Chút thoáng Nguyễn Tuân
Ai hay hát mà ai hay nghe
hát?”
(Nguyễn Công Trứ)
Đến thăm Nguyễn vào một chiều hạ oi nồng, nắng chói chang
trên đỉnh đầu làm mồ hôi tuôn ra như suối. Cắm vào lọ dăm đóa cúc, rót chén rượu
nhạt, thắp nén nhang thơm. Bỗng nhiên thấy cơ duyên với Nguyễn cũng thật lạ. Chẳng
rõ tự khi nào bản thân lại ham mê cái thứ văn chương mà theo như Tô Hoài là
thang thuốc bắc hoài sơn ghẻ bổ một tí nhưng chẳng làm hại ai ấy. Đó là vì
duyên phận với cổ nhân sâu thẳm hay bởi kiếp trước tôi là một nhành địa lan, một
đóa đỗ quyên nơi Yên Tử mà ông mang theo? Hay là một chú thạch sùng say hơi thuốc
phiện Khâm Thiên mà lưu luyến sang tận kiếp sau?
Nguyễn sinh ra lạc thời, ông hẳn là hiu quạnh lắm, cô đơn lắm.
Cái buổi Tây Tàu nhố nhăng ấy đã khiến cho biết bao bậc trí thức còn vương giấc
mộng triều đại cũ thấy hoang mang. Họ phải làm gì? Người ngập trong rượu cồn
thuốc phiện, kẻ lui về nơi thôn dã ẩn cư. Lại có người bỏ cả cuộc đời đi tìm lại
cảnh cũ hòng đối thoại với cổ nhân. Đó là cụ Đầu xứ Tố, là Tản Đà, là Nguyễn. Tản
Đà quý Nguyễn, biết Nguyễn và chịu để cho ông hầu hạ điếu đóm chắc cũng vì lẽ
đó, đồng bệnh tương liên, trọng tài mà cũng hiểu lòng nhau, không chỉ yêu mà
còn kính. Đừng lo rằng thanh xuân bất tái.
Nguyễn yêu phố Khâm Thiên, dường như tuổi hoa niên của ông dừng
lại ở đó, nơi ấy có hồng nhan, có tiếng hát mê hoặc lòng người. Con phố đó đã
lưu giữ biết bao dấu tích người xưa. Cơn gió bụi, chịu trận bom lớn, phố cô đầu
đã tan vào dĩ vãng xa xôi nhưng phong vận xưa vẫn còn lưu giữ tại đây, cổ kính
đến lạ. Tôi thường tưởng tượng ra cảnh Nguyễn chống cái can cố hữu, đi xuyên
qua Khâm Thiên từ khi còn là một thanh niên đầy nhiệt huyết cho tới khi tóc đã
điểm sương mà hồng nhan đã thành người thiên cổ từ lâu.
Ông không buồn, chỉ thấy hoài niệm.
Nỗi niềm ngọt ngào sâu lắng đầy đáng quý. Ngôi nhà của Nguyễn
vẫn như xưa, bước vào cơ hồ còn thấp thoáng bóng dáng người vợ tảo tần và tiếng
ghế mây kẽo kẹt. Có lẽ Nguyễn vẫn đang ở căn nhà số 90 Trần Hưng Đạo ấy, không
muốn chia ly. Trong phòng, sách vở chất đầy trên kệ ố màu thời gian, những bức ảnh
níu năm tháng trở lại còn đó mà người thì đã nằm xuống cả thập kỷ. Chén sứ, bát
hoa men xanh, vỏ chai xếp dọc dưới chân tủ. Chiếc va li sờn cũ lặng im, hộp đựng
can gỗ đã không còn ai dùng đến. Tấm phản ông từng ngả lưng nay lạnh ngắt, duy
có nụ cười hiền hậu che đi sự ngang tàn làm lòng người thấy bớt hoang hoải. Bên
trên, bức tượng Báo Cáo Anh từ thời Lý đương chắp tay, à, thằng số hai mươi tám
đấy. Nguyễn đã ra lệnh cứ đến hôm ấy là nó phải báo cáo, rồi thì mày với ông,
ghê gớm chưa! Nguyễn không nhiều bạn, ông không cần nhiều bạn mà chỉ cầu người
hiểu mình. Trăm năm dâu bể, có mấy ai hiểu ông? Ông cô đơn trong chính cõi
lòng. Người ta có thể nhìn thấy một Nguyễn đạo mạo, chơi chua khác đời nhưng
không thể biết được những giọt nước mắt của ông đã mất hút dưới sàn lạnh, làm
nhòe cả bài thơ tứ tuyệt. (Bài thơ ấy nay chỉ mình nhà văn Ngọc Trai còn biết,
nhưng địa chỉ của bà không cố định, biết tìm ở đâu, âu cũng vì tuổi già hay vì
muốn lánh đời?)
Cả đời Nguyễn khắc khoải vì sự đọc, đi và viết. Cả đời nặng
lòng với phong tục xưa, với ngòi bút của mình. Những tiêu đề đậm và lớn đậm chất
Phăng – te - di cứ thế ra đời nhưng chán, bỏ trắng! Cũng thấy buồn nhiều. Muốn
viết nhưng Nguyễn đành cười xòa, nở nụ cười chua chát. Ông viết không phải để
lên gân, để tỏ mặt với đời mà chỉ vì lịch sử. Chỉ hai từ này thôi mà đã khiến
ông cô độc cả trăm năm.
Những người mong muốn kéo lại lịch sử thường cô độc.
Nguyễn mắc bệnh xê dịch, điều này không ai còn lạ, nhưng lối
đi của ông khác Tô Hoài. Ông không cố tìm hiểu về một vùng đất hay một nền văn
hóa nào đó, mà tùy theo sở nguyện của bản thân giống Tư Mã Thiên, để tinh hoa tự
thấm vào chính mình rồi giăng lên chữ. Từng nhớ một lá thư tay của Nguyễn,
trong đó có nhắc tới con ong, không hiểu sao nó lại đánh động tới ông hóa thành
dòng chót gửi cho Tô Hoài. Rồi khích Nguyên Hồng đánh cả cái xe đạp của nước
ngoài về nhà cho bõ. Nguyễn đã ghét ai thì ghét đến mức không thèm nhìn mặt, từ
chối bắt tay, giận Tô Hoài vì “sao mày đưa ma nó!”. Chẳng phải vô tình, bởi
tính đã thế rồi, đâu làm trái được. Ngay cả nguyện ước khi chết đi da ta được
thuộc làm cái vali, nhớ chôn theo vài thằng hình nhân phê bình, mua téc bia lớn
cho anh em cùng đưa ma cũng như muốn chọc ghẹo thiên hạ chơi. Tính khí như thế,
còn lắm truân chuyên.
Ghét thì lắm, quý được mấy ai? Đã quý thì cũng chỉ ghẹo nhau
vài câu, tặng nhau ly rượu, chạy vội ra mua đóa hồng màu vàng lòng trứng. Phải
chăng đó là thứ tình bạn mà Trang Tử nhắc tới, bình đạm nhưng sâu sắc?
Về già, chân Nguyễn yếu nhiều, thấp khớp thôi mà tốn không biết
bao nhiêu lạng cao hổ. Nghe đâu còn có người mách dùng cả cẳng chân chó, chẳng
hay có hiệu quả hay không? Rồi đến cả quả tim cũng dở chứng theo. Than ôi cái
tuổi! Xuân xanh chóng qua, gương mặt giờ chằng chịt dấu vết thời gian. Nào biết
khi đang bỏ ngỏ trang sách địa lý thế giới, quay sang nhìn người vợ đã theo
mình cả đời, có phải Nguyễn đã hóm hỉnh đùa rằng: “Hay tôi với bà đi chung một
ngày nhé?” Nghĩ thế thôi. Người xưa đâu, ai thấu chuyện xưa rành mạch ra sao?
Nguyễn mất năm 87, tháng 7 năm ấy Hà Nội như khuyết đi một
khoảng trời. Kẻ lữ hành ấy đã nằm xuống, dường như mang theo cả phong hội cũ.
Sau Nguyễn, không còn ai viết được như thế nữa, cũng không còn ai nặng lòng hơn
thế nữa. Ngắm nhìn làn khói tỏa, hoa sứ đỏ rắc quanh mồ, trời chiều hiu hắt,
Nguyễn nằm cạnh vợ, lặng lẽ.
Thời kỳ biến động đã qua đi, thảy tan thành cát bụi. Công tội
có là chi với thời gian, tài hoa nhường ấy rốt lại chỉ còn một nắm xương tàn…
“Nhắn cho con tạo xoay thời lại, Để khách tang bồng rộng đất chơi.”
Hiên Đà Giang - 21/6/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét