Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

Hành trình thơ Văn Cao

Hành trình thơ Văn Cao
Văn Cao 1923 - 1995
Vài nét về tác giả:
Văn Cao là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng. Ông là tác giả của Tiến quân ca, quốc ca của Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những gương mặt quan trọng nhất của tân nhạc. Văn Cao còn là một họa sĩ, nhà thơ với nhiều tác phẩm giá trị.
Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray, Hải Phòng, nhưng quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Xuất thân trong một gia đình viên chức, cha của Văn Cao vốn là giám đốc nhà máy nước Hải Phòng. Thuở nhỏ, Văn Cao học ở trường tiểu học Bonnal, sau lên học trung học tại trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm nhạc. Năm 1938, khi mới 15 tuổi, vì gia đình sa sút, Văn Cao bỏ học sau khi kết thúc năm thứ hai bậc thành trung. Ông làm điện thoại viên ở sở Bưu điện tại Hải Phòng, nhưng được một tháng thì bỏ việc.
Cuối những năm 1930, tân nhạc Việt Nam ra đời. Ở Hải Phòng khi đó tập trung nhiều nhạc sĩ tiên phong như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý... Văn Cao tham gia vào nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... và bắt đầu sáng tác ca khúc đầu tay là Buồn tàn thu vào năm 16 tuổi. Cùng nhóm Đồng Vọng, Văn Cao còn sáng tác một số ca khúc hướng đạo vui tươi khác như Gió núi, Gò Đống Đa, Anh em khá cầm tay. Cũng trong thời gian ở Hải Phòng, Văn Cao làm quen với Phạm Duy, khi đó là ca sĩ trong gánh hát Đức Huy. Phạm Duy chính là người đã hát Buồn tàn thu, giúp ca khúc trở nên phổ biến. Năm 1940, Văn Cao có một chuyến đi vào miền Nam. Ở Huế, Văn Cao đã viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, được coi là bài thơ đầu tay.
Năm 1942, nghe theo lời khuyên của Phạm Duy, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant - nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền - và theo học dự thính tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy. Năm 1943 và 1944, Văn Cao hai lần xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà Nội với các bức tranh sơn dầu: Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm. Đặc biệt tác phẩm Cuộc khiêu vũ những người tự tử (Le Bal aux suicidés) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của Văn Cao không bán được. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn. Cùng bạn bè, Văn Cao thường phải đứng bán các tác phẩm của mình trên các đường phố Hà Nội, Hải Phòng.

Cuối năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quý, một Việt Minh mà ông đã quen biết trước đó. Vũ Quý thuyết phục ông tham gia Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc. Văn Cao đã sáng tác ca khúc đó trong nhiều ngày tại căn gác số 171 phố Mongrant và đặt tên cho tác phẩm là Tiến quân ca. Tiến quân ca được in trên trang văn nghệ của báo Độc Lập tháng 11 năm 1944. Ngày 13 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh đã chính thức duyệt Tiến quân ca làm quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Văn Cao tiếp tục tham gia hoạt động trong đội Trừ gian của Việt Minh. Ông viết và phụ trách ấn loát cơ quan Phan Chu Trinh, in sách báo, truyền đơn. Vào cuối mùa xuân năm 1945, Văn Cao đã có mặt trực tiếp tham dự vụ ám sát nổi tiếng, đó là vụ giết ông Đỗ Đức Phin tại Hải Phòng, người bị Việt Minh kết án là Việt gian theo Nhật. Sau vụ ám sát, Văn Cao tạm lánh một thời gian để tránh mật thám Pháp và Nhật theo dõi. Trở về Hà Nội, Văn Cao còn tiếp tục tham gia vụ ám sát Cung Đình Vận ở gần rạp hát cuối phố Huế nhưng không thành công do ông bắn trượt.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Cao làm phóng viên và trình bày cho báo Lao Động.
Năm 1946, Văn Cao được cử cùng Hà Đăng Ấn chuyên chở vũ khí và tiền vào mặt trận Nam Bộ. Sau đó chính thức được mời tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc và được bầu là Ủy viên Chấp hành, Văn Cao hoạt động ở liên khu III, phụ trách tổ điều tra của công an Liên khu và viết báo Độc Lập. Đầu năm 1947, ông được cử phụ trách một bộ phận điều tra đặc biệt của công an Liên khu 10 ở biên giới phía bắc. Tại đây ông được giao nhiệm vụ kết nghĩa với vua Mèo để lập ra một phòng tuyến bảo mật chống sự tràn sang của quân Trung Hoa Quốc dân Đảng khi thua trận. Ở Lào Cai, Văn Cao còn mở một quán bar để làm địa điểm theo dõi. Tháng 3 năm 1948, Văn Cao được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối năm 1949, Văn Cao thôi làm báo Văn Nghệ chuyển sang phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam. Thời kỳ này, ông tiếp tục sáng tác các ca khúc nổi tiếng khác như Làng tôi (1947), Ngày mùa (1948), Tiến về Hà Nội (1949)... và đặc biệt là Trường ca Sông Lô năm 1947.
Năm 1952, Văn Cao sang Liên Xô nghiên cứu âm nhạc. Theo Hoàng Minh Chí thì chuyến đi này làm Văn Cao "thất vọng về chủ nghĩa cộng sản". Trần Gia Phụng thì miêu tả một cậu bé thổi sáo bằng hai mồm. Một cái được vẽ từ cách nhìn thẳng, một cái được vẽ bằng cách nhìn nghiêng. Làm nền, phía sau cậu bé là đông nghịt những con người trong một tiết tấu đầy chuyển động của nhịp chiến tranh. Bức tranh này cùng với bức Cây đàn đỏ vẽ một người bộ đội ôm "Cây đàn chủ nghĩa" mà Văn Cao gửi tham gia Triển lãm Hội họa ở Liên khu III, ông bị quy kết: hình thức lai căng, nội dung thì có vấn đề về tư tưởng
Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao hồi cư về Hà Nội, làm việc cho Đài Phát thanh, nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút trở lại, viết bài cho đặc san Giai Phẩm. Tháng 2 năm 1956, bài thơ Anh có nghe không được đăng trên Giai phẩm mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là "lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì". Văn Cao cùng các nghệ sĩ của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ trương đòi hỏi tự do văn nghệ, sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo đều bị đình bản.
Như những nghệ sĩ khác của nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm, tuy có muộn hơn, đến tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội. Những năm sau đó, Văn Cao tiếp tục bằng nhiều công việc, như viết nhạc không lời cho các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch, vẽ quảng cáo các báo, vẽ nhãn diêm... Các tác phẩm của ông, cũng như các ca khúc lãng mạn tiền chiến khác, không được trình diễn ở miền Bắc, trừ bài quốc ca. Giai đoạn này, Văn Cao hầu như không còn sáng tác. Đến cuối năm 1975, ông viết Mùa xuân đầu tiên, nhưng ca khúc bị phê bình là không đi đúng đường lối của Đảng, không phục vụ cho Cách Mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị tịch thu. Nhưng các chương trình Việt Ngữ tại Moskva vẫn cho trình bày bài hát, và nhờ vậy Mùa xuân đầu tiên đã không bị lãng quên.
Năm 1981, Việt Nam phát động phong trào cả nước thi sáng tác quốc ca nhưng sau đó không công bố kết quả, cuộc thi cũng không được nhắc lại. Bài Tiến quân ca vẫn là quốc ca của Việt Nam. Cho đến cuối thập niên 1980, nhờ chính sách Đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, các tác phẩm của Văn Cao cùng những nhạc sĩ tiền chiến khác được biểu diễn trở lại.
Ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời gian mắc bệnh ung thư phổi, Văn Cao mất tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội.
Một số tác phẩm thơ:
- Lá (thơ), NXB Tác phẩm mới, 1988 
- Tuyển tập Văn Cao (thơ), NXB Văn học, 1994 
Nguồn internet
Một số bài viết về thơ Văn Cao
Hành trình thơ Văn Cao
Lê Thiếu Nhơn
Từ những bài thơ đầu tiên viết năm 1939 đến bài thơ cuối cùng "Tôi ở" viết tháng 8/1994, Văn Cao có di sản khoảng chừng 60 bài, nhưng vẫn hiển lộ đầy đủ một chân dung nhà thơ khắc khoải với khát vọng lớn lao "tới bao giờ tôi gặp được biển?".
Cuộc đời 72 năm của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với Việt Nam thế kỷ 20 nhiều biến động, để lại cho thế hệ sau nhiều câu hỏi không dễ trả lời.
Câu hỏi rộn ràng về cống hiến nhọc nhằn, câu hỏi cồn cào về thế sự ngổn ngang, câu hỏi mịt mờ về mệnh kiếp lênh đênh. Một Văn Cao đa tài không thể che chở một Văn Cao lận đận. Một Văn Cao danh vọng không thể bênh vực một Văn Cao cay đắng. Một Văn Cao hào hoa không thể an ủi một Văn Cao cô độc. Những ngày tháng Văn Cao đã sống, cứ đổ cái bóng gầy hắt hiu và trắc ẩn vào lòng công chúng, mà những bài hát của ông không lý giải được, những bức tranh của ông cũng không lý giải được.
Chỉ còn lại thơ, xoa dịu và tỏ bày giùm ông.
Từ những bài thơ đầu tiên viết năm 1939 đến bài thơ cuối cùng Tôi ở viết tháng 8/1994, Văn Cao có di sản khoảng chừng 60 bài, nhưng vẫn hiển lộ đầy đủ một chân dung nhà thơ khắc khoải với khát vọng lớn lao "tới bao giờ tôi gặp được biển?". Trong sự mến mộ của công chúng phổ thông, chân dung nhạc sĩ Văn Cao luôn khỏa lấp chân dung nhà thơ Văn Cao, bởi lẽ cảm giác xao xuyến thường lấn lướt nhận thức sâu xa.
Ngoài những phút giây phiêu lãng với giai điệu, Văn Cao cũng lắm lúc rạo rực với sắc màu qua vài bức tranh giàu cá tính thẩm mỹ. Tuy nhiên lúc chăm chú quay lại với thi ca, Văn Cao có tiểu luận: "Mấy ý nghĩ về thơ" nghiêm trang và khơi gợi: "Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn, càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng". Con đường thơ của Văn Cao đã chuyển dịch đúng như vậy.
Khởi nguồn thơ Văn Cao qua đôi bài Ly khách hay Linh cầm tiến mang dấu vết của Đường thi tùy hứng hoặc Đường thi ứng họa, như những câu:
Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải
Quằn quại cờ bay trong gió sương

hay:
Tâm sự chừ như trường giang vũ khúc
Lãng đãng sương buông cổ độ mờ.

Sự nghiệp sáng tạo của Văn Cao chỉ nên tính từ khi thơ và nhạc cùng đồng hành để tạo nên phong cách Văn Cao. Thưởng thức một cách tỉ mỉ, không mấy khó khăn để thấy được, tâm hồn nghệ sĩ của Văn Cao biến động qua ba giai đoạn với ba nét đẹp riêng biệt: giai đoạn mềm mại đắm đuối, giai đoạn lạc quan hào sảng và giai đoạn can trường sắc sảo. Và qua ba giai đoạn có trình tự trước sau, có thể khám phá được thế giới nội tâm của ông.
Giai đoạn mềm mại đắm đuối, âm nhạc Văn Cao có Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Buồn tàn thu... thì thơ Văn Cao chỉ có dăm vần điệu trễ nải:
Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống
Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa
lúc thảng thốt Ai về Kinh Bắc, hoặc:
"Thuyền vào nằm ngủ trong mưa
Trên con sông vắng lập lờ bóng trăng
lúc bùi ngùi Đêm mưa. Có lẽ đã dồn mọi tinh lực để thăng hoa ca khúc, thơ Văn Cao lác đác chớp sáng vài câu thơ lộng lẫy như: "sông trắng bờ xa lộ bóng nhà" và "ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi". Thơ Văn Cao dường như bị say nắng Thơ Mới, cái rạo rực "quê lòng rộng mở đường cho sạch/ đón những bàn chân trắng nuột nà" cứ nhang nhác Xuân Diệu, còn cái sầu não "Đường ở đây mưa ướt đất trơn/ Nắng lên không kịp kẻ kia hờn" cứ từa tựa Lưu Trọng Lư.
Giai đoạn lạc quan hào sảng, âm nhạc Văn Cao bùng nổ với Tiến quân ca, Làng tôi, Chiến sĩ Việt Nam, Ngày mùa, Sông Lô, Bắc Sơn, Tiến về Hà Nội... thì thơ Văn Cao nhen nhóm chia tay Thơ Mới. Trên gác trọ xóm cô đầu Vạn Thái nhìn về phía Ô Cầu Dền, Văn Cao viết Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc vào năm 1945 bằng ngọn gió run rẩy khác lạ. Tuy vẫn còn chút hơi hướng cổ trang:
"Ta đi giữa đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây"
nhiều chữ có hồn cốt mạnh mẽ kiểu Văn Cao đã xuất hiện như: "ta lả nhìn cửa sổ mắt mờ rồi", như: "nhà ta thuê mái gục tự mùa thu", như "ta về gác chiếu chăn gào tự tử". Nhấn thêm một bước, bài thơ Ngoại ô mùa đông 1946 đánh dấu thơ Văn Cao trưởng thành, với những câu chưa từng có trong Thơ Mới như: “ai kẻ dìu hoa chống phường Dạ Lạc” hay “một dãy phố nghiêng cả thành Hà Nội”.
Và trong sự thay đổi bút pháp, có cả sự thay đổi tư tưởng, từ thái độ lưỡng lự
khăn lụa che ngang mày thét nhạc
gót chân xanh khép giọng Tỳ Bà
sang hành động dứt khoát “đập tan đàn khi nhạc mới mênh mông”. Tuy nhiên, bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc và bài thơ Ngoại ô mùa đông 1946 chỉ tạo đà cho khoảnh khắc nhảy vọt trong thơ Văn Cao, đó là sự ra đời của trường ca Những người trên cửa biển viết vào mùa xuân 1956, giúp cán cân thơ - nhạc có thành tựu tương đương.
Với bốn chương chia làm 16 khổ thơ, trường ca Những người trên cửa biển được viết trên tinh thần
Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ lại
Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi.
Cái riêng hòa vào cái chung, Những người trên cửa biển như một “tổng phổ” về những năm tháng tận tụy của Văn Cao với thành phố cảng, từ sự thủ thỉ “quê mẹ quê cha cách một vườn trầu” đến sự san sẻ
kíp thợ đêm lê về đến xóm
nghe rét mùa đông nổi cuối sông
và bất chợt hân hoan:
những năm đầu chính quyền cách mạng
giấc mơ của Hải Phòng
như bóng cò trắng bay về lòng tôi thuở nhỏ.
Thử thách thể loại trường ca đòi hỏi sức cảm sức nghĩ phi thường, cũng chính là cơ hội phô diễn một Văn Cao tài năng cồng kềnh. Hít thở không khí xứ sở độc lập tự chủ, Văn Cao khẳng định:
có người hàng năm mặt trời không thấy mọc
khép đùi xếp phách tiễn đêm đi
hôm nay ngồi chép bài ca mới
hương cốm mùi rơm ngát giếng đình”
để mường tượng hòa bình đích thực:
chúng ta sẽ trả về những bà mẹ Pháp
núi hài cốt cuộc chiến tranh bẩn thỉu
cũng như những người mẹ chúng tôi
tiếc những dòng sữa, những cái hôn đã mất”
và nghe được những va đập mỏng mảnh"
tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc
những con người gần ánh sáng chưa quen.
Mặt khác, với ý thức kẻ sĩ đau đáu với vận mệnh dân tộc, Văn Cao lập tức cảnh tỉnh:
đất nước đang lên da lên thịt
đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
và không ngần ngại vạch mặt mối hiểm nguy:
hãy dừng lại

những tên muốn ôm cây mùa xuân không cho mọc
những tên muốn ôm cây to che cớm mầm non.
Đánh giá một cách cẩn trọng, trường ca Những người trên cửa biển đã xác lập một vị trí nhất định trong nền thơ Việt Nam thế kỷ 20, bởi tình yêu mảnh đất:
mỗi người dân Hải Phòng thật kiếm ăn từ nhỏ
mỗi người dân Hải Phòng đều biết đổ mồ hôi
đã dựng được hình tượng nhà thơ Văn Cao chung thủy với thời đại "
cuộc đời ôm tôi như trong một cái bình
một tiếng vang vang cả lòng cả đáy.
Giai đoạn can trường sắc sảo, âm nhạc Văn Cao chìm vào im lặng, chỉ vụt lên một Mùa xuân đầu tiên nôn nao cùng non sông thống nhất năm 1975. Tất cả tâm tư Văn Cao dồn hết vào thơ:
tung ra hàng loạt hàng loạt
những con người thật của chúng ta.
Hơn 30 năm âm thầm trong căn phòng khiêm nhường ở 108 Yết Kiêu - Hà Nội, thơ Văn Cao chắt lại như:
tiếng kêu của một khúc thép đỏ
trong chậu nước
để đối diện với nghịch cảnh:
có lúc nước mắt không thể chảy ra ngoài được. Hai bài thơ viết cho mùa thu ở hai cột mốc thời gian khác nhau vẫn không mấy khác nhau về xao xác, mùa thu 1968 “những bóng người loang trên Hồ Tây” và mùa thu 1992 “có tà áo trắng loang qua khung cửa” chứng tỏ ảo giác đơn lẻ hụt hẫng kéo dài qua vùng thơ ưu phiền. Bài thơ Thức dậy vỏn vẹn hai câu ít nhiều thể hiện được cứu cánh thi ca đối với Văn Cao:
“Khi đêm tối tất cả người tôi thức dậy
Những đam mê quên ngủ suốt ngày.
Bơ vơ và chịu đựng, Văn Cao chỉ có nguồn động viên duy nhất “những ngày đau khổ ấy/ khuôn mặt em/ như mảnh trăng những đêm rừng cháy” để tiếp tục tin cậy nhân gian xuôi ngược “trên đường đi/ anh đặt em trên dốc núi/ để tìm lại những đường mềm của núi”.
Lời đề từ bài thơ “Ba biến khúc tuổi 65”, Văn Cao viết “những ngày buồn không nói được, tôi chỉ tìm ra sự sống của tôi”. Do vậy, có thể hình dung giai đoạn viết trường ca Những người trên cửa biển, Văn Cao không khác gì một hiệp sĩ sử dụng trường kiếm, trong vô chiêu lẫn hữu chiêu đều tung tẩy kiếm ý và kiếm khí, còn thơ Văn Cao giai đoạn này đã quay sang sử dụng đoản đao nhăm nhăm những đòn dứt điểm.

Không phải cuộc chơi nghệ thuật nữa, thơ Văn Cao trở thành cuộc truy vấn số phận. Truy vấn số phận về sự khốn đốn “tôi rơi vào mạng nhện/ mạng nhện cuốn lấy tôi/ không cách gì gỡ được”, truy vấn số phận về sự được mất “con thuyền đi qua/ để lại sóng/ đoàn tàu đi qua/ để lại tiếng/ đoàn người đi qua/ để lại bóng/ tôi không đi qua tôi/ để lại gì?” và truy vấn số phận về cả những Giấc mơ chập chờn: “Dưới mái nhà/ Một người đang ngủ/ Với giấc mơ của những vì sao/ Những vì sao đang kể chuyện/ Giấc mơ của mái nhà/ Giấc mơ của một người đang ngủ”.
Nhờ cuộc truy vấn số phận miệt mài, Văn Cao được tự do tái sinh những trải nghiệm, từ trải nghiệm thua thiệt cá nhân"
bỗng nhiên
bóng của người ấy chia mất
nửa mặt tôi
một nửa mặt của tôi
của tôi nửa mặt trắng
miệng tôi nửa miệng đắng
một con mắt tôi/ lặng lẽ lấp lánh
sau bóng đen người ấy
đến trải nghiệm lầm lạc ân tình:
những bó hoa mang tới
chúc tụng
thành công một con người
hàng ngày hàng ngày
xây thành cái mồ chôn
con người thành công ấy
người ta đôi khi bị giết
bằng những bó hoa.
Thơ hóa giải tủi hờn và bất trắc. Những câu thơ hoang mang và chấp chới tuyệt vọng của Văn Cao như: “có lúc ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt” không chỉ kháng cự khổ hạnh cho tác giả, mà còn giúp độc giả cách hiểu một giọt nước mắt, cách nghe một tiếng thở dài. Bởi lẽ, nỗi buồn không phải quan trọng nhờ được nhà thơ đắp lên những mỹ từ khoa trương, mà vì nhà thơ gõ vào trái tim mình để chứng minh nỗi buồn có ích cho việc nuôi dưỡng bản tính lương thiện của con người trước Thời gian khắc nghiệt: 

Thời gian
Thời gian qua kẽ tay
làm khô những chiếc lá
kỷ niệm trong tôi
rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
riêng những câu thơ còn xanh
riêng những bài hát còn xanh
và đôi mắt em
như hai giếng nước.
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp đôi
Lòng nâng ngòn ngọt lại đầu môi
Này em hát khúc tương tư nhé
Ngâm khẽ em ơi nhẹ nhẹ lời
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Tri âm nghe thử dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru
Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá Nha
Em nghe anh dạo khúc thu xa
Thuyền xuôi về bến mô thuyền bỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng nhà
Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lửa chài xa thấp thoáng trôi
Tay nhấn tơ chùng đã ngấm sương
Hò ngân cung Bắc lướt cung Thương
Dòng Tiêu Kim Thủy gà xao xác
Ngẩng thấy kinh kỳ khói vấn vương
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế [1]
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh
Văn Cao 
1. Cách gọi sông Hương của tác giả
Ai về Kinh Bắc 
Có ai cưỡi ngựa về Kinh Bắc 
Tôi gửi nhờ đem hộ lá thư? 
Trời hỡi! ốm nằm trong quán trọ 
Bạn bè còn lại mấy bài thơ... 
Trông qua song cửa: trời vàng úa 
Mấy lá bàng rơi nhắc nhở thu! 
Chiều ốm cũng đang chầm chậm xuống 
Sương mù chìm lẫn lá vàng thưa. 
Hỡi người cưỡi ngựa về Kinh Bắc 

Tôi gửi thư đưa hộ mẹ già 
Cố thét song lời tôi yếu quá 
Ngựa đều chân chạy, nhạc càng xa.
Văn Cao 
14-10-1941 
Trích từ tập thơ "Lá", NXB Tác Phẩm Mới, 1983
Đêm mưa
Sông chầm chậm chảy trong mưa 
Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo 
Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều 
Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ 
Thuyền vào nằm ngủ trong mưa 
Trên con sông vắng lập lờ bóng trăng 
Khuya rồi ốc giục trong làng 
Thuyền ai vơ vẩn trôi sang bến này
Văn Cao
Thu 1941 
Trích từ tập thơ "Lá", NXB Tác Phẩm Mới, 1983
Bài thơ bên suối Suối mơ bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Ngày chưa đi sao gió vương?
Bờ xanh ngát bóng đôi cây thùy dương
Suối ơi ôi nguồn yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến
Đàn ai ngân buông lưu luyến
Suối hát theo đôi chim uyên
Từng hẹn mùa xưa
Cùng xây nhà bên suối
Nghe suối róc rách trôi
Hoa lừng hương gió ngát
Đàn ai đùa trong khóm lá vàng tươi
Tơ đàn chùng nhớ tháng năm
Rừng còn nhớ tới người
Trong chiều nào giữa chốn đây
Hồn cầm lắng tiếng đời
Suối ơi nghe rừng ca hát
Dòng êm đưa lá khô vàng trôi
Còn như dư hương yêu dấu
Với suối xưa trôi nơi đâu?… 
Văn Cao
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Văn Cao phổ nhạc thành nhạc phẩm Suối mơ.
Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc
Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
Chập chờn ảo hóa tà ma…
Đôi dãy hồng lâu cửa mở phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
Tình tang… Não nuột khóc tàn sương
Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
Từng mỹ thể rạc hơi đèn phù thể
Ta đi giữa đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây…
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
Ai hát khúc thanh xuân hờ ơi phấn nữ
Thanh xuân hờ thanh xuân
Bước gần ta chút nữa thêm gần
Khoảng giữa tuổi thanh xuân nghe loạn trùng hút tủy
Ai hủy đời trên tang trống nhỉ?
Hay ác thần gõ quách nạo mồ khuya!
Đảo điên… mê say… Thể phách chia lìa
Nghe reo mạnh, chuỗi tiền cười lạnh lẽo!
Tiền rơi! Tiền rơi! chùm sao huyền diệu
Lấp lánh hằng hà gạo rơi! Tiền rơi!
- Vàng mấy lá thừa đãi mây phủ chiếu
Ngã tư nghiêng nghiêng chia nẻo
Dặt dìu cung bậc âm dương
Tàn xuân nhễ nhại mưa cô tịch
Đầm đìa rả rích phương Đông
Mang mang thở dài hồn đất trích
Lưỡi thép trùng trùng khép cố đô
Cửa ô đau khổ
Bốn ngả âm u
(Nhà ta thuê mái gục tự mùa thu
Gác cô độc hướng về phường Dạ Lạc)
Đêm đêm, dài canh tan tác
Bốn vực nhạc động, vẫy người
Giãy đèn chao thắp đỏ quạnh máu đời
Ta về gác chiếu chăn gào tự tử
Trên đường tối đêm khỏa thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc
Ngã tư nghiêng nghiêng xe xác
Đi vào ngõ khói công yên
Thấy bâng khuâng lối cỏ hư huyền
Hương nha phiến chập chờn mộng ảo
Bánh nghiến nhựa đường nghe sào sạo
- Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực
Mưa, mưa hằng thao thức
Trong phố lội đìu hiu
Mưa, mưa tràn trên vực
- Hang tối gục tiêu điều
Mang linh hồn cô liêu
Tiếng xe càng ám ảnh
Tiếng xa dần xa lánh
Khi gà đầu ô kêu.
Văn Cao
1945
Không đề
Con thuyền đi qua
để lại sóng
đoàn tàu đi qua
để lại tiếng
đoàn người đi qua
để lại bóng
tôi không đi qua tôi
để lại gì?
Văn Cao
Anh hùng ca
Mắt sáng ngời lên như ánh dương,
Rượu hồ, da đỏ, khách ly hương.
Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải:
Quằn quại cờ bay trong gió sương.
Lắng nghe dòng máu ta đang sôi!
Say nữa! Say lên tráng sĩ ôi!
Lòng thép vang rền: xương gẫy rạn,
Sa trường: than ôi là tơi bời!
Chuyện thê nhi: Bẻ trâm vàng đi!
Khăn lụa người cho lau máu đi!
ảnh tặng giấu vào trong ngực áo!
Trở về? - Không! Chỉ có ra đi!
Quan san xa cách trùng dương hận.
Cười ré lên nào! Rú nữa lên!
Da đỏ trời ơi là máu! Máu!
Bên ngoài quan ải lính thay phiên.
Đập vỡ cho ta hồ rượu này!
Chén thù uống cạn nhớ đêm nay;
Trăng vàng vỡ nửa, gương tình lỗi
Khuê nữ đâu say hơn rượu đầy?
Anh em! Anh em! Hãy cố say!
Mai gặp nhau chăng hay gặp thây?
Da cổ ví dầy đầu đỡ rụng,
Thây anh rồi lấp với thây này.
Xót đời lính thú không tên tuổi,
Cả một nghìn thây đổi lấy thành,
Nói đến cuộc đời còn chẳng tiếc,
Tiếc gì nước mắt đón đưa, anh?
Văn Cao
Vạn Xuân
Theo http://www.nhanmonquan.net/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Cẩm nang người vợ hiền VÀI HÀNG GIỚI THIỆU Một quyển sách rất cần cho - Mỗi đấng mẹ hiền - Mỗi người dâu thảo - Mỗi bạn gái biết...