Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2023

Thằng Luyến 2

Thằng Luyến 2

CHƯƠNG 15
Ngày xưa còn bé, có lần tôi đã nói với Vũ trong cách mạng đang sôi nổi rằng: Tao chán mít tinh, biểu tình, hội họp, ca hát rồi. Tao chán nhi đồng, chán bác Hồ, chán hết cả rồi. Tao chán thằng Luyến nghịch ngợm, chán thằng Lộc pha trò nhạt phếch, chán thằng Long chuyên phá thối. Tao chán cả mày luôn.
Nếu cái chán của tôi, trừ đi tất cả, còn giữ lại chán mít tinh, chán biểu tình, chán hội họp, chán bác Hồ, thì mọi đổ vỡ của đời tôi sẽ không xẩy ra, hôm nay. Nhưng mai, tôi chán bao nhiêu, rồi lại thích bấy nhiêu. Thế mới chết hết mộng ước của mình! Có lẽ, thời đại cuốn xoáy nghiệt ngã, đến nỗi những nhà đại trí thức còn lao đao, còn u mê nghiệp chướng, nữa là thằng nhóc như tôi. Cả nước say mê mít tinh. Cả nước say mê biểu tình. Cả nước say mê hội họp. Cả nước say mê gọi Hồ Chí minh bằng bác. Bác Hồ. Cụ già hơn Hồ Chí Minh ba bốn chục tuổi cũng Bác Hồ. Trẻ em cũng Bác Hồ. Người du học bên Pháp trở về như thạc sĩ Huy Thông, như tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường... hoan hỉ gọi Hồ Chí Minh là Bác. Bác Hồ vĩ đại của dân tộc. Nhạc sĩ nào biết Hồ Chí Minh bôn ba hải ngoại ra sao mà ca ngợi Cha Hồ:
Hoàn cầu vang danh Cha chúng ta Hồ Chí Minh
Một đời gian khó hy sinh luôn đấu tranh
Hận thù nung gan im máu sôi đời nổi trôi
Nhìn xa xăm mắt đăm đăm trông phía trời
80 năm qua trong lầm than sông núi ơi
Dưới ách nô vong thắt tâm can vì non nước
Tấm than cô đơn phong trần bôn ba khắp nơi
Tự do vinh quang chung lòng vun cho giống nòi
Thu nao Cha về
Hoa sao rừng người
Hồng vàng tươi thắm nước Nam reo vui
Dân tin Cha Hồ
Kính yêu muôn đời
Con thuyền Việt Nam phó trong tay Người...
Thi sĩ nào biết Hồ Chí Minh làm cách mạng ra sao mà ca ngợi mặt Người như nước Việt:
Hồ Chí Minh mặt người như nước Việt
Thấm thía mang một sức sống phi thường
Vừng trán rộng Trường Sơn trong sớm biếc
Mắt tinh anh sâu thẳm Thái Bình Dương
Và hồn Người hồn Việt Nam thuần túy
Ôi đơn sơ lời nói cảm rung sao
Bởi không muốn làm tên dân nô lệ
Nên tôi làm cách mạng bấy nhiêu lâu
Lũ chúng tôi ít nhiều đều đứt rễ
Mang nỗi buồn thế hệ ở trong tâm
Dân tộc tôi đã từng phen ngạo nghễ
Ngoảnh mặt lên cao trời lệch đất gầm
Và Người đó Hồ Chí Minh bề thế
Vẫy vùng bơi giữa biển cả gian nan
Hồ Chí Minh chỉ Người là có thể
Đưa con thuyền tổ quốc đến vinh quang
Nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ đua nhau suy tôn Hồ Chí Minh, từ ngày Cha già mới về. Trí thức trong nước, trí thức ngoài nước khiêng Hồ Chí Minh, thổi bong bóng lên tận trời xanh. Tôi chán, rồi lại không chán. Tâm hồn tôi hồi đó dễ mở rộng, đón nhận bất hạnh và hữu hạnh, khác hẳn bây giờ, khép kín mít những phản bội vào thêm lần nữa. Các bạn có phẫn nộ khi bị công khai lừa dối không? Để chuyện phản bội lại, tôi sẽ kể sau. Tôi mê độc lập khi thực dân Pháp chiếm miền Nam Bộ. Chắc Luyến còn nhớ, những đêm thị xã thức trắng, Vũ thổi ác mô ni ca và chúng ta hát những bài với địa danh xa lạ tận miền Nam để căm thù giặc Pháp.
Pháp chiếm miền Nam, chúng ta còn căm thù buốt ruột, huống chi nó chiếm miền Bắc, chúng ta căm thù nó dường nào?
Mất thủ đô Hà Nội, dân chúng phải tản cư về nông thôn. Hồ Chí Minh, sau khi tàn sát các đảng phái, hô hào toàn dân đoàn kết kháng chiến chống thực dân Pháp. Các bạn nghe rõ sáu chữ toàn dân đoàn kết kháng chiến và nhớ kỹ. Hồ Chí Minh nhờ có Pháp thực dân, nổi vun vút như một lãnh tụ chống xâm lăng vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Thị xã Thái Bình tiêu thổ kháng chiến vì yêu nước quá, vì muốn trở thành Stalingrad, quê hương Nga xô viết của Hồ Chí Minh. Tôi chưa hiểu quê hương Liên xô và Hồ Chí Minh, lúc ấy.
Các nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ và trí thức chưa hiểu nổi chăng? Và, mù tịt chuyện Khái Hưng 1 bị chết dìm trên sông, Lan Khai 2 bị cho vào rọ thả trôi dưới nước! Bởi chưa biết, hay bọn trí thức hèn hạ, bọn nghệ sĩ nham nhở vào hùa tâng bốc Hồ Chí Minh, lừa dối chúng ta, những trẻ dại khờ, chưa biết gì thật sự. Chúng nó coi Hồ Chí Minh như Chúa Giê xu.
Phạm Duy ngon cái miệng... Khi ngừng chờ gió đến, Bên bờ dòng nước trong. Ôi, tường chừng đây đó, Cha Già vọng trời Đông. Nó Cha Già khắp nơi... Bên đây là phía tự do, vẫn được Cha Già làm toàn dân ấm no. Còn nhiều nữa. Khi chúng ta rõ công ty bịp bợm Hồ Chí Minh làm chủ, và trí thức, nghệ sĩ làm công nhân; chúng ta nghĩ sao đây?
Tiêu thổ kháng chiến xong, tôi về Ô Mễ sống nồng nhiệt hơn năm tổng khởi nghĩa. Bố tôi là một địa chủ lãng tử, không biết có bao nhiêu ruộng và bán bao nhiêu, còn lại bao nhiêu. Bố tôi, một tay ăn chơi ở thị xã, chẳng phiền chi ai. Dạo thầy Trần Cao Đàn bị Nhật bắt hụt, bố tôi thận trọng yêu nước. Đến ngày tản cư về làng, bố tôi bị ăn bùa mê cháo lú của Cách Mạng hay sao ấy, bố tôi bốc đồng, biến căn nhà ba tầng thành quán trọ của cán bộ Chính phủ dân chủ cộng hòa. Tôi có dịp gặp nghệ sĩ nổi tiếng Hà Nội. Và, cán bộ cấp cao. Tố Hữu, chẳng hạn. Chính Tố Hữu đã khuyên tôi đủ tuổi vào Trường lục quân Trần Quốc Tuấn trên Sơn Tây mà học. Học lớp sĩ quan cho hách. Ba năm trời tiếp đã cán bộ, không biết bay đi bao nhiêu mẫu ruộng, bố tôi chẳng để ý. Người ta khuyến khích bố tôi nâng đỡ nghệ sĩ cải lương. Bố tôi bèn làm chủ gánh hát Thống Nhất, đi lưu diễn khắp vùng. Tôi có dịp sang Đống Năm gặp Luyến chuyện trò. Luyến nhớ chứ? Tôi thấy Luyến mê học, không thích nói về cách mạng, không ham vào bộ đội. Tôi bất bình. Bạn thân Monguillot của tôi như Vũ đã đi liên lạc viên, như Long, Lộc đã gia nhập bộ đội. Người nào cũng hiểu trách nhiệm của mình trong buổi chống thực dân xâm lăng. Lê Huy Luyến nghịch ngợm đã hết nghịch ngợm, trở nên ông cụ non thích triết lý vặt. Hình như, thời đại này, bước chân của chúng ta như bước chân phù thủy, đi rất xa và bước rất nhanh. Bây giờ, tôi hiểu triết lý sống của Luyến vững chắc vô cùng. ít ra, Luyến chẳng bị cách mạng phản bội.
Cuối 1949, trước khi đi Sơn Tây, tôi có đến Tường An thăm gia đình em Khoa. Bấy giờ, tôi hơi sợ. Các bạn biết tôi sợ gì không? Tôi sợ bạn bè xa nhau, xa thật lâu, và lớn lên, lớn thật mau, chắc sẽ ngỡ ngàng, lạnh nhạt. Không ngỡ ngàng, lạnh nhạt gì cả. Tôi mừng lắm.
Vừa mới tới Sơn Tây, tôi được tin Pháp chIếm Thái Bình. Bố tôi nói, hôm gặp lại tôi, bố tôi hồi cư thị xã, hai tuần sau, cả gia đình tôi vào Hà Nội. Bố tôi nhục nhã, không dám ở Thái Bình hồi sa sút nữa. Bố tôi ôn lại dĩ vãng, chợt tỉnh ngộ, vì biết cách mạng cho vô tròng. Cách mạng đã rút hết ruộng đất của bố tôi, biến địa chủ lãng tử thành bần cố nông tay trắng mà vẫn bị đấu tố vì quá khứ của mình.
Ông nội tôi đã khuyến cáo, bố tôi không nghe. Các bạn hãy tưởng tượng xem, thằng Tố Hữu đã nghĩ gì khi ăn uống ê hề ở nhà tôi? Chắc nó cười mục mả bố tôi?
À, tôi nói về đi học Trường lục quân Trần Quốc Tuấn cho các bạn nghe... Đầu năm 1950, trường mở khóa mới. Tôi đến đúng dịp. Số đen đến với tôi, không học lục quân mà học đấu tranh giai cấp. Trước khi đấu tranh giai cấp, tôi phải phân loại giai cấp trong xã hội Việt Nam. Có tưng đây giai cấp: Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp vô sản, giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản.
Có một Đảng ra đời để lãnh đạo giai cấp đấu tranh, gọi là Đảng lao động, thực ra, chính nó lả Đảng cộng sản do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Các bạn khỏi gọi nó là cách mạng, là Việt Minh nữa. Cứ gọi đích danh là CộNG SẢN.
Phân loại giai cấp xong, tôi phải nhặt thành phần mà định giai cấp của nó. Thợ nhà máy điện, thợ sửa ô tô, thợ nhà máy nước, thợ làm gạch ngói... thuộc giai cấp công nhân. Phú nông, trung nông, bần cố nông thuôc giai cấp nông dân. Không có nghề nghiệp, học hành, tiền bạc thuộc giai cấp vô sản. Tỉ phú, triệu phú, trọc phú, buôn bán giầu có, địa chủ ác ôn, cường hào ác bá thuộc giai cấp tư sản. Trí thức tiêu cực, trí thức làng nhàng thuộc giai cấp tiểu tư sản. Trí thức tích cực, trí thức yêu nước không có giai cấp riêng biệt, có thể cho vào giai cấp vô sản. Công nhân vốn ít hơn nông dân nên gộp chung giai cấp công nhân và giai cấp nông ndân thành giai cấp công nông. Công nông với vô sản là một, nên gọi là giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản là cộng sản đấy!
Quê hương của người cộng sản không phải nước Đức của Karl Marx và nước Anh của Friedrick Engels, mà là Liên xô của Vladimir Ilttch Lénine và Joseph Staline. Quê hương của người cộng sản Hồ Chí minh không phải nước Việt Nam. Bởi thế, Hồ Chí Minh mới ra lệnh tiêu thổ kháng chiến thị xã Thái Bình, biến thị xã thành Stalingrad để nịnh hót Liên xô.
Các bạn biết tôi, Đặng Xuân Côn, thành phần gì, giai cấp nào? Thưa các bạn, tôi thành phần địa chủ ác ôn, giai cấp tư sản! Giai cấp của tôi là kẻ thù không đội trời chung với giai cấp vô sản.
Giai cấp vô sản có Đảng công sản đầy đủ pháp luật và thừa thãi vũ khí, tàn sát giai cấp tư sản chỉ có nước chết. Ôi, các bạn nghĩ xem, từ bốn nghìn năm nay, có ai chia rẽ tình người một cách thâm hiểm như cộng sản? Chúng ta sinh ra để sống hòa thuận với nhau, dù hạnh phúc hay không hạnh phúc. Cuộc đời chỉ có hạng giầu và hạng nghèo. Giầu vì được Trời thương và chăm chỉ làm việc. Nghèo vì chưa được Trời thương và lười biếng làm việc. Oán ức thì nhìn lên Trời than vãn. Trời phán một câu: Ai giầu ba họ, ai khó ba đời. Nghèo đã thỏa mãn rồi, chăm chỉ làm việc, Trời sắp cho giầu đến nơi. Cộng sản muốn hơn Trời, khác Trời. Cộng sản phán: Này, anh chị em bần cố nông thân mến, tại sao anh chị em nghèo khổ, không có cơm mà ăn, không có áo mà mặc, không được làm người vậy? Đó là bọn địa chủ gian ác đã bóc lột anh chị em, năm này qua tháng nọ. Nó không bóc lột hiện tại, đã bóc lột quá khứ. Phải thẳng tay đánh đập chúng nó, của ta làm ra phải trở về ta. Bần cố nông không thích đấu tố địa chủ, cộng sản bắt phải đấu tố, phải học đấu tố.
Nhạc, thơ và chính trị ngày nào cũng nhét vào lỗ tai bần cố nông. Riết rồi, họ căm thù địa chủ thật sự. Người này thù người nọ. Người nọ thù người kia. Cả nước thù lẫn nhau. Vì giai cấp. Cộng sản sinh giai cấp và bắt thù hận. Giai cấp, nói theo Vũ thuở tiểu học, là cái củ thìu biu. Thời đại có cộng sản nó đẻ ra gian dối và hận thù. Chúng ta đã chiến đấu cho công sản, chứ không cho dân tộc. Cộng sản đã loại bỏ Vệ quốc đoàn, thành lập Quân đội nhân dân đấy, các bạn ạ! Lính giai cấp tiểu tư sản đã bị lính giai cấp vô sản đá cái vèo. Thế mà Hồ Chí Minh gian dối bảo là toàn dân kháng chiến.
Hồ Chí Minh mong mỏi từ ngót năm năm phải có ngày được tuyên bố cuộc kháng chiến này của riêng cộng sản và chỉ cộng sản mới lãnh đạo thành công. Toàn dân ra rìa. Cộng sản dã dọn trước một lối đi. Giảo quyệt thật. Chúng ta sẽ hứng chịu chia rẽ và hận thù. Anh em mình chơi với nhau thân thiết, biết giai cấp là gì! Cộng sản còn tuyệt đối cấm con người yêu thương gia đình. Tôi đã đọc báo Văn Nghệ, tường thuật lễ mãn khóa lớp chỉnh huấn, và tôi bất bình giùm thi sĩ Yên Thao. Các bạn đọc bài thơ Nhà tôi chưa nhỉ? À, còn nhiều thì giờ chán, tôi đọc cho các bạn nghe:
Tôi đứng bên này sông
>Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đầy xạm đen mầu huyết đọng
Tre cau buồn ủ rũ ướt mưa sương
Mầu trắng vôi lồm lộp mấy khung tường
Nếp đình xưa người hỡi đau gì không
Tôi là anh lính chiến
Rời quê hương từ độ máu khơi dòng
Buông tay gầu mơ lại thuở bình Mông
Ghì nấc súng nhớ ôi ngày đắc thắng
Chân chưa vẹt trên nẻo đường vạn dậm
Áo nào không phai bạc chút mầu xưa
Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu buồn lấp lánh sao lưa thưa
Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ
Tuổi chớm đôi mươi cưới buổi dâng cờ
Má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín
Ai ra đi mà chẳng từng bịn rịn
Rồi chia ly nào đã mấy ai vui
Em lặng buồn trong giây phút chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ
Tôi còn người mẹ
Tóc đã ngả mầu bông
Tuổi già non thế kỷ
Lưng còng chĩu nặng kiếp long đong
Nắng mưa từ độ tang chồng
Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon
Thôi xa rồi mẹ ơi
Cơ chừng chợt tỉnh đêm vơi
Nghe ròn tiếng súng nhớ lời chia ly
Mẹ ơi con mẹ tìm đi
Bao giờ hết giặc con về mẹ vui
Đêm nay lành lạnh
Sông sâu buồn lấp lánh sao lưa thưa
ống quần nâu đã vá mụn giang hồ
Chắc tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi đó bên trại thù quạnh quẽ
Trông im lìm như một nấm mồ ma
Có còn không em hỡi mẹ tôi già
Những người thân yêu khóc buổi tôi xa
Tôi là anh lính chiến
Theo đoàn quân về giải phóng quê hương
Mái đầu xanh bụi viễn phương
Bước chân đất đạp xiêu dồn lũy địch
Này anh đồng chí
Người bạn pháo binh
Đã đến giờ chưa nhỉ
Mà tôi nghe như trại giặc tan tành
Anh rót cho khéo nhé
Kẻo nhằm trúng nhà tôi
Nhà tôi ở cuối thôn Đoài
Có giàn thiên lý có người tôi yêu 3
Tố Hữu, cái thằng ăn dầm ở dề nhà tôi ấy mà, người cộng sản chống tiểu tư sản đã đành, còn chống luôn tình cảm tiểu tư sản, văn nghệ chiều hướng tiểu tư sản, nhãn quan tiểu tư sản. Tình cản của người tư sản đơn giản thôi. Có biết yêu làng mới biết yêu đất nước mình. Có biết yêu nước mình mớ1 biết yêu thế giới. Có biết yêu cha mẹ mình, vợ con mình, đồng bào mình mới biết yêu nhân loại. Như thế, khác hẳn người cộng sản Tố Hữu không yêu ai, không yêu cái gì, mà chỉ yêu quốc tế, làm nghĩa vụ quốc tế. Bởi vì, người cộng sản không cha mẹ, không vợ con, không anh em, cao thượng một cách giả hình:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh vạn mái đầu em bé
Không áo cơm cù bất cù bơ 4
Người cộng sản Tố Hữu là con của vạn nhà bất lương, là em của một vạn con đĩ, là anh của một vạn thằng ăn cắp, móc túi. Tố Hữu đã mượn uy thế lãnh đạo văn nghệ để phê bình Yên Thao cạn tầu ráo máng. Không nhắc tới tình thương mẹ, tình yêu vợ của Yên Thao, Tố Hữu chỉ đem Nhà tôi đánh nát tình cảm tiểu tư sản. Anh sợ đạn rớt lầm nhà anh thôi à? Còn nhà nhân dân, nhà giai cấp vô sản, nhà cộng sản, anh không thèm chú ý. Rõ là thi ca tiểu tư sản ích kỷ và xa rời tình tự giai cấp!
Các bạn của tôi ơi, tôi đã ghê tởm cộng sản, tôi nhìn đâu cũng toàn cộng sản giả hình. Tôi đang nói chuyện của tôi, lại quàng sang chuyện văn nghệ, đọc thơ Yên Thao. Có lẽ thù hận làm tôi điên rồi! Tôi tiếp tục nốt chuyện tôi. Các bạn cảm phiền nhé!
Đến đâu rồi nhỉ? À, học tập chia giai cấp và xếp thành phần, tôi biết tôi là địa chủ ác ôn! Lính giai cấp nông dân không chấp nhận sĩ quan địa chủ. Tôi cảm thấy sắp rắc rối to, vội trốn về Hà Nội ở với ông bác. Tôi gặp bố tôi ở đây.
Bị sốt rét rừng, Tôi nằm chữa bệnh mất mấy tháng. Tôi định không bao giờ trở lại Thái Bình khi mình mẩy sưng lên những mụn thất bại. Ông tôi đã bị cộng sản sát hại ghê tởm. Ông tôi chết thảm không phải địa phương làm sai đâu, mà nằm trong chính sách của Đảng cộng sản. Tại sao cộng sản đi bắt một ông già mù lòa nằm trong cái rổ xề để ông ấy đói khát chết dần? Tại sao? Tại sao? Truy nguyên ra, ông tôi đảng viên cao cấp của Việt Nam quốc dân đảng, thời Nguyễn Thái Học. Khi Nguyễn Thái Học và các dồng chí lên đoạn đầu đài, ông tôi chán nản, vì tinh hoa của Việt Nam quốc dân đảng chết hết cả rồi. Ông tôi ngưng hoạt động, tuyên bố công khai về quê làm ruộng và quên hết chuyện đời. Mọi người đều tin thế. Cộng sản không tin thế. Với cộng sản, đã là Việt Nam quốc dân đảng, sẽ mãi mãi là Việt Nam quốc dân đảng. Đảng viên của bất cứ một đảng nào ở Việt Nam, chỉ thanh trừng, không có hồi hưu! Cộng sản chưa giết ông tôi vì chưa muốn giết. Thế thôi. Thời đại tranh tối tranh sáng, Vũ Hồng Khanh trốn về Hà Nội làm Bộ trưởng thanh niên, cộng tác với Bảo Đại; Phạm Phan Côn làm tới chức vụ Giám đốc... Họ đều là Việt Nam quốc dân đảng, đàn em của ông tôi. Cộng sản giết ông tôi để cảnh cáo Việt Nam quốc dân đảng sắp ùn ùn cộng tác với Bảo Đại.
Chao ôi, giết một người già nua, mù lòa trong cái rổ xề, phơi giữa cánh đồng, cộng sản vẫn nhận là tinh hoa của loài người. Thế đấy. Cộng sản quên những tháng năm ăn dầm năm dề ở nhà con trai người già nua, mù lòa! Vô nhân đạo, vô nhân đạo. tội ác của cộng sản múc hết nước sông Trà Lý rửa không sạch. Bố tôi được tin ông tôi bị cộng sản sát hại, mang tiếng bất hiếu, không dám về Ô Mễ.
Tôi phải về. Về tận Ô Mễ. Ôm lấy huyệt mộ ông tôi. Cho hận thù ngập trái tim. Tôi, bây giờ, những người không kháng chiến là bạn tôi; những người kháng chiến cho cộng sản là kẻ thù tôi, đồng lứa cộng sản. Lập trường dứt khoát. Cộng vản đưa tôi vào con đưòng máu duy nhất. Là chiến đấu tiêu diệt cộng sản...
Chú thích:
1. Khái Hưng, nhà văn nổi tiếng thời tiền chiến. Vencuzenđơ bị Việt Minh thủ tiêu năm 1946.
2. Lan Khai, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử, bị học trò Việt Minh thủ tiêu 1946, vì Vencuzenđơ.
3. Yên Thao làm có bài Nhà tôi. Trong cuộc chỉnh huấn 1950, bị lãnh đạo văn nghệ Tố Hữu phê bình sát ván, Yên Thao không thèm làm thơ nữa.
4. Tố Hữu, lãnh tụ văn nghệ hồi Hồ Chí Minh còn sống. Bốn câu thơ trên trích trong tập thơ Từ ấy. Năm 1986, Tố Hữu bị thanh trừng.
CHƯƠNG 16
Luyến, Ngọc và Khoa ngồi im lặng hàng tiếng đồng hồ. Không cắt ngang câu chuyện, không thắc mắc điều chi. Cứ mặc Côn diễn thuyết trước ba người thân yêu. Nói dài. Nói lung tung. Kệ Côn. Luyến im lặng, kính trọng nỗi đau khổ của Côn. Luyến hiểu đang cùng cực trong nỗi khổ, Côn cần phải nhả ra cho vơi bớt những phiền tủi, đau đớn chứa chất trong lòng. Côn có tâm sự cay đắng. Sự cay đắng làm vàng võ một đời người. Luyến vẫn để dành những giọt nước mắt cho Côn. Nếu nó bị cuộc đời xua đuổi. Côn đã bị cách mạng xua đuổi. Côn đã bị cộng sản, theo ý Côn, xua đuổi. Năm năm trời, Côn cũng giống Vũ, giống Long, giống Lộc, đem hết nhiệt tình dâng cách mạng. Khốn nỗi, cách mạng lại dối gạt Côn, lừa đảo niềm tin của Côn. Để bây giờ, Côn đâm ra thù hận cách mạng. Chẳng có cách mạng cách mung, Việt Minh việt meo gì hết. Cách mạng giả hình đã hiện nguyên hình cộng sản. Côn nghĩ thế. Có lẽ đúng. Cuộc đời bao la. Công sản bé nhỏ. Cuộc đời chưa xua đuổi, không xua đuổi Côn. Luyến vẫn để dành những giọt nước mắt khóc Côn.
Từ ngày về thị xã, Luyến trải thân mình rộng ra như tấm da thú, chịu đựng bao nhiêu mũi tên tẩm thuốc độc oan nghiệt bắn vào. Những mũi tên đó, Luyến tưởng đã là khủng khiếp của thời đại chiến tranh. Nó bị xóa mờ đi, khi Côn đề cập giai cấp trong chủ nghĩa cộng sản. Phân chia giai cấp để chia rẽ tình người, để con người thù hận con người, để dân tộc chém giết nhau. Và ly tán. Chả biết đấu tranh giai cấp có lợi gì cho cộng sản? Chỉ biết con người đã nghi kỵ con người, đã căm phẫn con người, đã đề phòng con người. Vì, sắp có đấu tranh giai cấp, máu sẽ như nước lũ, ào ạt chẩy tự rừng núi xuống đồng bằng. Giai cấp là trò chơi khốn nạn nhất của cộng sản.
Dân Thái Bình đã chết đói cơ man, đã chết bom đạn vô số, lại sắp chết giai cấp đấu tranh, nếu cộng sản giải phóng Thái Bình. Chưa thấy bần cố nông đấu tố địa chủ ác ôn. Đã thấy con địa chủ hốc hác, già đi, tưởng chừng quên thời tuổi vàng hoa mộng vì học tập chia giai cấp, phân loại thành phần và hiểu mình thuộc thành phần nào, giai cấp nào. Luyến không ác cảm với cộng sản, nhưng phân chia giai cấp, Luyến phẫn nộ. Và thương Côn.
Chiều tối hôm qua, Luyến đến nhà Khoa gặp Côn. Luyến bàng hoàng thấy Côn già đi nhiều quá. Đặng Xuân Côn hôm nay khác hẳn thằng Côn năm xưa. Năm xưa, thằng Côn thắc mắc độc lập là gì, thực dân là gì, phát xít là gì, Việt gian là gì, thì thằng Luyến đíu thắc mắc, cứ nằm một chỗ chơi; rủ đi nghịch ngợm, thằng Luyến đi liền. Thằng Côn chê thằng Luyến nhút nhát, sợ hãi Nhật lùn. Bẩy năm rồi, Côn mới tiếc giá như Luyến. Mỗi người có một đời. Côn tiếc làm chi. Luyến kể chuyện thị xã những tháng năm vắng Côn, Vũ, Long, Lộc. Nó khôi hài mất một chân. Côn cười. Luyến không quên nói với Côn những gì xẩy ra cho nó và Ngọc. Hai đứa yêu nhau và sẽ cưới nhau. Côn không xúc động, chúc Luyến và Ngọc hạnh phúc suốt đời. Chỉ muốn làm cho Côn ngạc nhiên, nên còn dấu thằng Vọng ghẻ tầu. Luyến dặn Khoa đừng nhắc gì tới Vọng, cả cha mẹ Khoa nữa. Cứ để mặc Côn tưởng Vọng đã chết đói năm Ất Dậu.
Sáng nay, Luyến mời Côn về nhà mình. Có Ngọc và Khoa.
- Nói nữa đi, anh Côn! Nói nhiều cho ẩn ức nó trào ra, mình sẽ hết ẩn ức.
Ngọc tha thiết đề nghị.
- Nhiều ẩn ức lắm, Ngọc ạ! Chẳng bao giờ hết nổi. Họa khi nào cộng sản chết hết.
Côn buồn rầu trả lời.
- Ai cũng có niềm ẩn ức. Anh Luyến ẩn ức hơi nhiều. Nhờ anh chịu suy nghĩ và viết lên giấy, ẩn ức của anh vơi đi. ẩn ức trong cuộc đời còn mãi. Anh Côn biết không, từ Luyến nghịch ngợm đến Luyến cụt chân, bây giờ anh ấy định cư ở Luyến tiểu thuyết.
Ngọc vui vẻ nói.
- Mày viết văn đấy hả, Luyến?
Côn hỏi.
- Đang tập viết.
Luyến đáp.
- Anh Luyến đinh viết cuốn Cầu Bo trầm lặng. Cầu Bo, chứng tích lịch sử của Thái Bình.
Khoa nói.
- Có thể, mày sẽ hay hơn các nhà văn nổi tiếng tiền chiến. Chưa ai dám nghĩ viết cuốn tiểu thuyết lịch sử về tỉnh mình đâu, Luyến ạ!
Côn nói.
- Luyến cụt chân hết làm Luyến nghịch ngợm, tất phải năng suy nghĩ. Luyến bây giờ làm việc bằng đầu óc. Làm việc bằng đầu óc không ai bì nổi, dẫu họ có trăm ngàn tay chân.
Côn nói.
- Anh thấy chưa, Luyến. Em nói có sai đâu. Anh Côn cũng bảo Luyến đầu óc mà...
Ngọc thích chí khoe.
- Biết viết văn là nhất rồi. Mình có thể bỏ tù Hồ Chí Minh vạn vạn năm. Trong tù, Hồ Chí Minh sẽ than: Bầy trò phân chia giai cấp là hèn, đốn mạt. Người ta sinh ra để được sống no ấm bên nhau, chứ đâu phải để thù nhau, ghét nhau.
Côn nói.
- Thời đại sẽ xoay vần, nghiến nát cộng sản. Chúng ta nên chờ đợi, vì chúng ta chống sao nổi thời đại. Cộng sản, tư bản đang chiến tranh lạnh. Cả hai đều là những con ốc của thời đại được dịp múa may quay cuồng. Hết dịp thì chỉ là sắt vụn rỉ, chả ai thèm biết tới. Thử nghĩ xem, ai mạnh bằng Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn, chiếm từ Á sang Âu. Người thù của mặt trời Thành Cát Tư Hãn đi tìm mặt trời để giết, vì mặt trời cứ tối, làm quân Mông Cổ phải dừng chân nghỉ ngơi, không tung vó ngựa đi chinh phục được. Sau Thành Cát Tư Hãn là gì? Một miếng đất cằn cỗi, thiếu nước, nghèo khổ cho dân Mông Cổ. Thời đại nó xoay, ai ngờ được. Ai mạnh bằng đế quốc Babylone, La Mã? Thời đại nó xoay, Babylone chìm xuống biển, La Mã bị lãng quên, không biết tên nước nữa. Ấy đó, thời đại luôn luôn xoay vần. Ai giỏi hơn Hitler, ai khỏe hơn phát xít Đức, Nhật? Thế mà cũng tiêu. Cộng sản đang ở chu kỳ rực rỡ, nó sẽ leo cao tuyệt đỉnh, rồi sẽ xuống đất đen. Cần gì phải bỏ tù Hồ Chí Minh?
Luyến nói.
- Mày là nhà văn, mày có quyền nghĩ xa xôi, làm việc xa xôi. Tao là chiến sĩ, chỉ nghĩ đến chuyện trước mắt. Và, trước mắt tao đang lù lù mấy thằng cộng sản. Giết nó đi, khỏi chờ thời đại xoay vần.
Côn nói. Rồi im lặng. Luyến đốt thuốc lá. Côn cũng vậy. Hai đứa cùng nhả khói và nhìn nhau, cùng cười.
- Giá, có thằng Vọng nhỉ?
Luyến nói.
- Nó chết rồi. May cho nó. Nếu nó còn sống, nó sẽ là kẻ thù của tao. Bố nó công nhân. Chết vẫn để lại giai cấp! Mẹ nó người bán hàng rong. Vọng thuộc giai cấp vô sản. Tao thành phần địa chủ ác ôn, giai cấp tư sản. Hai giai cấp đánh nhau. Phần chết sẽ về tao.
Côn nói.
- Khi nó chơi với chúng mình, nó có biết giai cấp là gì không? Thằng Vũ, con ông buôn bán hàng chuyến giai cấp gì? Thằng Long, con ông bán hàng sắt, giai cấp gì? Thằng Lộc, con ông chủ hiệu xe đạp, giai cấp gì. Mày giai cấp gi? Tao giai cấp gì? Mà vẫn chơi với nhau khắng khít.
Luyến nói.
- Dạo ấy, chưa có cộng sản.
Côn nói.
- Mày nghi oan cho thằng Vọng rồi, Côn ạ!
Luyến nói.
- Không oan, nếu nó còn sống.
Côn nói.
- Anh Vọng vẫn còn sống, anh ạ!
Khoa nói.
- Nó chết rồi mà.
Côn nói.
- Tháng 11, 1950, anh ấy còn đóng quân ở làng em. Bây giờ, chắc anh ấy đã đổi đi nơi khác.
Khoa nói.
- Vọng còn sống, lạ nhỉ.
Côn nói.
- Không lạ đâu. Khoa kể chuyện anh Vọng cho anh Côn nghe đi.
Luyến nói.
Khoa thuật từ đoạn Vũ, Côn, Luyến, Long, Lộc đem cơm bánh đến cứu Vọng. Lần này, không bị người đói cướp giật. Vào đến nhà, không có Vọng, chỉ thấy mẹ Vọng đã chết. Tất cả đều cho là Vọng chết giúi ở chỗ nào. Thực ra, cách đấy ba ngày, thầy Nguyễn Công Hoan sai người đến cứu Vọng, đem Vọng xuống Tiền Hải. Từ đó, Vọng học làm cách mạng. Vì bận nhiều việc, Vọng không về thị xã. Cho đến tháng 9, 1950, Vọng về Tường An, làm chính ủy trung đội và khuyên gia đình Khoa vào thị xã, càng nhanh càng tốt. Nếu gia đình Khoa ở lại, Vọng đi khỏi, bộ đội mới về, có thể sai chính sách, thi hành lầm, gia đình Khoa sẽ gặp nhiều oan trái. Khoa nói ba người thương Vọng nhất trên đời là Vũ, Côn, Luyến. Vọng đã khóc. Vọng bắt Khoa kể chuyện đá bóng năm xưa, hỏi Vũ, Côn, Luyến ở đâu, làm gì. Vọng mừng khôn tả. Vọng có tên mới: Kỳ Bá. Vọng bảo Khoa muốn gọi là Vọng hay Kỳ Bá cũng được. Khoa vào thị xã cuối năm 1950. Vọng từ biệt Khoa và hứa gặp Khoa ngày giải phóng thị xã.
- Thầy Nguyễn Công Hoan dạy Vọng làm cách mạng à?
Côn hỏi.
- Vâng.
Khoa đáp.
- Nguyễn Công Hoan là tổ sư cộng sản, dạy thằng Vọng làm tổ sư cộng sản. Nó đi lính tới chức chính ủy, nó phải vào Đảng cộng sản. Phải không, em Khoa?
Côn chua cay hỏi.
- Vâng, anh ấy là đảng viên Đảng cộng sản.
Khoa bình tĩnh đáp.
- Giai cấp vô sản lại đảng viên Đảng cộng sản, thôi Khoa, anh không muốn nghe chuyện thằng ghẻ tầu nữa. Quên nó đi. Anh hết thương nó rồi. Cả ông Nguyễn Công Hoan. Bây giờ, gặp cộng sản ở đâu, chỉ có đạn bắn trúng tim chúng nó. À, anh còn trả thù cho thầy Đàn nữa. Thầy đã bị cộng sản thủ tiêu rồi. Như Khái Hưng, Lan Khai...
Côn nói rất tàn bạo. Khoa há miệng chưng hửng. Ngọc ngạc nhiên. Luyến nhìn Khoa, thầm bảo Khao đừng nhắc Vọng lúc này. Luyến hiểu côn căm thù cộng sản muốn phát điên. Ai ở trong trường hợp Côn cũng giống Côn hết. Mắt Côn đỏ lên, long lanh thù hận:
- Không thể Bạn và Thù lẫn lộn được. Chúng ta cứ để Thù là Bạn chúng ta mãi, ngày kia, Thù sẽ cắt cổ chúng ta. Chúng ta lớn rồi, hiểu biết rồi, chúng ta là Quốc Gia. Thằng Vọng lớn rồi, khôn gấp bội chúng ta, thủ đoạn gian manh đầy người, thằng Vọng là Cộng Sản. Lời nói của cộng sản chỉ là đãi bôi. Nước mắt cộng sản chỉ là nước mắt cá sấu. Các bạn tin vào lời nói của thằng Vọng ư? Các bạn tin vào nước mắt của thằng Vọng ư? Tôi không tin, ngàn lần không tin thằng cộng sản đó. Với tôi, chỉ có sống hay chết trong chiến đấu diệt cộng sản.
- Côn ơi, mày và tao lên cầu Bo chơi. Tao sẽ nói tại sao tao muốn viết văn.
Luyến nháy mắt. Ngọc đứng dậy xin phép về đi chợ. Khoa nói có hẹn với thằng bạn sang Bồ Xuyên, sáng nay. Luyến đã chống nạng.
- Ừ, lên cầu Bo.
Côn và Luyến bước trên phố chính. Hai đứa không nói năng gì. Sự im lặng, một bước dài heo hút, ngăn cách giữa hôm qua và hôm nay. Hôm qua vui vẻ, hồn nhiên và yêu đương ngập tràn. Hôm nay buồn bả, cô đơn và hận thù kín lối. Luyến thương Côn quá. Người bạn ngày xưa, từ cách mạng tới giờ, thấm thoát bẩy năm,.thay đổi toàn bộ nhân sinh quan. Ở miệng Côn thở ra căm thù và căm thù. Thái Bình, quả thật, đã trải qua cuộc dâu biển tàn bạo. Lâu lắm rồi, kể tự sứ quân Trần Lãm dấy binh, đến Đinh Bộ Lĩnh làm yên đất nước, Thái Bình chỉ biết chịu đựng thù hận, không nói đến hận thù. Thời đại nó đẩy người Thái Bình đến chỗ phải biết hận thù và kiếm cách trả thù hận. Cách mạng, chiến tranh, hay cộng sản?
Tiếng nạng gỗ của Luyến nghe buồn tênh...
CHƯƠNG 17
Mau mến yêu giống nòi
Ngoài kia công nhân ơi
Từng nhớ những phút chiến thắng
lầm than đau thương trong khốn cùng
Việt Nam ra công chen vai
Tranh đấu cuối cùng là đời sống với giang sơn
Cùng sống tập đoàn
và kiến thiết xã hội ngày mai
Ta tiền phong tiến tới
Lúc đế quốc đã tàn
- Mày thấy giai cấp công nhân của thằng Vọng đáng sợ chưa?
- Bài hát mày thuộc ở đâu?
- Sơn Tây.
- Tên gì?
- Công nhân kiến thiết xã hội.
- Chỉ có công nhân biết kiến tiết xã hội thôi à?
- Công nhân là xương sống của cộng sản. Thiếu nó, cộng sản đâu còn gọi là cộng sản. Cộng sản phải dùng giai cấp nông dân vì công nhân ít người. Giai cấp công nông, chứ kh6ng giai cấp nông công. Mày chú ý xem, cờ cộng sản vẽ Búa Liềm vàng trên nền đỏ máu. Búa đè trên Liềm. Và, Búa to hơn Liềm, mạnh hơn Liềm. Cộng sản dùng giai cấp nông dân, nhưng ghét giai cấp này nhất hạng.
- Tại sao?
- Mày viết văn nên chỉ dọc văn chương, triết lý, sử địa là cùng. Tao chiến sĩ chống cộng sản, thành thử tao tìm sách báo viết về cộng sản để đọc. Mấy tháng chữa bệnh sốt rét rừng, tao đọc vô số sách chống cộng và thân cộng. Tao đọc sách của cộng sản viết nữa. Cộng sản đã giết hàng triệu nông dân Kiev bên Nga. Trùm Staline bán lúa mì cho Tây Âu để dân Kiev chết đói. Người Nga đi đếm xác chết như dân Thái Bình năm Ất Dậu.
- Chỉ ghét nông dân mà bắt nông dân chết đói?
- Tao nghĩ xa hơn. Giai cấp công nhân không có của chìm, chẳng có của nổi. Nhà máy thì của... nhân dân, nhà nước cộng sản quản lý. Nhà ở cộng sản cũng quản lý luôn. Công nhân có tư hữu gì đâu, mà đòi làm chủ tư hữu của mình? Cơm ăn, áo mặc cộng sản lo giùm hết. Quyền sống, công nhân không cần lo. Công nhân mới là người nghèo nhất nước. Giai cấp nông dân khác hẳn. Mảnh vườn, cái ao, thửa ruộng là tư hữu của nông dân. Quốc hữu hóa, nông dân đòi quyền tư hữu đến nơi đến chốn. Thế thì giai cấp nông dân giống hệt giai cấp tiểu tư sản. Cái Búa phải to hơn cái Liềm. Khi cần, cái Búa sẽ đập cái Liềm nát bấy.
- Nông dân có biết chính mình là tiểu tư sản không?
- Không.
- Tách nông dân tiểu tư sản ra khỏi nông dân, cộng sản hết làm ăn.
- Ý kiến hay.
- Như thế là đấu tranh chính trị. Tư tưởng chống cộng sản tiêu diệt tư tưởng cộng sản. Tao cho như thế mày mới thắng cộng sản, không cần đổ máu. Cái cung cách chống cộng sản của Bảo Hoàng, tao thấy chỉ làm cho cộng sản vươn lên.
- Mày thấy Bảo hoàng chống cộng sản ra sao?
- Vu dân vô tội là cộng sản, tra tấn họ và làm tiền họ. Rồi chống cộng sản bằng mồm. Đả đảo cộng sản. Đả đảo riết, rồi chết. Cộng sản vẫn sống nhăn răng.
- Ở Hà Nội, toàn những thằng chống cộng sản kiểu ấy.
- Tao không chống cộng sản và thân cộng sản. Tao rửng rưng chuyện thiên hạ. Mày đã biết tao theo thuyết... đợi thời đại xoay vần. Côn ạ, mày phải làm lãnh tụ chống cộng.
- Tao làm lãnh tụ?
- Tại sao không? Đã lãnh tụ Hồ Chí Minh, phải lãnh tụ Đặng Xuân Côn. Người cộng sản, người chống cộng sản.
- Mày giúp tao không?
- Không.
- Tao làm một mình à?
- Engels viết bài Tuyên ngôn đảng cộng sản có một mình. Khi ấy, Marx chết rồi. Engels hô hào Vô sản trên thế giới hãy vùng lên cũng một mình. Đặng Xuân Côn, dân Thái Bình, năm 1952, hô hào Tiểu tư sản trên thế giới hãy vùng lên xem sao. Mày nên nhớ rằng, tiểu tư sản đông kinh khủng, ăn đứt tư bản và cộng sản về kiến thức, tài năng. Buồn một nỗi, tiểu tư sản chuyên làm nô lệ cho tư bản và cộng sản, bị tư bản và cộng sản khinh bỉ. Mày nghĩ cách làm cho tiểu tư sản đoàn kết lại. Ấy là mày giải quyết cả thế giới, không riêng gì Việt Nam.
- À, mày đọc sách chính trị, hả? Thế mà tao dám chê mày!
- Thỉnh thoảng. Vớ được quyển nào, đọc quyển đó. Què cụt chỉ còn thú đọc sách thôi, mày ạ!
- Tiểu tư sản là vấn đề ăn nhất, cộng sản sẽ điên cuồng, bấn loạn.
- Mày phải làm lãnh tụ cơ.
- Để tao nghĩ.
- Trong khi mày nghĩ có làm lãnh tụ hay không, tao góp chút ý kiến.
- Nói đi.
- Thằng Vũ đang theo kháng chiến, thằng Lộc đang theo kháng chiến. Hhư chúng ta, chúng nó chỉ mơ ước Pháp thua sớm, trở về thị xã, xây dựng lại căn nhà cũ. Giấc mơ thật đơn giản. Chúng nó chiến đấu vì thị xã, nơi chúng nó sinh ra, lớn lên, hưởng trọn tuổi vàng hoa mộng. Chúng nó mong về để chết với thị xã. Bảo chúng nó đánh nhau cho cộng sản, tội nghiệp chúng nó. Thiên hạ đã chia rẽ nhau, thù hận nhau, chúng nó gây chi nên tội mà chúng ta phải chia rẽ chúng nó? Thằng Vọng gần chết đói, có người đến cứu nó và dạy nó thành người cộng sản. Chuyện rất thường. Nếu chúng ta đến sớm ba ngày, Vọng sẽ theo chúng ta. Vọng ở rất xa chúng ta bằng giai cấp. Lời nói của nó thì rất gần, êm ái như thuở Monguillot. Thằng cộng sản Vọng đã nói một câu, khiến thằng què cụt Luyến phải tôn nó lên làm bậc thầy. Côn ạ, hôm nay, mày cần nghĩ xa cuộc chiến đấu tiêu diệt cộng sản bằng tư tưởng của mày, để ý chi đến súng đạn và máu, để ý chi đến thằng Vọng, thằng Vũ, thằng Lộc, những ngươi bạn thân yêu của mày...
Côn kh6ng trả lời. Nó lái sang bài hát Công nhân kiến thiết xã hội.
- Cộng sản Việt Nam đã hé mùi quốc tế cho người ta sợ nó. Nó đòi sống tập đoàn với thế giới cơ! Đế quốc Mỹ sắp tan rã. Khi nó chiếm được các nước vùng Đông Nam Á, là đế quốc Mỹ tàn lụi. Còn nằm trong hang đá, cộng sản đã mơ đô hộ Thái lan, Mã lai, Tân gia ba...
Luyến không thích nghe chuyện đàm tiếu người cộng sản của Côn nữa. Nó nói:
- Đến cầu Báng rồi. Dừng xe ăn một cái bánh chưng. Lâu lắm không được ăn bánh chưng cầu Báng.
Người lái xích lô ngưng lại. Hai đứa bước vào quán. Hôm qua, Côn rủ Luyến về Ô Mễ thăm mộ cụ Hào Điền. Luyến không cuốc bộ được sáu cây số liền một lúc, đi xe đạp chưa quen. Côn thuê chiếc xích lô, bao nửa ngày để chở khứ hồi. Con huyện lộ số 24 đã lấp hết hố chữ chi, sửa sang bằng phẳng. Cầu Báng bị phá sụp đổ, quân Pháp phải bắc chiếc cầu mới kế cận, xe cộ nhà binh mới lưu thông dễ dàng.
Cây cầu Báng của làng Đồng Thanh. Làng này nổi tiếng nhờ bánh chưng ngon. Vì hai quán bánh chưng bán cho người đi qua đường sát cây cầu, nên không ai gọi bánh chưng Đồng Thanh. Mà, bánh chưng cầu Báng. Miền Bắc, mỗi địa danh thường cung cấp cho con người một món ăn đặc biệt. Như bánh gai ở Ninh Giang, cá rô ở đầm Sét, ổi ở cầu Bo... Nhiều người biết tiếng nó quá, nó đi vào vè. Bánh chưng cần Báng chẳng hạn:... Tương Bần Yên Nhân
Nước mắm Vạn Vân
Bánh chưng cầu Báng...
Cầu Báng không bao giờ làm bánh chưng tết, hình vuông, kiểu bánh chưng báo hiếu của Lang Liêu, hoàng tử thứ 16, con vua Hùng Vương thứ 6. Có lẽ, bánh chưng để bán, cầu Báng làm khác đi. Một người ăn một chiếc, vẫn còn thòm thèm, ăn hai chiếc thì hơi no. Chiếc bánh chưng cầu Báng như chiếc bánh giò, to hơn và gói bằng lá de.
Là de lạ lắm. Khi luộc bánh, người ta tính thì giờ vào cây hương đốt. Cầu Báng khỏi cần hương, chỉ cần thói quen. Bánh chín, lá de đổi mầu sắc bên ngoài, thành mầu lá cây mùa thu. Bên trong, lá de như một cặp môi ngậm đầy sữa, hôn lên bánh đều đặn, khiến bánh xanh từng hạt nếp bìa. Bánh chưng ai chẳng tẩm đỗ với thịt? Thịt và đỗ cầu Báng mới ngon! Bánh chưng cầu Báng ngon tất cả. Toàn diện.
Luyến và Côn đã ăn bánh chưng xong. Tự thị xã tới Đồng Thanh phải qua Đoan Túc, Tri Lai, Thắng Cựu. Ngồi trên xích lô, xe chạy tới làng Chành, đến Ô Mễ.
- Cây đa làng Chành sống lâu lắm, Luyến ạ! Lụt năm 1945, nước phủ trắng xóa đến nửa tháng, nó không chết.
Luyến nhìn cây đa lành Chành. Nó nghĩ rằng cây cổ thụ sống lâu đã thành thần thánh rồi. Nó cần sống lâu thêm nữa. Để xem thời đại xoay vần.
- Mình xuống đây.
- Phải băng qua con đường mòn này à?
- ừ. Ngắn thôi. Đồn Pháp đóng ở chợ, mất lối vào cổng chính của mình.
Côn dặn người phu xích lô đậu tại gốc cây đa làng Chành chờ đợi. Hai đứa vào con đường mòn. Côn đi trước, Luyến chống nạng theo sau. Một lúc, hai đứa vào làng Ô Mễ. Nhà Côn xây ba từng, rộng rãi thênh thang. Bây giờ càng rộng rãi. Luyến cảm tưởng cảnh đìu hiu đã trùm kín căn nhà. Con chó nằm ỳ một chỗ, chẳng chạy ra mừng chủ về, không sủa thấy khách lạ tới. Đó là dấu hiệu của sự đi xuống thảm bại. Người nhà tíu tít hỏi thăm Côn. Lát sau, dân làng kéo tới, và trẻ con lũ lượt đến xem mặt chú Côn có khác ngày xưa không. Côn vẫn được cụ Hào Điển che chở trong tình thương dân làng. Côn bảo họ hàng mang khăn tang cho Côn quấn để Côn ra lễ ông nội ngoài mộ.
Đứng trước ngôi mộ cụ Hào Điển, Côn khóc rưng rưng. Nó thầm nguyện cầu những gì, Luyến không biết. Khi về, Côn lau nước mắt, nghiến răng, và giọng nó chứa đầy phẫn nộ:
- Cháu sẽ trả thù cho ông, từng đứa một. Không gì cản nổi cháu, cản nổi mối huyết thù của cháu.
Côn nhìn họ hàng:
- Mọi người nhớ cho kỹ, kẻ thù của chúng ta là cách mạng, kháng chiến, cộng sản. Ba thứ đó đều một phường khốn nạn!
Luyến và Côn trở lại căn nhà tiêu điều cũ. Côn chỉ cho Luyến cái rổ xề cộng sản bắt nhốt cụ Hào Điển trong đó và trả tự do về huyệt mộ, cũng trong đó. Nó là chiếc rổ lớn, đựng bèo đã giã nhỏ cho lợn ăn. Con người ví với con vật. Luyến hỏi:
- Tao muốn ngắm cống Hào Diển, được không?
Côn đáp:
- Nó ở ranh giới giữa làng Ô Mễ và làng Thụy Bình, xa lắm, mày không đi được.
Luyến nói:
- Không ai để gì cụ thể cho nước non, dân tộc cả. Chỉ cụ Hào Điển để lại cái cống Hào Điển cho dân Ô Mễ là cụ thể nhất thôi. Chả ai nhớ những người đã xưng hùng xưng bá làm hay cho dân tộc cả. Cụ Hào Điển thì khác. Chỉ một cái cống cho dân Ô Mễ. Đời đời, kiếp kiếp, nông dân Ô Mễ còn cần nước sông Trà Lý, còn nói tới cống Hào Điền. Cụ sống với nông dân mãi mãi, cụ có chết đâu?
Côn mỉa mai:
- Cụ có chết trong rổ đựng bèo cho lợn đâu!
Luyến không nói năng gì nữa. Hai đứa về thị xã. Đến cây đa làng Chành, chỗ người phu xích lô đang neo xe đợi, Côn bảo Luyến:
- Mày về trước nhé! Sáng mai, tao sẽ có mặt ở nhà mày. Tao còn một số việc cần giải quywết với họ hàng. Có một điều tao nói riêng với mày: Trường Sĩ Quan Nam Định di về Thủ Đức, miền Nam. Tao tình nguyện học ở Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Tao nản Thái Bình lắm rồi.
Côn trở lại con đường mòn. Một mình Luyến ngồi trên xích lô, nghĩ ngợi về bạn mình. Côn không thể làm lãnh tụ đối nghịch với lãnh tụ Hồ Chí Minh được. Chẳng phải riêng Côn, mọi người, kể cả trí thức khoa bảng, đều nghĩ như Côn. Không ai dám làm lãnh tụ. Đi làm nô lệ phục vụ cho lãnh tụ sướng hơn. Cho nên, chỉ một người xưng mình là lãnh tụ duy nhất trên đất nước khốn khó này. Mọi sự chống đối của thiên hạ, lãnh tụ coi thường và khinh thường. Côn rồi cũng bị lãnh tụ cộng sản khinh thường thôi. Mỗi người có một cuộc đời. Côn xoay xở lấy cuộc đời của nó. Bằng thù hận.
CHƯƠNG 18
Côn không ghé Luyến, không ghé Khoa. Từ Ô Mễ, nó vào thị xã sớm, mua vé xe Con Voi lên Hà Nội. Côn chẳng muốn liên hệ gì với Thái Bình nữa thì phải.
Ở Thái Bình, Côn gặp lại Luyến, thấy Luyến đã què quặt, tâm hồn hơi hướng về bên kia vì có em kháng chiến, Côn chán nản. Còn bốn thằng bạn: Long đã chết trận, Vũ và Lộc đang chiến đấu trong hư vô, Vọng thì cộng sản đứt đuôi con nòng nọc. Những thằng bạn còn sống đã là cộng sản hay đổ máu cho cộng sản, đều là kẻ thù của Côn. Cộng sản chia xã hội Việt Nam thành từng giai cấp để hận thù nhau. Côn không hạ cộng sản bằng chống chia giai cấp để thương yêu nhau. Côn ghim thù hận trong máu, làm mau, nếu mình có thể, chứ không chịu đợi lâu. Chống đối tư tưởng, người ta mất hàng trăm năm. Côn ngỡ tư tưởng nó lòi lên, cứ chém là đứt, là thành công. Thù hận làm lóe mắt Côn. Luyến vẫn yêu Côn. Vì, Côn chỉ là một con người yếu đuối.
Côn bỏ thị xã Thái Bình ngót ba tháng rồi, chẳng nhận được bức thư nào của nó. Sắp nghỉ hè. Khoa chuẩn bị sang Nam Định thi trung học phổ thông. Hôm qua, Luyến gặp Khoa, nó tâm sự với Luyến đủ thứ chuyện. Những chuyện về Côn, Luyến để trong lòng, Khoa cũng biết.
- Anh đã khôn khéo khuyên anh Côn đừng thù hận anh Vọng, anh Vũ, anh Lộc, chứ gì!
- Sao em biết?
- Nhìn ở đáy mắt anh.
- Em nghĩ về anh Côn còn đẹp như ngày xưa không?
- Anh Côn bao giờ cũng tốt, cũng đẹp. Em thương anh ấy lắm. Vì thù hận, anh Côn mất trí. Vì mất trí, anh ấy mất suy nghĩ. Anh ấy giống những nhân vật đi tầm thù trong truyện kiếm hiệp. Bố mình bị nó giết, tìm nó trả thù. Con nó thấy bố chết, tìm mình tuyết hận. Cháu mình thấy ông chết, tìm con nó... Cứ đi tìm suốt đời nọ sang đời kia mà trả thù. Đời sống chỉ vậy sao?
- Em nghĩ thật đi, mình phải làm gì, Khoa?
- Bố em bị cường quyền giết, mình không thể trả thù nổi. Cường quyền đông lắm và khỏe lắm. Mình đành im lặng. Bố em bị người tầm thường giết, mình tha thứ. Sẽ không có thù hận đời sau. Có vẻ Quốc văn giáo khoa thư, anh nhỉ?
- Không, cuộc đời lắm chứ.
- Anh Côn chẳng nghe ai đâu. Anh thường bảo mỗi người có một cuộc đời, anh Côn có một cuộc đời thù hận, anh ấy sẽ sống bằng thù hận, cô đơn vô tả. Em lại thương anh ấy thêm lên.
- Khoa, em là thằng bé đi hia bẩy dặm.
- Nhờ anh chỉ dạy.
- Em đang nghĩ gì?
- Về một chuyện tình...
Khoa nhớ con Liên từ lâu, từ ngày hồi cư thị xã. Nếu Khoa về thị xã, cố xin bố mẹ, cho lên Hà Nội chơi, nhé! Nhà Liên ở số 42, phố cửa Bắc. Liên đã nói với Khoa thế. Nó đã về thị xã, ngay cả một bức thư viết dễ dàng, nó cũng không viết. Cha nó đi Hà nội luôn, nó chả thèm nhắn lời hỏi thăm Liên. Hỏi thăm Liên, nó phải cho cha nó địa chỉ của Liên. Cha mẹ nó tưởng nó đã quên con Liên rồi, chuyện hai đứa quen nhau, chơi với nhau, hồi tản cư.
Khoa đâu có quên Liên. Nó yêu say đắm, yêu Liên còn hơn Vũ yêu Thúy. Thời đại của Vũ náo động và sôi nổi thật, song thua hẳn thời đại của Khoa lãng mạn và tình tự. Thời đại của Khoa có trống đồng thôi thúc dân gian đừng quên giặc Pháp xâm lược sẽ đến; có trận giả làm những đứa bé biết mơ thành người sông Lô; có bao nhiêu bộ đội tiểu tư sản ở Hà nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định về dạy thiếu nhi học, thiếu nhi hát; có những đêm kịch ve vuốt tài năng tuổi ngọc; có những lớp Bình dân học vụ, biến bà nội, ông ngoại, dì cô, chú bác thành học trò của Khoa, của Liên, xui Khoa và Liên cảm động như đĩa đèn dầu lạc thắp bấc long lanh những giọt nước mắt... Thời đại Vũ làm gì có. Vũ đã theo kháng chiến, xa hẳn tuổi thơ bồng bế để lại cho Khoa những ngày vàng hoa mộng.
Khoa quen Liên trong thời đại ấy, rực rỡ dân tộc của chu kỳ đất vỡ chiêm bao. Khoa đã đưa Liên về đường mòn thấm ướt trăng sao, những đêm tập kịch. Mùa đông, hai đứa đi sát bên nhau, tay đứa này trong túi đứa nọ, móc lạc rang nhai cho trời hết lạnh. Khoa đã đeo lên tai nhụy hoa mẫu đơn cho Liên, bắt Liên đừng quên hoa ngâu. Trời ơi, Khoa còn rủ Liên ngồi trên cầu Chờ chờ đợi một nỗi niềm gì đó; lên quán Nghỉ, hẹn hò người bâng quơ...
Làm sao Khoa có thể quên Liên? Nó nhớ Liên âm thầm. Đã nhiều lần, Khoa muốn viết thư cho liên. Rồi, tự lòng nó đã nói: Gượm đã. Khoa lại sợ Liên quên hết chuyện Tường An, nghèo xơ nghèo xác. Ở Tường An đi chơi với cu khoa được, ở Hà Nội thì không. Khoa sợ hãi tiếng không ghê lắm. Sợ hãi rồi ngờ vực. Chả biết Liên Hà Nội đã thay đổi gì chưa! Đời có nhiều mùa. Mùa vào tuổi lớn, Khoa cáu ghét cái mùa vào tuổi; và Khoa cảm thấy nhớ âm thầm, yêu âm thầm là để yêu người không bị thất vọng. Điều đau khổ nhất trên đời, Là yêu người mãi mà người chẳng yêu. Ai đã nói thế? Có phải vậy không?
Luyến tủm tỉm cừi:
- Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết?
Và nói tiếp:
- Tình yêu chỉ đến với em thôi. Em là người hạnh phúc, đụng tới đâu, hạnh phúc trào ra tới đó. Đẹp giai, học giỏi, giai cấp... cao thượng, con gái mê mệt, vất đi không hết, tội gì đau khổ nhất trên đời.
Khoa bịn rịn:
- Em yêu Liên như thời hoa mộng của em, đánh mốc chu kỳ rực rỡ của dân tộc. Chu kỳ ấy có bốn niên. Nếu sống thêm nhiều tháng năm buồn nhạt, bây giờ chẳng hạn, đổi lấy bốn năm huy hoàng, em đổi ngay. Em đã yêu Liên vào lúc đó.
Luyến thở, khói thuốc lá bay:
- Em đã nói yêu Liên chưa?
Khoa bẻ bão tay:
- Chưa.
Luyến hít đẫy đà thuốc Cotab:
- Em đã cảm giác yêu Liên và Liên đã mơ hồ yêu em. Tình yêu thế mới gọi là thơ mộng. Lúc nào tình em yêu Liên, tình Liên yêu em cũng bảng lảng. Em đừng sợ hãi mùa vào tuổi nữa. Mùa ấy làm Liên yêu em hơn, dù xa cách. Tháng chín, năm nay, em lên Hà Nội học ban tú tài, tìm Liên còn sớm chán.
Khoa hơi cúi đầu:
- Em đỗ trung học, sẽ bỏ đệ tam, nhẩy đệ nhị, anh ạ!
Luyến nhìn Khoa:
- Tùy ý em. À, anh chưa biết Liên họ gì?
Khoa cười:
- Nguyễn. Nguyễn Kiều Liên.
Luyến khen:
- Hay quá, tên nàng hay qua, chàng ạ!
Khoa sung sướng quá, im lặng. Đó, tâm sự của Khoa, tâm sự tình yêu đẹp hơn thơ của nó.
Luyến vẫn nhớ đến Côn nhiều hơn. Đường như Côn là nỗi ám ảnh của Luyến. Mỗi người có một cuộc đời. Cuộc đời của Côn không bình thường, cuộc đời Côn bị thù hận mới định cư. Tưởng chừng nó đồn trú trong tim Côn từ đời nào. Khoa nhận xét đúng, Côn đã mất trí. Côn mất trí, cuộc đời Côn sẽ lạc hướng. Côn xa Luyến, xa Vũ, xa Vọng, xa Lộc vĩnh viễn. Luyến thở dài: Chiến trnanh và chủ nghĩa! Chiến tranh làm con người xa nhau, rồi làm con người gần nhau, dù con người có mù, quẻ, câm, điéc hay chết mất tích, chết thảm thương. Vẫn không xa nhau. Chủ nghĩa làm con người đoạn tuyệt con người. Là người không theo chủ nghĩa, không chống chủ nghĩa, biến thành nạn nhân của chủ nghĩa, Luyến đấy. Chính Côn đã xa lìa Luyến. Chính Luyến đã lìa Côn. Không phải vì bất đồng chính kiến. Mà vì không có chính kiến.
Thời đại này oái oăm thật. Những người mơ thị xã Thái Bình sống êm đềm bên sông Trà Lý, có cầu Bo thơ mộng, hàng hồi phố chính tỏa hương thơm ngát, chắc chắn sẽ tuyệt vọng. Nước lũ không chẩy xiết gầm cầu vào tháng Bẩy. Nước lũ chẩy quanh năm. Mỗi ngày. Luyến ngồi im. Suy nghĩ…
CHƯƠNG 19
Khoa thi đỗ trung học phổ thông bên Nam Định, hạng Bình. Nó về thị xã lĩnh phần thưởng của Tòa tỉnh trưởng, nghỉ vài hôm rồi lên Hà Nội học ngay. Sang năm, Khoa thi tú tài 1. Phần thưởng của Khoa toàn sách giáo khoa tiếng Pháp và những quyển tự điển Pháp-Việt, Anh-Pháp. Đẹp nhất là Petit Larousse illustré 1951. Khoa đem hết tự điển biếu Luyến, đền ơn Luyến kèm dạy.
Khi đã tìm được nhà trọ và trường học ưng ý, Khoa mới viết thư cho Luyến... Anh Luyến ơi, em thỏa mãn lắm rồi. Kiều Liên của Trần Khoa vẫn như ngày xưa, vẫn yêu em say đắm. Nàng trách móc em đã vào thị xã gần hai năm, hôm na, mới về cửa Ô xưa. Em phải nói em đâu có đi kháng chiến, em theo giặc thì về năm cửa Ô sao được. Em sắp đến ở nhà Liên. Bố mẹ nàng muốn thế. Ở nhà Liên, em có thể kèm Liên học với các em nàng. Năm nay, Liên học đệ tứ Trưng Vương. Em học nhẩy nên không được học Chu Văn An. Anh Luyến ạ, đời sống gia đình ấm cúng lắm. Em sẽ ở bên Liên suốt đời. Em chán Thái Bình rồi, chỉ giành nhau thù hận. Họ cứ việc thù hận nhau. Em ngoảnh mặt lên Hà Nội tìm yêu thương. Mặc kệ cuộc đời, em không mơ chiến đấu nữa...
- Nghĩ gì đấy, nhà văn Luyến? Ngọc hỏi.
- Thằng Khoa. Luyến đáp.
- Khoa dễ mến lắm.
- Nó khác với Vũ nhiều. Nó hơi giống anh, không nói tới thời đại, có vẻ theo thời đại. Nó mơ ước đơn giản như Vũ, suốt đời sống bên người mình yêu. Không biết Vũ có bỏ Thái Bình không, chứ Khoa coi như đã giã biệt Thái Bình.
- Khoa viết thư cho anh, hả?
- Đọc thư nó hay ghê!
- Đã gặp Liên chưa?
- Rồi.
- Như ngày xưa còn bé, chứ?
- Như. Khoa thật hạnh phúc. Nếu Trời bắt tội nó, cho Liên lấy chồng khác, không nhớ gì tới ngày xưa, Khoa sẽ thay đổi hẳn. Cái hận thù của Côn khác cái hận thù của Khoa, song đều là hận thù. Anh không ngờ nó yêu Liên âm thầm vậy. Âm thầm càng lâu, nổ tung càng dữ dội. May thay, Khoa có hạnh phúc thực sự.
- Còn anh, có hạnh phúc không?
- Anh hả? Tất cả con gái trên đời này đều tránh xa thằng cụt chân. Chỉ một người dám yêu anh. Là...
Ngọc hôn Luyến một cái hôn thật dài. Về sau, nếu cuốn sách tiểu thuyết lịch sử Cầu Bo trầm lặng của Lê Huy Luyến nổi danh, phải nói có sự khích lệ của Vũ Cẩm Ngọc. Ngọc yêu Luyến, đòi lấy Luyến bằng được, đã là chuyện lạ. Lại bảo Luyến làm việc bằng trí óc, đừng nghĩ tới chân tay què cụt. Càng lạ hơn. Ngọc đúng là người đàn bà miền Bắc, thời xưa.
- Mấy giờ, đám rước Hội Đền Mẫu khởi sự, hả anh?
- 10 giờ.
- Thế mà anh gọi em sang sớm quá.
- Để em chuẩn bị. Một là, chúng ta đứng cửa, ngắm đám rước đi qua. Hai là, chúng ta lội ngược đám rước.
- Cả hai thứ: Ngắm và lội!
Hôm nay, Hội Đền Mẫu thường niên vào rằm tháng 5 âm lịch, nhằm ngày 7-6 tây lịch. Hội Đền Mẫu long trọng nhất Thái Bình, không những chỉ riêng thị xã, mà toàn tỉnh. Phủ huyện trong tỉnh đều có đền Mẫu. Người ta không gọi đền Mẹ, cứ đền Mẫu. Chính ra, đền thờ Đức Mẹ mới đúng.
Có một bà khi sống thì ban phát công đức, lợi lộc cho muôn nơi, khi chết thì linh thiêng ngút ngàn nên dân chúng Thái Bình lập đền thờ bà, coi bà như Mẹ. Bà là người Việt Nam, không phải Trung hoa hay Ấn độ. Đền Mẫu - đền Mẹ - sơ khởi, là nơi cúng lễ nghiêm trang. Riết rồi nó biến thành chỗ đồng bóng, xin xâm... Như đền Đúc thánh Trần Hưng Đạo. Hồi Pháp đô hộ, hễ ngày Hội Đềm Mẫu tới, dân chúng mười hai phủ huyện có bổn phận đóng góp công sức và tiền tài, làm sao cho ngày hội ở thị xã thật lộng lẫy, huy hoàng. Mỗi phủ huyện mang người xuống tỉnh tuần lễ trước để lo kiệu thánh Mẫu và tổ chức ngày hội.
Ngày Hội Đềm Mẫu, thị xã nhộn nhịp hẳn lên. Dân chúng mười hai phủ huyện nô nức kéo nhau về tỉnh, phố xá chất ních những người và người. Một năm mới có một lần đức Mẹ vào hạ. Từ ngày tiêu thổ kháng chiến, dân chúng nhớ ngày Mẹ gọi, cách mạng không cho vào, mẹ buồn lắm. Hai ông hộ pháp đứng canh trước đền, đã bị bọn thằng Vũ vặt trụi râu ria, lại bị cách mạng quên lãng đèn hương, hai ông gần chết đói. May mắn, dân thị xã hồi cư sớm, đền Mẫu đã có hương đèn. Và, hai ông hộ pháp được cúng hoa trái. Hai ông chỉ còn một nỗi buồn. Là canh gác đức Mẹ, canh gác cả phòng thông tin cho Bảo Hoàng! Năm kia và năm ngoái, tình hình chưa an ninh, người trong tỉnh về thị xã ít. Năm nay, nhờ có hai cuộc hành quân Trái Chanh và Trái Quít, tình thế ổn định rồi, những người Quỳnh Côi, Phụ Dực cũng về tỉnh dự Hội Đền Mẫu. Bộ tối cao chỉ huy quân đội Pháp cứ nhìn Hội Đền Mẫu, ra thông cáo chính xác về tin chiến sự Thái Bình.
- Trống đánh rồi đấy, anh ạ!
- Ừ. Lâu lắm mới nghe trống hội.
- Ta đứng cửa xem, nhé! Hội khởi hành ở trung tâm phố chính, tiến lên ngã tư Vũ Tiên-Thị Xã, trở ngược lại, qua Trưng Trắc, đến bệnh viện, ra cầu Bo, về đền Mẫu. Chúng ta coi hết, rồi đi tới đền. Mẹ anh, mẹ em, mẹ Khoa và mẹ anh Long bê cầu vồng đấy. Bác cả Hồng lo sắp xếp trong đền.
- Chờ lên đồng chứ gì?
- Sao anh biết rõ thế?
- Dạo học lớp nhì 1, bọn anh đã cớp hết tiền lộc thánh của bác ấy.
Ngọc nhéo Luyến một cái. Đau điếng. Tiếng trống ngày hội đến gần. Luyến hớn hở như một trẻ thơ mừng hội lớn.
Đi đầu, một chiếc trống thật lớn. Hai người khiêng và một người biểu diễn tài đánh trống. Họ mặc quần áo lính thú ngày xưa, ngang lưng thắt bao vàng. Người nào cũng đội nón sơn đẹp và vẽ dấu quân. Khi người biểu diễn múa hai cái dùi trống, bao nhiêu khán giả đứng hai bên đường đã tấm tắc khen tài. Mấy ông sĩ quan Pháp chụp hình liên miên. Người biểu diễn múa dùi, cơ hồ người làm xiếc ném những cây gỗ ngắn lên không trung rối bắt nó, chẳng rơi xuống đất bao giờ. Người làm xiếc phải tập luôn cho quen tay. Người biểu diễn không hề tập. Anh ta trình diễn đâu lấy tiền. Nông thôn làm gì có thì giờ tập. Múa dùi chừng một phút, anh ta lượn trên mặt trống. Tiếng trống nghe hùng tráng, sôi nổi như thúc giục quân binh tiến lên chiến trận. Tiếng trống đổi điệu. Bây giờ, nó dồn dập, say sưa như tiếng đao gươm rút ra chém giết. Một lúc, tiếng trống trở nên êm đềm, lắng dịu như đã chiến thắng trở về khải hoàn môn. Danh tài Hội Đền Mẫu chỉ có vậy thôi.
- Em biết trống trận đời nào không?
- Không. Anh hỏi em, sao em biết?
- Anh đoán thôi nhé!
- Đoán đi.
- Trần Lãm, người Thái Bình, sứ quân giỏi nhất. Đây là trống trận Kỳ Bố, nơi đóng quân của Trần Lãm. Không có trống trận Kỳ Bố, Đinh Bộ Lĩnh dẹp sao nổi 11 sứ quân?
- Thôi mà, xem đi anh.
Đi sau cái trống trận, hai hàng dài hai bên đưòng, các cô gái đồng trinh tuổi từ 16 đến 18. Toàn các cô thị xã, cô nào cô ấy đẹp như thơ và thơm mùi chanh cốm. Các cô mặc đồng phục áo dài xanh da trời, quần trắng. Các cô đi dép mầu trắng. Mỗi cô bê một bó hoa huệ. Các cô cười tươi như hoa. Hội Đền Mẫu bầy ra chỗ cho các cô đi rước chỉ để các bà mẹ, các ông cha xem mặt cho con trai mình, cô nào sẽ làm con dâu ông bà. Cũng là dịp các cậu tốn tiền mua phim và mua ảnh các cô.
- Sao lại chọn rặt con gái đồng trinh?
- Chắc đức thánh Mẫu còn trinh tiết.
- Nhỡ cô gái 18 đồng trinh mất trinh rồi thì sao?
- Bậy!
Theo sau những cô gái đồng trinh, là giàn trống ngũ lôi của các đồng tử. Mấy chú bé này trông dễ thương lắm. Tuổi từ 13 đến 15. Các chú mặc quần áo xanh, vàng, đỏ bó chẽn vào người. Cái quần lại ngắn tới đầu gối. Các chú đội nón nhỏ, từa tựa nón lính thú đời xưa. Những chiếc bao tím đánh đai lấy lưng các chú. Điều hơi lạ, các chú đi đất. Bốn chú đánh rống nhỏ. Một chú đánh trống lớn. Ngũ lôi mà. Chiếc trống lớn phải hai người khiêng. Hai người này không thuộc giàn trống. Trống nhỏ đánh lên từng câu ngắn. Trống lớn giữ nhịp, ở cuối câu, một tiếng thôi. Các chú chơi trống nhỏ chạy chậm tròn vòng quanh mình biểu diễn trống. Chỗ này thích thú và nghệ thuật vô cùng. Nó quyến rũ khán giả. Sĩ quan Pháp tốn nhiều cuộn phim. Người ta yêu mến giàn trống ngũ lôi, vì giàn trống chỉ có năm đồng tử chơi bay bướm. Lúc các chú đánh dùi vào thân trống để đợi nhịp dẫn đi xa mới ngoạn mục. Những tiếng lắc cắc hòa với tiếng thùng thùng sao mà tuyệt diệu thế!
- Trống đồng của Khoa chỉ sôi nổi một thuở thôi. Trống ngũ lôi mới sôi nổi muôn thuở. Người ta đã quên dân tộc rồi. Bây giờ, quê hương nhớ dân tộc, Thái Bình tự ý sống với phong tục tập quán rất xưa của dân tộc Việt Nam. Chẳng phải Bảo Hoàng hối thúc. Người Pháp thì kính trọng Hội Đền Mẫu tuyệt đối. Em xem xe căm nhông và xe jeep của lính Pháp không dám chạy trên đường phố chính, hôm nay.
- Nhà văn hơi cảm xúc rồi đó. A, này anh xem, các bà mẹ đi bưng cầu vồng...
Kế tiếp giàn trống ngũ lôi, các bà mẹ Thái Bình bưng cầu vồng. Ở hậu phương kháng chiến, các bà đã là mẹ bộ đội. Một khúc lụa dài vẽ hình chiếc cầu vồng, mầu sắc đã nhìn thấy trên trời sau những cơn mưa vừa tạnh. Các bà đi hàng đôi, tay phải và tay trái nắm lấy cầu vồng. Người ta muốn lên Trời - Thiên đàng của Ky tô giáo, Niết bàn của Phật giáo - cuộc sống dưới Đất phải lương thiện, không được gian dối, ác đức... Nêú người ta thích sống bất lương, man trá, độc ác... người ta sẽ về cõi Chết, đau đớn vô cùng. Phải leo cầu vồng dưới cõi Chết - Địa ngục của Ky tô giáo, Âm ty của Phật giáo - Dưới gầm cầu bao nhiêu ác quỷ, chó ngao chờ mình rơi xuống, xé xác mình! Bưng cầu vồng ở Hội Đền Mẫu mang ý nghĩa thế. Các bà mẹ Thái Bình vừa đi vừa cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho chiến tranh sớm chấm dứt, để những đứa con về cùng mẹ.
- Mẹ em kia kìa...
- Mẹ anh đâu?
- Kia kìa, đó đó...
- Ừ nhỉ, mẹ Khoa nữa, mẹ Long nữa... Các bà vui ra phết!
Đến những chàng đi khoeo sau lưng các bà mẹ. Đây là dân miền biển. Họ ăn mặc chững chạc, chứ không cởi trần đánh chiếc quần đùi. Khoeo của họ làm bằng khúc cây tre già, cao hơn họ. Quá nửa khúc cây, họ lấy hai miếng gỗ gọt đẽo vừa chân họ, gắn vào khúc cây. Trên ngọn khúc cây, họ máng hai sợi dây cột chân họ. Cái khoeo thật đơn giản. Leo lên nó mà đi là cả một công trình. Với dân biển, đi khoeo, với cây đèn bão, họ đứng chờ cá thấy ánh sáng chiếu xuống nước đến tìm mổi ăn, họ lấy vợt bắt từng con dễ dàng quá. Về thị xã, họ để hai cây khoeo một chỗ, giữ cho khoeo đứng thẳng, họ cho chêm cao lên. Và buộc dây họ đi khoeo, còn nhanh hơn người ta đi giầy. Trên đường phố, họ vui vẻ đùa giỡn nhau, làm cho Hội Đền Mẫu tươi lên.
- Anh không thích đi khoeo.
- Không hấp dẫn à?
- Đi khoeo một chân mới hấp dẫn!
- Luyến nghịch ngợm có khác
Các bà vừa lấy chồng theo chân những chàng đi khoeo. Các bà cũng mặc đồng phục quần đen, áo dài mầu gụ, đi guốc. Mỗi bà cầm một giỏ đủ các sắc hoa ngâu, hoa mẫu đơn, hoa ngọc lan... Các bà nổi lắm. Nhất là một con. Gái một con trông mòn con mắt. Khán giả đã cổ võ các bà nhiệt liệt.
- Giá em đi với các bà này, nhỉ?
- Anh sẽ ghen.
- Không, anh sẽ... đả đảo em!
Bây giờ mới đến đoạn rùng rợn. Bốn tay xuyên lình đi bốn hướng. Họ mặc bốn mầu áo: xanh, đỏ, tím, hồng. Ông nào mặc áo dài xanh, khăn xanh và thắt lưng xanh luôn. Ông áo đỏ cũng vậy... Quần của bốn ông mầu trắng. Họ mang dép Gia Định. Họ đúng là dân đồng bóng. ỏn ẻn và nũng nịu khiếp đời! Mỗi ông cầm hai cây lình bằng thép, tròn như ngón tay trỏ và sắc như nước. Cán lình là chỗ các ông cầm trên tay, tựa cán dao.
Ông xanh nhẩy múa một lát, nhìn khán giả, cười tủm. Rồi ông vung lình bên trái, xuyên lình má trái sang má phải. Không một giọt máu chầy ra. Ông lại vung lình bên phải, xuyên lình má phải sang má trái. Vẫn không giọt máu nào chẩy ra. Người ta đứng tim xem ông xanh biểu diễn xuyên lình. Sĩ quan Pháp vừa chụp hình vừa kinh ngạc. Ông xanh bịp chăng? Ông đỏ trả lời ngay. Ông xuyên lình má phải sang má trái. Để lình đứng im. Ông chạy ra chỗ sĩ quan Pháp bảo họ rút cái lình ra, bằng tiếng Tây chỉ trỏ. Người Pháp đã chứng kiến tận mắt. Ông đỏ gật đầu cám ơn. Ông vung lình tay trái, xuyên lình má mình. Ông tím, ông hồng... Các ông đua nhau xuyên lình, ròng rã hai ba tiếng đồng hồ. Không có máu chẩy.
- Y học chịu thua xuyên lình.
- Họ sẽ nghiên cứu, chứ anh?
- Từ lâu lắm rồi, khoa học đã chịu thua. Xuyên lình đặt ra vấn đề huyền bí. Mà huyền bí không tài nào nghiên cứu nổi.
- Giàn nhạc tới rồi...
Những ông nhạc sĩ sử dụng đàn tranh, đàn nguyệt, đàn chầu văn, nhị, trống cơm. Họ mặc áo the thâm, quần trắng. Nón đội trên đầu. Họ vừa đi vừa tấu cổ nhạc Việt Nam. Thỉnh thoảng, họ hòa tấu bình bán, lưu thủy... Tay nhị có dịp biểu diễn đơn độc với trống cơm. Trống cơm đi với kèn đám ma thì bất hủ. Giàn nhạc dân tộc, ngoài đình đám hội hè, còn chơi ở gánh hát chèo, ở hát ả đào, ở lên đồng... Thiếu đàn bầu, hôm nay. Đàn bầu, thứ đàn lãng mạn nhất loài người. Chì có một dây thôi. Mà nó làm rạo rực tâm hồn ta. Ca dao phải viết về nó: Đàn bầu khéo gẩy thì nghe, Làm thân con gái chớ mê đàm bầu. Nhạc chơi ở Hội Đền Mẫu chỉ có tính cách trình diễn tượng trưng. Không thể tìm chất nghệ sĩ chốn này.
Sau giàn nhạc, bốn bà đồng bóng diện đồ Thượng Hải, sắm vai bốn ông hoàng tử đi hộ tống đức thánh Mẫu. Bà nào bà nấy đeo kiếm bên người oai phong, lẫm liệt. Một tay đỡ vỏ kiếm, một tay sửa soạn rút kiếm ra.
Rồi đến kiệu rước thánh Mẫu. Uy nghi và kính trọng. Kiệu to, cao, rộng, dài, trên đó không có tượng thánh Mẫu. Thánh Mẫu bàng bạc, mơ hồ trong lòng ta. Ngài chỉ là những dòng chữ tạ ơn tự mấy ngàn năm sau của những người thọ ơn. Trên kiệu có những dòng chữ đó, viết bằng chữ Hán. Bốn mươi người khiêng kiệu đức thánh Mẫu. Hai mươi chiếc đòn, mỗi bên mười chiếc và hai mươi người, trong và ngoài, tay trái và tay phải, khiêng kiệu rước thánh Mẫu thăm thú thị xã tiêu thổ kháng chiến. Bốn mươi người mặc áo dài mầu xanh nhạt, quần trắng, đầu đội khăn đen, lưng quấn bao đỏ, đi chân đất. Họ cung kính thánh Mẫu, cho rằng khó lòng mới được khiêng kiệu thánh Mẫu.
- Nghe lính đánh trống trận, anh nghĩ đức thánh Mẫu là con cháu Trần Lãm.
- Cứ nghĩ Mẹ là người Việt Nam đã đủ hãnh diện rồi.
Theo sau kiệu, hàng dài dài những người mưòi hai phủ huyện. Có điều đáng chú ý. Hội Đền Mẫu không ai cầu kinh, không ai lần tràng hạt. Dân tộc hoàn toàn. Kiệu lễ qua nhà Luyến mất hai tiếng đồng hồ. Bây giờ, 12 giờ trưa. Luyến bảo Ngọc:
- Buổi chiều hãy lượn, em nhé!
Ngọc nói:
- Có lẽ chỉ tới đền Mẫu thôi. Em chắc anh đã biết thừa. Toà tỉnh trưởng Bảo Hoàng tạm dẹp phòng thông tin vài ngày. Bên trong toàn đồng bóng, khói hương làm cay mắt, chịu không nổi đâu. Thôi lượn nhé, anh nhé!
Luyến lại thở dài:
- Có Côn dự lễ Hội Đền Mẫu năm nay, chắc chắn nó sẽ nguôi ngoai thù hận.
Ngọc không nói gì, ôm lấy Luyến đi vào nhà...
CHƯƠNG 20
Vũ nằm ở bệnh viện dã chiến của quân đội Pháp đã hai tuần. Hôm đầu tiên về đây, Vũ mê man chẳng biết gì. Những viên đạn bắn vào ngực, vào bụng, vào tay Vũ ra nhiều máu quá và Vũ thiếp đi giữa trận chiến. Hôm nay tỉnh táo, Vũ mới hiểu mình còn sống.
Lính Pháp không nương tay, khi mình còn là chiến sĩ cách mạng đương đầu họ. Khi mình bị thương nằm xuống, lính Pháp lại tận tâm lo chữa cho mình. Y sĩ quân đội Pháp, mỗi ngày bốn lần, thăm bệnh của Vũ diễn tiến đến đâu rồi. Những vết thương ở ngực, ở bụng còn băng kỹ. Vết thương tay trái, người ta phải băng bột, dùng sợi dây vải, đeo cổ nâng lên.
- Anh nói tiếng Pháp khá đấy.
Người y sĩ nói.
- Thưa bác sĩ, tàm tạm thôi.
Vũ thành thật trả lời.
- Anh may mắn lắm. Tôi đã gắp hai viên đạn ra. Một viên nằm cách phổi một xăng ti mét, viên kia cách tim hai xăng ti mét. Những viên khác chỉ gây thương tích xoàng. Tay trái anh gẫy đốt xương nhỏ, tôi đã băng bột, chỉ sử dụng được 50 phần 100. Mười lăm hôm nữa anh về.
Người y sĩ nhìn Vũ, cười tự nhiên.
- Cám ơn bác sĩ, tôi nhớ ơn bác sĩ suốt đời.
Vũ nói.
- Không phải cám ơn, bổn phân của tôi mà. Nhờ chính anh, anh thoát chết, chẳng phải nhờ tôi đâu. Anh có biết cái gì không?
Người y sĩ hỏi.
- Không, thưa bác sĩ.
Vũ đáp.
- Nhờ anh nói tiếng Pháp. Tiếng nước Pháp đã cứu anh!
Vũ nhớ lại, trong trận đánh ở Thụy Anh, Vũ trúng đạn nhiều quá, nó liều lĩnh kêu lớn: Sauvez-moi, sauvez-moi, s'il vous plait! Người y tá Pháp chạy khỏi lằn đạn tới chỗ Vũ. Ông ta nâng Vũ ngồi dậy. Vũ thiếp đi, từ lúc ấy.
- Người ta vào máu cho anh, chở anh lên trực thăng về bệnh viện.
Ngừi y sĩ vui vẻ.
- Trước 1950, ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, tôi gặp bất cứ thương binh nào của Việt Minh, họ cũng đều nói tiếng Pháp giỏi cả. Sau 1950, họ không biết nói tiếng Pháp. Tại sao thế? Họ bị cấm nói tiếng Pháp, hả?
Vũ mỉm cười:
- Không ai cấm họ nói tiếng Pháp cả. Ngày trước bộ đội Việt Minh toàn những người trí thức thành phố, bây giờ, bộ đội là lính nông dân, họ chỉ biết đánh người Pháp, chứ không biết nước Pháp.
Người y sĩ ngạc nhiên:
- Anh là lính nông dân à?
Vũ lắc đầu:
- Tôi không phải nông dân, không phải trí thúc. Mà là học sinh thị xã, lớn lên tôi vào bộ đội.
- Thị xã nào?
- Thái Bình.
- Anh ở thị xã này?
- Vâng.
- Anh học lớp mấy, trường nào?
- Lớp nhất, trường Monguillot, nổi tiếng nghịch ngợm. Năm 1945, nước tôi độc lập, tôi học trung học gần hai niên. Thị xã Thái Bình bị tiêu thổ kháng chiến, vì người Pháp đe dọa chiếm đóng. Tôi thôi học, trốn nhà đi làm liên lạc viên quân đội, chờ đến tuổi vào bộ đội chiến đấu với Pháp.
- Không phải nhiệm vụ của tôi, tôi thấy anh kỳ lạ và độc đáo, tôi có sung sướng được hỏi anh vài câu không?
- Thưa bác sĩ xin bác sĩ cứ hỏi.
- Thái Bình đã yên, sao anh không về?
- Đã yên đâu? Chúng tôi vẫn đánh Pháp khắp nơi. Quỳnh Côi, Phụ Dực, Thụy Anh, Duyên Hà là nơi xẩy ra những trận đánh lớn, bác sĩ đã biết. Nhiều huyện lỵ Pháp chiếm đóng, tình hình có vẻ yên lặng. Yên lặng để nổi sóng gió, thưa bác sĩ. Yên lặng không phải là dấu hiệu đầu hàng Pháp.
- Thả anh về, anh nghĩ sao?
- Tôi tìm đại đội của tôi tiếp tục đánh Pháp.
- Để làm gì, sau đó?
- Giải phóng Thái Bình như ước mơ của tôi.
- Làm gì nữa?
- Hưởng cuộc đời xưa. Giã từ vũ khí, tôi xây dựng lại căn nhà cũ của tôi, trồng hai hàng hồi thơm hăng hắc, và sống với những người thân yêu.
- Chỉ có thế?
- Vâng. Chỉ có thế.
- Anh sẽ thành tựu ước mơ của anh, vì anh không phải chiến đấu chống Pháp nữa.
- Sẽ thành tựu ước mơ?
- Đúng lắm. Anh đã thành kẻ tàn phế trong chiến tranh. Pháp không sợ anh, Việt Minh không dùng anh. Anh yên thân trở về. Cá nhân tôi rất cảm phục anh. Anh càng có sức chiến đấy, tôi càng mừng. Những vết thương trên thân thể anh không cho phép tôi nói anh đã bình phục hoàn toàn. Chứng chỉ của anh khi xuất trại sẽ ghi rõ: Thương binh tàn phế 100 phần 100.
- Tàn phế!
- Đừng buồn. Can đảm lên. Anh nằm xuống. Anh tốt lắm. Tôi sẽ gặp lại anh.
Người y sĩ đi khỏi, Vũ mới bần thần khôn tả. Cuộc đời chiến đấu của Vũ chấm dứt từ đây, ở bệnh viện dã chiến quân đội Pháp, nơi đã hết mình cứu sống Vũ. Nó đi chinh chiến năm năm, bây giờ, trở về với tấm thân tàn phế. Thái Bình chưa giải phóng, nó đã buồn bã hồi hương. Thái Bình sẽ được giải phóng, nó tủi hận quê hương không cần đến nó. Vũ đứng ở một góc phố, nhìn trộm người, lớp lớp đi qua trong niềm vui long trời lở đất của thị xã. Giá Vũ chết trận tại Thụy Anh, đã được vinh dự: Chết vì tổ quốc. Cái vinh dự đó, Vũ không hưởng trong cõi hư vô. Cha nó, dì nó và các em nó phải ngạo nghễ với đất trời. Một kẻ không thích sống hèn, đã sống hèn. Vũ là chàng thương binh Pháp bắt trong chiến trận sôi sục, cứu chữa những vết thương và ghi vào hồ sơ tù binh: Trần Vũ, tàn phế 100 phần 100. Kẻ thù hết sợ Vũ, cách mạng hết cần Vũ, có kiếp sống nào hèn mọn hơn? Từ sống hèn đến chết vinh, chẳng qua một câu Sauvez-moi, sauvez-moi. s'il vous plait. Lính nông dân chỉ biết chết vinh, không biết sống hèn. Vì không biết nói tiếng Pháp.
Vũ hình tưởng ngày xưa, Vũ trốn nhà đi làm liên lạc viên cho đại đội 4, trung đoàn 44. Vũ sung sướng vô cùng. Nó trở nên hữu ích cho tổ quốc. Cha nó tìm kiếm khắp nơi, Vũ rõ chuyện, nhất định không về. Nó coi gia đình như chiếc lá bay. Đất nước mới là cây cổ thụ treo leo giữa trời. Nó thù thực dân Pháp tự ngày thực dân Pháp chiếm Nam Bộ. Rồi, thực dân Pháp tiến chiếm thủ đô Hà Nội và các thành phố, các tỉnh lỵ Bắc Bộ.
Thái Bình bị đập phá hết nhà cửa, dinh thự. Nhìn thấy rõ quê hương mình tàn phá vì thực dân đe dọa sẽ xâm chiếm, Vũ căm thù thực dân Pháp còn thẫm nét hơn. Pháp đã sang Thái Bình, năm 1947. Rút ngay. Hồ chủ tịch quyết định Thái Bình là đồng không, nhà trống, sau đó. Vũ đã mong tuổi nó lên vội vàng. Để vào Nam tiêu diệt Pháp. Lại mong để vào bộ đội.
Vũ đã vào bộ đội. Vẫn đại đội 4, trung đoàn 44, dưới sự dẫn dắt của các anh trí thức thành phố. Trung đoàn 44 luôn luôn chiến thắng. Ở Hưng Yên. Ở Hải Dương... Trung đoàn 44 chưa biết thua trận. Các anh lính trí thức thành phố đánh Pháp thật hiên ngang, thật rạng rỡ. Cuối năm 1949, trung đoàn 44 dưỡng quân tại làng Thư Điền, Tiền Hải. Đầu năm 1950, Pháp chiếm Thái Bình và Vệ quốc quân bị giải tán. Thay đổi cấp chỉ huy hàng loạt. Trung đoàn 44 biến tích. Các anh lính trí thức thành phố đáng yêu đi đâu hết.
Bây giờ, Vũ là lính trong Quân đội nhân dân. Đảng lao động ra đời. Đảng sẽ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Vũ chẳng cần chi tới Đảng lao động, tới quân đội nhân dân, các văn nghệ sĩ học tập lớp chỉnh huấn, tới những bài hát suy tôn Liên xô, Trung hoa, tới giai cấp đấu tranh. Và, lính đánh Pháp, nông dân thay thế trí thức thành phố. Quân đội nào cũng được, lính nào cũng được, đảng nào lãnh đạo cũng được, miễn là làm cho Thái Bình mau mau giải phóng.
Một hôm, chính ủy của đại đội 14 - chính trị viên của đại đội 4 cũ - gọi Vũ nói chuyện:
- Đồng chí có hiểu tại sao bộ đội trí thức bỏ ra đi không?
- Không. Tôi không cần hiểu.
- Phải hiểu chứ, đồng chí!
- Thưa đồng chí chính ủy, xin đồng chí giảng nghĩa cho.
- Bộ đội trí thức thành phố là giai cấp tiểu tư sản, không thích hợp cho cuộc chiến đấu hôm nay và cho cuộc chiến đấu mai sau. Đảng đã gạt giai cấp tiểu tư sản ra ngoài cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Thưa đồng chí, đồng chí cũng là trí thức mà!
- Tôi đã đầu hàng.
- Đồng chí đầu hàng ai?
- Giai cấp vô sản!
- Tôi không chú ý tới giai cấp, vì giai cấp nào cũng đánh Pháp. Tôi hằng mong Pháp đại bại ở Thái Bình, tôi trả súng ống cho Đảng, về sống với gia đình, chẳng màng gì vào cuộc chiến đấu mai sau nữa.
- Đồng chí có thể về với gia đình tự bây giờ.
- Thưa đồng chí, tôi đi từ liên lạc viên đến bộ đội, ngót nghét năm năm, không cấp bậc và cũng không cần cấp bậc. Năm năm chịu đựng gian khổ, tôi vẫn trung kiên giữ lời thề: Giải phóng thị xã Thái Bình. Nếu tôi bị Đảng gạt ra ngoài thì đành chịu. Bằng không, đồng chí cứ để tôi chiến đấu với lính nông dân đến ngày thị xã Thái Bình được giải phóng.
- Phải giữ đồng chí lại chứ. Đồng chí nên hiểu giai cấp của mình, chiến đấu càng đầy nghị lực.
- Thưa đồng chí, tôi ở giai cấp nào?
- Bố đồng chí là lái buôn hàng chuyến, chứ?
- Vâng.
- Thuộc thành phần trung thương, như trung nông ấy.
- Vâng.
- Đồng chí nằm trong giai cấp nông dân! Đó là giai cấp lính.
- Tôi được chiến đấu?
- Hãnh diện là khác.
- Tôi chiến đấu ở Thái Bình?
- Đồng ý. Chiến đấu tới ngày giải phóng thị xã.
Từ đấy, Vũ chiến đấu tại tỉnh Thái Bình, các mặt trận bên kia sông Trà Lý. Vũ làm liểng xiểng Pháp ở Quỳnh Cội, Phụ Dực, Thụy Anh, Duyên Hà. Một năm đầu, Pháp đại bại. Lính nông dân mơ làm anh hùng Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn... cứ nhẩy vào lửa, xông lên tiêu diệt địch quân. Pháp đã rùng mình kinh sợ.

Hai cuộc hành quân Trái Chanh, Trái Quít làm giảm cường độ chiến đấu của ta. Bây giờ, thế trận thay đổi, Pháp không chạy nữa, quân ta chạy dài dài. Pháp bắt được quân ta, lại thả ra vì là nông dân. Ta là người nông dân, mặc áo lính, Pháp không hiểu câu hát này, và có hiểu thì, nông dân thời chiến tranh có mặc áo lính bao giờ. Lính nông dân đi chân đất, đánh Pháp, người nông phu đi chân đất, cầy ruộng. Lính nông dân mặc áo cánh rách rưới, quần đùi, khi chạy Pháp, gói súng đạn vào ny lông, ném xuống sông ngòi, Pháp thộp cổ, nhìn những khuôn mặt hiền lành như... nông dân, Pháp thả ngay. Lính nông dân có lợi như thế đó. Phần đông ta đỡ hao hụt quân số.
Đến những cuộc hành quân đầy rẫy quy mô sau đó, cách mạng tan nát, kháng chiến rã bầy, bộ đội tán loạn. Tình hình ổn định, yên tĩnh khắp nơi, đấy là sự thắng lợi lớn của Pháp. Pháp chỉ tiễu trừ Việt Minh, không sát hại lương dân và thu lương dân về phía mình.
Cách mạng cho dân biết vẫn còn cách mạng. Thỉnh thoảng vài trận lớn xẩy ra. Trận mà Vũ tham dự ở Thụy Anh là trận đánh lấy tiếng cho cách mạng. Cuộc đời đãi ngộ Vũ thật nhiều, một lần không đãi ngộ, một lần thôi, làm chếnh choáng tâm hồn Vũ.
Vũ nằm xuống giường bệnh. Nước mắt nó ứa ra...
CHƯƠNG 21
- Tôi đã tháo băng trên mình anh. Những vết thương thành sẹo cả rồi. Có tắm rửa, anh nhè nhẹ kỳ cọ nhé! Kẻo những vết thương bị xước máu, làm độc.
- Thưa bác sĩ, vâng.
- Tay trái anh, tôi đã ghi rõ ngày tháng gỡ băng bột vất đi.
- Vâng.
- Đừng vì ngứa ngáy mà sốt ruột, nhé!
- Vâng.
- Bên quân đội đã cấp giấy tha anh chưa?
- Dạ, rồi ạ!
- Khoản tiền di chuyển nữa?
- Rồi.
- Chứng nhận bệnh tình của, tôi anh cất kỹ. Để anh xin việc làm được dễ dãi.
- Vâng.
- Cần gì tôi, anh cứ đến đây.
- Vâng. Tôi không quên ơn bác sĩ, suốt đời tôi nhớ bác sĩ.
- Anh nên nhớ rằng, mỗi người có một số phận. Số phận nó tới lúc nào, mình không biết. Chúc anh can đảm.
Người y sĩ đưa tay bắt chặt tay Vũ. Vũ chia tay người y sĩ ra về.
Nó mặc bộ quần áo bệnh nhân, tay trái dùng sợi dây vải đeo cổ, nâng cao lên. Kẻ tàn phế đang bước những bước chân bi ai qua cổng quân đội Pháp tới nhà thờ. Nó nhìn vào sân giáo đường. Im vắng. Lúc ấy, 9 giờ sáng, ngày 10 tháng 4 năm 1953. Vũ đi trên hè phố Bùi Viện. Con phố này, từ phố Lê Lợi, dẫn vào nhà thờ. Những nhà cửa công chức kín mít, không thấy người nào ngoài phố.
Vũ bước thật chậm. Mà, đã đến Lê Lợi. Nó rẽ trái để về nhà nó. Thoạt tiên, Vũ nhìn lên cầu Bo. Lòng nó vấn vương trăm ngả. Nó nghĩ đến hàng hồi mộng tưởng. Nếu một mai, có người yêu dấu kỷ niệm, cố tìm hạt giống hồi đem về thị xã trồng, đứng dưới phố chính, chẳng nhìn thấy cầu Bo. Cầu Bo, Vũ lẩm nhẩm, nơi nó đã dắt con Thúy lên chơi, nó gặp thằng súc sinh Dương, con lão phó cẩm, trêu ghẹo người yêu của nó, nó đánh cho hộc máu mồm, lão phó cẩm bắt nó xin lỗi, nó không xin lỗi và bị đuổi học. Những mảng đời con Thúy dính líu những mảng đời thằng Vũ, lây lất suốt năm năm Vũ theo kháng chiến, không bao giờ Vũ quên Thúy. Từ ngày ông y sĩ quân đội Pháp bảo nó tàn phế, nó sợ hãi, không dám nhớ Thúy nữa. Chả phải sợ hãi riêng Thúy, còn sợ hãi tất cả những người chung quanh nó.
Vũ định rướn vài bước nữa, sẽ đến phố Lý Thường Kiệt. Qua hiệu phở Phớn, Vũ ghé vào ăn một bát. Tiền của quân đội Pháp cho đây, cứ việc ăn. Vũ đã thấy vài người thị xã quen biết cha dì nó, nhận nó không ra. Có ai tưởng một thằng đầu trọc lốc, mặc quần áo bệnh viện, tay trái què quặt buộc cao lên là thằng Vũ? Thằng Vũ của Monguillot, nghịch như phá, đủ thứ kiểu chơi của học trò.
Phở Phớn bấy giờ đang đông khách. Vũ tìm chỗ ngồi. Bao nhiêu năm kháng chiến không được ăn phở Phớn. Ngửi mùi nước dùng cũng đã thòm thèm rồi. Vũ gọi phở. Một lát, người bưng bát phở ra. Vũ hít hà mãi mới ăn. Ăn xong, Vũ gọi một bát nữa.
Lúc ấy, Luyến ngồi trong hiệu, cứ ngó Vũ chằm chằm. Khi nhận ra Vũ, Luyến để mặc Vũ ăn phở. Chừng Vũ trả tiền, Luyến chống nạng vội vã sang bàn của Vũ.
- Vũ!
Vũ giật mình. Nó nhìn Luyến.
- Luyến!
Và đứng dậy, ôm lấy Luyến bằng một tay. Nó quên nó tàn phế. Mà nghĩ tới bạn cụt một chân đi nạng gỗ. Hai đứa khóc suớt mướt. Luyến đã nói nó phải tiết kiệm nước mắt để dành khóc hai thằng bạn thân nhất trên đời này là Vũ và Côn, nếu chúng nó bị cuộc đời xua đuổi. Côn thì Luyến chưa khóc, vì cuộc đời mênh mông chưa xua đuổi Côn, cộng sản đã xua đuổi, cộng sản bé nhỏ sao so nổi với cuộc đời. Vũ thì Luyến lại khóc, chưa biết ai xua đuổi Vũ, Luyến có linh cảm cho rằng cuộc đời xua đuổi Vũ. Hai đứa vẫn khóc. Nước mắt đã thẫm ướt trên hai vai áo. Khách ăn phở nhìn hai đứa. Mặc kệ, tình cảm nó dâng lên phải để nó dâng lên.
- Về nhà tao đi.
- Tao muốn về nhà tao trước.
- Bây giờ, bố mày vắng mặt, con Tú, con Mai đang ở trường, thằng Khoa lên Hà nội học rồi. Đến tao, trưa mày về đúng nhất.
- Ừ, về nhà mày.
Hai đứa ra khỏi hiệu phở. Trên hè phố chính, thằng mặc quần áo bệnh viện, tay trái què, đầu trọc lốc, đưa tay phải bá vai thằng cụt một chân chống nạng gỗ. Đó là cuộc đời mới nhất của hai thằng có mảng đời hoa niên lộng gió.
- Mày trong bệnh viện dã chiến ra, hả?
- Ừ. Sao mày biết?
- Tao cũng ở đấy.
- Bị bắt lúc bị thương như tao?
- Không, ở sân nhà tao, hôm quân Pháp sang chiếm Thái Bình. Tao thua mày xa, không đi liên lạc, tới tuổi, không vào bộ đội. Những năm tháng sống ở hậu phương, tao đi học, theo triết lý đợi thời đại xoay vần. Tao không theo kháng chiến, không chống kháng chiến, có cảm tình với kháng chiến, vì bạn tao, em tao đang kháng chiến. Thằng Ái say mê kháng chiến và biệt tích. Chị Nhi theo chồng về Hưng Yên. Anh Lưu theo vợ sang Hải Phòng. Còn mình tao, cụt một chân, sống với bố mẹ. Tao không vinh dự được bị thương vì tổ quốc, chẳng đóng góp xương máu chút nào cho giải phóng Thái Bình. Buồn chưa?
- Tao chịu đựng năm năm khổ sở cho cách mạng, chiến đấu rất hào hùng cho kháng chiến. Bây giờ, tao bị thương đến tàn phế, cách mạng chê bai, kháng chiến hết dùng, giặc Pháp không sợ, giải phóng thị xã mình ở cái khổ nào? Đời tao heo hút quá. Tàn phế rồi!
- Mày cụt tay, hả?
- Chưa cụt, chỉ sử dụng được 50 phần 100.
- Ngực mày nhiều vết thương, hả?
- Suýt chết.
- Mày vẫn đi được. Tao mới cụt chân, Vũ ơi! Tàn phế của mày nên nhường cho tao.
- Tao sầu đau vì thị xã chưa được giải phóng.
- Chắc mày thích vòng hoa chiến thắng đeo lên cổ mày và những tiếng hoan hô vang dội?
- Tao ham gì!
- Có những người, phần đông, không ích lợi cho cho giải phóng. Thế mà khi giải phóng thị xã, họ tung tăng trước đám đông, khoe khoang mình đã là người giải phóng. Có những người, rất ít, làm lợi ích cho giải phóng. Khi thị xã được giải phóng, họ âm thầm về nhà sống cô đơn như người thua trận. Người đáng yêu đó là mày, Vũ ạ! Mày quên tất cả chuyện kháng chiến đi, Giải phóng thị xã càng quên đi nữa, coi như cuộc chơi không tính toán nên hỏng bét. Phải, cuộc đời chỉ là cuộc chơi. Chơi cho tới cùng, tới lúc hết hứng. Mày vừa hết hứng, bỏ cuộc chơi vừa kịp thời. Cái tàn phế của mày, cái tàn phế của tao, cơ hội này, người ta đang chia rẽ giai cấp để giết nhau, chúng ta được bình yên đứng im nhìn thiên hạ tranh chấp. Thế thì tàn phế đâu có heo hút. Nó là cái may hiếm có...
Người y sĩ quân đội Pháp đã nói với Vũ: Mỗi người có một số phận. Số phận nó tới lúc nào, mình không biết. Bây giờ, nghe Luyến nói, Vũ cảm thấy nỗi tuyệt vọng trong người nó bị đuổi ra ngoài. Luyến không an ủi suông đâu. Luyến chí tình. Vì Luyến cũng tàn phế như Vũ. Luyến nói những điều rất chí lý. Vũ đi kháng chiến chỉ có một niềm ao ước nho nhỏ. Diệt tan thực dân Pháp, Vũ sẽ lui về, không mong cái gì khác để ham muốn. Vũ là người quê hương Thái Bình, Vũ phải làm cho rõ mặt Thái Bình. Diệt tan giặc Pháp, cách mạng chẳng chịu cho Vũ lui về, bắt Vũ nắm một chút quyền bính ở thị xã, ngày cách mạng giải phóng hoàn toàn tỉnh lỵ Thái Bình thì sao? Vũ hết làm chiến sĩ vô danh, đẹp ngút ngàn trời đất. Đi chiến đấu mưu đồ một thứ quyền lợi nào đó, không phải đi chiến đấu. Vũ không dám từ chối, thì Vũ đâu còn là Vũ. Cuộc đời chỉ là cuộc chơi. Cuộc chơi gồm nhiều trò chơi. Trò chơi kháng chiến của Vũ không tính toán. Đến lúc thân thể tàn phế là lúc trò chơi hết hứng. Lại có trò chơi khác, Vũ không chơi nữa, đứng xem thiên hạ chơi.
- Tao mở cửa nhé! Lúc này, bố ta làm ở Ty công chánh, mẹ tao đang bận rộn chuyện đồng bóng với bác cả Hồng. Chúng mình sẽ tự do trò chuyện. Xuống phòng riêng của tao, nhé?
- Ừ.
Hai đứa vào nhà. Vũ nằm trên chiếc ghế xích đu. Luyến ngồi lên giường sát cạnh bạn. Nó rút gói Cotab cho Vũ, để gạt tàn thuốc gần đó:
- Hút đi. Không biết hút, hãy tập hút. Từ nay, người tàn phế phải hút thuốc lá, mày ạ! Hút thuốc giải buồn phiền và suy nghĩ trong cô đơn.
Vũ rút một điếu. Luyến bật diêm cho Vũ đốt. Nó cũng ngậm một điếu, mồi lửa:
- Có bao nhiêu chuyện anh em mình xẩy ra, từ ngày mày bỏ nhà theo kháng chiến, tao nói hết sáng nay, để mày nghe và hiểu. Sau đó, tao không nói nữa. Những chuyện mới sắp tới, sẽ tới và phải tới, làm chúng ta điên đầu. Thì giờ dùng cho nó. Thời đại vẫn xoay vun vút.
Vũ nhả khói thuốc:
- Nói chuyện thằng Khoa đi.
Luyến kể thằng Khoa theo gia đình hồi cư thị xã cuối 1950. Nó đã sống tiếp Vũ thời tuổi vàng hoa mộng ở Tường An. Nó quen con Liên, Nguyễn Kiều Liên, tản cư ở Hà Nội về Tường An. Nó yêu Liên. Khoa học rất giỏi. Nó đỗ trung học phổ thông và lên Hà Nội, nó bỏ đệ tam học nhẩy đệ nhị. Nó đã gặp Liên khắng khít như cũ. Hai đứa sắp lấy nhau. Thằng Khoa hoàn toàn hạnh phúc. Nó gặp thằng Vọng...
Vũ nhổm ngưòi lên:
- Vọng ghẻ tầu!
Luyến cười:
- Vọng chính ủy, bí danh Kỳ Bá. Chúng mình cứu đói nó chậm ba ngày. Thầy Nguyễn Công Hoan cho người đến mang nó đi và dạy nó thành người cộng sản. Nó là đảng viên Đảng lao động, tức là Đảng cộng sản. Nó tâm sự với thằng Khoa rất nhiều. Vọng đã khóc, vì chúng mình thương nó, cầu chúc chúng mình thành công và hẹn sẽ gặp ngày Thái Bình giải phóng. Chính Vọng nằn nì gia đình mày vào thị xã. Nó đã hỏi cô Thi nào đó ở Tường An làm vợ. Nó mong ước thấp hơn chúng mình, dẹp tan giặc Pháp, nó sẽ về Tường An sống với vợ, làm ruộng chắt chiu nhau. Nó bảo nó thương Vệ quốc quân và trái tim nó vẫn hé mở cho lính tiểu tư sản đồn trú. Nó nói những câu tao thuộc lòng, tao coi thằng Vọng là bậc thầy của tao...
Luyến gạt mẩu tàn thuốc lá quá dài. Nó say sưa kể chuyện, quên đi mất thuốc lá kẹp giữa hai ngón tay:
- Thằng Khoa thông minh nhất thiên hạ. Nó thuộc một câu dài của Vọng: Thời cuộc như ngọn gió heo may, trải dài trên ruộng lúa vào mẩy. Thị xã Thái Bình giống hệt nước Việt Nam. Nhật đảo chính Pháp. Chết đói. Chết no. Cách mạng làm cuộc tổng khởi nghĩa. Giết Việt gian. Lụt lội, Tầu tước võ khí Nhật. Tiêu thổ kháng chiến. Tản cư. Pháp sang Thái Bình... Vẻ buồn tỉnh lỵ cũng là vẻ buồn dân tộc. Em thấy chưa? Một mai, em sẽ oán trách người này, bênh vực người nọ. Rồi, em sẽ ân hận, vì oán trách sai, bênh vực sai nốt. Con người này chống đối con người nọ không phải con người thích chống đối. Mà, hoàn cảnh nó dìu đi. Thằng Vọng đấy, mày thấy sao?
Vũ dập điếu thuốc:
- Thằng Vọng là giai cấp vô sản chính gốc. Dù nó có là cộng sản đi chăng nữa, ước mơ và tư tưởng của nó cũng là ước mơ và tư tưởng tiểu tư sản. Vọng cộng sản có tâm hồn tiểu tư sản.
Luyến hít một hơi thuốc dài;
- Nó có làm hại ai được không?
Vũ châm điếu thuốc mới:
- Không đâu. Hoàn cảnh nó dìu Vọng đi. Đảng cộng sản dìu Vọng đi. Mỗi lời, mỗi việc, Vọng phải làm theo lệnh Đảng. Nó mất quyền tha thứ cho người phạm tội. Tao thương nó lắm.
- Mày là Vọng, người cộng sản cứu mày, đưa mày lên danh vọng, mày có theo cộng sản không?
- Vấn đề đó thuộ5c về ân nghĩa. Tao theo cộng sản, chứ!
- Có một bạn thân của chúng mình không chấp nhận điều đó.
- Ai?
- Đặng Xuân Côn.
Vũ lại rướn ngưòi lên:
- Côn đã về đây à?
Luyến buồn rầu nói:
- Côn về đây, năm ngoái. Gia đình nó hồi cư về Hà Nội. Nó đi học sĩ quan ở Sơn Tây trốn về. Cộng sản quy định nó giai cấp tư sản, thành phần địa chủ ác ôn. Cộng sản đã giết ông nội nó, cụ Hào Điển, một cách dã man. Nó tuyên bố sắt máu: Nó chống cộng sản, nó và cộng sản không đội trời chung. Nó ghét thằng Vọng thậm tệ. Mày, thằng Lôc, nó ghét luôn, vì chúng mày chiến đấu cho cộng sản. Tao khuyên nó, nó không nghe. Nó về Hà Nội và không viết bức thư nào. Có lẽ, nó đã đoạn tuyệt chúng mình.
- Thù hận làm Côn điên lên rồi. Thương nó quá.
- Thằng Khoa bảo nó mất trí.
- Trò chơi giai cấp của cộng sản đấy. Giai cấp, giai cấp cái củ thìu biu à?
- Côn cũng chửi thế.
- Tao chán nản chuyện phân chia giai cấp. Người ta chia thành phần tao và quy định giai cấp cho tao.
- Mày giai cấp gì?
- Nông dân! Giai cấp lính, bị bóc lột từ bốn nghìn năm! Vì giai cấp nông dân, tao thoát cảnh khu trừ như bộ đội trí thức tiểu tư sản. Tao không được chiến đấu, bị đuổi về, tao sẽ thù hận cộng sản. Y hệt thằng Côn. Vọng tiên tri đúng, hoàn cảnh khốn nạn của một thời điêu đứng nó chia rẽ con người, Chia rẽ Côn và chúng mình.
- Côn không bao giờ trở lại Thái Bình nữa. Nó học ở Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức miền Nam để chống đối cộng sản.
- Chúng mình đã mất Côn, mất vĩnh viễn.
Nước mắt Vũ trào ra, loang đầy khuôn mặt. Nước mắt Vũ quyến rũ nước mắt Luyến. Những giọt lệ hiếm hoi để dành khóc cho Côn, Luyến đã khóc. Một thằng cụt chân, một thằng thương tích đầy thân thể, khóc vì những thằng bạn bị cuộc đời xua đuổi.
- Còn thằng Long?
- Nó chết trận ở Duyên Hà.
- Thằng Lộc?
- Không tin tức. Gia đình nó chưa hồi cư.
- Hết rồi, hả?
- Ngọc tình nguyện lấy tao làm chồng.
- Mày ấm lòng, nhé!
- Con Thúy...
- Đừng nhắc nữa.
Vũ đứng dậy:
- Toàn chuyện buồn thảm. Tao đi kháng chiến giải phóng, chẳng được tích sự gì. Cộng sản, giai cấp, thù hận, chia ly, chết chóc. Kết luận của đời tao là tàn phế.
Luyến chống nạng đứng lên:
- Những chuyện đời buồn thảm mà tao đã chịu đựng ở thị xã không thiếu gì. Thôi, cứ im lặng chờ đợi thời đại vần xoay.
Vũ nói:
- Tao sợ gia đình chưa hồi cư, bước chân có vẻ hồi hộp đến phố nhà mình. Giờ thì chắc chắn rồi, tao về nhé!
Luyến hỏi:
- Mày có muốn thay bộ quần aó bệnh viện, đội cái mũ, đi đôi giầy không?
Vũ nhăn nhó:
- Tao thích bố tao, dì tao và các em tao ôm bụng rũ ra cười, tưởng chừng tao đã giang hồ cống Đậu!
Luyến đưa bạn một khúc phố. Vũ nhìn lại đàng sau. Nước mắt nó ứa ra.
CHƯƠNG 22
Trời xuống thấp cho quạnh hiu mộ phần.
Và khói lấp nên đời xa mờ dần.
Ôi mùa thu, mùa thu cuối lối.
Ôi mùa thu, hẹn nhau đã tới.
Có nghe chuông khua vang cáo phó hồn tôi?
Nhạc thiều hư không...
Dục gọi thân phận cát về kiếp mịt mùng.
Để nuối tiếc trăm năm làm người lẻ loi.
Để thông reo ngàn năm sám hối tội lỗi,
với vô thường lập lòe ánh vỡ sao rơi.
Sầu đạo xưa tôi đến còn nhớ lại gì?
Rừng bí tích xui tôi lạc vào nẻo mê.
Mải rong chơi bỏ quên trái cấm...
Rồi nhạc thiều âm ty đưa tôi đi...
Giọt nước mắt rơi buồn tênh đường trần.
Sợi nắng úa soi thời gian ngại ngần.
Ôi mùa thu hẹn nhau đã tới.
Ôi mùa thu, mùa thu cuối lối.
Bánh xe tang lăn trên xác lá mồ côi...
 
Vũ thổi kèn ác mô ni ca bài Cuối thu đường đời của anh bộ đội tiểu tư sản, viết cả lời lẫn nhạc, gửi cho, trước khi bộ đội tiểu tư sàn bị gạt ra cuộc kháng chiến chống Pháp. Rồi anh ấy chết. Bấy giờ, Vũ chỉ thấy Cuối thu đường đời buồn thảm, không thích hợp với cách mạng hôm nay. Bây giờ, ôm những vết thương chiến địa, Vũ mới hiểu anh bộ đội tiểu tư sản gửi gấm tâm sự thật khéo léo vào bản nhạc. Cách mạng mùa Thu dẫn tới cuối thu đường đời, mùa thu cuối lối, tận cùng đường đi. Còn một chỗ nằm cho anh: Mộ phần hiu quạnh. Ôi, bánh xe tang lăn trên xác lá mồ côi, sao mà sầu heo hút thế! Xe tang lăn trên xác lá, đã sầu, lăn trên xác lá mồ côi, còn sầu gợn gai ốc. Vũ tin rằng, anh bộ đội hiểu, sẽ có lần, mình buồn muốn chết, khi tỉnh giấc chiêm bao cách mạng, nên tặng Vũ tâm sự của anh. Vũ không chiêm bao cách mạng. Nó chiêm bao giải phóng, mà giải phóng nhỏ bé thôi, giải phóng thị xã của nó. Nó đã buồn rồi.
Thấm thoát, Vũ trở về với gia đình được ngót bẩy tháng. Những vết thương ở bụng, ở ngực lành lặn cả. Tay trái của nó chỉ cầm những vật nhẹ. Tóc nó đã xanh um. Hè qua, thằng Khoa về Thái Bình chơi một tháng. Nó đã đỗ tú tái 1, ban toán. Khoa yêu Vũ vô cùng. Bao nhiêu thương nhớ Vũ từ lúc trốn nhà đi kháng chiến; bao nhiêu kỷ niệm ấu thời của nó, nó ôm Vũ vừa khóc vừa kể. Nó khoe mối tình của nó với Liên. Vũ sung sướng thấy Khoa no tròn hạnh phúc. Khoa nói nó đã tìm con đường đi mà cả bạn lẫn thù cùng kính trọng. Khoa sẽ học thuốc. Nếu gia đình không lo nổi, nó theo quân y. Vũ bằng lòng lắm. Đáng lẽ, cha Vũ viết thư cho Khoa bảo nó về ngay thăm Vũ. Vũ đã gàn cha để yên cho Khoa học thi, hè nó về, nó càng ngạc nhiên. Khoa ngạc nhiên thật. Thấy Vũ bị thương đến tàn phế, nó đã khóc dầm dề. Rồi nó theo triết lý Tái ông thất mã của Luyến an ủi anh nó. Khoa lên Hà nội đã ba tháng. Nó chăm viết thư cho Vũ, khuyến khích Vũ và hối thúc Vũ đọc sách cho nhiều. Đời sống của Vũ trở nên bình thường, như tất cả đều bình thường ở thị xã.
Tình hình mỗi ngày một khả quan. Không có súng nổ ở các huyện lỵ xa thị xã Thái Bình. Phụ Dực, Quỳnh Côi, Kiến Xương hay Tiền Hải đều yên tĩnh. Cái vẻ tiêu thổ kháng chiến vẫn còn thẫm nét. Cứ thế này mà sáng sủa thêm, mười năm nữa, nhà cửa sẽ xây dựng bằng xi măng cốt sắt, nước máy sẽ có tràn trề, điện sẽ dùng thả cửa, đình đám hội hè sẽ mặc sức làm. Cầu Nghìn ở Đồng Bằng sẽ bắc lại. Ô tô hàng Con Sóc, Con Ngựa Bay sẽ tiếp tục chạy Nam Định-Thái Bình-Hải Phòng và Hải Phòng-Thái Bình-Nam Định, cạnh tranh với Con Voi của ông Lê Văn Định. Bây giờ, Con Voi cứ tạm độc quền trên đường số 10. Vũ sẽ khoan khoái lắm, nếu hai hàng hồi được trồng, ở phố chính Lê Lợi.
Luyến thích triết lý theo thời đại. Nó khăng khăng phát ngôn theo thời đại, không phải theo thời. Theo thời, sống vương giả, một quãng đời nào thôi, khi thời đổi thay, sẽ khổ sở. Theo thời đại, chịu đựng luôn cả sự xoay vần của thời đại, xem thời đại, Luyến bảo mình đói khát tài năng, đành làm người theo thời đại. Thực ra, mình muốn làm người sáng tạo ra thời đại. Để thành Thành Cát Tư Hãn, Hitler, Lénine... Những kẻ theo Lénine là những kẻ theo thời đấy. Thằng cụt chân Luyến đã vẽ một con đường mà theo. Nó khẳng định theo thời đại, không chống đối kẻ theo thời nào. Cùng với thời đại vần xoay, những kẻ theo thời chết trước, đau đớn và nhục nhã. Nhưng mà, Luyến bảo, chẳng ai có quyền cấm đoán kẻ theo thời đại, bất mãn người và việc, hành động sai láo trong thời đại. Luyến muốn nói gì tự do nói.
Sáng nay, Vũ rủ Luyến và Ngọc xuống Đoan Túc ăn canh bánh đa nấu cá rô. Nó kê ngoài cửa hai chiếc ghế xích đu, một chiếc ghế dựa. Luyến trễ hẹn quá. Vũ chơi bài Cuối thu đường đời và suy nghĩ vẩn vơ mãi, Luyến vẫn chưa tới. Rút bao thuốc lá, Vũ hút cho đỡ sốt ruột. Chiếc ác mô ni ca này đã thổi Chiều quê của Hoàng Quý, cha cất nó kỹ. Vũ về mới có cây kèn kỷ niệm thổi nhạc. Vũ muốn khoe bản nhạc với Luyến. Tuyệt buồn. Kia rồi, Luyến và Ngọc đã tới. Tiếng nạng gỗ khua lọc cọc làm cả phố biết.
- Muộn thế?
Ngọc chỉ Luyến:
- Tại Luyến nghịch ngợm cãi với Ngọc, phải đứng lại một lúc, rồi trở lại nhà giở Việt Nam sử lược ra tra.
Vũ cười:
- Các bạn đấu tranh văn hóa, hả? Ngồi xuống đi, Ngọc! Thằng Luyến nằm xích đu.
Luyến nói:
- Tao bảo phố nhà mày cách mạng đặt tên mới Lý Thường Kiệt. Hồi Pháp đô hộ, nó vác thằng lái buôn Jean Dupuis nhét vào phố nhà mày. Jean Dupuis - Đồ Phổ Nghĩa - làm sao sánh nổi Lý Thường Kiệt, năm 1076, viết tuyên ngôn độc lập đầu tiên ở nước ta. Ngọc không tin. Ức quá, tao trở về nhà lôi Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim ra tra. Bèn đọc to: Nam quốc sơn hà Mam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Ngọc chịu thua, cô nàng cứ bảo Hồ Chí Minh viết tuyên ngôn độc lập đầu tiên.
Vũ gạt tàn thuốc:
- Jean Dupuis đã sinh sự, hỗn láo với triều đình ta. Ta sinh ở phố Jean Dupuis nên đã sinh sự, hỗn láo với mọi người. Hai bạn chỉ vì Jean Dupuis mà sinh sự, kiện cáo nhau. Jean Dupuis đúng là thằng súc sinh, nó làm trễ hai bạn.
Cả ba đứa cười thích thú. Luyến lôi Cotab ra hút. Ngày xưa, Vũ hay rủ Côn xuống Đoan Túc ăn canh bánh đa cua đồng. Canh bánh đa cua đồng Đoan Túc ngon hơn thị xã. Cái mầu gạch cua phi với hành mỡ, nó vàng nháy, thơm vô tả. Bây giờ, Côn xa Vũ rồi, thù hận Vũ, Vũ mời Luyến và Ngọc. Để nhớ Côn. Con đường từ phố Lý Thường Kiệt đến Đoan Túc nào có xa xôi mấy. Vũ và Côn đi bộ mất hai mươi phút. Hôm nay, Luyến cụt một chân, chống nạng lê bước, cũng một tiếng là cùng. Vũ nhìn đồng hồ. 9 giờ. Còn sớm chán.
- Tao vừa nhớ bài Cuối thu đường đời của anh bộ đội tiểu tư sản tặng. Bản nhạc ôm tâm sự anh ta. Anh bộ đội đã chết, trước khi anh bị gạt ra khỏi cuộc kháng chiến chống Pháp. Buồn lắm. Tuyệt buồn.
- Hát đi.
- Tao hát trước, thổi ác mô ni ca sau, nhé!
- Ừ.
Vũ hát. Không hay. Nó diễn tả thật đúng tâm sự anh lính tiểu tư sản. Rồi nó thổi kèn. Tiếng kèn của Vũ bắt cả khu phố phải ra đường thưởng thức. Nó chơi chầm chậm. Nỗi buồn man mác đi vào lòng người nghe, từ từ thành một cơn đau quằn quại, tê buốt ruột gan. Vũ dừng lại. Cơn đau vẫn trải dài. Và nước mắt thẫm má nó.
Luyến và Ngọc khóc tự bao giờ không biết. Khán thính giả khu phố đứng dài buồn thiu.
- Anh lính ấy tên là gì?
- Vũ Thương Anh.
- Anh ấy trót mê cách mạng mùa Thu, bước đi lỡ trớn đời. Anh không quay lại được, phải chết, nhìn thấy xe tang của mình lăn trong cuộc đời khốn khó. Cách mạng mùa Thu đã anh bước đầu, dẫn anh đến cuối lối.
- Đúng đấy.
- Mày cũng trót mê cách mạng mùa Thu, đi mãi, thành người tàn phế. Ông Hồ Chí Minh không bao giờ tàn phế. Ông Phạm Văn Đồng, ông Võ Nguyên Giáp... không bao giờ tàn phế. Vì các ông ấy không mê cách mạng mùa Thu, chỉ nói về cách mạng mùa Thu, toàn những đất nước, tổ quốc, anh hùng, dũng sĩ, độc lập, tự do, dân chủ, chiến đấu, kháng chiến, thành công... Những thằng bạn tao đi kháng chiến, tao sợ chúng nó hy sinh tính mạng cho những người không mê cách mạng mùa Thu. Những thằng bạn tao không chết, như mày, Vũ ạ, trở về với gia đình, tao nói rõ tư tưởng của tao. Hiểu chưa?
- Hiểu rồi.
- Hiểu thôi, chúng mình không chống đối cộng sản, nhé! Cộng sản đã đến chu kỳ bão lửa, kẻ nào chống đối cộng sản là tự nguyên biến thành que củi ném vào bão lửa. Cộng sản sẽ chấm dứt chu kỳ bão lửa, sẽ thành tro nguội, chưa biết ngày nào. Thời đại chẳng báo trước bao giờ nó xoay vần.
Ngọc ngồi im, nghe hai người nói chuyện.
- Mày sẽ là nhân vật chính trong lịch sử tiểu thuwết Cầu Bo trầm lặng của tao.
- Cái mà người tàn phế sẽ được vinh dự ở trong tiểu thuyết?
- Chỉ người tàn phế như mày thôi.
- Bao giờ mày viết?
- Còn lâu.
- Đến bao giờ?
- Vừa đợi thời đại xoay vần, tao vừa nuôi dưỡng những nhân vật tiểu thuyết của tao, cho nó cứng cáp, có chiều sâu, chiều rộng.
Vũ đứng dậy, đút ác mô ni ca vào túi:
- Thôi, đi ăn bánh canh cá rô. Tháng này, hết cua đồng rồi.
Ba đứa đến ngã tư Vũ Tiên-Thị Xã, rồi rẽ phải, xuống Đoan Túc. Trời tháng 11, chưa lạnh mấy. Con đường đi rét mướt vì trống không nhà cửa, gió đông từ cánh đồng đã gặt lúa lùa lên. Chim én đã lác đác bay về. Vũ yêu con đường Đoan Túc như yêu kỷ niệm ấu thời của nó. Dạo ấy, hiệp sĩ Triều Dương Hiệp Vũ thường phóng phi tiêu cho hiệp sĩ Hà Nguyên Khánh, dặn cố xoay vài đồng, xuống Đoan Túc, chén canh bánh đa...
CHƯƠNG 23
Hôm nay, thanh niên thị xã làm cuộc biểu tình tuần hành, rất sôi nổi. Để bài trừ văn hóa nô dịch. Những băng đờ rôn, những pa nô viết những dòng chữ ngút lửa căm hờn. Tiểu thuyết, thi ca, âm nhạc, báo chí vùng tề, xuất bản từ 1947, bị liệt vào hạng văn nghệ nô dịch. Những nhà văn theo kháng chiến, về tề năm 1950, viết những tác phẩm không chống cách mạng, còn nói hay cho cách mạng, cũng chịu nhận danh từ cay đắng: Nhà văn nô dịch, tiểu thuyết nô dịch. Những người viết nổi danh như Ngọc Giao: Nhà quê, Đất, Mưa thu, Cầu sương; như hồ Dzếnh: Chân trời cũ, Quê ngoại, Ông lái đò; như Nguyễn Minh Lang: Trăng đồng nội, Hoàng tử của lòng em; như Hoàng Công Khanh: Trên bến Búng, Đất tân bồi, Bến nước Ngũ Bồ; như Sao Mai: Nhìn xuống; như Trúc Sĩ: Kẽm trống; như Triều Đẩu: Trên vỉa hè Hà nội... cùng chung một số phận. Báo chí, những tờ đáng kể, như Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, Thế Kỷ, Phổ Thông đều bị di dưới chân cách mạng.
Đặc biệt, cuốn tiểu thuyết bằng thơ Đồi thông hai mộ của Vũ Đình Trung, thanh niên thị xã được lệnh phải tịch thu cho hết và đốt cháy ngay lập tức. Thanh niên thị xã vào từng nhà nói về sự nguy hiểm của văn hóa nô dịch, yêu cầu nhân dân tiếp tay, nhất là quyển thơ Đồi thông hai mộ.
Đứng nhìn thanh niên làm công tác cách mạng, Vũ hỏi Luyến:
- Mày đọc Đồi thông hai mộ chưa?
Luyến đáp:
- Rồi.
Và nói:
- Thơ song thất lục bát, xoành xĩnh lắm. Tao đọc mấy câu đầu, mày nghe xem nó nguy hiểm đến chừng nào! Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ? Anh của em yêu quý nhất đời. Anh đi mù mịt xa khơi, Đại bàng tung cánh phương trời nào hay... Nó nguy hiểm chưa, nô dịch chưa?
Vũ lắc đầu:
- Chả nguy hiểm tí nào.
Luyến cười:
- Nguy hiểm và nô dịch ở chỗ hội Khai Trí Tiến Đức phát giải thưởng Văn học toàn quốc của Bảo Đại cho tác giả Đồi thông hai mộ. Mày thấy chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn cay cú quốc trưởng Bảo Đại. Chưa có giải thưởng Văn học toàn quốc của Hồ Chí Minh, mà Bảo Đại dám phát giải thưởng văn học à? Không mắng được Bảo Đại, đành tát ông Đồi thông hai mộ. Vui không, Vũ?
Vũ không ngờ kiến thức của Luyến sâu rộng thế. Hôm qua, đi xem thanh niên thị xã làm tổng vệ sinh với khẩu hiệu Nhà sạch nhà, phố sạch phố, Vũ có vẻ buồn bã, Luyến thì lại vui mừng. Vũ nhìn các cậu học trò mảnh khảnh kéo xe bò, các cô nữ sinh chân yếu tay mềm đẩy xe tới những nơi bẩn thỉu hốt rác và dọn dẹp chung với thanh niên lao động đạp xích lô, vác hàng bến xe, bán tôm cá ở chợ Vọng Cung. Và thấy các cô mặc nguyên quần áo, nhẩy xuống ao tù, vớt bèo tây lưu cữu hàng năm; các cậu xúc phân chó, phân người trong những góc phố bị bỏ quên lâu ngày. Các cô, các cậu mặt sũng ưu phiền. Vũ tiếc rằng không còn đủ sức chia miếng cay đắng với thanh niên thị xã. Luyến khác hẳn, thanh niên thị xã cần lao động cho quen, để biết giá trị của lao động. Chấp nhận giải phóng là chấp nhận con người. Con người bình đẳng với con người. Về lao động. Chỉ tiếc, rất tiếc, con người không bình đẳng với con người. Về tư tưởng. Đó mới khó thực hiện. Còn lao động bằng tay chân là thường, quá tầm thường. Vũ suy nghĩ. Và Luyến nhận xét đúng. Văn hóa nô dịch sẽ chẳng nô dịch chút nào, nếu Đồi thông hai mộ đừng được Bảo Đại phát giải thưởng văn học!
- Chúng mày say mê bài trừ văn hóa nô dịch lắm, hả?
Vũ quay mặt lại:
- Trời ơi, Lộc!
Luyến cũng quay mặt lại:
- Lộc pha trò nhạt phếch đã về đấy ư?
Lộc đưa hai tay nắm lấy tay hai đứa bạn:
- Tao bị tù, nay mới đưọc về. Mày kháng chiến ra sao mà cụt chân phải thế, Luyến?
Luyến vỗ vai Lộc:
- Vào trong nhà, nói chuyện nhiều...
Ba đứa xuống phòng Luyến. Khi đã ngồi xong xuôi, Luyến thẩy gói thuốc Du Kích mời bạn:
- Hết sạch Cotab ngoài chợ, bây giờ tao mời chúng mày hút thuốc Du Kích giải phóng.
Lộc pha trò:
- Hút thuốc giải phóng nó phỏng lung tung...
Luyến khen:
- Mày hết nhạt phếch rồi. Hút thuốc giải phóng không phỏng dế đâu.
Và mở đầu:
- Chúng mình xa nhau bẩy năm, vẫn nhớ nhau thuở Monguillot như thường. Sâu sắc hơn là khác. Chuyện thì chúng mình rất nhiều chuyện. Tao đã kể cho thằng Vũ nghe. Nó bảo rặt chuyện buồn, chia rẽ với phân ly, đừng nên kể nữa. Tao cũng không muốn kể nữa. Bởi vậy, tao tóm tắt cho mày hiểu.
Lộc gật đầu:
- Tao không có thì giờ, mày tóm tắt mau lên!
Luyến nói:
- Thằng Long chết trận ở Duyên Hà. Thằng Côn đã về thị xã, hiện nay, nó ở miền Nam. Thằng Vọng còn sống, nó đi kháng chiến, chưa về. Tao không kháng chiến kháng chung gì hết, bị Pháp bắn gẫy chân, hôm Pháp dánh chiếm Thái Bình.
Luyến nhìn Vũ. Hiểu ý, Vũ kể về nó:
- Còn tao, kháng chiến ồn ào nhất thiên hạ, bị thuơng ở trận Thụy Anh. Pháp khiêng vể chữa chạy và bảo tao đã trở thành người tàn phế. Pháp không sợ, cách mạng không dùng. Tao về nhà như một thằng đào ngũ. Trong những ngày giải phóng thị xã, tao cố tình mong cách mạng đến an ủi tao, cách mạng không đến, không bao giờ đến nữa.
Lộc hỏi Vũ:
- Gia đình mày bình yên chứ?
Vũ thở phào khói thuốc:
- Bình yên, bình yên lắm. Gia đình tao đã di cư vào Nam.
Lộc hỏi Luyến:
- Gia đình mày?
Luyến hơi cười:
- Di tản chiến thuật vào Sàigòn rồi.
Lộc đập điếu thuốc, xoa tay sung sướng:
- Chúng mày không phải họ Bôn 1, tao hoàn toàn vững bụng, có thể tăng thêm thì giờ, nói về tao... Ở đời, có nhiều bất ngờ, không thể tưởng tượng nổi. Tao đã, bất ngờ, thấy gia đình tao vào họ nhà Bôn, năm tao 18 tuổi. Cũng, bất ngờ, người ta không bảo ta là thằng pha trò nhạt phếch như thằng Côn đã chê tao. Họ nói tao pha trò đả kích cách mạng! Tao đả kích cách mạng thật, coi cách mạng là trò khôi hài rẻ tiền. Mà bố mẹ tao là cách mạng củ, anh chị tao là cách mạng rễ. Tối ngày họ chỉ lải nhải cách mạng, cách mạng và cách mạng. Tao pha trò: Cách mện, cách miệng và cắt một miếng!
Tự nhiên, tao biến thành con lươn phản động trong hang cách mạng. Bố mẹ tao ghét tao cay đắng. Đưa tao vào bộ đội để tao sớm hy sinh cho tổ quốc. Chao ôi, ông bà chủ hiệu xe đạp có lòng yêu nước tràn trề. Tiếc rằng, tao không đi bộ đội. Anh chị tao đẩy tao làm cán bộ. Tao không thích cán bộ. Chỉ nằm nhà, chạy giặc và ăn bám. Bố mẹ tao sợ tao vào tề, mất hết thành tích cách mạng, nên coi chừng tao như thằng tù giam lỏng. Hôm nay, tao tự do vào tề, vì thị xã giải phóngg rồi. Tao cho tại Trời cả. Trời bắt bố mẹ tao say mê cách mạng. Trời bắt tao phản cách mạng, phản kháng chiến, phản bội họ hàng nhà Bôn.
Tao không thù ghét tụi Bôn chính cống. Mà chỉ thù ghét những kẻ theo đuôi Bôn loe ngoe, hãnh diện theo đuôi voi gặm bã mía. Bố mẹ tao, tao cũng thù ghét. Tao đố chúng mày giải thích được hoàn cảnh của tao, của bố mẹ tao? Bố mẹ tao tưởng tao hết đường đi, lại trở về như cóc chết ba năm quay đầu về núi. Bố mẹ tao quên rằng còn đường di cư vô Nam. Đó, đời tao bất ngờ như thế đó.
Lộc rút điếu Du Kích, quẹt diêm châm thuốc. Vũ và Luyến thương Lộc biết bao. Chậm rãi, Vũ nói:
- Bất ngờ cả. Tao đi kháng chiến, chỉ mong ngày về giải phóng thị xã. Bất ngờ, tao bị tàn phế. Ngỡ rằng mình sẽ sống với bố mình mãi mãi. Bất ngờ, gia đình tao di cư vào Nam. Bất ngờ, bất ngờ, và bất ngờ nó thay đổi hẳn cả cuộc đời mình. Nhưng thôi, chúng mình còn yêu nhau là đủ rồi, Lộc ạ!
Luyến thêm:
- Bất ngờ, tao bị cụt chân. Bất ngờ, Ngọc lấy tao. Bất ngờ, không đám cưới, khi đã định tháng 9 này sẽ làm đám cưới, đông đủ cha mẹ, họ hàng, bạn bè. Bất ngờ, chúng tao ở lại Thái Bình. Bất ngờ, mày ra đi. Ôi, bất ngờ, tổng khởi nghĩa, bất ngờ, cách mạng, bất ngờ, đảng tranh, bất ngờ, chiến tranh, bất ngờ, kháng chiến, bất ngờ, cộng sản, bất ngờ, giai cấp, bất ngờ, chia ly... Thời đại nó xoay vần quê hương Thái Bình của chúng ta, nó biến đổi những thằng học trò nghịch ngợm Monguillot thành những thằng què cụt, tàn phế, phản động, hận thù... Mình chịu đựng những bất ngờ để chờ đợi một bất ngờ. Hơi đâu mà giải thích bất ngờ?
Lộc cảm động;
- Quả thật, gặp chúng mày, tim tao nồng ấm. Buồn thay, tao phải ra đi. Đi thật nhanh. Kẻo, bất ngờ, bố mẹ tao giữ lại, cầm tù tao, bắt tao nhận họ Bôn là thánh tổ, nhận phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tiên Hưng của bố tao là to, chủ tịch Hội phụ nữ huyện Tiên Hưng của mẹ tao là lớn... Thì tao sẽ cắn lưỡi tự tử. Gặp chúng mày ít phút để nhớ chúng mày trọn đời, tao không mong gì hơn. Bây giờ, cho tao chút tiền còm, và có thể cho tao cái xe đạp thì nhất.
Vũ đứng lên:
- Có ngay cả hai điều mày muốn. Lên Hà Nội, mày ghé 42 Cửa Bắc, xem thằng Khoa đi chưa. Nếu nó chưa đi, mày sẽ vào Nam với gia đình tao. Ngồi đây chờ tao, tao về lấy xe đạp cho mày.
Một lát sau, Lộc nhận những thứ cần thiết xong, lên đưòng ngay.
Vũ dặn:
- Tới Nam Định, mày cứ theo quốc lộ số 10 mà đi. Đến Phủ Lý, có Pháp canh giữ, tự do vào Hà Nội.
Lộc khóc sướt mướt, chia tay Vũ và Luyến. Trở và nhà, nước mắt hai đứa ứa ra...
Chú thích:
1. Bolchevik.
CHƯƠNG 24
Nữ đồng chí Vương Viên Thúy đi vào trụ sở Ủy ban nhân dân thị xã. Nàng cắt tóc cao, đầu đội chiếc mũ y hệt mũ bộ đội, mầu xanh lá cây thẫm. Nữ đồng chí Vương Viên Thúy mặc cái áo nâu ngắn nhuộm gụ và quần đen. Chân nàng mang đôi dép Bình-Trị-Thiên, đế làm bằng vỏ bánh tầu bay, Trên vai nàng, túi xặc cột đeo lủng lẳng. Nếu Vương Viên Thúy đóng lớp quân phục đại quân, nàng sẽ giống nữ đồng chí Trung quốc. Nàng vô Ủy ban nhận dân để hỏi rõ nơi nào nàng sẽ phổ biến vài điệu nhẩy đoàn kết, hòa bình và văn nghê mới cho thanh niên thị xã, sáng nay.
Trước kia, Vương Viên Thúy cũng ở thị xã. Nhà nàng có hàng cây hồi thơm hăng hắc. Không một thành phố, tỉnh lỵ nào trồng cây hồi. Chỉ riêng thị xã Thái Bình bảng lảng mùi hoa hồi. Người thị xã hãnh diện về hoa hồi thơm ngát và yêu quê hương của họ muôn vàn.
Thuở còn bé, Vương Viên Thúy quen thân với anh chàng Trần Vũ và yêu chàng, trong tình yêu ngây dại ấu thơ. Nàng đã quên dĩ vãng, quên luôn cả chuyện ái ân sáng như trăng sao, mềm như nhung lụa. Quá khứ, đối với Vương Viên Thúy, cần đốt hết đi, phủi tay cho sạch. Vì nàng là cách mạng, là cộng sản. Hiện tại mới nghĩ tới. Để tương lai vút bay trong xã hội nàng mơ ước.
Nhà văn Nguyễn Tuân đòi hủy bỏ những văn phẩm rực rỡ của mình. Chúng là sản phẩm của dĩ vãng, trước năm 1945. Nhà thơ Xuân Diệu đòi hủy bỏ những thi phẩm kiệt hiệt của mình. Chúng là sản phấm của dĩ vãng, trước năm 1945. Dĩ vãng, trước năm 1945, những văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ lừng danh đem chôn sâu dưới huyệt mộ. Thì dĩ vãng của nàng, trước hay sau 1945, không đáng đếm xỉa. Vương Viên Thúy muốn mọi người nhìn nàng từ 1950 đến 1954 trở đi. Hôm nay của nàng đấy, sôi sục và nóng bỏng.
Tản cư về Trực Nội, Thái Ninh, hai năm sau, cha Vương Viên Thúy bệnh nặng chết sớm. Năm 1950, Trực Nội bị máy bay quân đội Pháp oanh tạc khủng khiếp, mẹ nàng ăn đạn đồng khắp mình mẩy, chết vì giặc Pháp dã man. Nàng thù hận giặc Pháp, tung mình bay theo kháng chiến. Người cộng sản âu yếm nàng, nâng đỡ nàng, chỉ dẫn con đường đi vào chủ nghĩa vô sản cho nàng. Nàng quên hết dĩ vãng, từ đó. Nhờ nàng thông minh, đầy người năng khiếu, nàng được kết nạp vào Đảng, đầu năm 1954. Và nàng lấy chồng hồi tháng hai. Chồng của Vương Viên Thúy chức tước cao: Bí thư Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh, tỉnh Thái Bình
- Chào các đồng chí.
- Chào đồng chí.
- Đồng chí nào phụ trách thanh niên thị xã nhỉ?
- Thưa đồng chí, tôi ạ!
Vương Viên Thúy tự kéo ghế, ngồi xuống. Nàng tháo cái xặc cột ra.
- Lát nữa, tôi gặp họ ở đâu?
Đồng chí phụ trách thanh niên thị xã đáp:
- Thưa đồng chí, ở bến ô tô.
- Rộng không?
- Đủ chỗ đứng 200 người.
- Tập họp chưa?
- Bây giờ đồng chí đến là vừa.
- Ta đi thôi.
Vương Viên Thúy đứng dậy, máng xặc cột lên vai, rời khỏi trụ sở Ủy ban nhân dân. Nàng đi bên cạnh đồng chí phụ trách thanh niên thị xã. Hai người cuốc bộ một lát, tới bến ô tô. Thanh niên thị xã đã tập họp đông dủ. Họ vỗ tay hoan hô nữ đồng chí Vương Viên Thúy. Nử đồng chí Vương Viên Thúy cũng vỗ tay đáp lễ. Đồng chí phụ trách thanh niên thị xã giới thiệu:
- Các bạn thân thương. Hôm nay, tôi trân trọng giới thiệu với các bạn đồng chí Kiều Nhị, cán bộ cao cấp của Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình, Đồng chí Kiều Nhị phụ trách công tác toàn tỉnh, 12 huyện lỵ Thái Bình. Đồng chí Kiều Nhị về thị xã để phổ biến những điệu nhẩy đoàn kết, hòa bình và văn nghệ mới, nền văn nghê dân tộc miền Nam ra miền Bắc. Trước khi đồng chí Kiều Nhị phổ biến văn nghệ, tôi đề nghi các bạn hát một bài lấy khí thế. Hôm qua đồng tôi... Một... Hai... Ba...
Thanh niên thị xã hát vang:
 
Hôm qua đồng tôi lúa mùa lên bông
cháy ngụt trời
bom na pan
dấu xa càn còn vết trong lòng dân
Hôm qua vì bom của bọn thực dân
phá tan tành
gây đau thương
vết căm thù đời đời phơi trong nắng
Raymonde Dielle 1 chắn xe cho ngừng máu rơi
ngăn chiến tranh cho đời huy hoàng
Ta nhớ ghi tên người tươi sáng...
 
Đồng chí Kiều Nhị, bí danh của đồng chí Vương Viên Thúy, vỗ nhịp tay theo bài Hôm qua đồng tôi, rồi khi tiếng hát dứt, đồng chí Kiều Nhị vỗ tay rân ran, cười rất tươi. Đồng chí Kiều Nhị nói:
- Các bạn thân thương. Hôm nay, tôi cảm động lắm. Nhân danh Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình, tôi biểu dương các bạn đã hoàn thành những công tác vệ sinh thị xã, bài trừ văn hóa nô dịch, ngăn cản khéo không cho nhân dân vào miền Nam, theo lời thằng địch dụ dỗ...
Vỗ tay.
- Chúng ta sẽ nhẩy đoàn kết trước
Vũ Cẩm Ngọc, từ lúc đồng chí phụ trách thanh niên thị xã giới thiệu đồng chí Kiều Nhị, đã nghi nghi, đôi mắt không muốn rời Kiều Nhị. Đúng rồi, Kiều Nhị là con Thúy của thằng Vũ đây mà. Con Thúy già đi nhiều. Tóc nó cắt ngắn giống mụ Xẩm nghèo nàn. Nó mặc quần áo tã, đi dép Bình-Tri-Thiên, đội nón bộ đội, đeo xặc cột, khác hẳn con Thúy ngồi chơi rải gianh với Ngọc, chơi tam cúc với Luyến và Côn. Nó ăn nói sặc mùi cộng sản! Nó đấy ư? Con Thúy của thằng Vũ đấy ư? Nó lại làm cán bộ cao cấp của Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình nữa! Ngọc muốn chạy về nhà, bỏ rơi tập họp, học nhẩy đoàn kết với hòa bình, báo cho Luyến và Vũ hay con Thúy đã về thị xã. Nghĩ sao, Ngọc lại ở lại. Vũ mà biết Thúy hôm nay, nó sẽ điên lên vì buồn. Để sẽ gặp Thúy, hỏi Thúy đã.
- Nhẩy đoàn kết đơn giản thôi. Đồng chí Kiều Nhị nói. Chúng ta xếp vòng tròn, càng đông bao nhiêu càng đoàn kết bấy nhiêu. Xích xa một chút. Bài hát thật ngắn. Chúng ta vỗ tay theo nhịp điệu mà hát. Bất kể câu ngắn hay câu dài. Cứ dứt câu, chân phải giơ lên. Vẫn vỗ tay. Rồi chân trái giơ lên. Hết bài. Chúng ta nhẩy vòng tròn. Hát, vỗ tay và giơ chân. Hết bài. Chúng ta nhẩy tại chỗ. Hết bài. Chúng ta nhẩy vòng tròn. Cứ thế nhẩy mãi. Nào, chúng ta nhẩy, nhé!
Thanh niên thị xã hát và nhẩy:
Chúng mình cùng đoàn kết tiến lên
Xây cuộc đời tươi mới hòa bình
Đời ta
bừng sáng
Nắm tay nhau cùng vui liên hoan
Đồng chí Kiều Nhị hồ hởi phấn khởi:
- Các bạn nhẩy có khí thế lắm. Có vẻ hơi hơi mệt. Để thay đổi không khí, tôi phổ biến văn nghệ mới. Rồi lại nhẩy hòa bình.
Ngưng vài giây, đồng chí Kiều Nhị nói:
- Văn nghệ của ta là văn nghê nhân dân. Nó bình dị như giai cấp nông dân. Ai cũng có thể tự biên tự diễn được. Các anh em trong Nam tập kết ra Bắc phổ biến hò lơ cho chúng ta. Chúng ta sáng tạo thêm cho nó dễ và văn nghệ chỗ nào cũng được. Ở đây, có anh em nào biết làm thơ lục bát không?
Thanh niên thị xã:
- Như Truyện Kiều chứ gì?
Đồng chí Kiều Nhị:
- Phải.
Thanh niên thị xã:
- Khó vô cùng.
Đồng chí Kiều Nhị:
- Mỗi bài hò lơ chỉ làm hai câu thôi. Thí dụ: Hôm qua, anh đi đánh Tây, Cửa nhà cậy có bu mày trông coi. Thế là xong, dễ mà.
Thanh niên thị xã:
- Giống ca dao, chúng tôi làm được.
Đồng chí Kiều Nhị nói về cách chơi hò lơ một chập, thanh niên thị xã hiểu rồi. Văn nghệ bắt đầu. Một người đọc thơ. Nhiều người hỏi làm sao, cái gì. Chấm dứt câu lục bát. Cả làng hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ.
 
- Quê em mãi tận Thụy Anh
- Làm sao?
- Ngó anh du kích...
- Cái gì?
-... Thái Bình diệt Tây.
- Hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ.
- Hành quân Trái Quít Trái Chanh
- Làm sao?
- Chanh chua Quít đắng...
- Cái gì?
-... Pháp ăn nhầm thực dân...
- Hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ.
 
Đồng chí Kiều Nhị vui vẻ khôn cùng. Văn nghệ nhân dân thật tuyệt tác. Nhân dân thị xã có thể sáng tác hàng vạn câu thơ hò lơ, nói lên tâm sự vùng tạm chiếm. Thanh niên thị xã tiến bộ nhanh, say sưa trong những câu lục bát xuất khẩu. Đồng chí Kiều Nhị giơ hai tay lên trời biểu dương thanh niên:
- Các bạn đạt chỉ tiêu hơn 12 huyện Thái Bình, thắng lợi lớn, đáng ghi vào thành tích. Các bạn hò lơ phấn khởi quá, vượt thời gian hạn định. Nhẩy hỏa bình đề đồng chí phụ trách thanh niên thị xã phổ biến cho các bạn. Tôi có công tác đột xuất, chiều nay phải rời thị xã. Tôi bế mạc cuộc gặp gỡ hôm nay và gửi các bạn lời chào thân thương.
Vỗ tay. Đồng chí Kiều Nhị ra về. Được một quãng, có tiếng gọi:
- Đồng chí Kiều Nhị!
Đồng chí Kiều Nhị quay lại.
- Thúy ơi, Vương Viên Thúy ơi, Ngọc đây mà...
Đồng chí Kiều Nhị cười:
- Vũ Cẩm Ngọc, có chuyện gì đấy?
Ngọc thấy xót xa câu hỏi của Thúy. Xa nhau rồi, vĩnh viễn rồi. Ngọc nghiêm trang nói chuyện như hai người quen nhau bình thường.
- Tôi muốn hỏi thăm bạn về hai bác.
- Bố tôi chết năm 1949, mẹ tôi chết luôn, năm 1950.
- Chị ở một mình?
- Không, tôi đi kháng chiến với nhiều người.
- Chị có gặp anh Vũ?
- Vũ nào?
- Vũ đánh thằng Dương hộc máu mồm bênh chị ấy mà. Anh Vũ cũng đi kháng chiến!
- Tôi quên hết mọi chuyện cũ, từ lâu. Đời sống phải nhìn thẳng về phía trước mặt, không bao giờ ngoái đầu lại, ngó sau lưng. Chỉ có bọn tiểu tư sản mới lạc lõng trong dĩ vãng của họ. Tôi đã có chồng. Chồng tôi là Bí thư Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình.
- Chức to ghê. Con gái nào không yêu anh ta là ngu!
- Tôi có công tác đột xuất, phải đi ngay. Chào chị Ngọc.
- Chào đồng chí Kiều Nhị!
Ngọc đứng ngây người ra. Nước mắt đùn lên, chẩy lênh láng trên khuôn mặt. Ngọc không thể tượng tượng người cách mạng như Thúy lại tàn nhẫn như vậy. Cái gì xa xưa của Thúy, đối với Thúy, là dĩ vãng thối nát, đáng phỉ nhổ, không thương xót, kể cả bạn rải gianh, bạn tam cúc, bạn tình ấu thơ.
Ngọc lững thững bước về.
Chú thích:
1. Nữ cộng sản Pháp nằm giữa đường ngăn cho xe lửa chở lính Pháp xuống Marseille sang chiến đấu ở Việt Nam không đi được.
CHƯƠNG 25
Vũ và Luyến nằm trên hai chiếc xích đu ở ngoài sân phố Lý Thường kiệt. Mỗi đứa một ý nghĩ riêng, im lặng suy tư, không nói năng gì với nhau. Thuốc lá đốt thật nhiều. Luyến thương Vũ lắm. Bạn Luyến còn hai đứa sống chết với Thái Bình. Vọng chưa về. Và Vũ nằm đây, hong những vết thương cách mạng.
Chiều qua, Ngọc kể chuyện Thúy cho Vũ nghe, linh hồn và thể xác. Linh hồn Thúy đã ứp men chủ nghĩa rồi, thở rặt những ngôn ngữ cộng sản và kết duyên cùng người cộng sản, luyến ái quan theo cộng sản. Thể xác Thúy đã ôm bí danh Kiều Nhị, cán bộ cao cấp của Đoành thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình, đã mang dép Bình-Trị-Thiên, đội mũ bộ đội, đeo xặc cột. Thúy đã lột xác hoàn toàn, không còn dính một chút nào của Thúy ngày xưa, bạn tình của Vũ.
Luyến đã đọc một bài thơ của người cộng sản vô danh làm lén lút và gửi lén lút tới độc giả. Thi sĩ cộng sản vô danh đã tiên tri luyến ái quan của Đảng mình.
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Tóc mẹ già thì mỗi ngày mỗi bạc
Hai chúng ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ trở lại mảnh vườn xưa
Hai chúng ta như trời nắng tránh trời mưa
Như sao Hôm sao Mai không cùng ở
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Có bao giờ trở lại mảnh vườn xưa...
Rồi Thúy sẽ như trời nắng tránh chồng trời mưa, sẽ như sao Hôm không được ở với chồng sao Mai, sẽ như mặt trăng cách biệt chồng mặt trời. Thúy giống con phù du sắp lao mình vào ngọn lửa toan tính ác liệt. Mà Thúy không biết.
Ai biết sao nổi những bất ngờ nó đến đời mình. Lộc đã nói đúng. Phạm Huy Lộc, pha trò nhạt phếch, đã chẳng nhạt phếch tí nào, khi nhận xét cuộc đời. Ở đời, có nhiều bất ngờ không thể tưởng tượng nổi. Tao đã, bất ngờ, thấy gia đình tao vào họ Bôn, năm tao 18 tuổi. Cũng, bất ngờ, người ta bảo tao pha trò đả kích cách mạng. Bất ngờ, Lộc chống cộng sản, đi tuốt vào Sàigòn. Vũ thì bất ngờ đi kháng chiến, bất ngờ bị tàn phế... Còn Luyến, cũng bất ngờ cụt chân, bất ngờ lấy được vợ... Ôi, bất ngờ, tìm nó ở đâu để oán trách nó đã giáng xuống đời mình, bất ngờ phá nát tương lai mình dự tính, làm hư hỏng con người mình; khi mình biết, tại bất ngờ. Thúy đã bất ngờ thành đồng chí Kiều Nhị, bất ngờ là cộng sản trung kiên, bất ngờ làm vợ anh cộng sản. Thúy chưa hiểu bất ngở nó đùa giỡn mình. Khi Thúy hiểu mình lấy chồng như sao Hôm sao Nai không cùng ở, Thúy sẽ buồn thảm. Thì đã muộn. Như Luyến đã cụt chân. Như Vũ đã tàn phế. Khác với Ngọc, Luyến không ghét Thúy mà thương hại Thúy. Có ghét chăng, chỉ bất ngờ phạm tội!
Vũ không hề oán trách Thúy. Vũ đã xác định chỗ ngồi của mình trong cuộc đời, tự hôm người y sĩ quân đôi Pháp buồn bã nói Vũ đã tàn phế. Vũ đâm ra ngờ vực tất cả. Gia đình. Bằng hữu. Tình nhân. Vũ được hai thứ, đánh gục sự ngờ vực của Vũ. Gia đình và bằng hữu làm Vũ yên lòng mà sống lay lất. Còn tình nhân? Mỗi người có một số phận. Số phận nó tới lúc nào, mình không biết. Người y sĩ quân đội Pháp an ủi Vũ thế. Số phận của Vũ, Vũ đã mơ hồi cảm thấy. Chẳng bao giờ Vũ nhắc nhở Thúy, từ dạo Vũ bị những vết thương chiến tranh nó nhằm đúng tim Vũ đóng chặt. Oan nghiệt. Năn năm theo kháng chiến, chả khi nào Vũ quên Thúy, quên ngày vàng mộng tưởng, quên tình ái ngọc ngà, quên nụ cười sáng rực, quên nước mắt ngời vui. Y hệt thi sĩ Nguyễn Bính nhớ tình nhân. Nhớ nhất nước. Nhớ nhất thế giới. Nhớ nhất loài người. Nhất trời đất:
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào quên nhớ em
Vũ hơn trời, hơn trăng, hơn sao, luôn luôn nhớ thương Thúy. Nhớ ngút ngàn. Nhớ nghiêng lệch. Nhớ trong chiến trận bừng bừng khói lửa. Nhớ ngoài hậu phương ngây ngất nhạc đời. Nhớ vào nhà em không rõ lối về. Hhớ ra đường phố mùi hồi thơm hắc.
Vũ nhớ Thúy vì trời sinh Vũ để nhớ nhung. Thúy quên Vũ vì trời sinh Thúy để quên lãng. Mấy người yêu tuổi thơ, kỷ niệm của mình mà chung thủy? Người ta tình cờ nghĩ tới thì nuối tiếc vu vơ, thì giật mình xấu hổ, thì mộng hoa niên trở lại để sống khác đi. Vũ thích dĩ vãng, bằng lòng lạc loài trong dĩ vãng. Như tiểu tư sản. Thúy không thích ngoái nhìn dĩ vãng, bẳng lòng ồn ã trong tương lai. Như vô sản. Đó là quyền sống của Thúy. Đã lớn khôn. Vũ không được phép trách móc Thúy như Thúy bảo Vũ đã vồ tiền ở đền Mẫu.
Thuở còn ngây dại. Vũ nhớ ghê lắm, thuở tình thơ với Thúy. Bắt đầu, Vũ bắt con chim khuyên bỏ túi quần xoóc, đem sang cho Thúy. Sau chót, Vũ hôn lên mắt Thúy và nói bằng hơi thở Anh sẽ về. Chúng mình sẽ trở về, bằng trái tim, anh sẽ chiến đấu để trở về, sống mãi bên em, bằng nước mắt, giã từ Thúy, Tạm biệt em hôm chia ly, sau ngày thị xã Thái Bình tiêu thổ kháng chiến. Vũ đã về giải phóng thị xã, Thúy đã về hạnh ngô Vũ. Hai người lấy nhau. Đất nước thanh bình. ồ, như vậy tiểu thuyết quá. Kim Trọng với Thúy Kiều quá. Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga quá. Bất ngờ, Vũ bị thương tàn phế, về nhà giống gã đào binh hèn nhát, không giải phóng thị xã nổi. Bất ngờ, Vương Viên Thúy thành đồng chí gái Kiều Nhị, lấy chồng cộng sản và quên hẳn Trần Vũ. Như vậy mới là cuộc đời.

Cuộc đời hôm nay khốn nạn không chừng. Cách mạng và chiến tranh. Chiến tranh gây đổ vỡ, cách mạng xây dựng lại đổ vỡ. Những chỗ nào đổ vỡ, cháy tàn vì chiến tranh, cách mạng xây dựng lại hết. Một thành phố, những tỉnh lỵ chẳng bao lâu sẽ như cũ. Chiến tranh sát hại hàng triệu sinh linh. Là thường. Có chiến tranh nào không người chết? Cách mạng, chiến tranh và chủ nghĩa mới đáng hãi hùng. Cách mạng, có thể, tái tạo hạnh phúc cho con người do chiến tranh đã đốt phá. Cách mạng không đủ khả năng, không bao giờ có khả năng hàn gắn sự tan nát của tình yêu con người do chủ nghĩa dẫm nát dưới bàn chân thô bạo. Chủ nghĩa thừa thãi quyền năng. Con vật vô hình đó, nhiều chân tay, nhiều bí tích, nhiều cách sát nhân, nhiều lối rửa óc. Nó chỉ thiếu một trái tim. Như con người. Nó không biết rung động, cảm động, thương yêu. Dưới bàn chân thô bạo của nó là tình người. Tình người, vô tình, biến thành kẻ thù số một của chủ nghĩa.
Cách mạng bị chủ nghĩa dẫn dắt. Thị xã Thái Bình bị tiêu thổ kháng chiến, không đời nào kiến tạo như ngày xưa. Ngay cả những cây hồi hoa thơm hăng hắc cũng khó lòng trồng lại. Chủ nghĩa đã dầy đạp bao trái tim con người. Trái tim của Thúy đau đớn nhất, đau chẳng biết mình đau.
- Mày thuộc bài thơ tình nào hay nhất không?
Vũ hỏi.
Luyến mỉm cười, rướn thân hình lên:
- Buồn đấy.
Vũ nói:
- Thơ tình nào không buồn? Buồn mới bất hủ.
Luyến ngâm nga:
-... Tình yêu đến tình yêu đi ai biết
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt
Những hình xưa nay đoạn tuyệt dấu hài
Gấp đi em anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chẩy lòng ta không vĩnh viễn...
Vũ khen:
- Tuyệt tác. Thơ vận vào đời tao.
Rồi, Vũ nói chuyện khác:
- Bắt đầu, khởi sự cách mạng mùa Thu. Từ cách mạng mùa Thu, đã thấy mùi chủ nghĩa. Khi mình biết chủ nghĩa hướng dẫn cách mạng, mình đã tàn phế rồi. Đàn anh chúng ta cũng không biết. Anh Vũ Thương Anh biết muộn màng. Anh ấy sắp chết, vẫn sợ chủ nghĩa. Đến nỗi, làm bản nhạc Cuối thu đường đời, anh ấy phải giấu giiếm tâm sự một mình, gửi người cùng tâm sự. Cách mạng mùa Thu chẳng phải cách mạng chống đối thực dân đâu. Theo tao, chỉ là cách mạng rơi vào tay chủ nghĩa. Để tiêu diệt tình người. Chấm hết.
Luyến không nói gì nữa. Vũ lặng im. Cả hai đứa hút thuốc lá, nhìn khói bay theo gió thu vào không gian mù khơi. Sắp sửa 19-8 rồi. Còn vài hôm nữa thôi, ngày tổng khởi nghĩa. Chín năm trước, thằng Vũ, thằng Côn, thằng Luyến, thằng Long, thằng Lộc còn chân sáo tung tăng Nhanh bước nhanh nhi đồng, theo cờ đỏ sao vàng. Chín năm sau, Long chết trận ở Duyên Hà, Lộc, Côn vô Nam, Luyến mất một chân, Vũ tàn phế nằm giữa sân phố Lý Thường Kiệt, nói chuyện thất vọng cách mạng mùa Thu. Nghe đâu đây, tiếng kèn ác mô ni ca ray rút thổi bản nhạc sầu thảm. Và, giọng ai đó thổn thức hát.
... Giọt nước mắt rơi buồn tênh đường trần
Sợi nắng úa soi thời gian ngại ngần
Ôi mùa thu hẹn nhau đã tới
Ơi mùa thu, mùa thu cuối lối
Bánh xe tang lăn trên xác lá mồ côi...

25/12/1992
Duyên Anh
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Không chỉ con đò mà còn là tiếng gọi

Không chỉ con đò mà còn là tiếng gọi… Nói đến làng quê Việt Nam là chúng ta nhắc đến những dòng sông, bến nước, con đò đã gắn bó từ xa xưa...