Cảm nghĩ qua bài hát “Tiếng đàn Ta Lư”
Trong một buổi xem ti-vi, tôi thấy một diễn viên hài của một đoàn cải
lương nào đó ở Sài Gòn đang cố trổ tài “cương” trong một lớp diễn để cù khán giả.
Bỗng anh ta cất cái giọng nghèn nghẹt rất ư là Pê đê, hát lên một đoạn trong
bài hát “Tiếng đàn Talư”. Mọi người cười thích thú. Tôi cũng hay cười, nhưng
chưa kịp cười, vì giai điệu của bài hát mới, đã cũ làm tôi mãi nghĩ đến chuyện
khác.
Những địa danh Tà Cơn, Khe Sanh, Gio An, đồi Động Tri nhắc cho tôi
nhớ rằng, bài hát này ra đời trên quê hương Quảng Trị, của nhạc sĩ Huy Thục viết
cách đây đã 30 năm.
Thời gian qua nhanh quá! Giai điệu sôi nổi, tươi vui của bài hát được
nghe lại hôm nay, dù với tính chất hài hước của giọng ca, nhưng tôi vẫn cảm thấy
tươi mới. Tưởng chừng đâu đây thôi, âm vang rộn rã ấy vọng ra từ làn sóng đài
TNVN, trong đêm diễn phục vụ chiến trường của các đoàn văn công, các đội tuyên
truyền xung kích, hay các đội văn nghệ cơ sở của tỉnh nhà trong những mùa hội
diễn. Một thời là bài hát cửa miệng của mọi người… Cây đàn Ta Lư mà trước đây ít
người biết đến, cũng hình ảnh cô gái dân tộc Vân Kiều của núi rừng Quảng Trị bỗng
chốc, qua bài hát, mà trở trành biểu tượng đẹp, thân yêu trong cả nước.
Nhạc sĩ Huy Thục sáng tác bài hát “Tiếng đàn Ta lư” vào năm 1968,
lúc anh đang chiến đấu, công tác ở mặt trận phía tây Quảng Trị, cùng lúc với
các bài hát khác của anh cũng được rất nhiều người biết đến như: “Ơi dòng suối
La La”, “Chiến thắng Làng Vây” và sau này là “Đêm Quảng Trị” phổ thơ Vũ Ngàn
Chi (1973). Nhưng “Tiếng đàn Ta Lư” có một sức sống riêng. Đặc biệt, sau ngày
giải phóng (1975) nó càng được bay xa. Công chúng yêu âm nhạc ở vùng mới giải
phóng từng một thời hát tình ca buồn và nhạc trẻ, đã đón nhận nó với sự nhiệt
tình, nồng hậu.
“Đi chiến trường gùi trên vai nặng trĩu. Đàn Ta Lư em cất tiếng ca
vang cùng núi rừng, mừng thắng trận quê em”…
Sở dĩ bài hát được phổ cập một cách rộng rãi như thế vì nó phù hợp
với tâm tư, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của quần chúng trong một giai đoạn, một
hoàn cảnh nhất định. Tác giả đã thực sự lăn lộn với thực tế, biết chắt lọc,
khai thác đề tài trong hiện thực ngồn ngộn của cuộc sống chiến đấu của quần
chúng, thể hiện nó dưới một hình thức đơn giản, dễ hiểu, kết hợp được yếu tố
dân gian và hiện đại trong ngôn ngữ âm nhạc. Phải thừa nhận rằng sáng tác một
ca khúc mang âm hưởng dân ca của một vùng, trong thời điểm năm 1968, mà thành
công như bài “Tiếng đàn Ta Lư” không phải lúc nào và ai cũng có thể làm được.
Bài hát được sử dụng nhạc ngữ dân tộc: giai điệu hình thành trên
thang âm ngũ cung. Màu sắc dân ca dân tộc miền núi Trị-Thiên được nhấn mạnh bằng
các quảng hai trưởng, phù hợp với thanh điệu giọng nói “lơ lớ” không dấu của
người Vân Kiều: “Gùi trên vai nặng trĩu”…”Đồn Tà Cơn hôm nào bốc cháy”.
Ngoài ra còn cố ý “gia” thêm chất liệu Tây Nguyên một cách hợp lý với yếu tố nửa
cung đặc trưng trong đường nét giai điệu…
Cấu trúc hình thức bài hát không lệ thuộc các thể thức âm nhạc bác
học Tây phương, mà được bố cục theo các giai đoạn của nội dung, tình cảm. Song
nhìn chung vẫn hình thành hai đoạn nhạc chính. Đoạn I gồm 2 vế nhạc cân đối.
Giai điệu nhẹ nhàng, tha thiết nhưng vui tươi, lạc quan như tiếng ca và tiếng
đàn Ta Lư của cô gái Vân Kiều trên đường đi phục vụ chiến trường. Gùi trĩu nặng
trên vai mà lòng phơi phới hân hoan hát ca mừng tin thắng trận của quê nhà. Đoạn
II cũng gồm 2 vế nhưng được mở rộng gấp đôi bằng các thủ pháp mô phỏng phát triển,
đảo ảnh âm hình…Tính chất âm nhạc sôi động và náo nức hơn, như niềm vui trào
dâng trước thắng lợi dồn dập của quân giải phóng.
“Tính, tính…tính, tang tang tình…Bộ đội giải phóng quân ơi! Anh thắng
trận miền tây Khe Sanh, đồn Tà Cơn hôm nào bốc cháy, đồi Đồng Tri xác Mỹ chất đầy.
Kia trông”… “Các anh đánh hay hung!”.
Sau nét nhạc dạo, là một vế nhạc ngắn, cân đối, rất thiết tha, trải
ra và lan xa giữa núi đồi bao la: “Đàn em reo ca, ôi đàn Ta Lư”…làm cân bằng
tốc độ tình cảm dồn dập của đoạn II.
Sự thống nhất về motif, biểu hiện bằng sự quán xuyến các nhóm âm
hình trong thủ pháp phát triển nhịp nhàng, sôi động đem lại cho bài hát một màu
sắc trẻ trung, hiện đại. Yếu tố nhất quán tiết tấu đó, tạo ra trong toàn bộ
giai điệu dáng dấp của các tiết điệu Fox, Disco… gần với ngôn ngữ âm nhạc
Estrade.
Có thể, trên đây là một trong nhiều nguyên nhân, khiến cho bài hát
“Tiếng đàn Ta Lư” vượt địa giới, đến với mọi miền đất nước bằng sức sống khá dẻo
dai. Hơn hẳn một số bài hát khác, cùng thời của anh cũng đã sáng tác trên quê
hương Quảng Trị. Mặc dù, bài “Ơi dòng suối La La” cũng là một bài hát tốt. Ở một
khía cạnh nào đó, còn trội hơn “Tiếng đàn Ta Lư”. Tuy vậy, sức bền của nó trong
lòng công chúng mới là thước đo về nghệ thuật. Chúng ta phải thấy rằng, “Tiếng
đàn Ta Lư”, hay tất cả các bài hát khác trước đây, tác giả viết ra nhằm phục vụ
cho một giai đoạn cách mạng của đất nước – một chiến dịch, một phong trào. Mục
đích cao nhất bây giờ, là động viên tinh thần hăng hái chiến đấu sản xuất của
quần chúng, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bởi
thế, dù là một bài thơ, một bài hát đều mang một lợi ích riêng, một tác dụng,
giá trị riêng. Do đó, nó chỉ có sức sống riêng trong thời kỳ của nó. “Tiếng đàn
Ta Lư” hơn hẳn các bài hát cùng thời của Huy Thục ở điểm đó. Nó đã sống lâu hơn
“Đêm Quảng Trị”, “Chiến thắng Làng Vây”…
Giờ đây, tất cả đều đã đi qua! Lịch sử đã sang trang, thời đại đã đổi
mới! Âm vang một thời hào hùng lắng sâu vào truyền thống, làm dày thêm truyền
thống của quê hương, dân tộc. “Tiếng đàn Ta Lư” cùng vô số “bạn bè” nó, của một
thời văn hóa đã đi vào quên lãng, trong một ý nghĩa nào đó! Như bà mẹ đã dần
nguôi ngoai niềm thương đau về những đứa con mà bây giờ, chỉ còn lại mộ bia nơi
nghĩa trang liệt sĩ, bốn mùa lá hát, chim ca…
Tình cờ, nghe lại bài hát. Những địa danh quen thuộc của quê nhà lại
vang lên, trong lòng tôi bộn bề những cảm xúc. “Tiếng đàn Ta Lư” ghi lại rất rõ
nét một giai đoạn lịch sử cụ thể, thể hiện lên tình yêu khát vọng của nhân dân
Quảng Trị trong sự nghiệp giải phóng quê hương đất nước. “Tiếng đàn Ta Lư” có
thể sẽ không tồn tại trong sinh hoạt âm nhạc đương đại, cũng chỉ là một quy luật
tất yếu. Tổ quốc đã vĩnh viễn Độc lập - Tự do. Việt Nam đang hòa vào thế giới,
vươn đến đỉnh cao của văn minh, tiến bộ. Cuộc đời đã đổi khác. Những diễn biến
trong sâu thẳm tâm hồn của con người cũng khác, phong phú và phức tạp hơn! Nghệ
thuật trở lại với bản chất của nó, tiếp nhận thêm yếu tố khác - yếu tố cá thể
được thực hiện sứ mệnh của nó đối với con người, cuộc đời. Hẳn vì thế mà nhạc
sĩ Huy Thục, người đã trải qua hai cuộc kháng chiến, trên đầu đã hai màu tóc,
mà giờ đây, lại phải ngẩn ngơ “Đứng trên cầu đợi em” (*).
(*) Lời một bài hát của nhạc sĩ Huy Thục sáng tác sau này.
Huế -1998
Vĩnh Phúc
Nguồn: Tạp chí Cửa Việt số năm 1999
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét