Nắng buồn hơn mưa
Tôi đã như một kẻ lạc loài đi giữa cuộc đời bằng đôi chân thơ dại, bằng
trái tim sớm mang nhiều vết thương, bằng cảm nghĩ luôn lo âu, sợ hãi, mất niềm
tin ở chính mình và cuộc đời. Tôi đã không biết phải làm gì, phải làm sao. Đó,
phải chăng là tiếng kêu bi ai, đã nhiều lần bật ra từ trái tim tôi.
Trời đất bao la, lẽ nào không có một nơi bình yên cho tôi trú ẩn. Tôi
mải miết đi tìm. Tìm một bóng mát đủ che đời mình. Tìm một trái tim độ lượng đủ
để cưu mang mình. Tìm một người có tấm lòng nhân hậu để dẫu mai sau có thế nào,
ở cuối chân mây, góc biển, tôi vẫn cảm thấy được gần gũi, chở che và an ủi.
Vẫn như những ngày xưa, sự im lặng thay cho bao lời nói mà chỉ những
tấm lòng đồng cảm mới có thể nắm bắt dược những tín hiệu… Bên ngoài, nắng đang
lên. Căn phòng nhỏ tịch lặng, có hai người đang đứng bên lề cuộc đời. Hai người
ở ngoài những cuộc vui. Không hề liên quan đến sự sống ồn ào, hối hả của một
ngày vừa bắt đầu. Ly rượu pha nhạt, trên mặt bàn là gốc của một cây thốt nốt
100 tuổi bóng ngời ngộ nghĩnh. Tôi rút một điếu thuốc. Làn khói mỏng bay vờn.
Những ngón tay gầy guộc đưa lên gọng kính. Anh bảo …nắng buồn hơn mưa.
Tôi hiểu.
Lơ đãng nhìn ra khung cửa nhỏ. Những đốm nắng lung linh đậu trên vòm lá
xanh. Cái cây này, anh đã trồng từ năm 1973, giờ nó cũng bắt đầu già. Anh tránh
cái nhìn soi mói của tôi… Bao giờ tôi cũng nhìn anh như thế. Rất chăm chú bởi
tôi muốn tìm đọc thêm những điều mới lạ, không nói nên lời kia…rằng cái gì ẩn
dấu sau vầng trán thông minh kia…cái gì được chứa đựng trong trái tim nhỏ bé
kia… Tất cả những điều tôi cho là kỳ diệu tiềm tàng trong thân thể mảnh mai yếu
đuối. Tôi muốn – thậm chí nắm bắt chúng, cất giữ cho riêng mình – anh, chính
anh là Lý Tầm Hoan của thế kỷ 20.
Nhân vật truyền kỳ mang tên Lý Tầm Hoan có lẽ là hình dáng lý tưởng cho
tất cả mọi người, trong đó có tôi. Với một ngọn đao nhỏ bé mong manh, dẫu ra
tay chậm hơn nhưng bao giờ cũng đến đích trước, không bao giờ sai chạy dù không
ai thấy Lý Tầm Hoan xuất thủ… Con người ất trọng nghĩa khinh tài, luôn luôn
bênh vực lẽ phải, một đời sống cho người. Nhường cả người yêu và gia tài cho
người ơn. Lánh xa, ở ẩn, lấy rượu làm vui… Một con người có cái tâm vĩ đại
trong một thân thể thoạt trông tiều tụy nhưng lại luôn tỏa sáng hào quang đẹp
đẽ.
Tôi đã bắt gặp một Lý Tầm Hoan – bằng lòng để người phụ mình chứ không
phụ người – ở anh trong một buổi chiều êm ả trên căn gác nhỏ, nơi anh thường
ngồi… gọi nắng, mong mưa. Những ca khúc anh viết lúc nào, không ai biết. Trong
những đêm khuya một mình bên ly rượu không bao giờ vơi. Trong một buổi chiều
một mình lặng lẽ nghe tiếng mưa nhẩy nhót trên sân nhà. Trong bình minh – cũng
vẫn một mình – chờ đợi để thấy nắng lên, để chiêm nghiệm rằng… nắng buồn hơn
mưa.
Thế đấy, không ai biết mà những ca khúc ấy cứ đi thẳng vào tim rồi ở
lại đó. Ca khúc của anh và người nghe đã trở thành đôi bạn tâm giao chẳng chia
lìa. Vì sao tôi yêu những ca khúc của anh. Tôi sẽ không đủ sức ngợi khen anh
như nhiều người đã làm bởi tôi đơn giản lắm. Con người của anh cũng đơn giản và
vì thế những ca khúc của anh – nhanh hơn cả lưỡi đao của Lý Tầm Hoan – cũng
ngọt ngào, êm ái xuyên vào tim tôi.
Làm sao người ta có thể hiểu được vì đâu …con chim hót trên những cành
lau… nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối… ấy lại có thể nặng lòng với quê
hương, gia đình và bằng hữu đến như vậy. Đó cũng chính là điều tôi muốn tìm ở
anh và tôi đã hiểu, đã biết. Nói một cách đơn giản nhất mà tôi có thể nói được
là, ai cũng chỉ có một quê hương. Nếu ngay chính cả quê hương mình, mình còn
không yêu thì liệu mình có thể yêu thương cái gì nữa.
Anh để lại cho những thế hệ sau một bài học yêu thương. Hãy tìm nhau,
lại gần với nhau học lại từ đầu bài học yêu thương. Những bông hoa đẹp đẽ.
Những cây lành trái ngọt không thể nảy sinh từ lòng căm thù. Sự hận thù chỉ làm
cho người ta nhỏ lại. Làm cho cuộc đời tăm tối hơn. Làm cho tâm hồn nghèo nàn,
thấp kém. Cái tâm không bình yên sẽ chẳng còn ai nghĩ đến ai với những điều tử
tế, dẫu chỉ trong trí tưởng.
Những ca khúc của anh chính là tấm gương soi cho tôi nhìn lại rõ mình,
tìm lại được chính mình từ những mất mát. Tôi đã được chia sẻ. Được an ủi ngay
cả trong giây phút phân ly. Thế nên, điều tôi muốn nói ở đây là anh – không
phải những ca khúc – rằng chính anh trong tâm hồn tôi còn lớn lao vĩ đại hơn
những gì anh đã làm và để lại. Một người tầm thường không thể làm nổi những
điều tốt đẹp và một người vĩ đại không hề làm những điều tầm thường.
Chiều nay, ở một nơi rất xa, tôi cũng ngời một mình nhìn nắng vàng đang
ngả màu trên lá cỏ. Lòng bỗng xót xa ngậm ngùi…
Anh ơi, trong bữa cơm chiều nay, chiếc ghế của anh không người ngồi.
Anh chắc lại ra đầu phố, mua một cái gì đó, hoặc cùng dăm ba người bạn ngồi ở
quán cà phê, nhìn xe ngựa ngược xuôi. Lát nữa đây, anh sẽ trở về, ngồi vào
chiếc ghế đó, nâng cây đàn lên bằng hai bàn tay gầy và hát rằng …cuộc đời đó có
bao lâu mà hững hờ.
Cũng chiều nay, em không đưa anh đi bởi em không đủ sức cản chân người
đi. Anh em mình sẽ gặp lại. Song em biết trên hết mọi điều, như anh nói, chúng
ta không bao giờ xa nhau. Chưa bao giờ… nắng vẫn buồn hơn mưa anh ạ nhưng chúng
ta yêu thương nhau vĩnh viễn không bao giờ chia lìa… có phải anh đã từng nói
như thế?
Khánh
Ly
Một
cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn
Trần
Hữu Thục
Tôi không kẻ thù nên đau từ độ
tóc úa là nhờ những tháng âu lo
TCS
tóc úa là nhờ những tháng âu lo
TCS
I. Hôn phối
Văn Cao: “Tôi gọi TCS là người ca thơ (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ”(1)
Văn Cao: “Tôi gọi TCS là người ca thơ (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ”(1)
Nguyễn Xuân Hoàng nhận xét: “TCS là một thi sĩ. Vâng, anh đích thị là
một nhà thơ viết nhạc”(2)
Vũ Thư Hiên: “Xét cho cùng, TCS là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta”(3)
Vũ Thư Hiên: “Xét cho cùng, TCS là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta”(3)
Bùi Bảo Trúc: “Có những bản nhạc của ông, phần lời ca đúng là những bài
thơ. Ông dùng nhạc để nâng đỡ những đoạn thơ đó. Và ông cũng dùng thơ để dẫn
những đoạn nhạc đi”(4)
Một người bạn là giáo sư âm nhạc, khi chỉ tôi về cách sáng tác ca khúc,
nhắc nhở: “Ông viết sao đó thì viết, nhưng nhớ là đừng có bị “lai” Phạm Duy và
Trịnh Công Sơn”. Tôi hứa cố gắng. Bắt chước nhạc Phạm Duy thì không được rồi.
Giòng nhạc của ông phong phú, đa dạng quá, vừa sáng tạo lại vừa chuyên môn và
thay đổi theo từng loại ca khúc, theo nội dung và đề tài, chẳng cái nào giống
cái nào. Thiền ca không giống tâm ca, khác xa tục ca, lại chẳng quan hệ chút
nào đến tình ca và những ca khúc yêu nước. Riêng TCS thì thật là khó thoát. Tôi
đã thử loay hoay “sáng tác” nhiều đoạn, nhiều bài, nhưng xong rồi nghe lại (và
nhờ bạn bè nghe lại) thì chúng cứ “lai lai” TCS thế nào ấy. Nhẹ nhẹ. Buồn buồn.
Đều đều. Nghe cứ phảng phất, nếu không Diễm xưa, Tuổi đá buồn thì cũng Ru em
bốn mùa, Hạ trắng…Sửa đi, sửa lại, cố thay đổi. Vẫn cứ thế. Vẫn nặng “mùi” TCS.
Tức quá, tôi tìm cách viết theo một thể điệu khác hẳn, thay vì “gam” Mi thứ, La
thứ, tôi chọn Đô trưởng chẳng hạn. Nghe có hơi khác TCS. Mừng, tưởng thoát.
Nhưng đến khi đặt lời thì ôi thôi, những rong rêu, cát bụi, phố xưa, ngậm ngùi,
muộn phiền, hư vô, ngày tháng, trăm năm, hư hao, nỗi nhớ…chúng nó cứ ào vào.
Rốt cuộc, thoát được nhạc thì “bị” lời. Đặt lời khác thì lại không được, vì cái
“tạng” mình nó vậy, làm sao bây giờ. Thế thì thôi, hát TCS đi cho nó khỏe. Đành
bỏ mộng.
Tại sao vậy? Lý do khá đơn giản: nhạc của anh rất giản dị, không có gì
chuyên môn, cầu kỳ. Cũng như TCS, tôi thích mấy “gam” bình thường như La thứ,
Mi thứ. Thích nhịp điệu buồn buồn, trầm trầm và nhiều chất diễn tả như blue
(2/4), boston (3/4) và cách chuyển “gam” rất bài bản và dễ. Coi lại những bản
nhạc TCS, tôi nhận thấy hầu hết những bản nhạc nổi tiếng của anh – những bản
nhạc nhiều người ưa thích – đều “rơi” vào hai “gam” La thứ (nếu không thì La
trưởng, hoặc La thứ + trưởng) và Mi thứ (hoặc Mi trưởng). Này nhé:
* La thứ: Biển nhớ, Gọi tên bốn mùa, Cát bụi, Chiếc lá thu phai, Cúi
xuống thật gần, Đêm thấy ta là thác đổ, Hạ trắng, Lời buồn thánh, Một ngày như
mọi ngày, Phôi pha, Ru ta ngậm ngùi, Tình xa, Ướt mi, Em đi bỏ lại con đường,
Những giọt máu trổ bông, Nối vòng tay lớn, Dân ta vẫn sống…
* La trưởng: Nắng thủy tinh, Nhìn những mùa thu đi, Quỳnh hương, Tuổi
đá buồn
* Mi thứ: Còn tuổi nào cho em, Diễm xưa, Em còn nhớ hay em đã quên, Hoa
vàng mấy độ, Một cõi đi về, Như cách vạc bay, Ru em, Ru em từng ngón xuân nồng,
Tình nhớ, Tình sầu, Thương một người, Ta đã thấy gì trong đêm nay.
* Mi trưởng: Nguyệt ca
Hai “gam” La và Mi là hai “gam” dễ hát, dễ đàn, rất thích hợp với nhạc
TCS. Chỉ cần một chút kiến thức âm nhạc và một chút thói quen là có thể “chơi”
nhạc anh dễ dàng. Đây là một kinh nghiệm thuần cá nhân và cảm tính. Tôi có thể
nói, dường như hai âm giai đó tự nó đã mang cái chất TCS (hoặc là vì anh đã mang
cái chất của anh vào hai “gam” đó).
Phạm Duy nhận xét: “…toàn thể ca khúc TCS không cầu kỳ, rắc rối vì nằm
trong một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại”(5)
.
Văn Cao nhận xét: “Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm
nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm
xúc nhạc thơ tự nó trào ra”(6) .
Một người viết khác, Phạm Văn Tuấn nhận xét: “Đứng trên khía cạnh lý
thuyết nhạc, nhạc của Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, phần lớn những bài hát đều
được viết theo thể điệu chậm (slow), Boston hay nhanh lắm là điệu Fox. Suốt hơn
40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn không khai phá gì thêm ngoài những giai điệu
đơn giản đó”(7)
Những nhận xét trên cùng với kinh nghiệm nhỏ nhoi của riêng mình cho
tôi thấy, chỉ với nhạc không, ta sẽ chỉ có một TCS nhạc sĩ bình thường, không
mang cái hơi hướm đặc biệt TCS như ta biết hiện nay, không trở thành một hiện
tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử ca nhạc và cả trong lãnh vực văn học như
hiện nay. Vậy thì sao lại là nhạc TCS?
Một nghịch lý: Nhạc TCS hay là nhờ ở ngôn ngữ TCS. Nếu không thích hát,
ta có thể dở bất cứ một bài hát nào của TCS và đọc, y như đọc thơ. Ta sẽ thưởng
thức các ca từ đó như bài thơ. Và thế cũng đủ. Người viết bài này, rất thích
hát nhạc TCS, nhưng trong nhiều trích đoạn trong dưới đây, không hề biết “nhạc”
của chúng. Mỗi một bản nhạc, tôi đọc như một bài thơ. Nhưng một câu hỏi khác
đặt ra: ở Việt Nam, trước 1975 cũng như sau này, đâu có thiếu những bài thơ hay
(hay bằng hoặc hay hơn TCS) của những nhà thơ tài hoa khác. Tại sao chúng không
nổi tiếng bằng TCS. Thơ Tô Thùy Yên chẳng hạn. Điều đó dẫn đến một nghịch lý
thứ hai: thơ TCS hay là vì chúng được biến thành âm thanh, thành nhạc và phổ
biến rộng khắp. Chúng ta biết, nhiều bài thơ đã trở thành hay, thành phổ biến
và được công chúng đón nhận là nhờ được phổ nhạc, nghĩa là biến thành âm thanh.
Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Du Tử Lê chẳng hạn. Ngôn ngữ TCS là những bài
thơ. Y như bất cứ một bài thơ nào khác. Có điều chúng tự biến thành âm thanh
cùng lúc sáng tác. Đó là những “bài thơ âm” (Văn Cao gọi TCS là người ca thơ).
Chúng có cùng với nhạc. Có thể nói chúng là nhạc. Chúng được sáng tác cho nhạc.
Nhưng vẫn không phải là những bài thơ phổ nhạc.
Mặt khác, qua một số lượng khá lớn bài hát, ngoài việc tạo các cấu trúc
câu khá cân đối, ta nhận thấy TCS có vẻ chú ý nhiều đến cách hợp vần. Như ta đã
biết, khi sáng tác nhạc, nhạc sĩ nào cũng tìm lời có vần, rất cần thiết để tạo
âm thanh thích hợp trong giòng nhạc. TCS, cũng như Phạm Duy, dụng công rất
nhiều trong việc tạo vần, nhất là cho những từ ở cuối mỗi câu nhạc. Và cũng như
Phạm Duy, lối hợp vần của anh khá đa dạng, do đó, tạo nên những nét nhạc lạ,
nhiều khi rất bất ngờ:
- Để một mai tôi về làm cát bụi, ôi cát bụi mệt nhoài
– Đi lên non cao đi về biển rộng , đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
– Tình ta như núi rừng cúi đầu, nghe tiếng buồn rơi đều
– Ru em hài nhung gấm, ru em gót sen hồng
Ru bay tà áo rộng, vừa tình tôi chắp cánh
– Đi lên non cao đi về biển rộng , đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
– Tình ta như núi rừng cúi đầu, nghe tiếng buồn rơi đều
– Ru em hài nhung gấm, ru em gót sen hồng
Ru bay tà áo rộng, vừa tình tôi chắp cánh
Bốn câu cuối, khi hát lên, mấy chữ gấm, hồng, rộng, cánh đều có vẻ
“vần” với nhau. Như thế, khác với thơ để đọc, thơ để ca có thể “vần” thanh trắc
và thanh bằng vào với nhau một cách thoải mái. Nhờ khai thác được quan hệ giữa
lời và âm, nên anh dễ tìm ra vần. Cách khai thác vần này khiến các bài ca đâm
ra dễ nghe, suông sẻ, phong phú. Đồng thời, do đi với nhạc, nên những vần “lai
lai”, khi hát lên nghe vẫn thuận y như là vần thật. Thậm chí vần “lai lai” nghe
còn thú hơn là vần quá thuận. Trong ca từ TCS, ta thấy anh “vần” những chữ như
nhỏ – nọ – lạ – cỏ – do – giờ – đổ – chợ – thơ – lửa… hoặc thơm – tình – xanh –
nhiên – yên – mình – tên – quên – mòn – điên – câm – đông – màng… Nhiều bản
nhạc của anh chỉ có vài vần. Có bản, do chọn chữ và cấu tạo âm, ta nghe dường
như chỉ có một vần độc nhất từ đầu đến cuối. Một số ca khúc nổi tiếng của anh
có thể gọi là “ca khúc vần”, vần gần vần xa, vần trắc vần với vần bằng và ngược
lại. Có lẽ nhờ thế mà nhiều ca khúc lời rất vô nghĩa, người ta không hiểu,
nhưng vẫn thích hát. Có những bài, người ta “hát vần” chứ không “hát ý”. Hồi
trước, tôi đã nhiều lần cười thầm một mình khi đi ngang qua một xóm nghèo, chợt
nghe một cô gái ăn mặc lam lũ vừa bồng em vừa cất tiếng hát: “Gọi nắng, trên
vai em gầy đường xa áo bay…” lẫn với “Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn
lần buồn…”
Trịnh Công Sơn tự nhận xét: “Ca khúc đối với tôi là một mô hình gần
gũi, thiết thân và hoàn chỉnh. Nó là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và
âm nhạc”(8). Vâng, hôn phối giữa thi ca và âm nhạc. Đó là một lẽ. Theo tôi, nó
còn là một cuộc hôn phối khác, hôn phối giữa Trịnh Công Sơn và thời đại của anh
(và của chúng tôi). Không một chút chủ quan, tôi có thể nói thời đại chúng tôi
là một thời đại đặc biệt chưa hề có trong lịch sử đất nước. Nó không dài, những
cũng vừa đủ để tạo nên sắc thái hết sức đặc thù của nó. Đó là một giai đoạn
bùng vỡ mọi mặt. Nguyễn Mộng Giác gọi giai đoạn đó là “mùa biển động” mà anh
dùng đặt tên cho bộ trường thiên tiểu thuyết của anh. Vâng, mùa biển động! Liên
tục động. Suốt 12 năm trời, từ cuối năm 1963 cho đến tháng 4/1975, miền Nam
không khi nào yên tĩnh. Bom đạn, biểu tình, đảo chánh, pháo kích, giới nghiêm,
bãi khóa, hội thảo. Các phong trào, đảng phái mọc lên như nấm. Các xu hướng
chính trị, tôn giáo, triết học phát triển rầm rầm rộ rộ, có khi đi đến chỗ loạn
xà ngầu: hiện sinh, cộng sản, Phật giáo, Thiên chúa giáo, tả khuynh, hữu
khuynh, phân tâm, thiền, cách mạng tính dục. Cả một xã hội dường như trần
truồng, lộ liễu, phơi bày toang hoác. Các tệ nạn xã hội được dịp phát triển
kinh khiếp: tham nhũng, đĩ điếm, ăn cắp, giết người… Thời đại tướng lãnh sợ
sinh viên, bộ trưởng sợ thầy chùa. Một giai đoạn lịch sử tự do, bung phá. Mọi
tháp ngà bị đập vỡ. Mọi đường ranh bị băng qua. Tất cả các tiêu chuẩn chân lý
bị xét lại. Xã hội đầy kịch tính. Tuổi trẻ đứng cheo leo trên đường biên. Thích
thì làm, thích thì nói mà vẫn cảm thấy chênh vênh. Đó là thời kỳ của khai mở và
bi kịch. Không chỉ là bi kịch của chiến tranh, sự đổ vỡ của mọi giá trị, mà còn
là bi kịch của những yếu tố mâu thuẫn nội tại. Anh đớn đau nhận lãnh và thừa
hưởng để biến thành nghệ thuật. Có những bi thảm của chiến tranh thì cũng có
những ước mơ rực rỡ về hòa bình. Có cái đẹp của tình yêu thì cũng có cái bế
tắc, tuyệt vọng của cuộc nhân sinh. Có cái nhẹ nhàng, giải thoát của thiền thì
cũng có cái khắc khoải đớn đau của cảnh bể dâu. Có những bài ca kêu gọi chiến
đấu thì cũng có những bài ca chán nản, tuyệt vọng đến cùng cực. Anh hít thở cái
không khí tự do, đa dạng đó đồng thời cũng hít thở luôn cái không khí ngột
ngạt, bế tắc của nó. Trong nhạc của anh, có đầy dẫy những nghịch lý của thời
đại được diễn tả qua các khái niệm siêu hình: đỉnh cao/vực sâu, vô hạn/hữu hạn,
có/không, còn/mất… Nói theo kiểu Tô Thùy Yên thì những ca khúc của TCS “như
những tra vấn quyết liệt về đời người nhìn thấy qua một chuyến phiêu lưu của
hữu hạn trong nghìn trùng vô hạn”(9) . Đặng Tiến khen TCS “có tài đặt nhạc,
soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế hệ của mình, trong lòng đất
nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn lại, gọi là thiên tài cũng
không quá đáng”(10)
Có thể nói khác đi một chút: ca từ của TCS là một hôn phối giữa nhiều
“nỗi” khác nhau: nỗi tuyệt vọng nhân sinh, nỗi phẫn nộ về chiến tranh, nỗi mơ
ước về hòa bình, nỗi băn khoăn siêu hình, nỗi vui về tình yêu, đoàn tụ, gặp gỡ
và nỗi buồn thăm thẳm của thân phận con người. Có lẽ vì thế mà dù thỉnh thoảng
anh có “dao to búa lớn” la to những là hãy thế này, thế kia, cũng chỉ là “bốc
đồng”. Anh rên rỉ, than thở và chỉ muốn ru: ru tình, ru đời, ru đêm, ru tình,
ru em…Rốt cuộc, anh chẳng bao giờ có thể là chiến sĩ, mà chỉ là một nghệ sĩ.
II Ngôn ngữ
Trong sự nghiệp sáng tác của TCS, ta thấy có hai giòng nhạc tách nhau
rất rõ: giòng nhạc nói về chiến tranh và hòa bình và giòng nhạc nói về tình
yêu, thân phận. Hai giòng nhạc khác nhau về nội dung đã đành, mà kỹ thuật diễn
đạt, cách kết cấu ca từ cũng như nhịp điệu và âm thanh hoàn toàn khác. Như đã
đề cập, nói chung, trong hầu hết những bài hát thuộc loại chiến tranh và hòa
bình, anh viết bằng một lối viết rất hiện thực, kể cả khi mô tả những giấc mơ,
những ước vọng. Hiện thực kinh khiếp đó được mô tả bằng chữ nghĩa sống động và
đầy hình ảnh: trái tim rơi theo đại bác, thịt người cho thú nhai ngon, thịt
xương đã phơi đồng xanh, đại bác ru đêm dội về thành phố….
Anh sử dụng những chi tiết cụ thể, có thể nghe, nhìn, đồng thời nâng
chúng cao hơn, phóng lớn, mở rộng nghĩa. Hiện thực anh bắt gặp và ví von bất
ngờ quá khiến ta đôi khi thảng thốt: mộ bia đều như nấm, chết thật tình cờ,
chết chẳng hẹn hò nằm chết như mơ…Trừ một số ít bài sử dụng ẩn dụ, còn lại thì
ca từ rất “văn phạm”, nghĩa là có ý nghĩa cụ thể vì cấu trúc câu giản dị, dễ
hiểu. Anh muốn gửi một thông điệp rõ ràng đến người hát và người nghe.
Mọi sự hoàn toàn khác hẳn khi ta bước vào tình ca và thân phận ca mà
tôi gọi chung là nhân sinh ca. Tất cả bắt đầu chông chênh ở biên giới của chữ
nghĩa, ý tưởng bởi vì có một sự pha trộn đặc biệt giữa nhiều hình ảnh và ý
tưởng cũng như các ẩn dụ. Bửu Ý nhận xét: “…ta còn chứng kiến một công cuộc thể
nghiệm của tiếng Việt trên những chặng đường mới của ngôn ngữ với những kết hợp
từ ngữ tài hoa, những góc độ thu hình lạ lẫm, những tri giác dày dặn nhiều
tầng, đồng thời làm sáng giá những sự vật thông thường và tầm thường, khả năng
tưởng tượng bay bổng”(11)
Trước hết, ngôn ngữ ở đây là một thứ ngôn ngữ buồn và ray rứt. Anh tận
dụng, và trong một số trường hợp có vẻ như lạm dụng, thứ ngôn ngữ đó. Đúng ra
thì chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhiều bài hát khác nhau. Điều này
cũng dễ hiểu, vì nhiều bài hát, anh sống cùng một thức cảm thức: cô đơn. Ta
nhiều lần bắt gặp những từ và cụm từ như: quạnh hiu, lênh đênh, trăm năm, giòng
sông, gian nan, ăn năn, ngậm ngùi, hoang mang, hoang phế, mỏi mòn, hư hao, mệt
nhoài, buồn tênh, rong rêu, đời, chơi, vui, cuộc tình, vai gầy, gầy guộc, buồn
phiền, ưu phiền, cội nguồn…Nhiều cụm từ có chữ đá: đá buồn, sỏi đá, đá cuội,
bia đá, cồn đá. Một số từ trong triết học Phật giáo: vô thường, tiền kiếp, từ
bi, cõi tạm, hư không…Tất nhiên, những từ trên không có gì là lạ trong ngôn ngữ
Việt và nhiều người đã dùng. Nhưng ở đây, cái lạ là cách kết hợp thành những
cụm từ và cách sử dụng các từ đó trong các đơn vị câu để tạo nên những hình
ảnh, biểu tượng với ý nghĩa từ mới đến hoàn toàn mới và rất nhiều khi tạo nên
những hiệu ứng đặc biệt về mặt âm thanh: tuổi/ đá/buồn, cồn/ đá, môi/hờn, bàn
tay xanh xao/đón/ ưu phiền, nắng/khuya, mặt trời/ngủ yên, hạt/từ tâm.
So với những ca từ viết về chiến tranh, sự khác biệt rất rõ nét. “Xác
người nằm trôi sông” thì ta hiểu ngay nhưng “tuổi đá buồn” chữ nghĩa nghe kỳ
quặc, lạ hoắc và vô nghĩa. Một bên thì “mặt trời sáng trên quê hương” một bên
thì “nắng khuya”. Hoặc “dài tay em mấy…”. Gì vậy? Có phải là “có mấy thuở tay
em dài và mắt em xanh xao”? Mà nếu thế thì là gì ? Nothing. Ấy thế mà ta cứ hát
và cái lạ là hình như nó vẫn có nghĩa. Cứ hát. Và rồi nó có nghĩa thật! Thực ra
thì anh dùng cách kết hợp các từ ngữ xuất phát từ những ý tưởng khác xa nhau.
Thay vì phải giải thích dài dòng, anh cột chúng lại, buộc chúng phải ở với
nhau: tuổi (tuổi đời, tuổi em, tuổi xuân, tuổi ngọc, lứa tuổi…) + đá (đá cuội,
đá sỏi, bia đá, cứng như đá, vô tình như đá, lạnh như đá…) + buồn. Tóm lại chỉ
để diễn tả nỗi buồn sâu lắng của một thời tuổi trẻ.
Hãy nghe TCS giải thích về bài Diễm xưa: “Nhưng thật sự, thật và mơ là
gì? Thật ra, nói cho cùng, cái này chỉ là ảo ảnh của điều kia” … “Thời gian
trôi đi ở đây lặng lẽ quá. Lặng lẽ đến độ người không còn cảm giác về thời
gian”… “Trong không gian tĩnh mịch và mơ màng đó, thêm chìm đắm vào một khí hậu
loáng thoáng liêu trai, người con gái ấy vẫn đi qua đều đặn mỗi ngày dưới hai
hàng cây long não để đến trường .Đi đến trường mà đôi lúc dường như đi đến một
nơi vô định”(12)
Phải mẫn cảm lắm mới nhận ra điều gọi là “đi đến trường” mà như “đến
một nơi vô định” như thế. Đúng ra, tôi nghĩ, cô gái biết rõ mình đi đến đâu,
chỉ có kẻ ngồi ngóng “những chuyến mưa qua” mới là…vô định. Và suốt đời, đây
đó, anh ta luôn luôn vô định. Để diễn tả cái hình ảnh và cái cảm giác vô định
đó, anh tạo ra một thứ ngôn ngữ mới lạ, không hệ lụy vào những ý nghĩa bình
thường có sẵn ta vẫn quy cho chúng. Ngôn ngữ ở đây có tính tạo hình, tạo âm và
trong chừng mực nào đó, là một thứ ngôn ngữ “vô ngôn”. Ca từ chỉ còn là sự ghép
những hình ảnh, ý, chữ chợt bắt gặp, chợt rơi vào trí tưởng. Nói một cách khác,
không nhất thiết phải dán cho chúng những ý nghĩa cụ thể nhất định nào. Cứ để
chúng tan vào âm thanh, trôi tuột giữa chữ và chữ với nhau. Chữ cuốn theo chữ.
Âm cuốn theo âm. Hình cuốn theo hình. Khi nghe câu hát mưa vẫn mưa bay trên
tầng tháp cổ dài tay em mấy thuở mắt xanh xao, tôi nghĩ đến một bức tranh siêu
thực: hình ảnh của một cô gái nằm vắt ngang giữa rừng cây mưa, giữa đền đài
lăng miếu cũ buồn tênh, tay dài ngoẵng và mắt thì sâu thẳm. Buồn! Bất tuyệt
buồn! Có phải anh đã vẽ trong khi làm thơ và sáng tác ca khúc? Hát “Tuổi đá
buồn” hay “Ru em từng ngón xuân nồng” cũng thế, tôi vẫn thường hình dung những
chi tiết nào đó của một bức tranh: một đôi mắt, một vệt màu, vài nét chấm phá
vu vơ, một lối đi hoang vắng hun hút dài, những sợi mưa mà như không mưa, mái
tóc dài tung bay lòa xòa dưới bầu trời xám đục…Và tưởng tượng đến một bức tranh
khiến tôi thâm cảm được thêm chất liệu ẩn dấu đàng sau ngôn ngữ của anh, từ gót
chân trần em quên em quên cho đến tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm…
Cái chất “vô ngôn” (tiến đến phá ngôn) của TCS đạt đến đỉnh cao trong
“Dấu chân địa đàng”, “Vết lăn trầm”. Những là loài sâu ngủ quên trong tóc
chiều, bài ca dạ lan như ngại ngùng, loài sâu hát lên, từ vào trong đá xưa, tóc
xanh vầng trán thơ, loài rong rêu ngủ yên. Trừu tượng hơn: hằn trên phiến đá
nâu thêm ưu phiền, bồn gió hoang, chờ ta da du một chuyến, bài ca dao trên cồn
đá. Toàn là những cụm từ kết hợp vô định, tình cờ, hình ảnh loải choải, nhảy
vọt bất ngờ, thậm chí có vẻ ngây ngô, vô nghĩa y như một kẻ ưa làm dáng chữ
nghĩa. Đã thế, không giống như những bài khác về sau, nhạc ở đây ngúc ngắt,
thiếu hẳn cái nét trơn tru mềm mại của giòng nhạc “chính thống” TCS. Lối viết
nhạc và lời kiểu này khá hiếm trong toàn bộ nhạc TCS. Chúng được sáng tác trong
thời kỳ đầu và không hề thấy xuất hiện về sau này. Có lẽ vì anh hết cảm hứng
hay vì nó khó đến với công chúng, nói chung?
Ngôn ngữ ở những bản nhạc này không đóng chức năng bình thường của ngôn
ngữ là tạo nghĩa và tạo ý. Y như trong hội họa hiện đại, chúng chẳng khác gì
một loại tranh “cắt dán” (collage). Trong thực tế, theo như cảm nhận riêng của
tôi, hai bài ca trên là nỗi khắc khoải có tính chất siêu hình của TCS. Đó là
một khắc khoải không chỉ về thân phận, mà về cái tuyệt đối, về một thời hồng
hoang đã mất, về một chới với trong cõi vô biên, từa tựa như Trần Tử Ngang:
Tiền bất kiến cổ nhân
hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
độc sảng nhiên nhi lệ hạ
hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
độc sảng nhiên nhi lệ hạ
Khắc khoải của Trần Tử Ngang có tính trực giác, còn khắc khoải của TCS
lại nhuốm mùi duy lý. Có thể nói đó là một khát khao bất tuyệt về một thiên
đàng, không phải đã mất, mà không hề có. Nhiều lần, hát “Vết lăn trầm”, đến chỗ
bài ca dao trên cồn đá…, âm thanh vút cao lên, khiến lòng chợt chới với, hụt
hẫng, đau đáu một nỗi đau mênh mang khó tả!
Phải nhận rằng, cách cấu tạo ngôn ngữ TCS tài hoa, táo bạo và lạ. Trong
quá trình tạo vần cho phù hợp với âm và với nét nhạc, anh “bật” ra những tứ,
những ý, những hình ảnh và ngôn ngữ hết sức bất ngờ, mới lạ đôi khi khiến ta
sửng sốt y như chúng từ trên trời rớt xuống. Đọc hoặc hát và nghe hát đi hát
lại hàng bao nhiêu lần mà cảm giác sửng sốt và mới lạ vẫn còn tươi rói y như
mới nghe lần đầu.
- Lùa nắng cho buồn vào tóc em
– Nhật nguyệt trên cao ta ngồi dưới thấp
một đường cong queo, nắng vàng đột ngột
– Lòng tôi có đôi khi tựa bông hoa vừa mọc hân hoan giây xuống thế – Chợt nắng long lanh chợt nắng thưa
– Tặng hết cho tôi một phố chờ
– Nhật nguyệt trên cao ta ngồi dưới thấp
một đường cong queo, nắng vàng đột ngột
– Lòng tôi có đôi khi tựa bông hoa vừa mọc hân hoan giây xuống thế – Chợt nắng long lanh chợt nắng thưa
– Tặng hết cho tôi một phố chờ
Còn nhiều. Ngoài nhiều từ lặp đi lặp lại, hầu như bài nào cũng có những
ý, những chữ hoặc những tứ thật bất ngờ, và lạ như thế. Mặc dù ý cũ, rất cũ nữa
là khác hoặc là cùng một ý anh lặp đi lặp lại qua nhiều bài hát khác nhau. Cũng
là mô tả sự cô đơn, mất mát, sự xao xuyến trước cuộc lữ, sự bất lực của con
người trước thời gian, ám ảnh triền miên về cái chết. Chữ nghĩa anh dùng cho ta
những hình ảnh mới. Thậm chí, mới toanh. Chữ nghĩa trông dễ dàng đối với anh y
như chúng nằm sẵn đâu đó chỉ đợi có cơ hội là tuôn ra. Vừa lạ, vừa thú vị. Này
nhé, hãy nghe anh viết: Xin đứng yên trong chiều – Treo tình trên chiếc đinh
không. Chữ nghĩa dùng thì có khác nhưng rõ ràng là ý tứ chưa có gì mới lạ, hình
ảnh bình thường. Ta khoái, nhưng khoái đại khái. Bỗng nhiên tiếp theo đó:
gập ghềnh nhiều kiếp lưu vong, ta lăn đời đã quá
Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng
Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng
Nghe đã thật! Còn nữa. Này nhé, ta đang nghe: Ru trên đường em đến Xôn
xao từng tiếng chim . Ru em là cánh nhạn. Bỗng, anh hạ bút:
Miệng ngọt hạt từ tâm
Hoặc là: Vườn khuya đóa hoa nào mới nở. Đời ta có ai vừa qua. Bỗng:
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ
Tôi nghĩ quanh đây hồ như
Hoặc là: Vườn khuya đóa hoa nào mới nở. Đời ta có ai vừa qua. Bỗng:
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ
Tôi nghĩ quanh đây hồ như
Ô hay! Sao hai chữ “hồ như” lại rơi vào đây? Chữ “trông như” chẳng có
nghĩa gì ráo, mà làm sao nó khiến cho lòng mình bề bộn thế này! Bốn câu vừa
trích là từ bản nhạc “Đêm thấy ta là thác đổ”, một trong những bài hát rất hay
của TCS. Bản nhạc điệu “blues” nhẹ, gam La thứ là gam ruột của chất nhạc TCS.
Nếu tách hẳn ra thì là một bài thơ hoàn chỉnh mà ông Hoàng Ngọc Hiến bảo là bài
thơ hay nhất thế kỷ!(13)
Ngoài ra, như trên đã đề cập, một đặc điểm khác rất dễ nhận thấy và hầu
như chủ yếu trong ca từ TCS: tính chất “vần”. Nhờ vần, ca từ trơn tru, êm đềm
từ đầu đến cuối bản nhạc, nghe như một tiếng thở dài nho nhỏ với nhiều hình ảnh
đan xen lẫn nhau. Có cái liên hệ, có cái đứt đoạn. Tôi chợt “ngộ” một điều:
những từ ngữ và hình ảnh mới thường nằm ở cuối đoạn nhạc hoặc ở cuối câu. Và
cuối câu thì phải “vần”, hoặc với từ cuối câu kế hoặc với từ cuối câu trước đó.
Chính đòi hỏi đó làm “bật” ra những từ ngữ và hình ảnh mới. ở đây, ta thấy, nhờ
âm mà anh đã tạo ra lời, âm thanh là “tiềm năng” của lời.
Phải chăng đó là một trong những bí quyết của Trịnh Công Sơn trong việc
sáng tạo ra ca từ độc đáo của anh?
III Những bài ca về chiến tranh và hòa bình
Vào cuối năm 1968 hay đầu năm 1969 (tôi không nhớ rõ), tôi ghé thăm
TCS, lúc đó đang ở trọ tại một căn gác lửng trên đường Võ Tánh gần nhà thờ
Huyện Sĩ. Anh khoe với tôi một mẩu tin đăng trên tờ Le Monde (Pháp) viết về
anh. Tờ báo gọi anh là một nhạc sĩ “anti-guerre” (phản chiến). Trông bộ anh rất
khoái. Khoái mẩu tin và khoái cái từ “phản chiến”.
Trịnh Cung cho rằng “Tôi đồng ý với anh Phạm Duy, chữ “phản chiến”
không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án”(14) .
Tô Thùy Yên: “…có vài người tâm hồn giản dị đã vội kết luận rằng những
ca khúc này của anh là những tác phẩm phản chiến để buộc tội anh về những tác
dụng nguy hại của chúng đối với đám đông trong giai đoạn nghiêm trọng này của
đất nước”… “Nghệ thuật khi đã hình thành, là một nhận thức bao quát về đời
sống, là cánh hồng bay bổng tuyệt vời, chớ đâu phải là con gà què ăn quẩn cối
xay”(15)
Từ “phản chiến”, theo tôi, tùy cách nhìn, mà ý nghĩa nó khác. Và cũng
tùy cách giải thích.
Tôi đồng ý với cách giải thích sau đây của nhà thơ Sương Biên Thùy, một
sĩ quan tác chiến thời VNCH. Tuy cực lực lên án thái độ đầu hàng nhà nước Cộng
Sản của TCS sau tháng 4/1975, nhưng anh thừa nhận: “Phản chiến là chống chiến
tranh tức là chống những người gây ra chiến tranh. Tôi không thấy TCS có lỗi gì
hết với những sáng tác của anh được mệnh danh là phản chiến. Thêm vào đó, tôi
không thấy có gì tác hại tiêu cực lên tinh thần người lính từ những bản nhạc
phản chiến của anh, trong đó có tôi” … “Sau một cuối tuần nghỉ phép, ngồi trước
cốc cà phê, miệng ngậm điếu thuốc lá quân tiếp vụ, nghe giọng hát Khánh Ly và
nhạc Trịnh Công Sơn, hôm sau trở lại đơn vị, tiền đồn, tinh thần sảng khoái,
trí óc minh mẫn…”(16)
Hồi đó, trong lúc miền Bắc hừng hực trong cơn sốt chiến đấu với những
lời hô hào “chiến đấu”, “nhắm thẳng quân thù mà bắn”, “giết”, “tiến công”,
“tiêu diệt”…, nghĩa là không dung dưỡng bất cứ một thái độ tiêu cực nào, thì
miền Nam sống trong không khí khốc liệt của chiến tranh và khát vọng hòa bình.
Khát vọng này không riêng biệt cho bất cứ ai, từ người lính ngoài chiến trường
cho đến những bà mẹ ở thành phố, vì không có ai thoát khỏi những di lụy của
cuộc chiến. Nếu gọi là phản chiến, ta có thể nói hầu như cả miền Nam đều phản
chiến, dưới nhiều hình thức khác nhau: lính đào ngũ, lính kiểng, lính ma, hoãn
dịch học vấn, hoãn dịch gia cảnh, hoãn dịch vì công vụ, chạy chọt để được vào
quân cảnh, cảnh sát, chạy chọt đi nước ngoài, những cuộc xuống đường đòi hòa
bình của Công giáo, Phật giáo, báo chí tràn ngập những phân ưu lính chết trên chiến
trường hằng ngày. Đó là chưa kể đến các tác phẩm văn chương. Chỉ trừ những tài
liệu tuyên truyền, hầu hết những tác phẩm thơ văn đều không ít thì nhiều, cách
này hoặc cách khác lên án chiến tranh và mô tả những bi kịch thảm khốc của
chiến tranh không che giấu. Nhiều nhà văn, nhà thơ là lính hoặc làm việc trong
các cơ quan nhà nước VNCH, khi viết những bài tuyên truyền thì viết như là một
cán bộ, công chức mẫn cán, nhưng khi viết như một nhà văn, tác phẩm của họ cũng
mô tả hiện thực chiến tranh và cách này hay cách khác, lên án chiến tranh. Và
tất nhiên, người ta vẫn hát nhạc TCS. Đúng ra, không ai cảm thấy hát nhạc TCS
là một cái tội. Vì quả thật, những gì TCS nói lên qua ca khúc của anh đều là
nỗi lòng và mơ ước chung của mọi người.
Thực cảnh chiến tranh
Với tài hoa riêng, anh đã mô tả chiến tranh bằng một bút pháp hiện
thực, với những chi tiết hiện thực rất đậm đà, rất sống, rất sắc. Khác với
những ca khúc về tình yêu và thân phận, những bài ca chiến tranh sử dụng một
thứ ngôn ngữ đời thường, nhiều khi chẳng khác gì những bài tường trình về chiến
trận. Ca từ khá gần gũi với truyện, ký. Theo anh, đất nước ta luôn luôn sống
trong lệ thuộc và chiến tranh: đánh Tàu, đánh Tây và nội chiến. Đất nước luôn
luôn là bãi chiến trường:
Dân ta đã bao nhiêu năm, đầu đội bom bước đi mong manh
Tầm đạn bay nhức đau trong xương nhìn trái tim treo trên đầu súng
Một đời nước mắt chan cơm…
Tầm đạn bay nhức đau trong xương nhìn trái tim treo trên đầu súng
Một đời nước mắt chan cơm…
Chiến tranh là bức hoành tráng toàn một màu đỏ ghê khiếp:
Bao năm, máu như sông trôi thành nguồn
Máu đã khô trên ruộng đồng, máu âm u trong rừng rậm
Máu đã khô trên ruộng đồng, máu âm u trong rừng rậm
Tràn đầy xác người:
Xác người năm trôi sông, trôi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố, trên những đồi hoang vu
Nhân đây, ta thử đọc lại vài giòng thơ viết về chiến tranh của một nhà thơ khác cùng thời với anh, Tô Thùy Yên chẳng hạn:
Trên nóc nhà thành phố, trên những đồi hoang vu
Nhân đây, ta thử đọc lại vài giòng thơ viết về chiến tranh của một nhà thơ khác cùng thời với anh, Tô Thùy Yên chẳng hạn:
Tiếp tế khó – đôi lần phải lục
Trên người bạn gục đạn mươi viên
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
Thây sình, mặt nát, lạch nương tanh
(Qua sông)
Trên người bạn gục đạn mươi viên
Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong vết thương người bạn nín rên
Người chết mấy ngày chưa lấy xác,
Thây sình, mặt nát, lạch nương tanh
(Qua sông)
một đoạn khác:
Ta chắt cho nhau giọt rượu sót
Tưởng đời sót chút thiếu niên đây
Giờ cất quân, đưa tay ra bắt
Ước cõi âm còn gặp để say
(Anh hùng tận)
Tưởng đời sót chút thiếu niên đây
Giờ cất quân, đưa tay ra bắt
Ước cõi âm còn gặp để say
(Anh hùng tận)
Hay Trần Hoài Thư:
Chiến trường thì cũng thây người chết
Cũng là biển lệ cũng hờn căm
Trường Sơn chưa dứt cơn kinh động
Đồng Tháp dòng kênh máu đỏ ròng
(Quán gió đồng bằng)
Chiến trường thì cũng thây người chết
Cũng là biển lệ cũng hờn căm
Trường Sơn chưa dứt cơn kinh động
Đồng Tháp dòng kênh máu đỏ ròng
(Quán gió đồng bằng)
Cũng là nói về thảm kịch chiến tranh, nhưng những đoạn thơ trên là của
những người lính, những người trực tiếp tham dự cuộc chiến. Rõ ràng là không ai
muốn chiến tranh cả. Nhưng mỗi người nhìn bi kịch từ một chỗ khác. TCS ở thành
phố, anh không tham dự cuộc chiến, anh từ chối nó. Hay nói cho đúng hơn, anh
may mắn không rơi vào cái bẫy chiến tranh. Là một outsider, anh không cảm nhận
được cái bi tráng đặc thù của người lính miền Nam trước giờ cất quân ra chiến
trận, hết rượu, còn hẹn nhau về âm phủ nhậu tiếp như trong “Anh hùng tận” của
Tô Thuỳ Yên!
Nhưng outsider vẫn có cái đau của outsider! Do thế, TCS tìm cách nói
những điều mà người lính không nói, hoặc nói một cách khác. TCS đi sâu hơn vào
thực cảnh và tâm tình của người thành phố, những kẻ ở hậu phương, tuy không
trực tiếp chịu đựng cảnh máu chảy đầu rơi, nhưng tác động của nó cũng ghê gớm
bội phần. Đó là cảnh một cô gái trở nên điên kêu gào vô vọng trên đường phố vì
có người yêu là lính chết mất xác ở một trong những trận đánh nào đó hay là
cảnh “đại bác đêm đêm dội về thành phố” mà anh gọi bóng bẩy là “đại bác ru
đêm”. Những cảnh đó ồn ào. Có những cảnh lặng lẽ hơn nhưng không kém phần xót
xa, nhức nhối:
Em đi qua cầu, có gió bay theo thổi bùng khăn tang, trắng giữa mây
chiều
..Em đi qua cầu chở chiều trên vai ngậm buồn trên môi
..Em đi qua cầu chở chiều trên vai ngậm buồn trên môi
Một cảnh khác:
Ghế đá công viên dời ra đường phố
Người già co ro chiều thiu thiu ngủ
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ
Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi
Người già co ro chiều thiu thiu ngủ
Người già co ro buồn nghe tiếng nổ
Em bé lõa lồ khóc tuổi thơ đi
Một khung cảnh phố chợ đìu hiu, nghèo nàn, tan nát trong những năm biến
loạn miền Trung 1965-1966 khi máu lửa chết chóc bao trùm toàn bộ đất nước. Thật
sống động và bi thiết!
Kêu gào tranh đấu
Trong nỗi bi phẫn vì chiến tranh, anh lên tiếng kêu gào tranh đấu đồng
thời nói lên những khát khao về hòa bình. Khác với “Ca khúc da vàng”, hai tập
“Kinh Việt Nam” và “Ta phải thấy mặt trời” gồm toàn những ca khúc mang tính đấu
tranh và đầy niềm tin về tương lai. Ca từ và nhạc hùng hồn, thúc giục. Một số
đoạn nhạc có những luyến láy đặc biệt, rõ ràng là chịu ảnh hưởng của lối viết
nhạc chiến đấu miền Bắc.
- Em đã thấy các anh lên đường
Những tay trần làm cơn bão lớn
Cùng đứng bên nhau, triệu bước nôn nao
Biểu ngữ giăng cao…
Những tay trần làm cơn bão lớn
Cùng đứng bên nhau, triệu bước nôn nao
Biểu ngữ giăng cao…
- Xin anh chị hãy vùng lên, đời sống này đầy bóng tối
Triệu anh em chia sớt nguy nan, xây cách mạng dựng
đời người mới
– Anh bước đi, tôi bước đi, em với chị bước theo
Tìm Việt Nam xưa yêu dấu
Ta đi trong cách mạng tự hào
Trong một vài bài, anh còn hô hào “đứng lên”:
Chính chúng ta phải nói hòa bình …Anh em quyết lòng,
đứng lên!
Triệu anh em chia sớt nguy nan, xây cách mạng dựng
đời người mới
– Anh bước đi, tôi bước đi, em với chị bước theo
Tìm Việt Nam xưa yêu dấu
Ta đi trong cách mạng tự hào
Trong một vài bài, anh còn hô hào “đứng lên”:
Chính chúng ta phải nói hòa bình …Anh em quyết lòng,
đứng lên!
Hơi hướm của những bài nhạc như thế rõ ràng chẳng khác gì mấy so với
bài “Dậy mà đi”, thơ phổ nhạc của Tố Hữu, trông ra còn “mạnh” hơn nhiều so với
những bài do các tác giả thuộc phe Cộng Sản sáng tác lưu truyền trong sinh viên
học sinh trong sách lược “SVHS vận” như bài “Tự nguyện” chẳng hạn:
Nếu là chim tôi sẽ làm loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa hướng dương
Nếu là hoa, tôi sẽ làm một đóa hướng dương
Những bài ca của TCS trong hai tập này chẳng khác gì những bài ca xung
trận. Anh hô hào, kêu réo, thúc giục. Điệu nhạc 2/4 khi thì hùng hồn, khi thì
tha thiết. Ca từ khi thì mạnh mẽ như phá ngục tù, đứng dậy, cách mạng, bước đi,
vùng lên, tự hào…khi thì rộn ràng phấn khởi như: mặt đất rung rinh, ba miền
thống nhất, triệu người, trăm con phố, trăm câu nói, triệu lá cờ, triệu người
qua, anh bước đi, em bước đi, anh với chị bước theo…
Ca từ nói trên có tính cách chung chung không ám chỉ rõ rệt phe nào.
Chính vì thế mà nhạc của anh chẳng được chế độ VNCH chấp nhận, dù trong thực
tế, chúng vẫn được phổ biến không hạn chế trong sinh hoạt của mọi tầng lớp xã
hội. Mặt khác, Cộng Sản cũng chẳng mấy ưa vì tính chất mập mờ của chúng.
Khát vọng hòa bình
Cần ghi nhận, hầu hết những hô hào đó không phải là hô hào chém giết,
mà là hô hào chiến đấu cho hòa bình. Anh vẽ vời ra hình ảnh một đất nước sau
chiến tranh rất huy hoàng, như một bức hoành tráng với cảnh triệu người đổ ra
phố phường, say sưa ca hát, tay bắt mặt mừng, lòng căm thù “chìm sâu”, biến
mất, không còn nhà tù, nhân dân thoát cùm gông. Hãy nghe anh tưởng tượng, trước
hết, một đất nước Việt Nam không còn hận thù:
Đạn bom ơi, lòng tham ơi, khí giới nào diệt nổi dân ta
Việt Nam ơi bừng cơn mơ, cho mắt nhìn sạch tan căm thù
Việt Nam ơi bừng cơn mơ, cho mắt nhìn sạch tan căm thù
Trong một đất nước như thế, mặt đất sẽ “rung rinh bước triệu người, phá
ngục tù đi dựng ngày mới”, với cảnh:
Thuyền ngược xuôi trăm ghe chèo con nước lớn
Con người thực hiện được giấc mơ phục sinh:
Tìm lại thanh xuân cho chị hồng đôi má
Tìm lại đôi vai em về gánh xuân nồng
Tìm lại thơ ngây cho một bầy em bé
Tìm lại đôi chân cho người lính trở về
Tìm lại đôi vai em về gánh xuân nồng
Tìm lại thơ ngây cho một bầy em bé
Tìm lại đôi chân cho người lính trở về
Một trong những hình ảnh (và có thể là nỗi ám ảnh) của anh là mặt trời.
Tương lai tươi sáng đồng nghĩa với mặt trời:
- Bao nhiêu năm nhục nhằn đã qua, hôm nay thấy
mặt trời rực sáng…
– Trên cánh đồng hòa bình này, mặt trời yên vui lên đỏ chói
mặt trời rực sáng…
– Trên cánh đồng hòa bình này, mặt trời yên vui lên đỏ chói
Anh cụ thể hóa khung cảnh hòa bình bằng nhiều chi tiết rất cụ thể:
Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng cao
Vác những cây rừng to về nơi đây ta xây dựng nhà
Vác những cây rừng to về nơi đây ta xây dựng nhà
Một đất nước phát triển:
Trường học dựng mọi nơi…
Bệnh viện đầy niềm tin
Chợ người về càng đông
Bệnh viện đầy niềm tin
Chợ người về càng đông
Nông nghiệp phát triển:
Đời dân ta cần lao, mồ hôi đã thắm trong ruộng sâu
Ngày mai đây rừng hoang thành bãi lúa quyết nuôi dân nghèo
Ngày mai đây rừng hoang thành bãi lúa quyết nuôi dân nghèo
Và giấc mơ này thì thật “vô tiền khoáng hậu”:
Đường đi đến những nơi lao tù
Ngày mai sẽ xây trường hay họp chợ
Dân ta về cày bừa đủ áo cơm no
Ngày mai sẽ xây trường hay họp chợ
Dân ta về cày bừa đủ áo cơm no
Một đất nước phát triển, không có lao tù,nhân dân no ấm, trời ơi, có
giấc mơ nào đẹp hơn thế! Và thực tế lịch sử mấy chục năm không chiến tranh vừa
qua dưới chế độ Cộng sản cho thấy, chẳng có giấc mơ nào viễn vông hơn thế!
“Ta phải thấy mặt trời” và “Xin mặt trời ngủ yên”
Những bài ca trích dẫn trên, nhiều bài, nhiều đoạn chẳng khác gì một
một hồi trống thúc quân. Anh kêu gọi mọi người xuống đường, đứng dậy, tiến lên.
Y như một chiến sĩ xung kích, sẵn sàng lao đầu vào cuộc chiến đấu. Mặt khác,
trong nhiều bài, ca từ đầy chất lạc quan.
Những nhạc khúc trên “rất” TCS (vì chỉ có anh mới sáng tác loại ca khúc
này) mà cũng lại (theo cảm nhận của riêng tôi) có vẻ rất “không” TCS. ồn ào
thế, hùng tráng thế, nhưng vẫn có cái gì gượng gạo, không ổn. Nhiều đoạn nghe
ra như nhạc “phong trào”. Dù không nghi ngờ gì về nỗi phẫn nộ cũng như khát
khao của anh, tôi vẫn cảm thấy chúng bị điều kiện hóa bởi những biến cố thời sự
và bị thúc bách bởi một hoàn cảnh tâm lý đặc biệt nào đó. Do thế mà, dù được
hát và được phổ biến, chúng không trở thành phổ thông và đi sâu vào lòng người
như những bài tình ca và thân phận ca. Đàng sau những lời lẽ hùng hồn đó vẫn
thấp thoáng một cảm thức tuyệt vọng, như sau này ta sẽ thấy trong tập “Phụ khúc
Da vàng”:
…Đường anh em sao đi hoài không tới
Đường văn minh xương cao cùng với núi
Đường lương tâm mênh mông hoài bóng tối
Trái đau thương cho con mới ra đời
Đường văn minh xương cao cùng với núi
Đường lương tâm mênh mông hoài bóng tối
Trái đau thương cho con mới ra đời
Có nghĩa là, theo tôi, ẩn nấp dưới những ca từ “đao to búa lớn” của
Kinh Việt Nam và Ta phải thấy mặt trời, vẫn là giòng nước mắt, là nỗi ưu tư
nhân thế, là tâm trạng đớn đau cùng cực của thân phận nhỏ bé, yếu hèn. Vẫn là
hạt bụi, vẫn là nỗi khắc khoải siêu hình miên viễn trước cuộc nhân sinh. Tất cả
cái “vẫn” đó tạo thành chất sâu lắng, tha thiết của “Thần thoại quê hương tình
yêu và thân phận” sáng tác trước đó. Hay nói một cách khác, đàng sau lời hô hào
“ta phải thấy mặt trời” là một lời van vỉ thống thiết bất tuyệt:
Mặt trời đã ngủ yên
xin mặt trời hãy ngủ yên
Con người mãi mãi vẫn là một thân phận:
Cúi xuống cho bóng đổ dài cho xót xa mặt trời
xin mặt trời hãy ngủ yên
Con người mãi mãi vẫn là một thân phận:
Cúi xuống cho bóng đổ dài cho xót xa mặt trời
Anh xin đủ thứ: xin tình yêu, xin lại cuộc đời, xin chuyện tình, xin
nguyên vẹn hình hài, xin yên phận này thôi. Trong lúc bên kia anh giục giã,
thúc bách hãy vung cao biểu ngữ, thì ở đây:
Giọt nước mắt quê hương ôi còn chảy miên man
ôi giòng nước mắt chảy hoài
giòng nước mắt đời đời…
ôi giòng nước mắt chảy hoài
giòng nước mắt đời đời…
Thân phận con người quá nhỏ nhoi bé bỏng, bất lực:
Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù
Người nằm yên không kêu than chết trên căn phần
…Người đứng đó như trăm năm vết thương chưa mờ
Người mẹ là hình tượng của một nỗi buồn bất tuyệt:
Mẹ ngồi trăm năm như thân tượng buồn để lại quê hương
Một khung cảnh hậu chiến hoang liêu như thuở tạo thiên lập địa:
Sau chinh chiến ôi quê hương thần thoại thuở hồng hoang
đã thấy đã xanh ngời liêu trai
còn có ai trên cuộc đời ôi nhân loại còn người
và tôi thôi rồi lang thang như mây trời
Người nằm yên không kêu than chết trên căn phần
…Người đứng đó như trăm năm vết thương chưa mờ
Người mẹ là hình tượng của một nỗi buồn bất tuyệt:
Mẹ ngồi trăm năm như thân tượng buồn để lại quê hương
Một khung cảnh hậu chiến hoang liêu như thuở tạo thiên lập địa:
Sau chinh chiến ôi quê hương thần thoại thuở hồng hoang
đã thấy đã xanh ngời liêu trai
còn có ai trên cuộc đời ôi nhân loại còn người
và tôi thôi rồi lang thang như mây trời
Chiến tranh, quê hương, tình yêu và thân phận cuộn xoáy vào với nhau để
tạo thành bi kịch. Cùng lúc với Kinh Việt Nam và Ta phải thấy mặt trời hoặc sau
đó không lâu là Như cánh vạc bay, Khói trời mênh mông, Cỏ xót xa đưa. Rốt cuộc,
căn phần của anh, thực chất của anh là một kẻ suy gẫm về nỗi cô đơn, một tên
hát rong suốt đời lang thang, buồn bã. Những hô hào của anh, những reo hò của
anh, những reo vui của anh chỉ là “vui gượng kẻo mà”. Chiến tranh cũng là bi
kịch nhân sinh, như mọi bi kịch khác. Nó là thành phần của bi kịch đó. Bởi thế
mà, mặc cho có những lúc anh tở mở reo hò, hòa bình hay không, còn chiến tranh
hay không, thân phận anh vẫn thế. Vẫn là một thân tượng buồn!
Vẫn là:
Trên đời người trổ nhánh hoang vu
Trên ngày đi mọc cành lá mù
Những tim đời đập lời hoang phế
Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê
…Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.
Trên ngày đi mọc cành lá mù
Những tim đời đập lời hoang phế
Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê
…Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ
Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.
Mặt trời vẫn ngủ yên cho anh tiếp tục hát hôn mê. Mãi mãi hôn mê! Và
chính cái hôn mê đó đã tạo thành một TCS khác, mang anh đi vào vĩnh cửu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét