Đã lâu lắm rồi, từ khi cưới nhau đến giờ ngót nghét cũng đã bốn
mươi năm nhưng hai vợ chồng chưa từng đi xa. Hôm nay A Phù chuẩn bị đưa Chàng
Hai đi Sài Gòn chữa bịnh, Không biết bịnh tình thế nào mà cái bụng mỗi ngày mỗi
trương lên và gây đau nhức, đã biết bao nhiêu loại lá cây và các thứ rễ, củ
nhưng cái bụng cứ to dần lên không thuyên giảm. A Phù cũng đã mời mấy thầy phù
thủy cao tay ấn đến xem bịnh, ông này bảo do ma nhập, ông kia bảo quỷ đè, ông nọ
bảo do Chàng Hai trước kia làm nhiều điều ác đức nên giờ bị quả báo, mà A Phù
biết từ khi ưng Chàng Hai đến giờ A Phù có thấy Chàng Hai làm gì ác đâu. Thế rồi
phải giết gà, giết lợn để cúng tế, rồi rượu thịt rồi quà cáp cho các thầy, rồi
mời cả làng đến ăn uống no nê nhưng bịnh vẫn là bịnh. Chứng bịnh quái ác cứ
ngày mỗi tăng dần không thuyên giảm, mà số tiền dành dụm hơn nửa cuộc đời đã
cao chạy xa bay, gà lợn cũng hết, lúa gạo trong nhà cũng sạch sành sanh, chỉ
còn lại nỗi buồn khóc khô nước mắt.
Cách đây mấy ngày trên đường ra thăm rẫy A Phù có gặp một cán bộ xã,
nghe hoàn cảnh của A Phù ông chủ tịch xã cấp cho cái giấy giới thiệu và khuyên
A Phù nên đưa chồng vào thành phố Hồ chí Minh để chạy chữa, nghe lời ông, A Phù
chạy về nhà, cái gì bán được thì bán, A Phù bán sạch sành sanh, ngó quất ngó
quanh không còn gì để bán mà số tiền chỉ mới đủ một cuốc tàu xe, đánh liều A
Phù chạy đi vay mượn hàng xóm và bà con cật ruột nhưng ai cũng nghèo, ai cũng
còn trăm thứ phải lo mà mùa màng thì chưa tới ngày thu hoạch. Đau đớn phần
thương chồng đang trong cơn bịnh ngặt nghèo, phần tủi thân tủi phận A phù chạy
về xã năn nĩ mấy ông cán bộ mượn ít lúa non.
Cảm thương hoàn cảnh của A Phù, xã cho vay tạm ít trăm cân lúa để A Phù
lo liệu cho chồng, nhưng phải viết giấy cam đoan là đến mùa thu hoạch sắn thì
phải lo thanh toán lại, nhìn số nợ khổng lồ A Phù ứa nước mắt nhưng không còn
cách nào, A Phù quyết định đặt bút ký mà lòng dạ ê chề xót xa, số lúa này không
biết khi nào mới trả xong. Không có con cái, hai vợ chồng sống hiu quạnh từ đó
đến nay, ngày lên rừng đêm xuống rẫy, họ làm cật lực đã không đủ sống, mà Chàng
Hai lại còn hay bịnh tật ốm đau, kinh tế gia đình chỉ một mình A Phù lo liệu.
Đã chuẩn bị xong mấy mo cơm cùng với muối vừng và ít củ khoai luộc. A
Phù cho cơm vào mấy tàu lá chuối và gói lại cẫn thận chỉ còn thiếu ít nước uống,
không có gì đựng A phù đành đi kiếm mấy túi ny lông bọc tạm, sợ bể A phù túm
hai ba túi lại làm một và cho hết vào chiếc bao đựng gạo rồi giục Chàng Hai lên
đường, Từ một xã miền núi đón xe xuống Tuy Hòa cũng ngót nghét gần sáu mươi cây
số. Chỉ mới hơn bảy giờ sáng A Phù giục chồng.
– Mình ơi xong chưa, đi nhanh đi kẽo trễ tàu xe.
– Tao xong rồi đây, mầy dìu tao chút đi, cái bụng đau quá.
Hai vợ chồng cố dìu nhau đi qua mấy đoạn đường
đất khập khiễng cuối làng, cũng may vừa xuống đến nơi đã có chiếc xe khách vừa
trờ tới.
– Đi Đâu?
Nhìn chiếc xe khách chật cứng những người, A
Phù đâm ngao ngán, chỉ sợ cho Chàng Hai không chen lên nổi, mà có chen lên được
đã chắc gì chịu nổi với sự nhồi nhét của mấy tay lái xe hám của, nhưng không
còn cách nào khác A Phù vội vã trèo và cố dìu chàng Hai leo lên xe, chân thấp
chân cao, lum khum dưới cái nóng như thiêu của buổi sáng mùa hè, xe chạy qua mấy
ổ gà ổ trâu rung lắc dữ dội. Chàng Hai kêu đau, A Phù chỉ biết động viên chồng.
– Mình ráng lên đi gần xuống phố rồi.
– Bụng tao đau quá.
A Phù nhìn chồng ái ngại nhưng biết làm sao
đây, chị dõi đôi mắt đục ngầu về một khoảng trời mênh mông xa vắng ..
Hồi đó A Phù là một gái đẹp nức tiếng trong làng, mới mười lăm tuổi mà
phốp pháp đẩy đà, lại giỏi dang ít người bì kịp. Trai trong làng nhiều anh nhờ
mai mối nhưng A Phù không chịu, cho đến năm mười sáu tuổi, trong một lần đi rừng
bị vấp ngã may mà có Chàng Hai đưa về chăm sóc thuốc men. Thấy Chàng Hai hiền
lành chất phát lại thật thà, chịu khó chịu khổ nên A Phù nhờ người mai mối..
Đám cưới của họ cũng giãn đơn chứ không hoành tráng như mấy đám cưới khác, A
Phù và Chàng Hai đều mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ.
Cha mẹ A Phù bị địch bắn trong một đêm tải lương tiếp tế cho bộ đội, còn
cha mẹ Chàng Hai bị chết trong một trận càn dữ dội, sau đó nhờ bản làng và xóm
giềng giúp đỡ cưu mang nên mới có ngày hôm nay, tuổi thơ của A Phù và Chàng Hai
đều là chuỗi ngày tối tăm bi thảm nhất và cho mãi đến khi lấy chồng cô vẫn chưa
thoát ra được cái số phận nghiệt ngã đó. Mãi suy nghĩ miên man xe đã về đến bến,
hai vợ chồng vội vã dìu nhau đến một gốc cây ngồi tạm, giờ này mặt trời cũng gần
đứng bóng, những giọt mồ hôi nhễ nhại trên mặt Chàng Hai làm cho A Phù thêm ái
ngại. Thấy Chàng Hai lộ vẻ đau đớn A Phù quyết định đi tiếp. Không thể chờ
đợi lâu hơn nữa, căn bịnh ngặt nghèo có thể cướp đi sinh mạng của Chàng Hai mà
A Phù không muốn như vậy, mất Chàng Hai cuộc đời A Phù rồi đây sẽ ra sao..
– Đi thôi mình
– Tao mệt quá
– Mệt cũng phải ráng mình ơi
– Giờ đi đâu đây?
– Đi lên ga, đi vào thành phố Hồ chí Minh, vào đó có thầy
thuốc giỏi chữa bịnh cho mình.
Chàng Hai mệt nhọc đứng lên, nắm tay A phù và uể
oải bước đi, thấy chồng mệt mỏi và tiều tụy quá, A Phù ghé lưng ra đỡ.
– Mình leo lên lưng tôi đi
– Thôi tôi đi được mà mình
Hai vợ
chồng thất tha, thất thểu dắt nhau đi dưới cái nắng như gắt của một ngày đầu hạ,
A Phù vừa đi vừa hỏi thăm đường, với họ bến tàu hay nhà ga đều là những hình ảnh
chừng như xa lạ nhất trong đời. Cuối cùng rồi họ cũng đến được nơi mà họ muốn đến.
Kiếm một chỗ tương đối sạch sẽ cho chàng Hai ngồi dựa lưng, A Phù giở mo cơm
lúc nào cũng khư khư bên mình. Bẻ một góc cơm A Phù dặm vào một chút muối vừng
và đút cho Chàng Hai từng miếng một.
– Ráng ăn đi mình, đường đi nghe nói còn xa xôi lắm, mà tàu
thì còn một tiếng nữa mới đến. Cho chàng Hai uống ngụm nước xong A Phù lần tìm
gói tiền dấu trong áo ngực.
– Mình chờ em đi mua vé, nhớ ngồi cẩn thận kẻo té.
A Phù chen vào dòng người đang xếp hàng phía trước, cũng mất khá lâu A Phù mới
mua được hai chiếc vé tàu loại rẻ tiền nhất, cầm được hai chiếc vé trên tay thì
mặt trời đã chênh chếch bóng, bỗng tiếng còi tàu hú từ xa xa báo hiệu tàu đã đến,
những tiếng hú kéo dài lê thê và buồn thảm, A Phù chợt nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ
buôn làng, nhớ những đồng lúa non đang đến mùa thu hoạch. Nghỉ đến đó hai hàng
nước mắt tự nhiên ứa ra. A Phù khóc, khóc cho hoàn cảnh oái ăm và bi đát của
mình, khóc cho ông trời bất công quá đỗi. Không biết kiếp sau thế nào chứ kiếp
này là khổ lắm rồi.
A Phù
bỗng chực tỉnh khi mọi người ùn ùn đổ đến cửa nơi có mấy người nhân viên trực
kiểm tra vé, nhìn thấy Chàng Hai đang mệt gần như muốn ngất họ phất tay cho
qua. A Phù mừng như run, mừng vì được lên tàu sớm, mừng vì không bị lạc, A Phù
chắp tay cảm ơn trời đất, cảm ơn các vị thần đã vạch đường chỉ lối. Khi hai vợ
chồng đã yên vị trên toa, tàu bắt đầu chuyển bánh, những hồi còi inh ỏi nhức nhối
xa dần rồi bỏ lại sau lưng một thành phố gần như yên tỉnh. Nhìn Chàng Hai đang
cơn say ngủ. A Phù hơi yên lòng, chị lặng lẽ nhìn ra cửa tàu, những hình ảnh
trôi đi vùn vụt, những cánh đồng, những đàn trâu, đàn bò đang gặm cỏ, những
dòng sông đang trôi lững lờ, ra biển, cả cuộc đời chưa thấy biển, thấy sông. A
Phù bổng đâm ra sững sờ trước hình ảnh của quê hương đất nước, đất nước mình đẹp
như thế này sao, lộng lẩy thế này sao, miên man suy nghĩ A Phù đã thiếp đi lúc
nào không biết. Trong giấc mơ của mình A Phù mơ thấy một cuộc đời bớt tăm tối
hơn nhiều so với cuộc đời mình đang sống…
Tàu tới ga Sài Gòn sớm hơn dự định, nhìn mặt trời mới bắt đầu lấp ló, chắc
là còn sớm, A Phù đập Chàng Hai.
– Mình
ơi dậy đi, tàu tới Sài Gòn rồi.
Chàng Hai uể oải ngồi dậy, vẻ thất thần hiện
nguyên trên khuôn mặt vốn đang còn ngái ngủ.
– Mày ơi tao
còn sống à? tao mơ thấy tao bị quỷ dữ bắt đi rồi mà, tao thấy tao xuống dưới
âm phủ gặp lại bạn bè nhiều lắm..
– Mình vẫn
còn sống nhăn ra đó không thấy à, mình sao mà chết được, mình phải sống ít ra
trăm tuổi.
– Mày nói thật
chứ, tao thì tao thấy mệt trong người, đi còn bao xa nữa, xa quá thì tao chịu..
– Mình cố gắng
lên, chữa hết bịnh, mình về nhà gặp lại bà con chắc họ mừng lắm.
– Ừ, thì mừng,
cũng mong là thế. Xuống tàu hai vợ chồng lần đường lần sá, hỏi thăm đủ chỗ, đủ
người rồi cuối cùng cũng đến được bịnh viện Chợ Rẫy.
– Đây là bịnh
viện tốt nhất đó mình ạ, nó chữa đủ bịnh, chữa xong khỏi mình về liền, mình chờ
tôi chút nhé.
A Phù để Chàng Hai ngồi đó chị chạy đi hỏi
thăm lung tung, có người mách chị lên tầng bảy, nhưng trước khi lên phải làm thủ
tục đóng tiền, sau đó khám và nhập viện điều trị. A Phù tỏ ra lúng túng thật sự,
cũng may lúc đó có mấy cô y tá tận tình giúp đỡ và nhờ cái giấy giới thiệu của
xã vùng núi chứng nhận là hộ nghèo nên mọi việc cũng tạm ổn.
– Xong rồi, Chị đưa anh lên tầng bảy để khám.
Nghe cô y tá nói vậy A Phù đâm ra bối rối thật
sự, hồi nào đến giờ cô có bao giờ đi thang máy đâu, mà nếu trèo lên mấy cái cấp
xi măng thì Chàng Hai làm sao đây. Thấy mấy người đang chen vào thang máy A Phù
vội vả cõng Chàng Hai chạy đến.
– Chỉ
một người nữa thôi.
Ai đó trong thang máy vừa nói. Cũng được, cho
Chàng Hai lên trước. A phù vừa kịp đẩy vội Chàng Hai vào trong thì cánh cửa
thang máy cũng vừa khép lại…
Nắng đã lên cao.A phù tỉnh dậy lúc nào không rõ, suốt một dặm đường dài
xa lắc xa lơ đã làm cho A Phù kiệt sức thật sự,mặc dù cô đã cố gắng hết sức
mình,cố gắng để đưa được Chàng Hai đến đây chữa bịnh, cô nhìn xung quanh toàn
những người xa lạ, cái gì cũng lạ trăm thứ trong mắt cô đều lạ. Cô bỗng cựa
mình ngồi dậy, xung quanh cô bao đôi mắt đang đỏ dồn vào cô như đổ dồn vào một
sinh vật xa lạ.
– Thật tội nghiệp
– Cô ấy ngất được bao nhiêu tiếng rồi
– Cũng gần mười hai tiếng
– Tội quá…tội quá
A Phù quay lại nhìn, ai đó vừa dúi vào ngực A
Phù một nhúm bạc lẽ.A Phù bỗng rơm rớm nước mắt.Ngó quanh ngó quất, không thấy
Chàng Hai đâu, A Phù bật khóc nức nở
– Chồng tôi đâu rồi, Chàng Hai ơi …Chàng Hai…
Nghe tiếng la hét của A Phù mấy cô y tá chạy đến.
– Có chuyện gì vậy, mọi người xê ra chút coi, bu quanh thế
này làm sao người ta thở nổi. Để coi…để coi …có chuyện gì vậy chị?
– Chồng tôi đâu?
Mọi người đâm ra ngơ ngác, họ tự hỏi nhau và tất
cả cùng im lặng.
– Chợt một giọng đàn ông lên tiếng:
– Có ai biết chồng chị ở đâu không? cứ hỏi chị thử, nếu tìm
được cần gì cứ nói tôi giúp cho. Mọi người quay lại nhìn, đó là một người đàn
ông trạc năm mươi tuổi mang kính đen, dáng người tầm thước, trên khuôn mặt lúc
nào cũng giấu một nỗi buồn u uẩn.
– Đỡ giùm cô ta ngồi dậy đi, tìm cho cô ta chút nước, có lẽ
cô ta đói lắm rồi.Chờ tôi một lát. Nói xong người đàn ông bỏ đi ra ngoài, lát
sau quay lại với một ổ bánh mì trong tay.
– Nào…Mời chị ăn đi, ăn xong nói cho tôi biết chồng chị là
ai? đang ở đâu, nếu giúp được thì tôi sẽ giúp.. A Phù nhìn chằm chằm vào người
đàn ông xa lạ, nói lời cảm ơn rồi vừa bẻ đôi ổ bánh mì vừa ăn mà nước mắt rơi đầm
đìa. A Phù không biết Chàng Hai giờ đang ở chỗ nào, đã khám được bịnh chưa, mà
làm sao khám được vì mọi thứ giấy tờ cần thiết lúc nào cũng khư khư bên mình A
Phù.
– Mấy người thấy chồng mình ở đâu không?
– Chồng chị là ai?
– Chàng Hai. Tên của anh ấy là Chàng Hai người dân tộc ấy
mà, chúng tôi ở Sông Hinh từ Phú Yên vào đây chữa bịnh và bị lạc nhau ở chỗ cái
thang máy..
– Lạc nhau thế nào? Chị nói xem
– Ảnh vào thang máy trước, tôi chưa kịp vào thì cửa đóng mất.
– Được rồi để tôi đi tìm cho,.giọng nói vừa rồi là của người
đàn ông tốt bụng khi nãy.
– Chị cứ nằm nghỉ ở đây, chờ tôi quay lại, chị không được
đi đâu, lỡ lạc mất tôi không biết đâu mà tìm. Mà chị nhớ lên tầng mấy không?
– Tầng bảy…tầng bảy. Tôi nghe người ta bảo tôi lên tầng bảy.
– Được rồi chị ở yên đó đi, nói xong người đàn ông vội vàng
tìm tới chỗ thang máy nơi mà cách đây mười mấy giờ hai vợ chồng A Phù bị lạc
nhau, đi theo ông còn có một cô gái mỹ miều xinh đẹp, nước da trắng đỏ, khuôn mặt
như búp bê, tuổi chừng mười lăm mười sáu xúng xính trong bộ váy sang trọng và đắt
tiền, nhìn qua dáng dấp thì hình như họ là người Việt nhưng định cư ở nước
ngoài.
– Ba ơi, chờ con với .
– Người đàn ông quay lại và hai cha con mất hút sau bức tường
bịnh viện. A Phù thấy khỏe dần sau khi ăn hết nữa khúc bánh mì, cô tuột vội xuống
giường và lần tìm đôi dép. Ngó quanh ngó quất cô không thấy đôi dép của mình
đâu cả, đôi dép cô mua từ hơn bốn năm nay của một người bán dạo từ dưới
miền xuôi đem lên bán, đôi dép đẹp và ưng ý nhất, A Phù lúc nào cùng lau chùi
và chăm sóc nó một cách cẩn thận, chỉ những lúc đi xa hoặc hội hè hoặc tết A
Phù mới đem ra mang, còn những khi ở nhà cô toàn đi chân đất..
– Dép của mình đâu?
– Ngoài cửa đó, cô ra đó mà lấy, họ không cho mang
dép vào phòng đâu. A Phù uể oải đứng dậy, một cơn đau thắt vừa vụt qua nơi mạn
sườn của chị, A Phù cảm thấy hơi choáng váng, muốn ngồi xuống để nghĩ, nhưng
nghĩ đến Chàng Hai không biết giờ này ở đâu, A Phù đâm ra lo lắng. A Phù đứng dậy
lần nữa, lần này có lẽ đỡ hơn, chị bước ra cửa, đảo mắt tìm đôi dép và chị phát
hiện ra nó đang nằm lẫn lộn với một mớ giày dép khác, nhưng đôi dép của A Phù
không thẻ lẫn lộn vào đâu được.
– Cảm ơn trời đất…cảm ơn trời đất..A Phù mừng quýnh, cô xỏ
vội đôi dép vào chân và chực chạy đi tìm Chàng Hai. Nhưng nghĩ lại, người đàn
ông ban nảy bảo cô ngồi đây chờ, cô bỏ đi như vậy lỡ họ tìm không thấy thì sao.
với lại trong cái bịnh viện to đùng này người đông như kiến, cửa ngõ tùm lum,
còn cầu thang và thang máy thì vô kể, mà nếu tìm thì A Phù cũng không biết bắt
đầu từ đâu, chỗ cái thang máy hôm qua A Phù cũng quên mất rồi, nghĩ đến đó A
Phù quyết định ngồi đây đợi không đi đâu nữa.
– Ê này cô kia, khỏe chưa? nếu khỏe mời cô lại đằng kia mà
ngồi, bác sĩ mà bắt gặp thì tụi tôi ốm đòn.
Nghe vậy A Phù lần ra chỗ mấy cái ban công mà lổn ngổn lớp
ngồi lớp đứng, cô chen vào giữa hai người đàn bà đang ngáy như sấm. Cô nhớ lạị
hình ảnh người đàn ông lúc nãy, cô thấy quen quen, hình như đã gặp ở đâu thì phải,
cô vắt óc suy nghĩ nhưng càng suy nghĩ cô thấy đầu óc tối tăm hơn, cơn buồn ngủ
lại kéo tới và bất chợt bên hông A Phù bổng nhiên nhói lên như là một lằn điện
xẹt tới rồi tắt lịm.
Tỉnh dậy lần hai, mở mắt ra
A Phù đã thấy người đàn ông bên cạnh, với đôi mắt hiền từ triu mến và nụ cười
đôn hậu, người đàn ông quay về phía mấy cô y tá.
– Cô ấy tỉnh rồi
– Ừ có thế chứ, chị ấy mất sức nhiều do đói và thiếu dinh
dưỡng, chỉ cần chuyền cho chi vài bình nước biển thì sẽ khỏe thôi. Trong khi chờ
y Tá tiếp nước biển, người đàn ông quay về phía chị.
– Hồ sơ xin nhập viện cho chồng chị đâu? đưa đây để tôi lo
thủ tục nhập viện, tôi đã tìm thấy ảnh rồi.
– Đã tìm thấy Chàng Hai rồi à. Cảm ơn trời đất mà tìm thấy
anh ấy ở đâu?
– Nghe mọi người nói, sau khi lên đến tầng bảy thì ảnh cũng
vừa kiệt sức, ai hỏi gì cũng không trả lời, bác sĩ hỏi gì cũng không nói, cứ lắc
đầu lia lịa rồi cứ chỉ chỏ xuống dưới này, cuối cùng người ta đành cho ảnh nằm
tạm trên đó nơi phòng nghỉ của cán bộ, tôi lên đó hỏi thăm, cũng may người ta
chỉ giúp.
– Cảm ơn ông nhiều … cảm ơn ông nhiều … cảm ơn trời đất ..
cảm ơn trời đất. Nói xong A Phù tuột xuống giường và quỳ vội xuống đất .
– Đội ơn ông …đội ơn ông.
– Cô làm gì vậy, đứng lên đi, cô làm vậy tôi tổn thọ mất.
Cô còn làm vậy tôi không giúp nữa đâu, mặc cô muốn làm gì thì làm, ra sao thì
ra.
– Đừng ông, đừng ông A Phù hốt hoảng thật sự, cô không còn
cách nào hơn là đứng dậy.
– Cô cứ ở yên đây, mọi thủ tục khám và chữa bịnh tôi sẽ lo
hết, cô không phải lo, tiền bạc tôi sẽ lo hết, miễn là cô phải nghe lời tôi ở
yên ở đây.. cô nhớ lời tôi dặn chưa, xong mọi việc tôi sẽ đưa cô lên gặp chồng
cô, cô đi lung tung mất công tôi tìm lắm, cô nhớ chứ ?
– Dạ nhớ…dạ nhớ
Cầm xấp hồ sơ khám chữa bịnh cho Chàng Hai người
đàn ông vội vã bỏ đi. Chỉ còn lại một mình A Phù, lo lắng không biết tình trạng
của Chàng Hai giờ này ra sao và người đàn ông đó là ai mà họ tốt với vợ chồng
mình như vậy .Phần lo lắng cho Chàng Hai, phần sốt ruột, mặc dù đã ghi nhớ lời
dặn dò của người đàn ông khi nảy nhưng A Phù cảm thấy bất an trong lòng, Không
biết bịnh tình của Chàng Hai ra sao? Anh ấy có chết không? Nếu anh ấy có mệnh hệ
nào thì mình sống với ai đây? Nghĩ đến đó hai hàng nước mắt tuôn lã chã trên
khuôn mặt phờ phạc và khô khốc của những ngày gian khổ, măc dù đã ngũ được đôi
chút nhưng A Phù vẫn thấy buồn ngủ, hai mí mắt cô như muốn đổ sụp xuống, cô
ráng nhướng lên và đứng dậy đi thơ thẫn theo ban công bệnh viện, nhìn xuống dưới
đường, cơ man là xe cộ và người đi lại, những tòa nhà to lớn và đẹp cứ nối dài
theo con phố, xe cộ thì dập dìu ngang dọc đủ sắc đủ màu, đủ các loại xe mà hồi
nào tới giờ cô chưa từng thấy, cô bỗng ao ước, cô bổng thèm muốn một ngày nào
đó có một phép màu thật lạ, cho cô xin chỉ vài điều ước, hoặc một điều ước cũng
được, đó là cho Chàng Hai hết bịnh và hai vợ chồng sẽ trở về nhà, nơi mà gần
như hơn nữa cuộc đời A Phù đã gắn bó với nó, mặc dù cô vẫn biết rằng về lại
đó là về lại cái nơi tăm tối nhât, nơi mà ai cũng muốn thoát ra để tìm cho mình
một cuộc sống tốt đẹp hơn, nhưng biết làm sao được nơi đó đã ăn sâu vào tâm hồn
A Phù với những kỷ niệm đẹp và mối tình có một không hai trên đời này cũng xuất
phát từ đó, xuất phat từ nơi sâu thẳm nhất của đáy lòng A Phù, nơi bà con cật
ruột và bạn bè đều nằm lại nơi đó.
- Xong rồi cô
A Phù quay đầu nhìn lại, thì
ra người đàn ông tốt bụng khi nảy.
- Chồng tôi ra sao rồi
- Đã nhập viện rồi, không sao
đâu, ảnh chỉ bị một chút vấn đề về gan, bác sĩ bảo để làm xét nghiệm và theo
dõi điều trị, bây giờ chị hảy theo tôi lên gặp ảnh rồi hai người mặc sức tâm sự,
- Dạ cảm ơn ông nhiều!
A Phù lặng lẻ đi thêo sau
người đàn ông xa lạ, đến thang máy khi hai người vừa vào trong, người đàn ông bấm
nút, mấy cái nút chằng chịt gắn gần cửa thang máy, A Phù cố nhớ mà nhớ không nổi chỉ
thấy thân hình mình như bị ai nhấc lên không và hơi hụt hẫng một chút sau đó vẫn
bình thường trở lại
- Đến rồi.
Cánh cửa thang máy mở ra, A Phù vội
vã chạy theo sau người đàn ông đó, cô cảm thấy lo lắng và hồi hộp thật sự, cô lại
cầu trời, cầu đất, cô lâm râm trong miệng và mong đấng bề trên nghe thấy lời
nguyện của mình, A Phù chợt ứa nước mắt lần nữa.
- Ảnh ngồi kia kìa!
A phù nhìn theo hướng người đàn
ông vừa chỉ, cô thấy Chàng Hai đang ngồi trên dãy ghế phòng chờ khám, cô
chạy vội đến, ôm chầm lấy Chàng Hai làm như đã lâu rồi không gặp, thấy Chàng
Hai thần sắc có đở hơn, A Phù đâm ra yên lòng.
- Tao khám rồi, bác sĩ bảo không
sao, chờ cho toa lấy thuốc rồi về, ổng nói cái lá gan của tao hơi có vấn đề một
chút, hồi xưa thì phải mổ, phải phẩu thuật, nhưng bây giờ thì không cần, chỉ cần
bắn một vài lần kết hợp với dùng thuốc thì sẽ khỏi, ổng còn bảo tao kỳ này về mổ
heo ăn mừng đi, vì nhiều người bị như tao nhưng để lâu quá mà không chữa được,tao
mừng quá A Phù ơi.
A Phù bỗng bật khóc thật sự, cô
không ngờ những lời cầu nguyện của cô lại ứng nghiệm như vậy, cô thầm cảm ơn trời
đất, cảm ơn người đàn ông tốt bụng khi nảy, cảm ơn cái bịnh viện to lớn này, cảm
ơn mấy ông thầy bác sĩ ở trong cái bịnh viện này, cô bỗng thấy khỏe lên gấp bội,
mọi sợ hãi và lo lắng trong mấy ngày qua bổng tiêu tan đâu hết.
- Vậy là ổn rồi mình ơi... ổn rồi,
mình sắp được về nhà rồi mình ơi!
- Ừ thì tao cũng mừng, vậy là
mình hết chết rồi, hoan hô ông trời, hoan hô mấy ông thầy bác sĩ.
Nhìn thấy nỗi vui mừng hiện trên
khuôn mặt của đôi vợ chồng người dân tộc, người đàn ông xa lạ khi nảy cũng thấy
vui lây.
- Sao vui chưa? Nhưng chưa xong
đâu! Còn phải nằm điều trị vài ngày nữa chờ họ bắn laser rồi mới xuất viện được,
nhưng hai vợ chồng cứ yên tâm, không sao đâu, tiền viện phí kể cả thuốc men và
mọi thứ tôi đã lo hết rồi chỉ còn việc chờ xuất viện rồi về nhà.
- Cảm ơn ông nhiều, cảm ơn ông
nhiều!
Thôi bây giờ hai vợ chồng hãy nghỉ
ngơi và ăn uống đi, ông quay lại nơi đứa con gái nảy giờ vẫn đang đứng ở góc
phòng.
- Lại đây con, đưa mấy hộp cơm và
mấy chai nước cho ba!
- Đây là con tôi, nó cũng đã nhiều
lần cùng tôi lên rừng, lên mấy cái bản của người dân tộc, nhưng nhiều nhất là ở
vùng Sông Hinh, chúng tôi đi cũng nhiều và tìm cũng nhiều nhưng thất vọng thật
rồi.
- Ông tìm ai vậy? Tại sao lại thất
vọng, mà ở Sông Hinh cũng to lớn và rộng lắm mà, ông tìm ai? Mai mốt về nhà tui
sẽ tìm cho ông.
- Chuyện kể ra cũng thật dài
dòng. Thôi được! Hai người cứ ăn cơm đi rồi tôi kể cho nghe!
Tôi vốn là dân Phú Yên nhưng ở tại
thị xã Tuy Hòa. Hồi đó thị xã tuy nhỏ nhưng đẹp và thơ mông lăm, tôi học Luật ở
Sài gòn, khoảng thời gian từ 1970 đến 1972, lúc đó chiến tranh giữa hai miền
Nam, Bắc đang hồi khôc liệt, tôi bị tổng động viên và phải vào lính, sau khi tốt
nghiệp khóa sĩ quan trừ bị tại Thủ Đức, tôi được phân công về một huyện miền
núi ở Phú yên trong một nhiệm vụ đặc biệt, chắc cô cũng hiểu, làm người ai cũng
sợ chiến tranh, sợ súng đạn, bao nhiêu là thứ sợ, tôi cũng nằm trong số người ấy,
nhìn những người dân vô tội bị chết trong chiến tranh, tôi đâm ra ngao ngán thật
sự, không còn thiết tha gì với nghiệp lính và cuộc đời nhà binh nữa, sau đó tôi
tìm cách đào ngũ, lặn lội và trốn biệt trong rừng sâu cả gần một tháng, phần
đói khát phần bịnh tật, tôi bỗng kiết sức và ngất đi lúc nào không biết, lúc đó
trên người tôi chằng chịt những vết thương, những vết xây xát khắp mặt mày, cái
chân trái của tôi hình như bị gãy hầu như không nhắc lên được, tôi cứ nghĩ thế
này là hết, trong vô vọng, tôi chỉ biết cầu nguyện đến những đấng thiêng liêng
cao cả nhất, tôi chợt nhớ gia đình, ban bè và người thân, nhớ từng con phố nhỏ,
nhớ những kỷ niệm êm đềm nhất của một thời xa lăc xa lơ. Tôi bỗng bật khóc và
sau đó tôi thiếp đi không còn biết gì cả...
- Anh tỉnh dậy rồi à?
Người vừa hỏi tôi là một người
đàn bà, người dân tộc thì phải, với khuôn mặt hiền lành và giọng nói lơ lớ của
người Kinh, người phụ nữ đỡ tôi ngồi dây.
- Ông ăn cháo đi. Ông ngất đã hai
ngày đêm rồi đó!
- Tôi bị làm sao vậy?
- Không biết, tôi thấy ông nằm
trong rừng, tưởng chết rồi, may quá ông vẫn còn sống nên tôi đưa ông về đây.
Tôi uể oải ngồi dậy, trong mình
tôi ê ẩm, gần một tháng trong rừng, đói gì ăn đó, ăn vô tội vạ, miễn sao qua
cơn đói là được, tôi đâu cần biết những thứ mà tôi ngốn vào trong bụng nó có thể
cứu tôi nhưng cũng có thể dẫn tôi đến cái chết.
- Cảm ơn chị!
- Thôi ông đừng cảm ơn, hãy nghỉ
một chút nữa cho khỏe, tôi đi bắc chút cơm cho ông ăn, nhà không có gì, có gì
ăn đó, mà tôi còn phải vào rừng kiếm ít lá cây, rễ cây để về băng bó cho cái
chân của ông, cái chân của ông bị gãy rồi, không nhẹ đâu chắc là ông bị té thì
phải.
Nói xong, người phụ nữ quay ra cửa
quơ một ít củi khô đem vào.
- Để tôi bắc cho ông chút nước. Ở
miền xuôi các ông không quen dùng nước lã, chúng tôi ở đây thì quen rồi, đụng
đâu uống đó, mà có ai bịnh tật gì đâu.., cơm và muối vừng tôi để trong góc nhà
đó, chút nữa ông có đói thì lấy mà ăn! Hết, tôi về bắc thêm gạo, ông cứ ăn thật
no cho mau bình phục, còn về với gia đình, với vợ con.
- Tôi chưa có vợ.
- Ông chưa có vợ ạ, dưới ông thì
khác, trên này, tụi tui khoảng mười lăm mười sáu là lo đi bắt chồng,chứ già rồi
tụi nó không chịu, Tui bắt chồng năm tui mười bốn tuổi.
- Chồng chị đâu? Sao nảy giờ tôi
không thấy?
- Ảnh đi theo Cách Mạng rồi, lâu
lâu mới về được vài ngày rồi lại đi. Làm việc cho Cách mạng ấy mà. Thôi ông nằm
nghĩ, tôi đi lên rừng đây, sẵn qua rẫy bứng ít sắn khoai về ăn tạm, nhà cũng gần
hết gạo rồi. Thôi tôi đi đây, ông nằm nghĩ nhé chớ có đi đâu!
- Chị ạ... chị tên gì...?
- Tôi là A Dong... A Dong... Thôi
tôi đi đây.
Nhìn vóc người nhỏ nhắn nhưng
lanh lẹ của người phụ nữ mới bước chân ra cửa, tôi thầm cảm ơn chị ấy rất nhiều,
không có chị ấy thì có lẽ tôi không còn sống đến ngày hôm nay.
Ở chỗ người phụ nữ ấy được nữa
tháng, hàng ngày ngoài thời giờ để chị ấy lên rẫy, lên rừng thời gian còn lại
chị dành hết để chăm sóc tôi, cái chân tôi cứ vài ba ngày chị thay lá một lần,
cơm nước chị lo cho tôi đầy đủ, có củ khoai, củ sắn chị mang về luộc và để dành
cho tôi lúc đói, hai tuần đối với tôi là một thời gian dài dằng dặc, tôi không
chịu nổi nữa, tôi không thể làm phiền chị hơn nữa, chị ấy còn nhiều việc phải
làm, còn phải chăm mấy vuông lúa, mấy vuông khoai đang đến vụ, còn phải giúp chồng
chị lo cho cách mạng. Tôi quyết định ra đi. Hôm đó trời vừa tờ mờ sáng, chị ấy
cũng chuẫn bị lên rẫy.
- Chị à...
- Gì vậy ông?
- Hôm nay xin phép chị tôi đi,
cũng cảm ơn chị rất nhiều trong thời gian tôi ở đây, mạng sống tôi còn giữ được
đến hôm nay cũng nhờ chị giúp đỡ chăm sóc.nếu không tôi đã bỏ xác trên rừng.
- Thôi! Ông đừng nói chuyện ơn
nghĩa làm gì, cái chân ông vẫn còn yếu lắm, ông ở thêm vài ngày rối sẽ đi.
- Được mà chị! Tôi đi được mà, chị
chỉ cần chỉ hướng cho tôi xuống miền xuôi là được.
- Thôi tùy ông! Nếu như có bề gì
ông cứ trở lại đây.
Sau đó lần theo hướng chị ấy chỉ,
tôi cũng tìm được đường về thị xã và đoàn tụ với gia đình và đâu chừng mấy tuần
lễ sau tôi tìm cách trốn về Sài Gòn và trốn chui, trốn nhủi trong đó cho đến
ngày giãi phóng.
- Sau đó ông làm gì?
- Sau khi giải phóng vào, tôi ra
trình diện, học tập và cải tạo, biết tôi là sĩ quan đào ngũ nên thời gian cải
tao cũng không nhiều, tôi được tha về địa phương quản lý. Sau đó mấy năm tôi
qua Mỹ theo diện H.O. Qua mỹ tôi làm đủ thứ ngành nghề, cái gì làm ra tiền là
tôi đều làm hết, phần nhờ bạn bè cũ giúp đở một phần nhờ tôi siêng năng, cần
mẫn nên chỉ trong thời gian ngắn tôi đã tạo cho mình một cơ ngơi vững chắc.
- Mỹ là ở đâu hở ông?
- Nói ra cô cũng không hiểu đâu,
nó là một đất nước rộng lớn, bao la, đủ loại dân cư, đủ loại màu da tập trung về
đây sinh sống, trong đó có người Việt Nam, nó ở cách đây nữa vòng trái đất cô
à.
- Ồ xa quă hả ông? Ở bên đó bây
giờ ông làm gì?
Tôi hiện giờ là giám đốc một công
ty sãn xuất phần mềm máy tính, vợ tôi qua định cư bên Mỹ từ nhỏ, cô đi theo gia
đình, tôi cũng đã nhiều lần kể chuyện này cho cô ấy nghe, Cô ấy rất cảm động.
- Thế vợ ông có về Việt Nam cùng
với ông không?
- Không! Cô ấy bảo tôi cứ về trước
để thăm gia đình và tìm ân nhân đi, cô ấy thu xếp công việc xong rồi sẽ về sau.
- Thế ông đã tìm được ân nhân
chưa?
- Chưa cô à! Tôi mong tìm được ân
nhân của mình để đền đáp cái ơn ngày nào nhưng nghe cô ấy đã chết rồi .
- Chết rồi sao? Ông nghe ai nói,
ông nghe tin này ở đâu. Ông nói lại tôi nghe, người đàn bà đó tên gì và chết ở
đâu?
- A Dong... Tên cô ấy là A Dong.
A Phù bỗng đâm ra hồi hộp thật sự,
A Dong đúng là tên của mẹ cô rồi, còn chết ở đâu cô cần phải hỏi rõ.
- Ông nghe chính xác bà ấy chết
như thế nào không?
- Nghe nói bị lạc đạn trong một
đêm tải lương cho bộ đội cô à.
Vậy không còn gì nghi ngờ nữa rồi,
đúng là mẹ A Phù rồi, bà ấy chết trong một đêm tải lương tiếp tế cho bộ đội, A
Phù còn nhớ đêm ấy trời mưa như thác đổ sấm xé toạt cả màn trời, xác mẹ cô
được bọc tạm trong mấy tấm ni lông và mang về nhà cho cô nhìn mặt lần cuối, sau
đó được đem chôn ở sân sau căn chòi cô đang ở, lúc đó cô khoảng năm sáu tuổi,
cô chưa biết gì, chỉ nghe người ta nói, chỉ biết nhìn và khóc khi thấy mẹ nằm
im, người ta bảo vuốt mắt cho mẹ là cô vuốt, rồi cô thẫn thờ theo họ ra phía
sau nhà, quăng cho mẹ mấy nấm đất, lúc đó cha A Phù không có nhà và có lẽ
ông cũng chưa biết tin rằng mẹ A Phù đã chết. Nghĩ đến đó, A Phù bỗng xúc động
thật sự, hình ảnh những ngày thơ ấu lại hiện về trong ký ức của cô. Cô chỉ biết
mẹ cô là một người đàn bà tôt, khắp buôn làng ai cũng thương mẹ ấy, cho đến lúc
cô nghe tin cha đã hy sinh thì cha cô cũng chưa được một lần gặp mặt mẹ
cô.
- Ông còn nhớ nơi bà ấy ở không?
- Nhớ chứ, làm sao mà quên được,
hơn nửa tháng trời tôi ở đó mà cô.
- Được rồi! Khi nào chồng tôi xuất
viên tôi sẽ tìm giúp người đàn bà ấy cho ông và cả nơi bà ấy đang yên nghỉ.
- Thật vậy hả cô? Sau mấy lần tìm
kiếm không ra, tôi còn nghe những người dân trên bản nói lại rằng, sau khi tôi
đi về xuôi một thời gian thì việc nuôi giấu tôi bị phát hiện và cô ấy bị kỷ luật
nặng lắm, cũng may là lúc đó tôi cũng không tiết lộ thân phận mình và cô ấy chỉ
khai là giúp đỡ một người bị tai nạn gảy chân khi bị lạc trong rừng... Sau
đó họ cũng không nghe tin tức nhiều về cô đó nữa, có người bảo đã chết rồi do bị
lạc đạn.
- Thôi ông cứ yên tâm, tôi sẽ tìm
giúp cho ông, bởi vì ông cũng đang là ân nhân của vợ chồng tôi, tìm giúp người
đàn bà đó cho ông cũng là một cách trả ơn ông vậy.
Thời gian rồi cũng lặng lẽ trôi
qua, cũng đã gần mười ngày, cái bụng của Chàng Hai mỗi ngày mỗi nhỏ dần và
Chàng Hai cũng không còn cảm thấy đau đớn gì cả. Ngày nào cũng vậy, người đàn
ông lạ mặt lúc nào cũng có mặt bên vợ chồng cô, chăm sóc và động viên hai vợ chồng
cô rất nhiều, hỏi han vợ chồng cô về công việc làm ăn trên bản, công việc đồng
áng và cái bịnh vô sinh của cô, cô cũng thành thật đáp lại tấm lòng tốt của người
đàn ông lạ mặt đó bằng cách không dấu diếm điều gì, chỉ riêng cái bí mật về người
đàn bà đã cưu mang cho người đàn ông lạ mặt này thì cô không nói mà thôi.
- Hôm nay bác sĩ cho xuất viện.
Tôi đến để đưa hai vợ chồng về quê, và trở về cái buôn làng của mình, tôi cũng
có mua ít quà cho hai vợ chồng, vé tàu xe tôi đã mua rồi và đây là ít tiền để
hai vợ chồng mang theo tiêu dọc đường, còn lại để dành chi phí thuốc men khi cần
thiết. Riêng với chồng cô, nhớ lời bác sĩ dặn, bước đầu còn yếu nên ăn uống
kiêng cữ một chút, nên uống nước đun sôi để nguội, không nên ăn đò tươi sống nó
sẽ không tốt cho cái bụng của ảnh, vé tàu tối nay khởi hành, từ Sài Gòn về Tuy
Hòa chắc phải mất đến hơn mười tiếng, Chắc sáng mai tàu đến sớm, cô nên mướn một
chiếc tắc xi chở chồng cô về tận bản cho yên tâm, từ Tuy Hòa lên Sông
Hinh đường cũng khá xa, chí ít cũng sáu mươi cây số, đi xe đò dồng, lắc có
thể gây cho vết thương biến chứng trỡ lai, tiền tôi đưa cô không thiếu đâu, hai
vợ chồng về trên đó rôi một ngày nào đó thu xếp xong công việc dưới này cha con
tôi sẽ lên, cũng có thể có cả bà xã tôi nữa. Chúng tôi lên nếu như tìm được ân
nhân của mình thì đó cũng là dịp để chúng tôi đền đáp lại cái ân tình ngày
trươc, thủ tục xuất viện tôi đã làm rồi, mọi thứ coi như xong, giờ tôi đưa hai
vợ chồng ra nhà ga, ở đó chờ tàu và chúng ta ăn uống và tâm sự thêm chút nữa.
Cô đồng ý chứ?
- Vâng cảm ơn ông, vợ chồng tôi
nghèo biết lấy gì để trả cho ông đây.
- Không cần đâu cô ạ, miễn về
trên đó rồi hai vợ chồng ráng tìm giúp cho được người đàn bà đó, tìm được cũng
là cách trả ơn cho tôi rồi đó.
- Thôi giờ chúng ta đi.
Tắc xi đến ga cũng gần xấp xỉ
tối, cơm nước xong, sau khi dặn dò lần nữa, người đàn ông lạ mặt móc hai chiếc
vé tàu loai giường nằm của toa đắt tiền nhất đưa cho hai vợ chồng.
- Chị giữ vé cẩn thận, trình vé
cho kiểm soát khi ra cửa, tôi sẽ mua một vé ra cửa để tiễn hai người đi.
- Vợ chồng tôi đi, chúc ông và
con gái ông ở lại mạnh giỏi. Tôi sẽ tìm bằng được người đàn bà đó cho ông.
Khi đã yên vị trên tàu, A Phùng bổng chồm
ra cửa sổ, quay lại phía người đàn ông hét to:
- Cảm ơn ông nhiều! Ông nhắc lại
tên người đàn bà đó cho tôi nào! Nhắc lại đi...
- A Dong... A Dong....A
Dong...!
- Đó là mẹ tôi... Đó là mẹ
tôi...- rồi cô ôm mặt khoc nức nở.
Tiếng khóc của A Phù chợt nhỏ dần
khi tàu bắt đầu chuyễn bánh và mất hút trong màn đêm sâu thẳm, trước đó cô
không biết người đàn ông lạ mặt đó có nghe rõ lời cô nói không, nhưng A
Phú thấy người đàn ông đó vừa đổ sụp xuống trên sân ga và cũng cùng lúc đó A
Phù bổng thấy quặn thắt và tê buốt ở bên hông, thoáng qua rồi mất hut, cô không
biết rằng tai nạn sắp đến với cô lần nữa, đó là dấu hiệu của căn bịnh truyền
kiếp bắt đầu bằng một khối U mà mọi người đều lánh xa và sợ hãi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét