm làm những việc gì cho Bộ, cho đất nước.
Việc giải quyết bữa ăn trưa cho cán bộ công nhân, viên chức, là vấn đề bức xúc vì lúc đó đã bắt đầu làm thông giờ. Sáng nào anh chị em đến làm việc đều mang cạp lồng đựng bữa cơm trưa. Tất cả đều đi xe đạp, duy có một đồng chí đi cái xe máy “Babetta”, đó là đồng chí mạnh bạo nhất. Một số anh chị em đi nước ngoài cũng mua được xe máy Nhật, nhưng không dám đi, sợ cho là giàu có, cứ phải cho xe đắp chiếu để trong buồng. Có đồng chí mua được 2, 3 xe máy phải tháo rời ra để ở gầm giường, tôi đến chơi, thấy lủng củng đồ đạc dưới gầm giường, hoặc cất giấu vào góc nhà, lỉnh cà lỉnh kỉnh. Tôi bảo các đồng chí đem ra mà đi, hoặc bán đi gởi vào tiết kiệm, việc gì phải giấu như “thuốc phiện lậu” vậy. Tôi nói mãi, dần dần các đồng chí thấy quen, đem hết xe ra đi. Năm 1988 hầu hết không còn ai đi xe đạp đến Bộ làm việc, quần áo ăn mặc chỉnh tề hơn. Đồng chí Phối, Vụ trưởng Vụ II, đã làm Tham tán Thương mại ở Nhật Bản 2 khóa, một cán bộ gương mẫu giữ gìn, nhưng tiền lương tiết kiệm mua được xe máy cũ của Nhật rất rẻ cũng không dám mang ra đi công tác, quần áo chỉ có một bộ com-lê để ở trong tủ làm việc, khi tiếp khách mới mặc, còn đi làm chỉ mặc bộ quần áo “đại cán” sĩ quan ka ki, mùa hè mặc sơ-mi xanh, hoặc trắng, với quần ka-ki Trung Quốc. Các đồng chí khác cũng vậy. Tôi bảo anh Phối cứ mặc quần áo đàng hoàng, thắt “cravate” cẩn thận. Mình là cơ quan đối ngoại, việc gì phải kiêng kỵ? Sau đó ít lâu mới hình thành phong trào ăn mặc chỉnh tề hơn.
Còn ăn trưa, tôi bàn với xí nghiệp làm kinh tế, cải thiện đời sống của Công đoàn. Tôi bảo đồng chí Dương, giám đốc thôi nghề ép than và cán mì đi, tổ chức sản xuất thủ công mỹ nghệ xuất khẩu. Xí nghiệp khá lên, cung cấp bữa ăn trưa cho anh chị em 50đ/người, bỏ được cảnh mang theo cạp lồng cơm, đến trưa đem ra hâm nóng ăn trong phòng, vừa nhếch nhác vừa mất vệ sinh. Số tiền trên ra hiệu ăn bữa trưa còn dư, đem về bổ sung cho bữa ăn sáng và tối.
Còn trụ sở Bộ, tôi cho đập 3 nhà rất cổ, xây lâu năm, có nhà tường đã nứt, chỉ đợi chấn động nhẹ thì trần và nhà sụp đổ. Tôi quyết định cho xây nhà 3 tầng làm việc hiện nay, cải tạo nhà chính, nhà phụ làm việc, phá hầm phòng không, xây một tầng làm Hội trường hiện nay, có thể họp được 350 người. Nay các đồng chí trong Bộ ngăn làm nhiều phòng làm việc, bắc quạt và điều hòa cho các phòng, cải tạo phòng tròn làm nơi hội thảo ít người, xây thêm phòng khách ngoại ở tầng dưới, lấy hai ngà voi dài nhất nước từ Công ty Thủ công mỹ nghệ Sài Gòn về trưng bày ở phòng nhà tròn... tạo cảnh quan và bộ mặt, thật đàng hoàng đối với khách trong nước và nước ngoài. Trước khi đập 3 nhà cũ, tôi phải cho quay phim chụp ảnh. Kể cả khi nhờ xe xích của Bộ Nội vụ đến kéo đổ 3 nhà cũng quay phim hiện trạng, kẻo nếu có người không đồng tình với mình, khiếu nại, sẽ có bằng chứng giải trình. Trước khi xe xích kéo sụp 3 nhà, tôi cũng đứng xem. Xe mới hơi chuyển bánh, nhà đã đổ sụp, gạch vữa lả tả, nhiều thanh sắt làm cốt đã mục nát, trông rất sợ. Vì tôi làm cẩn thận nên sau xây dựng không có đơn kiện cáo về việc này.
Để giảm đầu mối và bớt độc quyền về ngoại thương, tôi bàn giao những Tổng công ty xuất nhập khẩu chuyên ngành cho các Bộ chuyên ngành, chỉ giữ lại những Tổng Ty tổng hợp xuất nhập khẩu, những công ty mà không có Bộ chuyên ngành nhận. Sau khi củng cố lại các công ty và thành lập những công ty cần thiết, như công ty Tổng hợp II miền Trung (Centrimex), tôi bàn với Bộ Ngoại giao nâng cấp các tùy viên Thương mại là cán bộ của Bộ Ngoại thương, sau này là Bộ kinh tế đối ngoại cử, lên chức Tham tán. Được anh Nguyễn Cơ Thạch cử anh Nguyễn Di Niên Thứ trưởng phụ trách tổ chức sang làm việc, đi tới thống nhất đề cử các đồng chí Tùy viên Thương mại làm Tham tán Thương mại. (Trước đó Bộ Ngoại thương chỉ có đồng chí Đinh Xuân Trâm Thứ trưởng làm Tham tán Thương mại tại Liên Xô). Thế là tôi giải quyết xong việc phân biệt đối xử giữa cán bộ ngoại giao và cán bộ ngoại thương trong nhiều năm.
Về tổ chức cán bộ, Bộ Ngoại thương đề bạt thêm 2 thứ trưởng là các đồng chí Đinh Phú Định và Lê Kim Lăng, đề bạt 113 cán bộ từ Trưởng phòng đến Vụ trưởng, Vụ phó, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc các Tổng công ty và công ty, hầu hết là cán bộ trẻ có học vấn... Tiếp đó tôi xây dựng khu nhà cho cán bộ công nhân, viên chức ở Láng Hạ với phương thức Bộ xin đất, bỏ tiền một nửa ra xây dựng, cán bộ bỏ một nửa tiền đóng góp với Bộ. Chủ trương này cũng có người không tán thành và còn thách đố “ông Thành làm sao được...”. Nhưng khi có kết quả, thì những ý phản đối thành ý kiến ủng hộ. Hai khu nhà chung cư của Bộ kinh tế đối ngoại cũ hiện nay, trông vẫn khang trang (sau nhà Seaprodex Hà Nội).
Rồi khu nhà tập thể của Bộ ở Văn Chương cũng được nhanh chóng hoàn thiện đưa vào sử dụng. Riêng trụ sở của Bộ được thiết kế xây dựng 11 tầng, đã được Chính phủ duyệt, trích số tiền cấp phép cho nước ngoài lập cơ quan đại diện tại Việt Nam (mỗi giấy phép phải nộp 5.000 USD) do tôi đề xuất với Chính phủ và Bộ Tài chính. Số tiền này nộp ngân sách 20%. Còn lại dành cho Bộ xây dựng trụ sở, được khoảng 8 triệu USS.
Thiết kế đã được duyệt, khoan đất khảo sát để xây dựng đã làm. Đến khi chuẩn bị khởi công, tôi thôi làm Bộ trưởng, và đến nay đã 15 năm, trụ sở mới vẫn chưa được xây dựng!
Gần đây, nhiều báo chí nhắc đến chuyện nhập 160 tấn vàng. Có đồng chí phóng viên hỏi tôi: “Nhiều công ty nhập vàng lãi nhiều, có công ty nào biếu “quà” bác không?”. Tôi kể lại cho các đồng chí phóng viên nghe rằng lúc đó chỉ có công ty nhà nước được nhập vàng, lãi nộp ngân sách Trung ương hoặc địa phương, cuối năm trích phần thưởng theo chế độ. Nếu công ty nào có tấm lòng “phong bì” cho Bộ trưởng, tôi cũng không nhận. Ngay quota thời đó người ta cũng tung tin Bộ Ngoại thương nhận tiền cho xuất sắt thép phế phẩm, một vạn $US/một quota/một vạn tấn v.v... Tôi đề nghị Quốc hội cho kiểm tra.
Còn tôi và thứ trưởng của tôi không bao giờ làm như vậy. Nếu có đồng chí nào nhận tiền cấp quota, tôi là Bộ trưởng, tôi chịu trách nhiệm. Tôi đề nghị các vị không nên tự “tầm thường” mình rồi “tầm thường” luôn cả chúng tôi. Quốc hội lúc đó đã phân công đồng chí Trần Quyết, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, lập đoàn đi kiểm tra. Đoàn dự kiến kiểm tra 10 tỉnh, thành phố trọng điểm, sau kiểm tra toàn bộ 40 tỉnh, thành phố trong cả nước và đã có báo cáo trước Quốc hội về vấn đề này. Không tìm ra hiện tượng tiêu cực trong việc cấp quota xuất sắt thép phế phẩm, cũng như mặt hàng khác...
Đầu năm 1990 trong chuyến vào công tác ở các tỉnh phía Nam (lúc này tôi cũng sắp thôi làm Bộ trưởng), đồng chí Lạc, Tổng giám đốc CTY Pétechim đến thăm tôi ở nhà khách, khi về đồng chí có đưa cho tôi một phong bì, ngoài đề kính gửi Bộ trưởng Đoàn Duy Thành. Tôi nghĩ chắc là thư, vì từ khi về làm Bộ trưởng đến hôm đó, không có công ty nào biếu tôi tiền cả. Đến khi đồng chí Lạc về, tôi bóc thư ra xem trong thư có 300.000 đồng, và lá thư nhỏ: “Kính biếu đồng chí để mua quà cho các cháu”. Tôi nghĩ Cty Petechim là công ty kinh doanh khá, lại được giao nhập vàng sớm với khối lượng lớn, lãi cho ngân sách nhà nước nhiều, chắc đồng chí Lạc nghĩ Bộ trưởng sắp nghỉ, gửi quà cho Bộ trưởng. Tôi viết thư cảm ơn và trả lại số tiền trên cho đồng chí Lạc. Ngay lúc đó, có một đứa cháu gọi nhà tôi bằng bà cô ruột đến chơi, xin tôi một trăm nghìn để mua xe đạp, cháu chỉ thiếu có một trăm nghìn thôi. Nhân có tiền của đồng chí Lạc cho, tôi rút ra một trăm nghìn cho cháu. Còn hai trăm nghìn đồng, tôi bỏ vào phong bì dán kín cùng lá thư, nói rõ tôi lấy 100.000 đồng cho cháu mua xe đạp. “Tôi gửi lại đồng chí 200.000 đồng. Tôi đã có tiền mang theo để mua quà cho cháu khi về Hà Nội, xin cảm ơn đồng chí”. Đồng chí Lạc hiện nay mới về hưu và sinh sống ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Để thúc đẩy sản xuất phái triển, mở rộng cho các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã được trực tiếp xuất khẩu, xóa bỏ dần dần độc quyền ngoại thương, tôi đã ký thí điểm cho hợp tác xã sản xuất giày Bình Tiên (Biti's) xuất giày sang Liên Xô (cũ) và một số hợp tác xã, doanh nghiệp khác xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài, trước hết là xuất sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Việc đó giúp cho các cơ sở sản xuất phát triển nhanh hơn. Đến nay, mọi tổ chức, thành phần cứ hội tụ đủ điều kiện qui định, đều được xuất nhập khẩu.
Đến 30-4-1990 tôi thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại. Tôi xin nghỉ, nhưng anh Nguyễn Văn Linh, anh Nguyễn Thanh Bình,Thường trực Ban Bí thư, anh Nguyễn Đức Tâm, Trưởng ban Tổ chức Trung ương bảo tôi ở lại làm việc. Anh Đỗ Mười bảo tôi lại nhà chơi, anh bảo tôi làm một số việc nào là làm Bộ trưởng Bộ Tài chính thay anh Hoàng Quy, làm bí thư Thành uỷ Hà Nội... Tôi báo cáo anh Mười: “Chả lẽ tôi lại tranh việc của anh Hoàng Quy hay sao?”. Còn Bí thư Thành uỷ, tôi nghĩ lúc này anh Mười cũng nói cho vui thôi, không có tính khả thi, nên tôi xin phép anh Mười ra về. Anh Mười giữ ở lại bàn thêm, nhưng tôi cho là anh Mười chỉ động viên tôi thôi. Nếu anh có thiện chí thì tôi chẳng phải xin từ chức và “thất cơ lỡ vận” như hiện nay. Bởi vậy tôi đứng dạy ra về. Khi anh Qui chất chất anh Mười tại sao không xếp việc cho tôi, anh Mười bảo: “Mình giữ cậu ấy ở lại bàn nhưng cậu ấy giật tay mình bỏ về”.
Còn tôi đối với anh em trong khối lúc nào cũng có quan hệ tốt, cùng làm cùng chịu trách nhiệm, không ai đổ trách nhiệm cho ai. Có một lần họp Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng, đồng chí Hoàng Quy, Bộ trưởng, trình ra Thường vụ một việc bị đồng chí Chủ tịch Phạm Hùng phê phán gay gắt. Đồng chí Phạm Hùng quay sang hỏi tôi: “Bộ Tài chính đã xin ý kiến anh Thành chưa?”. Thực ra Bộ chưa hỏi ý kiến tôi, nhưng tôi đứng ngay dậy: “Báo cáo anh Phạm Hùng, Bộ Tài chính đã xin ý kiến tôi rồi, và hôm nay xin ý kiến Thường vụ. Chúng tôi sẽ viết lại theo ý kiến Chủ tịch kết luận”. Anh Phạm Hùng vui vẻ ngay, bảo về làm lại trình Thường vụ và Hội đồng Bộ trưởng vào thảo luận sau... Câu chuyện này anh em Bộ Tài chính và đồng chí Ngô Hải khi gặp tôi thường hay nhắc lại câu chuyện “đỡ đòn” hôm ấy.
Tôi thường nghĩ, mình là cấp trên thì không bao giờ tranh công cấp dưới. Phải thương anh em và che chắn cho anh em. Nếu anh em sai, có khi còn phải nhận khuyết điểm về mình, vì anh em “thấp cổ bé họng” hơn mình, dễ bị thiệt thòi. Làm điều này tất nhiên phải nhận phần thiệt về mình, có khi còn mang tiếng “anh hùng rơm”, có khi mang vạ vào thân.
Từ tháng 5-1990 tôi xin nghỉ, các đồng chí không giải quyết, nhưng xếp việc rõ rệt cũng không, chỉ giao những việc vặt, kiểm tra nơi này nơi khác về báo cáo. Tôi chắc các đồng chí khó xếp việc cho tôi, tôi bèn đến chào tạm biệt đồng chí Nguyễn Văn Linh ở nhà khách Hồ Tây. Đồng chí Nguyễn Văn Linh ôm tôi khóc, và nói: “Tôi không bảo vệ được anh...”. Tôi cảm ơn anh, đề nghị anh ủng hộ tôi về nghỉ. Tôi có làm gì sai đâu mà anh phải bảo vệ? Anh lại khóc thực sự. Tôi vừa buồn, vừa thương anh và tự hỏi: “Sao thế này nhỉ? Làm cách mạng là sự tự nguyện, nay cách mạng thành công rồi thì phân công nhau mà làm. Nay hết công việc nguy hiểm rồi, hòa bình rồi, ai làm cũng được...”.
Tôi nhớ lại khi tôi làm Bộ trưởng Kinh tế đối ngoại, luật đầu tư nước ngoài đã được thông qua Quốc hội cuối năm 1987. Chẳng ai triển khai. Đến khi thành lập Bộ kinh tế đối ngoại, lại giao tôi phụ trách. Khi có luật đầu tư nước ngoài, các nhà doanh nghiệp nước ngoài nộp hồ sơ hàng đống chờ đợi, chẳng ai giải quyết, đùn đẩy nhau. Tôi phải đứng ra làm. Tập hợp một số cán bộ, trời nóng bức, không có điều hòa, cởi trần ra làm hơn 2 tháng trời mới chọn được 25 doanh nghiệp. Tôi ký giấy phép cho 25 doanh nghiệp đầu tiên vào đầu tư ở Việt Nam. Giấy phép số 1 là Công ty Wicarent Hồng kông đầu tư ở Vũng Tàu... Khi đã đi vào nề nếp, Vụ Đầu tư của Bộ kinh tế đối ngoại lo công việc này rất chu đáo. Nhưng chưa được bao lâu thì có quyết định lập Bộ Đầu tư đối ngoại tách ra khỏi Bộ kinh tế đối ngoại (nhập vào Bộ kinh tế đối ngoại chưa đầy một năm lại tách ra?). Tôi nghĩ đây là một ý định không tốt đẹp gì với tôi. Nhưng không sao cả, mình không vụ lợi, vì đất nước, vì nhân dân mà làm chả việc gì phải bực. Nhưng ngầm nghĩ cũng thấy người đời lắm “mưu mẹo” mà quá đơn giản, không có chiều sâu. Đến cán bộ bình thường ở Bộ tôi lúc đó cũng nhìn thấy bước đi của các đồng chí cấp trên muốn gì ở Bộ trưởng của mình. Các đồng chí hỏi tôi, tôi bảo: “Các đồng chí nhìn thấy vấn đề rồi còn hỏi tôi làm gì nữa...”.
Đến tháng 9-1990, đồng chí Nguyễn Đức Tâm gặp tôi, bảo tôi về làm Viện trưởng Nghiên cứu Kinh tế Trung ương thay anh Nguyễn Văn Trân về hưu. Tôi bảo để tôi suy nghĩ đã, anh cứ đi tìm đồng chí khác, tôi còn xem anh em ở Viện có muốn tôi về hay không? Nếu cất nhắc anh em tại chỗ lên được thì tốt. Anh Tâm bảo tôi: “Đã tìm tại chỗ và nơi khác không có. Anh suy nghĩ kỹ và phản ứng tích cực nhé!”. Sau khi đi chuyến tàu hoả vào miền Nam họp, tôi lại gặp anh Nguyễn Đức Tâm. Anh Tâm gặp tôi lần trước đã hơn 2 tháng rồi. Anh lại hỏi: “Anh đồng ý về Viện cho nhé”. Tôi bảo: “Nếu tổ chức không tìm được ai và anh em ở Viện đồng ý tôi về, tôi sẽ nhận”. Sau một tuần, tôi nhận được quyết định của Thủ tướng Đỗ Mười ký cử tôi về làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Trung ương.
Tôi đến họp Hội đồng bộ trưởng trở lại. Anh Mười tuyên bố: “Anh Thành sẽ làm Bộ trưởng - Viện trưởng để làm việc trong Hội đồng Bộ trưởng cho thuận lợi”. Rồi Văn phòng chuẩn bị đề nghị với Hội đồng Nhà nước bổ nhiệm tôi làm Bộ trưởng - Viện trưởng. Khi đưa ra Hội đồng Nhà nước phê chuẩn, có ý kiến của đồng chí Nguyễn Việt Dũng đưa vấn đề đồng chí Tô Duy ra yêu cầu cần phải xác minh, nên Hội đồng Nhà nước do dự, đề nghị làm rõ. Anh Mười về phổ biến lại với tôi và nói: “Chính phủ đã đề nghị nhưng Hội đồng Nhà nước không duyệt...” Tôi đứng dậy nói với anh Mười một câu: “Là âm mưu của chúng nó cả”, rồi tôi đi chỗ khác (chuyện này xảy ra trong giờ giải lao của cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng).
Đi sứ Trung Quốc
Tháng 1-1991 tôi và anh Vũ Oanh được cử sang Trung Quốc nghiên cứu tình hình kinh tế Trung quốc do Trung ương Đảng và Chính phủ Trung Quốc mời. Đồng chí Vũ Oanh làm trưởng đoàn, tôi làm phó đoàn. Đoàn còn có đồng chí Vũ Quang, đồng chí Lê Quí An và một phiên dịch cấp vụ trưởng của Ban Đối ngoại trung ương Đảng.
Đoàn chúng tôi sang Trung Quốc trong tình hình hai nước chưa bình thường quan hệ ngoại giao, mới có cuộc gặp gỡ Trùng Khánh giữa các đồng chí Nguyễn Văn Linh, cố vấn Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Đỗ Mười với các đồng chí Giang Trạch Dân, Lý Bằng của Trung Quốc. Trong chuyến đi này còn có đồng chí Đinh Nho Liêm, Thứ trưởng bộ Ngoại giao cùng đi. Khi về, đồng chí Đinh Nho Liêm có chép lại 2 câu thơ trong bữa tiệc tiếp Đoàn Việt Nam, do đồng chí Giang Trạch Dân đọc, đó là:
Độ tận khiếp ba huynh đệ tại,
Tương phùng nhất tiểu dẫn ân cừu thù
Nghĩa là: Đò qua hết sóng dữ anh em vẫn là anh em. Gặp nhau cười một tiếng là trôi hết hận.
Tôi nghĩ hai câu thơ đó hay. Nếu đồng chí Tổng bí thư Giang Trạch Dân, trong bữa tiệc thân tình đã ứng tác làm 2 câu thơ đó thì thật là tuyệt. Nhưng tôi tra cứu thì 2 câu thơ đó của một nhà thơ đời Thanh, không rõ tên. (Thanh mạt thi nhân, khuyết danh) gồm 4 câu:
Nhân tình vong liệm vô kiêm ái,
Thế đạo không hòai mạc cộng ưu
Độ tận khiếp ba huynh đệ tại
Tương phùng nhất tiễu dẫn ân cừu.
Đồng chí Giang Trạch Dân đem thơ của cổ nhân đọc để nói hộ tấm lòng mình đối với các đồng chí Việt Nam, thể hiện tình cảm thân thiết nghĩa tình, vừa là đồng chí, vừa là anh em.
Nhưng hãy kể đường đi sang Trung Quốc trước đã. Chúng tôi đi ô tô đến Hữu nghị quan, các đồng chí Trung Quốc phải rỡ rào dây thép gai, cho xe đón chúng tôi về Nam Ninh, thủ phủ Quảng Tây. Từ đây chúng tôi đi máy bay đến Bắc Kinh.
Đoàn chúng tôi được đón tiếp thân tình, trọng thị, ở tại nhà khách Điếu ngư đài một tuần, nghiên cứu và nghe các chuyên gia đầu ngành và cán bộ cao cấp giới thiệu kinh nghiệm cải cách, mở cửa của Trung Quốc. Đồng chí Trần Cẩm Hoa, nguyên Chủ tịch thành phố Thượng Hải, làm Chủ nhiệm Uỷ ban cải cách toàn Trung Quốc, đón tiếp và trao đổi với chúng tôi rất tận tình. Chúng tôi đi thăm và làm việc với một số ngành như ngân hàng, Uỷ ban Kế hoạch, Bộ Ngoại giao. v.v. Chúng tôi đi thăm Vạn Lý trường thành, Cố cung và một số nơi danh lam thắng cảnh ở Bắc Kinh.
Có một câu chuyện đáng nhớ, lúc chúng tôi đến thăm Cố cung (Thiên An Môn), khi đến cung Tiền, nơi vua chuẩn bị ra ngự triều, các Hoàng hậu, Hoàng phi, con cháu ra chúc tụng vua buổi sáng, chúng tôi thấy sau ghế vua ngồi, có một đại tự lớn viết hai chữ “Vô vi” nghĩa là “không làm gì”. Cùng đi có Đại sứ Đặng Nghiêm Hoành và một số cán bộ đại sứ quán. Phía Trung Quốc lúc đó có các đồng chí Lý Gia Trung, Tề Kiến Quốc (sau này đều là Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam) và một số đồng chí Trung Quốc khác.
Vì biết tôi có học chữ “hán”, một số đồng chí hỏi tại sao sau ghế vua ngồi lại viết chữ “Vô vi”. Tôi bảo các đồng chí Việt Nam hỏi các đồng chí Trung Quốc. Hai đồng chí Lý và Tề bảo hỏi đồng chí Thành. Tôi nói các đồng chí cứ thử đoán xem các vua Trung Quốc tại sao lại viết chữ “Vô vi”. Các đồng chí Việt Nam nhanh nhảu nói: “Vô vi” chắc là của Lão Tử. Rồi các đồng chí bảo tôi “giảng” cho nghe. Tôi bảo các đồng chí cứ suy nghĩ kỹ đi, ta đi thăm xong Cố cung khi quay lại “Cung tiến”, tôi sẽ nói cho các đồng chí nghe.
Tôi cũng định lờ đi, không giải thích, nhưng khi quay lại “Cung tiền” các đồng chí Việt Nam cũng như Trung Quốc vẫn nhắc tôi giải thích cho nghe hai chữ “Vô vi”. Tôi mới nói chữ “Vô vi” là của Khổng Tử, ca ngợi đạo đức của vua Nghiêu, vua Thuấn đời nhà Hạ, thường gọi là Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Điểm nổi bật là hai ông đã dùng nhân nghĩa quản lý đất nước, được nhân dân Trung Quốc thời đó ca ngợi là bậc “Thánh quân”. Các ông chọn người “hiền tài” trong thiên hạ để kế nghiệp, không truyền ngôi cho con... Cho nên Khổng Tử đã dùng một câu nói để khen cả Vua Nghiêu và vua Thuấn, câu đó trong sách Luận ngữ: “Vô vi nhi trị giả kỳ Thuấn giả dư!” nghĩa là: “Không làm việc gì lớn trong thiên hạ mà trị vì được thiên hạ, chỉ có vua Thuấn mà thôi”. Khi vua Nghiêu chọn vua Thuấn thay mình, vua Thuấn chỉ là người quản lý một trang trại, có cha là Cổ Tẩu mắc tội giết người, có em là Tượng, một tên lưu manh. Thế mà vua Nghiêu thấy được tài đức của vua Thuấn; gả hai con gái cho rồi truyền ngôi cho làm Hoàng đế. Vua Thuấn đã cai trị đất nước rất giỏi, nổi tiếng Trung Quốc. Mãi mãi sau này nhân dân Trung Quốc ca ngợi công đức của hai vua. Cho nên Khổng Tử chỉ nói vua Thuấn, nhưng hàm ý vua Nghiêu có tài mới chọn được vua Thuấn, con nhà thường dân, và mặc dù Cổ Tẩu bố vua Thuấn: “Phụ tiện nhi hành ác” nghĩa là loại ty tiện và làm điều ác.
Còn nói “Vô vi” là của đạo Lão, sẽ không phù hợp với thực tế Trung Quốc. Xây dựng cố cung từ thời nhà Tống, nhà Minh tiếp tục hoàn thiện. Nhà Tống và nhà Minh lấy đạo Khổng làm quốc đạo, coi Lão Tử là kẻ chống lại đạo Khổng. Do đó không thể có việc vua các nhà Tống - Minh rồi đến nhà Thanh lại viết “vô vi” của đạo Lão để trên đầu mình. Các đồng chí Trung Quốc và Việt Nam đều đồng ý.
Người ta hay nói “thâm nho” chẳng qua học chữ Nho (hoặc có người gọi là học chữ Hán), khi học một câu nói của Khổng Tử, Mạnh Tử, Tăng Tử, Tử Tư.v.v... dưới câu nói đó có lời bàn của các triết gia, các nhà lý luận đời sau giải thích ý nghĩa, để cho người học hiểu được câu nói ngắn gọn của “Thánh hiền”. Nghĩa là muốn hiểu được các câu nói của Thánh hiền, người ta phải học kỹ các bài bàn, mới hiểu được toàn diện và sâu sắc. Nói: “Thâm nho” khi có ý chê ghét. nên người ta phải dùng chữ “uyên thâm túc Nho” nghiêm túc hơn.
Trong dịp đi thăm này, đồng chí Lý Bằng, Thủ tướng Chính phủ Trung Quốc có buổi tiếp và làm việc với đồng chí Vũ Oanh, Uỷ viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong câu chuyện rất thân tình giữa hai đồng chí, đồng chí Vũ Oanh trình bày rất nhiều vấn đề, nhất là vấn đề bình thường quan hệ mọi mặt giữa hai nước cần làm sớm, để nhân dân hai nước có điều kiện làm ăn buôn bán thông thương. Đồng chí Vũ Oanh kể lại những câu chuyện rất buồn ở biên giới giữa hai nước. Nhân dân đi buôn bán, phải gánh gồng, đội vác qua núi non hiểm trở, đã có người ngã lăn xuống suối chết. Đồng chí Lý Bằng rất cảm động nhưng nói:
- Bây giờ hết giờ, mai sẽ làm tiếp...
Đồng chí Thư ký của đồng chí Lý Bằng bảo:
- Mai Thủ tướng đã có lịch làm việc rồi.
Đồng chí Lý Bằng suy nghĩ một lát và nói:
- Việc bình thường hóa quan hệ mọi mặt giữa hai nước cần có một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian chuẩn bị làm việc lớn, chúng ta hãy làm những việc nhỏ. Việc buôn bán làm ăn ở biên giới, mai tôi sẽ cử đồng chí Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao đến làm việc với đồng chí ở Điếu Ngư Đài.
Tôi liền nảy ra ý nghĩ làm bài thơ tứ tuyệt tặng hai đồng chí, Lý Bằng và Vũ Oanh và để hưởng ứng bài thơ của đồng chí Giang Trạch Dân đọc hồi tháng 9-1990 ở Trùng Khánh mừng Đoàn cấp cao của ta sang Trung Quốc. Nội dung bài thơ của tôi:
Song điểu Tề phi
Hoàng Oanh phi đáo Bắc Kinh đô,
Hội ngộ kim Bằng diệc lạc hồ!
Đại sự vị thành hành tiểu sự,
Song điểu tề phi chí thiện đỗ.
Tạm dịch:
Hai con chim cùng bay
“Hoàng Oanh bay đến Bắc kinh đô,
Gặp gỡ chim Bằng thỏa ước tình,
Việc lớn chưa thành, làm việc nhỏ
Vỗ cánh cùng bay đến điểm lành.
Hai đồng chí đều có tên theo âm Hán là 2 loài chim đẹp, nên tôi dùng đầu đề bài thơ là: “Song điểu Tề phi”1.
Sau khi rời Bắc Kinh, các đồng chí đưa đoàn chúng tôi thăm Thẩm Quyến, Khu kinh tế tự do thuộc tỉnh Quảng Đông, đối diện với Hồng kông. Chúng tôi ở đây nghiên cứu 3 ngày rồi đi ô tô về thăm Quảng Châu, thăm khu công nghệ mới và nhiều nhà máy lớn ở Quảng Châu cũng như Khu kinh tế Chu Hải... Sau đó chúng tôi đi ô tô về Nam Ninh, thăm Nam Ninh một ngày, rồi đi xe trở về Lạng Sơn, Hữu Nghị Quan. Các đồng chí Trung Quốc đưa tiễn chúng tôi về đến tận địa phận Việt Nam. Các đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Lạng Sơn cùng các đồng chí lãnh đạo khác của tỉnh, các phóng viên đến đón chúng tôi tại cửa khẩu. Thế là chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ chuyến đi “sứ” nghiên cứu kinh tế một nước XHCN, qua một thời gian gián đoạn quan hệ, nay bắt đầu khôi phục.
Trong những ngày “trăng mật” chúng tôi được đón tiếp chân tình, trọng thỉ, nước bạn tạo mọi điều kiện cho chúng tôi làm việc có kết quả. Về đến nhà đã là 27 tết âm lịch. Anh Vũ Oanh bảo tôi viết nhanh báo cáo để vào thành phố Hồ Chí Minh báo cáo với anh Linh,Tổng Bí thư. Anh Vũ Oanh bảo tôi cùng đi. Tôi xin ở lại. Ngày 29 tết anh Oanh vào báo cáo với anh Linh và ngày 30 Tết về Hà Nội. Một cuộc đi vất vả nhưng có nhiều kết quả, nhiều suy nghĩ.
Mồng hai tết anh Oanh đến chúc tết tôi, phàn nàn rằng: “Hôm tôi đến báo cáo anh Đỗ Mười, trước khi vào báo cáo anh Linh, anh Mười tỏ ý không vui và bảo tôi vào báo cáo anh Linh, nói anh ấy ở lại làm khóa nữa. Tôi suy nghĩ tại sao anh Mười lại có thái độ như vậy? Khi đến gặp anh Linh mới biết các ông ở nhà đã bàn, anh Linh nghỉ, anh Mười thay làm Tổng bí thư. Tôi nghĩ anh Mười sợ tôi vào khuyên anh Linh ở lại làm khóa nữa, có nghĩa anh Mười sợ mất chân Tổng bí thư. Thế đấy anh Thành ạ!”. Tôi chỉ cười không bình luận gì.
Tôi về làm việc ở Viện Quản lý Trung ương được 19 tháng 20 ngày. Tôi cố gắng thu xếp cách nghiên cứu và lề lối làm việc. Trong điều kiện Viện có 115 cán bộ công nhân viên, hầu hết là đại học, phó tiến sĩ và tiến sĩ nhưng đời sống rất khó khăn, lương bình quân có 42.000 đ/tháng. Viện có một công ty xuất nhập khẩu, hàng năm chỉ kiếm thêm được triệu đồng để cải thiện cho anh em, bằng cách xin chặt củi ở Phú Thọ lấy củi xuất khẩu, mặt khác cho anh em đi mua dừa, chuối. về gửi các nhà hàng ăn uống giải khát để lấy lãi Có khi không bán được, nhà hàng trả lại, đem về phân phối nội bộ ăn cho hết. Tôi thấy việc làm rẻ rúng quá, lại không đúng ngành nghề. Tôi đề nghị giải tán công ty xuất nhập khẩu chuyên làm kinh tế của Viện. Các đồng chí đều đồng ý. Tôi tổ chức cho anh em nghiên cứu các đề án, như xây dựng khu kinh tế mở cho Móng Cái, Quảng Ninh, tỉnh Quảng Ninh trả cho 3,5 triệu/tháng, xây dựng đề án cải tiến quản lý cho công ty OSC Vũng Tàu được trả cho 4 triệu tháng, xây dựng cải tiến cho Công ty Tradico, cho Tổng cục Bưu điện tách ra khỏi Bộ Giao thông vận tải, trực thuộc Chính phủ... mỗi đề án cũng được trả hàng triệu đồng.
Tết âm lịch sắp đến, tôi hỏi anh em có tiền ăn tết không? Anh em bảo quĩ không có. Quĩ Công đoàn có 20 triệu đồng, vừa qua đã phân phối cho anh em hết rồi. Tôi hỏi anh em có cần tiến ăn tết không? Đồng chí nào cũng nói rất cần nhưng không tìm đâu ra tiền. Tôi đã tính toán trước, tôi bảo anh em hiện nay chưa có tiền trong quĩ, tôi tạm vay ở Công ty Tổng hợp I Bộ Thương mại 15 triệu đồng phân phối cho anh em tiêu Tết. Sau Tết thu được tiền các dự án sẽ trả. Thế là anh chị em có tiền ăn tết.
Tháng 3-1991 thu tiền các nơi gửi về trả xong nợ, mọi người phấn khởi. Từ tháng 5-1991 liền ăn trưa cho anh chị em cơ quan đài thọ mỗi tháng 150.000 đồng/tháng (Hiện nay tôi đã rời khỏi viện hơn 10 năm, mức ăn trưa vẫn giữ nguyên không thay đổi). Tôi hỏi đồng chí Doanh, Viện trưởng sao không nâng thêm cho anh chị em. Đồng chí bảo tôi: “Quĩ phúc lợi anh xây dựng, tổ chức kỷ niệm 20 năm thành lập Viện, chi gần hết rồi”. Còn từ hồi đồng chí An về làm viện trưởng tôi chưa có dịp hỏi lại. Tôi đã xếp sắp bộ máy và đề bạt 27 cán bộ vào các chức vụ như vụ trưởng, vụ phó, chánh phó văn phòng. Đồng chí Vũ Tiến Lộc từ cán bộ của Viện Quản lý kinh tế Trung ương, tôi sử dụng làm thư ký và đào lạo nay trở thành Chủ tịch VCCI.
Trong những tháng đầu năm 1991, chuẩn bị Đại hội 7 những người có ý định xấu với tôi lại tung ra những dư luận xuyên tạc để loại tôi khỏi Trung ương khóa 7. Tôi đã tiên liệu trước tình hình này nhưng không ngờ các đồng chí đó dùng đủ mọi hành động không tốt đẹp đến thế đối với tôi. Đến Đại hội Hải Phòng, anh Mười và tôi cùng một số đồng chí khác về ứng cử đại biểu đi dự Đại hội toàn quốc.
Ngày khai mạc, anh Đạt, đại tá, đứng lên tố tôi khai man lý lịch và một vài việc lặt vặt khác. Đại hội phải cho thẩm tra, lấy bản kết luận của đồng chí Võ Chí Công ra đọc và đồng chí Trưởng ban kiểm tra tư cách đại biểu khẳng định việc tố cáo của anh Đạt là không đúng. Nhưng khi bầu cử tôi cũng bị mất hơn một trăm phiếu. Còn ở Trung ương, Bộ Chính trị không giới thiệu tôi vào danh sách Trung ương khóa 7. Đồng chí Nguyễn Thanh Bình và đồng chí Nguyễn Đức Tâm gặp tôi để đả thông tư tưởng. Anh Bình nói:
- Lá thư anh gửi cho các giám đốc công ty trực thuộc về việc thôi làm Bộ trưởng là có ảnh hưởng không tốt.
Tôi nói lại:
- Thư của tôi chẳng có gì làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng cả, chỉ có một câu: Trong 44 tháng tòng chính ở Thủ đô Hà Nội, tôi mới hiểu thế nào là nhân tình thế thái. Chỉ có thế thôi. Lúc này một số dư luận không tốt về tôi, xuyên tạc Hội nghị tổng kết của Bộ tại Hội trường Thống nhất Thành phố Hồ Chí Minh, các anh chẳng ai bảo vệ tôi, tôi phải viết thư nói rõ việc đó.
Hai anh Bình và Tâm không nói gì. Hôm đó có cả anh Văn Phác, cũng là người được làm tư tưởng để thôi Trung ương khóa 7. Tôi hiểu đây chỉ là cuộc gặp mang tính thủ tục, tôi không nói gì thêm, vì việc đã “an bài” ở chỗ khác rồi. Thế là kết thúc cuộc gặp giữa anh Nguyễn Thanh Bình, anh Nguyễn Đức Tâm với tôi và anh Văn Phác.
Ngay trong cuộc họp Trung ương để chuẩn bị Đại hội, anh Linh gọi tôi bảo:
- Tôi vẫn giới thiệu anh vào Trung ương khóa 7, nhưng anh Đỗ Mười bảo để Ban Cán sự Chính phủ bàn thêm. Hai lần tôi nhắc, bên Chính phủ đều đề nghị anh thôi không ứng cử khóa 7.
Tôi cảm ơn anh Linh, và nói:
- Tôi biết rõ ý định của các đồng chí đó lâu rồi. Anh đừng bận tâm đến việc của tôi, ảnh hưởng đến công việc của anh.
Anh Linh lại khóc.
Một sức ép khác, là căn nhà của tôi ở Hải Phòng, tôi đã trả thành phố. Còn căn nhà số 4 Nguyễn Khắc Cần tôi mượn ở tạm, khi Nhà nước chưa xếp nhà cho tôi theo tiêu chuẩn. Mà cái nhà số 4 Nguyễn Khắc Cần do tôi xây dựng bằng số tiền đền của công ty Du lịch vì xây nhà làm ảnh hưởng đến nhà tôi đang ở, cộng thêm 10 triệu kinh phí của Bộ, xây dựng làm chỗ làm việc cho Bộ trưởng. Nhưng lúc đó không hiểu sao Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cử cán bộ đến thúc giục tôi phải di chuyển ngay vì Đại hội đến nơi rồi... Tôi biên thư trả lời, đại ý nói: “Khi việc tày đình đối với tôi là chuyện vu khống bỉ ổi việc tôi bị bắt, bị tù... sao các đồng chí không giải quyết? Còn cái nhà nó sù sù ra đấy, không cho tôi ở, tôi sẽ đi nơi khác. Nay chưa có nhà, tôi ra đường đứng hay sao? Các đồng chí không nên giục tôi. Tôi là người “Tri sỉ”, không táng tận lương tâm cướp nhà của Nhà nước đâu. Mà cướp cũng không được với các đồng chí”.
Thế mới yên. Cho đến khi có công văn chính thức của Bộ Thương mại giải quyết cho tôi xây nhà, tôi đi ngay, không chần chừ một ngày. Nghĩ lại cái khẩu hiệu “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” tôi thấy nó “rỗng”, ngay cả giữa đồng chí với nhau.
Nhưng nhà tôi, cô Phí Thị Tâm không giữ được bình tĩnh, đã đem đốt hết Huân chương, bằng khen của cả hai vợ chồng, một bó to bằng bắp đùi. Khi tôi biết chuyện liền trách nhà tôi: “Sao em vội vàng thế? Làm thế có ích gì. Có khi người ta lại hiểu lầm...” Nhà tôi to tiếng: “Sắp ra đứng đường còn nhà đâu mà treo huân chương, huy chương, bằng khen. Em đốt đi để dọn nhà cho nhanh gọn”. Rồi nhà tôi khóc. Tôi bảo: “Khóc là không có bản lĩnh. Họ đối với mình như vậy, mình bình tĩnh xử lý, chân lý sẽ thuộc về mình. Nếu mình làm khác thì mình cũng như họ thôi. Em nên bình bĩnh. Còn anh Mười đối với anh, anh đã bảo em là “Nhân dục vô nhai”, anh ở địa vị anh Mười có khi anh cũng làm như anh Mười”. Nhà tôi lại to tiếng với tôi: “Anh đừng lấy anh ra để an ủi em. Em ở với anh gần 50 năm, đã có 4 mặt con, em hiểu anh không bao giờ làm những điều thất đức như các anh khác đâu. Anh đúng lấy việc đó ra nói với em, để em bớt giận. Anh hy sinh cho đất nước thế nào, dám chết, dám bỏ chức vụ nhường quyền cho người khác, không hề tranh chấp với bất cứ ai về quyền lợi, em biết rõ chứ. Sao anh tự hạ thấp anh xuống, ví anh cũng như họ là thế nào? Mai em sẽ đến chất vấn ông Nguyễn Văn Linh về việc này”. Tôi nói: “Anh Linh quí anh lắm em đừng làm phiền anh Linh và làm ồn ào sự việc Chẳng hay ho gì cho Đảng, cho các anh ấy khi đang lãnh đạo đất nước...”.
Từ đó nhà tôi phát bệnh. Hết bệnh này đến bệnh khác. Đến 3-5-1999 (tức 18-3 quí mão) nhà tôi qua đời, chưa được đến ở ngôi nhà mới 216 Đội Cấn mà cách mạng đem lại hạnh phúc cho chúng tôi.
Trong những tháng nhà tôi ốm đau, không rõ đồng chí Lê Đăng Doanh báo cáo với anh Mười thế nào, một hôm đồng chí Lê Đăng Doanh bảo tôi: “Chiều hôm nay khoảng 5 giờ, anh Mười đến thăm chị Tâm. Anh ở nhà đón ông ấy một tí” Tôi trả lời: “Tất nhiên tôi ở nhà đón anh Mười”. Tới đợi gần 6 giờ, anh Mười không thấy đến. Tôi nghĩ chắc lại có việc đột xuất. Lúc đó tôi có điện thoại của ông lang Chấn, ở Hoàng Hoa Thám gọi đến lấy thuốc. Tôi đi đến nhà ông lang Chấn lấy thuốc xong về ngay. Về đến nhà thì anh Mười đến thăm nhà tôi vừa về. Tôi hỏi qua nhà tôi, nhà tôi bảo: “Em không dậy được, chỉ ngồi nói chuyện với anh Mười một vài câu, rồi anh Mười về”. Tôi vội đi xe lại nhà anh Mười để cảm ơn và nói rõ sự vắng mặt, kẻo anh hiểu lầm. Anh bảo tôi sang ngay anh Trần Vỹ, nguyên Chủ tịch UBND Hà Nội hỏi về chữa bệnh “tiểu đường”. Anh Mười lại gọi điện cho anh Trần Vỹ để tôi đến đỡ bất ngờ. Tôi cảm ơn anh Mười đã đến thăm nhà tôi, rồi tôi vội đi ngay đến nhà anh Trần Vỹ. Anh Vỹ hướng dẫn tôi chữa bệnh “tiểu đường” bằng cách uống nước chè tươi. Giã chè tươi, pha với nước sôi để nguội rồi uống ngày 3 lần. Tôi ngồi nói chuyện với anh Trần Vỹ khoảng 15 phút, rồi về làm theo sự chỉ dẫn của anh Trần Vỹ ngay tối hôm đó.
Khi nhà tôi qua đời, anh Đỗ Mười công tác tại thành phố Hồ Chí Minh, cũng gửi điện chia buồn với gia đình tôi.
Khi Đại hội 7 họp, một số đoàn vẫn giới thiệu tôi ứng cử vào ban chấp hành. Tôi nghĩ Trung ương khóa 6 không giới thiệu tôi, nên tôi gặp báo cáo với anh Nguyễn Văn Linh xin rút khỏi danh sách ứng cử cho đúng ý thức kỷ luật. Anh Linh bảo tôi: “Cứ để vậy, đừng rút”. Khi bầu tôi được hơn 260 phiếu đạt hơn 25% số đại biểu đi dự Đại hội. Các đồng chí ứng cử tự do không ai trúng cử. Hai đồng chí được Trung ương giới thiệu cũng không trúng.
Trước khi họp Đại hội 7 vấn đề tiểu sử của anh Văn cũng lại được đem ra thảo luận, có thêm một vài việc mới, thiếu cứ liệu. Có một hôm anh Văn họp Trung ương khóa 6, anh Văn phải đứng lên thanh minh cho mình và nói: “Một vị tướng cầm quân đánh thắng ở Điện Biên Phủ mà còn bị nghi ngờ thân Pháp...” Giọng nói của anh vừa rung động vừa chân thành. Tôi thực sự không cầm được nước mắt. Tôi nghĩ nội bộ với nhau, cứ thắng thắn bảo nhau, ai làm thì làm, ai nghỉ thì nghỉ, giữ sao cho được tình cảm chân thành là chính, chả thế một nhà thơ đã viết:
Tất cả trên đời đều trôi nổi,
Còn lại non sông một chữ tình...
Với tinh thần đó, trong khóa 6 đã hai lần tôi phát biểu tại phiên họp toàn thể của Trung ương là: “Khi cần, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cứ gọi điện cho tôi, là tôi nghỉ ngay, không cần phải giải thích vì sao.”
CHƯƠNG 6
Cuộc đối chất có một không hai trong lịch sử đảng ta
Suốt hai năm ròng rã, từ khi tôi thôi uỷ viên khóa 6. Hàng tháng hoặc hai tháng tôi biên thư cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư xin đối chất với những người có đơn vu khống chính trị tôi. Tôi nghĩ những người này không những loại được tôi ra khỏi chính trường, họ còn muốn làm “nhục” tôi nữa. Nên họ rêu rao do tôi khai man lý lịch phải ra khỏi các chức vụ. Nếu làm rõ ràng thì tôi còn phải khai trừ và đưa ra tòa về tội làm “gián điệp” cho Pháp. Bởi vậy tôi phải kiên quyết đề nghị đối chất với họ. Đối với người làm hại mình, bên ngoài lại tỏ vẻ hàm ơn cho mình, bao dung cho mình, tôi cũng cần phải làm rõ trắng đen. Tôi nói rõ trong đơn, nếu lý lịch của tôi có chỗ khai man, tôi xin được “xử bắn”. Còn người vu khống tôi, chỉ cần thề trước khi đối chất là: “Nếu vu khống tôi, xin làm con chó là đủ”.
Nhưng nguyện vọng ấy mãi không được chấp nhận. Anh Đỗ Mười và một số đồng chí bảo tôi: “Lý lịch anh đã có văn bản của anh Võ Chí Công kết luận rồi, Đảng có đánh giá gì anh đâu mà phải đòi đối chất”. Tuy nói vậy, nhưng một số người vẫn vu khống, họ cũng không chịu cùng tôi đối chất.
Họ nói: “Vì bảo vệ Đảng mà họ nói thôi. Đối chất mất hết tình nghĩa giữa chúng tôi và anh Thành”.
Họ nói đạo lý “xanh rờn” như vậy nghe có “thấu tình đạt lý không” (??). Tôi viết thư cho anh Lê Đức Anh nói: “Đề nghị anh chủ trì giúp, vì anh Mười đối với tôi và anh Tô Duy cũng khó nói...”
Anh Lê Đức Anh gặp tôi ở Quốc hội nói: “Việc này đã rõ quá rồi, không làm không được, tôi sẽ nói với Mười chủ trì giải quyết sớm”. Nhưng mãi cũng không thấy tổ chức đối chất. Anh Đỗ Mười gặp tôi bảo phía bên kia họ không đối chất.
Một hôm nhà tôi và tôi đến thăm anh Mười. Lúc đó nhà tôi thấy bức xúc quá, nên cứ vừa khóc, vừa đập bàn nói: “Anh phải chủ trì giải quyết cho nhà em. Nhà em phải hy sinh vào đất địch gian khổ, bị bắt, bị tra tấn, giam cầm khổ như thế nào. Nay họ vu khống cho nhà em là gián điệp quốc tế, các cháu đều là đảng viên cả, chúng sẽ nghĩ về Đảng ra sao? v.v..”.
Anh Mười quay sang bảo tôi:
- Tại sao anh Thành lại nói việc này với chị ấy? Việc này để tôi giải quyết. Cô ốm nên yên lâm chữa bệnh. Tại sao anh Thành lại nói với chị ấy trong lúc ốm đau.
Tôi hơi khó chịu, nói:
- Thưa anh Mười, việc này cả nước cùng biết, tôi sao giấu được nhà tôi. Anh bảo với Tô Duy có đào mả bố hắn lên cũng không tìm được tài liệu tôi bị bắt tháng 2-1951.
Anh Mười đứng phắt dậy đi ra tủ sách xem, không nói chuyện với chúng tôi nữa. Tôi rỉ tai nhà tôi: “Chạm nọc rồi”. Khoảng 5,7 phút đi vòng xem các tủ sách như tìm cái gì, anh Mười tỏ ra bực tức, nhưng không nói. Sau trở lại ngồi xuống nói với chúng tôi: “Cô cứ yên tâm để việc này tôi giải quyết”. Chúng tôi đứng dậy xin phép anh Mười ra về.
Tôi nghĩ phải kéo những người này ra trận tiền, không để họ cứ ở chỗ tranh tối, tranh sáng trong xó tối, nhân danh bảo vệ Đảng để tiếp tục vu khống, làm “nhục” mình. Tôi bèn viết một lá thư gửi anh Mười và gửi rộng rãi các đồng chí Ban bí thư, Bộ Chính trị, các ban của Đảng. Tôi thôi không xin đối chất nữa, chỉ cần xác minh cho tôi bị bắt tháng 9-1951 không phải tháng 2-1951 là đủ. Lá thư đó lọt đến tay những người vu khống tôi, họ yên trí là tôi sợ đối chất, vì họ có nhân chứng sống như Hoàng Chữ, đã có thư gửi anh Đỗ Mười (phần trên đã nói nội dung bức thư). Họ hí hửng chỉ một nhân chứng sống Hoàng Chữ cũng đủ để đánh gục tôi. Còn ngày bị bắt tháng 2 hoặc tháng 9-1951 không còn ý nghĩa nữa. Lập tức những người vu khống ký tên xin đối chất với tôi, gồm 12 người. Sau anh Nguyễn Văn Bút, Phó Bí thư Thành uỷ xin rút. Vì hôm họp anh em kháng chiến “Đèo Voi”, anh Bút gặp tôi giơ tay bắt tay, tôi không bắt tay. Anh Bút vẫn nài tôi bắt tay. Tôi nói: “Anh phải hứa với tôi từ nay không tham gia với nhóm vu khống tôi”. Anh Bút đồng ý, tôi bắt tay anh Bút. Từ đó anh cự tuyệt và không tham gia với nhóm này nữa. Quan hệ giữa tôi và anh Nguyễn Văn Bút trở lại bình thường.
Hôm 19-6-2004 vừa qua, trong bữa cơm Thành uỷ và UBND thành phố Hải Phòng chiêu đãi chúng tôi, anh Bút lại kể lại tình bè bạn thân thiết giữa tôi và anh Bút cho mọi người nghe, (trong đó có đồng chí Trịnh Văn Sử, Phó Bí thư Thường trực, Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng cùng nghe). Anh Bút kể lại câu chuyện khi chúng tôi về chuẩn bị nhận chức Bí thư Quận uỷ Bạch Đằng và Ngô Quyền: “Trong lúc chờ đợi ở Đèo voi, sống khổ sở mỗi bữa có một con cá phèn nướng, sáng tôi ăn đầu anh Thành ăn đuôi, chiều ngược lại. Có mấy cọng rau muống cũng chia đôi...”. Mọi người nghe rất xúc động...
Mãi đến ngày 26-2-1993 Ban Bí thư mới quyết cho tổ chức cuộc họp đối chất do anh Đỗ Mười, Tổng Bí thư chủ trì, có anh Nguyễn Đình Hương uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ và 8 cán bộ Vụ trưởng, Vụ phó ban Tổ chức Trung ương, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ đã tham gia cuộc đối chất xác minh vấn đề bị bắt, bị tù của tôi, và những đơn tố giác. Hải Phòng có đồng chí Lê Danh Xương, Bí thư Thành uỷ, đồng chí Trần Huy Năng, Uỷ viên thường vụ, trưởng ban Tổ chức thành uỷ cùng dự.
Về phía những người tố giác có 11 đồng chí.
1/ Tô Duy, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Kiến An, uỷ viên thường vụ Phó Chủ tịch UBND Hải Phòng, Chủ nhiệm Uỷ ban vật giá Trung ương.
2/ Lê Quang Tuấn, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng 1948, Giám đốc công an khu 3, Bí thư tỉnh uỷ Hà Bắc, Viện trưởng viện thi đua khen thưởng.
3/ Trần Đông, nguyên uỷ viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là bộ Công an).
4/ Nguyễn Mạnh Ái, nguyên Bí thư quận uỷ Ngô Quyền, cục Phó Cục bảo vệ Tổng cục chính trị QĐND Việt Nam.
Và 7 đồng chí khác là Nguyễn Thắng, Vũ Kính, Phạm Diệt, Vũ Tiến Long, Hoàng Hải, Hoàng Chữ, Phùng Văn Về.
Về phía nhân chứng cho tôi có 10 đồng chí: Lê Nghiêm, Quận uỷ viên quận Ngô Quyền, hoạt động trong nội thành, người trực tiếp đón tôi vào nội thành công tác, đồng chí Nguyễn Văn Nhuận, Bí thư chi bộ khu 7 thuộc quận Ngô Quyền là người đưa đón tôi đi hoạt động ở nội thành; cô Trần Thị Định cùng với chồng là đồng chí Bảo, là cán bộ của khu 7, nơi tôi qua lại ăn ở. Cô Định và chú Bảo còn ứng cho tôi mượn một cây vàng lấy tiền lo thẻ căn cước của tôi và đồng chí Đào Ái cho chúng tôi có giấy tờ của địch, đi lại trong nội thành hoạt động. Đồng chí Lê Công Thiên, Phó Bí thư huyện uỷ Kim Thành, huyện đội trưởng, đã giúp đỡ tôi về chữa bệnh ở Kim Thành. Các đồng chí Nguyễn Xuân Sâm, Nguyễn Văn Nghĩ, Nguyễn Tân, Vũ Quang Đạo, là những đồng chí cùng bị bắt và cùng bị tù với tôi ở nhà tù Đoạn Xá, Côn Đảo... Đồng chí Nguyễn Văn Linh, nguyên quyền Trưởng ty y tế Hải Phòng, cưới chị Phụng Dương ngày 8-7-1951, cưới tập thể với đám cưới anh Tô Duy cưới chị Lê Thu; anh Nguyễn Đình Hân, chuyên viên văn phòng thành uỷ, tháng 7-1951 còn ăn cơm với tôi ở văn phòng thành uỷ tại Hồ Lao Sơn Động Bắc Giang, trước khi tôi vào nội thành công tác.
Đến hội nghị đối chất vẫn còn vu khống trắng trợn
Đúng 8 giờ ngày 26-2-1993 hội nghị họp.
Đồng chí Đỗ Mười chủ trì hội nghị tuyên bố:
- Hôm nay tôi là Bao Công. Ai có ý kiến gì nói cho hết.
Sau đó anh Mười nói:
Bị bắt tháng 2 hay tháng 9 có gì quan trọng nhỉ? Vấn đề bị bắt khai báo ra sao, trong tù hoạt động thế nào, mới là quan trọng chứ?
Tôi đứng lên báo cáo với anh Mười:
- Các anh đây không tìm thấy khuyết điểm của tôi khi bị bắt, khi bị tù, các anh ấy xoay sang việc tôi bị bắt tháng 2-1951. Trong lý lịch tôi khai bị bắt tháng 9-1951 như vậy chênh lệch nhau 7 tháng. Bảy tháng ấy tôi đi đâu? Chắc đi huấn luyện làm tình báo cho địch. Không đơn giản như anh nói đâu, anh Mười ạ?
Ban Tổ chức báo cáo là còn thiếu anh Hoàng Chữ. Tức thời anh Nguyễn Thắng, anh Vũ Tiến Long đứng dậy nói:
- Anh Hoàng Chữ không dám yên Hà Nội họp vì sợ anh Thành giết.
Anh Nguyễn Mạnh Ái cũng nói là anh Hoàng Chữ nói với anh Ái như vậy. Có mỗi một nhân chứng sống lại vắng mặt. Nhân chứng này viết thư trực tiếp cho anh Mười, nếu không có mặt thì còn chứng lý gì để đối chất? Trong lúc đó một cán bộ Ban tổ chức đứng dậy báo cáo với anh Mười: “Anh ta trốn đấy! Chứ ai giết mà anh ta sợ”. Anh Mười bảo anh Lê Danh Xương cho người tìm và dẫn bằng được anh Hoàng Chữ lên Hà Nội. Đồng chí Lê Danh Xương điện về Hải Phòng yêu cầu tìm mọi cách đưa anh Hoàng Chữ lên Hà Nội họp ngay.
Cuộc họp bắt đầu. Các anh Tô Duy, Trần Đông phát biểu trước, rồi đến các anh Nguyễn Thắng, Vũ Tiến Long, Phạm Điệp, Nguyễn Mạnh Ái. Họ phát biểu dài dòng đại để như: tôi đã 20 năm làm công an nên có kinh nghiệm chống gián điệp, âm mưu nọ, âm mưu kia. Họ không nêu được ý gì cụ thể cả, chỉ nghe dư luận v.v... Tôi có lúc khó chịu, có lúc xuýt bật cười. Tôi ghi chép kỹ, để khi phát biểu sẽ nói cho mỗi vị một trang. Tất cả đều chung chung. Có anh không nói, vì không biết gì cả, như anh Hoàng Hải, anh Lê Quang Tuấn họ đã định không phát biểu. Tôi nhắc anh Mười bảo anh Tuấn phát biểu, anh Tuấn mới phát biểu: “Đây là hội nghị của Đảng, nên cứ phát biểu chung, không nên hết phe này phát biểu rồi đến phe kia phát biểu” (chấm hết).
Lúc đó đã là 3 giờ chiều. Một cán bộ Ban Tổ chức Thành uỷ đưa anh Hoàng Chữ vào hội trường. Ngồi 5 phút, anh Mười bảo anh Hoàng Chữ phát biểu. Anh Chữ nói:
- Tôi xin lỗi đồng chí Đỗ Mười, đồng chí Đoàn Duy Thành, tôi chỉ nghe quân tôi nói, tôi không trông thấy đồng chí Thành mặc quần áo trắng, đọc nhật trình, không bị tra tấn gì, ngồi xem anh em bị tra tấn. Tôi nói như vậy là có sự tác động. Một lần nữa tôi xin lỗi đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Thành.
Rồi anh Hoàng Chữ ngồi xuống. Tôi liền hỏi: “Ai tác động?”. Anh Hoàng Chữ không trả lời. Còn anh Phùng Văn Về, cháu ông bà Ngời, ở ngõ Sỏi phố ga Hải Phòng là nhân chứng đã tuyên bố biết tôi bị bắt tháng 2-1951, đã cùng ăn, cùng ngủ với tôi ở nhà ông bà Ngời. Anh Về phát biểu:
- Tôi chưa gặp anh Thành lần nào, chỉ thấy cô, chú tôi nói là anh Duy bị bắt ở đây. Tôi nhớ là mùa nóng bức, tôi không nhớ rõ là ngày tháng nào cả.
Anh Hoàng Hải phát biểu:
- Tôi không biết gì cả. Các anh ấy nhờ tôi đưa anh Về lên đây giúp.
Đặc biệt là anh Vũ Kính, nguyên uỷ viên Thường vụ quận uỷ Ngô Quyền, phụ trách văn phòng từ khi mới lập quận, anh người Hưng Yên, thường vụ huyện uỷ Mỹ Hào, được điều sang Hải Phòng từ 1949. Anh cũng học Hán tự, cũng biết đạo lý của Thánh hiền. Anh biết tôi làm Bí thư quận uỷ, rồi xuống làm Phó Bí thư vì không phải là Thành uỷ viên.
Tháng 7-1951 tôi vào nội thành hoạt động, tôi gửi tài liệu và tư trang cho anh. Sau anh gửi tài liệu và tư trang của tôi cho anh Trần Phương (Phương xích) là Bí thư quận uỷ Ngô Quyền trả lại tôi. Anh Vũ Kính đã làm Chánh văn phòng Thành uỷ và đón tôi ở Côn Đảo về. Sau anh làm Phó Giám đốc sở Công an, rồi làm Hiệu trưởng trường trung cấp Công an của Bộ Nội vụ, trường đóng ở Hà Bắc. Tôi đã có ý định mời anh Vũ Kính làm chứng cho tôi, sau biết được anh đứng trong danh sách 12 đồng chí dự đối chất với tôi nên tôi không mời nữa, đợi xem ngày họp đối chất anh sẽ nói gì về tôi. Đến khi phát biểu, anh Vũ Kính chỉ nói một câu: “Tôi đến đây chỉ để chứng minh cuộc họp Ban chấp hành quận uỷ Ngô Quyền tháng 6-1951 là không có. Lúc đó tôi đi học ở trường Trần Phú”. Rồi anh Kính ngồi xuống không nói gì thêm. Tôi cũng hơi buồn cười, vì chẳng có ai nhắc đến cuộc họp (tháng 6-1951). Khi giải lao, tôi gặp anh Kính, nhắc lại chuyện cũ. Anh Kính bảo tôi: “Tôi còn nhớ tất cả, kể cả tháng 7-1951 tôi còn đưa anh ra Đồng Vành chụp ảnh, rồi đưa cậu Văn Te làm giấy chứng minh do Bang Trình Thủy nguyên ký” Tôi nói lại: “Tôi định mời anh làm nhân chứng cho tôi, nhưng thấy danh sách đối chất với tôi có tên anh rồi, nên tôi không mời nữa”. Anh lặng yên không nói gì.
Từ 3g30 chiều, 10 đồng chí bảo vệ sự thật cho tôi mới phát biểu. Trong lúc những người tố giác nói sai sự thật, các đồng chí phía tôi rất tức giận, như cô Định, đồng chí Thiện, đồng chí Vũ Quang Đạo. Họ giơ tay liên tục đòi phát biểu. Tôi ra hiệu cho họ cứ bình tĩnh, để các anh phía bên kia phát cho hết ý đi, mình phát cũng không muộn. Cô Định tức giận đứng dạy phát biểu rất xúc động. Khi cô phát biểu xong, đồng chí Đỗ Mười ôm hôn cô và nói: “Tôi thương vợ chồng cô quá!”. Đồng chí Nguyên Tân (Văn Tân) tức giận nói: “... Chúng tôi đã bị địch giày xéo lên xác chúng tôi, các anh còn định giày xéo lên xác chúng tôi lần nữa hay sao?” Anh Vũ Quang Đạo, móc một mắt giả do anh làm “cooc-vê” đập đá ở Côn Đảo bị đá bắn vào mù mắt, nói “Tôi lấy một con mắt còn lại, bảo đảm rằng đồng chí Thành là một đảng viên kiên cường, đã cùng với anh Văn (Hiến), anh Lê Đình Thụ cùng các đồng chí trong Đảo uỷ Côn đảo vạch ra kế hoạch vượt đảo có một không hai trong lịch sử các nhà tù của đế quốc...”
Khi kết thúc hội nghị, đồng chí Vũ Quang Đạo nói với anh Đỗ Mười: “Hôm nay tôi đem cả thẻ đảng viên đến đây. Nếu anh kết luận khác là tôi trả thẻ đảng, để xin ra Đảng” Anh Mười nói: “Đến thế à!”.
Đến 7 giờ tối, hai phía đã phát biểu xong, anh Mười nhìn tôi bảo:
- Đủ rồi, để tôi kết luận kẻo muộn. Anh Thành không cần phát biểu nữa.
Tôi xin phát biểu 5 phút, tôi nói:
- Tôi định phát biểu dài, tôi đã chuẩn phát biểu trả lời cho mỗi anh một trang, nhưng anh Mười bảo thôi, vậy tôi chỉ nói về anh Vũ Kính, anh Kính biết tất cả mọi việc của tôi, nếu anh nói hết sự thật cho các anh này biết, có thể không phải có cuộc họp này. Tôi kể lại đầu đuôi từ ngày thành lập quận, anh Vũ Kính ở đủ các thời kỳ tôi vào nội thành hoạt động. Tôi bị bắt, bị tù, ra tù, anh Vũ Kính lại đón tôi, nghe hết mọi chuyện thẩm tra, điều tra xác minh về tôi.v.v. Tất cả lời phát biểu của tôi, anh Kính đều công nhận là đúng. Tôi định nói thêm về anh Nguyễn Mạnh Ái một chút, nhưng anh Mười bảo tôi quá muộn rồi, để anh kết luận. Tôi ngồi xuống vừa suy nghĩ. Anh Vũ Kính có học Hán tự nên còn giữ được chữ “tín”. Còn anh Tô Duy, việc rành rành như “canh nấu hẹ”, như việc vợ chồng anh và chị Lê Thu cưới tập thể với vợ chồng anh chị Linh và Phụng Dương, anh Lê Xuân Thịnh và chị Kiệm, 5 người còn sống (trừ anh Thịnh đã hy sinh từ 1952) cớ sao anh có thể nói khác đi. Năm 1982 vợ chồng anh Tô Duy và chị Lê Thu còn xác minh lại với tôi là, họ cưới nhau 8-7-1951 ở Hồ Lao, có mặt tôi ở đó, rồi mấy hôm sau họ còn đến thăm tôi Anh Linh (Nghĩa), chị Phụng Dương, chị Kiệm đều chứng nhận tôi có mặt trong sự kiện trọng đại của ba đôi vợ chồng. Thế mà anh Tô Duy phủi tay để vu khống tôi bị bắt tháng 2-1951 chứ không phải tháng 9-1951, để ghép cho tôi 7 tháng vắng mặt là được địch cho đi đào tạo làm gián điệp. Anh Tô Duy còn bảo các anh em đi thẩm tra, bắt tôi phải tả lại đám cưới, nơi tổ chức đám cưới, trang trí như thế nào? Để bảo đảm tính trung thực của mình, tôi tả lại đầy đủ đám cưới cho cán bộ đi thẩm tra. Anh Tô Duy lại xoay ra việc khác, nói với cán bộ đi kiểm tra: “Cậu Thành đã đi điều tra tỉ mỉ nơi tổ chức đám cưới...”. Anh Tô Duy có biết đâu từ đó đến nay tôi chưa lần nào trở lại Hồ Lao, và cũng chẳng hỏi lại ai về việc này làm gì.
Thế mới hay có học cũng có hơn. Trong lúc làm việc với nhau ở quận, khi nghỉ làm việc ở Ràng Động, Minh Tân, Quì Khê, Minh Đức Thủy nguyên, hoặc Châu Xá, Kinh Môn... tôi và anh Vũ Kính hay đem Tứ thư, Ngũ Kinh ra bàn luận. Trong đó có chữ “tín”, Khổng Tử nói trong sách Luận ngữ. Trong một buổi Khổng Tử giảng bài cho học trò của mình có mặt Tử Cống, một trong 72 học trò giỏi của Khổng Tử. Tử Cống là nhà ngoại giao và chính trị. Ông hỏi đức Khổng Tử một câu về chính trị “Tử Cống vấn chính, Khổng Tử viết, Túc thực, túc binh dân tín chi hỹ” (Tử Cống hỏi về làm chính trị, Khổng Tử trả lời: Đủ lương thực, đủ binh lính, giữ chữ tín với dân). Tử Cống hỏi tiếp: Nếu 3 điều trên bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào trước? Khổng Tử bảo: bỏ bớt binh lính. Tử Cống lại hỏi, còn 2 điều cũng bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào? Khổng Tử trả lời: bỏ lương thực và giải thích: “Nhân sinh giai hữu tử, nhân vô tín bất lập” (Mọi người sinh ra phải có chết, nhưng người không giữ được chữ tín thì không thành người). Câu chuyện của Khổng tử nói với Tử Cống, chúng tôi rất tâm đắc, nên tôi nghĩ anh Vũ Kính dù có đứng trong danh sách 11 người, nhưng chỉ nói và công nhận sự thật để giữ được chữ tín”. Đó cũng là điều khó làm đối với một số người đã không giữ được chữ tín, mà còn bịa đặt, tráo trở lá mặt lá trái... là điều đáng suy ngẫm lắm thay!
Anh Đỗ Mười kết luận1.
Trước khi kết thúc, anh Mười nói:
- Đề nghị anh Thành thôi không truy ngược lại nữa. Vì Đảng ta còn khó khăn”. Bản thông báo lời lẽ rõ ràng, nghiêm túc. Có đoạn viết “...Các đồng chí nghi vấn chính trị với đồng chí Đoàn Duy Thành là sai, không có căn cứ xác thực, yêu cầu các đảng viên phải nghiêm túc chấp hành kết luận của Ban Bí thư. Nếu đồng chí nào còn có ý kiến bảo lưu ở khía cạnh này, hay khía cạnh khác thì để lưu vào hồ sơ. Không đồng chí nào được nói khác kết luận của Ban Bí thư. Phải giữ vững nguyên tắc lập trung dân chủ và kỷ cương của Đảng”.
Thông báo này phổ biến đến các Tỉnh uỷ, Thành uỷ, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương. Riêng Đảng bộ thành phố Hải Phòng và Đảng bộ cơ sở nơi đồng chí Đoàn Duy Thành sinh hoạt Đảng được phổ biến đến chi bộ (Đồng chí Đào Duy Tùng thay mặt Ban Bí thư đã ký).
Sau 3, 4 tháng, tình hình lắng dịu. Khoảng tháng 9-1993, có Hội nghị giữa nhiệm kỳ, bầu bổ sung Trung ương. Số đại biểu đi dự đại hội lần thứ 7 chỉ được triệu tập khoảng 70%, tôi không được triệu tập đi họp, dù tôi là đại biểu chính thức Đại hội Đảng lần thứ 7. Tôi không được cử đi họp là chắc chắn như dự đoán của tôi. Tôi cũng không biết chính xác số đại biểu dự hội nghị giữa nhiệm kỳ là bao nhiêu đại biểu. Nhiều đồng chí uỷ viên, có cả uỷ viên Bộ Chính trị nói với tôi, yêu cầu Trung ương mời tôi đi dự hội nghị giữa nhiệm kỳ và bầu lại vào Ban chấp hành Trung ương. Nhưng tôi đều cảm ơn và từ chối, không đặt vấn đề này ra làm gì nữa. Việc nó đã qua rồi, cho nó qua. Có đồng chí còn nói găng: “Cứ đến bắt đền ông Mười là ông ấy phải giải quyết”. Tôi nói lại: “Tôi đã nói với anh Mười, tôi chỉ đến xin công việc làm ích quốc lợi dân, còn xin chức vụ, quyền lợi không bao giờ tôi xin”.
Trong bản dự thảo thông báo của Văn phòng Trung ương về vấn đề của tôi, đưa cho anh Mười duyệt, anh chỉ gạch đi 2 từ: “hoàn toàn” ở câu: “Các đồng chí nghi vấn chính trị đối với đồng chí Đoàn Duy Thành là hoàn toàn sai”. Nay chỉ còn “là sai”. Nó cũng làm nhẹ khuyết điểm cho những đồng chí vu khống tôi một ít. Anh Đỗ Mười thừa biết là họ “hoàn toàn” bịa đặt. Sau một thời gian, họ lại tung tin: “Anh Đỗ Mười vội vàng, hồ đồ kết luận không chính xác về Đoàn Duy Thành”. Rồi họ đi “vơ bèo vạt tép” tin thất thiệt về tôi, như nhân chứng Nguyễn Văn Cấp, nguyên Bí thư Huyện uỷ Kim Thành nói là không có việc tôi về chữa bệnh ở Kim Thành. Tôi yêu cầu cho đối chất với anh Cấp. Anh Mười bảo: “Đối chất thế là đủ rồi. Vấn đề là để làm rõ bị bắt tháng 9 hay tháng 2-1951. Tháng 7-1951 cậu còn ở cơ quan văn phòng Thành uỷ. Còn dự đám cưới tập thể, bao nhiêu người làm chứng. Còn việc đi chữa bệnh ở Kim Thành tháng 2 đến tháng 5-1951 đã có anh Lê Công Thiệu làm chứng là đủ”. Tôi muốn đối chất với anh Cấp để vạch bộ mặt giả dối của anh ta. Vì tôi về chữa bệnh ở cơ quan huyện đội, anh Cấp cùng đồng chí Nguyễn Đình Củng, Chánh văn phòng đến thăm tôi ở nhà bà Kỷ, xóm Chùa, thôn Quê Phương, xã Bình Dân. Khi cơ quan huyện đội chuyển sang sơ tán ở Bãi Xuân Đám, Thanh Hà, ban đêm ngủ trên thuyền, anh Cấp còn đánh cờ tướng bằng trí nhớ với tôi v.v... Anh Cấp quen biết quá rõ tôi. Thế mà trong đơn tố cáo tôi, anh Cấp nói: “Tôi không biết anh Thành, tôi cũng không gặp anh Thành lần nào. Chỉ khi anh Thành làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tôi mới biết...” Anh bị một số anh em tù Côn Đảo ở Hải Dương và đồng chi Lê Công Thiệu phản bác lại. Anh Cấp lại đến đồng chí Nguyễn Đình Củng xác minh việc anh ta đến thăm tôi và có ý vận động anh Củng nói là không có. Khi sinh thời, đồng chí Củng kể lại chuyện này với tôi. Tôi lại càng thấy đấu tranh nội bộ nếu không nghiêm, nó sẽ lây lan rất phức tạp.
Chính sau khi đối chất xong, các đồng chí Ban Tổ chức kiến nghị với anh Mười nên có hình thức kỷ luật với những người nói sai sự thật, nhưng anh Mười gạt đi.
Một số anh em trong số 11 người, đi phân bua với nhiều người, nói là vì việc chung phải làm. Có người còn nói với một đồng chí bạn thân của tôi là: “Mình phục vụ cho ông ấy (ý nói anh Mười), ông lại kết luận mình sai. Nay mình chỉ yêu cầu ông ấy sửa bản thông cáo, bỏ chữ “là sai” là chúng mình không làm tiếp nữa. (nghĩa là không vu khống ông Thành tiếp nữa)”. Cổ nhân đã răn dạy, cần phải nhớ: “Sinh sự, sự sinh; hà nhật liễu! (Sinh ra việc, gây sự với người ta, người ta phải gây sự lại, không ngày nào kết thúc được). Do đó người lãnh đạo vì dân, vì nước, phải biết vì lợi ích của nhân dân, phải chọn điểm dừng, chấm dứt sự việc. Chỉ biết có mình và quên việc người khác phản ứng lại ra sao, tất nhiên phải đẻ thêm chuyện, không biết giải quyết đến lúc nào cho hết. Đến nay thấy rõ hai phía đều đòi nợ anh Mười. Tôi đòi anh Mười phải trả lại những gì anh đã làm ảnh hưởng đến tôi, gia đình vợ con tôi. Còn phía bên kia họ đòi công phục vụ anh, hơn nữa đã không được trả công lại bị kết luận là sai. Cứ thế, và cứ thế... Từ việc làm không đàng hoàng chính trực, biết bao cán bộ cấp dưới bắt chước, sinh nhờn kỷ luật. Từ kỷ luật sắt thành kỷ luật “mỡ” đó chẳng phải là bài học xây dựng Đảng, xây dựng con người lãnh đạo, phải có đức, có tài để làm gương tốt cho đời nay và mai sau hay sao? Các con tôi, bốn trai, các cháu đã trưởng thành, đều là đảng viên và cán bộ trung cấp. Chúng biết suy nghĩ và đều có bản lĩnh. Các cháu không buồn, không nản lòng, chỉ cám cảnh cho những đồng chí của bố mình lại làm những việc đen tối, nhằm hãm hại bố mình một cách độc ác. Có một số nhà văn, nhà báo đến phỏng vấn các cháu, cháu Đoàn Duy Khương con trai thứ ba của tôi đã trả lời:
- Tôi biết bố tôi đã hy sinh cho đất nước, cho gia đình và chúng tôi như thế nào. Mẹ tôi và bạn bè của bố tôi kể lại cho chúng tôi nghe. Tôi tin tưởng sắt đá rằng bố tôi là người trung thành tuyệt đối với Đảng và dân tộc. Nhưng cứ giả thiết rằng bố tôi là “gián điệp quốc tế” thì tôi rất tự hào được là con một người thông minh nhất thế giớí. Vì tất cả các loại gián điệp thông minh và giỏi nhất thế giới, mà ta biết, họ đi làm gián điệp, phải thay tên đổi họ, phải bỏ vợ con gia đình ở quê hương, đi một nơi khác... Thế mà bố tôi làm “gián điệp quốc tế” vẫn sống đầm ấm với mẹ con tôi vẫn sống ở quê nhà với cái tên thật mà trong nước lẫn thế giới đều quen thuộc: “Ông Đoàn Duy Thành”. Như thế phải là người thông minh nhất thế giới mới che mặt được cơ quan chống gián điệp của ta chứ!
Đồng chí Đỗ Mười đã dùng rất nhiều cách để hạ uy tín của tôi. Có rất nhiều chuyện, tôi chỉ kể ra đây hai chuyện. Trước đại hội 7 trong cuộc họp bàn về nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa 7. Anh Mười đứng lên phát biểu: “Bây giờ mới khui ra Đoàn Duy Thành có 3,4 nhà ở Hải Phòng...”. Đồng chí Nguyễn Đình Hương, Phó ban Tổ chức Trung ương phải đứng lên cải chính: “Anh Đoàn Duy Thành chỉ có một nhà ở Hải Phòng do thành phố thu xếp cho, chúng tôi đã đi kiểm tra. Khi về công tác ở Trung ương, anh Thành đã trả lại nhà cho thành phố”.
Câu chuyện thứ hai. Anh Mười nói với một số cán bộ thân anh Mười để họ làm cái loa nói theo: “Đoàn Duy Thành ôm chân Võ Văn Kiệt.”. Họ rêu rao chuyện đó hàng năm. Anh Lê Đức Thọ nghe biết chuyện này. Anh Thọ đã nói trong một cuộc họp: “Đoàn Duy Thành nó thèm ôm chân ai. Đến tôi, nó cũng cãi tới số”. Một hôm tôi gặp anh Mười, tôi bảo: “Anh bảo tôi ôm chân anh Võ Văn Kiệt? Anh biết đấy, ở cái đất nước này tôi không thèm ôm chân ai. Nếu có ôm chân là ôm chân anh. Tôi đề nghị anh không nên nói như vậy. Tôi quí trọng người có đức, có tài; lễ độ, tôn kính người biết lự trọng và đối nhân xử thế có nhân cách...” Từ đó anh Mười mới không nói nữa v.v...
Kể ra còn nhiều, nhưng tôi nghĩ những chuyện sinh hoạt tầm thường của cá nhân không nên kể.
Năm 1997, Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp có dư luận nói là lần này tôi không làm chủ tịch và về hưu. Việc về nghỉ, với tôi, tôi đã nói nhiều rồi. Bao giờ Đảng và Nhà nước bảo nghỉ là nghỉ ngay. Tôi không xin. Không rõ ai nói đến tai nhà tôi, nhà tôi đến nhà anh Mười, xin cho tôi làm thêm khóa nữa. Khi nhà tôi về, tôi hỏi nhà tôi đi đâu. Nhà tôi bảo đi đòi nợ ông Mười. Tôi hỏi lại, đòi cái gì? Nhà tôi mới cho biết đến đề nghị anh Mười để tôi làm thêm một khóa nữa. Tôi bảo: “Anh đã bảo em nhiều lần, không nên xin anh Mười chức vụ quyền lợi gì”. Nhà tôi đứng phắt dậy nói: “Em đến đòi nợ ông ta. Ông ta đã làm anh khổ sở, quá thiệt thòi. Đến đòi được ít nào hay ít ấy... Anh để mặc em, lần này em phải làm cho ra nhẽ. Không để ông ấy bắt nạt mình mãi...”.
Mấy hôm sau, anh Mười gọi tôi đến bảo: “Cậu về làm đơn xin làm thêm khóa nữa”. Anh không nhắc gì chuyện nhà tôi đến gặp anh. Tôi bảo: “Anh bảo tôi làm đơn, anh có ủng hộ không? Nếu anh không ủng hộ, không sao đâu”. Anh Mười chỉ bảo “Cậu về làm đơn đi”. Tôi về suy nghĩ, bàn với mấy đồng chí giúp việc. Các đồng chí khuyên tôi nên viết đơn. Phòng Thương mại và Công nghiệp cũng rất cần tôi làm thêm khóa nữa. Còn tôi, tôi cũng nghĩ đến những công trình dở dang, cơ chế về vai trò của doanh nghiệp và doanh nhân chưa được thông qua, nếu tôi làm tiếp cũng là để hoàn tất được công việc. Tôi viết đơn gửi anh Mười và gửi đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.
Sau Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, anh Mười đi một số nơi tại Hải Phòng, anh Mười nói: “Đấy, Đoàn Duy Thành xin tôi làm khóa nữa, tôi cho làm đấy”. Tôi nghe các đồng chí nói lại. Tôi bảo nhà tôi: “Anh Mười đã kể công với mình đấy”. Nhà tôi bực mình nói: “Mặc ông ấy, mình đòi được một ít nợ là được rồi”. Tôi bảo: “Nợ này được cái gì? Chỉ biết trước mắt phải làm bao nhiều việc cho doanh nghiệp, cho VCCI...”. Nhà tôi lại lý sự với tôi: “Được làm việc cho cách mạng, đem lại lợi ích cho mọi người chứ sao. Để người khác họ đến phá và thu vén hết cho cá nhân, thì công lao khóa trước của anh cũng mất hết...” Tôi cười vui và nói: “Tôi lại thấp mưu hơn cô”.
Đến giữa nhiệm kỳ khóa 7. Tôi lại thăm anh Mười. Dù anh đối xử với tôi thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn giữ tình cảm anh em, đồng chí với anh. Lúc nào tôi cũng coi anh là Thủ trưởng. Anh kể cho tôi nghe, cuộc họp Trung ương giữa nhiệm kỳ này, anh xin nghỉ. Tôi hỏi ai thay, anh bảo tôi: “Lê Khả Phiêu”. Rồi anh giới thiệu quá trình của anh Lê Khả Phiêu, có đoạn đáng lưu ý và buồn cười với sự giới thiệu và giải thích này “Cậu Phiêu nó chiến đấu ở Bình Trị Thiên được rèn luyện 14 năm. Nó lên có thể giữ được hai khóa. Còn bảo nó hủ hóa thì mấy người còn hủ hóa quá nó!”. Tôi nói, phải giữ được hàng trăm năm chứ sao lại hai khóa? Còn đoạn sau tôi không bình luận. Khi nghĩ một Tổng Bí thư giới thiệu một Tổng Bí thư mới thay mình mà nói như vậy nghe không được. Không rõ anh Mười đã nói với bao nhiêu cán bộ về câu chuyện này? Tôi thấy cách giải thích đó không đúng tầm của một cán bộ lãnh đạo quốc gia...
Đến Đại hội 9, trong thời gian chuẩn bị nhân sự đại hội, tôi biết có nhiều phức tạp. Bộ Chính trị mời một số cán bộ cao cấp đến tham khảo ý kiến về nhân sự, trước khi đến họp tôi lại thăm anh Mười. Anh nói nhiều chuyện về nhân sự. Khi nói đến Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, anh Mười nói: “Cậu Phiêu bây giờ gái nó nắm hết rồi. Có đứa là CIA. Kỳ này phải thay người khác...” Tôi đã định nói một câu, nhưng suy đi nghĩ lại sợ anh Mười phật lòng, nên tôi không nói nữa. Câu tôi định nói là: “Nay chắc anh Lê Khả Phiêu hủ hóa hơn mấy người trước?”. Tôi thấy rất buồn, cán bộ chủ chốt không đào tạo, không qui hoạch, thay đổi vội vàng thì lòng Đảng không yên, lòng dân yên sao được?
Trong việc thay anh Lê Khả Phiêu, tôi đến dự hội nghị được một đồng chí cho biết: có một cán bộ thân với anh Mười, hỏi anh Mười sao lại làm như vậy. Anh Mười trả lời: “Nó lật tôi, tôi lật lại”. Tôi nghĩ trong nội bộ mà xử sự như vậy lộn xộn lắm!
Tôi nhớ lại, Đại hội 7, anh Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư sẽ nghỉ. Anh bảo tôi lại nhà chơi. Anh hỏi tôi giới thiệu ai là người thay anh. Rồi anh đưa vài người ra phân tích cho tôi nghe. Khi anh lại hỏi ý kiến. Tôi nói: “Như anh đã nói nhiều lần khi anh làm Tổng Bí thư khóa 6: Cán bộ không qui hoạch, không đào tạo, nước đến chân mới nhảy, như cầm đóm đi soi ếch... còn bây giờ tùy anh và Bộ chính trị chọn. Tôi nghĩ: “Cạn ao, bèo đến đất”; “Chọn bó đũa lấy cột cờ”, giữ được đoàn kết nội bộ, ổn định chính trị là tốt nhất. Còn các đồng chí mà anh giới thiệu, kẻ 8 lạng, người nửa cân, người được mặt này, yếu mặt kia, tùy anh lựa chọn. Tôi không dám tham gia cụ thể”.
Sắp hết đời chỉ mong được tự do nhưng vẫn không yên thân
Cuối năm 2002 mọi người đều biết là đến tháng 4-2003 tôi sẽ nghỉ hưu, sau Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp VN. Một số nhà văn, nhà báo đến chơi. Trong các buổi đến chơi, các đồng chí cũng không đặt vấn đề phỏng vấn, chỉ đề nghị tôi trong đời hoạt động cách mạng có những gì còn đọng lại, mang dấu ấn vui buồn thì kể lại cho nghe. Trong các cuộc gặp gỡ cuối năm vui vẻ đó, tôi kể một số chuyện mà tôi tâm đắc nhất... Rồi các nhà báo về tự viết. Họ đưa lại tôi xem những sự kiện viết có chính xác không, còn văn vẻ, đầu đề bài báo do nhà báo, nhà văn viết, tôi không duyệt lại. Số báo có các bài khi xuất bản các đồng chí đều biếu tôi, nơi mộc bản, nơi 2, 3 bản, như các bài “Vị tướng của doanh nhân” báo Thế Giới mới; bài “Thủ lĩnh của doanh nghiệp” của báo Tài chính; bài “Người say mê với sự nghiệp làm giàu” của báo Khoa học. Và một số báo khác.
Những bài báo trên là hoàn toàn sự thật 100% nhưng không hiểu sao anh Đỗ Mười lại tức giận đến thế! Anh không nói gì với tôi, nhưng qua nhiều nguồn tin tôi biết. Tôi nghĩ có dịp đến thăm, tôi sẽ nói cho anh Mười rõ là tôi không có ý định viết về mình. Ngay các nhà báo viết những bài trên, gần đây đến chơi và gọi điện cho tôi nói rằng họ viết hoàn toàn tự nguyện, không ai đề nghị, nhưng áy náy vì đã làm cho tôi phải phiền lòng. Tôi bảo không sao cả, quan trọng là sự thật.
Ngày 2-8-2003 anh Đỗ Mười bảo tôi đến chơi. Nhân đó tôi hỏi anh Mười sao không kỷ luật những người tái vu khống tôi trên tờ báo An ninh Thế giới?
- Tôi sẽ kiện ra tòa về tội vu khống chính trị. Hôm nay tôi chính thức đề nghị với anh đồng ý cho tôi kiện.
Anh Mười vội vàng tìm máy gọi anh Nông Đức Mạnh, anh Phan Diễn, anh Trần Đình Hoan để nói chuyện. Nhưng ba anh trên đều đi vắng. Anh Mười nói chuyện với thư ký của ba anh, nhắc ba anh giải quyết sớm vụ việc của tôi, không để tôi đi kiện.
Sau đó anh ngồi nói chuyện với tôi, anh bảo: “Mình đã vo tròn lại, cậu lại rũ rối ra”. Câu nói đó tôi rất sửng sốt, không hiểu tôi rũ rối cái gì. Vụ anh Tô Duy vu khống tôi, từ ngày có kết luận của Tổng Bí thư tôi có nói gì nữa đâu. Chỉ khi họ tung tin anh Mười kết luận “hồ đồ”, “vội vàng”, ám chỉ anh Mười thiên vị tôi, tôi mới làm đơn xin đối chất lại, xóa kết luận cũ, giao cho một người chủ trì do phía anh Tô Duy giới thiệu, để khỏi mang tiếng cho anh Mười. Có thế thôi. Tôi có rũ rối gì đâu? Anh Mười nói: “Tôi nhận được miếng giấy con của anh Nguyễn Văn Trân (anh giơ ba đầu ngón tay ra, và nói bằng từng đây này), phản đối bài báo của cậu “Vị tướng của doanh nhân”. Tôi nghĩ liên quan gì đến anh Nguyễn Văn Trân về bài báo này nhỉ? Tôi ngồi suy nghĩ phân vân quá! Vì sao mấy bài báo nói sự thật vừa qua, lại dẫn đến bài báo của anh Tô Duy đăng ở trang 31 báo An ninh thế giới ra ngày 17-4-2003. Trước ngày họp Đại hội Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam? Thật là khó hiểu...
Sau đó anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện Tô Duy nữa: “Hai ông gộc, một Phó Thủ tướng, một Bộ trưởng đi kiện nhau làm gì”. Tôi nói tôi kiện thì anh và anh Võ Chí Công cũng phải ra tòa làm chứng. Anh Mười bảo: “Thế cơ à”. Tôi cười và nói: “Luật của thế giới là vậy đấy. Còn ở ta các anh viết một lá thư, hoặc cho luật sư nói thay là đủ”. Anh Mười bảo tôi thôi đừng kiện nữa, sẽ bảo anh Nông Đức Mạnh giải quyết sớm. Còn việc nhập vàng hỏi chú Thuý, anh không nhớ. Tôi nghĩ việc nhập vàng anh “chửi” tôi hàng năm, anh lại không nhớ, thật là kỳ lạ! Tôi chào anh ra về. Anh tiễn tôi ra đến cổng, một cách thân mật.
Tối về nhà, tôi tiếp tục suy nghĩ. Mở lá thư của anh Tô Duy viết ngày 15-5-2003 gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và anh Đỗ Mười, trang 4 có đoạn viết: “Đồng chí Đỗ Mười nguyên Tổng bí thư Trung ương Đảng, tố cáo bài báo đó chứa đựng nhiều điều bịa đặt, lừa bịp rất trắng trợn, để đề cao cá nhân Đoàn Duy Thành một cách hết sức lố bịch”.
Tôi lại nhớ buổi gặp anh Mười, khi tôi mới đến, anh Mười nói ngay: “Cậu Tài nó mới được phong anh hùng đấy!” Thóang nghĩ tôi hiểu anh lại muốn động viên tôi (anh Tài cũng bị nghi oan khi ở tù như tôi, sau được thẩm tra kết luận tốt).
Khi tôi nói đến các bài báo mới đăng dịp tết năm 2002-2003 đều hoàn toàn là sự thật, chẳng có một việc nào bịa đặt, tôi chìa lá thư của anh Tô Duy ra. Anh Mười tỏ vẻ hơi bối rối, nói lảng sang chuyện khác. Vì lá thư này anh Tô Duy cũng gửi cho anh Mười. Tôi định đọc đoạn anh Mười nhận xét bài báo như đã nói trên, nhưng suy nghĩ tôi lại thôi. Vì anh mời tôi đến chơi chứ tôi không chủ động đến để “đôi co” với anh.
Mấy hôm sau chị Kiệm, nguyên Vụ trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (phu nhân đồng chí Lê Xuân Thịnh, nguyên Bí thư Thành uỷ Hải Phòng đã hy sinh ở Thái Bình) đến chơi kể lại chuyện mới gặp anh Mười. Chị kể: “Anh Mười nói: cậu Thành cũng có khuyết điểm. Tôi đã vo tròn rồi cậu Thành lại cho đăng báo tâng bốc mình quá mức. Việc nhập vàng là tôi bảo Cao Sĩ Kiêm nhập. Cậu Trần Phương và cậu Thành lúc đó tính đều sai cả. Tôi làm, tôi tính mới đúng, mới giải quyết được lạm phát, khủng hoảng kinh tế”. Chị Kiệm nói lại với anh Mười: “Tôi tưởng khuyết điểm gì, chứ nói quá mức thành tích thì không khuyết điểm để so sánh với việc anh Tô Duy đăng trên báo An ninh thế giới...”.
Sau khi tôi nghe chị Kiệm kể lại câu chuyện gặp anh Mười, tôi buồn cười về một đồng chí Thủ tướng vơ hết thành tích về mình, đổ lỗi cho người khác, nhất là nói sai sự thật:
1/ Khi tôi nhập vàng anh Cao Sĩ Kiêm còn ở Thái Bình.
2/ Việc anh Trần Phương tính ra sao tôi không biết.
Còn bài tính của tôi khi tôi làm Phó Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, anh Mười đã tuyên bố 2 lần ở các phiên họp Hội đồng bộ trưởng và Thường vụ Hội đồng bộ trưởng là “làm theo bài tính của anh Đoàn Duy Thành”. Nay anh Mười nói với chị Kiệm là tôi tính sai hết. Tôi vừa buồn cười vừa suy nghĩ nói với chị Kiệm: “Đúng là nhân dục vô nhai. Mình là thằng đầy tớ dọn cỗ cho thầy ăn, mình chỉ đợi vét đĩa mà cũng không được vét đĩa, thầy lại đòi vét nốt...”. Tôi nhớ lại khi được điều về Hà Nội công tác, vội vàng khăn gói ra đi, nhà tôi sợ tôi ốm, cũng theo lên Hà Nội phục vụ chồng, giao cho bà ngoại trông nom các cháu ở Hải Phòng. Các cháu cũng đã lớn, đi làm việc nhưng vẫn ăn ở chung tại số 10 Đinh Tiên Hoàng. Nghe chú Xuân Khang, kỹ sư, nhạc sĩ kể lại mà tôi rơi nước mắt: “Đến gặp cháu Phương, cháu Trọng đang ăn cơm trưa, chẳng thấy có gì. Cháu Phương bảo cháu Trọng xem còn gì mang cho anh ăn cơm. Cháu Trọng bảo chỉ còn mấy con tôm, bà dặn để dành tối ăn...”. Tôi nhắc câu chuyện đó với nhà tôi, bảo nhà tôi lo cho các cháu đôi chút về đời sống. Nhà tôi gắt: “Lương chỉ có thế thì ăn thế. Nghe cái mồm chú Khang làm gì...”.
Trong lúc đó, không biết theo chỉ thị của ai, họ đem camera, đặt ở tầng hai nhà kế bên nhà số 10 Đinh Tiên Hoàng để theo rõi nhà tôi. Sau này tôi biết một chi tiết rất nhỏ: “Đặt camera theo rõi nhà ông Thành xem có di chuyển tài sản gì đi đâu không. Nếu có, báo ngay cho biết chuyển tài sản gì đi, nhất là ban đêm, sẽ ập vào bắt và khám nhà”. Theo rõi nửa năm chẳng thấy động tĩnh gì nên họ rút.
Phòng gác hai là của đồng chí Phan Văn, Giám đốc Sở Văn hóa được phân phối. Nhưng đồng chí Phan Văn về ở với con, phòng khóa cửa. Còn do ai cho mượn để đặt máy quay thì đồng chí kể lại chuyện này không cho tôi biết.
Họ nghĩ rằng tôi công tác ở Hải Phòng 36 năm, làm Chủ tịch và Bí thư Thành uỷ 7 năm, chắc vơ vét được nhiều tiền của lắm, nhiều tài sản quí hiếm lắm! Sau khi được nghe kể lại chuyện này, tôi rất buồn. Làm cho dân, cho nước, mình không vụ lợi một xu nhỏ, đối xử với mình lại như thế?
Mãi đến 1990, khi tôi nghỉ Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại và xin về hưu, một số công ty thuộc Bộ và địa phương đến thăm thấy Bộ trưởng tài sản chẳng có gì, đồng chí Mai Văn Dâu, Giám đốc Tổng hợp I của Bộ mang xuống tặng một cái Tivi cũ của Nhật bản; Công ty xuất nhập khẩu thành phố Vũng Tàu và tỉnh Đồng Tháp cho cái tủ lạnh và bộ Radio Cassette; Vợ chồng đồng chí Giám đốc công ty Huy Hoàng - Cẩm Nhung cho bộ Cassette 4 tầng mới nhất của Nhật Bản và 5 triệu đồng. Nhà tôi từ chối mãi không được. Chú Huy Hoàng và cô Cẩm Nhung nằn nì mãi, và nói: “Anh đã nghỉ rồi, đây là tình cảm, chị nhận cho”. Nhà tôi nhất định không nhận. Hai cô chú cứ để lại và ra về... Công ty Rau quả Hải Phòng cho nhà tôi một điều hòa cũ do Liên Xô sản xuất. Từ đó trong nhà chúng tôi mới có hàng “xịn” để dùng. Còn trước chỉ có một Tivi Neptun của Ba Lan sản xuất, một đài Hồng Đăng của Trung Quốc. Nghỉ Bộ trưởng, thành ra đổi đời về sinh hoạt.
Khi đương chức, một số anh em biếu quà bình thường, thì nhà tôi nhận, còn không nhận. Có người đi nước ngoài về cho mấy củ sâm cao ly, khách ra đến cổng rồi, nhà tôi còn đuổi theo trả lại. Năm 1993 tôi sang thăm Thái Lan. Biết anh Nguyễn Văn Linh mới đi thăm Italia về cùng nghỉ ở lầu trên khách sạn Principale Băng Cốc, tôi lên thăm anh. Anh kể chuyện đi thăm Italia cho tôi nghe. Rồi anh nhắc lại việc tôi xin từ chức, anh lại khóc, anh lại nói lại: “Tôi không cứu được anh”. Tôi bảo: “Tôi làm gì khiến anh phải cứu? Có ủng hộ tôi thì ủng hộ”. Tôi biết anh Nguyễn Văn Linh rất có tình cảm với Hải Phòng và với tôi. Anh lớn lên từ 6 tuổi đã ở với chú tại Hải Phòng. Qua nhiều năm công tác, tôi quen biết anh, lại cùng ở tù Côn Đảo, tuy anh là bậc đàn anh, lớp tù trước so với tôi nhưng mỗi khi anh em gặp nhau là chuyện trò rất sôi nổi... Các đồng chí tỉnh uỷ Hải Hưng kể lại với tôi, anh đến thăm Hải Hưng, nói chuyện với Tỉnh uỷ, anh cũng nhắc đến tôi một cách trìu mến và nói: “Trong Đảng ta, cán bộ cao cấp được thử thách, thẩm tra, xem xét kỹ nhất là đồng chí Đoàn Duy Thành...”. Có đồng chí hỏi anh: tại sao anh không bảo vệ được anh Thành? Anh trả lời: “Ba thằng đánh một, chẳng chột cũng què”. Tôi cũng chẳng tìm hiểu họ là ai, mặc dù một số đồng chí Tỉnh uỷ Hải Hưng nói rõ là anh Linh đã chỉ ra họ, tên là gì, nhưng tôi nghĩ tìm hiểu để làm gì? Mình theo tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ, và đối nhân xử thế của Khổng đạo. Sách Luận ngữ đã chép, có một học trò hỏi Khổng Tử một câu về xử thế: “Dĩ đức báo oán hà như?”(Lấy điều đức để báo oán lại oán thù có được không?) Khổng Tử trả lời: “Bất nhược dĩ trực báo oan” (không bằng lấy điều thẳng để báo lại). Bởi vậy tìm hiểu chỉ thêm phải suy nghĩ. Một người đã quá đủ rồi, huống chi lại ba người đánh một! Tôi bỏ qua, chẳng nghĩ, chẳng nói làm gì, họ chỉ là người “góp cỗ chia phần” thôi. “Dậu đổ thì bìm leo” đó là thói đời.
Trước khi anh Nguyễn Văn Linh mất 25 ngày, tôi đến thăm anh ở nhà riêng, có các đồng chí Vũ Tiến Lộc, Nguyễn Hữu Hải, Phạm Gia Túc cùng đi. Lúc này anh yếu nhiều. Anh vẫn đi từ gác xuống, một tay bịt một bên mắt, một tay ôm bụng, tiếp chúng tôi hơn 1 giờ. Tôi tặng anh cuốn “Côn Đảo một thời để nhớ”, hồi ký của tập thể anh em tù chính trị Côn Đảo sinh sống ở Hà Nội. Anh cố vui để tiếp chúng tôi, nói nhiều chuyện trong nước và thế giới. Bất thình lình anh hỏi: “Tại sao lúc đó anh lại thôi Phó thủ tướng nhỉ?”. Tôi cũng bất ngờ. Tôi trả lời anh, tôi từ chức tại hội trường T78, anh chủ trì mà anh quên rồi à? Anh suy nghĩ một lát rồi nhớ ra: “Tại sao tôi lại cho anh từ chức nhỉ?”. Rồi anh lại khóc. Tôi vừa cảm động, vừa thương anh, không biết với anh chống đỡ được đến bao giờ bệnh ung thư đang hoành hành ở anh. Đau yếu thế, mà anh chỉ bàn việc, lo cho nước, cho dân. Bao điều suy nghĩ mà anh bộc lộ với tôi và các đồng chí cùng đi. Chúng tôi rất cảm động về con người cộng sản này. Hoạt động từ năm 13 tuổi, đến 16 đã bị bắt, bị tra tấn và đày đi Côn Đảo. Gần đây đồng chí Nguyễn Văn An, Uỷ viên Bộ Chính trị khi làm trưởng Ban tổ chức kể lại với tôi là: “Anh Linh là người mà bảo nghỉ là nghỉ ngay, rất vui vẻ, không khó khăn như những anh khác...”.
Kể từ sau ngày tôi từ chức, đến lúc anh Nguyễn Văn Linh qua đời, tôi gặp anh bốn lần. Lần nào anh cũng khóc mỗi khi nhắc đến việc từ chức của tôi. Còn tôi từ chức là vì lý tưởng và phẩm chất của tôi, giữ cho đảng ta nội bộ đoàn kết, tìm được người có tài - đồng chí để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đối với anh Nguyễn văn Linh, tôi biết ơn anh đã có tình cảm thực sự chân thành với tôi.
Và từ ngày 02-8-2003 tôi khẳng định được hơn 20 năm qua anh Đỗ Mười là nguyên nhân của mọi nguyên nhân gây rắc rối cho đời hoạt động của tôi.
Còn anh Tô Duy là người trung thành với anh Đỗ Mười, được anh Mười giao mọi việc, đã cung cấp tài liệu giả để anh Mười tin. Khi sự thật đã quá rõ ràng anh Mười không còn cách nào khác, phải kết luận là tôi đúng. Anh Tô Duy vừa không bằng lòng, vừa cố ý tìm chứng cứ để cho anh Mười tin mình đúng, nên đã táng tận lương tâm cứ nói tôi bị bắt tháng 2-1951, dù không có chứng cứ gì cả. Còn anh Mười cũng phải bảo vệ anh Tô Duy. Anh Tô Duy vì anh Mười mà làm. Bởi thế sự việc giải quyết không dứt điểm được. Tôi tự hỏi sự việc này còn kéo dài đến bao giờ? Đó là nguy cơ tiềm ẩn, gây rối ren trong nội bộ, gây bài học xấu cho hiện nay và mai sau về việc tranh chức, tranh quyền trong nội bộ. Còn tôi sống được đến hôm nay vì trong Đảng cũng còn dân chủ, cũng có những cán bộ trung thực, không a dua làm điều bất nghĩa.
Tôi nhớ năm 1996, tôi đến Paris dự hội thảo và dự triển lãm Việt Nam tại Pháp. Xong việc, tôi cùng đồng chí Bùi Việt Cường, đại điện Việt Nam ở Liên hiệp quốc đóng ở Geneve Thuỵ sĩ và ông Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Việt kiều ở Pháp, đến thăm người em con ông cậu tôi là Nguyễn Đức Riễm đã gần 90 tuổi. Hai vợ chồng chú Riễm đón chúng tôi, chú mừng rỡ nói: “Bác còn giữ được cái đầu đến thăm em là quí lắm rồi! Bên này người ta đồn bác là gián điệp quốc tế, em rất lo. Thế là chế độ cộng sản cũng còn công minh hơn phong kiến nhà Lê. Nếu đã không thì có vụ “Lệ Chi Viên thứ hai ở Việt Nam”. Tôi buồn cười hỏi: “Sao, ghê thế cơ à?” Tôi chẳng thấy gì đáng sợ. Tôi không lúc nào buồn và suy nghĩ ghê gớm như chú cả. Tôi vẫn làm việc bình thường”. (Chú Riễm là cơ sở tình báo của ta, từ 1954 đưa vào vùng tạm chiếm hoạt động, còn hoạt động như thế nào tôi không biết. Chú Riễm đã mất năm 2000).
Trong nước cũng nhiều người lo lắng cho tôi, nhưng tôi không kể làm gì cho thêm đau lòng. Mong sao từ nay trở về sau không còn có những con người như vậy, để Đảng ta vượt lên tầm của thời đại, để có một Đảng trong sáng tuyệt vời. Noi gương Bác Hồ để xây dựng Đảng, thì mọi việc sẽ thành công.
Còn đối với anh Đỗ Mười, tôi phải phục anh là người “siêu” trong việc che giấu nội tâm của mình.
Ngày 21-6-2003 trong thư tôi gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, anh Đỗ Mười, anh Võ Chí Công, ở trang 7 tôi còn đánh giá: “Chắc cả nước ta ai cũng biết đồng chí Đỗ Mười là người thẳng thắn trung thực”. Nhưng mãi đến ngày 2-8-2003, hơn 20 năm, sự thật đã trần truồng2, tôi mới khẳng định được, người đứng sau vụ án “gián điệp quốc tế” này, chính là đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư của Đảng ta. Đồng chí Đỗ Mười đạo diễn và chỉ đạo rất tinh vi, lúc cứng lúc mềm đối với tôi, làm cho đối tượng như rơi vào trận đồ bát quái, không xác định được phương hướng. Do đó, quá trình diễn ra vụ án nghi vấn chính trị lớn nhất đối với tôi, có rất nhiều đồng chí, kể cả hầu hết Uỷ viên Bọ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, lúc đó đặt câu hỏi với tôi: “Cần phải xem xét còn có nguyên nhân sâu xa gì nữa mà hơn một chục cán bộ chủ chốt Hải Phòng, không ai có chứng cứ cụ thể, lại dám ký vào đơn tố cáo? Anh cần xem xét kỹ việc này”. Tôi chưa trả lời được câu hỏi ấy.
Nhưng từ sau ngày 2-8-2003, tôi đã có thể trả lời câu hỏi này, khi đồng chí Trần Đình Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, ngày 8-8-2003 đặt câu hỏi như nội dung trên. Xin thưa: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”.
Tháng 1-2004 đồng chí Nguyễn Đức Tâm, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương lại đặt lại câu hỏi này với tôi, mà trước đây đồng chí đã hỏi tôi nhiều lần, tôi chưa trả lời được. Nay tôi đã trả lời chính thức đồng chí Nguyễn Đức Tâm: “Tất cả là do đồng chí Đỗ Mười”.
Viết đến đây tôi nhớ đến Nguyễn Trãi. Trước khi qua đời ông đã than rằng:
“Mọi chưng khắp chốn đều thông cả,
Bụi một lòng người cực hiểm thay!”
Và, lời trăng trối cuối cùng của Phu-xích, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, tác giả tiểu thuyết “Viết dưới giá treo cổ”:
“Nhân loại hỡi! Ta yêu tất cả mọi người.
Hãy cảnh giác!”.
Hồi ký Đoàn Duy Thành - Chương 9
Con cá nó sống vì nước - Chủ tịch phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) sống vì doanh nghiệp
Thuở nhỏ, trước năm 1945, thỉnh thỏang tôi theo bố mẹ đi xem hội, vào một số đình chùa. Tôi gặp từng đám người nghèo khổ phải đi ăn mày, ăn xin khách thập phương đến lễ hội. Người thì mù loà, người thì tàng tật, khố rách áo ôm, tay xách con, tay lạy van: “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại, cứu vớt chúng con. Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà...”. Cứ thế mà kêu xin. Câu “Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà”, cứ hằn sâu trong đầu tôi cho đến ngày sang làm Chủ tịch Phòng Thương mại trong một thế đứng không còn “tất đất cắm dùi”, nói theo nghĩa bóng về hoàn cảnh tôi lúc đó.
Khi về Bộ Ngoại thương, nhập vào Bộ kinh tế đối ngoại, chẳng được bao lâu, lại nhập tiếp. Tôi sang làm Viện trương Viện Quản lý kinh tế Trung ương, đồng chí Cao Văn, quyền Chủ tịch UBND Thành phố Hải Phòng và một số anh chị em đồng chí thân thiết đến chơi, và nói: “Đến Vụ, Viện là đến ngõ cụt rồi...”. Đó cũng là câu cửa miệng của mọi người: “Xuống đến chức Vụ, Viện là về vườn”. Tưởng đó là câu chuyện chia sẻ tấm lòng cho người cùng đường, để khuây khoả nỗi lòng người tri kỷ, nhưng hóa ra thật. Tôi làm Viện trưởng Quản lý kinh tế Trung ương đang say sưa với công việc, sắp xếp bộ máy đi vào làm ăn, chuẩn bị dự án xây dựng một Viện quản lý kinh tế quốc gia, cả về qui mô xây dựng và nội dung nghiên cứu, nhưng chỉ được 19 tháng 20 ngày thì có quyết định sát nhập vào Bộ Kế hoạch đầu tư. Từ một Viện ngang Bộ, trực thuộc Chính phủ, nay xếp ngang một Tổng cục trực thuộc Bộ, đương nhiên Viện trưởng phải đi nơi khác hoặc về nghỉ... “hết đất”.
Tôi bàn giao công việc với đồng chí Đỗ Quốc Sam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư và liên hoan hợp nhất vui vẻ cùng anh chị em trong Viện. Nhưng trong tâm tư lại thêm một nỗi buồn ghi trong ký ức, như bao cuộc phải chuyển công tác trong đời, từ địa phương lên đến trung ương. Nhớ lại những cuộc tiễn đưa, khi tôi từ Giám đốc Sở Thương nghiệp Hải Phòng lên làm Phó chủ tịch UBND thành phố, anh em tiễn tôi cùng nước mắt lưng tròng. Khi tôi rời ghế Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, cán bộ công nhân viên đứng trên gác, dưới nhà, vẫy tay chào tôi rưng rưng nước mắt... Không hiểu họ nghĩ điều gì khi Bộ trưởng phải ra đi mà họ khóc?
Sau mấy ngày tôi được đồng chí Nguyễn Đức Tâm rồi đồng chí Võ Văn Kiệt mời lên giao nhiệm vụ mới - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Khi gặp đồng chí Nguyễn Đức Tâm, tôi đề nghị đưa đồng chí Tạ Cả, Thứ trưởng Thường trực sang làm Chủ tịch VCCI. Anh Tâm nói: “Phòng tách ra khỏi Bộ Thương mại, trực thuộc Trung ương. Là một tổ chức mới, có quan hệ quốc tế rộng lớn, anh nên nhận cho...”
Cũng như lần sang làm Viện trưởng, tôi đề nghị anh tìm cán bộ sở tại, nếu anh Tạ Cả không làm được. Anh Tâm nói ngay: “Tại chỗ làm sao có người?”. Tôi đề nghị anh xem các đồng chí các ngành trung ương có ai thích hợp thì điều về, nếu không có ai, đề nghị anh cho tôi suy nghĩ ít ngày và xem anh em ở Phòng họ có ưng tôi về đó không...
Mấy hôm sau anh Võ Văn Kiệt lại nhắc tôi về sớm để chuẩn bị Đại hội lần thứ II, tách Phòng ra khỏi Bộ Thương mại. Các đồng chí Đoàn Ngọc Bông, Phạm Chi Lan, Tổng Thư ký và Phó Tổng thư ký, chủ động đến nhà tôi báo cáo và xin ý kiến về tổ chức Đại hội.
Tôi vốn là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, đối với anh chị em Phòng Thương mại tôi đều quen biết, chỉ hiềm một nỗi mình xuống cấp lại chèn ép anh chị em, họ không có điều kiện thăng tiến, về lâm lý mà nói, chắc anh chị em cũng có suy nghĩ. Nên tôi rất do dự. Có đồng chí nghĩ tôi cho “Phòng” là bé nhỏ, thực sự nó chỉ là cấp Vụ. Cán bộ Bộ Ngoại thương còn đánh giá “Phòng” là “cái đuôi” của Vụ II (Vụ phụ trách thị trường các nước tư bản).
Tôi thì nghĩ khác. Dù to hay bé tôi không quan tâm, miễn là nơi đó không ai thích và không muốn làm, không có tranh chấp quyền lực. Càng khó tôi càng thích làm, để thử nghiệm khả năng của mình.
Hôm gặp đồng chí Cao Văn, tôi bảo: “Vụ, Viện chưa phải đã là kết thúc, “Trưởng phòng” mới là tột cùng”. Đồng chí Cao Văn nói từ Phó Thủ tướng xuống làm Trưởng phòng, mà vẫn làm được việc mới hay chứ! Tôi đi nhiều nơi họ cũng giới thiệu tôi là Trưởng phòng... Tôi nghĩ lại câu của người ăn xin: “Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà”. Tôi lấy làm tâm đắc, nhưng sửa lại: “Con cá nó sống vì nước, Chủ tịch sống vì doanh nghiệp”. Có doanh nghiệp thì Chủ tịch VCCI mới có chỗ sống. Chủ tịch VCCI sống, thì phải làm vì doanh nghiệp.
Tổ chức Đại hội lần thứ II xong, tôi được bầu làm chủ tịch VCCI. Khi đến nhận nhiệm vụ tại 33 Bà Triệu, với cái nhà cổ kính, là một trong bốn ngôi nhà cổ kính nhất Hà Nội được bảo tồn. Có 600 m2 nhà sử dụng cho 3 cơ quan của Bộ ở chung. Sau VCCI đền bù cho hai cơ quan khác chuyển đi, chỉ còn một cơ quan ở lại là VCCI. Nhưng cũng quá chật, Chủ tịch VCCI chỉ làm việc trong một phòng 10 m2, gần bên hố xí tập thể. Nhà văn Trần Bạch Đằng đến chơi bảo: “Chủ tịch VCCI chỗ làm việc như thế này không chấp nhận được”. Tôi trả lời: “Anh Tư ạ, anh là nhà nho, tôi cũng là nhà nho, anh nhớ Khổng Tử đã nói: Quân tử cố cùng...”. Anh Trần Bạch Đằng nói ngay: “Tiểu nhân cùng tư lạm hĩ”. Cả hai chúng tôi cùng cười. Tôi nói: “Anh Tư nhớ nhé! Khi tôi có phòng làm rộng và sang, anh đừng chê tôi nhé!”, anh Trần Bạch Đặng gật gật: “Không chê mà còn khen nữa”.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trực thuộc lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ. Danh nghĩa bên ngoài là Tổ chức phi chính phủ (NGO), nhưng đặc biệt là VCCI tự lo liệu về ngân sách, không ăn lương của ngân sách Nhà nước, do đó đối với bên ngoài họ mới cho mình đúng là Tổ chức NGO của Việt Nam. Khi tôi nhận quyết định về công tác ở VCCI, tôi đã hình dung 3 việc lớn phải làm:
1/ Xây dựng cơ chế cho Phòng mà điều quan
trọng nhất là xây dựng Điều lệ của Phòng, thông qua Đại hội và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đồng thời xây dựng bộ máy phù hợp với qui mô, chức năng, nhiệm vụ của Phòng đúng với điều lệ được duyệt.
2/ Xây dựng cơ sở vật chất cho Phòng, đó là cơ sở cho chủ nghĩa xã hội được thực hiện ở Phòng, đồng thời bảo đảm ngân sách của Phòng được ổn định, từng bước đi lên một cách vững bền.
3/ Phải xác lập cho được vai trò của doanh nghiệp trong xã hội, là lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng nền kinh tế đất nước, bảo đảm cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của Đảng được vững chắc.
Để rút kinh nghiệm của các Phòng Thương mại và Công nghiệp thế giới, tháng 7-1993 tôi đi thăm Thái Lan và Singapore một tuần. Các bạn hoạt động đa dạng, phong phú, tổ chức nhiều loại hình khác nhau, nhằm thu hút nhiều doanh nghiệp vào tổ chức của mình. Có nước có nhiều phòng, nhiều hội, nhiều hiệp hội phi chính phủ. Sau kết hợp đi họp, đi hội thảo, đi làm việc, tôi đã nghiên cứu một số nước đã có Phòng Thương mại từ lâu đời như Nhật Bản, Pháp. Đặc biệt ở Pháp, Phòng Thương mại đã có cách đây 400 năm. Napoleon đã có sắc lệnh về Phòng Thương mại Pháp cách đây khoảng 200 năm, Phòng Thương mại quản lý nhiều trường đại học kinh tế thương mại nổi tiếng, kinh doanh cả hàng không và nhiều lĩnh vực khác.
Còn kết nạp hội viên, nơi thì tự nguyện, nơi thì bắt buộc. Như ở Pháp, sau khi được cấp giấy phép kinh doanh, doanh nghiệp phải đến phòng thương mại sở tại xin làm hội viên, do sắc lệnh về phòng thương mại qui
định.
Đó là những việc làm của bạn, nước phát triển đã có hàng triệu doanh nghiệp. Ở Pháp và Nhật khoảng 20 người dân có một doanh nghiệp. Mỹ 10 người dân có một doanh nghiệp. Còn Việt Nam, những năm đầu thập kỷ 90, chưa có luật doanh nghiệp, khoảng 3.000 người dân mới có một doanh nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam tuy có tăng trưởng, nhưng lực lượng làm cho kinh tế tăng trưởng với khối lượng quá nhỏ bé. GDP tính theo đầu người của họ đã là hàng vạn đô la Mỹ. Còn ta mới có vài ba trăm đô la. Đó là điều tôi trăn trở lo lắng cho sự phát triển của đất nước. Trong lúc nước ta thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng tư duy về phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân còn có nhiều điều khác nhau. Nhiều người nhìn doanh nghiệp tư nhân với con mắt canh chừng, thành kiến, cho doanh nhân nói chung như những người ăn xài xa xỉ, ném tiền qua cửa sổ, trai gái, rượu chè... Ta có biết đâu họ đang tiết kiệm từng đồng để có vốn xây dựng xí nghiệp, công ty, nhất là doanh nghiệp tư doanh. Tất nhiên cũng có một số ít doanh nhân hư đốn, “Con sâu bỏ rầu nồi canh”, đối với những người này ta không chú ý giáo dục uốn nắn cho họ, mà có xu hướng muốn phơi bày trên báo chương. Chúng ta không thấy rằng nước ta nghèo, nhân dân ta không có kinh nghiệm kinh doanh, làm giàu, bằng của nả của ông cha ta để lại. Đã nghèo, văn hóa lại thấp thì vừa không biết làm giàu, vừa hay ghen tị với những người khá giả hơn mình. Kinh nghiệm khi công tác ở địa phương, tôi thấy những cảnh như nhà hàng xóm nuôi được cá, chăn nuôi gà vịt sinh trưởng tốt, người hàng xóm không làm được, khó chịu, vứt thuốc sâu xuống ao và gà bị bệnh sang nhà hàng xóm, làm cho cá chết, gà “toi” mới thỏa lòng. Khi lên Hà Nội, giữa những thập kỷ 80, tôi còn được nghe kể rằng ở trên này nhà mua được con gà làm thịt cũng phải gói lông lại, chặt thịt không dám dùng dao, thớt, mà phải dùng kéo cắt. Thịt ăn xong, xương và lông gà gói lại đem ra ngoài đê sông Hồng vứt đi, sợ người hàng xóm nhìn thấy. Đó là sự thật, chúng ta phải đi lên từ cuộc sống khó khăn của nhân dân sau bao năm chiến tranh, lại thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, tem phiếu kê khai phiền toái, hàng hóa không có, chia nhau mua từng bao diêm, sợi chỉ... Nó bị vật chất tác động vào tư tưởng, và tư tưởng đố kỵ ghen tị lặt vặt không thể tránh khỏi. Người lãnh đạo phải từng bước tìm ra phương pháp khắc phục.
Xác lập vai trò doanh nghiệp, doanh nhân trong xã hội
Từ những tình hình trên, với cương vị Chủ tịch VCCI, tôi từng bước đưa vấn đề này ra bàn bạc trong lãnh đạo VCCI, xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VCCI là đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, bảo vệ quyền lợi cho họ, kết hợp với các Bộ, ngành, địa phương, để tổ chức, xây dựng, đào tạo doanh nghiệp... tiến tới phát triển doanh nghiệp lớn mạnh, làm lực lượng chủ yếu trong phát triển kinh tế đất nước.
Để làm rõ vấn đề này tôi đã viết nhiều bài báo với nhiều nội dung khác nhau, nhưng đều nhằm làm cho xã hội nhận thức, đánh giá đúng vai trò doanh nghiệp. Tôi đã có các bài: “Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa”; “Làm thế nào để dân giàu, nước mạnh...” đăng trên báo Nhân dân, báo Diễn đàn doanh nghiệp và nhiều tờ báo khác.
Để có sự xoay chuyển mạnh về tư duy, nhận thức xã hội đối với doanh nghiệp, tôi đã đề nghị với Thủ tướng Võ Văn Kiệt có cuộc gặp gỡ thân mật, đối thoại với doanh nghiệp.
Được Thủ tướng đồng ý, ngày 8-2-1995, lần đầu tiên giới doanh nghiệp được gặp mặt thân mật, trao đổi ý kiến thẳng thắn, dân chủ với Thủ tướng. Các doanh nghiệp rất phấn khởi. Thủ tướng cũng nắm được tâm tư nguyện vọng của doanh nghiệp, đã giải quyết kịp thời một số mắc mớ lớn với doanh nghiệp, làm cho không khí hồ hởi cởi mở giữa doanh nghiệp với Thủ tướng, với các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan có quan hệ sống còn đến sự phát triển kinh tế đất nước, đến quyền lợi của công nhân, giám đốc xí nghiệp, công ty.
Qua các năm sau, đầu Xuân vẫn có những cuộc gặp giữa Thủ tướng và doanh nghiệp. Nhưng vì bận nhiều công việc, nên Thủ tướng Võ Văn Kiện uỷ nhiệm các Phó Thủ tướng thay. Từ năm 1997, khi Thủ tướng Phan Văn Khải nhận nhiệm vụ, năm nào Thủ tướng Phan Văn Khải cũng gặp doanh nhân. Đồng chí Phan Văn Khải thường tâm sự với tôi là: “Đời tôi quan tâm đến hai việc lớn nhất là: phục vụ doanh nghiệp để phát triển doanh nghiệp và xóa đói, nghèo”. Thủ tướng, các Bộ ngành quản lý đã cùng quan lâm vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân, các thành phần được đề cao, có vai trò trong xã hội, bớt dần những nhận thức không đúng về doanh nghiệp. Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho phát triển doanh nghiệp, Nhà nước cần phải có một luật cho doanh nghiệp. VCCI đã cùng các ngành, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, đề xuất với Quốc hội ra một luật về doanh nghiệp. VCCI đã cử hai Phó Chủ tịch là Phạm Chi Lan và Vũ Tiến Lộc, cùng Trưởng ban pháp chế Trần Hữu Huỳnh cùng nhiều chuyên viên, cán bộ, tham gia vào chương trình soạn thảo luật doanh nghiệp. Hội đồng cố vấn của Phòng cùng tham gia tích cực như ông Vũ Quốc Tuấn, ông Nguyễn Văn Trọng, ông Lê Văn Châu, ông Năm Nghị, bà Nguyễn Thị Hiền v.v... đã tham gia tích cực vào việc soạn thảo luật doanh nghiệp. Còn tôi đã có một số buổi đến báo cáo với Ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội về vấn đề doanh nghiệp, tham gia vào Tiểu ban chuẩn bị Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 khóa 9 về phát triển kinh tế tư nhân, v.v...
Khi trong Đảng, cũng như ngoài nhân dân đã thấy rõ tầm quan trọng của doanh nghiệp, Quốc hội đã thảo luận và thông qua luật doanh nghiệp với số phiếu ưng thuận rất cao, đánh dấu một bước ngoặt về phát triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế của nước ta, góp phần rất quan trọng vào những năm khủng hoảng kinh tế khu vực Đông Á và Nam Á, giữ được tốc độ tăng trưởng trên dưới 7%. Trong khi các nước bạn, có nước mức tăng trưởng “âm”.
Kể từ năm 2000 số lượng doanh nghiệp mới đăng ký liên tục tăng nhanh với tốc độ chưa từng thấy. Cho đến tháng 9-2003 đã có 72.601 doanh nghiệp mới đăng ký (trong 9 năm 1991 - 1999 có 45.000 doanh nghiệp đăng ký), đưa tổng số doanh nghiệp đăng ký của khu vực tư nhân ở nước ta lên khoảng 120 ngàn doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký trung bình hàng năm hiện nay bằng 3,75 lần so với trung bình hàng năm của thời kỳ 1991 -1999. Số doanh nghiệp mới đăng ký trong 4 năm (2000- 2003) ước cao gấp 2 lần so với 9 năm trước đây (1991 - 1999).
Thông qua hoạt động của mình, đặc biệt là hoạt động hợp tác với các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp khác, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã chú trọng tuyên truyền và khuyến khích tinh thần kinh doanh, tinh thần doanh nghiệp trong xã hội, khuyến khích và cổ vũ phong trào làm giàu, phong trào khởi sự doanh nghiệp. Chương trình “Khởi sự doanh nghiệp” được VCCI triển khai từ năm 1998 với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Cơ quan hợp tác Phát triển Thuỵ Điển (SIDA), đã thu được kết quả khả quan. Chương trình đã phát triển được 252 tổ chức đối tác tại 42 tỉnh, thành phố, tổ chức đào tạo được 15.339 doanh nghiệp về kiến thức khởi sự và phát triển doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chương trình còn tạo ra 3.000 việc làm chính thức và 6.000 việc làm thời vụ cho doanh nhân và học viên tham gia chương trình. Điều quan trọng là thông qua các khóa đào tạo và tư vấn của chương trình, đã lạo được phong trào lập nghiệp bằng kinh doanh và khuyến khích nhân dân bỏ vốn đầu tư kinh doanh, đóng góp vào việc xóa đỏi giảm nghèo và phát triển kinh tế địa phương.
Trường cán bộ quản lý doanh nghiệp của VCCI mới thành lập được 5 năm (1999-2004) đã:
- Đào tạo tin học cho 5.150 học viên
- Đào tạo ngoại ngữ cho 2.783 học viên
- Đào tạo kinh tế quản trị 6.782 học viên
- Hợp tác đào tạo cho 1.581 học viên (từ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ).
Hàng năm VCCI còn phối hợp với các ngành, các cấp, các trường... mở các lớp dài hạn, ngắn hạn, hoặc gửi ra nước ngoài đào tạo. Mỗi năm hàng chục ngàn doanh nhân được đào tạo theo phương pháp này.
Các hoạt động trên của Phòng có ý nghĩa là những bước chuẩn bị quan trọng về nhận thức và tâm lý xã hội cho sự ra đời và đi vào thực tiễn của Luật doanh nghiệp.
Để góp phần vào nhận thức kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong khi chờ đợi những tác phẩm lớn của các nhà lý luận và thực tiễn, tôi viết 4 tiểu luận để giúp các nhà doanh nghiệp và những ai quan tâm đến sự phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn khó khăn phức tạp này, để họ nghiên cứu tham khảo, giúp cho người quản lý và người thực hiện cùng nhau góp sức vạch ra con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam, từ một nước nông nghiệp đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện mục liêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Đó là 4 tiểu luận:
- Những nguyên tắc vận hành cơ chế thị trường ở Việt Nam.
- Làm thế nào để thực hiện được mục liêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
- Vai trò then chốt của doanh nghiệp Nhà nước.
- Đảng lãnh đạo kinh tế, đảng viên làm kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn tác phẩm trên đã được nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản hàng vạn cuốn, để các doanh nghiệp, doanh nhân, các nhà nghiên cứu và độc giả ưa thích tìm đọc.
Những tác phẩm này về mặt lý luận thì không lớn, nhưng về thực tiễn đã giúp cho người đọc yên tâm, tin tưởng vào đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước để vững bước đi lên, làm giàu cho nhà, cho nước.
Để làm rõ vai trò vị trí xã hội của doanh nghiệp, VCCI đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về chủ đề này ở Trung ương và các địa phương, tổ chức gặp gỡ đối thoại với các ngành liên quan như: công an, tài chính, ngân hàng, hải quan, thuế vụ v.v...
Những cuộc gặp gỡ, hội thảo, đối thoại trên đã giúp cho Doanh nghiệp thấy được những khuyết điểm tồn tại của mình. Đồng thời làm rõ được vai trò cực kỳ quan trọng của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, thấy rõ doanh nghiệp, doanh nhân là con đẻ của xã hội, mọi người có trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ nó, cùng với doanh nghiệp, doanh nhân và toàn xã hội là một mặt trận tiến công xóa đói giảm nghèo, xây dựng đất nước giàu về vật chất, giàu về tinh thần, về văn hóa. Như vậy hiện nay đã giảm bỏ rất nhiều rào cản gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Để kinh doanh, buôn bán, sản xuất văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể chỉ dựa vào kiến thức học tập của doanh nhân, công nhân viên chức tại trường, mà cần bổ sung những kiến thức, văn hóa bắt nguồn từ cội rễ dân tộc, kết hợp với văn hóa, văn minh thời đại. VCCI đã thành lập Trung tâm văn hóa doanh nhân để bổ sung cho mặt còn hẫng hụt của doanh nghiệp, doanh nhân.
Như sách kinh điển cách đây 5.000 năm, kinh thi đã nói: “Văn chất bân bần, nhiên hậu quân tử” (văn hóa và vật chất đầy đủ sẽ có người tử tê). Nếu chỉ có vật chất thôi thì con người mới thực có một nửa của mình. Đó là phần “con”. Còn phần “người” tức là ý thức, tư tưởng chỉ đạo cho phần “con” hành động, phần “người” phải được học tập, trao dồi những ý tưởng cao đẹp mà tổ tiên đã chắt lọc hàng bao thế kỷ mới có được, cộng với những nền văn hóa các nước, được hội tụ qua lựa chọn nghiêm túc, từ bên ngoài bổ sung cho nền văn hóa Việt Nam luôn luôn phong phú và hiện đại, làm cho “con người” hoàn chỉnh cả về vật chất và tinh thần, để người Việt Nam làm gì, ở đâu cũng không bị lạc hậu với thế giới. Con người Việt Nam luôn luôn thể hiện đạo đức, lương tri của loài người ở tầm cao.
Luật doanh nghiệp đã xác định vai trò vị trí của doanh nghiệp và doanh nhân. Tầng lớp doanh nhân có vị trí xứng đáng, góp phần cực kỳ quan trọng vào việc xây dựng đất nước. Tôi đã nhiều lần viết thành văn bản gửi lên Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đưa doanh nhân vào trong 4 giai tầng chủ yếu trong xã hội là: “Công, nông, trí, doanh nhân”, vấn đề này đang được bàn bạc nghiêm túc trong Trung ương Đảng và các ngành, các cấp với những tin tức đáng mừng: thuận nhiều hơn nghịch...
Hai tờ báo và tạp chí: Diễn đàn Doanh nghiệp và VIB Forum, mỗi tuần mỗi tờ ra 4 kỳ, là những người bạn thân thiết của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, là cẩm nang hành nghề, người bạn đường không thể thiếu của doanh nhân. Tất cả là để gắn Luật doanh nghiệp với doanh nhân, tiếp tục phát hiện những điều cần bổ sung và khắc phục
khi thực hiện Luật doanh nghiệp.
Xây dựng cơ sở vật chất cho VCCI thực hiện xây dựng CNXH tại chỗ
Từ thủa thiếu thời, khi tham gia cách mạng, công tác 5 năm ở quê tôi Hải Dương, Kim Thành, 36 năm công tác ở Hải Phòng, rồi lên Trung ương, tôi luôn luôn nghĩ nước Việt Nam ta nghèo quá. Được giác ngộ cách mạng, làm việc và hiểu dần, tôi càng thấy thấm thía về ý chí tự lực lự cường của Bác Hồ. Tôi tự liên hệ với bản thân, đã luôn tự làm để sống, không ỷ lại. Sau này được đào tạo, học tập qua sách vở, và đi tham quan học hỏi ở bên ngoài, tôi thấy ở Việt Nam thiếu một vế “hành”, nặng về học văn tự đơn thuần, khi bước vào thực tế đời sống dễ bị động, dựa dẫm, theo lối công chức. Ngay trong gia đình tôi, từ cụ Đốc Khảm, cụ Khóa Thản, đến bố tôi cũng vậy, đều theo học thuyết Nho giáo. Những gì cụ Tán Thuật, cụ Cử Đức để lại như: học để hiểu để dạy học và làm thuốc, cứu dân độ thế là rất hay, nhưng khâu phát triển xã hội bằng kinh tế, các cụ hình như không nhắc tới, coi như: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”, hoặc “Đời cua, cua máy; đời cáy, cáy đào”. Các cụ ít chú ý đến “Toán, lý, hóa”, chỉ tập trung vào văn chương. Khi Pháp sang chiếm đóng nước ta; con em, những tầng lớp khá giả cũng chỉ học và thi vào các trường luật để ra làm quan, trường y để làm bác sĩ chữa bệnh, hoặc sư phạm, văn chương, lịch sử để đi dạy học. Còn các ngành nông nghiệp, công nghệ thực hành, ít ai nhập học. Những ngành quan trọng: cơ khí chế tạo, giao thông vận tải, hóa, vật lý... thì “mẫu quốc” (đế quốc Pháp) giữ kín, chỉ mở trường ở chính quốc. Chỉ một số người có ý chí, có tiền, thông minh, mới bén mảng sang chính quốc để thụ giáo. Nên tôi suy nghĩ rất nhiều, và nay vẫn tiếp tục suy nghĩ. Chúng ta giáo dục còn hạn hẹp, giáo điều, nghèo, lại không quan tâm dạy lý thuyết phát triển và thực hành trong các trường lớp.
Tư tưởng tiến công đã yếu, lý thuyết phát triển, lý luận cơ bản phần nhiều chỉ học “chay”. Bởi vậy cán bộ ta người khá về lý luận thì tổ chức thực hiện kém, người khá tổ chức thực hiện lại không hiểu lý luận. Có thể nói việc tổ chức thực hiện rất “Tù mù”, không theo một tư duy hệ thống nhất định, nên kết quả hạn hẹp, lãng phí nhiều. Khi buông lỏng quản lý thì tham nhũng tràn lan.
Do đó, khi tôi về phụ trách VCCI, cũng xuất phát từ kinh nghiệm đã làm ở Hải Phòng, ở Bộ Ngoại thương và Bộ kinh tế đối ngoại, Viện Quản lý kinh tế Trung ương, theo cách nói nôm na (với ý đẹp) “Ngựa theo đường cũ” nghĩa là vẫn tự lực cánh sinh, xây dựng CNXH tại chỗ. Còn “Tiền đâu” luôn là thành ngữ “ở đầu mà ra”.
Tôi bắt đầu nâng cấp nhà 33 Bà Triệu, một ngôi nhà cổ kính và chật hẹp, giống như con “bọ hung”, trông rất buồn cười. Thế mà khi xin phép cải tạo nâng cấp lên cho đẹp, đích thân tôi phải đến thuyết trình việc này với một Hội đồng của Viện qui hoạch thành phố Hà Nội. Tôi nói: “Tôi chỉ làm cho ngôi nhà đẹp thêm và làm đẹp cho thành phố. Các đồng chí xem bản vẽ thì rõ”. Tôi được thông qua nhanh chóng không quá 90 phút. Về đến cơ quan lại gặp mấy bà người Úc, cơ quan bảo tồn di tích đến chất vấn: “Các ông vì ghét Pháp nên muốn xóa bỏ những di tích của Pháp để lại phải không?”.
Tôi trả lời: “Các bà nói đơn giản quá, Việt
Nam là nước có truyền thống văn hóa, biết bảo tồn những cái gì là di sản quí giá của dân tộc mình và của thế giới. Hai bà cứ đợi xem. Khi nhà chúng tôi cải tạo nâng cấp xong nó sẽ đẹp hơn bây giờ nhiều. Và những cái gì là vẻ đẹp cũ vẫn được giữ nguyên”. Khi nâng cấp xong, tạp chí kiến trúc của Australia đã đăng một bài và ảnh cái nhà mới cải tạo nâng cấp, với những lời khen: “Chưa thấy một ngôi nhà cải tạo nâng cấp lại giữ được dáng cũ và tăng vẻ đẹp như vậy”.
Còn tiền, lấy đâu được 3,6 tỷ để cải tạo nâng cấp ngôi nhà từ 600 m2 sử dụng lên 2.200 m2, với một đơn nguyên mới, xây áp vào phía sau nhà, làm mất hẳn dáng con “Bọ hung”, thành một ngôi nhà 4 tầng, tuy nhỏ nhưng vẫn có vẻ bề thế hiên ngang đứng giữa ngã tư Lý Thường Kiệt và Bà Triệu. Các khách nước ngoài, nhất là Pháp và Mỹ rất khen, ngôi nhà cổ và đẹp. Ông Đô-na-hu, Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ, có trụ sở rất lớn, đối diện với Nhà trắng, khi ở 33 Bà Triệu ra về, còn đứng ngắm nhìn ngôi nhà này khá lâu. Cả hai ông bà đều khen ngôi nhà kiến trúc hài hòa, phía sau có điểm tựa bề thế!
Lúc đó là năm 1997. Tôi nói lần sau ông bà sang thăm Việt Nam tôi sẽ tiếp ông bà ở trụ sở mới, to đẹp hơn ngôi nhà này nhiều. Ông Đô-na-hu vội hỏi sao lại dời đi. Tôi trả lời ở đây quá chật hẹp với một Phòng Thương mại quốc gia, không đủ chỗ làm việc và điều kiện để trang bị phương tiện mới cho cán bộ công nhân viên sử dụng. Ông Đô-na-hu nói ngay: “Khi ông chuyển đến địa điểm mới, tôi sẽ sang thăm Việt Nam lần nữa”. Nhưng đến nay ông bà Đô-na-hu chưa sang thăm Việt Nam lần thứ hai.
Tôi nhớ lại năm 1994 phái đoàn Kedenrein của Nhật Bản do ông Toyoda Chủ tịch tập đoàn TOYOTA làm Chủ tịch sang thăm Việt Nam và thăm Phòng Thương mại Việt Nam. Để chuẩn bị cho đoàn đến thăm VCCI, ông Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam đến VCCI xem nơi tiếp đón đoàn. Xem xong ông Đại sứ bảo: “Nơi này không đủ tiêu chuẩn để tiếp đoàn Kedenrein Nhật Bản”. Tôi cũng thấy quá chật hẹp, điều kiện vệ sinh cũng kém, nên đành chuyển chỗ khác, bằng cách thuê phòng khách nhà Khách Chính phủ, số 12 phố Ngô Quyền để tiếp đoàn Kedenrein Nhật Bản do ông Toyoda dẫn đầu. Năm 2001, đoàn Kedenrein lại sang thăm Việt Nam do ông I-mai, Chủ tịch làm Trưởng đoàn và ông Nacarawa, Tổng thư ký. Họ tới thăm VCCI. Tôi tiếp đoàn ở số 9 Đào Duy Anh. Khi ra về, ông Nacarawa nói với tôi trụ sở của VCCI to và đẹp hơn trụ sở của Kedenrein ở Gotenba, dưới chân núi Phú Sĩ, (nơi tôi đã đến thăm 2 lần). Tôi cảm ơn và nói: “Trụ sở ở Gotenba vẫn đẹp và cổ kính hơn”. Số tiền có được 3,6 tỷ để nâng cấp ngôi nhà 33 Bà Triệu là do qui tụ được mọi nguồn tiền hiện có ở Hà Nội, các chi nhánh, nhất là chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh và một số công ty đóng góp. Trước đây do quản lý tài chính chưa có qui chế, mỗi nơi một cách, đơn vị nào thu nhập được nhiều thì sau lương, lại tiếp tục phân phối hàng tháng, hàng quí, có nơi hàng tuần cho anh em cán bộ công nhân. Nơi thì theo thâm niên, nơi thì theo tổ, nhóm, đơn vị nhỏ thu nhập được thêm cũng chia cho các thành viên.
Để khắc phục những tình trạng trên, từng bước tôi qui chế lại việc phân phối thu nhập. Lấy lương hàng tháng làm cơ bản. Vận dụng cho một tổ chức tự chủ về ngân sách. Nếu thu nhập và làm ăn khấm khá cũng không được quá chênh lệch với những cơ quan khác ở trung ương. Phát huy mọi nỗ lực của tập thể và cá nhân, làm tốt mọi công việc, tăng thu nhập cho ngân sách của Phòng, bảo đảm lương cơ bản và hàng năm thu nhập đều có tăng hơn năm trước cho mỗi thành viên. Nơi có điều kiện cũng như nơi không có điều kiện, đều làm việc ngang nhau, có thu nhập ngang nhau. Tránh tình trạng sử dụng tiền thu nhập của nơi có điều kiện đem phân phối bất hợp lý như năm 1996 (Trong lúc tôi đi công tác ở Tây Nguyên, các đồng chí đã duyệt một lúc cho chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh chia 526 triệu đồng, cho hơn 50 cán bộ công nhân viên. Có người được trên 23,6 triệu, có người không được đồng nào. Thế là sinh thắc mắc khiếu kiện. Khi tôi biết đã chia xong rồi. Tôi nghĩ thu hồi là đúng, nhưng tiền đã vào túi anh chị em rồi, đòi lại chắc ai cũng tiếc. Tôi thôi không đặt vấn đề thu hồi, nhưng phải kết thúc ngay từ đó, không được chia chác tùy tiện như vậy). Tôi nói rõ qui chế của Nhà nước, Bộ trưởng Tài chính cũng chỉ được phép duyệt chi dưới 500 triệu đồng, mà là chi cho công việc, không phải cho tiêu dùng, phân phối cá nhân. Thủ tướng mới duyệt từ 500 triệu đồng trở lên, mà phải dựa vào qui chế cho phép. Ta cần rút kinh nghiệm nghiêm khắc. Đơn vị, cá nhân nào thấy làm ra được tiền, do chính sách của Nhà nước đem lại, không biết dành dụm để xây dựng, tích lũy ăn hôm nay không lo ngày mai, khi “thất cơ lỡ vận”, nước đến chân mới nhảy, tránh sao khỏi hoạ (Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu). Hàng trăm con người, rồi sẽ lên đến ngàn người, mà quản lý tài chính thế này, tất có ngày nhịn đói. Từ đó việc quản lý mới đi đúng qui chế đề ra.
Số tiền hàng năm do các nguồn thu được, chi lương, giải quyết phúc lợi, khen thưởng, hàng năm đều tăng. Nhưng điều quan trọng là phải tích lũy xây dựng cơ sở vật chất.
Sau khi hoàn thành nâng cấp trụ sở 33 Bà Triệu, Phòng tiếp tục xây dựng nhà 9 tầng mới ở số 79 Bà Triệu; Liên doanh với tỉnh Cao Bằng xây nhà Sao Bắc, số 4 Dã Tượng, Hà Nội.
Trong lúc đó Phòng chuẩn bị xây trụ sở mới ở số 9 Đào Duy Anh. Xây trụ sở mới phải chuẩn bị hàng chục tỷ, mới có thể khởi công một ngôi nhà có 10.000 m2 sử dụng. Đất đai đã có, còn vốn xây dựng phải huy động toàn lực của Phòng, từ các chi nhánh, các công ty, nhất là những công ty có thu nhập khá như công ty Sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (đồng chí Ngãi) v.v... Mặt khác, Phòng giao cho đồng chí Phan Đức Thiện và Vũ Tiến Lộc bàn bạc với Công ty Toyota, hợp tác xây dựng bằng góp vốn xây nhà để thuê trong 10 năm, trả tiền trước sáu năm, bằng 1,7 triệu $US. Tôi vay của một công ty Nhật Bản được 180.000 USD với không lãi suất, vốn bao giờ trả cũng được. Nếu khó khăn thì công ty đó ủng hộ. Với số đô la và số tiền Việt Nam có được. Lãnh đạo Phòng quyết định khởi công xây trụ sở mới, số 9 Đào Duy Anh. Tiến hành khởi công tháng 3-1998. Hàng ngày, trừ những ngày đi công tác xa, tối nào tôi cũng đến hiện trường bàn bạc với bên B do đồng chí Hưng, Tổng Giám đốc Công ty VIC (Liên doanh Việt Nam - Cu Ba) và đồng chí Toàn, Phó Tổng giám đốc phụ trách. Hai đồng chí Hưng và Toàn giỏi về nghề nghiệp, nhiệt tình, có tấm lòng với VCCI. Còn tôi và đồng chí Phạm Gia Túc đại diện bên A cùng các đồng chí bàn bạc giải quyết những ách tắc, bảo đảm giao nhà cho Toyota thuê vào 16 tháng 8 năm 1998, (vì mỗi tháng chậm là mất 30.000 $US và còn phải bị phạt nữa). Ngôi nhà cao 8 tầng, diện tích sử dụng là 10.000 m2. Thời gian thi công chưa hết 10 tháng, với chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật bảo đảm như dự kiến. Đến nay đã tròn 6 năm giao nhà (phần thuê) cho công ty Toyota (16-8-2004). Một ngôi nhà lớn nhất của VCCI, hoàn toàn sở hữu của VCCI, không còn nợ ai một xu. Để xây dựng nó, đồng chí Đoàn Ngọc Bông hay nói là: “Tay không bắt giặc”. Tôi sửa lại một chút: “Có ít bột nhưng gột nên hồ tốt”. Nếu tính 5 nhà đã cho thuê (chưa kể Hải Phòng) hàng năm VCCI thu 15 tỷ đồng (chưa kể tầng 2 và tầng 8 nhà Đào Duy Anh làm siêu thị và bán hàng ăn uống, nộp lãi cho VCCI. Như vậy vừa có trụ sở sang trọng mà tăng thu cho ngân sách của Phòng. Đó chẳng phải là xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH của Phòng sao? Đó chẳng phải là điều vui lắm thay
Tư duy của tôi là làm gì cũng cần chủ động, sáng tạo, tránh ỷ lại. Xin cấp trên là xin cơ chế, chính sách để làm. Còn xin ngân sách phải hạn chế đến mức tối thiểu. Vì nước nghèo, ngân sách cũng thu từ đồng tiền của dân nghèo mà ra. Dầu khí có khai thác được cũng chỉ đủ dùng cho việc mua dầu tinh để dùng trong nước. Mà dầu khí khai thác mãi rồi cũng hết. Ta phải làm ra giá trị gia tăng mới có tích lũy. Nên tôi rất suy nghĩ trước khi xin ngân sách Nhà nước. Khi ở Hải Phòng cũng vậy. Các công trình xây dựng cái nào địa phương lo được là không xin, để trung ương tập trung vốn làm những công trình lớn hơn. Đồng chí Vũ Đại, uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thường nói: “Chiều thứ bẩy, nếu muốn cải thiện, nghỉ Đồ Sơn, tắm biển, ăn hải sản thì tôi gọi điện cho ông Thành là được đón tiếp chu đáo. Thích nhất là khi ra về vui vẻ, ông Thành không xin bất cứ cái gì của Uỷ ban kế hoạch nhà nước. Đó là điều tôi thích nhất...”. Đồng chí nói nhiều lần cho nhiều người nghe. Tôi cũng được nghe trực tiếp vài ba lần.
Ý tưởng của tôi là mọi người phải tự vận động, hợp tác hỗ trợ nhau cùng phát triển. Còn đi xin ngân sách hoặc vay ngân hàng là chẳng đừng được mới xin và vay thôi. Có như vậy mới huy động được lòng ham muốn của con người thành động lực tạo ra vật chất cho mình và cho xã hội, mới có chủ nghĩa xã hội nhanh được. Do đó khi ở Hải Phòng tôi nêu lên “học thuyết” xây dựng chủ nghĩa xã hội tại chỗ, là vì những lý do trên. Đối với VCCI cũng vậy, tôi cũng từng bước xây dựng cơ sở từ Hà Nội, đến Đà Nẵng, Cần Thơ, Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, các nơi đều xây trụ sở làm việc khang trang, sạch đẹp, tạo thành một mạng lưới VCCI nối liền từ Bắc - Trung - Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ của Phòng tiếp xúc với doanh nghiệp được thuận lợi. Doanh nhân đến trụ sở Hà Nội hay ở các chi nhánh, được coi như ngôi nhà chung, có đủ phương tiện làm việc, tra cứu, nối mạng khi cần đến, đều được phục vụ. Mặt khác VCCI là một tổ chức NGO của một quốc gia, mới gia nhập với các tổ chức Thương mại quốc tế, cũng cần có bộ mặt tương xứng với một đất nước đang phát triển, tuy còn nghèo, nhưng với tầm chính trị thì đã đánh thắng hai đế quốc to. Mình còn kém xa các bạn quốc tế về phát triển kinh tế, nhưng độ dầy về bảo vệ độc lập, tự do, thì các bạn quốc tế đi đến đâu cũng muốn được tìm hiểu bản chất con người Việt Nam. Tục ngữ có câu: “quen nể dạ, lạ nể áo”, dù còn nghèo, nhưng cũng phải tiết kiệm, dành dụm xây dựng nơi tiếp đón khách; Hội thảo trong nước và quốc tế có nơi có chốn, để mọi người nhìn thấy phong cách làm ăn của một Việt Nam anh hùng. Cán bộ công nhân viên chức do vật chất tác động đến ý thức, nên từ làm việc đến ăn mặc, giờ giấc cũng nghiêm túc hơn. Tiếp khách ngoại cũng tự tin hơn, khi nghe thấy bạn khen nhà mình to đẹp. Khi tôi tiếp ông Chủ tịch Phòng Thương mại Đông Nam Á, người Phi-lip-pin, ông nói: “Phòng Thương mại ASEAN chỉ cần có một phòng như ở đây làm trụ sở cũng chưa có”. Tôi nghĩ ông ta khiêm tốn, nhưng đến trụ sở ở Phi-lip-pin tôi mới thấy nó bé thật. Tôi cũng cảm thấy vui vui về thành quả do mình và tập thể làm nên.
Nghĩ lại đất nước ta sau 17 năm đổi mới (kể từ Nghị quyết Đại hội 6 năm 1986), với số vốn nước ngoài đầu tư khoảng 30 tỷ đô-la Mỹ, cộng với đủ gạo ăn, có xuất khẩu, dầu khí khai thác bán dầu thô mua xăng dầu đủ sử dụng trong nước, và những giá trị gia tăng do trong nước làm ra tích lũy được, trong 17 năm qua chúng ta đã làm được nhiều việc, có bước tiến quan trọng, được nhân dân trong nước và thế giới công nhận. Nhưng vẫn còn là một nước nghèo. Tỉ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, nông thôn... Nếu được kiểm toán khách quan, toàn quốc, thì số thất thóat, mất mát rất lớn...
Giả thiết rằng, mô hình và cách tính toán của tôi trình Hội nghị Bộ Chính trị đầu tháng 2-1988, không bị phá bỏ, với cách làm của tôi ở Phòng Thương mại và Công nghiệp từ 1993-2003, chắc sự phát triển kinh tế của đất nước sẽ có bước tiến xa hơn. Ở phạm vi toàn quốc nó thuận lợi hơn gấp hàng 100 lần ở Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Nhất là tệ tham nhũng, bệnh HIV-AIDS, tha hóa biến chất, xây dựng không theo qui hoạch, rất lãng phí... chắc không trầm trọng như hiện nay. Vì có bài bản, có lý luận, tiến hành từng bước theo một hệ thống, mô hình thống nhất, từ trên xuống dưới, để chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mô hình đó cụ thể từng bước đi, ai cũng có thể nhìn thấy nắm bắt công việc mình làm, rất thiết thực. Rất tiếc nó bị phá sản, trong bối cảnh 12/14 Uỷ viên Bộ Chính trị và Tổng Bí thư sơ bộ kết luận đồng ý và phát biểu riêng đã đồng ý với đề án tôi trình bày. Đó có phải là “vận” nước, hay “vận” người, thật tiếc lắm thay. Tác hại này lại chỉ do một Uỷ viên Bộ Chính trị to mồm, ăn nói “hung hăng”, luôn luôn coi mình cái gì cũng biết tất cả, lấy nhiệt tình làm đầu nhưng kiến thức hạn hẹp, với thành phần thợ thủ công (thợ sơn) nên luôn luôn cho mình là giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng để nói, do đó nhiều người nể nang và cũng nhiều người sợ, phải chiều ý vì cái tính “võ biền” như đồng chí Trường Chinh nhận xét.
Xây dựng cơ chế và bộ máy tổ chức cán bộ
Năm 1993, Phòng tách ra khỏi Bộ Thương mại, số cán bộ công nhân viên khoảng trên dưới 100 người, và một chi bộ 30 đảng viên trực thuộc Đảng uỷ Bộ Thương mại chỉ đạo. Cơ quan văn phòng khoảng 30 người, còn lại ở chi nhánh và công ty trực thuộc. Với nhiệm vụ to lớn vừa được Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ xác định qua tổ chức Đại hội Phòng lần thứ II, sau 30 năm thành lập Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mới tổ chức Đại hội. Anh chị em làm việc tại Phòng theo quán tính của 30 năm tồn tại. Tính năng động và đổi mới có hạn, chỉ muốn làm theo cách cũ. Một số anh chị em nghĩ rằng tôi đã 64 tuổi sang làm Chủ tịch mấy năm rồi về hưu, cũng không sốt sắng hợp tác làm việc, hoặc chỉ bàn “chùn”, không muốn tìm thêm việc để làm. Đại hội chi bộ có 30 đảng viên, cũng phải thuê phòng họp ở khách sạn Hòa Bình, trong một cái kho, có vài cái quạt trần cũ kỹ. Nhưng vẫn thuê, vẫn họp bình thường. Hai lần đến họp ở đó, tôi thấy rất lạ!
Trước hết là, sau khi Điều lệ Phòng Thương mại được Đại hội lần thứ II thông qua và được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn, dựa trên cơ sở của điều lệ, tôi cho xây dựng các qui chế làm việc, quản lý cơ quan, quản lý tài chính... đưa xuống cho cán bộ công nhân viên thảo luận góp ý kiến.
Tôi thành lập các ban nghiệp vụ, bỏ các phòng, thành lập Đảng bộ, đề nghị trực thuộc Đảng uỷ Khối kinh tế Trung ương, được cấp trên chấp nhận. Khó khăn ban đầu về tổ chức là thiếu cán bộ. Phải nâng cấp nhanh. Đồng chí Đoàn Ngọc Bông từ Tổng Thư ký lên Phó Chủ tịch, đồng chí Phạm Chi Lan từ Phó Tống thư ký lên Tổng Thư ký. Còn cấp phòng cũng được đưa lên cấp trưởng, phó ban. Có đồng chí phải kiêm nhiệm, chủ yếu là đề bạt từ dưới lên. Còn xin ở các ngành Trung ương về khoảng 10 đồng chí, bổ sung vào các nơi đang thiếu hụt. Bộ máy đi dần vào ổn định, hàng năm phát triển dần lên theo khối lượng công việc gia tăng. Về thông tin tuyên truyền, báo chí, từ một tờ tin, chuyển thành báo tuần, lấy tên là Diễn đàn Doanh nghiệp từ tháng 10-1993, mỗi tuần ra 4 số. Tiếp đến là Tạp chí VIB Forum cũng ra 4 số/tuần. Thành lập Trường cán bộ quản lý doanh nghiệp, Thư viện, Trung tâm nghiên cứu phần mềm về quản lý tài chính, thành lập thị trường điện tử, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMES), Văn phòng Giới chủ (người sử dụng lao động) v.v...
Công việc ngày càng đi vào nề nếp, anh chị em cán bộ công nhân viên làm việc rất nhiệt tình, từ các đồng chí Thường trực, đến các đồng chí trương, phó ban, chánh phó giám đốc công ty và trung tâm, đến toàn thể anh chị em trong khối VCCI từ Hà Nội đến địa phương. Tất cả đều làm việc hăng say, đoàn kết xây dựng VCCL ngày một lớn mạnh. Phòng đã tổ chức cho anh chị em học tập trong nước, nâng dần trình độ cho mọi người, một số được gửi ra nước ngoài đào tạo. Đến nay 85% cán bộ công nhân viên ở cơ quan văn phòng có trình độ đại học trở lên, Ban Thường trực và cán bộ trưởng, phó ban, trưởng phòng, phổ biến là có 2 bằng đại học, và biết một ngoại ngữ, một số có bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Phương tiện làm việc cũng được trang bị tương đối hiện đại, công nghệ thông tin được dùng phổ biến trong cơ quan để làm việc, giúp cho kiến thức được sử dụng tốt vào việc phục vụ công việc của Phòng ngày càng có hiệu quả.
Về Đảng và tổ chức quần chúng, luôn luôn phát triển phù hợp với công việc và biên chế tăng. Đến nay Đảng bộ đã trên 200 đảng viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ cơ sở có 11 đảng uỷ viên, có trên 20 chi bộ trực thuộc từ Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, đều trực thuộc Đảng uỷ VCCI quản lý theo ngành dọc.
Các đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, công đoàn đều phát triển và làm nòng cốt trong phong trào thi đua, văn hóa quần chúng, thể dục thể thao, cải thiện đời sống cho mọi người. Chế độ lương, bảo hiểm xã hội ngày một hoàn chỉnh. Lương bình quân hiện nay là gần 2 triệu đồng/tháng. Bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho mọi người. Nếu tính từ 1993 khi tách ra khỏi Bộ Thương mại, lương bình quân là 420.000 đồng, thì nay tăng gần 5 lần. Việc đi nghỉ hàng năm cũng bắt đầu cho nhiều anh chị em đi du lịch nước ngoài như Thái Lan, Trung Quốc... Tính đoàn kết trong Đảng và quần chúng thì thông qua các hoạt động sôi nổi trong công việc và sinh hoạt văn hóa, thể thao thể dục, tạo điều kiện cho mọi người gặp gỡ, tiếp xúc, giao lưu kiến thức, văn hóa:. được gần nhau, tạo không khí trong cơ quan lúc nào cũng như ngày hội mà Lénine mong ước: cách mạng là ngày hội của quần chúng.
Trong điều kiện độc lập về ngân sách, không có tài trợ của ngân sách Nhà nước, nên việc chi tiêu luôn phải tiết kiệm, chi tiêu có mục đích, chi tiêu tạo ra giá trị gia tăng được khuyến khích. Còn chi tiêu, tiêu phí thì giảm tới mức thấp nhất.
Tôi có ý thức luôn luôn chuyển “lòng tham không đáy” cho công việc quốc gia, nghĩa là công việc của Phòng, còn cá nhân là “lòng tham phải có đáy” (nhân dục hữu nhai). Tôi luôn suy nghĩ việc này sang việc khác, nhằm phát triển doanh nghiệp. Nhiều anh chị em gặp tôi thường nói là: “luôn luôn bị giao công việc mới”, “Anh em suy nghĩ không kịp Thủ trưởng”. Quả thật như vậy. Tôi có thói quen không bao giờ làm theo đường mòn, rập khuôn, mà luôn luôn sáng tạo, nghĩ ra việc mới, hoặc học tập kinh nghiệm có hiệu quả của bạn. Còn ngồi chơi xơi nước, tán chuyện tào lao, là tôi rất sốt ruột, nhất là bới móc chuyện đời tư của người khác...
Đến nay tổng số cán bộ công nhân viên là 800 người. Đảng bộ 5 năm liền là Đảng bộ vững mạnh, trong sạch. Tôi thường nói với các đồng chí trong Đảng bộ “Được cờ, được giấy khen, bằng khen của Đảng bộ cấp trên là mừng. Nhưng chúng ta nhớ rằng Đảng bộ ở một cơ quan không có quyền hạn, ít quan hệ đến những việc: Xin, cho, cấp, phát... như cơ quan Nhà nước, chỉ có đi giúp đỡ, bảo ban, hướng dẫn... doanh nghiệp làm giàu, tạo mọi thuận lợi cho họ, bằng lời nói, giấy tờ hướng dẫn... nên môi trường cũng tạo cho Đảng bộ ta vững mạnh, trong sạch. Giả thiết ta cũng có quyền quyết định đến tài chính, quan hệ lợi ích sống còn của doanh nghiệp, chưa chắc chúng ta đã giữ được trong sạch. Do đó, Đảng uỷ phải tăng cường giáo dục cho đảng viên, chặt chẽ khi kết nạp, bảo đảm đủ tiêu chuẩn, nhất là tiêu chuẩn tự giác đứng dưới cờ của Đảng, dám hy sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi dân tộc, kể cả tính mạng của mình. Có làm được như vậy mới luôn là Đảng bộ vững mạnh, trong sạch, xứng đáng với lá cờ của cấp trên trao tặng cho Đảng bộ ta”.
Những cuộc đi công tác nước ngoài và trong nước đáng ghi nhớ!
Thăm quê hương Lénine.
Từ ngày lên công tác ở Trung ương, nhất là thời kỳ làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại và Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tôi thỉnh thỏang đi nước ngoài công tác. Mỗi cuộc đi, tôi đều đặt ra cho mình một mục tiêu nhất định. Đi ít nhưng được nhiều, giúp cho suy nghĩ vận dụng, bổ sung vào kiến thức của mình.
Tháng 3-1987 tôi sang Liên Xô lần thứ 2, họp khối SEV. Năm đó là năm rét nhất kể từ sau Đại chiến thứ II. Tôi đến thành phố Léningrad (nay là Sant-Perterburg) rét xuống âm 38 độ, âm 39 độ. Rét ơi là rét, mặc bao nhiêu quần áo cũng không đủ ấm. Khi đến viếng đài liệt sĩ vô danh của thành phố, phải chạy, mặc niệm 1, 2 giây, đồng chí hướng dẫn đã bảo phải vào xe ngay kẻo bị “cóng”. Các đồng chí Liên Xô nói rét năm nay bằng rét lúc quân phát xít Hít-le tấn công Léningrad, nên nhiều lính Đức đã chết rét. Trong lúc Liên Xô rét như vậy thì Việt Nam mùa đông nóng như mùa hạ, làm cho nhiều nơi mất mùa, vì chưa có giống lúa mới chịu nóng. Nạn đói năm 1987-1988 ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An trầm trọng, do mất vụ Đông Xuân vì khí hậu nóng.
Khi họp Hội nghị khối SEV về ngoại thương tôi cảm thấy ít bổ ích, thiếu tính phát triển tích cực, bị động với Bộ Ngoại thương Liên Xô. Đến họp như để chia phần viện trợ từ Liên Xô, còn các nước Đông Âu và Việt Nam như những thành phần phụ thuộc, điều chỉnh thêm bót chút ít, khi được phân công xuất nhập trao đổi hàng hóa. Tôi nhớ lúc đó Việt Nam xuất ít, nhập nhiều, thiếu ngoại tệ (Rúp). Các đồng chí đại diện của ta ở khối SEV bảo tôi viết một thư tay cho đồng chí Aristov, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Liên Xô xin vay 100 triệu Rúp để thanh toán. Đồng chí Aristov bảo Ngân hàng MIB của khối SEV cho vay đủ 100 triệu Rúp. Tôi thấy dễ dàng quá. Tôi nghĩ, nếu khi tôi ở Hải Phòng có một triệu Rúp tôi sẽ làm giàu. Nay về Trung ương có 100 triệu Rúp trả nợ mua bột mì, ký một cái là đã ăn hết sạch. Dám cho Việt Nam 100 triệu Rúp làm vốn kinh doanh, sau một năm sẽ đẻ ra bao nhiêu lãi? Năm sau không phải vay nữa có tốt biết bao? Cứ vay nợ để ăn, “nợ chằng, nợ đụp”, biết bao giờ trả nợ cho xong.
Cuối năm 1987, đồng chí Aristov thôi giữ chức Bộ trưởng Ngoại thương. Năm 1989 đồng chí được cử làm Đại sứ Liên Xô tại Phần Lan. Năm 1989 tôi sang thăm Phần Lan, tôi đến thăm đồng chí Aristov, đồng chí Hồ Huấn Nghiêm, uỷ viên Uỷ ban Kế hoạch cùng đi trong đoàn với tôi, giúp tôi phiên dịch tiếng Nga.
Tôi đến Đại sứ Liên Xô ở thủ đô Hensinky, hai vợ chồng đồng chí Aristov xuống đón chúng tôi tại chân cầu thang máy, rất thân tình. Trong hơn 1 giờ đến thăm đồng chí Aristov, đồng chí rất cảm động, kể lại bao chuyện biến thiên trong đời mình. Đồng chí nói: “Hơn một năm bị mất chức Bộ trưởng, tôi như người mất hồn, mới sang làm Đại sứ được mấy tháng tại Phần Lan, mới trở lại bình thường. Được các đồng chí Việt Nam đến thăm, tôi và nhà tôi rất phấn khởi, ngay từ khi nhận được tin đồng chí đến thăm...”. Tôi tặng đồng chí một kỷ niệm nhỏ của Việt Nam, bức tranh sơn mài. Ra về tôi và đồng chí Hồ Huấn Nghiêm trao đổi với nhau, thấy các đồng chí Liên Xô cũng như đồng chí Aristov tình nghĩa và chân thành với Việt Nam quá! Một tình cảm của những người cộng sản.
Thăm quê hương Khổng Tử
Năm 1996 tôi được đồng chí Lý Thụy Hoàn, uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội nghị chính trị Hiệp thương Trung Quốc (Hiệp chính) mời sang Bắc Kinh dự hội thảo: “Trung Quốc và châu Á với thế kỷ 21” do đồng chí Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa; đồng chí Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; đồng chí Lý Thụy Hoàn, Chủ tịch chính Hiệp hội chủ trì.
Cuộc hội thảo trong 4 ngày. Khách nước ngoài được mời có 19 người gồm các ông Lý Quang Diệu, nguyên Thủ tướng Singapore, cựu Thủ tướng Đức Smith, cựu Thủ tướng Nhật Bản Nakasonê, Kissinger Mỹ, và một số vị khác. Cuộc hội thảo rất phong phú, có nhiều dự đoán sắc sảo. Có đoàn đi rất đông, như đoàn Mỹ tới 40 người. Đoàn Việt Nam có 3 người. Sau khi đi dự Hội nghị về, tôi đã báo cáo với Bộ Chính trị 32 vấn đề mà tôi rút ra từ cuộc hội thảo này.
Kết thúc hội thảo, Thủ tướng Lý Bằng hỏi tôi có đi tham quan địa phương nào để đồng chí cho thu xếp. Tôi nói: “Tôi là đồ đệ của Khổng Tử, tôi muốn đi thăm quê hương của Khổng Tử”. Đồng chí cho chuẩn bị ngay. Tôi đề nghị với đồng chí, tôi xin phép được đi với một số doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc, mong đồng chí thông cảm. Nhưng Thủ tướng Lý Bằng vẫn điện cho tỉnh Sơn Đông đón tiếp tôi rất trọng thị.
Tôi nhớ hôm đến Bắc Kinh dự hội thảo, một đổng chí Vụ trưởng Bộ Ngoại giao ra đón ở sân bay. Về đến khách sạn Bắc Kinh, tôi thấy trải thảm đỏ, hoa, hai bên hai hàng đứng đón. Tôi nghĩ mình đi hội thảo như mọi lần, có ai đón đưa gì đâu, cứ đến khách sạn, phát biểu xong là về. Tôi ghé tai hỏi đồng chí Đào Duy Chữ và Vũ Tiến Lộc: “Bạn đón đoàn nào mà sang thế?”. Đồng chí Chữ bảo: “Bạn đón anh đấy!”. Tôi tưởng đồng chí nói đùa, hóa ra bạn đón tôi thật. Tôi vội sờ tay lên cổ, xem lại cravate, và quần áo cho chỉnh lề..., các đồng chí tặng hoa, mời vào phòng khánh tiết của khách sạn giải khát và bạn giới thiệu một vài nét ngắn gọn về cuộc hội thảo quan trọng này. Tôi đã có bài gửi sang Trung Quốc trước 6 tháng, bạn đã cho dịch sang tiếng Anh và Trung Quốc. Ngày mai vào hội thảo, tôi chỉ đọc bằng một trong hai thứ tiếng trên, tùy tôi lựa chọn. Tiếng Anh tôi khá hơn, chắc đọc sẽ lưu loát. Còn tiếng Trung tôi đọc và viết tốt, nhưng nói tiếng phổ thông rất kém. Nhưng chẳng lẽ đến Trung Quốc lại đọc tiếng Anh, tôi đành đọc tiếng Trung, dù phát âm không chuẩn thì bạn cũng vui hơn là tôi đọc tiếng Anh. Đọc xong bài phát biểu, đồng chí Chữ là người giỏi tiếng Trung, bảo tôi: “Riêng anh dũng cảm đọc tiếng Trung là đáng 10 điểm rồi!”. Cả ba anh em cùng cười.
Tôi đi Tế Nam, thủ phủ tỉnh Sơn Đông, một tỉnh lớn miền Duyên Hải, với 87 triệu dân, đông dân hơn nước ta, có nền công nghiệp phát triển, có bia Thanh Đảo nổi tiếng, đặc biệt có huyện Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử, có núi Thái Sơn, có biển Bắc Hải. Khi sinh thời Khổng Tử thường dẫn đệ tử lên núi Thái Sơn vừa du ngoạn, vừa giảng bài cho môn đồ hoặc đi thuyền trên biển... Thành phố Tế Nam cách thủ đô Bắc Kinh 800 km. Chúng tôi đi bằng máy bay, sau đó đi ôtô khoảng hơn 70 km đến huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông thời Xuân Thu, cách đây hơn 2500 năm là hai nước: “Tề và Lỗ”. Khổng Tử sinh ở nước Lỗ nhỏ, nước Tề lớn và mạnh hơn nước Lỗ. Nhưng là có đạo, nên nước Tề cũng kiêng nể nước Lỗ.
Đoàn chúng tôi đến Tế Nam được tỉnh Sơn Đông đón tiếp chu đáo. Tối hôm đó đồng chí Chủ tịch tỉnh Sơn Đông chiêu đãi chúng tôi.
Hôm sau, chúng tôi đi thăm Khổng Miếu, Khổng Phủ và Khổng Lâm (Khổng miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, Khổng phủ là gia đình Khổng Tử. Khổng lâm là khu riêng hàng chục ha nơi an táng Khổng Tử và phu nhân, con trai Khổng Tử là Lý Ngư và cháu đích tôn là Tử Tư, người viết ra sách Trung dung. Tổng số có hơn 3.000 ngôi mộ).
Khổng Miếu xây từ đời nhà Tống. Khi Khổng Đạo được coi là quốc đạo của nhà nước Trung Quốc và từ đời thứ 34 con cháu Khổng Tử mới đến Khổng phủ ở. Khổng miếu cũng có diện tích bằng Cố cung (Thiên An Môn), rộng 73ha, xây dựng na ná như Cố cung. Có khác là hai bên tả vu, hữu vu ở Khổng miếu là bia ghi các đời vua đến đây tế Khổng Tử. Còn Cố cung là các quan triều đình làm việc.
Khổng miếu xây cao gần bằng Cố cung, chỉ thấp hơn một viên gạch, gọi là: “Kính Thiên Tử” xây thấp một chút bằng chiều dầy viên gạch.
Toàn huyện Khúc Phụ chỉ có nhà 2 tầng và bắt buộc không được xây cao hơn Khổng miếu.
Nơi đây khách quốc tế đến tham quan, lúc nào cũng có hàng vạn khách du lịch ở khắp huyện Khúc Phụ. Các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo... đi lại tấp nập, buổi trưa nằm la liệt ở Khổng lâm, Khổng miếu... để suy tư về một nhà tư tưởng vĩ đại phương Đông.
Trong Khổng miếu, ngoài tượng của Khổng Tử, đồ cúng tế, trang bị vừa phải như sinh thời của Ngài, không lộng lẫy như ở Cố cung. Đặc biệt có bức tường giả để giấu các bộ sách kinh điển như: Tứ Thư, Lục Kinh v.v... của cháu đời thứ 7 của Khổng Tử, để chống lại chủ trương của Tần Thủy Hoàng là “Đốt sách, giết học trò” (Phần thư, Khanh nho). Cái hầm giả là bức tường đó nay vẫn còn. Đến Khổng Lâm, nơi đặt mộ của Khổng Tử và phu nhân, rồi đến cháu đích tôn là Tử Tư, rồi mới đến Lý Ngư là con trai của Khổng Tử, thân sinh ra Tử Tư, vì Tử Tư được xếp vào bậc đại hiền, nên xếp mộ ở trước bố, gần với ông nội là đức Khổng Tử.
Khi Khổng Tử mất, hơn 3000 học trò của ông, nhất là 72 người hiền, những người học trò giỏi nhất, đến làm nhà ở bên mộ thầy ba năm. Riêng Tử Cống ở lại 6 năm mới về. Nhà Tử Cống hiện nay vẫn còn dấu tích các cây cổ thụ do các ông Tử Lộ, Tử Cống trồng, đến nay vẫn giữ được. Theo các hướng dẫn viên cho biết: “Nếu không có Thủ tướng Chu Ân Lai tích cực can thiệp và bảo vệ, thì khu di tích lịch sử vĩ đại này sẽ bị thời kỳ Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc phá hết!
Đến nay con cháu của Khổng Tử về ở Bắc Kinh, không còn ai ở Khổng Phủ. Cháu đời thứ 80 của Khổng Tử đã sang Hà Nội tham quan và vào Văn Miếu thắp hương cho Khổng Tử. Rõ ràng Khổng Tử là một người thầy tiêu biểu của muôn đời, đã được UNESCO thừa nhận đúng như trong Khổng Miếu, ở đền chính bức đại tự rất to viết 4 chữ “Vạn thế sư biểu”.
Nước Lỗ quê hương của Khổng Tử, là nơi sinh ra rất nhiều danh nhân văn hóa nổi tiếng như Khổng Minh, Vương An Thạch, tể tướng Trung Quốc thời nhà Tống. Lại có núi Thái Sơn cao nhất vùng. Khổng Tử đã nói: “Đăng Thái Sơn nhi thiên hạ tiểu” (lên núi Thái Sơn, trông thiên hạ nhỏ bé). “Thiên hạ”, cách nói của thời kỳ phong kiến Trung Quốc, coi Trung Quốc là cả thế giới. Nay lên tham quan núi Thái Sơn đã có xe cáp treo, chỉ phải trèo núi khoảng 300-400m. Cao như thế mà các vua Trung Quốc hàng năm đến tế Khổng Tử lên đỉnh núi Thái Sơn. Vua Càn Long nhà Thanh là ông vua ba lần lên núi Thái Sơn tế đức Khổng Tử.
Trong chuyến đi thăm này tôi mới hiểu rõ tại sao Trung Quốc khi tổ chức cưới (và Việt Nam cũng vậy), dùng chữ “Song hỉ”. Trước đây tôi nghĩ đám cưới là của hai họ, nhà trai nhà gái, cùng vui nên dùng chữ “Song hỉ”. Chuyến đi Sơn Đông lần này tôi mới hiểu ngọn nguồn. Đó là một chuyện ngẫu nhiên, tình cờ và là vận may của Vương Tể tướng nước Tống. Ông học giỏi nhất vùng, cùng quê với Khổng Tử, sau này là người học giỏi nhất nước, làm đến chức Tể tướng Trung Quốc.
Chuyện kể rằng: Khi đi Bắc Kinh để thi đình, trên đường xa 800 km, ông đi qua một vùng trù phú. Ở đấy có một “Phú gia địch quốc” có cô con gái xinh đẹp. Phú ông muốn tìm người tài trong thiên hạ để kén chồng cho con gái. Phú ông cũng là người học rộng, uyên bác, muốn thử tài trong thiên hạ nên viết một vế câu đối, treo bên cái đèn lồng tả “Đèn kéo quân”, nội dung:
“Mã tẩu đăng, đăng tẩu mã, đăng tức, mã đình bộ (nghĩa là: ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân).
Ngài... “tân khoa” Vương An Thạch học giỏi nổi tiếng nhất vùng mà đọc đi, đọc lại suy nghĩ mãi, cũng không tìm ra được lời hay, ý đẹp, đối đáp lại... Ông đành bàn với những người phục vụ cùng đi: “Hãy về Kinh thi xong, tính sau”, mặc dù ngài “tân Khoa” rất luyến tiếc người con gái đẹp, lẫn của cải giàu sang, và tự trách mình học giỏi, tài cao mà có một vế câu đối... lại không đối được, đành đi thẳng.
Đến Bắc Kinh, ông vào thi ròng rã hàng tháng. Cuối cùng ông đỗ “Tam khôi”, một trong ba người giỏi nhất thi đình (lấy tiến sĩ). Nhưng ông Vương chỉ đứng thứ ba, vì khoa này không có ai đủ điểm trúng Trạng nguyên và Bảng nhỡn. Ông đỗ Thám Hoa. Khi kiểm tra lại (phúc khảo), Vua Tống cho gọi ông vào Triều và ra cho một vế câu đối, bắt ông đối lại. Cờ nhà Tống lúc đó có thêu con hổ ở giữa, nên vua ra vế câu đối có nội dung sau đây: “Hổ phi kỳ, Kỳ phi hổ, Kỳ quyển, hổ tàng hình” (nghĩa là: Hổ bay theo cờ, cơ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ giấu mình).
Ngài Thám hoa mừng thầm trong bụng là mình gặp may, ông liền lấy vế câu đối của “Phú ông” đem đối lại, Vua khen hay, chính thức phê duyệt ông đỗ Thám Hoa, đứng thứ ba trong hàng Tam Khôi. Và đứng đầu tiến sĩ khoa đó.
Ông vinh quy, không quên qua nhà “Phú ông” dùng vế câu đối của vua ra để đối lại câu đối của phú ông. Phú ông rất hài lòng và gả con gái yêu cho quan Tân khoa Thám hoa Vương An Thạch. Hai vế câu đối trọn vẹn:
“Mã tẩu đăng đăng tẩu mã, đăng tức, mã đình bộ.
Hỗ phi kỳ, kỳ phi hổ kỳ quyển, hổ tàng hình”.
Phú ông cho tổ chức đám cưới ngay tại nhà mình. Trong ngày tân hôn, quan Thám hoa nhận được cờ Tiệp của nhà vua phong cho làm Tể tướng (ngang Thủ tướng), phải kíp về triều nhận nhiệm vụ
Quan Thám hoa sung sướng, viết hai chữ rất to tặng bố vợ và gửi về gia đình: “Song hỉ”. Một vận may hiếm có: làm Tể tướng lấy vợ đẹp. Chữ nghĩa thông minh nhất nước mà phải nhờ 2 vế câu đối của người khác mới thành danh. Thế mới biết làm cả 2 vế câu đối thì dễ, còn phải đối lại vế câu đối của người khác là khó lắm thay!
Chẳng phải thế mà ngay trong nước ta, đời này lưu truyền đời khác, còn một vế câu đối vẫn chưa có nhân tài điền vào.
Ở làng Rồng huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương có vế câu đối: “Đình làng Rồng có cây gỗ rắn, đục ba năm chẳng cắn miệng xà, long lại hoàn long...”.
Hay ở làng Bo, Thái Bình có vế câu đối:
“Con bò lang chạy vào làng Bo”
Hay hai câu đối của Đoàn Thị Điểm thách Trạng Quỳnh đối:
“da trắng vỗ bì bạch”
“Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy dái đỏ hồng hồng”.
Ngay đến Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, khi sang sứ Trung Quốc, đến Hữu nghị quan (ngày nay). Người gác cửa quan thấy quan trạng Mạc Đĩnh Chi đến muộn bèn ra một vế đối, dán ở bên cửa quan và khóa cửa lại:
“Đáo quan trì, quan quan bế, nguyện quan khách quá quan (đến cửa quan chậm, cửa quan đóng, xin quí khách trèo qua mà đi).
Câu đối khó quá, ngay người ra câu đối cũng chẳng đối được. Quan trạng Việt Nam
lấy ngay ý đó viết nốt vế kia dán lên:
“Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh, tiên đối (Ra đối dễ, đối lại khó, xin ngài đối trước).
Vị gác cửa quan liền mở cửa cho Trạng nguyên Việt Nam sang Trung Quốc và cho là nhà thông thái nhất của Việt Nam. Chẳng thế mà Mạc Đĩnh Chi sang sứ Trung Quốc, đời Tống, đời văn hiến thịnh trị mà triều đình Trung Quốc đã tặng Mạc Đĩnh Chi là Trạng nguyên Trung Quốc.
Thăm quê hương Chúa Jesu và thánh Mohamad
Trung Đông, nơi còn ghi lại đậm nét quá trình lịch sử tiến bộ của loài người. Trung Đông lúc nào cũng có nhiều sự kiện, nơi tiếp giáp 3 lục địa chủ yếu của Trái đất: châu Á, châu âu, châu Phi. Và nơi đây từ xa xưa đã xuất hiện nhiều tôn giáo, chỉ sau đạo Phật của châu Á. Đó cũng là nơi xuất hiện một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng khá thông minh, đã sinh ra chúa Jesu, Marx, Eisntein.v.v... là dân tộc Do Thái, thông minh đến mức mà Hitler căm tức họ, đã giết 4 triệu người Do Thái trong đại chiến thế giới thứ II. Sau đại chiến, nhờ Mỹ, Anh và Liên hiệp quốc can thiệp họ mới được trở về mảnh đất quê hương của Jesu nay gọi là Israel, một đất nước có 7 triệu dân với diện tích khoảng 30.000 km2, còn khoảng 6 triệu dân vẫn đi kinh doanh buôn bán ở nước ngoài, nhưng hàng năm vẫn gửi về xây dựng đất nước hàng chục tỷ USD.
Tháng 7-2001, tôi dẫn đoàn doanh nghiệp Việt Nam gần 20 người sang thăm Israel. Đến đây mới thấy ý chí của người Do Thái và sự tranh chấp đất đai phức tạp giữa Palestin và Israel, cuộc đấu tranh giữa 2 đạo giáo Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Nội bộ Thiên chúa giáo, Do Thái giáo và Tin Lành cũng rất phức tạp. Đến đây mới thấy hết tính phức tạp của tín ngưỡng, tâm linh, thần quyền.
Sau khi làm việc với Bộ Ngoại giao, Bộ Phát triển Đầu tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Israel, thăm một số xí nghiệp chế biến kim cương, xí nghiệp điện tử, chế biến điêu khắc các loại hình tượng bằng kim loại của các nghệ nhân nổi tiếng, thăm nơi trồng rau trên bãi sa mạc thiếu nước ngọt (vì cả nước Israel là sa mạc, nguyên liệu chỉ có một “biển chết”, biển không còn hoạt động và cạn dần, nước mặn đến 30 độ bom-bê. Thế mà vẫn tổ chức tắm ở đây, coi như tắm nước muối), đến thăm 5 ky-but (hợp tác xã) trong tổng số hơn 500 hợp tác xã, với gần 500.000 xã viên. Hợp tác xã sản xuất kinh doanh rất giỏi, ăn tập thể, ở tập thể. Chúng tôi đã đến ăn một bữa trưa do hợp tác xã chiêu đãi. ăn do khách tùy chọn, có khoảng hơn 30 món ăn mỗi bữa, và thay đổi luôn. Mỗi căn hộ 64 m2 cho gia đình 4 người, có sân vườn. Hàng năm sau khi chia lãi cho xã viên, mỗi xã viên được thưởng 5.000 USD để đi du lịch. Đi làm đều có ô tô chở đi. Chúng tôi đến thăm một ky-but nuôi cá cảnh xuất khẩu sang Nhật Bản doanh số 300 triệu USD/năm. Mọi người đi làm việc đúng giờ và vận hành máy móc, hầu hết là tự động hóa, như tưới nước cho cà chua, cà tía. Có máy tính cặp vào lá cây, khi cây thiếu nước, máy tự động tưới cho cây. Nhưng cũng có những khâu làm thủ công như bắt cá cảnh, đóng vào các công-ten-nơ có dưỡng khí, đưa ra sân bay, bảo đảm đến Nhật cá vẫn mạnh khoẻ.
Theo báo cáo của ông chủ nhiệm hợp tác xã thì đã có một số người không muốn làm ở hợp tác xã, muốn xin ra hợp tác xã để đi làm nơi khác, tự do.
Cả nước Israel có 3 thành phố lớn, Thủ đô là Ten-a-vip, cảng An- pha và thành phố Jerusalem còn đang tranh chấp giữa Palestin và Israel. Đoàn chúng tôi nghỉ ở Ten-a-vip. Cảng An pha là cảng nước sâu. Khi đoàn chúng tôi đến xem cảng, thấy hàng không mẫu hạm Mỹ chở đầy máy bay đậu ở cảng này.
Ngày cuối, chúng tôi đến thăm thánh địa Jerusalem. Chúng tôi đến thăm mộ chúa Jesu, cùng là dấu tích ông bị đóng đinh câu rút. Mộ ông và đền thờ ông được quản lý chặt chẽ. Dù thờ chúa Jesu, nhưng lại chia làm 3 tông phái khác nhau: Thiên chúa giáo, Do thái và Tin lành. Ba tông phái đều coi mình là theo chính đạo của chúa Jesu, và đều đòi trông coi đền thờ lẫn mộ chúa. Để bảo đảm không thiên vị, ba phái phải thuê một người theo đạo Hồi cầm chìa khóa trông coi ngôi mộ và đền thờ chúa Jesu. Tôi đến đây mới thấy con chiên của Chúa từ khắp thế giới đến đây làm lễ. Tấm đá Chúa Jesu nằm khi bị đóng đinh câu rút chết, luôn luôn sạch bóng, vì ai đến đây cầu Chúa đều cúi sát miệng liếm trên tấm đá, rồi vào đền thờ Chúa đứng hàng giờ. Người đông nghịt, nhất là ngày chủ nhật. Chúng tôi là khách tham quan cũng đứng hồi lâu để thấy những gì con chiên của Chúa tưởng nhớ người quá cố, người đã tử vì đạo, vì hạnh phúc cho dân lành.
Sau khi thăm mộ và đền thờ chúa Jesu, chúng tôi sang đền thờ thánh Mohamad và bức tường thờ thánh Mohamad, chiếu theo đường thẳng chỉ cách đền thờ chúa Jesu khoảng 400 mét. Nhưng cách hành hương, lễ bái hai bên khác biệt nhau. Giữa Hồi giáo và Thiên chúa giáo luôn luôn kình địch nhau. Mặc dù mục đích của hai vị Thánh này đều cứu loài người khỏi khổ đau, không còn đàn áp nhau giữa người và người. Thế mà do bị kích động của các nhà cầm quyền, cũng như những vị trưởng lão của 2 tôn giáo, mà các tín đồ không hòa hợp được. Hai giáo phái này đều có tổ chức, và là 2/3 lôn giáo lớn nhất thế giới. Họ đều nhân danh vì mục đích chung cao cả, là cứu loài người “khỏi đau khổ”, nên đã có những cuộc chiến tranh đẫm máu, như cuộc chiến tranh “thập tự chinh” và ngày nay vẫn còn tiếp diễn, kỳ thị, chém giết lẫn nhau.
Chúng tôi vào đền thờ Thánh Mohamad, rộng rãi trang nghiêm, thấy ít người vào hành lễ. Nhưng sang bức tường thờ Thánh thì đông như ngày hội. Những con chiên tứ phương đến, đều mặc quần áo cổ truyền của vùng Trung Đông, áo trắng, khăn trắng quấn trên đầu mỗi người. Cầu gì đều viết lên giấy, đặt trên bức tường, ghi rõ họ tên quê quán, nội dung cầu Thánh cho gì, rồi đập đầu vào tường 3 lần. Có người đập rất nhiều lần. Tôi hỏi bà hướng dẫn viên đập đầu mạnh như vậy nếu vỡ đầu thì sao? Bà bảo: đã có khăn che chắn. Lúc đó tôi mới hiểu cái khăn đội trên đầu là công cụ bảo hiểm cho cái đầu khi lễ thánh, cầu nguyện. Đồng chí Vũ Khoa, Tổng giám đốc Vinaconex hỏi tôi: “Mọi người đều viết giấy cầu nguyện, sao anh không viết”. Tôi bảo đồng chí Vũ Khoa: “Thánh Mohamad được cho là ngài thông minh nhất thế giới, sao ngài lại không biết tôi đến đây. Tôi chỉ vái ba vái là đủ”.
Chuyện đến thăm thành phố Jerusalem cổ kính, biết bao sự kiện, biết bao công trình xây dựng theo văn hóa Trung Đông. Nhìn sang dải Gaza, nơi đang có sự tranh chấp quyết liệt giữa Palestin và Israel thì tôi lại buồn cho Trung Đông, chưa biết bao giờ đến hồi chấm dứt. Đến hôm nay vẫn còn quyết liệt, bởi ai cũng muốn hơn, ai cũng muốn thắng, tuy lẽ phải lúc nào cũng thuộc về kẻ có sức mạnh. Không biết đến bao giờ chân lý thuộc về kẻ yếu?
Tối hôm chia tay, Đại sứ Mensua, đại sứ Israel tại Việt Nam, chiêu đãi toàn đoàn tại gia đình. Đại sứ Mensua là người dân tộc thiểu số, không phải gốc Do Thái. Ông là Đại tá chuyển sang làm ngoại giao, một người rất quí Việt Nam. Tối hôm đó ông mời 2 cụ thân sinh và các anh chị em con cháu đến đông đủ, hàng chục người cùng đến liên hoan với chúng tôi. Bà đại sứ đã sang Việt Nam cùng Đại sứ, nên nấu món ăn Việt Nam rất giỏi. Chúng tôi được chiêu đãi cả món ăn Israel. Một bữa tiệc rất thân thiết, đầm ấm như ở chính gia đình mình. Tôi rất nhớ cụ ông luôn luôn kể chuyện gia đình, đất nước, cho chúng tôi nghe, như những người thân ở xa về. Ông bà Đại sứ Mensua ân cần chăm sóc và dành cả thời gian đưa đoàn đi tham quan đất nước Israel. Ông hay nhắc đến việc Việt Nam tham gia ý kiến với Palestin và Israel mong họ thương lượng với nhau để hai nước sống hòa thuận. Việt Nam có rất nhiều kinh nghiệm về vấn đề này.
Thăm Hợp chủng quốc Hoa kỳ
Tháng 9-1994, Đoàn doanh nghiệp Việt Nam gồm 150 nhà doanh nghiệp do tôi làm trưởng đoàn sang thăm Hoa Kỳ, tổ chức triển lãm tại thành phố San Francico tại bang California. Lần đầu tiên có đoàn doanh nghiệp lớn sang Mỹ trong điều kiện hai nước mới bắt đầu lập lại quan hệ ngoại giao, nên hai bên đều có sự thăm dò lẫn nhau. Ban đầu đoàn gồm 250 người, có một số quan chức cao cấp là uỷ viên Trung ương Đảng cùng đi. Nhưng sau vụ bắt sò huyết của Đại sứ nước ta, phía Mỹ đưa lên báo chí, phía ta sinh lo lãng, rút đoàn xuống còn 150 người. Tôi cũng thấy buồn vì đã chuẩn bị hàng năm cho cuộc triển lãm. Doanh nghiệp đăng ký rất đông, đã phải cắt đi rất nhiều, nay lại giảm 100 doanh nghiệp, rất khó nói. Tiền thu rồi, vé máy bay, visa chuẩn bị gần xong, nay cắt ai, để lại ai, cứ phải thương lượng từng người rất vất vả. Nhưng rồi mọi việc cũng ổn thỏa.
Đội tiền trạm sang San Francico trước đã chuẩn bị sẵn. Doanh nghiệp đem hàng hóa sang trưng bày, những hàng cồng kềnh đã được chuyển qua tàu thủy sang trước. Thành phố San Francico từ ông Thị trưởng đến công chức tòa Thị chính đều giúp đỡ tận tình. Vì là tuần trăng mật, lại là lúc một số người Việt Nam ở Mỹ bị “cú sốc”, hai bên ký hiệp định bình thường hóa quan hệ, họ tổ chức các nhóm chống đối đi khắp nơi xuyên tạc cuộc triển lãm, và vận động nhân dân Mỹ tẩy chay. Truyền đơn, báo chí xuyên tạc cuộc triển lãm được đăng trên một số báo nhỏ địa phương. Còn các báo lớn đều ca ngợi cuộc triển lãm này. Việc bảo vệ cho cuộc triển lãm cũng được phía Mỹ tổ chức chu đáo, từ FBI đến an ninh của bang và thành phố cũng được huy động bảo vệ cho triển lãm.
Ngày khai mạc, lực lượng cảnh sát Mỹ bố trí vòng trong vòng ngoài bảo vệ. Từ sáng sớm bọn phản động đã thuê 2 máy bay cỡ nhỏ, kéo 2 khẩu hiệu: Đả đảo cộng sản... bay lượn khắp bầu trời thành phố San Francico suốt buổi sáng. Một khoảnh đồi nhỏ cách cổng vào nhà triển lãm khoảng 50 mét, có 75 người, đeo băng, khẩu hiệu, cầm cờ ba que đả đảo triển lãm, đả đảo Dương Kỳ Anh, trưởng ban tổ chức triển lãm. Tôi sang hôm khai mạc nên họ không biết tên. Đến hôm bế mạc họ mới biết. Họ là những dân di tản, thất nghiệp, bọn phản động thuê mỗi ngày 75USD, nhưng phải đóng quĩ của bọn phản động 25USD chỉ còn 50 USD/ngày. Người nào trông cũng gầy còm, chỉ có vài 3 tên chỉ huy là to béo. Họ bị cảnh sát Mỹ bắt buộc đứng vào một khu vực có dây chăng chung quanh, ra ngoài vòng dây là cảnh sát đánh ngay, nên bọn họ chỉ đứng hô đả đảo.
Chỉ được buổi sáng ngày hôm đầu, còn hôm sau vừa hô vừa cười, đùa vài phút rồi thôi. Họ còn lân la nói chuyện với anh em triển lãm và xin phép được vào triển lãm mua cơm ăn. Anh em hỏi tôi, tôi bảo: “Cứ cho họ vào mua, nhưng phải có điều kiện chỉ được đi người không, không được mang biểu ngữ, cờ, khẩu hiệu. Chúng tôi lại phải điều đình với cảnh sát Mỹ cho phép họ vào. Cảnh sát Mỹ khen ta nhân đạo. Còn họ, họ không cho vào. Bọn này vào mua nhanh rồi đem ra cho nhau ăn, không dám làm gì, và phân trần: “Chúng tôi không có việc làm, đi làm thuê, họ bảo sao làm vậy”. Anh em tuyên truyền giáo dục họ và dẫn họ ra khỏi cổng triển lãm, giao cho cảnh sát Mỹ. Họ lại ra chỗ đứng đã được qui định.
Để bảo vệ an toàn cho triển lãm, chúng tôi được Thị trưởng chỉ thị cho xe Harley đưa đi, đón về, rất chu đáo. Có 2 xe mô tô loại rất lớn với 2 cảnh sát đưa đi, đưa về.
Từ cổng triển lãm ra đến nơi ô tô đỗ, có 4 cảnh sát, cưỡi 4 con ngựa loại rất to đưa chúng tôi ra xe, giao cho kíp cảnh sát đi xe mô tô đưa chúng tôi về nhà nghỉ.
Trong 4 ngày triển lãm, doanh nghiệp Mỹ và người Việt Nam ở Mỹ đến xem rất đông. Hàng hóa của ta đem sang triển lãm bán hết trong ngày thứ hai, thứ ba. Các doanh nghiệp phấn khởi.
Cuộc triển lãm suôn sẻ, được Bộ Ngoại giao ghi vào báo cáo năm 1999 là 1/10 sự kiện lớn về đối ngoại. Sau triển lãm tôi đến nói chuyện tại cuộc hội thảo ở thành phố Seatle, Bang Washington State, giữa Mỹ và Trung Quốc; rồi đoàn đến tham quan nhà máy sản xuất máy bay Boeing. Lần đầu tiên có đoàn Việt Nam đến nhà máy, ông Tổng giám đốc tiếp và báo cáo với đoàn, cho đoàn quay phim của ta muốn quay đâu cũng được. Bạn bảo đó là ngoại lệ cho đoàn Việt Nam. Đoàn chúng tôi được lên xem chiếc máy bay Boeing 777 đầu tiên đang đóng dở. Bạn giới thiệu đó là loại Boeing chở khách tối tân nhất. Gần đây ta đã mua loại máy bay này chở khách. Tôi đã đi 4 lần, thấy nó tối tân và rất tiện nghi. Nhưng chở được ít khách hơn loại Boeing 747. Rời Washington, chúng tôi đi thăm thành phố New York, thăm thủ đô Washington, thăm Las Vegas, các thành phố phía nam nước Mỹ. Tôi đã có tất cả 18 cuộc nói chuyện với doanh nghiệp, với nhân dân Mỹ và một số quan chức Mỹ. Cuộc đi khá vất vả, được cái giao thông ở Mỹ thuận lợi, đi máy bay cũng như đi xe bus ở ta, cứ 30 phút có một chuyến, không đi chuyến trước thì đi chuyến sau, chỉ phải chờ, còn các thủ tục lên máy bay cứ có vé là lên ngay, không phải hỏi han kiểm soát gì cả. Vì thủ tục ở Mỹ họ kiểm soát rất kỹ khi nhập cảnh. Còn đã vào nội địa, người trong nước và nước ngoài như nhau, đi lại bình thường.
Sau 5 năm, 1999 tôi sang Mỹ lần thứ 2 để gặp gỡ các doanh nghiệp Mỹ, do ông Chủ lịch Phòng Thương mại Mỹ Dô-na-hu mời sang để giải thích vì sao Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ chậm được ký kết. Tôi cũng làm việc với Phòng Thương mại Mỹ và một số địa phương. Trong chuyến đi này đoàn chúng tôi có 55 người, hầu hết là doanh nghiệp.
Chúng tôi đi thăm 3 nước. Trước hết là thăm Cuba, dự hội chợ triển lãm quốc tế Lahavana. Trong những ngày ở Cuba, tình hình chính trị ổn định, nhưng kinh tế phát triển chậm, do Mỹ cấm vận, mặt khác việc quản lý của các đồng chí Cuba có phần chặt chẽ. Thí dụ tư nhân ăn uống chỉ có 12 ghế ngồi là tối đa. Thừa một ghế là bị phạt. Chúng tôi phải đến 4 nơi mà cũng không đủ ghế cho đoàn ngồi ăn một bữa, lại phải trở về khách sạn quốc doanh. Riêng du lịch phát triển, giáo dục học sinh được bao cấp hoàn toàn. Lương cán bộ công nhân, viên chức rất thấp, Bộ trưởng 20USD/ tháng. Cán bộ công nhân, viên chức 10 USD tháng. Tôi thấy anh chị em phục vụ vất vả. Tôi nói với anh chị em trong đoàn mỗi ngày người phục vụ đến phòng hãy cho mỗi người 1 USD. Các đồng chí phục vụ rất phấn khởi, khen Việt Nam rất tốt. Mình cũng nghèo, nhưng thấy bạn lại còn khó khăn hơn. Tôi gặp 3 đồng chí Bộ trưởng, trao đổi nên mở rộng cải cách đổi mới. Và giới thiệu kinh nghiệm đổi mới Việt Nam cho các đồng chí và cán bộ nghe.
Ở Cuba 3 ngày, sang thăm Canada, ở Toronto 2 ngày, chúng tôi đi đường bộ sang Mỹ, qua thác Niagra-fall đẹp nhất ở Canada, ngay biên giới với Mỹ. Chúng tôi đi ôtô về New York. Trên đường đi chúng tôi ghé thăm một làng cổ, người gốc Hà Lan đã nhập cư vào Mỹ hơn 200 năm, có khoảng 300 gia đình. Những người gốc Hà Lan này vẫn theo cổ truyền không dùng bất cứ cái gì dùng đến điện. Nhà đốt đèn dầu, đi xe ngựa, không dùng ti vi, radio, ăn mặc áo dân tộc, nhà hầu hết là một tầng, ở vào một khu vực. Khách đến tham quan nơi đây rất đông. Cảm thấy đến đây như vào một thung lũng, vì chung quanh đó có nhiều nhà cao tầng. Tôi hỏi người hướng dẫn viên được trả lời: dân ở đây chỉ đi gần, khoảng 100 km trở về, họ đi xe ngựa, xe đạp, đi bộ, không đi ôtô, máy bay những phương tiện có liên quan đến điện. Thế giới thấy lạ, khách du lịch tới tham quan đông, nên họ sống bằng nghề dịch vụ du lịch.
Đến thủ đô Washington, làm việc và dự hội thảo ở trụ sở Phòng Thương mại Mỹ, đối diện với Nhà trắng. Cuộc hội thảo có khoảng 10 Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ cùng dự. Nhiều vị phát biểu mong muốn sớm có Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ để quan hệ kinh tế giữa hai nước được toàn diện. Các doanh nghiệp mong muốn sớm vào Việt Nam đầu tư. Tôi phát biểu một bài và giải đáp những việc cần phải làm để sớm có Hiệp định song phương về Thương mại giữa 2 nước.
Sau đó tôi được mời đến nói chuyện ở Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quan hệ quốc tế (CISIS), của Kissinger, Bresinky, Carter. Có 3 ông trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao và nhiều quan chức Mỹ đến nghe. Sau bài phát biểu của tôi các bạn Mỹ hỏi 26 câu, hầu hết là có nội dung tốt, thiết thực cho quan hệ tốt đẹp Việt Mỹ, nhưng cũng có 4 câu hỏi như có phải Việt Nam không thực hiện được chủ nghĩa xã hội bằng kế hoạch hóa tập trung, nay phải quay sang kinh tế thị trường không? v.v... Tôi trả lời: “Người Mỹ là những người thích nói thẳng, tôi cũng thích nói thẳng, chỉ có nói thẳng chúng ta mới dễ gặp nhau để hợp tác lâu dài. Tôi tự giới thiệu với các ngài, tôi là một người cộng sản “nòi”. Tôi phải nói rằng kinh tế thị trường nay còn hiệu quả là do loài người nhiều thế hệ lạo ra. Tôi từ trong bụng mẹ đã làm kinh tế thị trường, vì mẹ tôi đang vận hành cơ chế thị trường ở nước tôi lúc đó Cho nên tôi sinh ra trong kinh tế thị trường, kinh tế thị trường đối với tôi không xa lạ. Trước đây chúng tôi muốn xây dựng CNXH thật nhanh, để có hạnh phúc cho toàn dân. Nhưng kết quả không như mong muốn, không có hiệu quả, chúng tôi bỏ nó, trở lại vận dụng kinh tế thị trường do cha ông để lại, để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có học thêm kinh nghiệm của các nước, như Mỹ chẳng hạn, có một nền kinh tế phát triển, vận dụng qui luật kinh tế có khác với những nước đang phát triển và có nhiều kinh nghiệm hay. Đó là sự trao đổi kinh nghiệm chung giữa các nước với nhau”.
Người Mỹ có tính hay “hợm mình” cái gì cũng muốn hơn người. Tôi nhớ lại dịp họp các doanh nghiệp, khối ASEAN ở khách san New World năm 2001, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có mời Thượng nghị sĩ John Kerry đến nói chuyện, đi cùng có đại sứ Mỹ Peterson... Nội dung bài nói rất hay. Nhưng đến phần cuối ông John Kerry nói: “Nước Mỹ phải lãnh đạo thế giới, nhưng đến nay chưa làm được nhiều”. Khi phát biểu lời cảm ơn, tôi đánh giá cao bài phát biểu của ông Kerry, những đoạn cuối tôi có ý kiến là: “Không nên dùng từ lãnh đạo thế giới mà là “hướng dẫn” thế giới. Vì dùng từ lãnh đạo thế giới chắc nhiều nước không đồng tình với Mỹ. (Hội nghị vỗ tay rất to, nhất là các đại biểu Malayxia). Nước Mỹ là nước giàu nhất thế giới, rất có nhiều điều kiện hướng dẫn giúp đỡ các nước nghèo. Khi được giúp đỡ một cách chân thành, họ thóat khỏi khó khăn, họ sẽ biết ơn nước Mỹ. Lúc đó nước Mỹ không cần nói lãnh đạo, họ cũng đi theo Mỹ và đặt nước Mỹ lãnh đạo họ. Như thế có tốt hơn không.”. Tôi thấy ông Kerry hơi ngượng tôi nói thêm: “Nếu cách nói đó là thói quen của người Mỹ, thì các vị thông cảm với tôi”. Tôi theo rõi từ đó, các quan chức cao cấp của Mỹ cũng thấy ít nói đến “từ” này. Nay ông John Kerry là ứng cử viên Tổng thống của đảng dân chủ. Nếu ông trúng cử chắc ông sẽ bỏ hoàn toàn cụm từ “lãnh đạo thế giới”.
Những cuộc đi công tác địa phương đáng nhớ
Thời kỳ công tác ở Trung ương, tôi đã đi khắp các tỉnh thành phố trong nước, có tỉnh thành phố tôi đến làm việc nhiều lần. Tỉnh, thành phố nào tôi cũng rất có cảm tình. Các đồng chí lãnh đạo cũng như các đơn vị tôi đến thăm hoặc làm việc, đều để lại trong tôi nhiều kỷ niệm không bao giờ quên, những án tượng sâu sắc về con người và cảnh vật. Đến nay tôi đã về hưu, nhưng các địa phương vẫn quan tâm thăm hỏi, có tỉnh hàng năm đều có thư mời về thăm, hoặc nghỉ ở những danh lam thắng cảnh của địa phương, làm cho tôi suy nghĩ, luôn luôn lúc nào cũng thấy trách nhiệm với đất nước, với nhân dân.
Tôi không phải là nhà thơ uyên bác gì, nên không dám đến đâu cũng “vạch đá đề thơ”. Nhưng có vài lần ở ba miền, nhất là những năm 1987-1988, tôi về công tác ở tỉnh Đồng Tháp, đến đâu nhân dân cũng mến mộ cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh ra Hồ Chủ tịch. Nhiều người kể về công lao của cụ Phó Bảng, xây dựng phong trào cách mạng ở Cao Lãnh. Có người nói: “Chúng tôi chưa biết Bác Hồ thế nào, nhưng thấy cụ Phó Bảng là chúng tôi quý Bác Hồ”. Tôi cảm động mới làm đôi câu đối thờ cụ, nói lên tính kết nối giữa cụ Phó Bảng với Bác Hồ trong sự nghiệp xây dựng phong trào cách mạng và hoàn thành sự nghiệp cách mạng của cha con cụ đối với dân tộc Việt Nam. Đôi câu đối đó lan tỏa đi một số nơi, nên một số tỉnh tôi đến làm việc các đồng chí đề nghị làm cho một đôi để đặt ở nơi có ý nghĩa. Tôi nghĩ đến đâu cũng viết câu đối thì chẳng hay gì, sinh nhàm chán. Tháng 4-1989 tôi đến thăm Nghĩa Bình, đến thăm huyện Tây Sơn thờ vua Quang Trung. Tôi xúc động làm một đôi câu đối để ở đền thờ với nội dung:
“Bát thập tuế khởi sự binh nhung bất tri chiến bại.
Tam cửu niên băng hà cường tặc do khuất uy linh”
(Nghĩa là: năm mười bảy tuổi, khởi binh đánh giặc, không biết thua là gì! Ba mươi chín tuổi mất, giặc dữ còn sợ oai nghiêm).
Trước khi viết chính thức tôi có nhờ cụ Minh nhuận sắc. Cụ Minh bảo tôi bỏ “Thanh, Xiêm một hữu thất kinh” (quân Thanh quân Xiêm chưa hết sợ) vì nay ta đã hòa nhập với thế giới, những từ nhắc lại quá khứ, nêu rõ tên, nên bỏ. Cụ thay vào đó là: “Cường tặc do khuất uy linh”. Tôi đồng ý với cụ Minh.
Tháng 10-1989 tôi lên làm việc với tỉnh Vĩnh Phú, các đồng chí lãnh đạo tỉnh có đề nghị tôi viết một đôi câu đối ở đền Hùng. Tôi nghĩ ở Nam Bộ tôi đã viết một đôi câu đối ở lăng cụ Phó Bảng, miền Trung có đôi câu đối ở đền thờ vua Quang Trung, ở miền Bắc cũng cần có một đôi câu đối của Thầy đồ “Đổi mới” xứ Đông để thờ Tổ. Tôi viết:
“Tứ thiên niên Hồng Lạc cố cương giang sơn thế việt
Lục thập triệu tử tôn cách mạng chế độ nhật tân”
(Nghĩa là: bốn nghìn năm Hồng Lạc, sông núi, bờ cõi vẫn giữ vững, con cháu người Việt ở đời đời, chữ “Thế Việt” còn có nghĩa là Vượt đời...).
Sáu mươi triệu con cháu làm cách mạng và đang đổi mới, chữ “Nhật tân” trích sách đại học của Tăng tử “Cẩu nhật tân nhật nhật tân, hựu nhật tân: (đã mới rồi, ngày ngày càng đổi mới, tiếp tục đổi mới).
Tôi lại nhờ cụ Minh nhuận sắc, cụ đồng ý không thêm bớt chữ nào. Tôi đọc để xin ý kiến anh Trường Chinh, anh Nguyễn Văn Linh, hai anh đều tâm đắc. Anh Trường Chinh thích vế thứ nhất, nhất là chữ “Thế Việt”. Anh Nguyễn Văn Linh thích vế thứ hai, nhất là chữ “nhật tân”. Câu đối được treo ở những nơi trân trọng, những cũng có nhiều ý khen chê. Khen thì nhiều, chê ít nhưng “to miệng”. Đến mức Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Vĩnh Phú phải hạ xuống cất vào kho. Sau Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú, đồng chí Nguyễn Văn Đăng bảo cứ treo trên đền chính và đề nghị con cháu cả nước ai có câu đối hay cứ đem đến đền thờ Tổ sẽ treo hết. Còn Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Tháp, đồng chí Tư Hữu nói thẳng với mấy người đến chê bai, rằng: các đồng chí giỏi thì làm đem đến đây tôi sẽ khắc trên bia đá, còn chê thì ai chê chẳng được. Chúng tôi cần làm, chứ
không cần nói.
Câu đối ở đền thờ vua Quang Trung, ở Tây Sơn, Bình Định, chắc ở xa, ít người đến nên chưa thấy có ý kiến gì. Thế mới biết, làm người khó lắm! Cổ nhân đã nói: “Tố vi nhân nan, tận chỉ bút đầu can” (làm người là khó, viết 4 chữ đó hết giấy mực vẫn chưa hết khó) và đặt ra 4 câu thơ để nhắn nhủ người đời:
Xảo yếm đa lao, chuyết yếm nhàn.
Thiện hiềm nhu nhược, ác hiềm ngoan
Phú tao tật đố, bần tao tiện
Cần viết tham lam, kiệm viết kiên....
(Nghĩa là: Khéo tay chê là vất vả, vụng về chê là lười biếng
Làm điều thiện, chê là nhu nhược; làm điều ác, bảo là ngoan cố.
Giàu có bị ghen ghét, nghèo chê là ti tiện.
Cần mẫn bảo là tham lam, tiết kiệm chê là keo kiệt...)
Cho nên người đời mới than rằng: “Tối nhân nan”.
Đó là những cuộc đi công tác nước ngoài và trong nước mà tôi có nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.
Bất cứ cuộc đi nước ngoài hay trong nước đối với tôi đều rất bổ ích và giữ lại nhiều kỷ niệm sâu sắc không bao giờ quên, với tình đồng chí, tình bạn bè, tình cán bộ với nhân dân, như nguồn cổ vũ động viên tôi suốt đời.
Đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn với Hải Phòng
Đồng chí Lê Duẩn trong những năm 1930 đã hoạt động cách mạng ở Hải Phòng và năm 1931 đồng chí bị thực dân Pháp bắt ở Ngõ Đá, Hải Phòng. Bởi vậy đồng chí Lê Duẩn có nhiều kỷ niệm với nhân dân và Đảng bộ Hải Phòng.
Sau những năm ra tù lần thứ nhất ở Côn Đảo về, đồng chí tiếp tục hoạt động ở miền Trung và các tỉnh miền Nam. Vào những năm 1939-1940 với cương vị là Uỷ viên Thường vụ Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Uỷ viên Thường vụ Phan Đăng Lưu và Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập mặt trận phản đế Đông Dương, thay mặt trận Dân chủ, chuyển hướng cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kỳ mới.
Năm 1940 đồng chí lại bị bắt và bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai cho đến khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Đồng chí được Đảng và Chính phủ đón về đất liền, tham gia cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Tôi là bậc hậu sinh, biết tiếng đồng chí Lê Duẩn bắt đầu từ khi tôi bị bắt và đày ra Côn Đảo, được các đồng chí Nam bộ kể về anh Ba (tên thân mật của đồng chí Lê Duẩn), tôi mới hiểu anh Ba qua những câu chuyện kể về tài năng và đức độ của anh trong tù, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam. Một con người thông minh, sáng tạo, đã cùng Trung ương Đảng và Bác Hồ đưa cách mạng ở Nam Bộ vượt qua bao nhiêu khó khăn của thời kỳ “trứng nước” đến ngày thắng lợi. Anh đã hoạt động trên mảnh đất đầy gian khổ nơi có nhiều xu hướng chính trị và đạo giáo phúc tạp, nơi quân Anh rồi đến quân Pháp trở lại xâm chiếm nước ta lần thứ hai, ngay sau ngày nước ta tuyên bố độc lập 2-9-1945. Với tài trí thông minh, anh được quân, dân Nam Bộ gọi là “ông 200 bougies” hoặc “ông 500 Bougies”. (Sáng như bóng đèn điện 200-500 nến).
Tôi chỉ được nghe kể thế thôi, còn con người cụ thể thì mãi đến năm 1957 anh ra Bắc và xuống Hải Phòng nói chuyện với Hội nghị cán bộ, tôi mới biết anh. Lúc đó tôi chưa phải là cán bộ chủ chốt của Hải Phòng. Nhưng do muốn tìm hiểu một con người sẽ kế thừa sự nghiệp của Bác, khi giải lao tôi đến gần anh, hỏi chuyện việc anh ra miền Bắc gặp nhiều khó khăn ra sao. Anh thân mật kể cho nghe. Chúng tôi vây quanh và đặt ra nhiều câu hỏi. Anh sẵn sàng trả lời, vừa vui vẻ, vừa thân mật. Thấy anh khoẻ mạnh, tươi cười, nhưng hay nói nhanh, giọng Quảng Trị pha Nam Bộ rất khó nghe. Riêng tôi ở nhiều với anh em ba miền, nên nghe khá hơn, đôi khi phải “dịch” lại cho một số anh em cán bộ Hải Phòng có lúc nghe mà không hiểu được gì cả. Có anh em như đồng chí Hải, cán bộ Tuyên huấn, bảo chẳng ghi chép được gì. Nhưng tất cả vẫn thấy vui, vì được gặp anh Ba lần đầu, thái độ anh cởi mở, gần gũi anh em.
Từ đó, hàng năm anh thường xuống Hải Phòng 2, 3 lần để gặp gỡ cán bộ, thăm nội ngoại thành, nhất là từ khi chị Bảy Vân về công tác ở báo Hải Phòng, ba cháu nhỏ cũng về Hải Phòng, nên anh Ba luôn tranh thủ những ngày nghỉ về thăm chị Ba với các cháu. Mỗi lần về, anh đều dành thời gian thăm phong trào. Giữa những năm 60, tôi phụ trách Liên hiệp xã Tiểu công nghiệp và Thủ công nghiệp. Trong những buổi ra ngoại thành, sang huyện Thủy Nguyên, Thành uỷ giao cho tôi dẫn anh đi xem. Từ những chuyến đi này, tôi có điều kiện tiếp xúc, gần gũi với anh qua câu chuyện đến thăm các cơ sở.
Tôi nhận thấy người chuẩn bị thay Bác Hồ, không phải chỉ giỏi chống ngoại xâm, mà có tầm nhìn về kinh tế rất sáng suốt. Từ đó bắt đầu tôi mến anh Ba, và luôn muốn gợi những ý kiến suy nghĩ của mình để anh Ba giải đáp.
Có một số lần xuống xem hợp tác xã dệt thảm len xuất khẩu ở Thủy Nguyên, một lần xem hợp tác xã may mặc ở nội thành, một lần xem hợp tác xã nông nghiệp kiêm làm nghề thủ công ở An Hải, đã cho tôi ấn tượng sâu sắc về tư duy kinh tế của anh Ba.
Đến hợp tác xã dệt thảm len gia công xuất khẩu, anh hỏi tôi sao lại tập trung khung dệt cồng kềnh thế này vào một nơi? Sao không để ở từng nhà cho thuận tiện đi lại, năng suất sẽ cao, không phải làm thêm nhà để khung cửi? Còn tập trung chỉ là cơ khí sản xuất theo dây chuyền thì người ta mới tập trung... Đến hợp tác xã may mặc anh Ba còn chất vấn tôi: Tại sao máy khâu mà cũng vào hợp tác xã, để người ta làm cá thể có hơn không? Những câu hỏi liên quan đến đường lối làm ăn tập thể, tổ chức hợp tác xã mà anh Ba hỏi như vậy khó trả lời quá! Tôi báo cáo anh Ba đó là theo hướng dẫn chỉ đạo của Trung ương. Anh Ba vặn lại tôi: “Các đồng chí ở cơ sở sát thực tế, trên không sát, phải đề xuất chứ. Cứ làm mà không có ý kiến gì là không được”. Tôi suy nghĩ quá! Nhưng lúc này chỉ nên vâng, dạ, còn biết nói sao đây, khi phong trào hợp tác hóa đang lên mạnh. Đến hợp tác xã dệt thảm len xuất khẩu, có em bé gái 16 tuổi đang dệt thảm, anh Ba hỏi cháu có biết đồng đô-la là gì không? Cháu ngớ người ra. Tôi vội thưa với anh, tôi cũng chưa nhìn thấy đồng đô-la... Anh Ba phân tích ngay, làm xuất khẩu mà không hiểu đồng đô-la là gì là không được. Phải cho các cháu nó biết giá trị của đồng đô la. Anh vỗ vai tôi và bảo: “Còn đồng chí càng phải biết đồng đô-la là gì? Có thế mới hăng say sản xuất, làm ra hàng xuất khẩu để có đô-la xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Thật là ý “mới toanh” tôi thấy ở một nhà chính trị lỗi lạc nói ra. Tôi thấy thích mà cũng thấy lạ tai, vì các đồng chí khác kiêng ky, thành kiến với đồng đô-la, còn anh Ba lại say sưa nói về nó. Tôi nghĩ đây là con người có một tầm tư duy kinh tế khác thường. Tôi nghĩ sao anh Ba không làm cho các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị khác nghĩ như anh nhỉ?
Khi đến hợp tác xã nông nghiệp, anh hỏi tôi: “Đồng chí có biết thế nào là sản xuất lớn không?” Tôi đang ngập ngừng anh Ba nói ngay: “Sản xuất lớn không phải là tập trung vào hợp tác xã để nuôi, mà mỗi gia đình nông dân nuôi 40-50 con lợn, hàng trăm con gà thế là sản xuất lớn... Việc gì mà ngồi túm tụm hàng chục người thế kia thái rau, làm sao có năng suất, có hiệu quả được...”.
Qua những lần đưa anh Ba đi thăm phong trào hợp tác xã sản xuất, tôi thấy lý giải nhiều điều rất sáng sủa để phát triển sản xuất, xây dựng đất nước. Tôi không hiểu tại sao các ngành Trung ương không nói theo cách nói của anh, và theo ý kiến của anh? Tôi tiếp tục theo rõi và suy nghĩ về cái đầu sáng 500 nến trong chiến tranh chống Pháp và nay đang chống Mỹ, cái đầu ấy thể hiện trong kinh tế cũng rất sáng tạo, có lẽ sáng hơn 500 nến nữa.
Đến năm 1979 tôi làm Chủ tịch UBND Thành phố, tôi có điều kiện làm việc trực tiếp với anh Ba. Trong nhiều buổi đưa anh đi thăm cơ sở sản xuất, anh có nhiều gợi ý rất sáng, truyền cảm, truyền ý thức tự lực tự cường cho những người đi theo. Câu nói cửa miệng và đầu tiên khi bắt đầu câu chuyện thường là anh nhắc: Thành phố, Thành uỷ phải làm gì cho dân, phải hiểu được dân cần gì? Thành uỷ là phải lo cho dân, mỗi người ăn một năm bao nhiêu thịt, cá, bao nhiêu quả trứng. Thành uỷ phải biết hàng ngày nhân dân ăn gì? Chứ Thành uỷ cũng chung chung như Trung ương thì Thành uỷ làm được gì? Hoặc mỗi tỉnh, thành phố, phải coi mình như một nước nhỏ mà lo toan thay Trung ương. Thế giới có nước người ta chỉ có 1.000 km2 với mấy trăm nghìn dân, bé hơn Hải Phòng, người ta còn làm giỏi như thế. Thành uỷ Hải Phòng phải biến thành phố là Hồng kông, Singapore thứ hai... Lần nào anh cũng nhắc, cũng nói một cách tâm huyết, thật thà, thẳng thắn với chúng tôi.
Trong những buổi làm việc với anh Ba, sau những ý kiến trực tiếp vào vấn đề chính xong rồi, anh Ba đều có những suy nghĩ lớn cho đất nước, muốn truyền đạt cho thế hệ sau, lớp trẻ chúng tôi. Trong các buổi nói chuyện anh rất dân chủ và lắng nghe ý kiến mọi người. Có những ý kiến anh tranh luận lại, nhưng thái độ cởi mở, thân thiết, không áp đặt.
Có lần tôi làm việc với anh ở Đồ Sơn, khi công việc chính đã được ý kiến anh chỉ đạo, anh nói sang quan hệ giữa nước ta và Trung Quốc. Rồi anh nói văn hóa của ta cao hơn Trung Quốc, và phê phán Khổng Tử coi thường cả mẹ. Tôi hỏi anh Khổng Tử nói ở chỗ nào? Anh bảo Khổng Tử nói: “Phụ nhân nan hóa” (người phụ nữ khó cải hóa). Rồi anh nói văn hóa của ta là: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”... “Bầu ơi thương lấy bí cùng”... Còn Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, còn ta thì “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” là cao hơn văn hóa Trung Quốc. Rồi anh phê bình Mao Trạch Đông và Khổng Tử cùng là “một giuộc”.
Tôi suy nghĩ tìm câu nói để anh Ba hiểu rõ về triết học của Khổng Tử khác với Mao Trạch Đông. Khi anh Ba dừng phát biểu, tôi thưa với anh:
- Mao Trạch Đông phê bình Khổng Tử mạnh mẽ lắm!
Anh Ba đứng dậy hỏi tôi:
- Ở chỗ nào?
Tôi thưa với Anh là sau khi Lâm Bưu chết, Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh có 7 bài liền: “Phê Lâm, phê Khổng”. Anh lại hỏi: “Nội dung thế nào, sao tôi không biết?” Tôi báo cáo tường tận câu chuyện này, trong 7 bài báo trên để anh Ba rõ: “Vấn đề là khi sinh thời, Lâm Bưu có treo hai chữ đại tự ở giữa nhà mình, hai chữ đó là “Khắc Kỷ”, ý Lâm Bưu muốn mượn lời Khổng Tử để phê phán Mao Trạch Đông. Trong sách Luận Ngữ chép, khi học trò giỏi nhất của Khổng Tử là thầy Nhan Hồi hỏi Khổng Tử, làm thế nào thì làm được điều “Nhân” (Nhan tử vấn nhân, Khổng Tử viết: Khắc kỷ phục lễ vi nhân), Khổng Tử trả lời là phải nghiêm khắc với mình, thực hiện đúng lễ (pháp luật), thì mới làm được điều “nhân”. Sau khi Lâm Bưu chết, Mao Trạch Đông phê bình Lâm Bưu và phê bình Khổng Tử. Vì Lâm đã lấy câu của Khổng Tử dạy Nhan tử để phê phán gián tiếp Mao Trạch Đông là người coi thường pháp luật, điều lệ, nghĩa là kẻ bất nhân. Nên Mao phê cả hai: Lâm và Khổng. Tôi nói xong, anh Ba hỏi tôi: “Đồng chí học đến gì?”. Tôi thưa với anh là tôi đã học kỹ Tứ thư, còn Lục kinh, tôi học Kinh thi và Kinh Xuân thu (Kinh Trị quốc của phong kiến Trung Quốc). Còn kinh dịch, kinh lễ, kinh thư, kinh nhạc, tôi chỉ đọc qua thôi. Anh nói ngay: Tôi chỉ đọc “Luận ngữ”, “Mạnh Tử” (hai bộ sách này thuộc về Tứ thư gồm: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung). Anh vui vẻ nói: “Thôi nghỉ ăn cơm, sáng mai đồng chí ra nói tiếp về Khổng Tử...”.
Sáng hôm sau tôi ra Đồ Sơn tiếp câu chuyện còn lại về Khổng Tử. Trước khi bàn đến Khổng Tử, anh Ba lại nhắc tôi những điều suy nghĩ sâu sắc của anh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Anh trăn trở nhiều điều của các nước anh em, nhất là Liên Xô và lý luận về chuyên chính vô sản, làm chủ tập thể... Rồi anh dừng lại, bảo tôi nói tiếp về Khổng Tử. Tôi báo cáo tiếp với anh về nhận thức của tôi đối với Khổng Tử, Tôi nói: “Khổng Tử sinh ra cách đây 2.500 năm, trong một chế độ phong kiến tập quyền mạnh ở Trung Quốc, nên Khổng Tử cũng không thóat khỏi hệ tư tưởng đó. Hơn nữa Khổng Tử đã viết ra Kinh Xuân Thu để cai quản đất nước theo Triết học “Quân quân, Thần thần, Phụ phụ, Tử tử”. Nhưng Khổng Tử là nhà triết học vĩ đại lấy nhân nghĩa làm đầu, từ bỏ mọi quyền cao chức trọng, đi dạy học để giáo hóa nhân dân theo triết lý của mình. Còn sách Luận ngữ gồm 10 tập (đại toàn). Khổng Tử chỉ nói hai câu là mất lập trường giai cấp, theo quan điểm của ta hiện nay. Anh Ba hỏi 2 câu đó là gì. Tôi báo cáo anh là: “Phụ nhân nan hóa” như anh đã phê bình là Khổng Tử coi khinh cả mẹ. Còn câu thứ hai là: “Dân khả sử vi chi, bất khả sử tri chỉ” nghĩa là người dân chỉ sai khiến họ làm, còn không sai khiến họ học được, ý nói chỉ có người quân tử mới dạy bảo cho biết được. Trong điều kiện cách đây 2.500 năm ta cũng nên thông cảm với Khổng Tử.
Trong lễ giáo phong kiến, người phụ nữ Trung Quốc phải bó chân, chỉ ở trong nhà thì đúng là “nan hóa” thật. Anh Ba nghe nhưng không nói gì. Tôi nói tiếp ngay điều kiện bị trói buộc của thuyết duy tâm, duy thần, thế mà khi học trò của Khổng Tử hỏi về thờ thần linh, lần thứ nhất ông trả lời: “Vị năng sự nhân, yên năng sự quỉ”. (Thờ người chưa xong, làm sao thờ được quỉ thần). Lần thứ hai ông trả lời: “Kính nhi viễn chi” (Kính nhưng nên xa quỉ thần). Đó là tư tưởng của Khổng Tử có tiến bộ. Anh Ba đồng ý với tôi. Tôi phân tích thêm triết học của Khổng Tử ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam, nhất là điều nhân nghĩa. Chính do triết học phương Đông nổi tiếng ấy nên Nguyễn Trãi lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, đã phá tan quân Minh, giúp Lê Lợi dựng nên nghiệp lớn. Còn cuộc chiến tranh Mỹ và Việt Nam, sau ta giải phóng miền Nam không có tắm máu như kẻ thù rêu rao, là ta kế thừa điều nhân nghĩa truyền thống của dân tộc, đã làm cho việc thống nhất đất nước, được nhanh chóng và ổn định. Tôi nói thêm: “Anh Ba được cả thế giới và trong nước ca ngợi là nhà chính trị, nhà quân sự và là nhà hiền triết, mới kế thừa sự nghiệp Bác Hồ giao cho thành công”.
Tôi thấy anh vui lên, không có phản ứng gì, vì tôi còn e rằng anh còn thành kiến với triết học của Khổng Tử. Nhân đó tôi nói luôn: “Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (nếu ta không muốn, ắt người chẳng ưa, không bắt người khác làm điều mình không muốn). Đó là lời nói khuyên nhủ cho dân trí còn thấp. Khi dân trí cao mới có thể làm được “Mình vì nọi người, mọi người vì mình”. Anh Ba không nói gì thêm. Từ những buổi đàm đạo về Khổng Tử với anh Ba, tôi theo rõi thấy anh Ba không phê phán Khổng Tử nữa và cũng không nhắc đến văn hóa ta cao hơn Trung Quốc.
Năm 1979, khi khởi sự bàn bạc việc khoán sản phẩm trong nông nghiệp với anh Bùi Quang Tạo, Bí thư Thành uỷ, chúng tôi bàn nhau kỳ này làm phải có kết quả để giải quyết vấn đề lương thực cho toàn quốc. Cần phải khẩn trương và thận trọng, tránh thất bại. Chúng tôi bàn nhau phải thuyết phục được 3 đồng chí chủ chốt trong Bộ Chính trị mới có thể thành công. Trước hết là anh Ba, anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Đồng. Anh Tạo nói với tôi: Khó nhất là anh Trường Chinh, vì anh Trường Chinh đã phê bình nghiêm khắc tỉnh Vĩnh Phúc, và cũng đã phê bình anh Tạo ở Quốc hội. Tôi nói với anh Tạo: tôi sẽ chịu trách nhiệm báo cáo với cả 3 anh. Anh Tạo bảo nếu được như thế thì tốt và bảo tôi: “Anh thân với anh Ba, anh nên nói với anh Ba trước”.
Mấy hôm sau, tôi lên Hà Nội, xin gặp anh Ba. Anh Ba rất vui vẻ tiếp tôi. Tôi trình bày với anh 3 giờ liền toàn cảnh kinh tế Hải Phòng và cả nước, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp sa sút, nhân dân bị đói lúa chín không gặt, đi buôn bán, mò cua bắt ốc kiếm ăn. Cán bộ công nhân viên chức Hải Phòng là khu vực phi nông nghiệp, có tháng thiếu lương thực hàng tuần, nhân dân kêu ca, ta táan... Cung cách quản lý hợp tác xã thì rong công, phóng điểm, tham nhũng. Nông dân đặt ca dao, hò vè phê phán lãnh đạo hợp tác xã như: Mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe; mỗi người làm việc bằng ba, để cho chủ nhiệm làm nhà xây sân; trâu xanh ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà v.v... Nghe xong anh Ba đứng dậy nói: “Tôi đồng ý. Làm ngay, làm ngay, không phải hỏi ai nữa...”, rồi anh phân tích cho tôi nghe về quản lý kinh tế. Mình từ sản xuất nhỏ đi lên, phải biết cách làm cho hiệu quả. Cứ áp đặt cách làm của người ta vào nước mình thì khó thành công lắm! Giáo điều là rất nguy hiểm. Tôi mừng quá, xin phép anh ra về, anh còn dặn: “Về bàn với cấp uỷ làm ngay, tôi sẽ xuống xem...” Tôi về báo cáo với anh Tạo. Anh Tạo vẫn chưa vui, tỏ vẻ vẫn lo lắng. Anh nói chỗ anh Trường Chinh, nếu phản đối là khó đấy. Tôi nói: “Tôi hiểu... nhưng được anh Ba đồng ý, ta cứ đem ra Ban Thường vụ và Thành uỷ bàn. Tôi sẽ báo cáo anh Trường Chinh xem ra sao. Chắc anh Trường Chinh cũng thấy rõ tình hình nông nghiệp, sau 15 năm sự việc ở Vĩnh Phúc, tư duy của anh Trường Chinh chắc cũng có sự thay đổi...”.
Ý kiến anh Ba đã giúp chúng tôi thêm quyết tâm thay đổi cách quản lý trong nông nghiệp. Anh đã chỉ đạo Ban Bí thư, mặc dù còn nhiều trở ngại, nhưng tháng 1-1981 anh Lê Thanh Nghị, Thường trực Ban Bí thư đã ký chỉ thị số 100 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp đến nhóm lao động và xã viên lao động (thực chất là khoán hộ), mở đầu kỷ nguyên mới trong quản lý kinh tế, không những trong sản xuất nông nghiệp mà cả trong các lĩnh vực khác, đánh dấu bước đột phá cho thời kỳ đổi mới của Hải Phòng và cả nước.
Sau vụ lúa khoán đầu tiên, tháng 10-1980,
anh Ba xuống tận hợp tác xã ở Hải Phòng xem kết quả. Anh đến hợp tác xã Trường Thành, Trường Sơn, các cánh đồng của Thủy Nguyên, An Lão, Kiến Thuỵ... Anh rất vui, động viên mọi người làm ra thóc gạo đủ ăn, và còn để xuất khẩu nữa...
Mỗi lần anh về thăm Hải Phòng, tôi có dịp làm việc với anh, càng thấy anh lúc nào cũng suy nghĩ để tìm ra giải pháp phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt anh chú ý nghiên cứu lý luận. Trong 2 năm tôi học tập lý luận ở trường Nguyễn Ái Quốc (khóa năm 1969-1971), những ngày anh làm việc ở Hà Nội, chiều thứ bảy hàng tuần, anh thường xuống Trường gặp giáo viên, học sinh trao đổi thảo luận.
Anh nêu những ý kiến mới ra để mọi người tham gia ý kiến. Tôi đã quen với cách làm của anh, nên trong những buổi làm việc xong ở Hải Phòng, tôi thường đem những vấn đề lý luận ra hỏi anh. Có lần tôi hỏi anh: Sao lại đặt vấn đề “Làm chủ tập thể” mà không đặt vấn đề “dân chủ”? Anh phân tích cho tôi nghe hàng giờ. Anh nói: “Dân chủ tập thể” nó thay cho “chuyên chính vô sản”. Nay đất nước đã độc lập thống nhất, phải làm cho mọi người được làm chủ đất nước, làm chủ ở từng xã, từng phường, đơn vị sản xuất, đơn vị công tác v.v... Nếu cứ nêu khẩu hiệu “chuyên chính vô sản” thì khi mình cầm quyền, ta chuyên chính với giai cấp phi vô sản, gây ra xích mích dân tộc suốt thời kỳ nọ sang thời kỳ kia. Khi xưa giai cấp tư sản chuyên chính với vô sản, nay họ mất quyền lại tìm cách chống chúng ta, phục hồi lại chuyên chính tư sản, cứ thế mãi... Ta phải biết giai cấp công nhân lãnh đạo để giải phóng dân tộc, giải phóng cho mọi giai cấp, mọi tầng lớp, làm cho mọi người được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội... Như vậy tầm cao, tầm nhìn của giai cấp công nhân hơn hẳn quá khứ. Nên không cần nêu “chuyên chính vô sản” làm gì. Vấn đề này có ý nghĩa đoàn kết trong nội bộ Đảng, trong toàn dân. Đưa vấn đề “làm chủ tập thể”, những đồng chí muốn duy trì khẩu hiệu “chuyên chính vô sản” cũng dễ chấp nhận, tạo ra sự nhất trí cao. Còn dân chủ cho mọi người sẽ thực hiện từng bước, nó thuận với mọi người, đã được làm chủ tập thể rồi thì dân chủ cho mọi người là điều tất yếu phải đến. Anh nói đi nói lại rất say sưa như một cuộc giảng bài được học trò chú ý lắng nghe. Tôi cũng thấy phấn khởi về cách lập luận và lý giải của anh. Tôi thấy trong tư duy của anh đã chứa đựng nội dung dân chủ rất sâu sắc và tế nhị.
Trong các buổi đưa anh đi thăm cơ sở, anh kể lại cho tôi nghe những cuộc vận động nhân dân làm cách mạng. Cùng ở, cùng làm, cùng sống với dân, tôi cảm thấy lúc nào anh cũng đang sống trong lòng dân. Như câu chuyện mua gia cầm, mua thịt lợn nghĩa vụ... Tem phiếu phát cho dân, nhưng không có hàng bán, con phe tem phiếu cấu kết với mậu dịch viên xấu tuồn hàng ra ngoài, tôi kể cho anh nghe, và đưa anh đi xem thực tế ở các cửa hàng. Xem xong anh bảo tôi phải tìm cách quản lý khác. Tôi đề nghị bỏ nghĩa vụ của nông dân phải bán gia cầm, thịt lợn cho nhà nước; bỏ tem phiếu... Anh đều nhất trí rất nhanh. Anh nêu những vấn đề phải giải quyết đời sống cho cán bộ công nhân viên chức, trước hết là nâng cao năng suất chất lượng, hạ giá thành với việc nâng lương, rất nhiều ý kiến phong phú.
Riêng vấn đề giá, anh có nhiều ý kiến khác tôi. Nhưng qua nhiều lần trao đổi, anh nhấn mạnh giá trị sử dụng của hàng hóa, còn tôi nhấn mạnh đến qui luật cung cầu, sản xuất ra hàng hóa phải tiêu thụ được, nghĩa là chất lượng và giá cả phù hợp với túi tiền của nhân dân. Cuối cùng anh chấp nhận. Vì giá trị sử dụng cũng nhằm phục vụ người tiêu dùng, nhưng chỉ một mặt thôi thì lấy gì để tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa, nên phải chú ý cả cung lẫn cầu. Anh đồng ý. Như vậy anh đã chấp nhận kinh tế thị trường với quy luật cung cầu.
Anh rất quan tâm đến phát triển công nghiệp, đặc biệt là ngành luyện kim và cơ khí. Anh luôn luôn coi ngành cơ khí là then chốt, là xương sống của nền kinh tế. Nên trong tiểu luận “Dưới lá cờ vẻ vang” anh đặc biệt nêu vai trò của ngành cơ khí. Tôi rất đồng tình với anh cách đặt vấn đề của một nước đang phát triển. Nhưng lấy tiền đâu ra để xây dựng ngành công nghiệp? Anh mới có hướng chung về tích lũy XHCN, còn biện pháp vẫn hạn hẹp. Tôi nêu nhiều ý kiến đề xuất với anh, nói chung anh nhất trí, duy chỉ có vấn đề xuất khẩu sắt thép phế liệu để tích lũy, là anh gạt đi ngay một cách kiên quyết, mặc dù lúc đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cho Hải Phòng xuất chuyến đầu tiên 2 vạn tấn sắt thép phế liệu.
Tôi phải lấy thực tế để thuyết phục anh. Trong các chuyến thăm cảng, thăm các đống sắt thép phế liệu, ca nô, sa-lan giải bản, để dọc bờ sông Cấm, từ bến Bính đến Quán Toan, tôi đưa anh đi xem. Đống sa-lan hỏng chất như đống núi con bên vụng Quynh bờ sông Cấm. Tôi cho dừng xe, dùng một cây gậy nhỏ, đập vào thành sa-lan và đống sắt thép phế phẩm, chúng bị oxy hóa gẫy tả tơi, thủng từng lỗ lớn Anh Ba đứng nhìn và suy nghĩ. Lúc ấy tôi mới nói: “Thép phế liệu lò luyện kim trong nước dùng rất ít, cứ để sau 6 tháng là oxy hóa mất 50%, vì nó là loại phế phẩm để ngoài trời, lại bên dòng sông nước mặn”. Anh Ba hỏi tôi làm thế nào để bảo quản được, để dùng cho luyện kim lâu dài? Tôi báo cáo anh là không có kho nào chứa hết được... Tôi tiếp tục đưa anh đi xem một số nơi khác. Đến trưa nghỉ ăn cơm, anh hỏi tôi còn cách nào bảo quản được không? Tôi báo cáo anh chỉ còn cách xuất khẩu lấy đô la, hoặc mua vàng gửi vào ngân hàng lấy lãi là có hiệu quả hơn cả. Khi cần tái nhập ta có ngoại tệ mạnh, nhập sắt thép phế liệu cho luyện kim. Hải Phòng đã thành lập công ty phá dỡ tàu hỏng xuất khẩu, bằng cách mua tàu nước ngoài đem về sông Bạch Đằng phá lấy sắt thép, và các loại vật liệu còn tốt ở trên tàu để xuất khẩu, hoặc bán trong nước lãi rất khá. Anh bảo tôi đưa đi xem. Tôi đưa anh đến cảng Cửa Cấm, nơi công ty đang phá dỡ các loại tàu, sà-lan nhỏ giải bản, ra Đình Vũ xem công nhân đang phá dỡ một con tàu mua của Bun-ga-ri, trọng tải 6.000 tấn, công nhân phá dỡ đang vận chuyển từng tấm thép lớn vào bờ... Anh đồng ý ngay cách làm này. Từ đó cả nước cùng xuất sắt thép phế liệu. Đến khi tôi nghỉ Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, toàn quốc đã xuất được hơn 2 triệu tấn sắt thép phế liệu, thu về hàng trăm triệu $US.
Trong các lần đi xem quai đê lấn biển ở đường 14 Đồ Sơn, đi xem đường xuyên đảo... anh hay hỏi tôi về nước Nhật.
Năm 1978, tôi sang thăm Nhật Bản, tôi đã gửi cho anh một bản báo cáo về đất nước Nhật, anh rất tâm đắc cách đánh giá của tôi. Anh luôn luôn nhắc tôi phải học tập kinh nghiệm của Nhật. Anh còn nói khi bình thưởng quan hệ với Mỹ, anh sẽ đi thăm Nhật Bản và Mỹ. Rồi anh kể luôn cho tôi nghe về cách đánh giá của anh về nước Mỹ. Anh kể: Một đồng chí lãnh đạo Bộ Ngoại giao đi Mỹ về báo cáo với anh: cái gì Mỹ cũng xấu, kinh tế, xã hội... đều kém. Anh hỏi lại đồng chí cán bộ Bộ Ngoại giao: “Mỹ yếu thế mà tại sao Liên Xô, Trung Quốc... đều nể Mỹ? Đồng chí báo cáo thế thì làm sao hợp tác được với Mỹ?” Rồi anh bảo đồng chí đó về chuẩn bị lại, mai báo cáo tiếp. Hôm sau đồng chí đó báo cáo phù hợp với nhận định đánh giá của anh Ba về Mỹ. Anh nói tiếp: cán bộ ta hay nói để chiều ý kiến lãnh đạo, vì ta thường phê phán cái gì Mỹ cũng xấu cả, anh em sợ mất lập trường phải nói theo. Còn đây là báo cáo với lãnh đạo để chuẩn bị làm ăn với Mỹ mà báo cáo thế thì nguy hiểm quá!
Sau đó anh nói sẽ có kế hoạch thăm Mỹ sau khi hai nước bình thường quan hệ. Anh muốn quan hệ với Mỹ lập lại càng sớm càng tốt. Chính ý nghĩ đó nên khi đồng chí Fidel Castro, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Cuba, mấy lần mời anh sang thăm Cuba, anh chưa đi ngay. Anh đợi sau khi bình thường quan hệ với Mỹ, anh sẽ đi thăm Cuba và thăm Mỹ cùng một chuyến đi. Vừa có ý nghĩa tạo thế cho Cuba, yêu cầu Mỹ bỏ cấm vận với Cuba, vừa tạo ra thế và lực Việt Nam - Cuba hợp tác với Mỹ, thì thuận lợi hơn cho cả hai nước, thay vì việc đi thăm Cuba ngay bây giờ.
Trong những năm cuối đời, đầu thập niên 80, anh xuống Hải Phòng luôn, hoặc tôi lên Hà Nội, đến nhà riêng anh để báo cáo công việc của Hải Phòng. Anh bàn với tôi về nhiều mặt công việc của đất nước. Tôi hết sức suy nghĩ về tư duy của anh. Tư duy ấy rất rõ về xây dựng kinh tế. Tại sao Bộ Chính trị không có tiếng nói chung với anh? Do Bộ Chính trị không hiểu ý anh, trình độ “bất cập” hay do tính bảo thủ quá nặng, không dám chống anh, nhưng vẫn luôn luôn làm trái ý tưởng của anh? Qua một câu dặn dò của đồng chí Đậu Ngọc Xuân, trợ lý lâu năm của anh Ba nói với tôi: “Anh Ba nói gì với anh, chỉ nên ghi nhớ, nếu làm theo ý kiến anh Ba là trên này “bẻ ghi” ngay đấy”... Tôi hiểu ý anh Đậu Ngọc Xuân, nên tôi thực hiện ý anh Ba có sự lựa chọn và làm rất tích cực và nhanh, đến khi trên Trung ương có phản ứng thì đã thành hiện thực, có hiệu quả rồi, “bẻ ghi” cũng không kịp nữa.
Một hôm tôi đưa anh đi xem nhà máy đóng tàu Phà Rừng, do Phần Lan giúp ta xây dựng. Khi đến thăm nhà máy, đồng chí phiên dịch tiếng Anh chưa đến, đồng chí giám đốc nhà máy dịch cho anh Ba, nói chuyện với chuyên gia Phần Lan. Khi anh Ba nói đến khai thác nguồn nguyên liệu hải sản, đề nghị Phần Lan giúp đỡ đóng các loại tàu đánh cá ra biển xa, đồng chí giám đốc báo cáo với anh Ba: “Tôi không đủ từ tiếng Anh để dịch câu này, đề nghị anh Thành dịch giúp”. Tôi bị động phải dịch, tuy không hay, nhưng cũng suôn sẻ.
Khi về qua phà Bính, anh bảo cứ để nhân dân cùng đi chuyến phà dành riêng cho đoàn xe của anh. Anh rất vui, thăm hỏi mọi người dân trên phà thân mật, chan hòa. Mọi người cùng xúm lại chào và xem Tổng Bí thư, bày tỏ lòng quý mến kính trọng.
Trưa ăn cơm ở nhà số 2 Bến Bính, nhà khách thành phố, anh hỏi tôi học tiếng Anh từ lúc nào. Tôi báo cáo với anh, tôi học từ lúc 41 tuổi, tự học là chính. Anh bảo tôi anh chỉ đọc được tiếng Pháp, còn tiếng Anh chỉ biết mấy câu chào hỏi thôi. Rồi anh nói: “Bộ Capital (tư bản) của Marx, tôi đọc bằng tiếng Pháp ở Côn Đảo đấy! Biết được tiếng nước ngoài là rất tốt, hiểu được người ta nói, dễ thông cảm và hợp tác mới tốt...”.
Anh biết tôi cũng tù ở Côn Đảo, anh hay kể chuyện đấu tranh trong nhà tù cho tôi nghe, kể chuyện âm mưu của kẻ thù đối với người cách mạng khi bị chúng bắt. Anh nói: Thời anh ở tù còn dễ chịu hơn thời chúng tôi, tra tấn ít hơn, đối xử cũng khá hơn, sách báo gửi đến Côn Đảo tự do, nhất là báo Pháp, kể cả báo của Đảng cộng sản Pháp chúng cũng không cấm. Viết thư thoải mái. Còn thời chúng tôi thư viết giấy rộng, giấy hẹp cũng chỉ được 15 dòng. Trước đó chúng chỉ phát một cái “các” do chúng in sẵn, mỗi tháng được gửi về nhà một lần, người tù chỉ gạch những chữ không thích hợp, thí dụ: “Sức khoẻ: có hoặc không”. người tù gạch đi chữ “có” hoặc “không” theo ý mình. Đi lại, khám xét, phải cởi hết quần áo. Thời các anh, đi lại Khám nọ sang Khám kia được tự do. Gửi tiếp tế thoải mái, còn chúng tôi, chúng chỉ cho gửi 3 loại: đường, sữa, kẹo bánh. Tiền không được nhận tiền mặt, mua gì chúng mua cho theo quy định: đường, sữa, bánh kẹo giá rất đắt, nên không ai gửi tiền. Tù nhân gửi thư về gia đình chỉ bảo mua sữa và đường đưa vào ăn chung tất cả. Thực hiện chủ nghĩa cộng sản”. Anh còn bảo: “Thời các đồng chí gian khổ hơn chúng tôi...”.
Anh thường phân tích năng lực, sở trường cán bộ chủ chốt cho tôi nghe, nhất là từng Uỷ viên Bộ Chính trị đương thời. Anh khiêm tốn nói: “Mình có bao giờ dám nghĩ thay Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc tài ba lỗi lạc như thế,... ai dám nghĩ tới... Nên mình phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ để thực hiện sự nghiệp Bác để lại”. Mỗi khi kể đến Bác, thái độ, lời nói của anh bao giờ cũng rất tôn kính. Một vài lần anh nói: “Tài ba như Bác Hồ, nhưng giáo dục đảng viên quần chúng thi đua, chỉ động viên tinh thần. Như thế chưa đủ, nhất là nay đã hòa bình trở lại, cần chú ý đến khen thưởng vật chất thì phong trào mới bền...”.
Anh đặc biệt chú ý đến đoàn kết trong Đảng, tránh mọi phe nọ cánh kia, giữa các miền, địa phương trong nước. Anh rất nghiêm khắc với những thái độ kỳ thị nơi này, nơi khác... Anh kể cho tôi nghe câu chuyện sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một đoàn cán bộ phụ nữ miền Nam ra thăm miền Bắc, đi thực tế ở cơ sở, đến một số nơi dân còn nghèo quá, nên tiếp đãi không được chu đáo Khi đoàn về Hà Nội, có mấy chị báo cáo với anh là miền Bắc keo kiệt quá! Đến nhà đồng bào, họ không dám mời một bữa cơm v.v... Anh đứng phắt dậy phê phán: “Các đồng chí phải đi xuống cơ sở học tập lại. Nói thế là phủ nhận công lao to lớn của bà con. Cái quí nhất là con người ta đẻ ra, người ta hy sinh gửi con cháu vào Nam đánh giặc... sao lại bảo người ta keo kiệt? Lúc này còn khó khăn về kinh tế, người ta có thế nào cho ăn thế! Các đồng chí phải đi lại thực tế đi, mất lập trường lắm...” Anh nói lại với tôi rất say sưa: “Đấy, chị em đơn giản thế!”
Đối với tôi, anh dặn dò nhiều điều quí giá. Tôi tâm niệm làm sao thực hiện được ý tưởng của anh để lại. Nhưng thật là khó. Khi chuyển đổi nền kinh tế ta đã làm chắp vá, thiếu một cơ sở lý luận vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã hội, sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện và hợp tác, hội nhập quốc tế để tạo ra nguồn vốn xây dựng chủ nghĩa xã hội... Về cuối đời anh Ba, cũng có nhiều ý kiến khác nhau đánh giá về tư duy kinh tế của anh. Cũng có người cho anh Ba chỉ giỏi chỉ đạo chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Còn về làm kinh tế thì bảo thủ, nóng vội, không thực tế, muốn đốt cháy giai đoạn.
Tôi là lớp hậu sinh, kém anh 22 tuổi, lại được tiếp cận với anh nhiều, từ thập kỷ 70 cho đến ngày anh qua đời. Tôi không dám có những nhận xét gì lớn về anh. Chỉ qua sự làm việc, và được anh chỉ bảo tận tình, tôi tiếp thu được cái gì thì nói cái đó. Theo chủ quan của tôi, anh Ba, đồng chí Tổng Bí thư của Đảng là người không chỉ giỏi về chỉ đạo chiến tranh, đánh thắng đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, xứng đáng với sự tin cậy của Bác Hồ và toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Về kinh tế, với sự hạn hẹp về thời gian nghiên cứu, học tập, tuổi lại cao, mà còn minh mẫn đến thế, tư duy kinh tế của anh vẫn liên tục đổi mới, tự mình làm phong phú cho kiến thức của mình, tiếp cận với hiện đại. Theo thiển nghĩ của tôi, nếu chúng ta có một đội ngũ cán bộ có lý luận và thực tiễn, bắt kịp những suy nghĩ và thực hiện tư tưởng chiến lược chỉ đạo kinh tế sau ngày thống nhất đất nước của anh, tạo cơ sở vật chất cho anh sáng tạo, thì đầu “ông 500 nến” sẽ tỏa sáng hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Do đó nước ta sẽ có bước tiến nhanh hơn, và trong một số anh chị em chúng ta sẽ được xóa bỏ những mặc cảm về anh trong giai đoạn cuối đời của anh.
Hồi ký Đoàn Duy Thành - Chương 10
Đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng và một số đồng chí uỷ viên bộ chính trị, uỷ viên Ban bí thư thời kỳ đó, đối với Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng
Đồng chí Trường Chinh
Anh Trường Chinh làm Tổng Bí thư Đảng ta hai thời kỳ từ 1942-1956 và thời kỳ từ 9-1986 đến 12-1986, nhiều năm làm Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch nước.
Tôi nghe tiếng anh và biết anh từ lâu, nhưng trực tiếp làm việc với anh nhiều là từ khi tôi làm Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng rồi Đại biểu Quốc hội khóa 7 và khóa 8. Trong những năm chuẩn bị thực hiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp, tôi đặc biệt quan tâm theo rõi hành động, thái độ của anh đối với khoán trong nông nghiệp. Vì anh là người nổi tiếng bảo vệ mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, và đã có 2 bài đăng trên báo Nhân dân năm 1966, phê phán việc làm khoán hộ ở tỉnh Vĩnh Phúc, do Bí thư Tỉnh uỷ Kim Ngọc đề xướng.
Tôi lại biết anh rất thận trọng trong nói năng, viết lách, ứng xử... Anh đã được mọi người thân quen đặt cho cái tên thân mật để gọi là: “Anh Thận”. Sau này thống nhất đất nước, các đồng chí miền Nam còn gọi anh là: “Anh Năm Trường Chinh”.
Tôi kém anh hơn 20 tuổi, nhưng tôi vẫn gọi anh bằng “Anh”, vì anh không thích gọi là “bác” là “Chủ tịch”. Anh gọi tôi bằng đồng chí”. Trong những chuyến thăm Hải Phòng hoặc anh xuống nghỉ tại Đồ Sơn, tôi có dịp tiếp xúc với anh nhiều. Anh hay kể chuyện về những ngày bắt đầu tham gia cách mạng, sự học hành khi còn thiếu thời. Anh nói rằng: “Trước khi tiếp cận với chủ nghĩa Marx - Lênin, với đường cách mạng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, anh giác ngộ về tinh thần yêu nước qua thơ, văn của Cao Bá Quát. Bởi vậy tôi có ấn tượng anh là nhà “Uyên thâm túc nho”, nhất là cụ thân sinh ra anh đỗ Tú tài (Cụ Tú Đễ).
Tết âm lịch năm 1980, anh xuống ăn Tết ở Hải Phòng. Ngày mồng một Tết lại là ngày sinh nhật của anh.
Chín giờ sáng tôi cùng một số cán bộ lãnh đạo Thành phố ra Đồ Sơn chúc Tết và mừng ngày sinh nhật của anh. Chúng tôi có tặng anh một tấm thảm len nhỏ, thêu: “Thánh Gióng cưỡi ngựa”. Tôi viết lại một đôi câu đối của Cao Bá Quát ở đền thờ Thánh Gióng tại Gia Lâm, Hà Nội, nội dung:
Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn,
Đằng vân do hận cửu thiên dê.1
Tôi viết bằng chữ Hán, khi đưa đến anh, anh bảo tôi đọc và dịch sang tiếng việt. Anh nói: “Hay thế nhỉ!”, rồi anh bảo đúng là khí phách Việt Nam. Tôi vừa giật mình, vừa bất ngờ. Anh nói ngay, lúc nhỏ tôi có học một ít chữ Hán, sau này học ít chữ phổ thông Trung Quốc, nên không đọc được chữ cổ? Rồi anh lại kể về thơ Cao Bá Quát, do một số bạn học của anh biết chữ Hán dịch cho nghe; hoặc những bài thơ nôm của Cao Bá Quát đã viết sang chữ quốc ngữ. Anh khen Cao Bá Quát là người có khí phách, quán thế...
Sau đó anh hỏi tôi về sức học Hán Tự, tôi báo cáo anh, tôi đã học xong Tứ Thư, còn Lục Kinh tôi đã học Kinh Thi, Kinh Xuân Thu. Còn Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Thư tôi chỉ đọc qua thôi. Kinh Dịch nhiều chỗ khó lắm! phải hỏi bố tôi và bác tôi giảng cho mới hiểu. Sau đó tôi nói: “Hà Nam Ninh là đất văn học, nhất là từ khi Nam Định có trường Thi Hương, thì Nam Định nổi lên là nơi có nhiều người học cao, có hai “Tam Nguyên”. Anh liền hỏi 2 Tam Nguyên là ai, tôi chỉ biết cụ Nguyễn Khuyến ở Bình Lục, Hà Nam... Tôi báo cáo với anh còn cụ Trần Bích San quê ở Nam Định, 34 tuổi đã đỗ Tam Nguyên, 36 tuổi vua Tự Đức sai đi sứ sang Pháp. Việc không thành, cụ đã thắt cổ tự tử. Trước khi mất cụ Trần Bích San đã viết một bài thơ tứ tuyệt tự thán rất hay.
Anh Trường Chinh liền nói: “Thế mà tôi không biết cụ Trần Bích San”. Tôi báo cáo với anh cụ Trần Bích San mất sớm nên ít người biết. Còn thơ văn của cụ để lại nhiều, ta nên sưu tầm... Nhà tôi trước đây có nhiều bài thơ, bài viết, nhất là bài “Đình Đối” của cụ rất nổi tiếng. Tiếc rằng khi giặc Pháp chiếm ga Lai Khê tháng 12-1946, chúng đốt hết làng tôi, nên sách vở của gia đình tôi bị cháy hết. Anh Trường Chinh tỏ ra rất tiếc, và bảo tôi có nhớ bài thơ “Tứ tuyệt” của cụ Tam nguyên Trần Bích San, thì đọc cho nghe.
Tôi đọc 4 câu thơ đó:
Giá mã kỳ khu khởi nhất hành,
Cảm tương tâm sự khấu sơn anh,
Tây lương kỹ lưỡng thử như thử
Nam quốc sơn hà linh bất linh?
Tôi dịch cho anh nghe. Anh hỏi tôi có dịch thành thơ được không? Tôi nói dịch được nhưng không hay, xin phép anh hôm sau tôi sẽ dịch và báo cáo với anh. Hôm sau tôi ra Đồ Sơn báo cáo với anh bản dịch sang tiếng Việt của tôi:
Người ngựa ra đi luống gập ghềnh,
Xin cùng Thần Núi dãi tâm tình,
Giặc Tây ngoan cố là như thế
Non nước Việt Nam liệu có thiêng?
Anh khen dịch thế là đắt nghĩa, hay lắm!
Tôi lại nói theo thiển nghĩ của tôi bài thơ này của cụ Tam nguyên Trần Bích San có bóng dáng của bài thơ “ Nam Quốc Sơn Hà” của cụ Lý Thường Kiệt. Anh Trường Chinh đồng tình và nói thêm: “Nhất là câu Nam Quốc sơn hà linh bất linh?”.
Anh bảo tôi Hải Dương cũ là đất văn học. Tôi thưa với anh: “Hải Hưng có hai lưỡng quốc trạng nguyên là cụ Mạc Đĩnh Chi và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm quê ở Vĩnh Bảo, Huyện Vĩnh Bảo trước năm 1947 cũng thuộc Hải Hưng. Cho nên trước đây đã có câu so sánh về học lành của hai tỉnh miền Bắc là: “Xứ Đông Cổ Am” (quê Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khi xưa xã Cổ Am và xã Lý Học là một xã), “Xứ Nam Hành Thiện” (Hành Thiện là quê đồng chí Trường Chinh). Đồng chí Trường Chinh rất tâm đắc câu ví von đó:
“Xứ đông Cổ Am
Xứ Nam Hành Thiện”
Trong những năm tháng vận động cho được sự đồng tình của 3 anh chủ chốt trong Bộ Chính trị là anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Đồng thì anh Trường Chinh là một điểm chúng tôi phải thuyết phục, vận động cho bằng được anh đồng ý. Anh Trường Chinh đồng ý thì mới có thể làm rộng ra cả nước, mới giải quyết tận gốc thiếu lương thực và đói khổ.
Qua tiếp xúc tôi thấy anh rất dễ gần, không khó khăn như một số đồng chí nói. Tôi mời anh đi thăm nhiều hợp tác xã nông nghiệp ngoại thành, đi thăm các khu quai đê lấn biển, nhất là thăm đảo Đình Vũ và đường xuyên đảo. Đi tới đâu anh chị em ở đơn vị báo cáo, anh rất chú ý lắng nghe, và thường nhắc đi, nhắc lại hai từ: “Hay nhỉ!” với nụ cười rất tươi. Anh chỉ hỏi những điều chưa rõ. Không thấy anh tranh luận, hoặc nêu vấn đề cho anh em thảo luận. Nhưng tôi thấy anh suy nghĩ nhiều. Trưa về ăn cơm tôi cũng thấy anh suy nghĩ... Ngay cả trong câu chuyện lúc nghỉ, anh vẫn hỏi tôi chi tiết về cuộc sống của nông dân, của công nhân, của bộ đội, của cán bộ viên chức. Những lúc ấy tôi cung cấp cho anh những số liệu cụ thể, thiết thực về đời sống của nhân dân, của cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng võ trang đóng trên địa bàn thành phố... Có những thời kỳ anh xuống làm việc hàng tuần. Tôi và đồng chí Hà Nghiệp, trợ lý của anh, đưa anh đi xem hết nơi này nơi khác. Cuối cùng là sau 5 lần xin ý kiến về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, anh đã đồng tình. Không những thế anh còn động viên tôi. Anh nói: “Đồng chí đã nắm được lý luận, nắm được thực tế, đồng chí cố gắng làm để thành hiện thực cho cả nước”. Anh không những chỉ quan tâm đến khoán trong nông nghiệp, anh quan tâm đến sản xuất công nghiệp, đến thương nghiệp...
Nhà anh có giàn phong lan ở cửa rất đẹp. Anh chọn những dò phong lan đẹp nhất tặng cho quán Phong Lan hai lần. Lần nào anh cũng bảo tôi đến nhà và trực tiếp chọn phong lan tặng cho Hải Phòng đồng thời gửi thư cho cán bộ mậu dịch viên ở quán Phong Lan. Khi đi thăm quán Phong Lan, anh xem từng gian hàng và nói chuyện với anh chị em mậu dịch viên rất thân mật. Đến nay nhiều đồng chí như Vân Nam... còn nhớ nhiều kỷ niệm của Chủ tịch Trường Chinh với quán Phong Lan. Tiếc rằng quán Phong Lan nay không còn nữa, qua biến thiên phá đi hợp doanh không thành, nay nó trở thành vườn hoa trung tâm thành phố.
Anh còn có những chuyến đi thăm đảo Cát Bà, Cát Hải, thăm lực lượng Hải quân, thăm bộ đội quân khu 3 làm kinh tế “làm giàu đánh thắng”, thăm lực lượng tên lửa thực tập bắn tên lửa ở Quần Mục. Biết bao kỷ niệm của đồng chí Trường Chinh với Hải Phòng thời kỳ “đổi mới”. Anh Hà Nghiệp nhiều lần nói với tôi: “Anh Thận thay đổi tư duy nhiều là từ ngày Hải Phòng đổi mới, nhất là khoán sản phẩm trong nông nghiệp...”.
Tôi tuy là bậc đàn em, nhưng anh rất lắng nghe và trao đổi thân tình, bảo ban từng ly tùng tí, qua những câu chuyện có nội dung giáo dục. Tôi đã viết về anh ở chương 6 và chương 7, tôi không lặp lại ở chương này. Tôi thấy anh là một nhà chính trị lỗi lạc, người học trò xuất sắc của Bác Hồ, người bạn thân thiết của anh Ba. Hai anh rất quí nhau và tôn trọng nhau. Những năm cuối đời của hai anh, tôi rất gần hai anh. Từ việc nhỏ đến việc lớn, các anh đều tạo cho nhau một sự thống nhất cao.
Nếu còn gợn lên một chút là chờ đợi, trao đổi cho thống nhất. Cả hai anh đều nói với tôi là giữ sao cho đoàn kết thật sự, cùng nhau xây dựng đất nước mới thành công. Mỗi việc tôi xin ý kiến, các anh đều hỏi lại ý kiến của nhau cho thống nhất. Tôi nghĩ 2 cái đầu đó cộng lại nó sáng 1000 bougies. Khi anh làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, cứ 3 tháng một lần anh bảo tôi lại chơi, nói chuyện tình hình kinh tế thế giới, trong nước, cho anh nghe. Anh rất quan tâm đến mọi việc của quốc gia. Anh đúng là cán bộ mẫu mực mọi mặt, đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Trong các chương trước tôi đã nói nhiều về anh Tô (tên gọi thân mật của Thủ tướng Phạm Văn Đồng), chương này tôi chỉ nêu một vài chi tiết về sự quan tâm của anh Tô đối với Hải Phòng.
Trong những năm kinh tế khủng hoảng của thập kỷ 80, mỗi khi xuống thăm và làm việc ở Hải Phòng, anh có nhiều suy nghĩ, tìm cách gì để thóat ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế. Trong các câu chuyện tôi thấy anh hiểu sâu sắc về những lý luận kinh tế kinh điển của Marx - Lênin và một số nhà kinh tế tư bản. Nhưng anh ít đề xuất những vấn đề mới, chỉ nghe nhiều, suy nghĩ nhiều. Khi thấy bức bách thì lời nói da diết, dằn vặt... Tôi hỏi ý kiến anh về khoán sản phẩm trong nông nghiệp thì anh vui hẳn lên, và hỏi tôi: “Ý kiến anh Ba và anh Trường Chinh thế nào?”. Tôi báo cáo: “Anh Ba đồng ý và tỏ thái độ quyết tâm cho làm còn anh Trường Chinh chưa trả lời, nhưng thái độ bình thường, còn tiếp tục đi xem tình hình nông nghiệp của Hải Phòng và một số tỉnh”. Anh ngồi suy nghĩ một lát rồi đứng dậy nói: “Làm lấy mà ăn mà cũng còn khó...”. Rồi anh cười vui vẻ nói: “Các đồng chí cố thuyết phục anh Năm, để thống nhất sớm...”. Như vậy là anh Tô đã đồng ý về khoán sản phẩm nông nghiệp cho nông dân, tôi rất mừng.
Đầu năm 1980, tình hình kinh tế cả nước rất khó khăn. Hải Phòng lại càng khó khăn, vì phải lo nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp. Nhưng lo hơn cả là cái ăn cho người, thực sự phải chạy gạo từng bữa. Xe Chủ tịch thành phố vừa ra khỏi nhà được vài chục mét, hai mẹ con một người làm thủ công nghiệp (diện phi nông nghiệp) ở Thủy Nguyên, không được đong gạo đã lăn ra trước xe Chủ tịch thành phố. Mọi người dân tò mò kéo nhau chạy lại xem sự kiện gì mà lại lăn ra trước xe Chủ tịch. Tôi cho đỗ xe lại, hỏi người đó thì được biết hai tháng nay huyện không có gạo bán cho họ. Tôi bảo bà ta về văn phòng Uỷ ban giải quyết. Khì bà ta đến văn phòng Uỷ ban, tôi mới biết là huyện không những không có gạo bán, mà còn thu sổ gạo của gia đình bà ta. Bà ta nói: “Gạo chưa có bán thì chịu, chứ sổ gạo là cuộc sống của gia đình, mất sổ chỉ có chết đói. Còn sổ, thiếu gạo còn đi vay hàng xóm được. Mất sổ rồi không ai cho vay cả”. Tôi điện cho Huyện bảo trả lại sổ cho bà ta. Huyện báo cáo lại: “Bà ta không chịu lao động, lại đi buôn, phá rối thị trường”. Tôi bảo Huyện trả lại sổ gạo, còn bà ta đi buôn bán vặt để kiếm sống thì gọi đến giáo dục, không nên thu sổ gạo. Thu sổ gạo tựa hồ cắt cái dạ dày của người ta là không được. Sau đó tôi bảo bà ta về huyện nhận lại sổ gạo. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, một đồng chí ở Văn phòng Chính phủ điện xuống hỏi tôi việc này thực hư ra sao? Tôi trả lời: “Do thiếu lương thực gây ra cả, cứ có lương thực là xong hết”. Tôi nói vui: “Có thực mới vực được đạo mà. Tôi đề nghị đồng chí báo cáo Thủ tướng cho làm khoán sớm là xong hết”. Đồng chí đó nói lại: “Hôm Thủ tướng gặp anh, thế là Thủ tưóng đồng ý rồi”...
Tháng 7-1980 anh Tô xuống Hải Phòng làm việc và nghỉ ít ngày ở Đồ Sơn. Tôi đưa anh đi xem Cảng, xem các đống sắt thép phế thải đổ dọc bờ sông Cấm từ Thượng Lý đến Quán Toan. Tôi đề nghị anh Tô cho xuất. Anh xem kỹ và sờ tay vào một sa-lan giải bản. Tôi lấy tay đấm vào thành sa-lan, những miếng thép đã oxy hóa rơi lả tả. Tôi báo cáo anh Tô, nếu để lâu sẽ oxy hóa hết, chỉ là đống đất, không phải sắt thép phế thải nữa, thiệt hại rất lớn. Anh Tô hỏi tôi: “Xuất thì bao nhiều tiền một tấn?”.
Tôi báo cáo anh, từ 70 đến 100 USD/tấn, tùy theo chất lượng. Anh bảo: “Tôi về Hà Nội sẽ tìm cách đáp ứng yêu của của đồng chí”. Tôi rất mừng. Đúng một tuần sau, đồng chí Nguyễn Văn Ích, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ ký một công văn, thừa lệnh Thủ tướng cho phép Hải Phòng xuất khẩu 2 vạn tấn sắt thép phế thải. Lần đầu tiên nước ta xuất khẩu loại hàng này. Sau đó lại được anh Ba đồng ý.
Cả nước đã xuất hết các bãi sắt thép phế thải để rải rác khắp nơi, làm sạch những quãng đường, những khu công nghiệp, những nơi bốt địch đóng dọc đường số 1 và các sân bay, bến cảng. Hàng triệu tấn sắt thép phế thải đã được xuất khẩu. Nhà nước thu nhập thêm ngoại tệ mạnh và có việc làm cho một số lao động đi thu gom sắt thép phế thải các nơi về bán. Tuy vậy cái gì nó cũng có mặt trái của nó. Do không quản lý chặt chẽ, nên một số người tham lam đi ăn cắp, phá cả những thiết bị còn sử dụng được lấy sắt thép để bán. Thậm chí lấy cắp cả xích, còng ở nhà tù Côn Đảo đem đi xuất khẩu. Sau ta đã ngăn chặn kịp thời.
Thủ tướng Phạm Hùng
Các chương trước tôi đã viết đôi nét về anh Phạm Hùng. Cuộc đời cách mạng đầy kỳ tích của anh như một huyền thoại mà tôi chỉ được nghe kể. Mãi đến ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, năm 1958, anh là Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Trưởng ban chỉ đạo “Ba xây, ba chống”, còn tôi làm Chủ nhiệm công ty thương nghiệp Hải Phòng, sau đó làm Giám đốc Sở Thương nghiệp, khi đó, tôi mới có dịp gặp anh. Anh thường trao đổi với tôi về kinh nghiệm chống tham ô, móc ngoặc, kinh nghiệm “Ba xây, ba chống” và những vấn đề về lập trường tư tưởng của người cộng sản. Ở anh là tinh thần nói thẳng, nói thật, nói đúng suy nghĩ của mình. Sau này, khi anh được điều vào làm Bí thư Trung ương cục miền Nam, tôi ít khi được gặp anh, nhưng những lần gặp nhau ít ỏi đó, anh thường kể cho tôi nghe về tình hình đấu tranh của cách mạng miền Nam, của Nam Bộ anh hùng.
Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, khi tôi là Chủ tịch thành phố, rồi Bí thư Thành uỷ Hải Phòng thì anh là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Cứ vài tháng anh lại xuống Hải Phòng một lần, có tháng xuống 2 lần. Tôi đưa anh đi xem các công trình lấn biển, mở đường tại Cát Bà, Cát Hải; xuống các làng xã, phố phường tìm hiểu đời sống nhân dân qua phong trào mở ngõ hẻm, xây dựng nhà vệ sinh... mà lúc đó Hải Phòng là địa phương dẫn đầu cả nước. Anh rất phấn khởi nói: “Thế này mới là cách mạng, mới là chủ nghĩa xã hội. Nếu chỉ nói mà không làm thì không bao giờ có cả”. Anh rất muốn từ thực tiễn của Hải Phòng xây dựng các mô hình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Tôi cũng đưa anh đi kiểm tra tình hình sản xuất nông nghiệp tại Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Thủy Nguyên, có đợt đi hai ba ngày liền. Khi đến cống thủy nông Thượng Đồng, Trung Trang, anh nói: “Phải gọi là cụm thủy nông đầu mối, là tổ hợp tưới tiêu mới đúng tâm cỡ của nó, không thể chỉ gọi là cống”. Anh về thăm nông dân làm khoán, cầm bông lúa trĩu hạt, anh cười rất tươi và nói với tôi: “Chắc chắn miền Bắc sẽ lo được lúa gạo. Miền Nam sẽ không phải đưa gạo ra miền Bắc nữa mà dành cho xuất khẩu”. Điều anh nói nay đã thành sự thật. Con số 34 triệu tấn lương thực và hơn 4 triệu tấn gạo xuất khẩu hiện nay đạt được thì thời đó có lẽ chỉ là giấc mơ. Chỉ có anh là dự đoán được.
Năm 1987, tình hình kinh tế xã hội rất khó khăn do mất mùa và không nhập khẩu gạo kịp. Ở Thanh Hóa và Nghệ An đã có người chết đói. Lúc đó anh là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và tôi là Phó, trách nhiệm của anh rất nặng nề. Ngày mồng 4 Tết đầu năm 1988, tôi đến nhà riêng thăm anh. Anh nói mà không cầm được nước mắt: “Tình hình khó khăn quá, tôi phải ở lại Hà Nội để chạy gạo ăn tết”. Sau Tết anh vào Nam để chỉ đạo lo vấn đề lương thực cho dân. Không ngờ mấy hôm sau thì chúng tôi được tin anh mất. Có lẽ do tận tâm, tận lực, trăn trở tìm giải pháp đưa đất nước thóat khỏi thời điểm khó khăn này, công việc đã vắt cạn kiệt sức lực của anh. Anh đã trở về bên Bác Hồ, Các Mác, Lê-nin, nhưng anh đã để lại lòng tiếc thương vô hạn cho đồng bào, đồng chí.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Anh Văn tên gọi thân mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tuy là nhà quân sự số một của Việt Nam, rất bận công việc chuyên ngành, nhưng anh Văn rất quan tâm nghiên cứu về kinh tế. Anh hay tâm sự với tôi: “Đánh thắng giặc ngoại xâm rồi là phải làm kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trả ơn đáp nghĩa đối với người đã hy sinh cho tổ quốc, có thực lực xây dựng và bảo vệ tổ quốc...”.
Trong thời kỳ Hải Phòng bắt đầu đổi mới, anh thường xuống Hải Phòng xem các công trường có lực lượng võ trang tham gia như quai đê lấn biển, xem đường xuyên đảo, con đường không những chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về quốc phòng. Anh ra Cát Bà, đi Tiên Lãng, anh vừa thăm hỏi bộ đội làm kinh tế, vừa xem xét bố trí lực lượng bảo vệ bờ biển. Đến đâu anh cũng gặp gỡ các chiến sĩ đang lao động hoặc đang đứng gác, trò chuyện thân mật như cha con trong gia đình. Anh em rất phấn khởi được gặp vị tướng tài huyền thoại mà họ nghĩ không bao giờ được nhìn thấy, nay lại còn được bắt tay, trò chuyện. Nhiều anh em chiến sĩ kể với tôi, sau khi Đại tướng đã ra về: “Chúng cháu nghĩ đi bộ đội chỉ mong sao được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không ngờ hôm nay được gặp Đại tướng thật, cháu mừng quá! Tối nay cháu phải viết thư về gia đình báo tin mừng cho bố mẹ cháu ngay...”
Anh đi sâu nghiên cứu tình hình nông dân và sản xuất nông nghiệp. Có lần anh xuống cả Mỹ Đức huyện Kiến Thuỵ cả một ngày. Sáng đi xem nông dân sản xuất, anh xem bà con nhổ mạ, cấy lúa, làm đất. Anh hỏi các “lão nông tri điền” rất tỉ mỉ. Mọi người vui mừng được đón Đại tướng xuống tận ruộng để thăm. Không những thế mà còn gợi ý cho bà con nông dân nên trồng cây gì, nuôi con gì cho có hiệu quả. Anh kể chuyện một số nơi anh đã thăm có kinh nghiệm tốt, anh phổ biến lại cho bà con. Mọi người rất phấn khởi.
Buổi chiều anh làm việc với cán bộ lãnh đạo xã tại trụ sở. Đồng chí Sự, Bí thư Đảng uỷ báo cáo công việc của xã, đặc biệt là kết quả khoán sản phẩm trong nông nghiệp, về năng suất lúa, về cải thiện đời sống cho nhân dân. Nghe xong, anh quay sang hỏi tôi: “Ông nghe học trò báo cáo có được không?”. Tôi báo cáo với anh, đồng chí Bí thư Đảng uỷ báo cáo thế là chân thật, có thế nào báo cáo thế (Anh Văn hay gọi đùa tôi là “ông thầy kinh tế”). Đại tướng rất ủng hộ chủ trương “Làm giàu đánh thắng” của Đại tướng Nguyễn Quyết, Tư lệnh liên Khu 3 (lúc đó Đại tướng Nguyễn Quyết mới là Trung tướng). Cho nên mỗi lần về thăm Hải Phòng anh lại sang thăm quân khu, hoặc ngược lại đến thăm quân khu 3, thế nào anh cũng ghé qua Hải Phòng thăm Thành uỷ, UBND Thành phố. Có lần vội về, anh ghé thăm tôi tại nhà riêng mấy phút rồi về Hà Nội.
Tôi nghĩ ít có vị tướng nào tuổi cao mà luôn luôn đáp ứng mong mỏi của quần chúng, nhất là đối với lực lượng võ trang. Đó là điều đáng quí “Để lại non sông một chữ tình” là thế! Đối với tôi, anh Văn hơn tôi 19 tuổi, tôi vốn là hậu sinh, đàn em của anh, nhưng mỗi khi gặp tôi anh đều bảo tôi nói về tình hình kinh tế trong nước và quốc tế cho nghe. Sau đó, anh có những nhận xét sắc sảo về tình hình kinh tế trong nước, cách làm ăn của ta có những ưu, khuyết điểm gì. Mỗi khi có những vấn đề kinh tế anh cần nói chuyện với tôi, anh thường gọi điện cho tôi và hẹn đến thăm. Nhưng bao giờ tôi cũng chủ động đến báo cáo với anh. Có lần anh đến thăm nhà tôi ở số 4 Nguyễn Khắc Cần, có cả chị Hà, phu nhân của anh cùng đi.
Anh chị ngồi chơi nói chuyện với vợ chồng tôi một lúc. Rồi anh bảo tôi lên gác xem nhà ông Thành có đẹp không? Tôi mời anh lên gác xem, anh bảo chị Hà ở lại ngồi chơi với nhà tôi, anh đi ra ngoài ban công nói nhỏ với tôi: “Manoeuvre politique” bấy giờ tôi mới hiểu. Có thế thôi mà anh phải thận trọng, phải lên gác và ra ngoài ban công, mà chỉ nói nhỏ thôi. Nay tôi xin phép anh, tôi nói to cho mọi người biết. Khi tôi đến chơi nhà, chị Hà hay nói với tôi: “Anh Văn thật thà lắm? Có gì anh bảo anh Văn giúp”. Tôi thưa với chị: “Tôi là học trò đến học anh, còn chị là giáo sư sử học, chị biết câu tục ngữ của tổ tiên ta để lại “Thật thà là cha quỉ quái”, chị không nên phiền lòng. Thật thà của anh sẽ để lại “Hồng phúc” cho các cháu”.
Những chương trước tôi đã nói về anh, có những tâm tư u uẩn trong cuộc đời hoạt động của mình vì có những người vu khống lý lịch anh...
Tôi rất buồn khi viết đến đây. Đáng lẽ Đảng ta phải biết bảo vệ những cái tốt đẹp của từng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cao cấp. Phải coi đó là những báu vật quí hiếm, phải gìn giữ, dồn góp lại thành những viên hồng ngọc để con cháu đời đời noi theo. Còn mỗi người chúng ta phải giữ cho mình trong sạch, lại được tổ chức bảo tồn, thì những tấm gương đó sẽ tái tạo lại ở các thế hệ kế tiếp. Trong sáng, đẹp đẽ như Bác Hồ, đã là tấm gương cho chúng ta noi theo. Tại sao ta không biết làm như vậy, mà lại làm ngược lại. Thật là tiếc lắm thay!
Phó Chủ tịch Nhà nước Lê Thanh Nghị
Đồng chí Lê Thanh Nghị là một nhà cách mạng lớn của Đảng và Nhà nước ta, nguyên là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Phó Thủ tướng Chính phủ, người ký Chỉ thị số 100/BBT tháng 1-1981 cho mở rộng khoán sản phẩm nông nghiệp trong cả nước.
Anh vốn xuất thân là một công nhân điện, tham gia cách mạng từ những năm 1930, anh hoạt đồng nhiều ở Hải Dương và Hải Phòng, nhất là thời kỳ tiền khởi nghĩa, anh phụ trách miền Duyên Hải, chỉ đạo khởi nghĩa Hải Phòng, làm Bí thư khu 3 thời bắt đầu kháng chiến, sau về làm Phó Bí thư Liên khu 3, Bí thư Liên khu 3. Anh lấy chị Thanh, người Hải Phòng, nên có mối quan hệ cách mạng và tình cảm gia đình với Hải Phòng rất thắm thiết. Trong những chương khác tôi đã viết về anh Lê Thanh Nghị, chương này tôi chỉ nêu một số điều về việc anh quan tâm đến phong trào của nhân dân Hải Phòng, đặc biệt của công nhân những năm 60, khi có phong trào “sóng Duyên Hải, gió Đại Phong”. Anh phụ trách công nghiệp, thường xuyên xuống Hải Phòng để chỉ đạo và đúc rút kinh nghiệm về thi đua yêu nước, dấy lên từ “Sóng Duyên Hải” làm điểm để phổ biến cho các thành phố và khu công nghiệp khác.
Những năm 70, 80 nhất là sau ngay giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, anh phụ trách kinh tế, công việc bận rộn, nhưng anh vẫn giành cho Hải Phòng sự quan tâm, nhất là khi khó khăn về lương thực cho công nhân. Anh ít nói, điềm tĩnh, suy nghĩ kỹ. Với địch thì rất kiên cường, không nhượng bộ một bước, nhưng với đồng chí, đồng bào, anh không to tiếng với ai bao giờ. Đồng chí Phạm Hùng kể lại cho tôi nghe về anh Lê Thanh Nghị khi cùng tù với anh Phạm Hùng ở nhà tù Côn Đảo, anh Hùng kể: “Trong những buổi xếp hàng đi làm coóc-vê, hoặc vào phòng ngủ, anh Nghị bao giờ cũng đi trước hoặc đi cùng để đón đòn cho anh em. Địch đánh đập xua đuổi mọi người, anh cứ ung dung thư thái, đĩnh đạc, không bao giờ chạy. Địch càng đánh, anh càng đi thong thả, không nhìn ngang, nhìn ngửa, làm cho địch phải gờm. Các đồng chí khác cũng noi gương anh đi đứng đàng hoàng làm địch phải nể, bớt dùng roi vọt với anh em.”
Khi chuẩn bị làm khoán trong nông nghiệp, Thành uỷ Hải Phòng báo cáo Ban Bí thư, anh Nghị là Thường trực Ban Bí thư, anh chú ý lắng nghe, và đi xem tình hình sản xuất nông nghiệp. Tôi đưa anh đi xem nhiều nơi ở ngoại thành. Khi chuẩn bị ra Chỉ thị 100, Văn phòng Trung ương đã chuẩn bị đưa sang anh ký, anh còn gọi tôi lên nhà riêng để xem đi xem lại từng chữ. Lúc đầu dự thảo nói thẳng là khoán đến hộ gia đình, nhưng chữ “Khoán hộ” lúc đó rất kiêng kỵ coi như phạm “huý”. Anh bảo tôi tìm chữ gì thích hợp. Tôi bàn với anh Bùi Quang Tạo, anh Hữu Thọ, trao đi đổi lại, mới tìm được cụm từ có thể được nhiều người đồng tình là: “Khoán đến nhóm lao động và lao động xã viên” đưa lên anh Nghị xem. Anh nhất trí. Sau đó anh Nghị ký Chỉ thị 100/BBT tháng 1-1981.
“Vạn sự khởi đầu nan”, từ Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng ngày 27-6-1980 về khoán trong nông nghiệp, đến Chỉ thị 100/BBT cách nhau hơn 7 tháng mà biết bao khó khăn vướng mắc, chúng tôi suy nghĩ đắn đo bao tháng ròng và các anh ủng hộ khoán ở Trung ương cũng trăn trở suy nghĩ biết bao ngày đêm để giải quyết. Đói thì đói, nhưng chỉ sợ mất lập trường, mất chủ nghĩa xã hội, mà chủ nghĩa xã hội thì có ai đã hình dung ra được cụ thể như thế nào? Chỉ biết là phải làm cho mọi người sung sướng, hoặc như Marx nói về thời kỳ cuối của xã hội xã hội chủ nghĩa là: hàng hóa phải nhiều như nước trong nguồn chảy ra, mới tiến lên cộng sản được. Thế mà một nước nông nghiệp lại thiếu lương thực, đành chịu chết đói, chỉ vì sợ mất chủ nghĩa xã hội, phá vỡ hợp tác xã. Anh Nghị tâm sự với tôi: “Đánh giặc chết người, tù đày hy sinh gian khổ, chết chóc, thì thống nhất quan điểm lại dễ. Nay làm ra gạo ăn, không phải đi xin viện trợ, đi xin viện trợ là tôi phụ trách, tôi thấy khó khăn, mình đi lắm cũng ngượng, thế mà khó quá nhỉ?”.
Sau khi Chị thị 100 của Ban Bí thư ra được 6 tháng, anh Nghị gọi tôi lên hỏi tình hình thực hiện Chỉ thị 100. Tôi báo cáo là anh yên tâm, trúng rồi đó, quần chúng phấn khởi, lúa tốt lắm! Anh hỏi lại tôi: Sao họ nói quá thể, nhất là Ban Nông nghiệp Trung ương báo cáo, nhiều nơi phá bỏ bờ vùng bờ thửa đã qui hoạch... Họ kêu lắm!”. Tôi báo cáo anh: “Một số anh em chưa thông với Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, nên hay tập hợp những mặt tiêu cực, đối khi còn nói vống lên... Anh yên tâm là tôi báo cáo đúng, không một chiều...”. Lúc đó anh Nghị mới yên tâm. Chị Thanh, phu nhân anh Nghị nói chen vào: “Mấy hôm nay anh lo lắm! Vì anh là người ký Chỉ thị 100, nếu sai họ sẽ đổ cho anh hết, hôm nay chú nói chắc vậy anh mới yên tâm”. Tôi xin phép về. Anh Nghị dặn có gì khó khăn phải cho biết ngay. Sau 3 tháng lên nói cho anh nghe kết quả.
Đúng như anh Tô nói: “Làm mà ăn cũng khó khăn thế đấy!”. Đến năm 1989, tôi làm Bộ Trưởng Kinh tế đối ngoại, ký chuyến xuất khẩu gạo đầu tiên, tôi đến báo cáo anh Nghị. Anh ngẫm nghĩ và rưng rưng nước mắt. Chị Nghị bảo “Bây giờ Ba phải vui chứ! Có gạo ăn rồi, lại có gạo xuất khẩu không phải đi xin nữa, sao Ba lại khóc...” (Chị Nghị thường gọi anh Nghị bằng Ba). Cuối năm 1990, gạo xuất được nhiều hơn, gần 2 triệu tấn, thì anh Lê Thanh Nghị của chúng ta qua đời. Một con người suốt cuộc đời lo cho dân, cho nước. Địch tra tấn, đánh đập, không một tiếng kêu, bình tĩnh, thản nhiên. Khi dân có gạo ăn lại khóc, khóc vì sung sướng, khóc vì 2 triệu người chết đói năm 1945 do nước mất nhà tan!
Chủ tịch nước Võ Chí Công
Những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80, anh Võ Chí Công là Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng phụ trách Nông nghiệp và Thủy sản. Anh thường xuống Hải Phòng làm việc và tôi mới có dịp làm việc với anh Năm Công (tên gọi thân mật của đồng chí Võ Chí Công), con người nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta. Tại Liên khu 3, Khu 6 miền Trung anh hoạt động với chức danh công khai là Đại diện Đảng Nhân dân Cách mạng trong Mặt trận Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, với dáng vóc một nhà nông, khoẻ mạnh, dễ thương. Tôi gặp anh lần đầu đã thấy mến anh. Với giọng nói miền Trung, ngắn gọn, thẳng thắn, không dài dòng, đi ngay vào công việc.
Thời gian đó, Hải Phòng đang chuẩn bị khoán trong nông nghiệp. Với cương vị Uỷ biên Bộ Chính trị, anh ủng hộ ý kiến đề xuất của Hải Phòng rất tích cực. Anh nói rất đơn giản: “Để nông dân người ta cày cấy cho có gạo ăn và nộp thuế cho Nhà nước. Mỗi người có mấy sào bắc bộ có đáng là bao mà sợ họ trở thành địa chủ”. Tôi đưa anh đi xem sản xuất nông nghiệp hồi đó. Anh bảo: “Cứ để làm ăn như thế này thì đói triền miên... tôi sẽ về giúp Thành phố thuyết phục các ngành Trung ương ủng hộ Hải Phòng về khoán trong nông nghiệp”.
Khi Hải Phòng ra NQ số 24 của Ban Thường vụ Thành uỷ, anh Võ Chí Công rất hoan nghênh và ra sức tuyên truyền cho khoán của Hải Phòng. Khi có Chị thị 100 của Ban Bí thư, có cuộc họp sơ kết khoán sản phẩm nông nghiệp ở Hải Phòng và phổ biến Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, về việc mở rộng khoán ra toàn quốc, được tổ chức tại Hải Phòng trong 2 ngày. Ngày hôm sau tổng kết hội nghị, đáng lẽ anh Tố Hữu Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư sẽ xuống Hải Phòng tổng kết, nhưng vì bận nên anh Võ Chí Công thay mặt Bộ Chính trị và Ban Bí thư tổng kết hội nghị. Trong hội nghị này có một số đại biểu chưa thông với Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, có ý kiến không tán thành. Nhưng khi tổng kết, anh Võ Chí Công nói: “Khoán là đúng rồi, các đồng chí đừng sợ. Nếu khoán làm cho trời sụp đổ, tôi sẽ chịu trách nhiệm.”. Ở những bước ngoặt lịch sử trong chiến tranh cũng như trong hòa bình xây dựng kinh tế, phải có những đồng chí dám quyết đoán như vậy mới đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng vượt qua được khó khăn, đặc biệt những lúc gay cấn, khắc nghiệt, nếu do dự kéo dài chỉ khổ cho nhân dân, gây tổn thất cho cách mạng.
Anh Lê Đức Thọ, anh Tố Hữu
Hai anh như hai ngôi sao đổi ngôi cho nhau. Anh Lê Đức Thọ nhà chính trị xuất sắc, nhà ngoại giao nổi tiếng ở Hội nghị Paris lại quan tâm làm thơ. Còn anh Tố Hữu nhà thơ cách mạng vĩ đại lại sang làm kinh tế. Hai anh có duyên nợ với nhau, tôi là người đứng giữa cũng được “thơm” lây và cũng bị “vạ” lây.
Về hai anh trong các chương trước tôi đã viết. Chương này chỉ kể vài chuyện về hai anh đối với Hải Phòng và cá nhân tôi.
Hai anh đều rất quí mến Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng, nhất là thời kỳ đổi mới của Hải Phòng, hai anh đều quan tâm, có những lời khen động viên phong trào và cá nhân tôi rất chân thành.
Anh Tố Hữu lại có cả bài thơ “Mừng Hải Phòng” tôi đã nhắc ở chương trước. Ở đây tôi chỉ nói bài thơ có 12 câu này, đã có người phản ảnh sai sự thật và anh Lê Đức Thọ đã phê phán tôi tại Hội nghị các Trưởng ban Tuyên huấn toàn quốc, trước thềm của Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986).
Năm 2000, tôi gặp anh Tố Hữu cùng đi họp ở Quốc hội. Anh Tố Hữu nhắc tới bài thơ “Mừng Hải Phòng”. Tôi báo cáo anh Tố Hữu: “Được anh khen mà tôi xuýt chết đấy!” Tôi kể cho anh nghe, anh bảo tôi: “Thế cơ à, mình không biết”. Anh Tố Hữu không những chỉ khen bằng thơ mà lúc đó anh là Phó Thủ tướng Thường trực, đi đâu, có gì hay, hoặc có điều gì không rõ, anh đều đến Hải Phòng phổ biến kinh nghiệm tốt, bàn bạc những vấn đề chưa sáng tỏ. Anh đi kiểm tra Hải Phòng từ nội thành đến ngoại thành, xem công trường quai đê lấn biển Đồ Sơn...
Tết âm lịch 1982, ngày 30, anh từ Quảng Ninh về, tôi mời anh ở lại ăn bữa cơm “tất niên” rồi sẽ về Hà Nội. Ăn cơm xong, trước khi ra về anh đọc cho tôi nghe bài thơ anh mới sáng tác ở Quảng Ninh “... Đêm 30 riêng một ngọn đèn; Dở, hay khôn, dại những chê khen...”. Anh bảo tôi góp ý kiến. Tôi không dám góp, vì ngôn từ và ý của anh đã chuẩn lắm rồi, tôi cho rằng bài thơ in ra sẽ có nhiều người khen về tâm tư thực của nhà kinh tế quốc gia, song chắc sẽ có người chê. Đúng như vậy, khi bài thơ in ra có nhiều ý kiến khen chê, có cả ý kiến xuyên tạc. Sau Tết anh gặp tôi, nhắc đến bài thơ đó. Anh bảo: “Đời là thế đấy, Thành ạ! “.
Anh Lê Đức Thọ sau khi nhận được bài thơ trọn vẹn 12 câu của anh Tố Hữu “Mừng Hải Phòng”, anh không nói gì, tỏ vẻ nghĩ ngợi. Mãi đến năm 1990 trước khi qua đời khoảng 30 ngày, anh Lê Đức Thọ bảo tôi đến chơi. Anh bảo các đồng chí bác sĩ, bảo vệ ra ngoài. Anh nói chuyện với tôi khoảng 40 phút, tôi vừa nghe vừa bóp tay cho anh, vì anh đang bị đau tay và vai bên phải do bệnh ung thư hành hạ. Anh rất tỉnh táo nói với tôi nhiều chuyện tâm phúc, mang tính dặn dò đàn em trước khi từ biệt cõi đời. Cuối cùng anh nói: “Ngay bài thơ của anh Tố Hữu mừng Hải Phòng, họ cũng phản ảnh sai sự thật... Thôi nhé cậu về”. Tôi bắt tay anh, đứng dậy chào anh ra về. Vài hôm sau anh vào bệnh viện 108 và qua đời. Trước khi anh mất 3 ngày, tôi còn vào bệnh viện thăm anh, anh chỉ gật đầu mà không nói được.
Tôi và anh Lê Đức Thọ có duyên gặp nhau khi đến thăm anh Lê Duẩn, tháng 5-1986. Khi tôi ở Hải Phòng đến thăm anh Lê Duẩn đang ốm ở nhà biệt thự số 10 Hồ Tây, thì gặp anh Lê Đức Thọ vừa ra khỏi cổng. Năm 1988 lần giỗ thứ hai ngày mất của anh Ba, tôi đến thắp hương cho anh, lại gặp anh Lê Đức Thọ ở giữa sân. Anh vừa vào thắp hương cho anh Ba xong. Tôi chào anh, hỏi thăm sức khoẻ anh, rồi tôi vào thắp hương cho anh Ba. Giáo sư, tiến sĩ Hồ Ngọc Đại, con rể anh Ba ra đón tôi. Hồ Ngọc Đại nói: “Anh Lê Đức Thọ vừa khen anh”. Tôi hỏi: “Khen thế nào?” Đồng chí Hồ Ngọc Đại nói: “Anh Thọ khen ba tôi chọn anh là chính xác”. Tôi suy ngẫm lại, sau Đại hội 6, anh Thọ quả có quan tâm đến tôi thật.
Các anh Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Đức Tâm, Đồng Sĩ Nguyên, Hoàng Tùng, Vũ Oanh, Nguyễn Quyết, Lê Quang Đạo... cũng rất quan tâm đến cuộc đổi mới của Hải Phòng.
Anh Nguyễn Duy Trinh 30 Tết năm 1981 còn xuống Hải Phòng, bàn biện pháp tìm ra vốn để phát triển sản xuất, khai hoang lấn biển.
Anh Trần Quốc Hoàn, mồng 2 Tết năm 1982 xuống thăm và chúc Tết nhân dân Hải Phòng, xem khoán sản phẩm trong nông nghiệp kết quả ra sao. Anh bảo tôi: “Thiếu lương thực thì phải khoán thôi, sau này có đủ lương thực rồi phải nghĩ cách nào vừa có lương thực, vừa giữ được hợp tác xã”. Tôi báo cáo với anh: “có thực mới vực được đạo” có đủ lương thực ăn, nhân dân no ấm, được học hành sẽ nghĩ được nhiều cách làm tốt hơn, phát triển được sản xuất, lúc đó nông dân sẽ tự nguyện cùng hợp tác làm ăn, lúc đó hợp tác xã mới có thực chất và vững mạnh. Anh bảo tôi: “Thế thì tốt quá!” Tôi biết anh vẫn còn phân vân với khoán sản phẩm trong nông nghiệp.
Anh Văn Tiến Dũng, anh Chu Huy Mân, hai vị Đại tướng tuy rất bận công việc quân sự, nhưng hai anh hàng năm vẫn xuống Hải Phòng thăm đất cảng làm ăn. Có lần họp Trung ương, anh Văn Tiến Dũng bảo tôi sang sân bay Bạch Mai đi trực thăng với anh về Hải Phòng quan sát hệ thống phòng thủ bờ biển và khai hoang lấn biển của lực lượng vũ trang ở Vinh Quang, Tiên Lãng... Sau đó anh về quân khu 3, hôm sau đi thăm Cát Bà, Cát Hải, thăm một số hợp tác xã nông nghiệp ngoại thành. Anh rất vui về một thành phố công nghiệp đã tự túc được lương thực.
Anh Chu Huy Mân đi thuyền, lội bãi lầy ra thăm bộ đội đào kênh Cái Tráp, cắt ngang huyện Cát Hải, từ Lạch Huyện sang sông Bạch Đằng, rút ngắn hơn 20 km đường thủy từ Hồng Gai về Hải Phòng không phải qua sông Chanh, sông Ruột Lợn của Quảng Ninh và Thủy Nguyên, rất thuận lợi cho vận tải biển. Hải quân xuất kích ra biển cũng rút ngắn được khá nhiều thời gian. Anh Chu Huy Mân khen những suy nghĩ của lãnh đạo địa phương đã kết hợp kinh tế với quốc phòng rất chặt chẽ, một công đôi việc, tiết kiệm được xăng dầu, thời gian, sau này cảng Hải Phòng mở rộng ra biển thì lại càng có hiệu quả lớn.
Anh Nguyễn Thanh Bình là người luôn luôn suy nghĩ tìm cách cải tiến quản lý kinh tế và luôn luôn ủng hộ cái mới. Anh nhìn nhận vấn đề đổi mới rất nhanh. Anh lúc nào cũng bảo vệ những cán bộ dám nghĩ dám làm, dám khuyến khích động viên họ. Anh thẳng thắn phê bình tư tưởng bảo thủ, chế độ ban ơn, xin, cho, của một số cán bộ lãnh đạo lúc đó. Đối với Hải Phòng đổi mới, coi như anh ủng hộ tuyệt đối. Anh luôn luôn động viên giúp đỡ Hải Phòng đi lên, nhất là khi chuẩn bị làm khoán, có nhiều lực cản ghê gớm. Anh phê phán rất quyết liệt những hành động cản trở nhân tố mới ra đời.
Anh Nguyễn Đức Tâm, nhà tổ chức thận trọng và khiêm tốn. Anh nghiên cứu về cán bộ, hoặc đi thăm những nơi sản xuất, đến các công trình của Hải Phòng. Anh suy nghĩ cách làm, gợi ý nhỏ nhẹ cho địa phương suy nghĩ từng việc cụ thể, để thực hiện cho tốt. Anh làm tổ chức nên rất quan tâm đến quá trình hoạt động của cán bộ. Anh lo cho những cán bộ chủ chốt có được một lý lịch chân thực trong sạch, không còn hiện tượng man khai lý lịch, lừa dối tổ chức để lên chức lên quyền. Đối với cá nhân tôi, tôi biết anh theo dõi và nghiên cứu tiểu sử cá nhân tôi rất kỹ. Nên khi một số người xấu vu khống lý lịch tôi, anh thường đặt đi đặt lại câu hỏi rất nhiều lần với tôi: “Anh phải xem kỹ, đằng sau vấn đề này là vấn đề gì? Chẳng nhẽ hơn một chục cán bộ chủ chốt của Hải Phòng không có thù ghét gì với anh, họ chẳng có một chút chứng cứ gì trong tay, mà dám ký tên tập thể tố cáo anh, tại sao? Cần suy nghĩ tìm ra cho được nguyên nhân”. Tôi phải khất lại để suy nghĩ và tìm hiểu, không thể suy diễn bừa được. Đến ngày 2-8-2003 tôi đã tìm ra nguyên nhân để trả lời câu hỏi khó khăn phức tạp đó.
Tháng 1-2004, tôi gặp anh. Tôi tưởng bây giờ anh đã nghỉ, chắc anh cũng quên việc của tôi. Không ngờ sau những câu chuyện thông thường. Anh lại nghiêm nghị hỏi: “Cái việc anh Tô Duy, anh đã tìm ra cái gì ở đằng sau đó chưa?” Hôm đó tôi báo cáo với anh, tôi đã tìm ra rồi. Đó là anh Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư của Đảng ta chỉ đạo anh Tô Duy vu khống tôi hơn 20 năm qua. Anh Tâm bảo tôi: “Có thế chứ, vô lý những con người đó tự nhiên lại ký và tố cáo dai dẳng. Khi tổ chức đã kết luận và đã chúng minh đầy đủ họ sai, nhưng họ vẫn làm, vậy phải có nguyên nhân sâu xa. Tôi làm tổ chức tôi hiểu điều đó rất rõ”. Rồi anh thở phào nhẹ nhõm, như vừa trút được một gánh nặng. Tôi báo cáo anh, tôi cũng thấy buồn, tôi không nghĩ con người đó lại là con người như vậy, buồn cho mình, buồn cho Đảng ta.
Anh Đồng Sĩ Nguyên, một nhà hành động thực tiễn. Anh luôn xông pha vào những nơi khó khăn gian khổ, từ tư lệnh Đoàn 559, bí hiệu của Binh đoàn Trường Sơn, phụ trách hàng nghìn km trong rừng sâu. Anh thường giới thiệu với tôi về động Phong Nha - Kẻ Bàng, và bảo tôi giới thiệu với bên ngoài và kêu gọi đầu tư. Tôi đã giới thiệu với khách nước ngoài về “Động” nổi tiếng của Việt Nam.
Tháng 6-2004 trong dịp vào dự Festival Huế, tôi đã đi thăm những nơi anh giới thiệu, như động Phong Nha - Kẻ Bàng, Nghĩa trang Trường Sơn, Mười cô gái ngã ba Đồng Lộc và đường Hồ Chí Minh đang xây dựng. Tôi đã đi hơn 200 km đường Hồ Chí Minh từ Quảng Trị - Quảng Bình - Hà Tĩnh, tôi lại suy ngẫm về con người anh Đồng Sĩ Nguyên, tuy tuổi già, vẫn nhận làm phái viên Chính phủ, chỉ đạo và làm cố vấn cho các công trình. Khi còn là Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ Trưởng Bộ Giao thông anh thường về Hải Phòng làm việc với tôi. Anh em ý hợp tâm đầu, công việc bàn xong là quyết, là làm, không bàn đi bàn lại vòng vo mất thì giờ. Khi giải quyết công việc của Cảng, mở rộng đường 5, đường xuyên đảo Đình Vũ, đào kênh Cái Tráp... bàn đến đâu chúng tôi nhất trí với nhau rất nhanh và bắt tay vào việc.
Tôi biết anh khi anh là Phó Tổng Tham mưu trưởng, từ những năm 1964-1965, anh về bàn với Hải Phòng chuẩn bị mọi điều kiện chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc. Từ đó cho đến sau này lên Trung ương làm việc với anh trong Thường Vụ Hội đồng Bộ trưởng, tôi thấy lúc nào anh cũng năng nổ, bàn hết việc này đến việc khác, suy nghĩ cách làm cho có hiệu quả. Có đồng chí nói anh Đồng Sĩ Nguyên thuộc phái bảo thủ. Nhưng anh làm việc với tôi, cho đến hôm nay, tôi vẫn thấy anh là người hành động, ít bàn lý sự dông dài. Còn tôi ở Hải Phòng là một trong những địa phương đổi mới sớm nhất, những vấn đề như khoán trong nông nghiệp, bỏ tem phiếu, xóa bỏ chế độ bán gia cầm, lợn cho nông dân... tôi trao đổi với anh, anh rất đồng tình. Anh còn nói nông dân khổ lắm. Kháng chiến, hầu hết là nông dân ra trận. Vợ con ở nhà làm ruộng đóng góp lúa gạo cho chiến trường, hai sương một nắng khổ lắm! Nay bớt cho bà con thứ nào hay thứ đó. Nhưng anh có suy nghĩ kỹ, anh hỏi lại tôi: “Thế ông Thành đã nghĩ lấy gì cho bộ đội ăn chưa?”. Tôi đã phân tích về cách giải quyết cái ăn, cái mặc cho lực lượng võ trang và cán bộ công nhân viên. Anh nghe xong nói ngay: “Thế thì tôi giơ cả hai tay ủng hộ ông”. Rồi “khịt, khịt” vài ba cái, anh nói: “Ông nghĩ hay đấy, làm đi”. Tôi chưa thấy một lời nói, một việc làm “bảo thủ” của anh với tôi cả. Đến nay con người hành động Đồng Sĩ Nguyên vẫn đi bộ dọc Trường Sơn, để chỉ đạo một con đường dài hơn 2500 km, xuyên Việt. Tất nhiên đã có đường nhựa bóng lộn, chẳng nhẽ lại không đi ô tô. Tôi đã đi trên 200 km nhựa bê tông bóng loáng, một còn đường dài nhất xuyên qua Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây mang tên Bác. Tôi đi trên đoạn đường hơn 200 km, chỉ mong gặp anh Đồng Sĩ Nguyên để nói một câu: “Anh đã để lại dấu chân anh trên dọc con đường này trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Nay dấu chân anh để lại trên con đường nhựa dài suốt từ Việc Bắc đến đồng bằng Nam Bộ, đến Năm Căn, Cà Mau”. Xây dựng con đường này đã kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhất là du lịch, rất hay. Tôi mới “cưỡi ngựa xem hoa” nhưng thấy những nhánh đường rẽ vào nghĩa trang Trường Sơn, vào Phong Nha - Kẻ Bàng rồi ra ngã ba Đồng Lộc, nói rõ nét ý tưởng của nhà hoạch định ra con đường huyền thoại này. Đi một đoạn đường ngắn mà thấy mình trẻ lại. Chỉ có điều là đường còn hẹp, nhiều đoạn không bắc cầu qua suối, đường phải uốn theo sườn núi ngoằn ngoèo, khúc khủyu, làm cho tốc độ xe bị giảm nhiều.
Các anh Hoàng Tùng, Vũ Oanh, Nguyễn Quyết, Lê Quang Đạo. Khi ấy các anh là Uỷ viên Ban Bí thư, các anh là những người đầu tiên ủng hộ khoán trong nông nghiệp. Anh Hoàng Tùng lúc đó là Trưởng Ban tuyên huấn, anh luôn đưa những nhà báo ủng hộ khoán như: Hữu Thọ, Lê Điền, Thái Duy... theo sát tình hình Hải Phòng và có những bài báo đấu tranh nảy lửa trên báo chí để ủng hộ khoán. Anh Hoàng Tùng mỗi khi về Hải Phòng, thường bàn với anh Bùi Quang Tạo và tôi những cách xử sự của Trung ương, để làm cơ sở mở rộng khoán ra cả nước. Anh tha thiết với phong trào Hải Phòng về cả lý trí và tình cảm. Con người đã 2 lần làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, mặc dù mỗi lần vài ba tháng trong những năm đầu cách mạng tháng 8 mới thành công. Đến nay anh Hoàng Tùng còn để lại nhiều kỷ niệm với Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng.
Anh Vũ Oanh, tôi đã nói ở chương trước, anh say mê với đổi mới của Hải Phòng, nhất là nông nghiệp. Khi anh làm Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, anh thường xuyên xuống Hải Phòng rút kinh nghiệm và góp nhiều ý kiến cho địa phương. Một tầm nhìn xa và tiên đoán sớm của anh là: “Khoán sản phẩm trong nông nghiệp là chìa khóa vàng.”. Nay nó không phải là chìa khóa nữa mà là “kho vàng”. Anh Nguyễn Quyết, khi anh là Tư lệnh, Chính uỷ quân khu 3, anh đã cùng Đảng uỷ quân khu đề ra phong trào “Làm giàu đánh thắng”, đã góp sức toàn quân cùng các địa phương khai hoang lấn biển, mở rộng địa bàn, bảo vệ miền duyên hải. Anh rất quan tâm giúp đỡ địa phương, bất cứ lúc nào Hải Phòng yêu cầu cái gì là Quân khu ủng hộ ngay, từ lực lượng lao động, đến phương tiện vận tải mà quân khu có. Anh đã đóng góp cho Hải Phòng trong những công trình lớn như đắp đê đường 14 Đồ Sơn, đường xuyên đảo, đào kênh Cái Tráp. Anh là nhà quân sự kỳ cựu, một vị Đại tướng, nhưng nhìn về kinh tế anh cũng có cái nhìn sắc sảo. Phải có kinh tế mạnh mới có quốc phòng mạnh. Khi làm Tư lệnh Quân khu, trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, anh đã huy động quân đội làm kinh tế để bổ sung bữa cơm, cho chiến sĩ có lương thực, thực phẩm khá hơn, doanh trại xây dựng khang trang hơn, từng bước góp phần cải thiện đời sống cho lực lượng vũ trang, không chỉ trong quân khu mà cả nước.
Anh Lê Quang Đạo, anh theo sát tình hình khoán Hải Phòng chặt chẽ để ủng hộ, nhưng có nhiều lo lắng. Trong các cuộc họp Quốc hội, hễ anh gặp tôi là hỏi kết quả khoán ra sao? Trên Trung ương lắm ý kiến khác nhau lắm, anh thường thông tin cho tôi biết những ý kiến trái chiều để đề phòng. Anh hỏi thăm ý kiến các đồng chí chủ chốt trong Bộ Chính trị ra sao, nhất là ý kiến anh Trường Chinh. Anh lo ngại ở cái “post” đó. Hình như trước đây đã có thời kỳ anh làm Thư ký cho anh Trường Chinh thì phải (?). Tôi thấy anh biết rất chi tiết về tính tình và phong cách làm việc của anh Trường Chinh. Anh khuyên tôi phải lay chuyển được cái “post” quan trọng đó thì khoán mới thành công trong cả nước. Nếu không chỉ “khoán chui” thì kinh tế khó khăn vẫn y nguyên. Anh Lê Quang Đạo là con người cẩn thận, anh mỗi lần nói anh lại nhắc tôi: “Tôi chỉ thông tin cho anh biết thôi nhé, để chọn lựa cách làm việc cho kết quả”. Tôi hiểu ý anh.
Ngoài các anh tôi đã nhớ được, tôi nêu ở chương này, còn biết bao nhiêu đồng chí Uỷ viên Trung ương khác, như: đồng chí Hồ Nghinh, đồng chí Vũ Quang, đồng chí Trương Kiện... đã hết lòng ủng hộ Hải Phòng, để Hải Phòng bứt ra khỏi cơ chế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp. Tôi rất biết ơn các anh vì sự nghiệp chung của đất nước. Có anh còn lo cho cả cá nhân tôi. Nếu khoán trong nông nghiệp không thành thì sao? Đó là những tấm lòng vì đất nước, vì tình đồng chí, thân thương, cùng nhau phấn đấu cho một Việt Nam giàu có, bảo đảm cho hôm nay và mãi mãi mai sau phải là: dân giàu, nước mạnh, ấm no, hạnh phúc.
Hồi ký Đoàn Duy Thành - Chương 11
Kết luận
Ý thứ nhất: Người ta ở đời từ khi biết nghĩ cho tới tuổi trưởng thành, ai ai cũng mong sao được học hành đến nơi đến chốn, thành đạt, có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chẳng ai muốn mình khổ cả. Tuy nhiên đời là biển khổ, khó ai tránh khỏi một lần rơi vào cái biển mênh mông đó. Nhưng được như vậy cũng lấy làm hạnh phúc lắm rồi.
Còn tôi, tôi thấy suốt đời mình là khổ, cho đến tận những năm tháng cuối bây giờ, tuy nhiều người cứ nói tôi có hậu vận tốt. Với tôi, xấu tốt cũng không mấy ý nghĩa, tôi chỉ mong làm được nhiều việc cho nước, cho dân, góp phần biến cái biền khổ đó thành ra biển sướng. Được vậy hạnh phúc biết bao!
Rất tiếc ước mơ đó từ tuổi vị thành niên của tôi đã không thực hiện được đến nơi đến chốn. Tôi tham gia cách mạng khi mới bước vào đời, được các đồng chí đi trước tuyên truyền dìu dắt, nhất là ông Đoàn Hữu Lộng, chú họ tôi, một người kiểu mẫu xứng đáng. Dù ông không tham gia cách mạng được hết cuộc đời, nhưng ông đã sống, đã giữ trọn đạo đức, phẩm tiết cho tới tận tuổi 89, rồi qua đời ông luôn là tấm gương lớn cho tôi noi theo: Không giả dối, không bon chen, chỉ mong góp phần xây dựng đất nước, sao cho nước giầu để mình sẽ cùng ở trong cái bể giầu đó mới thật thỏa nguyện. Cứ ước mơ và ước mơ, hành động và hành động, cho tới tận cuối đời vẫn thế.
Gần hết cuộc đời với 58 năm đi làm cách mạng, tôi gặp rất nhiều người tốt, kẻ xấu, nhưng lúc nào tôi cũng lạc quan cho rằng số kẻ xấu kia sẽ ngày một hết dần, không thể cứ tồn tại mãi. Có thể sự lạc quan đó do được cách mạng giáo dục, đào tạo, nhất là chúng ta có tấm gương nhân ái của Bác Hồ vĩ đại để noi theo. Bởi vậy tôi có đức tin vào người đi trước, có sự tin tưởng vô tư vào lớp trẻ đi sau.
Gặp bất cứ trường hợp nào người ta không tốt, đối xấu với mình, tôi đều nghĩ đó là thiểu số, không đáng kể. Miễn sao số đông biết vì lợi ích của Tổ quốc dám hy sinh thân mình, hy sinh quyền lợi cá nhân để dành tất cả cho dân tộc. Không thể vì lẽ gì cả một dân tộc hy sinh hàng triệu con người để đổi lấy độc lập tự do hạnh phúc, mà có người lại xấu, lại ích kỷ hại nhân, hoặc bon chen, giành quyền lợi cho riêng mình hưởng thụ.
Ngày hôm nay ngồi viết những trang hồi ký cuối đời này, tôi cũng chỉ muốn thêm một chút nữa góp phần xây dựng Đảng, xây dựng đất nước phồn vinh, khắc phục những gì đang cản trở đất nước đi lên. Tôi lường trước những trang viết không chỉ mang lại lợi ích chung như tôi mong muốn mà biết đấu nó cũng có thể mang lại nguy hiểm cho tính mạng cá nhân người viết. Nhưng tôi xác định viết ra cho toàn Đảng, toàn dân khắc phục được khuyết điểm để tồn tại và phát triển, thì sự hy sinh nào cũng đáng giá. Nhất định phải có một biển sướng, không phải biển khổ! Nếu mình vẫn tồn tại được bơi vài giây phút trong đó cũng toại nguyện lắm rồi. Còn nếu mình không được hưởng thì sau này con cháu, họ hàng, bạn bè, chiến hữu cùng toàn dân tộc được bơi trong một biển sướng, như thế dù sống hay chết cũng là làm trọn nhiệm vụ với dân với nước!
Biết bao suy nghĩ dằn vặt trước khi tôi đặt bút viết tập hồi ký này sao cho “vừa đủ”, nghĩa là không dài quá, không ngắn quá, không nói thừa. Tôi chỉ nói lên một sự thật hiển nhiên trong cuộc đời tôi, cuộc đời ấy hơn một nửa thế kỷ chịu bao cam go mới có tư liệu thật, tư liệu sống để viết lại. Cuốn hồi ký trước hết tôi dành cho con cháu, đồng chí thân thiết, sau nữa dành cho những ai quan tâm đến thời cuộc, hoặc quan tâm đến tác giả, đọc để rút ra một chút gì có ích cho mình, hoặc đọc giải trí cho khuây khoả tuổi già, hoặc khích lệ lòng ham muốn cho tuổi trẻ. Được như vậy cũng là cách làm giàu và phong phú tư duy cho mọi người chứ sao? Đó cũng là một phần “biển sướng tinh thần” vô cùng quan trọng đối với những ai quan tâm đến sự nghiệp xây dựng cơ sở, vật chất cho chủ nghĩa xã hội chứ sao?
Ý thứ hai: Rút ra từ những trang hồi ký, người ta có thể thấy: Muốn thế giới tồn tại và phát triển lành mạnh được, đòi hỏi phải có những cái đầu trí tuệ mới có thể khắc phục biết bao nhiêu khó khăn, ví như:
- Về thiên nhiên: Trời đất xoay vần, nóng lạnh, bão tố, lũ lụt, mưa gió thất thường, không theo quy luật nhất định và con người không thể lúc nào cũng dự đoán, nắm bắt chính xác được. Điều đó không chỉ do thiên nhiên, mà còn do ý thức thiển cận, thiếu học vấn của con người cộng với lòng tham không đáng có, tất cả đã tác động vào thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm thủng tầng ôzôn, gây ra nóng lạnh thất thường, băng giá, tuyết tan... khó lòng khống chế được.
- Về con người: Con người ta bản chất bao giờ cũng có hai phần: Phần Con và phần Người. Nếu không học tập rèn luyện, không có trí tuệ thì hành động cũng giống như súc vật. Thế cho nên để con người khác súc vật, mới gọi người là Con người, chứ không gọi con người là súc vật cao cấp. Đã là súc vật thì cao cấp mấy cũng không có phần Người như con người vốn có. Từ ngàn xưa con người đã biết muốn được sống hạnh phúc cho mình thì phải biết tạo cho người khác, cho đồng loại cùng sung sướng, gọi là tính nhân quần. Bởi thế các bậc chí tôn, hiền giả mới nghĩ ra bao nhiêu học thuyết, đạo lý, tìm mọi cách giáo dục, thuyết phục mọi người phải sống theo tính nhân quần ấy. Nhưng tiếc thay chỉ một số rất ít, và rất ít người đi theo, làm theo lời các bậc cứu thế đó. Còn lại số đông, nhất là những người có quyền, có thế, lại vận dụng những học thuyết cao cả để che giấu sai lầm của mình, lừa dối người khác, vụ lợi cá nhân.
Loài người qua kinh nghiệm đấu tranh, quảng đại quần chúng cũng ngày một khôn lên, biết tận dụng thế mạnh của mình, thế yếu của kẻ cầm quyền, rút kinh nghiệm sống còn: Không có cây gậy giữ thân thì không thể tồn tại được. Và những người cầm quyền cũng rút ra rằng dù mạnh mấy mà không có một cơ chế quản lý vững thì cũng dẫn đến: “Nhất đại vi quan, vạn đại vi dân”. Lúc đó sẽ như câu ca dao: Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Bao giờ trời nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa.
Bởi vậy kẻ cai trị và người dân bị trị gặp nhau ở một điểm là phải tìm ra một khuôn khổ để cùng nhau tồn tại, ai cũng được bình đẳng, sung sướng. Cái khuôn khổ đó đã được các vĩ nhân qua nhiều thời đại cố gắng tìm ra, nhưng nó có mặt hay, có mặt dở, không cái nào trọn vẹn. Tất nhiên theo quy luật tiếp thu truyền thống những phát kiến sau thường có mặt tiến bộ, hợp lý hơn trước. Cho tới khi học thuyết của Marx ra đời, nó mang tính nhân văn cao hơn hẳn, có sức thuyết phục hơn hẳn.
Nhưng dù sao đó mới chỉ là học thuyết, chưa có thực tế kiểm nghiệm. Rồi Cách mạng tháng 10 Nga năm 1917 Lênin đã đem học thuyết vĩ đại đó áp dụng vào một đất nước rộng 1/6 địa cầu, là người có công rất lớn. Ông vận dụng sáng tạo học thuyết của Marx vào nước Nga, đem lại một số kinh nghiệm cho loài người. Việc Stalin lãnh đạo nước Nga làm nên chiến thắng kỳ diệu chống phát xít Đức là nhờ tinh thần quật cường của dân tộc Nga, kết hợp với tính quyết liệt, bất chấp nguy nan và thiên tài quân sự của người lãnh đạo tối cao làm nên. Hơn ai hết dân tộc Nga hiểu rằng phải đánh thắng phát xít Đức mới mong thực hiện được ý tưởng của Marx - Lênin. Đó là động lực tinh thần quan trọng, là quyết tâm biến ước mơ thành hành động của nhân dân Liên Xô. Khi thế chiến thứ hai kết thúc, vòng nguyệt quế với bao lời tung hô chiến thắng, đã tạo nên một đám mây đen che phủ trong đầu những người lãnh đạo đất nước rộng nhất thế giới này. Sự vinh quang làm cho họ mê mụ, hay phần lớn những cái đầu hạn hẹp kiến thức đã trút hết trí lực vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại rồi, nay số kiến thức dành cho việc xây dựng và phát triển đất nước đã không nhiều lại bị đám mây đen nói trên che phủ, nên suy tư cho kinh tế của các vị đã không đáp ứng được với thời cuộc.
Những vị lãnh đạo đó không còn đủ trí tuệ tìm ra con đường dẫn dắt dân tộc từng bước tiến lên xã hội chủ nghĩa, dân giàu nước mạnh, lại thêm lòng ham hố vinh quang, quyền lực, tạo ra sự “kiêu ngạo cộng sản”, nước lớn nước bé, dân tộc đa số, dân tộc thiểu số, khiến ngày càng đi xa với thực tế cuộc sống của dân. Đã vậy cuộc sống hòa bình sau bao năm hy sinh gian khổ sinh ra sự ham muốn hưởng thụ ở họ không có bờ bến. Việc làm cho tương lai, cho dân tộc đã bị coi nhẹ hoặc quên lãng, nhưng sự hưởng thụ vật chất cho cá nhân mình lại được đề cao, được quan tâm quá mức. Họ quên rằng với cuộc Cách mạng tháng 10, với cuộc chiến tranh vệ quốc có những mặt chưa được thấu tình đạt lý, còn bao việc phải làm, còn tồn dư sự thù hận trong nội bộ dân tộc. Trong khi đó những lực lượng đối kháng lại là những người thực tế, biết thân biết phận, xoay vào củng cố và phát triển lực lượng hùng mạnh, tìm những cái hay của chủ nghĩa Marx - Lênin để rút kinh nghiệm, vận dụng, đồng thời tìm những khe hở của Liên Xô và các nước Đông Âu tranh thủ phân hóa bằng mọi cách rất tinh vi. Đến khi chín mùi, họ làm cho nó tự đổ vỡ từ bên trong, không ai cứu vãn nổi. Bài học đó không bao giờ nên quên.
Đáng lưu ý là phe đối kháng không ngừng mở rộng dân chủ, đào tạo tuyển dụng người có tài, có đức để quản lý đất nước một cách tài tình. Còn Liên Xô và các nước Đông Âu thì trì trệ về lĩnh vực này. Đến mức ở Berlin, mấy hôm trước đồng chí Hônếchcơ, Tổng Bí thư Đảng Xã hội Dân chủ Đức, Chủ tịch Đông Đức, đón đồng chí Nguyễn Văn Linh sang dự quốc khánh, một ngày lễ có hàng triệu người tham dự, tung hô lời chào mừng nồng nhiệt nước Cộng hòa Dân chủ Đông Đức. Vậy mà sau một tuần đồng chí Nguyễn Văn Linh về nước, bức tường Berlin bị phá đổ, đồng chí Hônếchcơ bị bắt, bị đưa ra xử.
Còn ở Liên Xô thì 36 triệu Đảng viên Cộng sản đứng ngoài cuộc để Gooc-ba-chốp thao túng, muốn làm gì thì làm, cho đến khi đổ sụp cả thành trì cách mạng thế giới. Cho nên có thể nói sự nghiệp đất nước vững mạnh tiến lên, hay thụt lùi sụp đổ, một phần là trách nhiệm người đứng đầu nhà nước quyết định. Lên nhanh, đổ nhanh; xuống chậm, đổ từ từ cũng là do người đứng đầu. Nếu không chọn người đúng đầu có tài, có đức, quản lý đất nước có phương pháp khoa học, sáng tạo với một cơ chế chặt chẽ, thì chẳng khác gì dùng “đóm đi soi ếch”, phó mặc cho vận may rủi, thịnh suy, rồi tin vào quy luật “có thịnh, có suy” sẽ rất nguy hiểm. Nhiều nước người ta có cơ chế chính sách, có khuôn khổ pháp luật phù hợp, họ lại đào tạo, chọn lựa ra nhân tài lãnh đạo đất nước nên họ vẫn liên tục phát triển. Ta có khoa học biện chứng lại không làm được việc đó, thực là đáng tiếc.
Ý thứ ba: Việt Nam muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội bằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm công cụ xây dựng và tích lũy tập trung vốn, muốn thế chúng ta cần phải dựa vào lý luận của Marx và tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng lấy học thuyết độc lập và hoàn chỉnh. Tham khảo kinh nghiệm các nước bạn cũng rất cần, nhưng tuyệt đối không được sao chép những điều mình tâm đắc vào văn kiện của mình, làm cho nó trở nên hữu danh vô thực, không có sức sống, không có khả năng thực thi. Bài học ấy muôn thuở chính xác kể cả trong chiến tranh lẫn trong hòa bình xây dựng. Khi nào ta thực sự sáng tạo là ta thành công. Trong bất cứ quốc gia nào, vấn đề xã hội bền vững được đặt lên hàng đầu. Xã hội nào không bền vững trên linh thần đoàn kết dân tộc, dân chủ thực sự với mọi tầng lớp nhân dân thì xã hội ấy có nguy cơ sụp đổ. Bởi vậy rất cần trên dưới đoàn kết một lòng, không ngừng trau dồi học tập, mở mang và nâng cao dân trí trên nền văn hóa truyền thống để toàn xã hội được hưởng thụ nền dân chủ đích thực.
Chúng ta đã có vị thế đáng tự hào nên trường quốc tế vì đánh thắng đế quốc Mỹ, một nước giầu mạnh nhất toàn cầu, hầu hết các nước khác đều nể sợ. Thế mà dân tộc ta đã chiến thắng. Cuộc kháng chiến thần thánh ấy góp vào kho báu lịch sử dân tộc như một tài sản vô giá. Có những người ngoại quốc chỉ muốn đến Việt Nam một ngày, để chiêm ngưỡng xem hình dáng lẫn trí tuệ người Việt Nam thế nào, mà dám đánh và đánh thắng đế quốc Mỹ. Đó là một lợi thế vô cùng quan trọng. Nhưng sau ba mươi năm chiến thắng, chúng ta không những không bồi đắp cho nó mà còn làm mất mát đi khá nhiều lợi thế của đất nước, làm xói mòn lòng tin của chính nhân dân ta, bè bạn ta. Trong những năm qua, nhất là sau những năm đổi mới, xã hội xuống cấp quá nhanh, chưa có báo cáo năm nào nêu được chỉ tiêu xã hội như chỉ tiêu phát triển kinh tế đáng phấn khởi, ngược lại năm nào cũng nêu tệ tham nhũng chưa khắc phục như một quốc nạn, rồi nghiện hút, SIDA chưa bao giờ giảm, chỉ thấy tăng... Đã vậy sự mất đoàn kết trong Đảng, trong dân ngày càng nghiêm trọng, ức hiếp dân để xảy ra khiếu kiện liên miên. Đi đến đâu, làm việc gì cũng gặp tệ nạn hối lộ, ăn chặn. Sự tha hóa trong bộ máy công quyền mà các báo cáo của Chính phủ, của Quốc hội, của Đảng, kêu ca thảm thiết, nhưng nó vẫn cứ tồn tại ngày một nghiêm trọng. Có thể nói phổ biến cán bộ viên chức nhà nước từ hành vi nhỏ đến lớn đều liên quan đến tham nhũng. Trong khi đó một nước tư bản gần kề chúng ta là Singapore mức tham nhũng trong viên chức nhà nước không quá 5%.
Nói thế để chúng ta tìm ra nguyên nhân mà xử lý những vấn đề xã hội đáng báo động trên. Mọi việc quy lại đều do con người tạo ra và do con người quyết định tất cả. Mới thấy vị trí con người có tầm quan trọng nhường nào. Quần chúng nhân dân bỏ lá phiếu bầu ra những người đại diện họ, lãnh đạo đất nước, nếu họ có trí tuệ, biết lựa chọn người tài đức, người tìm được biện pháp xây dựng cơ chế, xây dựng luật pháp, theo rõi bộ máy thực hiện luật pháp nghiêm túc, lúc đó người dân đỡ khổ. Nhược bằng họ kém trí tuệ không biết tốt xấu, bầu bán cho xong chuyện, “quan ba cũng ừ, quan tư cũng gật”, hỏi lấy đâu ra nhân tài phục vụ lại họ.
Đó là vấn đề muôn thuở, ai cũng biết, nhưng vẫn không làm được, hoặc cố tình không làm. Nhân dân lâu nay đã tạo ra những người lãnh đạo hầu như chỉ cần chức và quyền để vụ lợi cho riêng mình, còn nhiệm vụ phục vụ nhân dân làm qua quít, che mắt thế gian.
Nhìn các nước quanh ta, những người lãnh đạo nổi danh như Đặng Tiểu Bình của Trung quốc; Lý Quang Diệu của Singapore; Mathia của Malaysia họ đều tạo cho đất nước những bước nhảy vọt... mới thấy rõ vai trò cá nhân quyết định đến vận mệnh quốc gia như thế nào. Năm 1997, một buổi chiều tôi đến biên giới giữa Malaysia và Singapore thấy hàng ngàn hàng vạn người Malaysia sang lao động ở Singapore, xếp hàng qua cửa khẩu về nước. Thế mà năm 2003 họ đã ký hợp đồng thuê hàng vạn lao động Việt Nam sang Malaysia làm việc, vì lao động trong nước quá thiếu, chỉ 7 năm họ thay đổi lao động. Còn Việt Nam cứ thiếu việc, cứ phải đi làm thuê, trong hoàn cảnh chủ quan ta thuận lợi hơn hơn nhiều. Đó là điều cần học tập bạn. Giá mà ta có được người lãnh đạo đất nước tài đức, tạo nên bước ngoặt phát triển nhanh cho nhân dân đỡ khổ, không phải đi làm thuê cho nước ngoài thì đâu đến nỗi phải chịu bao cảnh nhục nhã, rắc rối đến với người đi lao động đã được phơi bày trên báo chí gần đây.

Ông cha ta nói “Một người biết lo bằng kho người biết làm” để đề cao vai trò nhân tài của mọi thời đại. Vì chính nhân tài mới là người tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho đất nước. Những nhà lãnh đạo nên luôn luôn chú trọng đến câu: “Bỏ sót nhân tài là có tội với quốc gia”, mà tổ chức tuyển chọn kỹ càng, công khai, chính xác. Không nên để đến Đại hội mới bàn ra tán vào, có khi người nỏ mồm, nịnh hót, gáy hay lại được tuyển lựa, người thầm lặng, thật thà, tài đức thật sự lại bị bỏ quên. Không phải ít những nhà lãnh đạo gặp vài lời nói trái ý mình đã vội vàng thành kiến, trù dập. Bởi thế họ chỉ thích người xu nịnh, lựa chiều (mà số người xu nịnh ít khi có tài, trình độ trí tuệ kém) kết quả có khi tuyển lựa phải người dốt nát. Nếu dốt lại nhiệt tình nữa thì như Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi sinh thời đã nói: “Dốt nát cộng với nhiệt tình thành phá hoại”. Nhỡn tiền chúng ta cũng thấy điều đó ở một vài người rồi. Đó cũng là bài học quý cho việc chọn lựa nhân tài vậy.
Nhưng nếu nhà nước may mắn đã chọn được nhân tài, lúc ấy lại cần một sự tin cậy trao phó cho họ nhiệm vụ lãnh đạo đất nước, không can thiệp. Bởi vì họ có hệ thống tư duy thống nhất, nếu bị xen vào, bị ức chế đôi khi sẽ làm phá vỡ kết cấu kế hoạch, hỏng cả đại sự quốc gia. Kết thúc tập hồi ký này, tôi mong nó góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Tôi ao ước sao mọi người đi đâu cũng có thể ngẩng cao đầu tự hào là người Việt Nam văn minh, giàu đẹp, có văn hóa, có trí tuệ. Muốn làm được thế phải thực hiện lời Bác Hồ đã dậy: “Muốn có chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Lời nói đó nghe nhiều cũng quen tai, nhưng thực là chí lý, làm được khó lắm. Cho nên ta phải chịu nghe, chịu nhắc lại để thấm nhuần câu nói của Bác. Nhiều năm qua tôi cứ suy ngẫm mãi thấy nó quả là sâu sắc, quả là thâm thuý! Bác lo xa cho Đảng cho dân tộc biết chừng nào! Nếu chúng ta không bồi dưỡng giáo dục cho có con người xã hội chủ nghĩa thì chủ nghĩa xã hội sẽ xa vời, chẳng khác nào cái bánh vẽ.
Làm người đã khó, làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều, chúng ta chỉ có cách duy nhất quyết tâm vượt qua mọi trở ngại và làm cho được, như các cụ xưa đã dạy:
Thế thượng vô nan sự
Nhân tâm tự bất kiên
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã Việt hóa tài tình và xúc tích câu thơ như sau:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Chúng ta cần bền gan vững chí làm theo lời Bác dạy.

25/8/2004
Đoàn Duy Thành
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Không chỉ con đò mà còn là tiếng gọi

Không chỉ con đò mà còn là tiếng gọi… Nói đến làng quê Việt Nam là chúng ta nhắc đến những dòng sông, bến nước, con đò đã gắn bó từ xa xưa...