Đừng làm đau nàng Mỵ Châu thêm nữa!
Không biết đã bao lần, mỗi khi quốc gia hữu sự, những người
nông nổi lại đưa nàng Mỵ Châu ra làm bung xung để trút vào đó nỗi hận của
mình. Trước đây là Tố Hữu:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm vực sâu!
Hôm nay là ông Chinh Văn:
một nghìn năm đô hộ
nay đổi "tám chữ vàng"
chẳng hận thằng Trọng Thủy
chỉ trách nàng Mỵ Châu
(tráo trở)
Những dòng chữ như thế không chỉ thể hiện tri thức lịch sử
lệch lạc mà còn phản ánh óc thẩm văn thô thiển của người viết. Một nỗi nhục của
người Việt vì không hiểu nổi lịch sử và văn hóa của mình!
Qua bài viết này, tôi muốn rằng, những ai còn nghĩ như vậy
xin học lại lịch sử và đừng làm oan, làm đau thêm nàng Mỵ Châu tội nghiệp!
I. Thục Phán là ai?
Trước hết, cần nhìn lại lịch sử.
Tuy đặt ra “Kỷ nhà Thục” nhưng về nhân thân của Thục Phán,
sách Toàn thư chỉ ghi vắn tắt: “Họ Thục, tên húy là Phán, người Ba Thục, ở
ngôi 50 năm, đóng đô ở Phong Khê (nay là thành Cổ Loa).” Do không hiểu được
những dòng chữ quá cô đọng này, sách Việt sử thông giám cương mục viết: “Nước
Thục từ năm thứ 5 đời Thận Tĩnh vương nhà Chu (316 TCN) đã bị nước
Tần diệt rồi, làm gì còn vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang còn có đất
Kiện Vi (nay thuộc Vân Nam), đất Dạ Lang, Cùng, Túc, Nhiễm Mang… cách nhau
hàng hai ba ngàn dặm, có lẽ nào Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh
Văn Lang?... Hoặc giả ngoài cõi Tây Bắc giáp với nước Văn Lang còn có họ Thục
khác, mà sử cũ (Toàn thư) nhận là Thục vương chăng (ĐVSKTT, tập 1, trang 179.
NXB Văn hóa thông tin-2000).
Mối nghi ngờ của Cương mục đã gợi cho một vài người đưa ra
ý tưởng cho rằng họ Thục là thủ lĩnh của nhóm Âu Việt hay Tây Âu vùng Cao Bằng.
Một vài người khác phủ định nguồn gốc Ba Thục rồi dựa vào địa danh trong truyền
thuyết để cho rằng họ Thục là chủ của vùng Yên Bái-Đào Thịnh: “Trước đây có
nhận định cho rằng, Thục Phán là người của nước Ba Thục - một quốc gia cổ đại
của Trung Hoa thuộc vùng Tứ Xuyên (Trung Quốc). Tuy nhiên, với khoảng cách
quá xa như vậy, Thục Phán không thể nào cất quân xa đến 500 - 700km hiểm trở
để đánh nhau với Hùng Vương ở tận Phú Thọ. Vì vậy, nguồn gốc Ba Thục của Thục
Phán bị loại trừ.”
“Những năm 70 của thế kỷ XX, có ý kiến cho rằng, Thục Phán
quê ở Cao Bằng, vì trong truyền thuyết "Chín chúa tranh vua" lưu
hành ở đây, nói Thục Phán xuất phát từ Cao Bằng cất quân đánh Hùng Vương.
Nhưng các địa danh được nhắc đến trong truyền thuyết đều là những địa danh
thuộc vùng Yên Bái - Nghĩa Lộ, nơi mà cách đây hơn nửa thế kỷ, giới khảo cổ học
phát hiện nhiều di vật văn hóa đồng thau nổi tiếng. Tiêu biểu là thạp đồng ở
Đào Thịnh, mà thạp đồng như là hiện vật tượng trưng cho những thế lực hùng mạnh
nhất lúc bấy giờ.” “Các địa danh ở Cổ Loa là những bản sao của địa danh ở Yên
Bái, đó là việc Thục Phán và cư dân Âu Lạc đã từ Yên Bái về Cổ Loa định cư,
mang theo về đây địa danh từ quê hương phát tích của An Dương Vương và Âu Lạc.”
Tuy nhiên, An Dương Vương là sự kiện lớn, nếu không gắn nó
với lịch sử chung của khu vực mà chỉ bó hẹp trong những truyền thuyết mang
tính địa phương sẽ thiếu đi cái nhìn toàn cục. Phải nhìn Thục Phán - An Dương
Vương trong bối cảnh dân cư, văn hóa chính trị chung của vùng.
Nay ta có những cứ liệu chắc chắn rằng, khoảng 40.000 năm
trước, người Việt cổ gồm bốn chủng là Indonesian, Melanesian, Vedoid và
Negretoid từ Việt Nam di cư lên khai phá Trung Hoa. Hành lang Tây Bắc Việt
Nam à Vân Nam à Tứ Xuyên là con đường huyết mạch đưa văn
hóa Hòa Bình lên phía Bắc. Khoảng 2600 năm TCN, đồng thời với nước của Đế Lai
ở lưu vực Hoàng Hà, Xích Quỷ của Lạc Long Quân ở lưu vực Dương Tử là nước Thục
ở phía Tây. Sách Toàn thư nói rõ chuyện này. Đến nay, nhờ các dữ liệu di truyền
học, ta biết chắc rằng, cư dân các quốc gia, các vùng đất trên đều là người
Việt. Do môi trường sống thuận lợi, lại tiếp thu sớm văn hóa Hòa Bình, vùng
Ba Thục trở thành một trong những trung tâm kinh tế văn hóa hàng đầu của các
tộc Việt trên đất Trung Quốc. Khảo cổ học phát hiện những công cụ đồng thau sớm
chỉ sau Phùng Nguyên và rất tinh xảo cùng với những thành quách. Nước Thục có
thể mất một phần lãnh thổ vào thời Thương, Chu nhưng vẫn độc lập, không thần
phục nhà Chu. Đến thời Tần, nước Thục bị diệt. Giáo sư Nguyễn Đăng Thục trong
bài Bốn nghìn năm văn hiến (2) viết:
- Theo “Hoa dương quốc chí” q.3, Thục chí: “Vua Vũ nhà
Chu đánh vua Trụ cùng với nước Thục. Đất Thục phía đông liền với nước Ba,
phía Nam giáp với nước Việt, phía bắc phân giới với nước Tần, phía Tây gồm
núi Ngọ và núi Phồn, đất ấy xưng là Thiên Phủ”. Nước Thục giao thông với bên
ngoài rất phát đạt. Sự giao thông ấy lấy Điền (Vân Nam) và đất Kiềm làm
chủ yếu, mà sự mở mang đất Vân Nam lại hướng vào nước Thục làm trọng
tâm để buôn bán mậu dịch. Vân Nam với Bắc Việt liền tiếp với nhau, từ thời cổ
xưa hai miền giao thông rất thịnh, cho nên thời cổ sự giao thông giữa Tứ
Xuyên với Bắc Việt chắc hẳn là tấp nập. Bấy giờ miền hạ lưu sông Trường Giang
chưa có ảnh hưởng khai hóa của Hán tộc, mãi đến thời Chiến quốc (dân mà người
Hán gọi là man di phía Tây trong vùng Tứ Xuyên – Bắc Việt, và “Tây nam di ở
Điền, Kiềm (Vân Nam, Quý Châu ngày nay), nước Tần, nước Sở đang đua tranh vũ
lực để thôn tính, kết quả là vua nước Sở Trang Kiêu làm vua Điền (Vân Nam).
Nước Tần chiếm lấy nước Ba, nước Thục, nước Kiềm tức Quý Châu.”
Theo Hoa dương quốc chí q.1, Ba chí viết: “Chu Thuận (Thuyến)
làm vua 5 năm (316 tr.cn) vua nước Thục đánh chúa Tư, chúa Tư chạy vào nước
Ba, nước Ba xin nước Tàu cứu. Vua Tần Huệ Văn sai Trương Nghi, Tư Mã Thác đi
cứu nước Tư, Ba, bèn đánh nước Thục mà diệt đi.”
“Hoa dương quốc chí” q.3 mục Thục chí viết: Chu Thuận Tĩnh
làm vua 5 năm, quan đại phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô uý Mặc
cùng theo đường Thạch Ngưu đánh nước Thục. Vua nước Thục từ đất Hạ Manh chống
cự, thất bại, vua chạy trốn đến đất Vũ Dương bị quân Tần giết hại. Tướng, Phó
cùng Thái tử rút lui về Bàng Hương, chết ở dưới núi Bạch Lộc, họ Khai Minh mới
hết, làm vua nước Thục 22 đời.”
Lã Sĩ Bằng trong “Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam” suy diễn
sử kiện trên đây như sau: “Xét về việc vua Thục bị ở đất Vũ Dương, ngày nay
là Bái Sơn vị trí ở phía nam Thành đô, tên bờ sông Manh khoảng giữa đến như
Bàng hương núi Bạch Lộc ngày nay ở đâu thì không thể tìm xét, chỉ nên hiểu là
ở phía nam núi Bành, thế nhân vì quân Tần từ phía bắc xuống miền Nam, tập
đoàn người Thục chống đối quân Tần bị thua mà hướng phương Nam để thoát lui vậy.
Từ đấy về sau 59 năm có lịch sử đích thực là vua Thục Phán làm vua Việt.
Chúng ta có thể suy định rằng vua Thục bị bại ở Vũ Dương, quan Tướng, Phó,
Thái tử đều chết ở núi Bạch Lộc, sau đấy đảng vua Thục còn lại mới suy tôn
con hay cháu nhà vua lên tiếp tục chạy về phương Nam, theo hạ lưu sông Manh
tiến vào khu đất tiếp giáp giữa Qúy Châu và Vân Nam thuộc phạm vi thế lực người
Sở… Nhưng khu đất giao tiếp giữa Quý Châu (Kiềm) và Vân Nam (Điền)
thời Hán là Trường Kha là đất thuỷ lão nghèo nàn. Thục vốn là nước Thiên phủ,
người Thục khó ở lâu tại đất ấy được, và thế lực quân Tần đang rất mạnh, dòng
dõi vua Thục hết hy vọng khôi phục lại đất cũ mới tìm phát triển về phương
Nam tiến vào đất bình nguyên Bắc Việt, khí hậu ôn hòa, nông sản phì nhiêu,
cùng với Hùng Vương tranh chiến, nhiều phen thất bại đến đời Chu Bảo Vương
năm 518 (tr.cn 257) mới chinh phục được Văn Lang.”
“Từ Chu Thuận
Tĩnh làm vua 5 năm (316 tr. Tây nguyên) nước Thục mất về nước Tần, cho đến
Chu Báo làm vua 58 năm (257 tr. Tây nguyên) An Dương Vương là Thục Phán xưng
vua ở Việt nam, thời gian cách nhau là 59 năm. Trong khoảng thời gian ấy, người
dân nước Thục chịu sự áp bách của thế lực quân sự nhà Tần, tập đoàn chống đối
quân Tần dần dần đi xuống phương Nam đi vào bắc bộ Việt nam, cùng với vua
Hùng Vương nuớc Văn lang đánh nhau tranh dành. Lúc đầu vì thế lực còn yếu,
luôn luôn bị thua, mãi sau mới chinh phục được Văn lang. Và việc An Dương
Vương từ nước Thục đi vào nước Việt, thì sách sử xưa của Tầu và Việt đều
không ghi chép lịch trình tiến triển, nhưng cuộc chiến tranh giữa nước Tần và
nước Thục có thể tìm thấy dấu vết ở cuộc thiên di về phương Nam của tập đoàn
vương thất nước Thục chống đối với nhà Tần.” “Sự hiện diện của Bách bộc do Thục
An Dương Vương với tập đoàn nhà Thục từ Tứ xuyên đi xuống qua Qúy Châu và Vân
nam phía Tây Bắc việt ngày nay mà di tích là kiểu thành Cổ loa vốn của nước
Ba thục.” (2)
Từ các tư liệu lịch sử ghi lại, ta biết, Thục là nhà nước độc lập với Văn
Lang. Khối dân của cha con Thục Phán là ngoại bang nhưng đồng tộc với
người Việt của Hùng Vương. Điều này phù hợp với sử sách và truyền thuyết nói
họ là nhóm Âu Việt. Nhóm Âu Việt này sống ở Tây Bắc khoảng nửa thế kỷ. Những
xung đột dài dài với Hùng Vương còn được ghi nhận trong truyền thuyết. Vì vậy,
ta có thể đoán là nhóm người Thục không gây nên căng thẳng sắc tộc với người
địa phương mà nhờ sự khôn khéo của mình, họ đã thu phục được dân địa phương,
tạo sức mạnh quân sự cho mình đồng thời gây ảnh hưởng chính trị, tinh thần tới
khối dân Việt của Hùng Vương. Điều này giải thích vì sao, cuộc xâm lăng chiếm
đoạt ngôi vị của Thục Phán diễn ra khá êm xuôi, không để lại vết hằn trong lịch
sử.
Như vậy là, trong khoảng nửa thế kỷ, từ khi nước Thục bị diệt,
hậu duệ nhà Thục trốn nạn diệt vong, xuống phương Nam, theo con đường Bắc tiến
của tổ tiên xưa và con đường thương mại truyền thống. Năm bảy trăm cây số
không phải là quãng cách mà đội quan quân nhỏ không thể vượt qua để tìm đường
sống. Tôi đoán rằng, vua Hùng chẳng thú vị gì chuyện một binh đội quan quân của
nước khác đến ở nhờ. Có điều, không dễ đuổi một đội quân đã cùng đường. Và cuộc
chiến giữa hai bên là không thể tránh. Ta cũng biết, để chiến thắng Hùng Duệ
Vương, nhà Thục phải mất hai đời, từ Thục Chế (cha) tới con là Thục Phán mới
hoàn thành.
Ký ức dân gian ghi nhận nhiều sự kiện về cuộc chiến giữa
vua Hùng và giặc Thục tại vùng Vĩnh Yên, Phúc Yên, địa bàn của bộ Văn Lang
xưa. Đó là truyện Hùng Lộc đại vương bị chặt đứt đầu, đã lấy vải buộc cổ lại
để tiếp tục chiến đấu. Khi giặc rút thì ngã xuống chết, mối đùn lên thành đống,
dân lập đền thờ. Truyện Đinh Công Tuấn đánh nhau với quân Thục Phán, tới thế
cùng, nhảy xuống sông tự vẫn. Hiện ở vùng này còn ngôi miếu thờ vợ chồng thầy
giáo hy sinh trong việc chống lại quân Thục.
Từ sự kiện lịch sử có thực đó, ta có thể đặt câu hỏi: vì
sao người Lạc Việt dễ dàng chấp nhận cuộc xâm lăng của ngoại bang, xóa bỏ triều
đại Hùng Vương kéo dài hàng nghìn năm, gắn bó với họ sâu nặng trong nhiều
truyền thuyết tạo rường cột của văn hóa Lạc Việt? Theo thiển ý, có thể là, do
trị vì quá lâu, dòng Hùng Vương suy đồi, không đáp ứng nổi những đòi hỏi của
cuộc sống. Trước những biến chuyển mới của thời đại, cần phương cách lãnh đạo
mới. Thục Phán có lẽ là người đáp ứng được đòi hỏi này. Vì vậy, khi cuộc xâm
lăng xảy ra, sức chống trả của người Lạc Việt không thật dữ dội. Và sau khi nắm
quyền, với tài năng của mình, ông khéo léo lãnh đạo dân chúng Việt qua các lạc
hầu lạc tướng, tạo sức mạnh trong việc dời đô về Cổ Loa và chuẩn bị chống
quân Tần.
II. Triệu Đà là ai?
1. Những quan niệm truyền thống
Từ khi giành lại quyền tự chủ, các triều đại Việt đều đề
cao vai trò lịch sử của Triệu Ðà. Nhà Trần phong ông là Khai thiên thế đạo
thánh vũ thần triết hoàng đế. Ðại Việt sử ký toàn thư ghi: "Họ
Triệu nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại nhà Tần, chiếm giữ đất Lĩnh
Nam xưng đế, đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới mất,
cũng là bậc vua anh hùng". Sử gia Lê Văn Hưu viết: "Thế mới biết,
người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức
mà thôi. Triệu Vũ đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang
với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương
cho nước ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy". Trong An Nam chí lược, Lê
Tắc ghi: "Triệu Ðà làm vua Nam Việt, mới lấy thi lễ giáo
hóa nhân dân một ít". Ðiều này chứng tỏ Triệu Ðà là người mang sự học
đến nước ta từ trước chứ không phải Sĩ Nhiếp. Ðến nhà Lê, trong Bình
Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: “Trải Triệu, Ðinh, Lý, Trần nối đời
dựng nước.” Như vậy, Nguyễn Trãi thừa nhận Triệu Ðà là ông vua đầu tiên
của nước ta từ thời có sử. Cuối thời
Nguyễn, trong Việt Nam sử lược, học giả Trần Trọng Kim vẫn chép nhà Triệu là chính thống.
Người đầu tiên đánh giá lại vai trò của nhà Triệu là Ngô Thì Sĩ, cuối đời Hậu Lê.
Trong Việt sử tiêu án, ông khẳng định nước Nam Việt là
ngoại bang, Triệu Đà là kẻ ngoại tộc:
“Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt Giao Chỉ,
Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi phát ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên
Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ
để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta. Nếu coi là đã làm vua nước Việt,
mà đến ở cai trị nước ta, thì sau đó có Lâm Sĩ Hoằng khởi ở đất Bàn Dương,
Hưu Nghiễm khởi ở Quảng Châu, đều xưng là Nam Việt Vương, cũng cho theo Quốc
kỷ được ư? Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như Ngụy kiêm tính nước Thục, nếu
sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện, thì quốc sử ta cũng có thể
đưa Triệu tiếp theo An Dương. Không thế, thì xin theo lệ ngoại thuộc để phân
biệt với nội thuộc vậy.” Và ông kết luận: “Nước ta bị nội
thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ họa chả Triệu Đà thì
còn ai nữa? Huống chi Triệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên
số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục
Giả thôi. Đến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, tán tụng Triệu
Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên theo cách
chép hẹp hòi ấy, không biết thay đổi, đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung,
thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc
thánh đế của nước ta. Qua hàng nghìn năm mà không ai cải chính lại vì thế mà
tôi phải biện bạch kỹ càng.”
Học giả Đào
Duy Anh, trong cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam, cũng phê phán sử cũ và
coi nhà Triệu là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc. Đào Duy Anh là học giả lớn, là người
khai sinh nền lịch sử macxit ở Việt Nam. Học trò của ông trở thành những
cán bộ rường cột của sử học hiện đại nên ảnh hưởng của ông rất lớn. Ý kiến của
ông thành quan điểm chính thống hiện nay.
2. Quan niệm của chúng tôi
Là lớp người sinh cùng Cách mạng tháng Tám, ngay sau hòa
bình 1954 được học Sử Việt Nam với nhà Triệu giữ vai trò mở đầu lịch sử dân tộc.
Sau này thấy sách giáo khoa thay đổi, coi Triệu Đà là kẻ xâm lược, thậm chí,
Nguyễn Trãi bị sửa chữa: “Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước” được
thay bằng “Trải Đinh, Lê, Lý, Trần…” chúng tôi không khỏi bức xúc. Chính nỗi
bức xúc này buộc chúng tôi tự tìm câu trả lời cho thắc mắc của mình.
a. Dựa trên tài liệu truyền thống
Trong Sử ký, Tư Mã Thiên viết: "Vua Nam Việt
họ Triệu tên là Ðà, người huyện Chân Ðịnh, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần
đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải
và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã
mười ba năm. Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Ðà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm,
Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ vương. Ðà bèn tự tôn làm
"Nam Việt Vũ đế", đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường
Sa. Ðà nhân đó dùng uy lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước
Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc mình. Ðất đai của Ðà chiều ngang có
hơn vạn đặm, Ðà bèn đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là
"chế", chẳng kém gì Trung Quốc". "Ðến thời Hiếu Cảnh, Ðà
vẫn xưng thần, sai người vào chầu. Nhưng trong nước Nam Việt thì vẫn trộm
xưng danh hiệu "đế" như cũ; còn khi sai sứ sang thiên tử thì xưng
"vương", triều kiến thỉnh mệnh như các chư hầu".
Như vậy, cuốn sử quan trọng nhất của Trung Quốc vẽ lên nhà
Triệu lừng lững một cõi biên thùy, là quốc gia độc lập, ngang ngửa với nhà
Hán. Triệu Ðà làm vua 70 năm (từ 207 đến 137 TCN), tiếp đó cháu chắt ông truyền
4 đời trị vì 27 năm nữa, đến năm 111 TCN nước Nam Việt vào tay nhà Hán. Nhà
Triệu kéo dài được 97 năm. Nói: “Nước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán
đến Đường, truy nguyên thủ họa chả Triệu Đà thì còn ai nữa?” là sự áp đặt,
gán ghép vô căn cứ. Trong bối cảnh lịch sử lúc đó, một nước nhỏ
như Âu Lạc khó mà trụ được trước sức tấn công của nhà Hán mạnh. Nếu không có
Nam Việt của Triệu Đà, Âu Lạc bị xâm lăng sớm hơn là điều chắc chắn.
Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Ðôn ghi: "Ðem số hộ
khẩu chép ở sách Hán chí mà so thì nước ta được ba quận Giao Chỉ, Cửu
Chân, Nhật Nam, hơn 20 huyện, đời Hán số hộ cộng là 143.743 nhà, số khẩu cộng
là 981.827 người. Thông tính cả hai tỉnh ấy (Quảng Ðông, Quảng Tây) ở đời Hán
số hộ chỉ là 71.805 nhà, khẩu chỉ là 389.672 người. Như thế nước ta ở đời Hán
thì số hộ gấp đôi mà số khẩu gần gấp ba". Như vậy, tuy xưng vương ở
Phiên Ngung nhưng số dân của Triệu ít. Trong khi đó ở phía Nam, nước Âu Lạc của
An Dương vương khá mạnh, số dân gần gấp 3 số dân của Triệu. Bên cạnh Âu Lạc
còn có các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc luôn tranh chấp. Nước Âu Lạc tuy lớn nhất
trong khu vực nhưng cũng quá nhỏ so với nhà nước phương Bắc. Nếu nhà Tần
không sụp đổ đúng thời điểm đó, có nhiều khả năng tằm ăn dâu, sẽ thôn tính đất
Nam Việt. Một khả năng khác: trong cuộc chinh phạt Nam Việt trị tội Triệu Ðà
xưng đế, nếu tướng Lâm Lư hầu thắng, nhà Hán chiếm Nam Việt ngay lúc đó, có
phần chắc Nam Việt cũng bị đồng hóa như các dòng Bách Việt khác. Khả năng thứ
ba: nếu Triệu Ðà theo nhà Hán, sau khi thôn tính Âu Lạc, sáp nhập Nam Việt
vào Hán thì có phần chắc là Nam Việt bị xóa sổ trên bản đồ!
Ðúng là Triệu Ðà dùng thủ đoạn chiếm nước Âu Lạc nhưng ý
nghĩa của sự kiện lịch sử này cần phải bàn. Thời đó, sự liên kết trong mỗi quốc
gia còn lỏng lẻo và biên giới từng quốc gia chưa ổn định, đang trong xu hướng
sáp nhập tập trung thành những quốc gia đủ mạnh để tồn tại. Việc thôn tính
các nước Yên, Hàn, Tề, Triệu... để thành nước Tần không phải hành động xâm lược
mà là thống nhất các tiểu quốc của nước Chu cũ. Tương tự vậy, việc
Triệu Ðà chiếm Âu Lạc cũng không thể coi là xâm lược mà là hành động thống nhất
những nhóm, những tiểu quốc người Việt lại thành một nước Việt lớn hơn, ngăn
chặn hành động thôn tính của kẻ mạnh ở phương Bắc. Ðiều quan trọng là họ Triệu
đã duy trì được nước Nam Việt thống nhất trong một thế kỷ, vừa xây dựng trong
hòa bình vừa kiên cường chống ngoại xâm. Chính điều này đã tạo nên và củng cố
tinh thần quốc gia của người Việt. Ðây là di sản quý báu nhất họ Triệu để
lại cho người Việt. Chính gần một thế kỷ tồn tại của quốc gia Nam Việt
giúp cho người Âu Lạc không bị người Hán đồng hóa và sau này có dịp lại vùng
lên trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Năm 43, khi hai Bà Trưng dựng cờ khởi
nghĩa, nhân dân Nam Việt cũ từ miền Trung, miền Bắc Việt Nam đến vùng Lưỡng
Quảng sang tận Hải Nam đều hưởng ứng... Sau này, khi qua khảo sát ở vùng đất
phía Nam Trung Quốc, bác sĩ Trần Ðại Sĩ thống kê được hơn 200 địa điểm có đền
thờ hai Bà Trưng. Không thể có việc này nếu không có thời kỳ Nam Việt.
Các sử gia như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên... đã nhìn nhận công
bằng và Nguyễn Trãi đánh giá họ Triệu một cách chuẩn mực. Sử gia Ngô Thì Sĩ tỏ
ra bất cập khi viết: "Triệu Ðà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết
biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của
Lục Giả”. So với một quốc gia còn trong tình trạng sơ khai với những lạc hầu,
lạc tướng cai quản từng bộ lạc thì một quốc gia có quận huyện, biên số thổ địa
là bước nhảy vọt về tổ chức hành chính, về khoa học quản lý xã hội. Còn nói
"thu thuế má cung cấp ngọc bích cho nhà Hán" cũng không đúng. Suốt
70 năm Triệu Ðà làm vua, quan hệ Việt, Hán khá lỏng lẻo. Biết Triệu xưng đế
mà nhà Hán đành chịu, không những thế còn phải lấy lòng bằng cách giữ gìn mồ
mả tổ tiên của Triệu, cho thân nhân ông làm quan. Trong mối quan hệ như vậy,
cống phẩm của Triệu Ðà chỉ có nghĩa tượng trưng để xác nhận sự thần phục trên
danh nghĩa nên không thể “làm đầy túi tham của Lục Giả”. Lục Giả không bằng cấp,
chức vị nên thường gọi là Lục sinh, là người hiền, có câu nói nổi tiếng:
“Thiên tử dĩ dân vi thiên, dân dĩ thực vi thiên.” Một kẻ sĩ như thế không thể
là người tham lam! Rõ ràng, chứng lý đưa ra để kết tội Triệu Ðà là không thuyết
phục. Nhưng vì sao Ngô Thì Sĩ lại có cái nhìn việc thiếu chuẩn mực như vậy? Chỉ
có thể là, với tinh thần dân tộc hẹp hòi, cùng với hiểu biết lịch sử hạn chế,
ông không chịu một người Hán làm vua nước Việt! Trong lịch sử thế giới, một
người nước này làm vua nước khác không hiếm. Ngay bên chúng ta, cuối thế kỷ
XVIII, Trịnh Quốc Anh, con một người nhà Minh tỵ nạn sang nước
Xiêm, lãnh đạo người Xiêm đánh đuổi quân xâm lược Miến Điện, được tôn làm
vua. Họ Trịnh (Taksin) sau thành họ lớn của người Thái. Người Thái không bao
giờ nghi ngờ vai trò chính thống của dòng họ này!
b. Dựa vào tư liệu lịch sử mới
Cho đến nay, khi thảo luận về giai đoạn mở đầu của dân tộc
Việt, các sử gia chỉ có những tài liệu trong cổ thư Trung Hoa, sách của một số
học giả Pháp thời thuộc địa cùng những tư liệu khảo cổ, cố nhân chủng học
chưa đầy đủ. Một nghịch lý mang tính duy tâm chủ quan và không thiếu khôi hài
là trong khi phán xét những “hành động lịch sử” của tộc người hay một nhân vật
nào đó mà người ta chưa hiểu họ là ai, được hình thành như thế nào?! Rất mừng
là, sang thế kỷ này, với công trình di truyền học lập bản đồ gen người, khoa
học nhân loại cho chúng ta những tư liệu để có cái nhìn thấu đáo hơn đối với
lịch sử Đông Á.
Dựa trên truyền thuyết Lạc Long Quân, đựa trên sự phân bố
trống đồng ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc, dựa vào xác định gen dân cư Văn
Lang, ta có cơ sở để tin rằng, trước cuộc xâm lăng của Thục Phán, Văn Lang của
các Vua Hùng là quốc gia rộng lớn, biên giới phía tây giáp Ba Thục, với nhiều
chủng tộc, trong đó người Mongoloid phương Nam đa số. Khi Thục Phán chiếm
ngôi Vua Hùng, nước Văn Lang tan rã. Ở phía nam Dương Tử, các bộ lạc trở nên
tự trị đưới quyền các thủ lĩnh khu vực, có một số nơi các thủ lĩnh xưng
vương, thành lập quốc gia riêng.
Tần Thủy Hoàng chiếm vùng Kinh, Dương của Văn Lang cũ và
đưa dân tới ở xen với người Việt. Trong đội quân của nhà Tần, có Triệu Đà.
Triệu Đà người Chân Định nước Triệu. Nhưng như trình bày trên, nước Triệu
nguyên là dân cư Bách Việt, bị nhà Tần chiếm ít năm trước. Là quan chức nhà Tần
nhưng Triệu Đà là người Việt chính gốc, nếu nói theo ngôn ngữ hôm nay thì ông
là “người Tần gốc Việt”. Vì vậy, khi nhà Tần không còn, mặc nhiên ông trở lại
làm dân Việt tự do. Việc ông làm vua của người Nam Việt là hoàn toàn chính thống.
Khi viết: “Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là đất Việt
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam,” “Triệu Đà kiêm tính Giao Châu, cũng như
Ngụy kiêm tính nước Thục, nếu sử nước Thục có thể đưa Ngụy tiếp theo Lưu Thiện,
thì quốc sử ta cũng có thể đưa Triệu tiếp theo An Dương,” Ngô Thì Sĩ tỏ
ra bất cập. Ông bỏ qua tính lịch đại của địa danh. Những địa danh trên do nhà
Tần đặt. Tuy chưa từng chiếm được Âu Lạc nhưng nhà Tần cũng chia nước ta
thành những quận huyện. Ở đây, sử gia cuối triều Lê quá nệ vào tư liệu Trung
Hoa nên sai lầm khi phủ nhận Nam Hải, Quế Lâm là đất Việt. Trước khi bị xâm
lăng chia thành quận huyện thì đó thuộc Văn Lang của Vua Hùng, hoàn toàn do
người Việt cư trú và quản trị. Vì vậy, khi sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt, Triệu
Đà khôi phục nước cũ của các Vua Hùng. Sử gia này cũng tỏ ra khập khiễng khi
so sánh việc Ngụy chiếm Thục với Triệu Đà sáp nhập Ấu Lạc. Suốt trong lịch sử
dài, Thục là quốc gia độc lập với nhà Chu, nhà Tần. Vì vậy việc nhà Ngụy thôn
tính Thục là xâm lăng. Trong khi đó Âu Lạc và Nam Việt là những bộ phận của một
quốc gia thống nhất. Do hoàn cảnh lịch sử bị chia cắt, nay xóa bỏ cát cứ,
khôi phục quốc gia cũ sao lại gọi là xâm lăng?
c. Dựa trên lịch sử so sánh
Một quan niệm về lịch sử muốn khoa học và thuyết phục, trước
hết phải đạt được sự nhất quán. Một câu hỏi đặt ra cho các nhà sử học Việt Nam:
Nếu Triệu Đà là xâm lược thì việc Thục Phán chiếm ngôi của vua Hùng là gì?
Trên tất cả mọi ý nghĩa, đây hoàn toàn là cuộc xâm lăng! Tại sao
trong sử Việt không có dòng nào nói về sự thật này?! Trong khi đó, suy xét tới
cùng về Triệu Đà, ta thấy ông là người gốc Việt, diệt An Dương vương là
triều đại ngoại bang xâm lăng tiếm đoạt ngôi vị để thống nhất lãnh
thổ Việt, xây dựng quốc gia tự chủ gần 100 năm thì lại bị coi là xâm lược?
Chính sự mâu thuẫn, bất nhất này cho thấy có chuyện chưa ổn của ngành sử khi
đánh giá nhà Triệu.
III. Trở về với lịch sử đích thực
Từ phân tích trên, ta thấy, về bản chất thì việc Thục Phán
cướp ngôi vua Hùng là hành động xâm lăng. Triệu Đà đánh An Dương vương là cuộc
chiến giải phóng đất nước. Điều chung của hai sự kiện này là, sự
chuyển giao quyền lực diễn ra chủ yếu tại triều đình một cách khá ôn hòa,
không có chuyện một đội quan quân lớn ngoại bang tới đánh chiếm rồi đặt ách
đô hộ. Vì vậy, không có những cuộc đàn áp giết tróc. Những thủ lãnh địa
phương được tái dụng, dân mau chóng an cư lạc nghiệp và cũng mau chóng chấp
nhận chính quyền mới. Ở đây, tình máu mủ đồng bào đã chiến thắng!
Cách nhận thức lịch sử như vậy phù hợp với đoạn kết của
truyện Mỵ Châu - Trọng Thủy: “Những con trai ăn phải máu nàng Mỵ Châu đã
sinh ngọc. Ngọc từ những con trai đó khi đem rửa trong nước giếng chàng Trọng
Thủy trẫm mình sẽ trở nên tuyệt vời trong sáng.” Thông điệp của câu chuyện
là: Đôi trai gái đã dâng tình yêu cùng sinh mạng của mình góp phần đưa lại
thái bình thịnh vượng cho dân cho nước. Họ hoàn toàn trong sáng!
Đáng tiếc là có những người đã xuyên tạc lịch sử rồi dùng
quyền lực áp đặt lịch sử bị xuyên tạc khiến lịch sử đích thực bị
vùi lấp! Càng đáng tiếc là cũng không ít người vì thiếu độc lập suy nghĩ nên
không hiểu bản thông điệp rất minh triết trong phần kết câu chuyện! Họ không
bao giờ tự hỏi: “Nếu Mị Châu là kẻ “phản bội” thì tại sao loài trai ăn phải
dòng máu xấu xa ấy lại sinh ngọc?! Và ngọc nếu có, khi đem rửa vào nước giếng
tên “gián điệp” trầm mình sao lại trở nên tuyệt với trong sáng? Sao từ sự xấu
xa tận cùng lại nảy sinh tận cùng cái đẹp?!
Huyền thoại được sinh ra từ lịch sử. Bằng giải mã huyền thoại,
con người đã minh định nhiều sự kiện lịch sử bị khuất lấp. Tại sao người ta
không chịu hiểu thông điệp tuyệt vời minh triết của tổ tiên để từ đó tìm ra sự
thật lịch sử?!
Do không hiểu lịch sử và văn hóa Việt nên mấy vị tiên, thứ
chỉ làng Cổ Loa lập miếu thờ hòn đá vô tri, trưng ra trước bàn dân thiên hạ
cái cảnh bi thảm thiếu nhân tính của câu chuyện, bêu riếu nàng Mỵ Châu cùng
Nhật Nguyệt. Viết những câu thơ trên, ông Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam, xếp sòng của ngành Tuyên huấn không chỉ thể hiện tri thức lịch sử hẹp
hòi mà còn chứng tỏ lập trường bạn thù lệch lạc (Lê Nin đang nghĩ suy gì/
Kremlin in bóng thành trì lặng im và Cờ bay Vạn lý trường thành/ Bắc
Kinh tay chị tay anh triệu vòng!) Chẳng những thế, do không hiểu nổi
minh triết Việt trong câu chuyện, nhà thơ đã giáng cho nàng Mỵ Châu tội nghiệp
nỗi oan như núi! Ông Chinh Văn quả đáng trách, cái đáng trách của kẻ thiếu tư
duy độc lập, “ăn theo”, nên đã cho ra những câu văn vần yếu kém cả về nội
dung lẫn nghệ thuật!
“Hỡi con người mà tôi yêu mến, hãy cảnh giác!” Lời của J.
Fuxic dưới giá treo cổ luôn luôn là tiếng chuông cảnh tỉnh con người. Với số
phận người dân Việt phải sống bên miệng hùm nanh sói thì cảnh giác là sự sống
còn. Nhưng cảnh giác một cách minh triết hoàn toàn khác với sự vô minh xuyên
tạc lịch sử và bôi bẩn hình tượng văn chương đẹp nhất của tộc Việt! Khi sai lầm
này chưa được sửa thì đấy vẫn là nỗi nhục của chúng ta!.
Sài Gòn, tháng Năm 2010
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét