Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

Bến cuối

Bến cuối
BẾN CUỐI 1:
NHÓM TÀO LAO
Đọc bài này, các bạn không thấy một miếng văn chương nào thì cũng đừng ngạc nhiên nhé, vì đây không phải là một “tản mạn” hay “tùy bút” gì cả, mà chỉ là một bài viết, nghĩ đến đâu, viết đến đó, trong cái mớ hỗn độn của ký ức đan xen với hiện tại… mơ mơ hồ hồ, ẩn ẩn hiện hiện… giữa dòng chảy của gần 70 năm cuộc đời.
Tôi viết về các bạn tôi, trong gia đình Phan Châu Trinh nói chung và liên lớp chúng tôi nói riêng - Niên khóa 1957-1964. Nhớ về bạn bè, trường cũ, ta thường nhắc đến thời áo trắng học trò, hoa bướm ngày xưa… Cho nhớ thương về quê xưa, mùa xuân không còn nữa, muôn cánh hoa đào phai úa, lối cũ rơi hững hờ… những nỗi nhớ nhung luyến tiếc đó lâu nay đã tốn nhiều giấy mực của các bạn, theo tôi, không còn là đề tài hấp dẫn nữa. Để thay đổi khẩu vị, tôi sẽ viết những chuyện của thế kỷ 21, khi hoa đã héo tàn, bướm đã rủ cánh, vườn xưa đã ngả bóng hoàng hôn.
1*. Một ngày đẹp trời của thiên niên kỷ mới, các bạn tôi –những cánh chim giang hồ bỗng tìm về nhau thật tình cờ… Tôi sẽ lần lượt kể. Đầu tiên là Tôn Thất Toản. Toản từ Mỹ về. “A lô, xin hỏi phải cô Ái không ạ?” “Ai mà lịch sự rứa hè?” “Tui đây, Toản đây.” Toản??? mình có biết tên này không? Vẫn giọng Huế hiền lành: “Toản học cùng lớp ở Phan Châu Trinh đó.” À, nhớ ra rồi, tôi hỏi liền: “Tôn Toản Bốc Sư phải không?” (nếu biết Toản đã là một Đại Đức chân tu thì tôi đâu có dám trịch thượng đến như vậy!) Toản cười trong máy. Vậy là đúng rồi. Sau vài câu thăm hỏi, Toản nhờ tôi tổ chức một buổi họp mặt bạn bè. Toản cho tôi số Điện thoại của Kim Ngân, nhờ gọi dùm. Tôi nhận lời, lòng rất vui. Nhưng vui được một lát, lại lo. Nhìn lui nhìn tới, chả thấy bạn bè nào, chỉ có Đào Thị Thái (Kim Hài) là bạn học duy nhất còn liên lạc bình thường, bây giờ có thêm Kim Ngân, lâu quá rồi, biết nó còn nhớ tôi không.
“Nhớ, nhớ lắm lắm!” Kim Ngân trả lời trong điện thoại, giọng rất vui. Tôi hỏi: “Ngân gặp Toản từ lúc nào vậy?” “Trời đất, sao gọi tên thầy tỉnh bơ vậy?” “Thầy gì? Thầy ai?” “Toản bây giờ là thầy Tịnh Đức, đâu phải người thường.” Trời, tôi bị hớ nặng, biết nói gì đây! “Ái, Ái còn ở đó không?” “Ờ… ờ còn. Toản ủa quên… thầy… muốn họp mặt bạn bè. Ngân biết còn ai không, kêu dùm mình với.” “Mình biết có nhiều bạn lớp mình lâu nay vẫn sinh sống  ở thành phố nhưng không có địa chỉ, mà nếu gặp lại ngoài đường, chưa chắc đã nhận ra nhau. À, mình có thấy Quỳnh Cư một lần trên phố, nhưng không kịp gọi.” Ngày xưa, tôi là bạn học với Quỳnh Chi nên xem Quỳnh Cư như em. Giờ gọi Quỳnh Cư cũng tốt nhưng nói theo kiểu bóng chim tăm cá thế này làm sao liên lạc được?
Vậy mà hên, ngày hôm sau, trong tiệc cưới con trai của thầy Vĩnh Vinh, tôi tình cờ gặp Phước Khánh và anh Lê Tự Hỷ. Từ Phước Khánh, tôi có số điện thoại của Quỳnh Cư, và từ Lê Tự Hỷ, tôi có tin của Lê Tự Rô. Hiện Lê Tự Rô là sui gia với Phan Xuân Tứ, cũng là bạn học với tôi. Vậy là có thêm Tứ nữa.
Hai cặp vợ chồng Rô –Tứ thuê taxi từ Biên Hòa lên dự buổi họp mặt tổ chức ở nhà Thái, gồm thầy Tịnh Đức, Kim Ngân, Quỳnh Cư, Thái và tôi. Ngoài bạn bè ra còn có thầy Vĩnh Vinh ngày xưa dạy Pháp Văn cũng đến, rất nhiệt tình. Lần gặp mặt đầu tiên, Toản tặng quà cho riêng 4 người bạn gái mà thôi: đó là Thái, Kim Ngân, Quỳnh Cư và tôi (mỗi người một chai dầu gội đầu).
Vài tháng sau đó, Quỳnh Cư rủ Thái và tôi đến họp mặt PCT tại nhà Phạm Thị An, học sau tôi một năm. Tại đây tôi gặp Kim, bạn cùng lớp An. Trong câu chuyện xã giao, tình cờ Kim cho biết, anh hiện ở Canada, gần nhà Phan Thị Thu Hà. Mừng quá, tôi nhờ anh chuyển cho Hà tấm danh thiếp. Không bao lâu, tôi nhận được email, rồi airmail của Hà: “55 tuổi rồi Ái ơi, dễ sợ quá.” Thư có kèm hình, vẫn không thấy Hà già đi chút nào, đúng như lời Kim nói: “Trông Hà trẻ hơn chị nhiều.” Rồi Hà gửi cho tôi một CD nhạc hải ngoại toàn những bài tôi thích, nhưng hồi đó, VN còn dị ứng với văn hóa phẩm nước ngoài, nên bưu điện không cho nhận mà buộc tôi phải chọn hai cách:Tốn 50 ngàn đồng để trả lại người gửi hoặc hủy CD  ngay tại chỗ. Hồi đó, 50 ngàn lớn lắm nên tôi chọn phương án sau. Tiếc quá.
Từ Hà, tôi nhận được thư hai cô bạn hiện ở Mỹ. Đó là Phạm Thị Duyệt: “Ái ơi, tao mừng quá. Vậy mà nghe đồn mi vượt biên gặp hải tặc nên đã nhảy xuống biển để được tiết hạnh khả phong. Tao khóc hết nước mắt.” Đúng là tin vịt! và Đinh Thị Kim An: “ Nhớ ngày nào đến nhà Ái, ba Ái cho An ăn…” thôi thì đủ các thứ món, đến tôi còn không nhớ, sau đó là than: “Ái ơi, bây giờ An yếu lắm, An đau…” thôi thì đủ bệnh, bệnh tuổi đời chồng chất nghe sao oải quá! Và từ Quỳnh Cư, tôi biết được tin tức Thục Nhi, Thu Phong đang ở Pháp.
Nhớ cuối thế kỷ trước, tôi ra Đà Nẵng gặp cô bạn thân Lê Thị Trang (cháu ngoại cụ Phan Châu Trinh). Tôi cho Trang địa chỉ ở Phú Nhuận và số điện thoại, nhưng khi Bích Lan từ Pháp về tìm thì tôi đã chuyển nhà xuống Gò Vấp. Một buổi tối, có anh Công an chở một phụ nữ vào hẻm nhà tôi. Đến trước tấm cửa lưới, người phụ nữ ghé mặt nhìn vào, thấy tôi từ nhà sau bước ra, người phụ nữ quay lại nói: “Đúng bạn tôi đây rồi. Cám ơn anh nhé.” Rồi vẫy tay lia lịa: “Ái, Ái, tao nè.” Ủa, ai trông lạ hoắc vậy? sao biết tên mình?. Anh công an quay xe lại. Tôi bước đến gần hơn. Hình như… hình như là… A, Bích Lan. Tôi lật đật kéo then cửa. Bích Lan ào vào nhà, nằm dài xuống salon: “Giời ôi, tao đi tìm mày từ sáng đến giờ. Hôm tao ghé Đà Nẵng, con Trang bảo mày ở Sài Gòn rồi cho địa chỉ. Đi tìm nhà muốn rã chân, nhưng đến nơi thì mày đã cuốn xéo. Nóng quá, nóng quá. Bật quạt dùm tao đi.” Tôi nhìn nó quá khác xưa, mắt hai mí to đùng, cái mũi tẹt ngày xưa đâu mất? :“Mặt mày sao sửa tá lả vậy? Tao suýt nhận không ra đó.” Nó ngồi bật dậy, dí sát mặt tôi: “Tao sửa mắt và mũi, mày thấy… được không?” “Ừ thì cũng đẹp, nhưng… già thì để già luôn đi, sửa chi cho tốn tiền.” Nó cười hí hí –vẫn là giọng cười quen thuộc từ mấy mươi năm trước: “Nói như mày thì mấy cái Thẩm Mỹ Viện đóng cửa hết.” Rồi kể lể dài dòng: “Mày biết không? Anh công an chỗ nhà cũ của mày tốt thật đấy. Anh ta biết mày dọn về đây nên khi nghe tao hỏi là đưa tao đến liền.”
Thục Nhi về Việt Nam làm đám cưới cho con trai, tôi lại gặp thêm Phạm Ngọc Chấn, Mai Xuân Lương (Canada), Nguyễn Văn Vượng, Nguyễn Phước Đãi, Huỳnh Bá An, Nguyễn Luyến, Trần Thị Diễm Dương, Bùi Thị Hồng Vân (Mỹ), Đỗ Quí Tấn (Pháp), Nguyễn Văn Hải (Mỹ).
Cũng như Thu Hà, Bích Quân và Minh Châu chỉ liên lạc với tôi qua email, xem ra, nếu ba cô bạn Vịt Điên (Canadien) của tôi không về Việt Nam một chuyến, e khó mà gặp mặt nhau. Thời gian này, trang Web PCT Một Thời Để Nhớ được phổ biến rộng rãi, một trong những người biên tập là Trần Đình Thắng, cũng là PCT 57 –64, hiện ở Chicago. Tôi gửi bài và thư từ với Thắng rất thường xuyên.
Phước Khánh mở quán Cao Nguyên ở Tân Định, dân PCT tụ về rất đông. Từ đây tôi quen với Diêu Đức Châu, Phạm Ngọc Lâm và Nguyễn Kim Long, dù không học cùng lớp. Cảm động nhất là hôm gặp lại Hồ Thị Hồng, nước mắt ngập cả con hẻm nhà tôi. Hình như Lê Tự Rô cho tôi số điện thoại của Hồng. Và khi nhận ra tôi, Hồng tức tốc thuê xe chạy đến nhà tôi ngay. Hồng ôm tôi, nghẹn ngào không nói được lời nào, chỉ biết khóc: “Tưởng không bao giờ gặp lại mi.”
Năm 2004, tôi về Đà Nẵng dự Đại Hội trường Phan Thanh Giản, Yến Loan chở tôi đi thăm Lê Thị Trang, Cao Ngọc Trảng, Như Hảo và Kim Oanh… cứ nhớ mãi hình ảnh lăng xăng của Kim Oanh khi tôi ghé nhà: “Ái ơi, gặp mi tao mừng quá. Mi ưng ăn chi, tao đi chợ mua nấu cho mi ăn.”
Quỳnh Chi còn gia đình người con gái ở Việt Nam nên về hoài và thường  hẹn bạn bè ăn sáng ở nhà hàng Phong Lan. Tôi quen thêm Tố Nga, rất dễ thương. Qua Chi, Lê Thị Hòa từ Atlanta về, cũng đã gặp tôi. Rồi duyên may đưa đến, tình cờ tôi được người bạn thời tiểu học cho  số phone của Trân Châu hiện đang ở Cần Thơ. Ban đầu, hai đứa chỉ trò chuyện qua điện thoại, sau đó, khi nào lên Sài Gòn, Châu cũng ghé thăm tôi.    
Gần bảy mươi năm nhìn lại, thấy đời người chẳng khác chi dòng sông, lên thác xuống ghềnh, khi êm đềm phẳng lặng, khi bão tố phong ba… và các bạn tôi, trên bước đường sự nghiệp, có kẻ thành đạt, có người không gặp vận may; cũng như trong cuộc sống riêng tư, kẻ hạnh phúc tràn trề, người giữa đường gãy gánh… mỗi người một số phận, nếm trải biết bao cay đắng buồn vui cuộc đời. Giờ đây, con đường phía trước chúng ta chẳng còn bao xa nữa, thôi hãy quên đi mọi nỗi phiền muộn âu lo của tuổi già để sống những ngày có ý nghĩa hơn. Thời gian này thật quí báu trong mỗi chúng ta.
Xin kể cho các bạn nghe. Nhóm chúng tôi ở Sài Gòn gồm: Vợ chồng tôi, Đào Thị Thái (và ông xã), Trần Thị Diễm Dương (và ông xã), Hồ Thị Hồng, Trần Thể Sâm (và bà xã), Nguyễn Phước Đãi (và bà xã), Huỳnh Bá An (và bà xã), Nguyễn Luyến (và bà xã), Phạm Ngọc Chấn (và bà xã), Lê Tự Rô (và bà xã)…, Phạm Ngọc Lâm (tú tài 1963) và 2 người đẹp tú tài 1966, đó là Phước Khánh và Quỳnh Cư.
Đông người như vậy nên tháng nào cũng có ngày sinh nhật của thành viên trong nhóm. Nguyễn Văn Vượng làm trưởng nhóm, Đào Thị Thái làm thủ quỹ và trong két lúc nào cũng đầy đủ tiền bạc để vui chơi. Mỗi tháng chúng tôi tổ chức sinh nhật một lần cho vài người. Có thể là một chầu cà phê ăn sáng, một bữa cơm trưa, sang trọng hơn là buổi chiều vô nhà hàng uống bia, ăn nhậu… rồi thêm “tăng” hai: nghe nhạc phòng trà hoặc đi hát Karaoke. Thỉnh thoảng còn tổ chức đi chơi xa như Vũng Tàu, Long Hải, Mũi Né… Lâu lâu, bạn bè ở nước ngoài về hoặc ở Đà Nẵng vô, thì chúng tôi lại có dịp họp mặt nhiều hơn. Đã có 3 cặp kỷ niệm 40 năm ngày cưới.
Đó là chuyện của 4, 5 năm về trước. Còn bây giờ, những buổi họp mặt thưa dần, vì nhiều lý do. Thứ nhất, không ai còn rảnh rỗi vì đã lên chức ông bà nội ngoại; thứ nhì, đường phố Sài Gòn bây giờ thường bị kẹt xe dữ dội, không khí lại ô nhiễm, nên càng lớn tuổi càng ngại ra đường, có người không dám chạy xe nữa; lý do thứ ba là định mệnh rất nghiệt ngã, không tránh được. Một số thành viên đã đành đoạn từ giã nhóm, đi về miền vĩnh cửu như Lê Tự Rô, Diêu Đức Châu, Nguyễn Luyến, ông xã tôi, bà xã Sâm, Quỳnh Cư. Tôi và Phước Khánh đã qua Houston định cư, vợ chồng Vượng cũng sắp đi theo. Vũ Văn Long đi diện HO từ trước, đang ở cùng thành phố tôi, gặp lại nhau, mừng quá.
Bệnh tật không chừa một ai. Chỉ mong sao đừng đau ốm nhiều, như bốn câu thơ của chị Hỷ Khương:
Đến tuổi này không đau mới lạ
Chuyện ốm đau là chuyện bình thường
Chỉ cầu xin Phật độ Trời thương
Đau nhè nhẹ - tai ương đừng vướng.
Tôi cũng đã gặp lại Phạm Thị Duyệt, Hồng Đóa, Thu Phong. Hiện tôi đang còn bốn người bạn (Trần Đình Thắng, Minh Châu, Thu Hà, Bích Quân), lâu nay liên lạc qua email, airmail… thường gửi cho nhau từng cuốn sách, tấm áo, khăn quàng, mỹ phẩm, kể cả những ngọn lá phong từ miền ôn đới và chia sẻ biết bao tâm sự buồn vui… nhưng chưa một lần tái ngộ. Thế giới này quá rộng lớn, đành hẹn gặp nhau trong những giấc mơ mà thôi. 
Tháng 4 -2012
BẾN CUỐI 2:
HẸN HÒ
Ngưỡng cửa thất thập cổ lai hy sắp cận kề. Tưởng đã chùn chân mỏi gối, tay yếu mắt mờ, không còn lòng dạ nào tụ họp bạn bè, cà phê cà pháo, tán chuyện tào lao nữa, nào ngờ… lại có những lần hạnh ngộ thật khó quên.
Nhớ hoài chuyến đi Dallas với Vượng –Hường, rất vui. Xe bus rộng rãi, thoáng mát, tiện nghi, đúng giờ là khởi hành, chạy một mạch đến nơi, không như bên mình, cứ chạy quanh đón khách, ba bốn tiếng đồng hồ chưa ra khỏi thành phố. Hôm chúng tôi đi là ngày thường nên xe rất vắng, một người ngồi hai ghế còn dư, thoải mái ngả lưng, ngắm nhìn quang cảnh khoáng đạt hai bên đường, thỉnh thoảng, xe ngang qua những cánh đồng hoa vàng rực rỡ, lấp lánh trong ánh nắng ban mai.
Vừa tới bến, đã thấy cặp đôi Thạch –Xuân Hoa đứng chờ. Thạch học B, bạn thân của Vượng, tôi không quen, nhưng chỉ vài phút sau, đã trở nên thân mật. Chúng tôi ở lại nhà Thạch ba ngày, đó là khoảng thời gian tôi được mở tầm nhìn kể từ hôm chân ướt chân ráo đến xứ Cờ Hoa. Thạch đưa chúng tôi đi chơi khắp nơi, tận hưởng bầu không khí trong lành của một vùng đất bao la hùng vĩ, thăm những bạn bè, và không quên ghé chùa Đạo Quang, nơi thầy Tịnh Đức –Tôn Thất Toản đang trụ trì, xem thử ông bạn “một thời áo trắng” bây giờ ra sao. Quả là chốn thiên đường. Mát mẻ. Tĩnh lặng. Sân chùa rất rộng, nhiều bóng cây, trang trí bằng những cảnh sắc thiên nhiên: hòn non bộ, thác nước, tượng muông thú bằng đá trắng, đường nét tinh xảo, được mua từ những chuyến Toản về Việt Nam, chuyển qua bằng đường thủy. Vào bên trong chùa nghe toàn giọng Huế, mọi người đang dọn dẹp, trang hoàng chánh điện, hội trường… chào đón ngày Phật Đản. Toản mời nhưng rất tiếc, chúng tôi không ở lại tham dự được. Ra về, nhớ nhất là khoảng vườn nhỏ nhà Thạch, trồng đầy rau thơm trái ngọt, hoa lá xanh tươi, đẹp nhất là giàn Ti gôn trước cửa nhà, đã lâu lắm, tôi mới gặp lại loài hoa thơ mộng này.   
Ở Houston hiện giờ có 2 người bạn tên Long. Vũ Văn Long học cùng lớp tôi, còn Lê Văn Long học trên một lớp, hôm Phước Khánh nhờ anh chở đến nhà thăm, tôi mới biết. Nhớ hồi chưa đi, tuần nào cũng có bạn bè ghé chơi, nhanh thì ngồi xuống nói dăm ba câu chuyện, uống ngụm nước rồi đứng dậy ra về, thong thả thì ở lại dùng bữa, cũng chẳng phiền hà chi. Bởi chủ nhà khỏi phải lo nấu nướng đãi đằng theo kiểu “khách đến nhà không gà thì vịt” gì cả, vì chung quanh, chợ búa gần gủi, hàng quán đầy đường, chỉ cần gọi điện, đồ ăn thức uống được mang đến tận nơi.     
Qua đây, hoàn cảnh khác hẳn. Nhà cách phố chợ hàng chục cây số, không phải muốn mua gì là mua ngay được, muốn đi là có xe chở đi liền. Cho nên, muốn đến thăm ai cũng sợ làm phiền, cần thiết lắm thì phải phone báo trước, ít nhất là vài ngày. Hôm Phước Khánh hẹn, con rể bận đi hội thảo xa, con gái đang trong mùa thi, không đi chợ được, mẹ con bà cháu ăn toàn đồ hộp. Khó khăn cách mấy, tôi nhất định phải làm một bữa cơm nóng sốt mời bạn dù biết tài nội trợ của mình xưa nay thuộc hàng cao thủ (đếm ngược từ dưới lên). Mở tủ lạnh, thấy còn bó rau muống héo, hai quả cà chua, vài cọng hành ngò khô queo và trong ngăn đá, tôi tìm được một con cá bông lau đông cứng, bị bỏ quên từ lâu lắm rồi. Vậy là đủ, chắc hai người bạn của tôi cũng thông cảm trước mâm cơm thanh đạm: Canh chua, cá kho tộ và rau muống xào tỏi, nên ăn uống rất tự nhiên. Bên tách trà nóng, những tâm hồn văn nghệ bỗng thăng hoa. Sẵn cây guitare, Long đàn và hát rất hay… Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa, cái rét đầu đông khăn em bay hiu hiu gió lạnh…, dĩ nhiên là chủ nhà cũng đáp lễ, cho dù chỉ còn chút hơi tàn … Ai đi như xóa bao lời thề, thuyền theo nước trôi không về, thấu cùng lòng ai não nề nơi chốn phòng khuê…
Tin sốt dẻo, Thạch và Xuân Hoa từ Dallas xuống chơi, là chất xúc tác để có sự “kết tủa” rất thú vị. Đó là buổi họp mặt đầy đủ bạn bè nhất tại nhà Đỗ Thu. Đỗ Thu học lớp Phước Khánh và Xuân Hoa. Tôi quen Thu vào giữa năm 1974, khi hai đứa được trúng tuyển vào dạy tại Viện Đại Học Quảng Đà vừa được thành lập. Làm đồng nghiệp chưa hết niên khóa đã tan đàn xẻ nghé, lương bổng chưa lảnh được một xu, kẻ vượt biên, người ở lại ngậm ngùi. Thu bây giờ lái xe thành thạo, hoạt bát, lanh lẹ, đúng là một công dân Mỹ kỳ cựu, vậy mà khi gặp nhau trên điện thoại, Thu vẫn không quên nhắc lại những kỷ niệm vui vui sau 1975, khi hai đứa cầm sơ yếu lý lịch lên Phòng Giáo Dục xin đi dạy lại. “Bây giờ chị ở đâu? Cho em địa chỉ đi.” “Chị ở… xa lắm.” “Chị này kỳ, xa mấy em cũng xuống đón chị được mà.” Theo lịch trình, Thạch –Xuân Hoa sẽ đến Houston vào trưa thứ bảy. Thu hẹn 9 giờ sáng thứ bảy đến đón tôi: “Chị nhớ mang theo áo quần ở lại nhà em một đêm, chủ nhật em đưa chị về.” Chiều tối, Phước Khánh gọi điện: “Đỗ Thu liên lạc với chị chưa? Vui quá, hẹn gặp nhau nghe.” Tôi gọi cho Vũ Văn Long nhưng Long nói thứ bảy bận đi làm, không đến được, gọi cho Vượng, nghe tiếng cười rinh rích của Hường qua máy, xem bộ rất hào hứng. Đúng là tuổi già, chỉ có gặp nhau là vui thôi.
Chỉ có việc mua thức ăn, sao thấy quá nhiêu khê. Thay vì ghé chợ hay siêu thị một lần là đủ, Đỗ Thu lại chở tôi đi rất nhiều nơi. Vào siêu thị của Tàu mua thịt quay, đến nhà hàng người Việt mua nem nướng Nha Trang, rồi qua chỗ khác đặt món gà lạnh, đến chợ Tân Bình mua bánh mì, rau quả… chắc “tâm hồn ăn uống” của cô này kén chọn lắm nên mới có kinh nghiệm đầy mình như vậy. Về đến nhà Thu đã 12 giờ trưa. Trước sân, những cụm hoa hồng, thông thiên, dừa cạn màu sắc rực rỡ sáng bừng lên trong nắng, tôi không ngăn được suýt soa: “Đẹp quá.” Thu nói: “Mời chị vô nhà, còn nhiều hoa cho chị ngắm nữa.” Kiến trúc bên trong nhà ở Mỹ gần gần giống nhau, cửa buông rèm, một phòng khách rất rộng, một phòng ăn lớn, thêm một bộ bàn ăn khác đặt cạnh nhà bếp trang bị đầy đủ tiện nghi: lò nướng, lò viba, máy rửa chén… số phòng ngủ tùy thuộc vào diện tích nhà. Nhà Thu rất rộng, sáng sủa, sân sau có hồ bơi xanh trong và rất nhiều hoa. Tiếc là có hai anh “cẩu” án ngữ bên hồ nên tôi không dám đẩy cửa bước ra ngoài để ngắm theo lời mời của chủ nhân.
Phước Khánh tới, mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh: “Em ngủ lại với chị.”, “ Vui quá, vậy là đêm nay chị khỏi bị cô đơn rồi.” Tôi rủ Khánh xuống bếp phụ giúp nhưng gia chủ phất tay: “Thôi khỏi, hai bạn ngồi chơi đi. Đồ ăn có sẵn rồi, chỉ cần để ra dĩa là xong.” Ông xã Thu xuất hiện, tươi cười vồn vã, rồi lăng xăng giúp vợ trải khăn bàn, bày biện chén đũa.
Đỗ Thu bước ra phòng khách gọi điện, rồi nói với tôi: “Thạch và Xuân Hoa sắp đến rồi. Bây giờ em qua đón ông bà Vượng, nhưng em không quen, cũng chưa biết mặt, chị đi với em nghe.” Tôi và Phước Khánh theo xe Thu đến nhà Vượng.
Vượng mới mua nhà, cách nhà Thu khoảng 10 phút lái xe, đường đi dễ dàng, chợt nghĩ sao mà các bạn tôi hạnh phúc quá, cùng ở vùng Tây Bắc Houston,  muốn gặp nhau lúc nào cũng tiện, không như mình ở phía Tây Nam, xa lắc lơ, muốn đến phải xả thân làm anh hùng xa lộ (lái xe trên đường cao tốc) nên ai cũng ngại. Tôi giới thiệu, Vượng bắt tay Thu: “Thạch nhắc đến chị hoài, bây giờ mới được gặp.” Hường bồng cháu chạy ra. Bé mau lớn quá, đã biết đi chập chững, trắng trẻo, bụ bẫm giống y bà ngoại. Tôi mở máy hình, bấm vài tấm làm minh họa cho bài sắp viết, hy vọng sẽ là món quà tinh thần đem lại niềm vui cho bạn bè.
Khi chúng tôi trở về đã thấy xe của Thạch đậu ngoài sân. Thạch đi cùng Xuân Hoa và cô con gái út, đúng lúc Lê Văn Long và bà xã xuất hiện, tay xách nách mang, nào bia, nào nước ngọt… Nhìn Lê Long, tôi nhớ đến Vũ Long, thử gọi điện một lần nữa xem sao. Bà xã Long nhấc máy: “Ảnh đi làm rồi chị ơi.” “Vậy hẹn gặp ông bà vào ngày mai nghe.”
Ngồi vào bàn tiệc, những người bạn đã quá tuổi “hồi xuân” bắt đầu thả hồn về tuổi “hồi đó”, chuyện này nối tiếp chuyện kia, những kỷ niệm thời son trẻ dù vui hay buồn đều đáng nhớ như bốn câu thơ tôi tình cờ đọc được, không biết của ai… Kỷ niệm không là gì, nếu thời gian bôi xóa, kỷ niệm là tất cả, nếu lòng ta khắc ghi…Trời ngả về chiều lúc nào không hay. Long mời các bạn đến thăm nhà. Nhà của những người qua Mỹ sớm bao giờ cũng chỉnh chu, đẹp đẽ. Dễ thương nhất là khuôn viên trước nhà Long, có cây xanh mát mẻ, bộ bàn ghế nhỏ dưới giàn hoa giấy nơi hàng hiên… giống như một quán cà phê sân vườn thu hẹp, níu chân bạn bè mải mê trò chuyện, quên cả thời gian. Khi quay về nhà Vượng thì trời đã tối. Hường bật Ti Vi xem chương trình The Houston HAT, cuộc thi hát dành cho những người lớn tuổi. Cuối tiết mục, không khí trong phòng khách chợt lắng xuống khi nghe lời chia buồn của đài SGN đối với gia đình người dự thi 65 tuổi đã ra đi bất ngờ, không kịp bước vào vòng chung kết, đồng thời phát lại phần trình diễn của người đã mất. Tôi rất có ấn tượng với thí sinh này từ vòng sơ kết với bài “Cho Một Người Nằm Xuống”, chất giọng hay và rất truyền cảm … Xin cho một người vừa nằm xuống, thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang… Bạn bè nhìn nhau không nói nhưng chắc trong lòng cùng thấm thía sự vô thường của cõi tạm đời người. Sinh lão bệnh tử, gần nhau đó rồi vĩnh biệt đó, không ai đoán được chữ ngờ, nên còn khỏe mạnh ngày nào hãy vui chơi ngày ấy, trân trọng tình bạn làm ý nghĩa thêm cuộc sống tuổi già.
Bữa tiệc chiều bắt đầu quá trễ tại nhà hàng Jasmin trong khu Bellaire, đã hơn 10 giờ, nhưng vẫn còn đông khách. Trên sân khấu, người nhạc sĩ đang đệm piano cho một cô gái xinh xắn, hát bài mừng sinh nhật mẹ… Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, tình mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào…
Càng về khuya, tâm trí con người càng phấn chấn, không ai cảm thấy buồn ngủ. Có mấy khi đám bạn già đi bụi như đêm nay, bỏ hết sau lưng mọi âu lo phiền toái. Vui quá. Vượng nhìn tôi: “Ái ơi, lên hát một bài coi.” “Thôi, tui hết hơi rồi. Để kêu Phước Khánh hát nghe.” Phước Khánh lắc đầu:  “Em bị ho chị ơi.” Long không nói không rằng, thong thả bước lên sân khấu, cầm lấy micro… Dòng sông nào đưa người tình đi biền biệt, mùa thu nào cho người về thăm bến xưa, hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ, về đồi sim ta nhớ người vô bờ…  Món đặc sản “cá nướng da giòn” vừa được mang lên, rau xanh, ớt đỏ, gừng tươi,  hương gia vị thơm lừng… nhưng chưa ai buồn cầm đũa vì đang cùng Long trở về miền ký ức hoa niên... Ta vẫn chờ em trên bao la đồi nương, trong mênh mông chiều sương, giữa thu vàng bên đồi sim trái chín, một mình ta ngồi hát tuổi thơ bay…
Đã nửa khuya khi chúng tôi về lại nhà Đỗ Thu. Gọi Vũ Long một lần nữa. May quá, anh chàng… ủa quên, ông lão nhà ta vừa mới tan ca. “Long đó hả? sáng mai nhớ đừng đi mô hết, để tụi này chọn địa điểm rồi gọi hai ông bà nghe.” Giường nệm, chăn gối sẵn sàng, phòng ốc, sàn gỗ rộng thênh thang. Đêm nhẹ nhàng trôi.
Chủ nhật trời quang mây tạnh. Ăn sáng xong, cả phái đoàn qua nhà đón Vượng –Hường. Đỗ Thu cho biết sáng nay Lê Long bận việc không đến được, Thu sẽ đưa các bạn đi thăm ngôi chùa thân thuộc của gia đình trước khi họp mặt ăn trưa. Đó là Viên Thông Tự, được các Ni và Phật tử phát tâm tự mình xây dựng để không tốn tiền thuê nhân công, miệt mài hơn 6 năm vẫn chưa xong, phải tiếp tục phần còn lại là nhà bếp và nơi thờ linh cốt. Vợ chồng Trâm –Thu cũng đã góp rất nhiều công sức mài láng những tấm hoa văn to lớn trang trí phần cổng chùa. Chùa chưa hoàn tất nhưng bên trong vẫn hoạt động bình thường, có căn tin bán đồ chay mỗi ngày chủ nhật, nhiều lớp dạy tiếng Việt cho trẻ em. Phước Khánh bảo tôi: “Em muốn xin vô đây dạy, được không chị?” “Chắc là được thôi.” Viết đến đây, tôi chợt có một ý nghĩ hết sức bi quan, liệu đến thế hệ thứ ba của chúng ta, tiếng Việt còn ai nhắc đến trên mảnh đất hiệp chủng quốc nàykhông? Các thanh niên thiếu nữ Việt được sinh ra trên đất Mỹ, sống trong gia đình có cha mẹ ông bà vẫn xử dụng ngôn ngữ Việt, vậy mà đến tuổi mười tám đôi mươi, còn không nói được tiếng Việt, huống hồ các em bé học tiếng Việt trong chùa.
Bữa ăn trưa được quyết định tại quán phở Hùng. Nghe tên bỗng nhớ quán phở Hùng trên đường Công Lý dạo tôi còn là sinh viên Khoa Học. Quán bình dân, lúc nào cũng đông đúc, ồn ào. Nhà trọ của tôi ngay trong hẻm đối diện quán, nhưng chưa bao giờ tôi ghé ăn, một phần vì không ưa món phở, phần kia là sợ… lên cân. Mấy chục năm qua, quán vẫn còn tồn tại, vẫn chốn cũ người xưa, ngựa xe tấp nập, nhưng con đường đã bị đổi tên. Ở Mỹ, phở rất được ưa chuộng, đây là món ăn duy nhất thích hợp với mọi sắc dân và hình như được lọt vào top 20 những món ăn ngon trên thế giới (?). Quán đông quá, phải lấy số rồi chờ người ta sắp bàn. Tôi nói: “Thôi đi chỗ khác, mệt.” Thấy phản ứng của mình không “xi nhê” gì cả, tôi đành ngồi xuống dãy ghế ngoài hành lang đợi chờ. Vũ Long và bà xã cũng vừa đến, lại hẹn: “Ăn xong đi uống cà phê nghe.”
Cà kê dê ngỗng đến 3 giờ chiều, đành phải giải tán để Thạch –Xuân Hoa còn trở về Dallas. Tiễn hai bạn ra xe, thêm một bất ngờ nữa khi Xuân Hoa mở cốp sau cho thấy những sản phẩm cây nhà lá vườn còn tươi nguyên: bí, bầu, chanh, bưởi, hồng dòn… rồi gói vào những túi xốp tặng các bạn ăn lấy thảo.
Chia tay, không quên lần hẹn tới. Phước Khánh sắp dọn qua nhà mới, hứa sẽ có một buổi họp mặt mừng tân gia, mời tất cả bạn bè đến khai trương dàn máy Karaoke đem từ Việt Nam sang. Không biết tự bao giờ, phong trào Karaoke ở Việt Nam phát triển rộng khắp, từ trung tâm thành phố cho tới những hang cùng ngõ hẻm, được già trẻ gái trai hưởng ứng nồng nhiệt. Nhớ hồi chưa đi, nhóm chúng tôi rất thường tham gia, cũng là một cách thư giãn cho tâm hồn trẻ lại, được hát những tình khúc một thời bị chụp mũ là “nhạc vàng” cấm phổ biến rất lâu, để rồi trong chớp mắt, bỗng trở thành… những bài hát vượt thời gian!!! Hát Karaoke càng đông càng vui, nhưng đôi khi, chỉ một vài người cũng kéo nhau đi, hát suốt mấy tiếng đồng hồ, quên ăn quên uống. Về nhà nói không ra hơi, ù cả tai, đau cả cổ. Mệt nhưng mà vui, hy vọng sẽ tìm lại được cảm giác này.
21/ 11/ 2012
BẾN CUỐI 3:
NGUYÊN TIÊU
 Kim Hài email qua, thắc mắc: “Tại sao lại là Bến Cuối? mình vẫn còn nhiều thời gian mà!” Xem ra, lão bà này lạc quan quá. Và tôi, cũng không đến nỗi bi quan, nên reply: “Chưa đâu, sẽ có Bến Cuối 2, Bến Cuối 3… đến Bến Cuối n thì quỹ thời gian của chúng ta mới cạn.”
Tôi đã viết xong Bến Cuối 2, định gác “chuột” nghỉ ngơi và thư giãn một thời gian, chuẩn bị cho Bến Cuối 3 –nơi sẽ là không gian của những khung trời kỷ niệm: Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế… trong chuyến về Việt Nam sắp tới. Nhưng sáng nay thức dậy, kéo tấm mành cửa, thấy cây đào dưới vườn ra hoa rực rỡ, những tia nắng đầu ngày thả những nụ vàng lên thảm cỏ xanh, tâm hồn bỗng bâng khuâng xao xuyến, muốn ghi lại một vài cảm nghĩ nhẹ nhàng. Thế là ngồi vào ghế, mở bàn phím, gõ vài chữ vu vơ. Đó là thói quen từ khi bước vào tuổi già, phải viết, phải suy nghĩ, phải tạo điều kiện cho các nơ ron thần kinh hoạt động, bởi sẽ đến một thời điểm, lực bất tòng tâm, không nhớ được gì.
Nhà Phước Khánh
Bắt đầu từ cú phôn của Phước Khánh: “Chị ơi, em dọn nhà rồi. Xuống ở với em một tuần nghe.” Nhanh thật. Quay đi quay lại đã hơn 3 tháng, kể từ ngày nhóm Tào Lao Houston đi bụi hai ngày một đêm. Bây giờ chỉ mình tôi đi bụi với xắc hành lý đầy đủ quần áo ấm, thuốc men… Nhà Phước Khánh rất gần chợ Việt Hoa, nhỏ xinh với ba phòng ngủ ấm áp, sàn ván bóng ngời. Phòng ăn rộng rãi, nhà bếp sạch sẽ gọn gàng. Phòng khách lịch lãm với bộ salon bọc nhung đỏ thắm. Ti Vi, đầu máy Karaoke đặt trước lò sưởi chỉnh chu nhưng chưa hát được, vì giá loa và ampli mắc quá, phải chờ sale thôi. Hai chị em hơi buồn nên rủ nhau đi chợ Hồng Kông mua cua về nấu bánh canh và chè khoai tía. Phước Khánh bàn làm thêm gỏi mít, mời bạn bè đến chơi, xem như ăn tân gia luôn. Có lý. Tôi nhấc phone gọi các cặp đôi hạnh phúc như ĐỗThu –Trâm, Lê Long –Hoa, Vũ Long –Loan… Tiếc là cặp XHoa –Thạch ở Dallas không đi được, còn cặp Vượng –Hường đã về Việt Nam từ lâu. Vợ chồng Vũ Long xuất hiện sớm nhất và đem đến cho Phước Khánh một niềm vui bất ngờ, đó là lời hứa tuần tới sẽ tặng cặp loa và ampli, chúc mừng nhà mới.
Qua tiệc tân gia, hai chị em rảnh rỗi suốt ngày chuyện trò, nghe nhạc, theo dõi cuộc thi Tiếng Hát SGN trên truyền hình... hoặc theo xe của cô con gái Khánh đi shopping, ăn uống, vui chơi cho hết thời gian. Mới trở về nhà hôm nay thì ngày mai, Vũ Long gọi: “Ái ơi, mình lắp xong dàn Karaoke rồi, xuống hát.” Nghe lòng nôn nao nhưng không lẽ đi tiếp? Ông bạn già còn gõ cửa tâm hồn ăn uống của tôi nữa chớ: “Ái ơi, Phước Khánh đang nấu bún bò, còn làm thêm bánh bột lọc nữa, xuống ăn.” Nghe muốn chảy nước miếng, nhưng đành trả lời: “Thôi cho Ái hẹn tuần sau. Long ăn dùm Ái một tô bún, ba cái bánh và hát dùm Ái bài Giọt Lệ Cho Ngàn Sau nhé.” 
Phước Khánh có bà mẹ chồng là chuyên gia ẩm thực người Huế nên cũng học hỏi được cách làm rất nhiều món ngon. Tuần này, cô nàng trổ tài nấu Mì Quảng. Khách mời chỉ có tôi và vợ chồng Vũ Long. Long mở đầu buổi Karaoke bằng bài Giọt Lệ Cho Ngàn Sau của Từ Công Phụng theo yêu cầu của tôi từ tuần trước... Yêu nhau một thời xa nhau một đời, lệ này em nhỏ xuống ngàn sau…Ngày xưa, Long đã là “ca sĩ” của lớp tôi rồi, bây giờ với tuổi gần bảy bó, giọng Long vẫn mạnh mẽ chứ không yếu như tôi, chỉ còn lại chút hơi tàn, nhưng vẫn thích ca hát như hồi còn trẻ. Phước Khánh thì khỏi nói, con chim họa mi của một thời PCT, gần nửa thế kỷ qua, vẫn còn lãnh lót, khiến cho ông bác sĩ bạn tôi là Nguyễn Hữu Lân phải mượn mấy câu thơ của Thế Lữ để tặng cô nàng: “Tiếng hát trong như suối ngọc tuyền, êm như hơi gió thoảng cung tiên, cao như thông vút buồn như liễu, nước lặng mây ngừng ta đứng yên…” 
Nhớ hôm nào Phan Thanh Hòa ở Cali điện thoại kể chuyện đến nhà thăm Lân, nói Lân hiện không được khỏe lắm, suốt ngày ở nhà cũng buồn nên muốn liên lạc với tôi qua email. Thư qua thư về, Lân bỗng biến thành “Bác sĩ gia đình” cho tôi từ lúc nào không hay. Tôi thường hỏi Lân đủ thứ bệnh, từ cảm cúm, nhức đầu sổ mũi … cho tới huyết áp, tiểu đường, thấp khớp… Lân giải thích rõ ràng, mạch lạc và cho những lời khuyên hữu ích. Lân sống rất tình cảm, thường nhắc đến những kỷ niệm hồi còn đi học, đến thầy cô, bạn bè… đến quán chè Ngã Năm, bún bà Đào, nem bà Đệ… Thỉnh thoảng Lân còn gửi cho tôi nhiều bài hát, văn thơ, chuyện tiếu lâm đọc cười muốn chết. Lân còn có trí tưởng tượng thật phong phú, đặt tên cho nhóm bạn bè ở Houston là Tân Thủy Hử, gọi Vũ Long là Võ Tòng, Phước Khánh là Tống Giang và tôi là… Tào Lao Nữ Hiệp!!!
Vũ Long nghỉ phép 6 tuần, bạn bè có dịp hàn huyên tâm sự. Lại gặp nhau ở nhà Phước Khánh thưởng thức món Phở do bà xã Long biểu diễn, rồi lại Karaoke, hát hoài không chán… Thuở ấy không gian chìm lắng trong mơ, tà áo em xanh mầu mắt ngây thơ… giai điệu sâu lắng củaTiếng Hát Học Trò gợi nhiều kỷ niệm, chợt nhớ hồi còn ở Việt Nam, cặp Vượng –Hường song ca bài này rất tình tứ.
Tôi trở về nhà ăn tết cùng con cháu với hai cuộc hẹn trước mắt: Tiệc tân niên tại nhà Lê Long và đi Dallas dự lễ Nguyên Tiêu ở chùa Đạo Quang theo lời mời của người bạn học –thầy Tịnh Đức. Nói là ăn tết cho vui, chứ nơi này không có tết. Chợ búa vắng vẻ, phố xá im lìm, họa chăng hương vị tết chỉ có tại các chùa Việt Nam và trên Ti Vi với hình ảnh hoa đào hoa mai khoe sắc thắm trên nền nhạc xuân rộn ràng ... Ngoài trời bao la trong tươi bao cô gái đẹp cười trông xinh như hoa, lập lòe tà áo xanh xanh chen bông tím vàng đẹp hơn tiên nga… Qua tết, nhận được email của Kim Hài kể chuyện hôm mồng năm, bạn bè họp mặt ở nhà Diễm Dương nhưng Vượng –Hường đi Đà Lạt nên không đến. Rồi còn khoe mấy ông bây giờ bỗng dưng muốn… làm ca sĩ, người nào cũng hát một lúc mấy bài, nào là Hoa Soan Bên Thềm Cũ, Lá Thư, Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay … giá có Vượng, thế nào lão ta cũng ca bài “tủ” cho coi… Đường xưa lối cũ, có bóng tre, bóng tre che thôn nghèo… Chưa kịp reply, đã nhận được email tiếp theo, báo tin Vượng bị tai biến liệt nửa người, đang cấp cứu ở bệnh viện. Gọi điện cho người con gái Vượng hoài không được, tôi phone về Việt Nam gặp Hường. Hường bảo Vượng đã xuất viện, hiện đang tập vật lý trị liệu ở nhà. Suy nghĩ về bạn bè, về Vượng, về sự vô thường của đời người, tôi mất ngủ nhiều đêm và không còn cảm hứng để viết nữa. Thôi nhường cho Phước Khánh viết tiếp, hoàn tất bài ký này:
HỌP MẶT TẠI NHÀ ANH CHỊ LÊ LONG 
Anh Lê Long mời nhóm ngày Chủ Nhật 17 / 2, thế là Ái lên nhà PK để cùng đi. Lần họp mặt này có thêm 2 nhân vật cựu học sinh PCT: chị Phương Nga (56-63) và chị Diệp (58-65). Thành phần tham dự gồm: v/c Đỗ Thu, v/c Anh Vũ văn Long, Ái (Nhà văn Thùy An), Phước Khánh, v/c chị Diệp, chị Phương Nga với người em gái, và v/c chủ nhân Lê văn Long . Buổi tiệc diễn ra trong bầu không khí thật ấm cúng, vui vẻ… với thức ăn thật ngon ... Mọi người tranh nhau kể lại những chuyện xưa cũ của thời học trò, buồn có, vui có ... Ôi! thật êm đềm làm sao! Hôm nay mọi người ngồi đây, cùng hồi tưởng lại kỉ niệm của một thời vang bóng mà cảm thấy vô cùng nuối tiếc. Thắm thoát đã mấy chục năm qua ... Và, thật hạnh phúc biết bao khi giờ đây, ở vào tuổi tác này U60, U70. Chúng ta đã được gặp lại nhau, cùng ngồi bên nhau ... trong không khí tràn đầy ấm cúng này…. mà tưởng chừng như… một giấc mộng!.
Nhà Lê Văn Long
Chuyện trò quên cả giờ giấc ... đến lúc nhìn lại đồng hồ thì đã hơn 12 giờ khuya! Chia tay nhau về, ai nấy không quên dặn dò .. sẽ còn tiếp tục những lần họp mặt khác nữa... Ai bảo lớn tuổi thì không còn… ham vui chứ!!!. 
Ái vẫn còn lưu lại nhà Phước Khánh thêm vài ngày nữa, vì .... chia tay không đành! Lý do chính vì Phước Khánh sống một mình, không vướng bận , lệ thuộc vào ai… nên thật thoải mái mỗi khi có bạn bè đến thăm, Phước Khánh lại rất quý và rất nhiệt tình với bạn bè. Và... vì vậy mà Ái vẫn luôn đến với Phước Khánh ở chơi để Phước Khánh không buồn nhiều vì sự cô đơn của mình. Cả 2 lại rất hợp về Thơ, Văn , Văn Nghệ ... 
ĐI CHÙA ĐẠO QUANG – DALLAS * THĂM THẦY TỊNH ĐỨC 
Chuyện vui vẫn tiếp tục .... Thầy Tịnh Đức ở Dallas điện thoại mờì Nhóm về Chùa để dự Lễ Rằm Tháng Giêng. Chúng tôi họp bàn nhau và cuối cùng quyết định đi theo lời mờì rất nhiệt tình của Thầy. Được đi dự Lễ Rằm đầu năm cũng là điều may mắn. 
Thế là, chúng tôi cùng bàn sẽ đi 2 ngày –Thứ 7 và Chủ Nhật, và chia làm 2 Nhóm. Nhóm 1 gồm: Vợ Vũ văn Long, Ái, Phước Khánh đi bằng xe Bus, Nhóm 2 gồm: Chị Phương Nga, v/c Lê Long thì đi xe nhà. Tối thứ 6, Chị Vũ văn Long đem xe đến đón Ái & Phước Khánh về nhà Anh Chị ngủ lại để sáng thứ 7 ra bến xe bus cho kịp giờ, vì nhà chúng tôi đều ở cách xa nhau. Tối đó, ở nhà v/c Vũ văn Long, chúng tôi gần như thức suốt đêm … lần này không phải vì ham trò chuyện, mà vì chúng tôi thức đến gần 3 giờ sáng để cùng đi đón Vũ văn Long đi làm về. Phải thành thật khen ngợi Chị Vũ văn Long, quả là một người vợ tuyệt vời!
Ngoài những công việc nội trợ, chị còn phải đi làm thêm để phụ giúp chồng con, mỗi đêm, chị còn phải thức khuya, có khi đến 4, 5 giờ sáng để lái xe đi đón chồng đi làm về, nhất là vào những lúc trời mưa gió. Hôm đó Ái & PK cùng chị Long đi đón anh Long, tình bạn không vì bao chục năm xa cách mà mất đi sự thân thiết, gần gủi. V/c Vũ văn Long vẫn luôn là người bạn rất dễ thương, rất chân tình ... mà chúng tôi luôn quý mến.
Sáng hôm sau,Thứ 7, được con gái của VVL đưa ra bến Xe Bus sớm để kip khởi hành 9g. Đây là lần đầu tiên được đi Xe Bus tại đất Mỹ! Ban đầu, chúng tôi cũng hơi lo và không biết là cuộc hành trình có được thông suốt không? Nhưng .. thật trái vớí những lo sợ viễn vông. Chúng tôi thật thoải mái với chuyến đi ngắn này, tuy rằng phần đông hành khách trên xe là da đen, nhưng họ thật vui vẻ, hiền lành, không ồn ào và rất lịch sự. Tài xế lái xe rất cẩn thận và không phải dừng laị nhiều nơi để đón khách. Xe đi và đến nơi rất đúng giờ. Có lẽ vì luôn bị ám ảnh vớí tình trạng xe Bus, cũng như các xe Đò ở VN nên chúng tôi bị nhập tâm chăng ??? 
Xe đến Dallas đúng 1g trưa, và tại đây đã có anh Đào Bạch Thạch đến đón chúng tôi về nhà, trước đó, chúng tôi đã có liên lạc với v/c anh Thạch và Xuân Hoa (XHoa cùng lớp với PK), và 2 v/c anh Thạch nhất định mời chúng tôi về nhà. Không hẹn mà cùng lúc, nhóm Lê văn Long cũng vừa về đến nhà v/c anh Thạch. Tại nhà v/c anh Thạch , chúng tôi đã đươc tiếp đón rất thân tình với các món ăn đậm tình quê hương : Bún Bò, Bánh Bột Lọc, Gỏi tôm thịt dưa leo ... Xuân Hoa nấu rất ngon, Bún bò Huế không thua gì Bún bò đường Nguyễn thị Giang của Đà Nẵng năm xưa. Và nhất là trong cái thời tiết lạnh lẽo như thế này .... ngồi trước một tô bún bò thơm ngon nóng hổi thì ... còn gì tuyệt hơn!!!!
Nhà Thạch/ Xuân Hoa
Ăn uống xong, chúng tôi cùng đi đến Chùa thăm Thầy Tịnh Đức vì sợ ngày mai làm lễ bận rộn sẽ không gặp được Thầy. Chùa ở cũng khá xa nhà anh Thạch, và tọa lạc trên một khuôn đất rất rộng. Chùa được xây cất rất đẹp và kiên cố. Chỗ đậu xe rộng rãi. Các Tượng Phật đã được Thầy Tinh Đức cất công thỉnh từ Chùa Non Nước ĐN –thật công phu. Chung quanh khuôn viên Chùa được trồng nhiều loại hoa khiến khách đến thăm Chùa luôn tấm tắc khen ngợi và thế nào cũng phải chụp nhiều tấm hình để kỉ niệm. Chị Phương Nga dẫn đầu phái đoàn và bắt chúng tôi phải đứng chụp hình, tạo dáng… trong cái nắng của buổi trưa như thế này ... mắt người nào cũng như muốn sụp xuống ... có lẽ khi sang hình ra trông buồn cười lắm - thật vui.

Chùa Đạo Quang
Chụp hình xong, chúng tôi bước vào bên trong Chùa. Ngoài Chánh điện, còn có nhiều phòng khác như : Phòng hội họp, phòng thờ các Vong Linh, phòng tiếp khách, phòng bếp, phòng ăn uống, căn tin bán đồ chay và các sách về Phật Pháp, các hình tượng Phật... và cũng có riêng một phòng lớn được làm sân khấu để trình diễn Văn Nghệ vào các dịp Lễ, Tết.... Tất cả các phòng đều được trang trí thật mỹ thuật, sạch sẽ, trang nghiêm.
Thầy Tịnh Đức đón chúng tôi trong phòng riêng của Thầy với tất cả niềm hân hoan khi gặp laị bạn bè xưa cũ. Thầy trông rất khoẻ với nước da hồng hào, giọng nói rổn rãng.  Thầy vốn thích văn nghệ nên khi chúng tôi vừa ngồi xuống là thầy đã vôị vàng đi lấy một chồng sách nhạc với đủ loại: Nhạc Tiền Chiến, Nhạc Tình cảm, Nhạc Karaoke, dễ có đến 7, 8 cuốn nhạc dày cộm các bài hát. Thầy mở đầu phần văn nghệ bằng bài hát “ Đường xưa lối cũ”, và sau đó, với niềm cao hứng, Thầy đã hát liên tục 10 bài, phần nhiều là các bản tình ca. Thầy hát cũng khá hay, mọi người vỗ tay thật to, trông Thầy thật vui sướng. Chúng ta cũng thật hãnh diện khi có được một người bạn, một vị Thầy chân chính ... dầu đã bước vào con đường Phật Pháp, tu hành .... nhưng tâm hồn của Thầy vẫn luôn rộng mở, dạt dào, hoà mình với niềm vui cùng bạn bè. 
Thật đáng cho chúng ta nể phục, chùa Đạo Quang của Thầy được xem là ngôi chùa lớn nhất Dallas, không chỉ ở vị trí rộng rãi, to lớn, mà còn do ở đức độ từ bi quãng đại cuả Thầy, tiếng tăm vang xa, đã được hầu hết các Phật tử vùng Dallas vô cùng kinh phục.
... Sau khi Thầy Tịnh Đức hát, tiếp theo đó, cùng chung niềm vui hội ngộ, PK, Lê Long và cả Ái cũng tiếp nối với những bài hát của một thời. Những giọng ca được gọi là “ cây nhà lá vườn” hình như làm sống lại trong lòng mọi người nỗi niềm nhớ trường xưa bạn cũ, nhớ những lần trình diễn văn nghệ của trường (có bán Vé ) vào dịp cuốí năm hoặc Tết, nhớ căn phòng khánh tiết rộng rãi được làm sân khấu để hội diễn văn nghệ ... nhớ từng khuôn mặt .. từng vai diễn .. từng giọng ca .. học trò đã góp phần làm vẻ vang cho Trường .... Trong tiếng hát của mỗi người, hình như có pha quyện niềm xúc động… càng làm tăng thêm sự ấm áp, thân tình cho buổi hội ngộ này.
DỰ LỄ RẰM TẠI CHÙA ĐẠO QUANG 
Sáng hôm sau, Chủ Nhật, ngày chính thức tổ chức Lễ Rằm. Trước khi đến Chùa dự Lễ, chúng tôi cùng đi ăn sáng tại một tiệm phở nổi tiếng của Dallas được v/c Anh Thạch giới thiệu, và v/c Anh Lê Long được “ hân hạnh” làm khổ chủ! Và, quả thật, "Danh bất hư truyền”, phở nấu rất ngon. Mọi người hình như cùng ý nghĩ, lần sau có dịp về Dallas, thế nào cũng không quên ghé lại để được thưởng thức tiếp! 
Rời tiệm Phở, thấy thời gian còn sớm, chúng tôi cùng bảo nhau ghé thăm nhà cô An Hà Châu và mời cô đến chùa dự Lễ. Hình như trong hàng giáo sư cũ của PCT, chỉ có cô An Hà Châu cư ngụ tại Thành Phố Dallas này. Vì vậy, nói làm sao hết nỗi mừng vui của cô khi gặp lại các học trò cũ, và càng cảm động hơn, trong chúng tôi, có nhiều người chưa từng học với cô, nhưng vẫn luôn giữ truyền thống " Tôn sư trọng Đạo ", luôn quý trọng các thầy cô giáo cuả Trường. Cô Thầy ( Phu quân của Cô là Nha sĩ Vịnh ) sống thật hạnh phúc trong ngôi nhà nhỏ xinh xắn, cô vẫn còn rất khỏe mạnh, nói năng lưu loát, thầy tuy đi đứng có chậm chạp hơn nhưng vẫn còn rất minh mẫn. Cô đem hình ảnh các con, các cháu ra khoe chúng tôi trong niềm sung sướng, mãn nguyện ... và thật đúng như vậy, con cháu cuả Thầy Cô rất đẹp , rất dễ thương và đều thành công trong cuộc sống. Trong lúc chuyện trò, Thầy vừa nhìn Cô âu yếm, vừa mỉm cười nói với chúng tôi : " Cô là Nữ Y Tá tuyệt vời của Thầy đó ". Chúng tôi nhìn nhau và thầm mong Cô Thầy luôn giữ được hạnh phúc đến cuối đời –Một cuộc sống, một tấm gương .. thật quá đẹp !!! Và không dễ đã có mấy ai hưởng được sự trọn vẹn đó, phải không??? 
Khi chúng tôi đến Chùa thì đã không còn chỗ đậu xe. Từng dãy xe đậu san sát nhau trong sân Chùa. Chúng tôi đành phải đậu xe ngoài đường và phải đi bộ một quãng. Xe của nhóm anh Lê Long đến trước và đang đợi chúng tôi cùng vào. Vừa thấy chúng tôi, chị Phương Nga vội chạy đến và ... thêm một lần nữa, lại chụp hình, tạo dáng ... 
Lễ Rằm được tổ chức thật lớn tại Chánh Điện. Phật tử tham dự rất đông, chật ních cả Chánh Điện, không còn chỗ ngồi, chúng tôi may mắn tìm được vài ghế để ngồi chen vào dòng người. Tất cả đều “an tọa” dưới đất.
Sau khi các Phật tử làm Lễ Cung Nghinh Thượng Tọa và Các Chư Tăng, tiếp đến là các Phật tử bé tí lên dâng hoa đón mừng Thượng Tọa và Chư tăng, rồi Thầy Thượng Toạ Tịnh Đức đứng lên đón mừng và cảm ơn các phật tử đã đến dự và tuyên bố buổỉ Lễ bắt đầu.
Trong không khí tưng bừng, nồng nhiệt, nhưng không kém phần trang nghiêm, mọi người cùng hân hoan đón chào buổi Lễ như … một Hội Hoa Xuân, cùng được thưởng thức những màn trình diễn Muá Lân, văn nghệ xen kẻ. Có Ban Văn Nghệ của Chùa và sự đóng góp nhiệt tình cuả các ca sĩ nổi tiếng như : Thanh Thúy, Ngọc Đan Thanh .... 
Chúng tôi không ở lại xem tiếp tục Phần Văn Nghệ được, và đành phải về lại nhà v/c Anh Thạch nghỉ ngơi, ăn uống, để chuẩn bị ra bến xe Bus trở về lại Houston. Nhóm 2 đã về lúc 3g chiều. 
Đúng 6g30' chiều , v/c Anh Thạch - Xuân Hoa đưa chúng tôi ra bến xe Bus. Và, chúng tôi đã chia tay với v/c Anh Thạch - Xuân Hoa trong bịn rịn, luyến tiếc… dầu biết rằng Dallas –Houston chỉ cách nhau 4giờ lái xe. Cái quan trọng ở đây là tình cảm gắn bó , thân thương của những người bạn xưa cũ đã dành cho nhau, cho dầu thời gian xa cách đã chiếm trọn gần cả đời người ... Thật quý hiếm thay ! 
Thời gian thăm viếng Chùa và ở Dallas chỉ vỏn vẹn trong 2 ngày,thứ 7 & Chủ Nhật nhưng… thật vui, và đủ để lại trong lòng chúng tôi kỉ niệm khó phai nhòa. Chúng tôi, những người bạn gái, tuổi tác tuy có chênh lệch, nhưng cảm thấy thật gần gủi, thật thân tình và thấy thương nhau hơn khi chúng tôi có được thờì gian sống bên nhau, cho dầu chỉ trong khoảnh khắc. Thì ra, trong cuộc sống, mỗi người đều có một hoàn cảnh , một tâm sự . .. không ai giống ai… nhưng... đều mang nỗi niềm chung , buồn nhiều hơn vui. Thời gian đi học phải nói đó là thời gian đẹp nhất, thơ mộng nhất , vàng son nhất… và trong tất cả chúng ta , không ai là không có nhiều kỉ niệm, dầu vui hay buồn , không ai là không mang trong lòng nhiều nhớ tiếc, vấn vương về quá khứ , với những chuỗi ngày đẹp đẽ đó. Và còn hơn thế nữa cho những người đã trãi qua một cuộc sống bất hạnh. 
Trong bạn bè đã có nhiều người từ bỏ chúng ta , vĩnh viễn từ bỏ chúng ta… tất cả rồi cũng trở về với cát bụi. Có bon chen, có sân si, có tị hiềm, ganh ghét nhau… cuối cùng rồi cũng chỉ là con số 0. Hạnh phúc của chúng ta giờ này là còn được gặp nhau , còn được ngồi bên nhau chuyện trò, tâm sự ... đó có phải là niềm mơ ước của chúng ta khi tuổi về già, khi mà con cái chúng ta không còn cần đến chúng ta nữa, bởi chúng đã có một thế giới riêng của nó… Và, đó cũng là quy luật mà chúng ta đành phải chấp nhận. Đây chính là thời gian mà chúng ta cần tìm đến nhau, an ủi, vỗ về nhau, là điểm tựa cho tinh thần của nhau. Và ... phải chăng tất cả cựu học sinh PCT chúng ta đều mang trong lòng hoài vọng đó: chính là sự đoàn kết, tương thân tương ái trong tình cảm dạt dào yêu thương dành cho nhau???.
Tháng 3/ 2013
Thùy An & Phước Khánh
BẾN CUỐI 4:
NHẬT KÝ NGÀY VỀ
Nhận email người bạn hiện chủ trương một trang web nổi tiếng: “Sao rồi? đi VN về có gì viết không, sao im hơi lặng tiếng thế?” Khó trả lời quá, đành reply: “Có, nhiều đến nỗi bây giờ không nhớ chi hết, sắp tẩu hỏa nhập ma đây!”
Hai tháng qua đi, vẫn không gõ được một chữ, dù trong đầu đầy ắp những điều mắt thấy tai nghe, và trong tim vẫn còn nồng ấm tình cảm của anh em, bè bạn… dành cho người về.
Không biết bắt đầu từ đâu? Thôi thì kể từ lúc đóng xong hành lý, sực nhớ 10 đóa pensée ép trong cuốn tự điển hôm Noel. Giở ra xem, chỉ còn 7 hoa nguyên vẹn màu sắc và hình dáng, tôi cẩn thận sang qua cuốn vở mỏng, để dưới đáy va li. Ngày ra phi trường, tôi hái thêm 5 quả đào chín mọng bỏ vào giỏ xách tay. Hoa làm quà kỷ niệm, còn quả sẽ là món tráng miệng sau bữa ăn đầu tiên nơi quê nhà, tuy không ngon bằng trái cây nhiệt đới nhưng của một đồng công một nén, hy vọng không ai nỡ chê.
* Sài Gòn
Hôm mua vé máy bay, tôi đăng ký xe đẩy. Phước Khánh nhắc nhở: “Ai hỏi chị tại sao ngồi xe đẩy, chị nói là chân tôi bị yếu, nhớ nghe.” Tôi cười: “Khỏi, thấy cái tướng chị là biết đi không nổi rồi!” Về tới Việt Nam, phong lưu leo lên xe đẩy đến chỗ giao hành lý, bỗng có tiếng quát: “Thôi chớ, xuống đi! sao ngồi mãi thế, định ăn vạ à.” Chà, không biết đứa mô trịch thượng quá, định mắng cho một câu, ai ngờ thằng cháu đi đón –một thân hình to như hộ pháp, xuất hiện trước mặt, nụ cười ngoạc đến mang tai.
Bước lên taxi, cảm giác đầu tiên là nóng. Nóng khủng khiếp. Mặt trời trút những tia lửa xuống mặt đường đông nghịt người xe chen chúc, những chiếc mũ bảo hiểm chói lóa, nhức mắt, theo nhau chạy về phía trước, nối tiếp không ngừng. Xe nhích từng quãng ngắn. Hướng nào cũng kẹt. Đường bay quá dài khiến bộ xương già nua tôi rời rã, không biết bao lâu mới về tới nhà để được ngủ một giấc thiệt say.
Chặn dừng đầu tiên ở Moscow. Mùa hè sao quang cảnh tiêu điều buồn bã, xa xa một rừng cây đen sẫm, trải rộng dưới vùng trời mây xám, không biết đó có phải là những hàng bạch dương thơ mộng trong các bài hát được gọi là “nhạc xanh”? thuở trời đất nổi cơn gió bụi, đẩy mọi người vào cơn choáng váng, bàng hoàng, như từ trên lưng voi rớt xuống không có điểm dừng!!! Ăn khoai sắn, bo bo nhiều hơn cơm, nhưng tôi vẫn còn lạc quan lắm, không bỏ thói quen hát vẩn vơ một mình khi làm việc như dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn hay ngồi… bán quần áo cũ ngoài chợ Tân Bình. Những giai điệu êm đềm, tình tứ thấm sâu vào tâm tư tình cảm từ trước đến giờ, bỗng biến thành loại “nhạc vàng”, bị cấm. Cũng hơi sợ. Đi tìm cô em họ Trinh Thuận hiện là dược sĩ, con gái ông cậu tập kết về, nhờ tư vấn. Nó nói: “Có loại nhạc xanh cũng hay lắm, để em bày cho chị.” Vậy là biết được nhiều bài ca thời thượng, hình như nhạc Nga lời Việt, nghe cũng hay, nhưng không thích lắm. Thôi thì theo con cháu hát nhạc thiếu nhi…Chị Ong nâu nâu nâu nâu, chị bay đi đâu đi đâu… hoặc …Trái đất này là của chúng mình, quả bóng xanh bay giữa trời xanh… cho đỡ buồn.
Người Việt về cùng chuyến khoảng 10 người, nhưng đồng hành “xe đẩy” với tôi chỉ có cặp vợ chồng 83 tuổi, ông chăm bà, bà chăm ông, giấy tờ lộn xộn cả lên. Thầm nghĩ vui, thì ra mình cũng chưa đến nỗi già lắm, hy vọng có thể về VN thêm vài chuyến nữa. Các nhân viên sân bay hướng dẫn hành khách vào phòng chờ. Trong bộ đồng phục đen, nữ cũng như nam, thân hình đều cao to, vạm vỡ, da trắng hồng, đôi mắt màu xám tro, họ nói chuyện ríu rít bằng thứ ngôn ngữ xa lạ. Lại nhớ hồi 75, trường có dạy thêm môn tiếng Nga, cô cháu gái vào lớp 6, bị phân qua ban Nga văn, khóc suốt một tháng nhưng không thay đổi được gì, bây giờ bỗng như Tái Ông mất ngựa, nhờ vốn liếng tiếng Nga, con nhỏ gặp nhiều may mắn trên bước đường thăng tiến.
Anh chàng đẩy xe cho tôi hao hao giống Omar Sharif, diễn viên đóng vai Doctor Zhivago trong bộ phim nổi tiếng cùng tên. Rừng tuyết trắng và âm vang bài hát Người Tình Clara như trở về từ ký ức xa xôi… Có một thời rất hiếm phim hay. Ngoài rạp chiếu toàn phim chính trị, thần thoại vớ vẩn. Viện Tư Liệu (?) trên đường Phan Kế Bính là địa điểm lý tưởng cho dân ghiền ciné mơ ước, nơi thường có những phim kinh điển dành riêng cho những VIP thôi. Tôi may mắn được cô bạn học là nhà văn Lệ Hằng đang làm biên tập trong Xưởng phim Tổng Hợp, dẫn đi xem vài lần, nhớ mãi phim “Bố Già”, hay quá, hết phim rồi còn luyến tiếc, không muốn đứng dậy ra về.
Chặn tiếp theo là Singapore. Khác với Moscow, phi trường ở đây rộng rãi, khoáng đạt, sạch tinh tươm. Tiếp viên cũng hoạt bát, niềm nở hơn, phải chăng cùng là người châu Á nên lòng tôi có chút thiên vị chăng? Đây là điểm tiếp nhận hành khách của những chuyến bay từ các nước khác. Có khá nhiều hành khách già yếu, bệnh hoạn, được chia từng nhóm, cùng lên ngồi trên những chiếc xe nhỏ mui trần, đến chỗ làm thủ tục chuyển máy bay về trạm cuối. Xe chạy trên mặt đường lót thảm êm ả, qua những khúc quanh có nhiều cửa hàng bán quà lưu niệm, kẹo bánh, rượu trà, thuốc lá… đèn màu nhấp nháy rất đẹp. Nổi bật nhất là ngọn đồi nhân tạo trồng hoa lan đủ loại, không biết thật hay giả, nhưng thấy các cô cậu tuổi teen thay phiên nhau chụp hình, cười đùa, tạo dáng, mình cũng muốn trẻ theo.
Phòng đợi rộng nhưng vẫn không đủ ghế. Kẻ đứng người ngồi. Phải chờ thêm 4 tiếng nữa, tôi bước ra cửa, định đi lòng vòng cho giãn gân cốt, bỗng giật mình khi nghe một tiếng khóc bật lên, tiếng gào thì đúng hơn, thê lương, não nùng. Tôi quay vào, thấy đám đông vây quanh một bà già tóc tai bù xù, quần áo xốc xếch, ngã ngửa trên ghế sofa, mặt mũi tèm lem nước mắt. Một nhân viên sân bay tuổi trung niên nhìn quanh, hỏi lớn bằng tiếng Anh: “Có ai là người Việt Nam?”, vài cánh tay đưa lên cao. Ông nhìn người thiếu nữ đứng gần nhất: “Xin hỏi dùm bà ấy đã xảy ra chuyện gì.” Cô gật đầu, bước đến, đặt tay lên vai bà già: “Bác ơi…”, chưa dứt câu, bà đã vùng dậy, túm lấy vạt áo cô, gào lên: “Tôi mất hết giấy tờ rồi, trời ơi!!!” Cô gái từ tốn đỡ chiếc giỏ xách trên tay bà: “Giấy tờ của bác trong này nè.” Bà giật mạnh dây kéo, dí sát vào mặt cô gái: “Hộ chiếu tôi đâu? Vé máy bay tôi đâu? Thẻ mua thuốc tôi đâu? Đâu? Đâu rồi!” Bà òa lên khóc, tỉ tê, ai oán. Cô gái, vuốt nhẹ tay bà, vỗ về: “Bác bình tĩnh, bình tĩnh nào.” Bà nhìn sửng cô gái, rồi từ từ nín khóc. Bà đóng lại giỏ xách, dựa lưng vào ghế, bình thường như chưa có chuyện gì xảy ra. Mọi người nhìn nhau ngạc nhiên. Một ông trung niên Việt Nam nói: “Tôi ngồi cùng dãy ghế với bà ấy trên máy bay từ Thụy Sĩ về. Mấy giờ trước, bả có lên cơn một lần nhưng nhẹ hơn.” Có tiếng tắc lưỡi: “Bệnh hoạn như vậy mà thả cho mẹ đi một mình, con cái bây giờ sao bất hiếu.” Và tiếng phản đối: “Hiếu với chả thảo. Con cái cũng có đời sống riêng của chúng chớ. Trách sao được.” Từ góc phòng, có ai buông một câu triết lý cũ mèm: “Nước mắt chảy xuôi mà. Ôi tuổi già, thật tội nghiệp!!!”
Tuổi già cũng đáng thương thiệt, nhưng đó không phải là suy nghĩ của tôi. Không ai thương ta bằng chính bản thân ta, đừng để tuổi già suốt ngày chìm trong muộn phiền, nuối tiếc thời thanh xuân dĩ vãng, mà phải biết đi tìm niềm vui trong hiện tại để thấy cuộc đời còn tươi đẹp biết bao. Tôi có những người bạn đồng trang lứa thích làm vườn, chơi chim, cá, cây kiểng… giải trí bằng cách vẽ tranh, viết thư pháp, đọc sách, làm thơ… hoặc vui vầy bên con cháu, chăm sóc, đưa đón chúng đi học, đi chơi. Tiến bộ hơn một chút thì lên mạng chu du khắp thế giới. Dù quãng đường phía trước không còn bao xa, họ vẫn rất lạc quan, siêng năng tập thể dục, dưỡng sinh, chỉ mong “sống khỏe, chết nhanh” là tốt rồi.
Sài Gòn. Thành phố thay đổi nhiều quá. Không biết có bao nhiêu chiếc cầu vượt ra đời sau ngày tôi đi? Chiếc cầu trên giao lộ Lý Thái Tổ – Nguyễn Tri Phương gợi nhớ thời sinh viên đi học ngang qua chợ Cá, nước dơ tràn ra lề đường, phải bịt mũi chạy thật nhanh tránh mùi tanh bốc lên khó thở. Từ đây cách chỗ tôi trọ học không xa lắm –một cư xá tĩnh lặng có nhiều cây xanh và những con đường rợp mát mang tên AA, BB, CC… Bây giờ, cư xá đã đổi tên Bắc Hải và chợ Cá được thay thế bằng một trung tâm thương mại rất lớn. Mới đó mà đã gần 40 năm. Nhớ hồi đi học, mỗi lần làm được bài văn hay, bài toán đúng, hy vọng được nhiều điểm, thì lại phải chờ đến tuần sau thầy phát bài muốn dài cổ. Bây giờ về già, thấy năm tháng qua đi trong chớp mắt.
Về đến nhà, mở hộc tủ tìm chiếc điện thoại cũ. Cầm chưa nóng tay, chuông đã reo liên tục. Vẫn là những thành viên trong nhóm Tào Lao: “Trốn hả bà? Họp mặt nhanh lên!” “ Khoan, tui đang có việc cần làm ngay.” “Việc chi?” “Bí mật không thể bật mí”. Tắt luôn điện thoại, tôi ngủ gà ngủ gật hết một ngày. Trước khi gặp gỡ các ông già bà lão, tôi phải photocopy cho mỗi bạn một cuốn đặc san Kỷ niệm 60 năm thành lập trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng vừa mới phát hành ở Mỹ. Trong cuốn này, có tấm hình Trưng Trắc –Trưng Nhị, hóa thân qua hai bạn Trân Châu và Kim An, học cùng tôi năm lớp nhất (lớp 5 bây giờ) trường Nữ Tiểu Học và suốt bảy năm trường trung học Phan Châu Trinh. Kim An khôn ngoan sắc sảo, trong khi Trân Châu thùy mị dịu dàng đã một thời làm xao xuyến biết bao tâm hồn thi sĩ… Em mặc áo màu tím, đi trong bụi hoàng hôn, tôi nhìn theo quyến luyến, cô đơn mảnh tâm hồn… bây giờ, cũng chính tác giả bài thơ đăng báo gần 60 năm trước, viết bút ký “Đi Tìm Nàng Thơ” khẳng định như đinh đóng cột rằng tấm hình được chụp năm đệ tam Phan Châu Trinh (lớp 10 bây giờ). Sau đại hội Phan Châu Trinh tổ chức ở Cali, Kim An từ San Jose gọi điện cho tôi: “Sao kỳ vậy mày, tấm hình đó tao chụp hồi học lớp nhất cơ mà.” “Hình chi?” “Hình đăng trong tờ Đặc San PCT ấy.” Lúc nầy tôi chưa nhận được tờ Đặc San nên không biết nó nói gì. Gần nửa thế kỷ, tôi chưa gặp lại “bà Trưng Nhị”, nhưng “bà Trưng Trắc” có gặp vài lần, “bà” hiện ở Cần Thơ, con cháu đầy đàn. Thỉnh thoảng, “bà” lên Sài Gòn ghé tôi rồi cùng đi họp mặt với nhóm Tào Lao.
Thái phone: “Ê, họp mặt ở nhà tao nghe.” Nhà nó –cư xá Hồ Văn Huê là nơi lý tưởng cho những tâm hồn ăn uống thăng hoa. Thứ gì cũng có, món nào cũng ngon. Bạn bè đầy đủ, chỉ thiếu cặp Hồng –Diễm Dương vì bận chút việc riêng, và Vượng đang bệnh, chỉ có Hường đến chung vui. Vài ngày sau, cả nhóm mới biết “chút việc riêng” đó là tin dữ, cháu Dũng, con trai duy nhất của hai bạn ấy bị tai nạn giao thông đang nằm hôn mê trong bệnh viện. Nhớ mấy năm trước, khi Bích Lan từ Pháp về rủ tôi qua thăm Diễm Dương, cháu Dũng đã cùng anh Hồng ra siêu thị mua đồ ăn rồi tự tay nấu nướng đãi khách. Cũng trong thời gian này, Diễm Dương hay than thở về đứa con trai đã lớn tuổi còn kén cá chọn canh. Nhưng ông Tơ bà Nguyệt cũng không nỡ hững hờ, nên trước khi đi, tôi đã kịp dự đám cưới Dũng, sau đó, bạn bè email báo tin Diễm Dương đã có cháu đích tôn.
Thu xếp đi nhổ răng sớm, để đủ thời gian làm lại hàm răng mới. Không thể phủ nhận chân lý, làm răng giả ở Việt Nam vừa đẹp vừa rẻ. Ngồi chờ trước phòng nha sĩ, được tin nhắn của anh Trí Công –biên tập viên nhà xuất bản Trẻ: “Sách in xong rồi, mời chị lên ký hợp đồng.” Nói đến hợp đồng ở Việt Nam nghe như chuyện Những Người Thích Đùa. Ký hợp đồng nhưng không bao giờ thực hiện đúng hợp đồng. Tôi đã từng ký với xưởng phim Giải Phóng, xưởng phim Cửu Long, nhà sách Đức Mẹ … nếu kể nội dung sự việc thì rất dài dòng, sợ phiền mỏi mắt các bạn, chỉ biết dân nghiệp dư cầm bút, thấp cổ bé họng không biết kêu ai vì lúc nào đối phương cũng nắm đằng cán.
Phước Khánh về sau tôi ba hôm, nhưng không gặp bạn bè thường xuyên, suốt ngày túc trực bên giường bà mẹ đã gần 90, nằm một chỗ. Hôm đi thăm Vượng, rủ Khánh cùng đi. Nó nhận lời, cho tài xế đưa xe đến đón. Bạn bè ngạc nhiên khi thấy PK ở Việt Nam sướng như tiên, kẻ hầu người hạ, sao lại chọn đường đi Mỹ? Tôi biết, nó muốn làm chỗ dựa tinh thần cho cô con gái một mình trên xứ người dù có chồng con bên cạnh. Vẫn câu triết lý từ ngàn xưa: “Nước mắt chảy xuôi.” Đến nhà Vượng chỉ có PK, Thái, Hồ thị Hồng và tôi. Thấy bạn bè, Vượng vui lắm, thăm hỏi đủ điều. Hường khoe sau một thời gian trị liệu vật lý, Vượng đã đi được vài bước, có khi còn ra tới quán cà phê đầu hẻm ngồi chơi nữa. Hôm nay Hường biểu diễn tài nghệ nấu bún cá. Chợ Mỹ không bán cá diêu hồng, nay thấy lại thân hình tròn trĩnh của nó bên những lát cà chua đỏ thắm, miếng thơm vàng rộm, từng cọng thì là xanh tươi… trong tô nước dùng bốc khói mới hấp dẫn làm sao. Ngon quá, đậm đà quá. Mỗi đứa ăn 2 tô. Buổi tối còn hẹn hò đi nghe nhạc ở phòng trà We đường Lê Quí Đôn, với chủ đề Mưa Chiều Kỷ Niệm, lại nhớ cô ca sĩ Ánh Tuyết hát bài này bằng giọng Quảng Nam trên trang Web PCT nghe không hay chút nào.
Những cuộc đi chơi xa không được thực hiện như dự tính, vì trong nhóm Tào Lao xảy ra chuyện Vượng đau, rồi đến con trai Diễm Dương gặp nạn. Bạn bè ngại không dám gọi điện hỏi thăm. Có một lần tôi gọi, giọng Diễm Dương đẫm nước mắt, vợ chồng nó đã van lạy bốn phương tám hướng, ra đến các chùa ở Huế để cầu xin. Lòng dạ tôi bồn chồn không yên, cả bạn bè cũng thế, nhưng lực bất tòng tâm, không biết làm sao chia sẻ nỗi đau cùng bạn.
Về đây như chim sổ lồng. Leo lên xe ôm, đi đâu cũng tới. Con gái gọi điện về nhà, ít khi gặp tôi. Thường tôi lên nhà Mai Hoa, cô bạn đồng nghiệp dạy trường Quốc Gia Nghĩa Tử Đà Nẵng. Sau 75, trở thành “mất dạy”, gặp nhau giữa Sài Gòn, hai đứa trở nên thân thiết vì không việc làm, không hộ khẩu, cùng lang bang trôi theo giòng đời. Gần nhà MH, có nhiều quán cà phê vườn nổi tiếng như Du Miên, Đồng Dao, Vườn Xuân… nhưng chúng tôi thường đến một quán nhỏ khiêm nhường bên góc chợ Trần Hữu Trang, nơi đây, chủ nhân hiếu khách, cà phê ngon và rẻ, nhạc để âm thanh vừa phải, hợp gu. Hôm mới về, anh Sơn –đồng nghiệp dạy QGNT mời tôi và MH đi ăn sáng ở Du Miên, có anh Đạo và ba em Thể, Lương và Sỹ. Kỷ niệm đẹp nhất là tấm hình Lương chụp cho tôi, có suối, có hoa và những con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô :))
Còn một quán cà phê nữa, tôi biết được nhờ Song Phạm –bạn thân của con gái trong nhóm Vòm Me Xanh của báo Mực Tím ngày xưa, chở đến. Quán này tôi không nhớ tên, không nhớ đường, nhưng rất ấn tượng bởi cách trang trí như ngôi nhà cổ, đặc biệt là chén bát giống như vật dụng còn sót lại từ nửa thế kỷ trước, nghĩa là chất liệu thô sơ, cũ kỹ, in hình con gà trống quen thuộc (tôi từng thấy hồi còn nhỏ) với túm lông đuôi vồng lên hai màu xanh nâu. Càng độc đáo hơn khi được uống cà phê sữa đá với chiếc ống hút làm bằng cọng rau muống, tưởng giả, ai ngờ rau thật, còn tươi xanh rờn. Tuổi trẻ bây giờ, gương phấn đấu thật đáng khâm phục. SP là nhà thơ, đồng thời là phóng viên báo Sài Gòn Giải Phóng. Ngày tôi đi, cháu còn ở nhà thuê, vậy mà bây giờ cháu đưa tôi về ngôi nhà cháu sở hữu vừa mới xây xong, rộng rãi, cao ráo, khang trang. Nhìn sàn nhà đầy bụi, tôi nói: “Ủa, con chưa quét nhà sao?” SP cười: “Bụi giả đó cô.” Cúi xuống, đưa tay sờ thử, đúng là nền gạch sạch sẽ, láng trơn. Thiết kế loại gạch bám bụi này chắc là ý tưởng của những người hoài cổ, thích xây dựng những ngôi nhà cũ kỹ, tường loang mái lở, mạng nhện giăng đầy như trong những phim liêu trai.
Phong trào Facebook lan khắp toàn cầu. Con gái cũng tạo cho tôi một Facebook cá nhân, nhưng tôi rất ít vào vì không quen. “Để con chụp cho cô một tấm hình đưa lên Facebook nhé.” Ý kiến hay, nhân dịp này, tôi hỏi SP một vài kỹ thuật thao tác để tìm hiểu rõ ràng hơn. Chơi Facebook cũng thú vị vì mình học hỏi được nhiều điều, biết được nhiều chuyện “thâm cung bí sử”, gặp lại những “cố nhân” từ lâu bặt vô âm tín, nhưng cũng có một vài tình huống tức cười, không thể nói ra đây!.
“Cô rảnh không? Con đưa cô đi mua sách, hàng giảm giá.” Tôi ô kê liền, tỷ phú thời gian mà, lúc nào mà chẳng rảnh. SP chở tôi tới nhà sách Quỳnh Mai trên đường Nguyễn thị Minh Khai, thấy treo bảng sale đến 40%. Tôi tìm thấy rất nhiều sách của Sydney Sheldon vừa mới được tái bản, in rất đẹp. Tác giả này là thần tượng của tôi thời tuổi trẻ, hầu hết sách của ông tôi đều đã đọc, đã say mê. Vừa rồi, Thái có nhờ Phước Khánh cầm qua cho tôi cuốn Phía Bên Kia Nửa Đêm, đọc lại y như mới. Điểm hấp dẫn, lôi cuốn của tác giả này là đến trang cuối, mình vẫn không đoán ra được kết truyện. Vì SP dành trả tiền nên tôi chỉ lựa hai cuốn, nhất định ngày mai tôi sẽ ghé mua hết toàn bộ. Quá rẻ.
Lên chùa Vạn Phước thăm ba mạ và ông xã, đồng thời chuẩn bị cho ngày giỗ lần thứ 6 của anh. Học trò anh rất nhiều, sau này vẫn thường lui tới thăm anh. Tôi nhờ Diệu Bích gọi dùm các bạn, hẹn ngày lên chùa dự đám giỗ thầy. Biết tin tôi về, DB rất vui. Em đến chở tôi lên nhà Yến Dung ăn cơm hến rồi đi hát Karaoke ở quán Phượng Hồng, có đủ mặt Hà Nga, Kim Trang… ai hát cũng hay, có một em gái tôi mới gặp lần đầu, rất nhiệt tình đưa tôi về đến tận nhà, nhưng tôi lại quên hỏi tên em. Đúng là tuổi già lẩm cẩm.
Hát Karaoke ở VN thích gấp trăm lần ở Mỹ. Ở Mỹ, khách cùng ngồi trong một căn phòng duy nhất, tuy rất rộng và có vách ngăn nhưng không có sự riêng tư. Trên tường gắn nhiều màn hình để mọi người cùng “thưởng thức”, điều này quá bất tiện, vì hát hay không nói gì, lỡ hát í ẹ thì để bạn bè chịu tra tấn được rồi, sao lại nỡ liên lụy đến những người không quen biết, tội nghiệp! :((
Có một buổi chiều, Phạm Ngọc Lâm cùng các bạn niên khóa 56 –63 mời tôi và PK đi xơi cơm ở đường Tôn Thất Tùng (?), PK trả lễ bằng một buổi Karaoke tại quán New ngay góc đường Kỳ Đồng –Trần Quốc Thảo. Quán này thuộc loại VIP, sang trọng, giá hét trên trời, người hầu kẻ hạ thật xứng tầm. Hát hay không bằng hay hát, micro chuyền tay, các ông già bà lão thay phiên nhau làm ca sĩ đến khuya lơ khuya lắc.
Hẹn gặp đám học trò Quốc Gia Nghĩa Tử tại nhà Mai Hoa. Võ Trịnh Thuận từ Vũng Tàu lên, mang theo tập bản thảo tờ Đặc san Ngôi Trường Ký Ức, nhờ tôi biên tập lại trước khi xin giấy phép in ấn. Chi Lan, Giang thị Dung lỉnh kỉnh mang đồ ăn đến, nào xà lách trộn, bò bóp thấu, bánh hỏi thịt quay, bánh flan, yaourt, chè đậu… No nê, các em còn rủ tôi đi Karaoke nữa chứ, có cả Kỳ và Trần văn Ba, thật khó mà từ chối :)).
Quán DJ đường Lê Văn Sỹ phòng ốc đẹp, âm thanh tốt, giá lại rẻ. Dung, Kỳ là những ca sĩ cây nhà lá vườn QGNT ngày xưa, bây giờ giọng vẫn còn hay lắm. Nghe Kỳ hát, cứ ngỡ Duy Khánh từ cõi mộng trở về. Cô trò hát hò từ trưa đến chiều tối, rồi cùng đi ăn phở Phú Vương cạnh đó. Nói thật, chưa bao giờ tôi được thưởng thức một tô phở ngon như vậy, hơi mắc, nhưng tiền nào của đó, rất xứng đáng.
Nói đến ẩm thực, hợp khẩu vị tôi nhất là mì Quảng và cà phê sữa đá, 2 món này tôi vẫn được thưởng thức nơi xứ lạ quê người, chỉ có hương vị một loại bánh xứ Huế thơm tho nồng nàn khiến tôi tương tư mãi, về đây mới được thỏa chí tang bồng. Đó là bánh Khoái, mà phải là quán Ngự Bình dưới chân cầu Công Lý mới thật sự ngon. Tuyết rủ đi ăn, tôi ok liền. Hai đứa ăn 3 cái, uống hai trái dừa, rồi đi bộ tà tà về nhà.
Tuyết là cô bạn thời xa xưa nhất của tôi, vào những năm 1951, 1952… khi chúng tôi là 2 cô bé tiểu học trường dòng Mai Khôi Huế, rồi bước vào tuổi 20, 40, 60.. và sắp 70, chúng tôi vẫn không mất liên lạc ngày nào. Tôi đi Mỹ, Tuyết thường lui tới nhà cô em gái tôi và xem nó như em ruột. Ở với cô em, tôi cùng ăn kiêng theo nó, suốt tuần đối diện với đủ loại cá, cá hồi, cá bông lau, cá nục, cá diêu hồng… không thấy được miếng thịt nào :(( . Muốn phá lệ thì cứ lên nhà ông anh, bà chị dâu là một cao thủ, muốn ăn món gì cứ việc nói, chị đi chợ, úm ba la trong chớp mắt. Kim An gửi 100 đô về cúng ba mạ, cũng nhờ chị nấu dùm. Ngày xưa, ba mạ rất quan tâm đến bạn bè của tôi, thường tìm hiểu hoàn cảnh từng đứa để giúp đỡ. Kim An di cư vào Đà Nẵng với cậu mợ, ba mẹ An vẫn ở ngoài Bắc, điều này khiến ông bà mủi lòng nên ưu ái với “cô Bắc kỳ nho nhỏ” này nhiều hơn. Kim An đi Mỹ từ 1975, sau này, nhờ trang Web Phan Châu Trinh hải ngoại, nó biết được địa chỉ tôi ở Sài Gòn. Trong lá thư đầu tiên gửi về, An nhắc hoài đến ba mạ tôi.
Học trò đến dự đám giỗ rất đông, có nhiều em tôi quên mời vẫn tới. Điều bất ngờ này vượt ngoài dự tính của tôi nên thiếu chỗ trầm trọng. Các em đến càng nhiều, hương linh ông xã càng được an ủi, nhưng trong tôi, niềm vui không át được nỗi ngại ngùng, sợ khách mời trách móc, vì nếu biết trước, tôi đã đặt thêm bàn rồi. Post tấm hình chụp với các em hôm đám giỗ lên facebook, nhận được những lời chia sẻ của bạn bè ở xa: “Đang ở Sài Gòn hả? nhìn hình thấy ốm nhom.” Tôi trả lời: “Nóng quá. Mỡ chảy ra hết rồi he he he.”
Đúng là trời rất nóng. Nghe nói Đà Nẵng cũng nóng nhưng hy vọng có gió biển, cũng đỡ hơn. Thành nhắn tin: “Khi mô mi về?” Rất muốn về nhưng phải đợi làm răng xong đã, tôi trả lời: “Cuối tháng.” Thành là bạn cùng lớp, cũng nhờ duyên nợ văn –thơ nên mới gặp lại nhau. Hiện Thành đang chủ biên trang Web PCT niên khóa 57 –64, dưới bút hiệu Đan Thanh. Qua những hình ảnh được post lên, tôi thấy bạn bè cùng khối lớp của mình còn rất nhiều ở Đà Nẵng, có những gương mặt dường như thách thức với thời gian, nhìn vào là nhận ra ngay, nhưng cũng có vài bạn tóc bạc da mồi, già hơn mình gấp bội, chẳng biết ai là ai. Lòng nôn nao muốn về, chờ đến ngày hẹn với nha sĩ sao thấy quá lâu.
Buổi tối đến nhà Thái ngủ để 5 giờ sáng, qua Phú Mỹ Hưng đưa đám con trai Hồng –Dương. Lá xanh rụng trước lá vàng, thật đớn đau. Trở về nhà, tôi cảm thấy như kiệt sức, tâm thần dã dượi, chả muốn làm gì cả. Nhờ nhỏ cháu San Hô mua vé đi Đà Nẵng, rồi gọi cho Thành biết ngày giờ ra đón. Hôm sau, Mai Xuân Lương gọi: “Welcome bà đến ở nhà tui.” L học với tôi những năm cấp 2, rồi du học Canada, lấy vợ đầm, sinh 2 con kháu khỉnh. Đến tuổi hưu, tình hoài hương thôi thúc, L chia tay vợ, trở về thành phố biển hiền hòa, nơi ghi dấu những ký ức hoa niên mà nơi xứ người, L không tìm thấy được. Thành cho biết ngày tôi về, nó bận chút việc, MXL sẽ ra đón tôi. Đến ngày lên máy bay, bỗng L báo tin bị cảm sốt, Oanh sẽ thay L đón tôi. Oanh là bạn gái của L, trẻ và xinh, rất nhiệt tình với bạn bè của L.
* Đà Nẵng
30 tháng 6
Cuối cùng, người đón tôi vẫn là Lương. Trông dáng vẻ L mệt mỏi, nở nụ cười không được tươi lắm. “Sao? Đau gì?” “Bớt rồi. Đói bụng không? Ăn chi tui kêu?” “Cho ly cà phê sữa đá được rồi.” Năm 2004, tôi có ra Đà Nẵng dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập trường Phan Thanh Giản, thành phố vẫn còn những lối đi quen, nhưng hôm nay, từ phi trường trở về, đường sá thay đổi đến không ngờ, khiến tôi bàng hoàng như Lưu Nguyễn lạc lối trần gian, hoàn toàn mất phương hướng. L đưa về nhà ngồi chơi, đợi Thành đi Tam Kỳ trở về, sẽ mang hành lý sang nhà nó. Hai đứa nói chuyện suốt buổi chiều cho đến khi Thành bấm chuông cửa. Nhà Thành chỉ cách nhà L vài căn, trên con đường có rất nhiều bàng. Những cây bàng xòe tán lá tròn trịa, thả xuống sân nhà những trái chín vàng ươm, thoang thoảng mùi thơm dịu nhẹ, gợi nhớ trong tôi biết bao kỷ niệm thuở ấu thời. Tôi cúi xuống nhặt vài quả, nói với Thành: “Lâu lắm rồi, tao chưa nếm lại, coi thử có khác xưa không?” Thành cười: “Dĩ nhiên là khác rồi. Mi sẽ thấy chát chứ không ngọt bùi như hồi tụi mình còn con nít nữa đâu.”
Thành ở với vợ chồng người con trai và đứa cháu nội. Thằng bé mới 3 tuổi, khôi ngô, lanh lợi, ăn nói khôn ngoan. Nghe nó kêu Thành: “Bà nội, bà nội…”, chạnh nghĩ tới mấy đứa cháu thường gọi “grandma, grandma…”” nghe sao lạ lẫm, buồn gì đâu. Biết tôi về, Trang đến thăm ngay. Trang là cháu ngoại cụ Phan Châu Trinh, hồi đi học rất thân, sau này hai đứa vẫn thường gặp nhau ở Sài Gòn, khi Trang vào thăm cô con gái là bác sĩ ở bệnh viện Hùng Vương.
01 tháng 7
Lương đặt bàn ở quán Madam Lân. Trước tôi một tuần, Hồ thị Hồng theo con gái Việt kiều ra Đà Nẵng tắm biển, e ngại gặp bạn bè. Tính cô nàng thế đấy, nói chung là sợ, không biết sợ gì khiến đôi lúc, tôi vừa thương vừa bực. Gọi điện, rủ hoài không ép phê, tôi nạt: “Mi không tới, khỏi chơi với tao nữa nghe.” Giọng nó ngập ngừng: “Mi dữ quá, ừ thì tới.” So với vài mạng ít oi ở Sài Gòn, số bạn ở đây nhiều gấp bội. Tôi gặp lại ba cô bạn khá thân là Yến Loan, Như Hảo và Kim Oanh, ngoài ra còn có Lê Thị Hỷ, Diệu Tâm, Tuyết Nhung, Phương Huệ, Lê Văn Tiên, Huỳnh Khải, Trương Phước Đẩu, Nguyễn Văn Khánh, Trần Văn Trình…Trong không khí thân mật, tôi đứng lên nói vài lời hạnh ngộ và xin lỗi những người bạn mà tôi đã quên tên. Thành post hình và ghi mấy chữ lên trang web: “Buổi họp mặt đầu tiên thấm đẫm nước mắt của Hồng và rạng rỡ nụ cười của Ái”. Chợt nhớ đến câu triết lý: “Khóc cũng phải sống, mà cười cũng phải sống, chi bằng nên cười hơn là khóc”. Đúng không các bạn?
Ăn sáng, cà phê cà pháo xong, tôi và Hồng cùng theo Kim Oanh về nhà nó. Kim Oanh học với tôi từ đệ thất đến đệ tứ thì theo chồng bỏ cuộc chơi. Ngồi trên taxi, nó hỏi luôn mồm: “Hai đứa bây ưa ăn chi? Có thích tôm chua thịt luộc không? Có muốn đi một vòng thành phố chơi không? Hay là đi ngang trường mình coi thử không?” Hồng nhìn tôi dò ý, tôi nói: “Về nhà Kim Oanh đã, mọi chuyện tính sau.” Chợ Cồn ngay cạnh nhà Oanh, giờ đã được xây dựng to rộng, sầm uất khác hẳn ngày xưa. Ba đứa đi một vòng chợ, mua chục cam ghé thăm Cao Ngọc Trản. Thật muốn khóc khi thấy Trản ngồi bất động trên giường, nhìn ba cô bạn học bằng ánh mắt lờ đờ, vô cảm. Trản tốt nghiệp Y khoa Huế, từng là bác sĩ giỏi nổi tiếng, đến tuổi hưu thì bị tai biến, di chuyển khó khăn, trí nhớ giảm sút. Cuộc đời, sinh lão bệnh tử, không ai biết được sau này mình sẽ ra sao. Sống khỏe ngày nào, cám ơn Trời Phật ngày đó.
Tôi và Hồng ở lại nhà Oanh ăn cơm rồi nằm ngủ một giấc tới chiều. Oanh thật may mắn khi có người bạn đời vui vẻ, hiếu khách, thương yêu Oanh vô cùng. Anh rất nhiệt tình với bạn vợ, nhất định chở lần lượt từng đứa về nhà, không cho gọi taxi. Tôi nhờ anh đưa tới ngôi nhà cũ để nhìn lại khoảng trời bình yên tuổi nhỏ. Quá thất vọng dù đã chuẩn bị tinh thần. Nhà tôi nơi góc đường Nguyễn Thị Giang –Nguyễn Hoàng, nay đổi tên là Nguyễn Thị Minh Khai –Hải Phòng đã trở thành một quán cà phê sân vườn vắng khách, lác đác những bộ bàn ghế lung linh bóng nắng, tiếng nhạc nhè nhẹ tan loãng vào không gian chiều. Tôi lấy máy hình ra bấm vài tấm kỷ niệm trước khi đến nhà Thanh An, cô bạn đồng nghiệp dạy trường QGNT. Như đã hẹn, hai anh em Thông và Đạt, học sinh khóa đầu tiên của trường, đang ngồi chờ tôi. Hai trò chở hai cô đi ăn mì Quảng, không nhớ quán tên gì. Chưa tới 6 giờ mà tôm thịt đã vơi, nước dùng cũng cạn, rau sống bánh tráng lưa thưa… Tôi nghĩ, đắt hàng như vậy chắc là ngon lắm. Bình thường thôi, nhưng chủ yếu là vui. Cô trò hàn huyên tâm sự, đến khi đứng dậy ra về thì trời bỗng đổ mưa. Bà chủ quán đem ra bình trà. Thông đỡ lấy, chưa kịp nói tiếng cám ơn, đèn đóm bỗng tắt phụt. Lại cúp điện. Mưa càng lúc càng to, gió thổi ào ào. Cô trò ngồi chờ mưa tạnh, nhưng rồi vẫn không về được vì nước ngập, tràn lên lề đường. Lại chờ nước rút. Đến khi ra về, điện vẫn chưa có, suốt con đường tối thui, trơn trợt, sợ té muốn chết. Đúng là một kỷ niệm khó quên.
02 tháng 7
Buổi sáng, Thành chở đi ăn bún cá, đường rầy xe lửa ven lề đã bị xóa sổ, nên đường Đống Đa trông lạ hoắc. Rau xanh, bún trắng, cá vàng, ớt đỏ, thật tuyệt vời, ngon nhất là những miếng riêu cua.
Chiều, Thành nấu mì Quảng kêu các lão bà đến nhà chơi. Bùi Thị Hồng từ bên kia sông, qua rất sớm. Thấy tôi, nó mừng như cá gặp nước, rồng gặp mây. Hồng rất thân với tôi suốt năm đệ nhị, bao nhiêu chuyện vui buồn tuổi dậy thì đều kể hết cho nhau nghe. Nhớ có lần Hồng khen bàn tay tôi đẹp và chép tặng tôi 4 câu thơ của Nguyên Sa: “Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay, tóc em anh sẽ gọi là mây, ngày sau 2 đứa mình xa cách, anh vẫn được nhìn mây trắng bay.” Hồng là em ruột của Bùi Giáng, nhớ hồi đi học, nó cho tôi tập thơ Mưa Nguồn, trong đó có lời đề tặng Kim Cương và Marylin Monroe của tác giả, tôi đã hỏi thẳng nó: “Anh mi có điên không?” Sau 75, tôi mất liên lạc với Hồng cho đến thế kỷ 21, khi báo chí đưa tin thi sĩ Bùi Giáng đang ở nhà người bà con dưới Gò Vấp. Có địa chỉ nên tôi viết thư hỏi thăm và được biết Hồng vẫn ở Đà Nẵng. Bây giờ gặp lại, hai bà già nhìn nhau, nói toàn chuyện đau lưng, nhức mỏi, tóc rụng, mỡ cao… Tuyết Nhung tới, đem theo mấy chục bánh ít, bánh nậm, còn thêm chả bò. Hấp dẫn quá. Trang bận giữ cháu, chỉ có Yến Loan, Kim Oanh, Diệu Tâm lần lượt đến. Chuyện trò, ăn uống, hát Karaoke, chụp hình để Thành post lên mạng nội bộ kèm theo hai câu “tức cảnh thành thơ”:
Lâu nay cứ tưởng mình già,
Bây giờ nhìn kỹ, quả là… y chang.

(Đan Thanh)
Bảy mươi năm trôi qua, bạn tôi mỗi người một hoàn cảnh, mạnh mẽ nhất phải nói là Thành. Thành học Sư Phạm Qui Nhơn, ra trường, lập gia đình nhưng hôn nhân không hạnh phúc, một mình Thành nuôi dạy 5 đứa con thành đạt, hiếu thuận. Tôi thường nói vui với bạn bè, đi mô cho xa, nhà nước phải trao danh hiệu “Bà Mẹ VN Anh Hùng” cho Thành mới chính xác.
03 tháng 7
Thành có giờ dạy thêm trên đường Hoàng Diệu, tôi tháp tùng theo. Ghé thăm chị Sáu và gia đình, tuy không phải bà con nhưng thân thiết còn hơn ruột thịt. Chị là con gái bác Thái Đình Trác, nhân viên của ba tôi. Bác là người rất đạo đức, thiệt thà, cần mẫn, quý mến ba mạ tôi và rất thương yêu chị em tôi. Bác đã ra tay giúp đỡ tôi, cho tôi niềm an ủi, chút lạc quan để vượt qua những ngày khốn khó, khi cuộc đời tôi lật sang trang mới, đầy thử thách chông gai. Người con út của bác là Thái Đình Cương, học lớp tôi. Cương có hàng cà phê nhỏ phải trông coi nên không tham dự những buổi họp mặt với bạn bè được. Anh pha cho tôi ly cà phê sữa đá, trò chuyện dăm câu rồi kêu bà xã chở tôi đi chơi. Bà xã Cương rất dễ thương, hiền lành, chất phác, sốt sắng đưa tôi đi khắp thành phố, phóng xe qua những cây cầu mới mẻ lần đầu tiên tôi nhìn thấy, cảm nhận hơi mát từ mặt nước sông Hàn phả lên thật dễ chịu. Sợ nhất là cầu Thuận Hải, bắc qua biển, cao khủng khiếp, gió lộng tứ phương, nên ít ai dám đi trên cầu này, đậu phải cành mềm như chơi.
Buổi chiều hẹn với Lưỡng, cô học trò Phan Thanh Giản lâu nay vẫn thường liên lạc. Lâu quá không gặp lại, tay bắt mặt mừng, các bạn cùng lớp Lưỡng tôi chỉ nhớ mỗi Hoàng Oanh, bây giờ qua lời giới thiệu, tôi biết thêm Diệu, Kim Phương, Hoa, Mộng Thu, Kim Lài, Phùng văn Anh, Phan Văn Anh, Nguyễn Đức Thiện. Các em chở tôi đi ăn bún bò rồi ra quán cà phê đường Bạch Đằng ngồi ngắm cảnh, ngắm người. Trăng thanh gió mát, nam thanh nữ tú dập dìu. Ban đêm, nhìn những chiếc cầu bắc qua sông Hàn thật đẹp, đèn sáng lung linh, tỏa ánh hào quang khắp vùng không gian rộng lớn.
04 tháng 7
Mai Xuân Lương mời ăn sáng ở Phố Xưa. Thành và tôi dậy sớm ra bến Bạch Đằng chụp hình, trước khi đến chỗ hẹn. Buổi sáng chưa có thợ chụp hình dạo để có 1 tấm hình chung, hai đứa tự chụp, thay phiên nhau đứng bên mấy pho tượng đá, xa xa là chiếc cầu có con rồng vàng uốn lượn, rực rỡ trong ánh nắng ban mai. Trang đem theo xấp ảnh năm đệ tứ 2, cho mỗi người một tấm. Ngắm nhìn những gương mặt thơ ngây ngày cũ, Chấn, Lương, Oanh, Thìn, Hùng, Lệ, Tài… người còn kẻ mất, người lấm bụi hồng trần, kẻ nương nhờ cửa Phật, hạnh phúc và khổ đau, mới thấm thía nỗi vô thường của cuộc đời. Tôi nói với Lương: “Mai Ái đi Huế.” “Để tui mua vé chỗ đàng hoàng cho nghe, đừng ra bến xe hỗn loạn lắm.”
Tôi rủ Thành ghé thăm thầy Tăng, dạy toán năm đệ nhị. Thầy cũng là nhà thơ nổi tiếng Trần Hoan Trinh. Suốt đời thầy thả hồn theo những nàng thơ, dù bên cạnh thầy, có một nàng thơ dịu hiền thùy mị nâng khăn sửa túi. Nàng thơ này là Quý Phẩm, người đẹp lớp tôi, đang là người mẫu trang bìa tập thơ “Cháy Bỏng Như Lửa Mặt Trời”, do các con in cho thầy nhân dịp sinh nhật lần thứ 80. Nhưng thầy luôn đính chính, còn 4 năm nữa thầy mới chạm ngưỡng bát thập.
Buổi chiều, tôi và Thành nhất định ra bờ sông tìm các bác phó nhòm. Hai bà già làm duyên, tạo dáng cả tiếng đồng hồ, chụp được 10 tấm, lấy liền, xong xuống đường Nguyễn Chí Thanh ăn hàng. Đầy đủ bánh bèo, bánh nậm, bánh ít… bánh nào cũng ngon, nhưng tôi kết nhất là món cháo trắng thơm hương lá dứa, ăn với trứng vịt muối, hoặc cá thịt kho.
Buổi tối, hai đứa đi dạo, đến quảng trường rộng lớn gần nhà Thành, ngồi dưới chân tượng đài cao, nhìn xuống dưới, xe cộ ngược xuôi nhỏ tí như xe đồ chơi, người đi hóng mát, trẻ con nô đùa, tiếng cười rộn ràng trong không khí oi nồng của một ngày mùa hạ. Chuyện trò lan man, những kỷ niệm thời đi học, những khó khăn trên đường đời, những trải nghiệm về cuộc sống… hơn nửa thế kỷ nhìn lại, thấy mình “được” hơn là “mất”, tuổi già không giàu sang gì nhưng đủ ăn đủ mặc, tinh thần thoải mái, còn mong gì hơn? Về khuya, tiết trời dịu dần. Lương nhắn tin: “Mua vé cho A rồi, mai chờ L qua chở đi ăn sáng rồi ra bến xe.”
Xe du lịch có 2 tầng. Không hiểu L nghĩ sao mà chọn ghế cho bà bạn già trên tầng 2 làm tôi leo lên muốn té. Định gọi điện mắng vốn nhưng thôi, thấy L nhiệt tình với bạn bè, đưa đón đàng hoàng nên tạm tha cho. Lần đầu tiên được đi qua hầm Hải Vân, lòng cũng nao nức, nhưng sao có cảm giác xe chạy chậm như rùa, dù không leo đường đèo như hồi xưa, nhưng đến Huế vẫn mất gần 3 tiếng. 
* Huế
05 tháng 7
Trinh Thuận đi đón. Gần 20 năm mới gặp lại, cô em họ vẫn tươi tắn, ân cần như hôm nào hai đứa gặp nhau ở Sài Gòn, đi coi ca nhạc tại số 81 Trần Quốc Thảo, vui thiệt là vui.
Buổi chiều, ngồi uống cà phê bên sông Hương với Nguyên Quân (nhà văn), Ngàn Thương (nhà thơ) và bác sĩ Phạm Xuân Phụng, trước đây là cộng tác viên ưu tú của tờ Bạn Ngọc do tôi và Kim Hài chủ biên. Ngàn Thương tặng tôi tập thơ Thủng Thẳng Qua Cầu vừa mới xuất bản, Nguyên Quân hứa sẽ gửi cho tôi Tập truyện ngắn nhưng chờ hoài không thấy! Nhờ Nguyên Quân chở qua An Cựu thăm chị Phương Lan, đồng nghiệp dạy QGNT, rồi chạy về Gia Hội, Ngự Viên… cảnh cũ người xưa, sao xa lạ quá.
06 tháng 7
Vĩnh Hùng ghé chở qua thăm Cao Hữu Điền rồi đưa về nhà chơi. Ngôi nhà mới xây trong khu phố yên tĩnh, rộng rãi, khoáng đạt, hoa lá xanh tươi. Ngồi trong phòng khách, vừa ăn trái cây vừa nhìn ngắm những bức tranh thêu quá đẹp của Minh Châu –bà xã Hùng, mới nhận thấy rằng, đây đúng là một cặp đôi hoàn hảo đang hưởng thú điền viên, hạnh phúc tràn đầy.
Tôi có bà chị họ, lớn hơn tôi nhiều, nhưng rất hợp tính. Đã bao lần muốn ra Huế thăm chị nhưng rồi bận công việc không đi được, nói chuyện qua điện thoại, thấy chị còn khỏe, cười nói rổn rảng, còn khoe bữa nay nhàn rỗi, suốt ngày đánh tứ sắc với mấy bà hàng xóm. Vậy mà không kịp, chị đã mất trước ngày tôi về, ngôi nhà của O tôi (mẹ của chị) trong thành nội giờ đây hoang vắng tiêu điều, thắp vài nén nhang mà nghe lòng quặn thắt. Những người muôn năm cũ trong di ảnh trên bàn thờ đang nhìn tôi bằng ánh mắt buồn thương.
Xế chiều, hai cô em họ đưa lên Nam Giao thăm mộ cậu mợ và ông bà ngoại. Nhớ ông ngoại ngày xưa thương tôi nhất nhà, đi đâu cũng khoe: “Cháu tui đậu tú tài rồi.” Thật ra, ngày ông mất, tôi mới học đệ tứ! Cậu là người con trai duy nhất sớm bỏ gia đình ra đi vì lý tưởng, để lại trong lòng ông niềm thương nhớ không nguôi. Những ngày nắng đẹp, ông thường đem những bộ quần áo của cậu ra phơi, rồi nói với mẹ tôi: “Không biết bao giờ em con mới trở về?”. Ngày cậu đi, tôi mới đầy năm và ngày cậu về, tôi đã qua tuổi 30. Cha không còn đã đành, chị cũng mất từ lâu, cậu khóc ròng bên mộ mẹ tôi: “Cháu ơi, cậu nhớ hoài hình ảnh mẹ bồng cháu, tiễn chân cậu đến đầu cầu Gia Hội, chị em cầm tay nhau, nước mắt như mưa.” Đường lên mộ gập ghềnh, cỏ may ghim đầy quần áo, mới chụp vài tấm hình, máy đã hết pin. Thanh Trúc nhắn tin: “Cô ơi, chủ nhật này gặp cô ở Du Miên nhé.” Tôi reply: “Cô đang ở Huế.”
Về nhà, nhận điện thoại Đạt báo tin Thông bị té xe gãy xương vai đang nằm ở bệnh viện C. Chắc ngày mốt mới vô thăm được.
07 tháng 7
Sáng rủ cô em họ đi ăn sáng uống cà phê trước khi trở về Đà Nẵng. Quán lộ thiên dưới chân cầu Tràng Tiền nhiều cây xanh, mát mẻ. Chụp với Trinh Thuận vài tấm hình lấy liền làm kỷ niệm. Thời buổi bây giờ, không có email, không xài internet thì khó lòng chị em liên lạc trao đổi tin tức cho nhau.
So với Đà Nẵng, Huế không thay đổi nhiều.
* Đà Nẵng
08 tháng 7
Nhờ Thành chở đi thăm Thông. Đang lớ ngớ tìm phòng thì có tiếng kêu: “Cô, cô.” Trên hành lang xa, một anh chàng mặc quần áo bệnh viện, tay chống nạng, tay kia vẫy vẫy tôi. “Ủa Thông, em đi được rồi hả.” “Em đỡ rồi cô.” Trời, vậy mà tên Đạt làm tôi lo muốn chết. Ngồi với Thông một lát, tôi rời bệnh viện, đi lang thang, nhìn trời, nhìn đất, nhìn cảnh vật chung quanh, không hề có cảm giác quen thuộc nào cả.
Nguyễn Văn Khánh mời cơm chiều tại nhà hàng của mình: Ngọc Sương. Tôi nói với Thành, không ngờ bạn mình là đại gia, oai quá. Nhớ năm đệ tứ, lớp tôi tham gia đêm văn nghệ tất niên Xuân 1961 với vở nhạc kịch Hòn Vọng Phu. “Diễn viên” gồm có: Bích Lan vai chinh phụ, Hồ thị Hồng vai chinh phu và Khánh vai ông già kể chuyện. Tôi làm “đạo diễn”, đứng sau cánh gà, cứ chắp tay lạy trời cho các bạn tôi đừng bể dĩa. Nhớ hoài giọng ngâm thơ đầm ấm của Khánh:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh
Ai vô xứ Lạng cùng anh
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em…
Khách mời gồm tôi, Thành, Như Hảo, Lê Trang, Kim Oanh, vợ chồng Mai Xuân Lương, Đàm và Kim Chi (học ban C với Đàm). Đặc biệt, có Thu An từ bệnh viện “trốn” ra hội ngộ cùng bạn bè.
Món ốc len xào dừa ngon tuyệt, chả giò hải sản cũng ngon, canh rau muống hến hơi bình dân một chút… còn vài món nữa tôi quên mất, chỉ nhớ tráng miệng bằng kem dừa thơm mát do Lương gọi từ một xe bán dạo. Trước khi ra về, Khánh hát tặng các bạn bài Về Đây Nghe Em, rất hay.
09 tháng 7
Buổi sáng, nhóm bạn tập họp ở quán Huế Xưa để tiếp đón Đàm từ Kontum và Sư Khánh Hỷ từ California về. Khánh Hỷ là Trần Minh Tài học lớp tôi, nghe Sư nhắc với tôi một vài kỷ niệm hồi đi học, tôi chỉ biết cung kính vâng dạ, chớ thật ra tôi chẳng nhớ gì. Cả Nguyễn thị Thêm nữa, hoàn toàn khác xưa, nếu Thành không nói, tôi sẽ chẳng nhìn ra, dù hai đứa từng ngồi cùng bàn suốt bốn năm trung học.
Gian phòng trên gác gỗ rộng rãi, ồn ào, đông đúc. Người ăn kẻ uống, nói chuyện tầm phào không đầu đuôi gì cả, nhưng không khí thân mật, nhìn nhau cũng đủ vui. Trước khi tạm biệt, mọi người cùng kéo nhau ra cổng quán chụp hình. Chưa ai chịu về, các bạn tôi rủ nhau qua chùa Linh Ứng Bãi Bụt chơi. Bùi thị Hồng gọi chiếc taxi: “Đi chùa xong các bạn về nhà tui ăn bún cá nghe.”
Mặt trời lên đỉnh đầu, phóng tia nắng gay gắt theo chân 6 bà già ham vui (Đàm, Oanh, Chi, Hồng, Trang và Ái). Gió biển mát rượi khi taxi leo gần hết con dốc, đến tận cửa tam quan, đưa chúng tôi vào thăm viếng cảnh chùa. Chùa Linh Ứng Bãi Bụt xây trên khu đất rộng ở bán đảo Sơn Trà, kết hợp hài hòa giữa kiến trúc thanh tân và truyền thống kiến tạo thẩm mỹ cổ truyền Á Đông. Đẹp nhất là tượng Phật Quan Thế Âm cao vút, đứng giữa tòa sen, hướng ra biển, thánh thiện và trang nghiêm. Ngước nhìn lên đôi mắt hiền từ của bà, lòng người trở nên thanh thản, mọi ưu tư muộn phiền dường như tan biến vào cõi vô thường.
Về tới nhà Hồng đã 2 giờ chiều. Con gái Hồng báo cáo, cá tươi không có nên nấu đỡ bún bò, mong các dì thông cảm. Con trai Hồng còn mua thêm bánh bèo chả lụa đem về làm các dì càng “thông cảm”, ăn đến no nê. Nhìn Hồng lăng xăng dọn chén bát, nụ cười răng khểnh vẫn tươi tắn như ngày xưa, nhớ hoài câu “thắc mắc” nó cứ nhắc đi nhắc lại mãi: “Tụi bây thấy có vô lý không? Tại sao chúng ta lại 70 tuổi chớ. Vô lý, vô lý quá.” Tôi nói: “Vô lý cái nỗi chi. Mi vô duyên thì có. Mình phải già, nhường chỗ cho con cháu lớn lên chứ.”
Mai Xuân Lương gọi điện mời ra bãi biển chơi, nhưng rồi trời mưa quá, đành phải cancel. Đi taxi về lại phố ăn cơm gà, tiệm gần nhà Trang. Quá dở.
10 tháng 7
Sáng sớm, Tuyết Anh đồng nghiệp dạy PTG, dẫn đi ăn cơm hến, quán nhỏ gần nhà, ngon không ngờ. Ghé thăm Huệ, bạn hồi tiểu học, xong đến nhà Như Hảo, hai đứa ra ngồi quán cà phê, ôn lại chuyện xưa. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, ở Huế cũng như Đà Nẵng, khi gọi cà phê sữa đá, sẽ được hỏi: “Bác uống kiểu Sài Gòn hay kiểu ở đây?” Kiểu Sài Gòn thì biết quá, tôi gọi thử kiểu Đà Nẵng xem sao. À thì ra kiểu ở đây không dùng ly mà dùng tách, đá để nguyên một cục lớn, chỏng chơ, nhìn hết muốn uống.
Buổi trưa, Trang mời lên nhà ăn mì Quảng cá. Tôi và Như Hảo đến, đã thấy Thêm ngồi chờ. Vẫn dáng vẻ hiền lành xưa, Thêm khoe tự tay làm chả cá đặc biệt mời tôi, thật cảm động. Tôi hỏi Thêm có đau gì không mà hư hao quá vậy, Thêm cười buồn, đau đủ bệnh Ái ơi. Thành bận việc không đến, bàn tiệc có thêm vợ chồng Kim Oanh và Yến Loan. Chồng Trang sau thời gian bị tai biến, bây giờ đã đi lại được, bước ra chào chúng tôi rất niềm nở (ngay khi tôi viết đến đây thì nhận được email của Thành, báo tin ông vừa mất).
Buổi chiều, đi chợ Đống Đa với Thanh An. Trước 1975, hồi tôi còn đi dạy, đây chỉ là một loại chợ chồm hổm, lèo tèo vài thớt thịt, rau cá được bày bán trên những tấm nylon đơn sơ, dọc hai bên đường. Bây giờ thì hoàn toàn mất dấu, thay vào đó là một ngôi chợ đúng nghĩa với những gian hàng quần áo thời trang, vải vóc, giày dép, khu bán hoa quả, thịt cá được dọn trên những bệ xi măng sạch sẽ, gọn gàng. Rảo quanh chợ một lát, Thanh An mua chục cam đi thăm Thông. Cô giáo này chu đáo thiệt. Trước khi chia tay, hai đứa đi ăn bánh bèo, cháo trắng lá dứa, ngon nhớ đời.
11 tháng 7
Tôi mời các bạn trong ban chấp hành ăn sáng ở Phố Xưa trước khi lên máy bay về lại Sài Gòn. Đan Thanh tặng mấy câu thơ:
Phố Xưa tạm biệt Thùy An
Chúc nhau thượng lộ bình an. Hẹn ngày…
Trở về tay ấm trong tay…
Buổi trưa, Mai Xuân Lương mời tôi và Thành đi ăn bún chả Hà Nội. Có món nem vuông cua bể rất đặc sắc. Thành chở tôi ra phi trường, một kỷ niệm khó quên, khi Thành đã về và tôi lên thang máy, mới nhận ra trên đầu còn chiếc mũ bảo hiểm của cô con dâu Thành. Gọi điện không được, tôi đành gửi chiếc mũ cho anh bảo vệ nhờ chuyển dùm. Về tới Sài Gòn, việc đầu tiên là nhắn tin cho Thành, và được trả lới: “Yên chí, lấy mũ được rồi.”
* Sài Gòn
Phước Khánh sắp trở về Mỹ, mời họp mặt tại nhà Thái. Có cả Thục Nhi từ Pháp về. Tôi nghĩ đến bài thơ “Bông Hồng Cài Áo” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh vinh danh những người còn MẸ trên cõi trần gian này, rồi thấy Thục Nhi là người bạn hạnh phúc nhất trong nhóm chúng tôi, xứng đáng được hai bông hồng vì ở tuổi này vẫn còn đầy đủ CHA MẸ, hai bác trên 90 vẫn khỏe mạnh, minh mẫn, sống an vui trong gia đình tứ đại đồng đường, thật hiếm hoi.
Thời gian tựa bóng câu. Nhóm bạn PCT lại thuê xe lên ngôi chùa ở Thủ Đức dự lễ thất tuần của cháu Dũng. Sau 49 ngày gặp lại, Hồng –Diễm Dương càng suy sụp, tiều tụy nhiều hơn. Ăn xong bữa cơm chay, chúng tôi theo chân hai bạn đến bờ sông Sài Gòn phóng sinh rùa và cá lóc, cá rô. Nhìn bầy sinh linh bơi lội trên giòng nước bạc, dưới vòm trời âm u mây xám, gió lồng lộng thổi, tôi không khỏi ngậm ngùi cho kiếp người hữu hạn, ai rồi cũng một lần ra đi. Từ giã ngôi chùa hiền hòa dưới bóng mát cây bồ đề cổ thụ, tôi nhớ mãi hình tượng của vị chân tu nơi chánh điện, đúc bằng sáp, vô cùng khéo léo, trông y như thật: ánh mắt, nét môi, gương mặt phúc hậu, nếp áo cà sa phủ lên bàn tay với những sợi gân máu li ti ửng hồng.
Về Việt Nam, nghe biết bao nhiêu lời cảnh báo, ăn uống phải chọn lọc, hợp vệ sinh để tránh bệnh đường ruột, vậy mà trời thương, đường tiêu hóa của tôi đã được miễn nhiễm nên luôn an toàn. Có đau chăng là xót tiền thôi, mặc dù đó không phải là tiền của mình. Bà con bên chồng, cháu chắt bên ta dẫn đi ăn khắp chốn. Vào mấy nhà hàng, nhìn vô menu là muốn chóng mặt. Nhớ hôm vợ chồng Phương Thúy –cô cháu gái chồng mời đi ăn, hỏi : “Thím thích món gì?” Nghĩ, ngày nào mình cũng uống thuốc tension, kiêng thịt, kiêng trứng, thôi nói món Cá cho chắc. Vậy mà tiền trả cũng lên bạc triệu, dù tôi chọn món cá rẻ nhất. Mắc nhất là Cá Mặt Quỉ, thấy tên cũng tò mò muốn biết mặt quỉ ngang dọc ra sao, dễ thương hay dễ sợ, nhưng thấy ghi giá 1.450.000 $ nên hết hồn, buông tay.
Ăn ngoài, khỏi tốn công dọn dẹp, nhưng ăn ở nhà, không khí đầm ấm thân mật hơn. Nhà Mai Hoa là nơi tập họp ăn uống, từ hồi nảo hồi nao. Chuyên viên ẩm thực là hai cô học trò nhiệt tình, giỏi dang Chi Lan và Giang Thị Dung, với nhiều món ăn tôi đã kể phần trên. Đặc biệt đoạn này, tôi phải nói đến món cháo cá của Chi Lan. Chi Lan là học sinh khóa đầu tiên của trường QGNT Đà Nẵng, ban A, khi tôi vào dạy, em đã học lớp 11 rồi. Chi Lan ở tận quận 7, đi 2 chuyến xe bus mới đến nhà Mai Hoa. Thời gian tôi về VN, em qua thăm nhiều lần, và khi tôi sắp đi, em ngõ ý nấu mời tôi món “ruột” của em. Đó là cháo cá Lóc. Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh, rất hợp ý tôi. Viết đến đây, lại nhớ đến kỷ niệm ngày hôm đó. Chi Lan dặn Mai Hoa bắc dùm nồi cháo trắng trên bếp điện trước, rồi em sẽ đem cá qua sau. Nấu nửa chừng thì ông nhà Đèn chơi khăm, làm gia chủ tá hỏa vì không có lò dầu dự trữ. Nhưng may, một lát, có điện lại, gạo vẫn mềm nhừ chờ đầu bếp tới, thả vào đó những lát nạc cá tẩm ướp tiêu hành với liều lượng gia truyền để tạo nên một món cháo tuyệt vời. Không biết tôi có thiên vị vì cảm tình riêng không, bởi cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đây là nồi cháo cá thơm ngon nhất từ trước đến nay.
Nói đến món ăn, là nhớ ngay chương trình Vua Đầu Bếp trên kênh VTV3 mà tôi đã hào hứng theo dõi từ vòng ngoài đến chung kết. Đây là cuộc thi nấu ăn giữa những người tuổi trẻ đam mê môn ẩm thực, cháy bỏng trong tim niềm khát khao được chế biến những món ăn đặc sắc, không những ngon, mà còn phải đẹp, thuyết phục được ban Giám khảo khó tính. Ngang sức, ngang tài, họ chỉ hơn nhau dựa vào óc sáng tạo, và anh chàng đoạt cúp Vua Đầu Bếp thật xứng đáng.
Chương trình TV ở Sài Gòn ngày càng phong phú, có nhiều games show rất hay. Thích nhất là chương trình Giọng Hát Việt Nhí. Các em bé 9, 10 tuổi hát quá hay, tôi lên mạng nghe đi nghe lại hoài, không hề chán. Phim truyện Hàn Quốc có Kẻ Truy Đuổi, Cuộc Đời Lớn, Đứa Con Rơi… rất hay, tiếc là phim truyện VN cứ chiếu lui chiếu tới mấy phim cũ rích, chỉ có vài phim mới, được nhất là Cỏ Biếc, diễn viên tốt, đạo diễn giỏi, kịch bản viết về bi kịch một gia đình làm nghề buôn bán bò qua biên giới, nhiều tình tiết hay và lạ.
Lúc này, bài vở tờ Đặc san Ngôi Trường Ký Ức đã tạm đủ. Võ Trịnh Thuận từ Vũng Tàu đem bản thảo lên cho tôi duyệt lần cuối. Chọn bìa, trang trí, ký hợp đồng bên xuất bản, tôi giao hết cho Thuận. Thuận cũng là học sinh QGNT Đà Nẵng khóa đầu tiên, ban B, một trong những học sinh giỏi làm tôi nhớ ngay khi gặp lại sau mấy chục năm. Em là người thành công trên đường đời, hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng vẫn giữ tâm hồn giản dị, thương mến bạn bè và kính trọng thầy cô. Em luôn luôn bận rộn cùng đối tác, xuôi nam ngược bắc, kể cả ra nước ngoài, thời gian tính bằng giây, nhưng vẫn dành thì giờ thực hiện xong cuốn Đặc San trước ngày tôi trở về Mỹ, giúp tôi giữ tròn lời hứa với các em.
Hoàng Ngọc Thương ghé nhà, làm quà cho tôi một hộp bánh cuốn chay, tương chấm tuyệt hảo. Thật không hổ danh bà nội trợ xứ Huế, thành viên trong nhóm ẩm thực thành phố cùng những Nguyễn Dzoãn Cẩm Vân, Tịnh Hải, Triệu Thị Chơi… làm nên những cuốn tạp chí dạy nấu ăn đủ cả ba miền đất nước. Chị là em gái của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, cộng tác viên mục gia chánh hồi tôi còn chủ biên tờ Phụ Nữ và Sức Khỏe. Chị cho tôi biết bà chị dâu là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ bị bệnh mất trí nhớ, ông anh còn minh mẫn nhưng ngồi xe lăn cả chục năm rồi. Cuộc đời đầy bất trắc, khó mà đoán trước những việc đang chờ ta phía trước. Thật đáng sợ.
Đặc san in xong, hình thức đẹp, nội dung khá, tiếc là không có tấm hình trường cũ để làm bìa, nên Thuận dùng tạm hình ảnh những chùm hoa phượng tượng trưng cho lớp học, sân trường và những tháng ngày thơ mộng của tuổi học trò …. Ý tưởng rất hay. Bản đầu tiên, tôi rủ Mai Hoa và các học sinh đem lên nhà thầy Hoàng Trọng Nồng, đặt lên bàn thờ và thắp cho thầy một nén nhang. Thầy là Hiệu Đoàn Trưởng của trường, hiền lành, nhân hậu, thích viết văn, làm thơ. Hiền nội của thầy –cô Phương Như đã ngoài 70, vẫn còn mạnh khỏe, cô là một trong những Mạnh Thường Quân đỡ đầu cho tờ báo. So với những Đặc san trước, Ngôi Trường Ký Ức xứng đáng đoạt giải A. Một trăm cuốn gửi lên Sài Gòn, một trăm cuốn khác gửi ra Đà Nẵng, vẫn không đủ phân phối, rất đông học sinh các khóa nhỏ hơn như K5, K6… bỗng xuất hiện bất ngờ, tìm về kỷ niệm xưa, đương nhiên là các em cũng có phần, không thể thiếu.
Sắp đến ngày đi, tâm trạng ngổn ngang, thích ngồi nhà hơn ra phố. Vậy mà vẫn còn nặng nợ những lời mời cà phê cà pháo. Phạm Công Luận hẹn tôi và Thái ở Paloma, có món mì hoành thánh rất ngon. Cách đây 20 năm, khi tôi chủ biên tạp chí Tuổi Ngọc, Luận là cộng tác viên mục Phóng Sự Học Đường, bây giờ, Luận đang là Tổng Biên Tập tờ Sinh Viên và có nhiều sách xuất bản. Tiếp theo là không thể thất hứa với Thanh Trúc, gặp nhau ở quán cà phê gần nhà Thái. Thanh Trúc đến dẫn theo cô bạn thân là Ấu Thơ. Cũng có chút dây mơ rễ má, Ấu Thơ là con gái Quỳnh Chi, bạn học PCT cùng lớp, nên tình càng thân hơn. Từ Ấu Thơ, tôi liên lạc được Tố Nga, cô dược sĩ bé xinh này chọn ngày cuối tuần, mời tôi đi Du Miên ăn bún bò, từ chối không được.
Rồi Hoàng Ngọc Đức –violonist trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế, bạn vong niên của ông xã, hẹn ở quán La Mer gần nhà. Đức tặng tôi 2 CD của Thu Vàng, hát nhạc Phạm Duy, Cung Tiến, Lâm Tuyền và… cả Đức nữa. Thu Vàng là học trò của Cao Hữu Điền, trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị. Giọng hát U60 vẫn còn trong trẻo mượt mà, rất điêu luyện. TV sắp ra CD mới, có nhã ý mời tôi viết lời giới thiệu trong buổi lễ ra mắt, nhưng tôi không dám, vì không quen viết dạng lý luận phê bình, sợ không đạt, xấu hổ cho ca sĩ.
Nhận email người quen, giới thiệu một quán cà phê ở Gò Vấp với lời quảng cáo: “Bạn sẽ được nhìn ngắm Paris giữa Sài Gòn.” Vậy là rủ nhau đi. Ừ, thì cũng đẹp. Quán sân vườn khá rộng, trang hoàng theo kiểu Âu Châu (???!!!), bàn ghế lịch sự, cây cối xanh tươi, hoa lá muôn màu, tường gạch hồng, cửa gỗ trắng, ống khói rải rác trên mái nhà, còn cả chiếc cối xay gió, cánh bạc vươn cao rất bề thế. Nhưng ngồi uống cà phê ở đây khó thể nghĩ đến một nước ôn đới nào khác, vì trời đang nóng, nóng đến toát mồ hôi.
Nói chung là thời gian tôi ở đây, ngày nào cũng nóng. Thỉnh thoảng, trời đổ vài trận mưa làm phước rồi… nóng cứ vũ như cẫn. Nhưng tôi vẫn thích hòa mình vào cuộc sống xô bồ náo nhiệt của người Sài Gòn, trong bụi bặm, nắng gắt, xe cộ hàng hàng lớp lớp… để thấy mình còn được sống bên học trò, bè bạn, anh em… cùng những ngày xưa thân ái. Đi Karaoke, phòng trà, nhà hàng, quán cóc… vẫn thấy thiếu một cái gì mà ở Mỹ không thể thực hiện được. Vậy là nghe lời nhỏ San Hô, hai O cháu đi thu CD chơi. Đến nơi thì giật mình, 500.000 đồng/bài, mắc quá, nhưng không thể rút lui, sợ mất mặt đứa cháu, tôi lấy cớ là “long thể bất an” nên chỉ hát một bài thôi. Phòng thu âm kỹ thuật tân kỳ, máy móc hiện đại, nghe giọng mình cũng được, nhưng chuyển qua computer nhà thì thất vọng hoàn toàn, hát kiểu gì mà hụt hơi giống như sắp chết!!!  :((
Bắt đầu những buổi tiệc chia tay. Bất ngờ, Hồng –Diễm Dương xuất hiện làm nhóm Tào Lao mừng quá vì hai bạn đã vượt qua được nỗi buồn tử biệt, nên tổ chức ngay chuyến đi Vũng Tàu vào ngày hôm sau. Giao hết chuyện tàu xe cho Huỳnh Bá An. Lão này thế lực chẳng thua gì Mafia, vừa nhấc điện thoại, đã có ngay phương tiện du hí. Càng vui hơn nữa là Hường đưa được Vượng đi cùng. Sức khỏe Vượng khá hơn nhiều, đi chầm chậm và nói chuyện đã rõ ràng hơn. Bạn bè chọc, không cho Vượng đi, ở nhà Vượng sẽ bấm vỡ hết các điện thoại cho mà xem. Ăn sáng ở Biên Hòa, đến Vũng Tàu trời đã gần trưa. Xe chạy một vòng quanh thành phố phát triển rộng đẹp, những con đường ven biển ngợp bóng thùy dương, trải dài ngút mắt. Nắng chói chang không ngăn nổi mấy ông bà già nô đùa trên sóng nước, thôi thì sống được ngày nào vui chơi ngày đó, quĩ thời gian còn được bao lăm?
Trước ngày đi, Minh Tâm –đồng nghiệp dạy QGNT, gọi đi Karaoke liên tục, dẫn theo mấy cô bạn hát rất hay. Địa điểm Sài Gòn Star giá đắt nhưng trả tiền theo kiểu Mỹ nên cũng dễ chịu. Rồi đến lượt cô em chồng ở Long Thành, hồi tôi về xui xẻo bị té gãy tay, bây giờ tay đã tháo bột nên tranh thủ lên thăm. Cùng với cô cháu gái Phương Thúy, hai bà già lại đi Karaoke, quán Sky dưới chân Cầu Kiệu miễn phí từ 10 giờ đến 14 giờ, chỉ tính tiền nước 50 ngàn đồng/người. Hát suốt 4 tiếng đồng hồ, về khách sạn ngủ một giấc, rồi đến quán Hoàng Ty ăn món đặc sản là bánh tráng phơi sương cuốn cá hấp và bánh canh Trảng Bàng. Tối thăm phòng trà We với đêm chủ đề Nhạc Tiền Chiến. Có một nhạc phẩm không phải tiền chiến, giai điệu nhẹ nhàng, lời ca trau chuốt rất ấn tượng làm tôi nhớ hoài, hình như được giới thiệu là bài “Căn nhà xưa” (?).
Ngày qua đêm tới, rồi cũng đến lúc từ biệt Sài Gòn. Hai vali hành lý vẫn chưa đủ, còn đóng thêm một thùng giấy 23kg, nặng tiền nhưng không hề tiếc, vì toàn những món ăn bổ dưỡng cho những neurone thần kinh đang lão hóa: CD, DVD và đặc biệt là sách. Ở Mỹ, sách Văn học tiếng Việt gần như không có, chỉ toàn sách chính trị, đấm đá lẫn nhau đọc thêm đau đầu.
Chiều lên phi trường, có hai cô trò Mai Hoa và Linh Diệu đưa tiễn. Trời mưa rất lớn. Hình như đang có bão rớt…
25 tháng 1 năm 2014
BẾN CUỐI 5:
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG VUI
Phước Khánh báo tin: “Cuối tháng 3, có vợ chồng anh Hoàng từ Pháp qua Houston, nhóm PCT tổ chức đi chơi, chị nhớ tham gia nghe.” Tôi biết, Hoàng là anh của Hồng Đóa, nhỏ bạn cùng lớp thời cấp ba, nhưng tôi không quen, nên cũng ngại. Vài ngày sau, Xuân Hoa từ Dallas gọi lên, rủ rê bằng những lời “mật ngọt” khiến tôi khó chối từ. Lâu nay, ở nhà sống kiếp chim lồng, không nghe nhạc thì đọc sách, không xem ti vi thì tản bộ loanh quanh hoài cũng chán, phải đi xa một chuyến, hít thở không khí trong lành cho thân thể khỏe khoắn, tâm hồn thăng hoa. Thế là quyết định trong tíc tắc: ĐI.
Chiếc xe 12 chỗ ngồi vừa đủ ấm áp tình thân: anh chị Hoàng –Dung, anh chị Long –Hoa, anh chị Trâm –Thu, anh chị Thạch –XHoa, và 4 người “độc thân tại chỗ” là Phương Nga, Phước Khánh, tôi và người em trai út của Phương Nga. Cậu này tên Mỹ nên trông giống… người xứ Cờ Hoa thiệt, ngoại hình cao lớn điển trai, nội hình dễ thương thuần hậu, sẵn sàng làm tài xế đưa các bạn của bà chị đi chơi, đồng thời còn hứa hẹn thực hiện những pô ảnh tuyệt vời, vì Mỹ là một tay phó nhòm lão luyện.
Điểm đến đầu tiên là ngôi chùa Ấn Độ, được xây trên một khoảng đất rộng bao la ngay giữa lòng Houston –thành phố có rất nhiều người Việt. Vậy mà bước vô đây, chỉ thấy toàn người Ấn, Các bà rực rỡ khăn áo lụa là, nói cười ríu rít, các ông cũng mặc quốc phục chỉnh tề, còn có đám trẻ con chạy tung tăng khiến chúng tôi có cảm giác như đang lạc vào đất nước của miền Nam Á. Trời hôm nay đầy gió, mây xám chùng thấp, nên không thấy rõ màu sắc của những lá cờ tung bay trên những nóc đền nguy nga xây bằng đá trắng. Chúng tôi chụp vài tấm hình trong khuôn viên chùa trước khi bỏ giày dép, lên những bậc thang, thành kính bước vào thăm nơi thờ phượng. Không gian yên tĩnh, trang nghiêm với bàn ghế, bệ thờ, trần nhà, tường vách… làm bằng đá cẩm thạch trắng tươi, mượt mà, chạm trổ công phu hình hoa bướm, mặt người, các thiên thần, vũ nữ... quí và đáng nể ở chỗ là hoàn toàn thủ công, được chuyên chở từ Ấn Độ qua.
Tin hành lang cho biết, vì gặp sự cố ngoài ý muốn nên tiến độ xây chùa bị chậm lại. Đó là thời tiết Houston quá nóng nên màu trắng của đá bị xỉn vàng. Để cứu vãn, chỉ còn cách là xây kiếng bao quanh những kiệt tác mỹ thuật đó mà thôi. Công việc chưa hoàn thành, nên không có người hướng dẫn và thuyết minh, nhưng chúng tôi vẫn được tự do nhìn ngắm công trình vĩ đại của các nghệ nhân tài ba của một đất nước xa xôi ngàn dặm. Chùa có yêu cầu không chụp ảnh, mọi người đành nuối tiếc ra về.
Có ai đó nói vui: “Thăm Ấn Độ rồi, bây giờ chúng ta qua Hồng Kông mua sắm đi.” Khoảng cách địa lý Ấn Độ –Hồng Kông, phi cơ bay còn mỏi cánh, sao đây gần quá… hi hi hi, xe chạy một lát, đã thấy hàng ngói xanh của những mái đình cổ kính trước ngôi chợ Tàu, mang tên Hồng Kông 4, lớn nhất trong tập thể các chợ HK ở Houston. Đại sảnh rộng lớn, chưng bày hai chiếc xích lô mới coóng, những cây lá phương đông như mai, lan, cúc, trúc… bên ông Thần Tài bưng khối vàng bự chảng, tươi cười nhìn khách vãng lai. Chúng tôi chỉ đủ thời gian đưa anh chị Hoàng ghé thăm nhà lồng chợ, rảo qua các khu bán đồ lưu niệm, những kệ tạp hóa, gian hàng trái cây, thực phẩm đông lạnh, rau củ, thịt cá tươi… đúng là “qua loa như cưỡi ngựa xem hoa”, vì chương trình vui chơi đang còn nhiều, được “trưởng đoàn” ghi chép cẩn thận, dài như lá sớ Táo quân.
Phương Nga là trưởng đoàn, kiêm thủ quỹ, kiêm hoạt náo viên, kiêm … Cô nàng nhiều chức vụ quá nên được tặng nhiều biệt danh độc đáo. Thạch gọi Nga là “chủ tịt”, Long thì khen Nga “có chức” (cấm đọc lái)… Bị chọc ghẹo nhưng Nga vẫn tỉnh bơ như con gà mái mơ, tiếp tục phát huy quyền năng của mình. Biết anh chị Hoàng thích ca hát, Nga hủy bỏ chuyến đi Galveston, đưa mọi người đến nhà PK trổ tài ca sĩ . Mưu sự tại nhân, nhưng thành sự không tại thiên, mà tại… cục xương trong tô bún giò điểm tâm sáng. Nên thay vì đi thăm dàn Karaoke tối tân, phái đoàn đến ngồi đồng ở Nha Khoa hết một buổi chiều. “Sóng gió” rồi cũng qua, chương trình tiếp tục với bữa ăn tối tại nhà hàng Sài Gòn Pagolac với bò nhúng dấm, cá nướng mỡ hành… rất đông vui, vì có thêm gia đình của người em gái út của PN.
Mọi người dậy sớm, hành lý sẵn sàng, bắt đầu cuộc viễn du. Mặt trời chưa lên, thời tiết mát lạnh. Xe đi qua những con đường vắng vẻ, những hàng cây bàng bạc sương mù. Nhớ bài hát vang bóng một thời… Đoàn người đi lúc đêm còn bóng tối, bước chân lạnh lùng dưới sương trời mai, bao cánh hoa còn say giấc đêm dài, thấy chúng ta đi hé môi tươi cười… (Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng của Phạm Đình Chương). Ghé đón anh chị Long –Hoa, trời còn tối, khóm hoa trước hiên nhà nhè nhẹ tỏa hương trong không gian tĩnh lặng. Anh Thạch bước xuống xe, đi dạo một vòng. Trở về, anh hoan hỷ nói với mọi người: “Hoa bưởi nhà ai thơm quá.” Lại nhớ câu thơ ngày xưa mẹ hay hát ru: “Bông lài bông lý bông ngâu, không bằng bông bưởi thơm lâu dịu dàng.”
Trời sáng dần. Bắt đầu một ngày mới. Những dòng xe tỏa ra muôn hướng đưa người lớn đi làm, trẻ con đến lớp, sinh viên vào trường Đại học… thấp thoáng ánh đèn pha. Một ngày bận rộn cho tương lai tuổi trẻ và rảnh rỗi cho hồi ức tuổi già. Mọi người tựa lưng vào nệm, thảnh thơi ngắm nhìn cảnh vật hai bên đường theo nhịp xe chạy êm ru. Ánh nắng đầu tiên xuyên qua kẽ lá, thả xuống mặt đường những đốm sáng lung linh. Thảm cỏ biếc xanh trải dài ngút mắt. Vài cánh chim ríu rít chuyền cành, bay lượn trên những cụm hoa dại tím, vàng… còn đẫm ướt sương mai, vẽ lên một bức tranh hiền hòa, sinh động.
Ghé một tiệm nhỏ uống cà phê và ăn nhẹ, xe tiếp tục hướng về tiểu bang Louisiana. Đường khá dài, khoảng tám tiếng, nhưng không ai cảm thấy sốt ruột vì mỗi khoảnh khắc thời gian là những câu chuyện vui, những đối đáp “lượm liền” của các thành viên trong nhóm. Trưởng đoàn PN nhanh tay lẹ miệng, lý luận sắc sảo nên lúc nào cũng giữ thế thượng phong, nhưng thỉnh thoảng cũng bị kê tủ đứng, trở cờ không kịp. Mỗi lần đuối lý, PN gọi đối phương là Cóc cho bõ ghét: “Lâu lâu Cóc mới mở miệng bà con ơi.” Bà con đứng về phe Cóc hết, cậu ông Trời mà.
Thỉnh thoảng, xe dừng ở trạm xăng hoặc siêu thị nhỏ, cho bà con xuống thư giãn và làm “công tác thủy lợi”, khi đến nơi thì trời đã xế trưa. Nhận phòng khách sạn, cất hành lý xong, PK gọi điện cho cô bạn tên Yến hiện ở Louisiana đã lâu, nhờ làm hướng dẫn viên giới thiệu những nơi ăn uống và vui chơi. Yến hẹn gặp phái đoàn tại Casino, trung tâm New Orleans lúc 5 giờ chiều. New Orleans –thành phố nhiều nhà cao tầng, hàng quán khang trang, đường sá sạch sẽ, thẳng tắp dành cho người đi bộ. Trận bão Katrina vào năm 2005 đã tàn phá tiểu bang này rất dữ dội, thành phố ngập lụt, nhiều người thiệt mạng, những người sống sót phải sơ tán qua bang Texas… nhưng bây giờ, tất cả đã lùi về quá khứ, không còn một dư âm, hình ảnh nào của trận bão còn lưu lại, ngoài một vài tòa nhà hư hỏng chưa kịp trùng tu.
Trời cao xanh, mây trắng trôi nhè nhẹ. Thời tiết khô nóng, mọi người cởi hết áo len dự phòng. Nắng chiều gay gắt đổ xuống mái tóc, bờ vai theo bước chân đi của những du khách trẻ trung xinh đẹp. Chúng tôi đến điểm hẹn sớm, nên rủ nhau vào Casino thử thời vận xem sao. Đúng là nơi ăn chơi, người đông như hội, đủ mọi sắc dân. Từ những thanh thiếu niên tóc vàng mắt xanh to như ông hộ pháp, cho đến các bậc trung niên, ông già bà lão tuổi hạc sắp về trời cũng say sưa điều khiển máy đánh bài, đèn chớp tắt lia lịa. Đợi một lúc mới có chỗ trống. PN ngồi vào máy, nhét 2$ vào, gõ vài cái rồi đứng dậy. Tôi hỏi: “Sao không đánh tiếp?.” “Thôi, thua chừng nớ được rồi, ra ngoài coi nhỏ bạn PK tới chưa?” “Ừ, nhờ nó giới thiệu chỗ nào ăn ngon ngon một chút.” Yến đã đến nhưng kết quả hơi thất vọng. 40 năm gặp lại trong phút chốc, PK đành nói lời chia tay vì Yến không giúp được gì và cũng từ chối nhập bọn, dù cô cũng là dân Phan Châu Trinh chính hiệu.
Ôi ta buồn ta đi lang thang biết về đâu!!! Thôi rủ nhau đi bộ cho giãn gân cốt, ngắm nghía phố phường, tiện thể xem có nhà hàng nào để dừng chân, giải thoát nỗi dục giã của “tâm hồn ăn uống”. Cuối cùng, anh chị Long –Hoa giới thiệu một quán ăn Mỹ đông đúc. Sau khi chờ đợi sắp bàn hơn một tiếng đồng hồ, chúng tôi được thưởng thức một bữa hải sản đáng đồng tiền bát gạo. Đúng là bụt chùa nhà không thiêng!
Mặt trời chìm khuất sau những nóc nhà cao. Hơi nóng tan biến nhường chỗ cho thời tiết mát mẻ dễ chịu, rồi lạnh dần. Chúng tôi lại mặc áo len vào, tiếp tục rảo bộ theo đám du khách. Toàn là các bạn trẻ, tung tăng nắm tay nhau trong y phục mùa hè: quần ngắn áo mỏng, phô cả tấm lưng trần. Nhìn kỹ thật kỹ, mới “ngộ” ra là không có một người già nào trên đường phố. Chỉ có đám bô lão PCT chúng tôi còn ham vui đi theo dòng người hiếu động tràn xuống lòng đường, nơi sinh hoạt của những nghệ sĩ chơi nhạc Jazz, nào kèn, nào trống, nào đàn đủ loại… cùng tấu lên những bài nhạc sôi nổi, vang rền một góc phố.
Người đông nghịt, chen chúc hai bên đường và đừng chật kín các balcon. Từ trên cao, các cô cậu choi choi cười nói ồn ào, những xâu chuỗi hột trắng xanh vàng đỏ… được tung lên và rơi xuống. Một vài cánh tay đưa ra chộp lấy, tung hứng, nhảy múa theo điệu đàn trống, rồi vứt bừa ra đất, đứt tung tóe. Cả một núi “ngọc ngà châu báu” tràn lan dưới gót chân, chúng tôi cúi nhặt ít xâu đem về làm kỷ niệm để rồi bỏ lại hết trong khách sạn vì hành lý không còn chỗ chứa.
Tiếp tục đi loanh quanh cho đời mỏi mệt thêm, chúng tôi dạo qua các cửa hàng đèn thắp sáng choang, ghé vào một khoảng sân trưng bày các pho tượng nhạc sĩ da màu rất đẹp. Đứng bên các ông, chúng tôi tha hồ tạo dáng, máy ảnh trên tay Mỹ chớp liên tục. Trời về khuya, chấm dứt một ngày vui vẻ. Ấn tượng lớn nhất là gian hàng bán đồ lưu niệm, có một… xác chết đội mồ sống lại, đứng ngay cửa ra vào chào đón du khách. Thân hình xác chết lắc lư, cà giựt thấy ghê, áo quần thì te tua xơ mướp, kết dính mớ lông gà đủ mầu, tóc lưa thưa, má hóp, mũi gãy, mắt lòi tròng, hàm răng dài sọc đang nhe ra nụ cười kinh dị. Hãi quá. Vậy mà Mỹ và anh Hoàng cũng chụp chung với “con ma” vài pô hình kỷ niệm.
Lên xe, anh Thạch dọa: “Tối nay, con ma đó sẽ về khách sạn thăm mấy bà đó, nhớ đón tiếp nghe.” Sau một ngày ngồi xe và đi bộ, đêm đầu tiên ở khách sạn, đội kéo gỗ làm việc quá hăng say… ầm… ầm… hi hi hi… động đất mười độ richter! Tôi nghĩ, giá con ma đó tìm đến cũng sứt đầu mẻ trán, bỏ chạy có cờ cho mà xem!
Buổi sáng đi thăm Oak Alley Plantation, một đồn điền lịch sử nằm ven sông Mississippi. Xe đi qua những ngọn đồi thấp, cỏ non tươi mịn màng, trải ra tận chân trời xanh biếc. Khu du lịch rất rộng, mát rượi dù trời đang nắng gắt, bởi hai bên đường dẫn vào đồn điền có rất nhiều cây Sồi cao hàng trăm mét, được trồng từ thế kỷ 18, nên bây giờ cành lá sum suê, tỏa bóng mát êm đềm. Đẹp và thơ mộng nhất là hai dãy Sồi giao nhau, thẳng tắp trước cổng chính ngôi biệt thự như hình ảnh hàng cây trong bài hát Mưa Hồng của TCS… em đi về cầu mưa ướt áo, đường phượng bay mù không lối vào, hàng cây lá xanh gần với nhau…
Nơi đây không có phượng, nhưng có rất nhiều hoa Đỗ Quyên. Còn một loài hoa đặc trưng khác của Louisiana, giống như cái bàn chải dùng để chùi bình sữa, màu đỏ tươi, đẹp nhưng đành mang một cái tên xấu xí: hoa Chùi Chai (?). Vé vào cửa không rẻ. Chúng tôi xếp hàng theo từng nhóm, lần lượt đi thăm ngôi biệt thự chính của chủ nhân gồm phòng khách, phòng làm việc, phòng đọc sách, đặc biệt là phòng ngủ, có nôi em bé, có khay thức ăn điểm tâm để trên giường giống y như thật… sau đó là thăm trạm y tế, nhà bếp, phòng người hầu, nơi ăn ở của những kẻ nô lệ… Trong cuộc nội chiến Mỹ, đồn điền bị hư hại và được bán đấu giá nhiều lần. Josephine Stewart là chủ nhân cuối cùng. Sau đó, bà rời khỏi khu Oak Alley Plantation, để cho quỹ bảo tồn khôi phục lại ngôi nhà chính, biến nơi đây thành điểm tham quan, mời gọi du khách.
Buổi chiều, theo chương trình, mọi người ra thăm Dòng Sông Đi Bộ (Riverwalk), với quảng trường thênh thang lộng gió, những con đường dọc theo các cửa hàng thời trang, phố chợ, quán ăn… chúng ta có thể dạo chơi, mua sắm, hay ngồi nhâm nhi cà phê, thả hồn theo những đợt sóng trên sông nhuộm ánh nắng chiều. Pho tượng Chàng Hề tô son điểm phấn đứng trước phòng dịch vụ, mời gọi du khách mua vé lên tàu dạo chơi. Thật là thú vị, nhưng chúng tôi không có thời gian, đành đứng trên bờ nhìn theo những chiếc tàu xuôi ngược, vẫy tay chào mừng. Những người trên tàu cũng đáp lại, rất nhiệt tình.
Tìm được một quán ăn Thái Lan, ăn đồ Mỹ hoài cũng ớn, giờ thấy cơm, mừng hơn bắt được vàng. Nhiều món ăn lạ, không nhớ tên gì, nhưng rất ngon. Xe chở phái đoàn đi qua những con đường rất hẹp. Đây là khu nhà ở, nhiều cây xanh cùng những biệt thự xinh xinh kiến trúc theo kiểu Pháp thật dễ thương, san sát bên nhau trong một không gian thật yên bình.
Thành phố đất chật người đông, rất khó tìm ra chỗ đậu xe. Nhưng đối với Mỹ, chỉ là chuyện nhỏ. Bất cứ nơi đâu, Mỹ xử lý thật dễ dàng và hợp lý, giúp các anh chị lúc nào cũng thấy thoải mái, an tâm. Nơi đậu xe khá gần quảng trường Jackson, trước nhà thờ lớn, rất tiện cho chúng tôi dạo qua những điểm trưng bày tranh của các họa sĩ lề đường, đủ loại: phong cảnh, chân dung, tĩnh vật… quan sát những chiếc xe ngựa nối đuôi nhau, sẵn sàng chở các bạn chạy vòng quanh thành phố. Đặc biệt là quán cà phê Du Monde, mở cửa suốt ngày đêm, khách xếp hàng dài cả cây số. Trước khi trở về khách sạn nghỉ ngơi, chúng tôi đã vào quán, thưởng thức tách cà phê, ăn bánh tiêu rắc đường bột (beignet) và mua vài món đồ kỷ niệm.
Ngày thứ ba ở Louisiana, chúng tôi trở lại quảng trường Jackson, viếng các tượng đài trong khuôn viên nhà thờ lớn Saint Louis. Các bạn có Đạo vào sảnh đường dự lễ, chỉ còn anh chị Thạch –Hoa, P.Nga và tôi đi chơi loanh quanh và chụp hình. Lần này, anh Thạch làm phó nhòm cho ba lão bà bà tha hồ làm duyên. Nghệ sĩ đường phố xuất hiện khá nhiều, chơi đàn và hát. Đặc biệt, chúng tôi được dịp đi shopping thoải mái tại khu chợ trời Pháp (French Market) cách đó không xa. Đúng là chợ trời! hàng hóa tràn đầy, thượng vàng hạ cám. Nhiều nhất là mặt nạ, khăn quàng đủ màu dành cho lễ hội hóa trang Mardi Gras thường tổ chức vào đầu năm. Chúng tôi chọn mua vài thứ như áo quần, tượng Phước Lộc Thọ, móc chìa khóa, logo gắn trên tủ lạnh… Mỹ đề nghị đi thăm làng Việt Nam ở phía đông New Orleans. Ý kiến hay. Càng hay hơn nữa là tại đây, chúng tôi tìm được quán Ba Miền với một bữa ăn trưa ngon miệng: Canh chua tôm, cá kho tộ, đậu hũ chiên… và tráng miệng bằng những trái dừa tươi… Nhớ ông nhạc sĩ nào đó đã ví “nước dừa” là “nước mắt quê hương” thấy không ổn tí nào!
Về tới Houston, trời đã tối. Ghé tiệm Cơm Gà, đã thấy Vũ Văn Long ngồi chờ, đúng hẹn. Long vẫn còn đi làm nên không thể tham gia chuyến đi này được, ai cũng tiếc, giá có cặp Long –Loan, chắc sẽ vui hơn. Tắm gội, giặt giũ, sắp xếp áo quần đẹp… chuẩn bị cho ngày mai trực chỉ về San Antonio và Dallas, lòng ai cũng háo hức, khó ngủ. Lần đi này, không cần dậy sớm. Ăn sáng, uống cà phê xong, Mỹ mới đến đón mọi người. Trời đẹp. Hoa nở khắp nơi. Chị Dung say sưa chụp ảnh, còn anh Hoàng mời mọi người thưởng thức giọng hát của anh. Bây giờ bạn bè mới biết, thời sinh viên, anh đã từng hát trên đài phát thanh. Anh hát rồi chị hát trong CD mang tên Hát Cho Nhau Nghe tràn đầy kỷ niệm và hạnh phúc của đôi vợ chồng nghệ sĩ... Tình duyên đôi ta sẽ hòa, sẽ hòa như muôn tiếng hát với cung đàn…
Đường không xa. Chúng tôi đến San Antonio vào xế trưa, vẫn chưa đói, nên mọi người muốn đến thăm điểm du lịch có hang động thạch nhũ (Naturel Bridge Caverns). Nhìn từ xa đã thấy nhiều khối đá kết nối thành đồi cao, vực sâu và cây cối, dây leo chằng chịt vây quanh tạo nên một cảnh quang kỳ thú. Được biết, đường vào thạch động trơn ướt quanh co nên vài người không dám đi, sợ té, trong số đó có tôi. Chờ mọi người trở lại, chúng tôi gọi thức ăn nhanh, rồi thẳng đường đến khu tưởng niệm danh tiếng –di tích lịch sử Alamo, nơi chứng kiến cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Mễ Tây Cơ, với phần thắng nghiêng về Mỹ. Chúng tôi chụp hình bên các tượng đài trong công viên, rồi vào nhà bảo tàng xem mô hình trận đánh cùng các vũ khí chiến tranh được bảo quản trong những tủ kiếng đặt giữa phòng và sát vách tường.
Rời Alamo, chúng tôi đã trải qua một buổi chiều đáng nhớ với bữa ăn ngon bên dòng sông thơ mộng, có ban nhạc sống phục vụ những bài dân ca Mễ rất hay. Nhìn chiếc mũ rộng vành, nghe giọng hát mạnh mẽ, tôi nhớ đến Cao Thái, chàng ca sĩ nổi tiếng với bài “Mexico” trên các sân khấu Đại nhạc hội miền Nam thời chúng tôi còn nhỏ.
Sau đó, phái đoàn lên ca nô, đi dọc theo bờ sông, ngang qua các nhà hàng, khách sạn… đèn hoa tưng bừng. Đặc biệt trên mặt nước, xuất hiện từng đôi uyên ương bơi lội, đồng hành cùng chúng tôi, những chiếc đầu tròn nghiêng nghiêng, sắc lông xanh thẳm lấp lánh trong ánh nắng cuối ngày.
Khách sạn ở San Antonio hơn hẳn Louisiana. Một giấc ngủ ngon đem lại sảng khoái cho mọi người. Chúng tôi dậy sớm, dùng điểm tâm xong, thu xếp hành lý và trả phòng.
Trước khi về Dallas, chúng tôi ghé thăm khu nhà thờ cổ (Mission San Francisco de la Espada) khá nổi tiếng. Vẫn biết thành phố Austin không có trong chương trình, nhưng thể theo lời yêu cầu của đa số, Mỹ bằng lòng lái xe ngang qua Austin để mọi người được dịp nhìn ngắm thủ phủ của bang Texas, cổ kính và… buồn. Trên đường về Dallas, chúng tôi ghé trung tâm mua sắm Tanger Outlets San Marcos và ăn trưa. Căn tin ở đây có đủ các món ăn trên thế giới: Tàu, Tây, Mỹ… tha hồ chọn lựa. Mua sắm đầy đủ, ăn uống no nê, chúng tôi lên xe chuyện trò rôm rã và ca hát suốt đường đi. Vui nhất là nhạc chế, bao kỷ niệm tràn về với những bài hát đổi lời dí dỏm không ai quên được, từ Gạo Trắng Trăng Thanh… Ai đang đi trên cầu Bông, rớt xuống sông ướt cái quần nylon… đến Dứt Đường Tơ…Tóc em dài sao em không uốn, uốn bao nhiêu anh trả tiền cho…Hoàng hôn buông xuống những dãy nhà phía xa, không nhớ bạn nào đã đọc mấy câu thơ bất hủ của bà HTQ… Bước tới đèo Ngang bóng xế tà, cỏ cây chen đá lá chen hoa, lom khom dưới núi tiều vài chú, lác đác bên sông rợ mấy nhà… Ghé dùng bữa tại quán Phở Bằng, không chỉ có phở thôi, mà còn rất nhiều món khác như chả giò, nem nướng… Anh chị Trâm –Thu, PN, PK và tôi đến ở nhà anh chị Thạch –Hoa, các bạn khác đến khách sạn tạm nghỉ vì không đủ phòng. Hết một ngày vui.
Tôi dậy sớm ra vườn xem hoa nở. Nhiều loài hoa lạ rất đẹp nhưng không biết tên gì. Chợt nhớ đến giàn Ti gôn trên cổng nhà Thạch –Hoa đã tàn úa tự bao giờ, thật tiếc. Vì một sự cố không tính trước, buổi ăn sáng biến thành bữa trưa. Bánh mì, trứng ốp la và cá hộp… Xuân Hoa thao tác nhanh nhẹn trên bếp, trong khi anh Thạch pha cà phê mời các bạn. Hạnh phúc của đôi vợ chồng hiếu khách này bắt đầu bằng một cuộc tình rất đẹp… Em tan trường về, mưa bay mờ mờ, anh trao vội vàng chùm hoa mới nở, ép vào cuốn vở, muôn thuở còn thương còn thương… trải qua bao thăng trầm, đến bây giờ con cháu đầy đàn, vẫn không hề đổi thay.
Đi thăm nhà lưu niệm, nơi tổng thống Kennedy bị nạn. Bước vào, đã thấy tấm hình hai ông bà tươi cười trên chiếc xe định mệnh được phóng lớn, cạnh đó là phòng bán đồ lưu niệm gồm tranh, ảnh và những cuốn sách nói về vụ ám sát vang dội thế kỷ. Một tủ kiếng trưng bày rất nhiều đồ trang sức của bà Jacqueline Kennedy: bông tai, vòng ngọc, chuỗi kim cương, nhẫn vàng… sáng chói, mới tinh khôi, tôi nghĩ, đó chỉ là bản sao mà thôi. Lên tầng trên phải mua vé. Nơi đây triển lãm nhiều hình ảnh và chiếu những đoạn phim về những tháng ngày êm ả của Tổng thống và gia đình, hoạt động chính trị, sự nghiệp lẫy lừng của một dòng họ bất hạnh.
Tôi đã đến Dallas nhiều lần, nhưng chưa được dịp ra thăm công viên Pioneer (Pioneer Park Dallas Texas). Thật lạ lùng khi thấy cả một đàn bò từ triền đồi xa tràn xuống, băng qua khe suối, tiến thẳng về phía chúng tôi. Dẫn đầu là người chăn bò oai phong trên lưng ngựa, đầu đội mũ rơm, chân nhấn bàn đạp, một tay đưa ra sau, tay kia ghì chặt dây cương trong tư thế chỉ huy. Cả vật và người được đúc bằng đồng đen, quá đẹp và sống động khiến tôi liên tưởng đến những bộ phim cao bồi miền Viễn Tây một thời gây bom tấn tại các rạp ciné miền Nam thuở xa xưa.
Giã từ công viên, chúng tôi ghé chùa Đạo Quang thăm hai người bạn PCT đang nương thân cửa Phật. Đó là Sư Long và Tỳ Kheo Tịnh Đức. Thầy TĐ rất yêu văn nghệ, trước khi tạm biệt, thầy hát tặng chúng tôi bài Hận Đồ Bàn. Thật cảm động. Ăn tối ở quán Sài Gòn Block. Về nhà Thạch –Hoa tán gẫu, nói chuyện trên trời dưới đất trong khi Đỗ Thu và hai bạn mang tên Hoa đi siêu thị mua hàng giảm giá.
Trước khi rời Dallas, chúng tôi được thưởng thức tài nghệ của chủ nhà qua món Bún Cá quê hương Đà Nẵng. Tuyệt vời. Khen Xuân Hoa nấu ngon chẳng khác gì khen phò mã tốt áo, chỉ cảm nhận ở đây tấm chân tình của Hoa đã thức rất khuya và dậy thật sớm để hoàn thành buổi điểm tâm đáng nhớ này. Các ông bà U70 tiếp tục ca hát trên đường trở về Houston… Đoàn người tưng bừng về trong cơn gió, hồn như đám mây trắng lửng lơ, giang hồ không bờ không bến đẹp như kiếp Bô hê miên…
Nhớ đến bài thơ tếu lan truyền trên mạng: 
… 60 chưa phải là già
60 là tuổi mới qua dậy thì
65 hết tuổi thiếu nhi
70 là tuổi mới đi vào đời
75 là tuổi ăn chơi
80 là tuổi yêu người yêu hoa…
Vậy là chúng mình vẫn còn trẻ chán, phải không các bạn của tôi???
Buổi chiều, ghé Tân Tân ăn món Tàu, và tối hôm đó, một bữa tiệc thịnh soạn Crawfish - món đặc sản Houston, được tổ chức tại nhà Phương Nga. Đêm cuối cùng quây quần bên nhau, những người có thể trước đó không hề quen biết, thì giờ này vẫn cảm thấy gần gũi thân thương, bởi chúng ta từng có chung một miền ký ức hoa niên nơi thành phố biển, cùng bao kỷ niệm buồn vui thời áo trắng học trò, dưới mái trường mang tên nhà chí sĩ Phan Châu Trinh… Hồ Tây phương Nam còn in bóng, lời ai dư âm vẳng qua rừng, cùng phá xích xiềng giành lấy nhân quyền, gương người VN toàn dân ghi nhớ… là học sinh Phan Châu Trinh ta quyết tiến bước theo chân người… Quyến luyến chia tay, tặng quà lưu niệm, trao đổi địa chỉ email… Ngày vui qua mau. Hẹn gặp lại.
24/4/2015
Thùy An
Theo http://www.art2all.net/



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm nhận ngàn đêm

Cảm nhận ngàn đêm MỘT Dân gian nói, hoàng hôn là lúc người dương và người âm có thể gặp nhau. Trong bộ phim nổi tiếng “Bao giờ cho đến Thá...