Thơ xưa về mùa
Thu trong văn học sử có 3 loại: (1) tả cảnh, (2) vừa tả cảnh và tả tình, (3) tả
một cảnh hay tình đặc biệt từ mùa Thu, muốn tránh khỏi 2 khuynh hướng trên.
Cảnh không gian mùa Thu (đa số là cảnh thiên nhiên), ngoài những thông thường là sông, núi, biển, ao, rừng…. thì có thực vật và động vật ở dưới đất, trên trời và khí hậu. Thực vật gồm có cây cành, hoa và lá. Thường là cây cành khô tiêu điều và lá vàng rơi rụng. Những cây được mô tả là lau, liễu, ngô đồng, thùy dương; đôi khi có cây hoè hay cây trúc, cây tùng. Hoa của mùa thu là cúc (vàng), hải đường và sen. Động vật thường là chim, đặc biệt là nhạn (én), quạ và ngỗng. Dưới đất thì có cá, vịt, dế, ếch hay ểnh ương trong mùa mưa. Thi nhân tiền chiến có thêm nai (vàng) hay cô gái trẻ. Nếu không mưa, thì trời xanh, ít mây (cô vân) và trăng sáng, tròn hay trăng trong. Ngoài ra còn có gió tây hay heo may rồi sương và tuyết. Thời tiết mát lạnh và không khí êm nhẹ. Thi nhân không quên âm thanh của mùa thư từ thiên nhiên, động vật hay tiếng sáo và tiếng đàn. Thi nhân thường có Thu Cảm tức là cảm giác hòa đồng với cảnh Thu và thích uống rượu hoặc đi chùa.
Từ cảnh mùa Thu, thi nhân cảm động sinh ra Cảm Tình gồm có sầu buồn, mơ, nhung nhớ, cô đơn, xa vắng, ly biệt… và say (có khi với rượu). Đối tượng của tình thu là quê nhà, non nước, người thương yêu (như tình nhân hay vợ chồng) hay đặc biệt là Mỵ Châu, Chức Nữ và Hằng Nga. Một đối tượng khác thuộc về thời gian đó là Lão (và Bệnh).
Chúng ta hãy nhìn lại Văn học sử từ đời nhà Trần để tìm những bài thơ cũ bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ:
(1) Thơ nước ta bắt đầu từ đời nhà Trần thì cũng có thơ về Cảnh mùa Thu. Thơ tả cảnh lần lượt xuất hiện qua đời nhà Hậu Lê, đời nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc (tiền chiến) và thời VN cộng hòa:
Đời nhà Trần:
TẢO THU
Dạ khí phân lương nhập họa bình
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh
Trúc đường vọng thích hương sơ tận
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
(Tổ sư Huyền Quang)
ĐẦU THU
Hương đêm mát dịu bình phong lạnh
Xào xạc thu sang lá động cành
Trúc đường thong thả hương vừa đốt
Cành cây chăng lưới lọt trăng thanh.
(Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch)
PHIẾM CHU
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang
Sơn thanh thủy lục hựu thu quang
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoạn
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
(Tổ sư Huyền Quang)
ĐI THUYỀN
Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ
Thu sáng ngời xanh nước với cây
Tiếng sáo thôn chài lau lách vọng
Trăng lặng giòng sông sương trắng đầy.
(Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch)
THU NHẬT
Lâm lưu mao xá bản phi huynh
Tiểu phố thu thâm hứng chuyển thanh
Mai tảo cúc phương hiền tử đệ
Tùng thương trúc sấu lão công khanh
Thụ huyên phong nộ tâm nan động
Vân tận thiên cao nhãn tự minh
Tây vọng yên hoa phi tích nhật
Thuần lô tứ viễn bất câm tình.
(Trần Nguyên Đán) (*)
NGÀY THU
Nhà cỏ cài then đứng mé sông
Vườn thu trong trẻo hứng mênh mông
Con em tài tuấn dường mai cúc
Khanh tướng già nua tựa trúc thông (tòng)
Cây rộn gió gào lòng vẫn vững
Mây quang trời bổng mát thêm trong
Phồn hoa ngoảnh lại xa ngày trước
Vược cá thuần rau vướng nỗi lòng.
(Đào Phương Bình dịch)
(*) Ông Trần Nguyên Đán là em vua Trần Nghệ Tông và là ông ngoại của ông Nguyễn Trãi.
Đời nhà Hậu Lê:
VỊNH CẢNH MÙA THU 1
Một nhạn hòa truyền lệnh Nhục Thu (*)
Song thưa ngần ngật lọt hơi thu
Vàng phô rãnh cúc khi sương rụng
Bạc điểm ngàn lau thuở tuyết mù
Đèn sách trên yên nghề cử tử
Can qua ngoài ải việc chinh phu
Thảnh thơi đêm có vầng trăng giãi
Sáng tỏ làu làu khắp chín châu.
(Lê Thánh Tông/ thi nhân đời Hồng Đức)
(*) Nhạn=chim én. Nhục Thu=vị thần giữ hành Kim, trông coi việc mùa thu (sách Lễ ký)
VỊNH CẢNH MÙA THU 2
Hơi may hây hẩy lọt chồi ngô (*)
Đòi trận so le nhạn khiếp thu (*)
Xan xát vàng, buông chậu cúc
Phau phau bạc, phất cờ lau
Hòe pha khóm lục chim phơi ngọc
Nguyệt giãi dòng trong cá hớp châu (đớp ngọc châu)
Với hỏi kia ai trong tuyết tĩnh
Thủa về niềm niệm mãi sông Ngô. (**)
(Lê Thánh Tông/thi nhân đời Hồng Đức)
(*) Ngô=ngô đồng. Đòi trận=nhiều đàn
(**) Sông Ngô: chuyện Trương Hàn người Ngô Quận làm quan ở Lạc Dương thời Tây Tấn nhân “cảm” tiết mùa thu nhớ quê hương nên cáo quan trở về.
VỊNH CẢNH MÙA THU 3
Lác đác ngô đồng mấy lá bay (*)
Tin thu hiu hắt lọt hơi may
Ngàn kia cách nước xo le địch (*)
Mái nọ bên tường đủng đỉnh chày (*)
Lau chống bãi nam ngàn dặm lợp
Nhạn về ải bắc mấy hàng bày
Quý Ưng, Tống Ngọc, dường bao nữa (**)
Khi ấy nhiều người cám cảnh thay.
(Lê Thánh Tông/thi nhân đời Hồng Đức)
(*) Ngô đồng đến mùa thu thì rụng lá. Địch=sáo. Chày: chày giả gạo (**) Quý Ưng=tên tự của Trương Hàn. Tống Ngọc có thơ thương cảm về mùa thu.
MÙA THU CHƠI THUYỀN
Nước xuôi nước ngược sóng dâng triều
Thuyền khách chơi thu nọ phải dìu
Chèo vượt bóng trăng nhân lúc hứng
Buồn giong ngọn gió mặc cơn phèo
Phơ phơ đầu bạc ông câu cá
Leo lẻo giòng xanh nước mắt mèo
Le vịt cùng ta như có ý
Đến đâu thời cũng thấy đi theo.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Đời nhà Nguyễn Tây Sơn:
VÃN THU THAM THIỀN
Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên
Kim thu thôn tự nhất tham thiền
Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp
Bối diệp trọng chiêm bạch ngọc thuyên
Vãng sự kỷ hồi hòe quốc mộng
Cố ngô y cựu trúc lâu duyên
Linh am tự tại linh quang tĩnh
Sảng nhập ngân câu tú thủy liên.
(Ngô Thì Nhậm)
THAM THIỀN VÀO BUỔI CUỐI THU
Bấm đốt năm năm dạt khắp miền
Chùa quê thu lại bước tìm lên
Cánh vàng vừa tách xòe hoa cúc
Lá bối lần xem bén vị thiền
Chuyện cũ giấc hòe bao ảo mộng
Thân xưa lầu trúc vẫn tiền duyên
Am thiêng còn đó tòa sen lặng
Khí mát hồ trong mặt nước êm.
(Khương Hữu Dụng dịch)
Đời nhà Nguyễn:
VỊNH MÙA THU
Trời thu phảng phất gió chiều
Mây về Ngàn Hống buồn treo ráng vàng (*)
Sang thu tiết hơi may hiu hắt
Cụm sen già lã chã phai hương
Sương giày giậu trúc đóa hoa vàng
Son nhuộm non đào cành lá đỏ
Lãnh vũ như ty trùng chức dạ
Tình thiên tác chỉ nhạn thư không
Phúc đâu đâu một trận hảo phong
Trên cung Quảng xa đưa hương quế
Giời biếc biếc nước xanh một vẻ
Khéo hóa công khéo vẽ nên đồ
Một năm được mấy mùa thu.
(Nguyễn Công Trứ) (*)
Tên tiếng Nôm của núi Hồng Lĩnh (cũng là quê hương của ông Nguyễn Công Trứ)
THU DẠ ĐỘC TỌA TỨC SỰ
Minh nguyệt nhập tiền hiên
Cô ả khuy thanh tôn
U nhân ái dạ tọa
Tương đối diệc vong ngôn
Khởi lập miện không vũ
Nhân chi thiệp nhàn viên
Tức tức hậu trùng ngữ
Thu thu giang điểu huyên
Minh cư đạm độc thích
U thưởng diệu tư luân
Bạc chước sấn hương dạ
Úy ngã cơ lưu hồn.
(Cao Bá Quát)
Đêm thu ngồi một mình tức cảnh
Trăng sáng lọt hiên trước
Bóng nghiêng bầu rượu nhòm
Người buồn thích đêm vắng
Ngồi lặng đối trăng suông
Đứng dậy nhìn trời đất
Tiện bước dạo quanh vườn
Trùng tới mùa, ran rỉ
Chim bên song véo von
Riêng thích ở nơi vắng
Tự vui trong cảnh buồn
Nhân đêm thanh nhắp chén
Yên ủi nỗi cô đơn.
(Khương Hữu Dụng dịch)
THU CẢM
Thu vũ liên hà giáp ngạn phồn
Ngư ca ái ái náo tiền thôn
Thiên biên nhất nhất hoành không lộ
Giang thượng song song phá lãng đồn
Cao thọ loạn dao phong tự chiến
Lạc hoa bất tụ thủy như bôn
Biên chu nhất trạo tri hà vãng
Tháp thượng đàm tâm tửu mãn tôn.
(Bùi Hữu Nghĩa)
CẢM XÚC MÙA THU
Sen gặp mưa thu rộ loáng bờ
Rộn nghe thợ lưới hát u ơ
Chân mây cò ráp cành dài đặc
Mặt sóng nước đưa tóc bạc phơ
Gió thổi cây chồm rung lấp cập
Nước đùa hoa rụng chảy lờ đờ
Giong thuyền nào biết đi đâu hử?
Cùng khách chuyện riêng say gật gờ.
(Nguyễn Hữu Nghĩa dịch)
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền con bé tẻo teo
Sóng nước theo làn hơi gợn tý
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Nguyễn Khuyến)
THU VỊNH
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trong như làn khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
(Nguyễn Khuyến)
THU ẨM
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vần cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
(Nguyễn Khuyến)
Thời Pháp thuộc:
ĐÊM THU CẢM TÁC
Khen ai khéo vẽ nét trời thu
Nước biếc non xanh một bức đồ
Bên vách rỉ reo đờn cánh dế
Ngoài sân lác đác mõ nhành ngô
Mây năm tầng bũa, rồng phun nước
Trống bốn bể vang, ếch được mưa
Đêm vắng cùng ai trò chuyện nhỉ?
Chuông chùa xen với tiếng nam mô.
(Phan Bội Châu)
THU RỪNG
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng
Sầu thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia,
(Huy Cận)
ĐÊM THU
Vườn thu óng ả nét thùy dương
Đưa nhẹ đêm thu cánh hải đường
Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt
Phất phơ tơ nhện tỏa ngàn sương
Chim hồi hộp mộng cơn mê lá
Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương
Say khước hơi men thời Lý Bạch
Non xa mây phới nếp Nghê Thường.
(Quách Tấn)
Thời VN cộng hòa:
TIẾT THU
Ẩm ướt cỏ hoa đã ngán mùi
Đất trời ầm ĩ vẫn chưa nguôi
Sương trùm, ngọc thố đang buồn bã
Mây phủ, kim ô luống ngậm ngùi (*)
Lạnh suốt ngày đêm còn gió thốc (*)
Nắng sơ giây lát lại mưa vùi
Cảnh thu ảm đạm chiều thu vắng
Khúc nhạc uền(h) oan(g) mãi sụt sùi. (**)
(Lãng Ba)
(*) Ngọc thố=thỏ ngọc, ám chỉ mặt trăng. Kim ô=quạ vàng, ám chỉ mặt trời
(**) Tiếng kêu của con ểnh ương
(2) Đây là những bài thơ về mùa Thu vừa tả cảnh vừa tả tình bắt đầu từ cuối đời Hậu Lê với ông Nguyễn Trãi:
Đời nhà Hậu Lê:
THU DẠ KHÁCH CẢM
Tây phong hán thụ hưởng tranh tranh
Diêu lạc thanh bi cửu khách tình
Hoàng diệp mãn đình thu quá bán
Thanh đăng hòa vũ dạ tam canh
Bệnh đa cốt sấu miên ưng thiểu
Quan lãnh thân nhàn mộng diệc thanh
Nhất niệm tức lai thiên niệm tức
Kê trùng tự thử liễu tương tranh.
(Nguyễn Trãi)
Đêm thu đất khách cảm hoài
Cây lộng gió tây vẳng tiếng đàn
Dạt dào tình khách tiếng bi than
Sân đầy lá úa thu già nửa
Mưa hắt đèn xanh khắc chửa tàn
Ngủ ít, xương gầy do bệnh lắm
Mộng thanh, mình rỗi bởi quan nhàn
Một niềm dứt ấy, muôn (ngàn) niềm dứt
Gà bọ thôi tranh kẻo hại thân.
(Đào Duy Anh dịch)
TRUNG THU ĐỐI NGUYỆT HỮU CẢM
Thiên cao thu nguyệt minh
Dao dao tương đối nhân
Tích niên thử kim dạ
Cao đường bạch phát xuân
Nguyệt hạ thiết tửu quả
Mỗi tiếu ngô gia bần
Kim niên thử kim dạ
Cô vẫn nhập vọng tần
Vân gian hà sở kiến
Trường không nguyệt nhất luân
Đăng tiền hí nhi nữ
Trùng vi ức ngô thân
Quan lý mãn nhai mạch
Ca quản động bàng lân
Hữu hoài đối minh nguyệt
Bất giác lệ triêm cân.
(Bùi Huy Bích)
Cảm xúc trước trăng thu
Trăng thu trong sáng trên cao
Xa xôi đối diện người vào cung trăng
Trăng xưa đêm ấy nhớ chăng
Song thân tóc bạc trán nhăn dãi dầu
Vẫn vui rượu dưới trăng thâu
Cười nhà ta đã bao lâu vẫn nghèo
Năm nay đêm cũng tiêu diêu
Ngắm nhìn mây lượn liêu xiêu trên trời
Thấy gì đây nữa mây ơi
Mênh mông bàng bạc một trời trăng non
Trước đèn đùa với các con
Mà lòng thương nhớ mỏi mòn song thân
Phố đông thiên hạ quây quần
Bên nhà hàng xóm sáo ngân vang rền
U hoài ngắm ánh trăng lên
Mà dòng lệ chảy bên thềm thắm khăn.
(Phạm Đình Nhân dịch)
THU VŨ
Thiên cách vân âm thảm bất minh
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhân đình
Đoản trường khô thụ chi đầu lệ
Thù cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng
Sầu khiên liêu lạc ngũ canh tình
Thâm khuê tối khổ như hoa diện
Nhất phiến sầu dung dạ bất thành.
(Hồ Xuân Hương)
MƯA THU
Trời cách mây mù thảm chả (chẳng) xanh
Mưa thu sân vắng giọt buồn tanh
Đầu cành cây héo châu dài vắn
Trên lá tiêu vàng tiếng chậm thanh
Hát dứt đê mê mơ vạn dặm
Sầu giăng quạng quẽ nỗi năm canh
Khuê sâu rất khổ mày hoa ấy
Vẻ mặt buồn thương vẽ (dạ) chẳng thành.
(Bùi Hạnh Cẩn dịch)
THU NHẬT TỨC SỰ
Tây phong lạc dạ áp hàn chi
Ly cúc tiêu sơ tuyết vị phi
Mật vũ tà phi nhân sĩ diện
Cô vân miêu chức viễn sơn my
Liên dư tàn hạ lưu xuân đới
Liễu bạng nhiêu hương lão thúy y
Đề điểu mạc phi tri ngã huống
Thanh thanh trường động cố hương ty (tư)
(Hồ Xuân Hương)
NGÀY THU TỨC CẢNH
Đêm qua lành lạnh gió tây về
Dậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi
Mưa nặng sông chia mờ vẻ mặt
Mây trơ non thẳm vẽ đường mi
Sen tàn hạ cuối dây thơm sót
Liễu ngả xuân thừa biếc áo che
Chim hót nỗi mình chăng có thấu
Lời lời dài đọng nỗi lòng quê.
(Bùi Hạnh Cẩn dịch)
Đời nhà Nguyễn Tây Sơn:
TRUNG THU
Thị niên khứ tuế trung thu nguyệt
Nhiệt thủy Minh viên vạn lý nhân
Nga tỷ ngọc nhan toàn tự cựu
Sứ hoa ban mấn hựu thiên tân
Thời quang cường bán tùy kim dạ
Khách huống thiên đa lão thử thân
Tưởng đắc gia hương hoan tịch thượng
Cử tôn dao vị chúc hồi nhân.
(Ngô Thì Nhậm)
TRUNG THU
Thu trước thu nay trăng mấy độ
Vườn Minh sông Nhiệt khách ngàn khơi
Ả Hằng mặt ngọc yên như cũ
Đầu Sứ hoa râm trắng nữa rồi
Thu tiết đêm nay hơn nửa hết
Tha hương thân khách chóng già thôi
Quê nhà tưởng tượng đang nâng chén
Chúc Sứ xa về giữa tiệc vui.
(Khương Hữu Dụng dịch)
THU DẠ LỮ TÌNH
Mai dịch thê lương thấu khách trình
Bích ngô chi thượng báo thu thanh
Song hàm tĩnh luyện giang phong bạch
Chẩm lộng hàn quang hải nguyệt sinh
Án thượng hữu hoài đăng nhất điểm
Lâu tiền hà xứ địch tam canh
Thùy chân tòng xướng câu ly khúc
Lao lạc yên ba mộng bất thành.
(Ngô Thì Nhậm)
TÌNH LỮ KHÁCH ĐÊM THU
Thê lương quán trọ khách buồn thê
Ngô đồng trút lá báo thu về
Bên song trắng xóa dòng sông lặng
Mép gối xanh mờ cát biển xa
Nhung nhớ, đêm tàn lay án độc
Mơ màng, sáo vọng giục canh ba
Kìa đâu vắng khúc sầu ly biệt
Giấc mộng chìm trong khói sóng nhòa.
(Ngô Quang Nam dịch)
THU CHÂM (*)
Thanh tòng nguyệt dạ tam thiên hộ
Hưởng động Trường An thập nhị nhai
Viễn thú vị ưng năng đáo nhĩ
Thiên ư hoa dịch đảo thu hoài.
(Ngô Thì Nhậm)
Tiếng đập vải mùa thu
Trăng khuya chày vải nện sương
Vẳng đưa khắp nẻo phố phường
Chắc gì thấu tới ải quan
Sứ hoa xúc động can tràng nhớ thu.
(Lổ Côn dịch)
(*) Xem chú thích bài Thu Dạ ở dưới.
Đời nhà Nguyễn:
THU DẠ
Bạch lộ vi sương thu khí thâm
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng
Tứ thì yên cảnh độc trầm ngâm
Tảo hàn dĩ giác vô kỳ khổ
Hà xứ không khuê thôi mộ châm.(*)
(Nguyễn Du)
ĐÊM THU
Móc trắng thành sương thu lạnh loang
Bên thành cây cỏ vẻ tiêu hoang
Đèn khêu độc chiếu đêm dài dặc
Tóc vắt trăm lo vận lỡ làng
Nghìn dặm núi sông lòng luyến nhớ
Bốn mùa mây khói dạ sầu mang
Khổ thay rét sớm người không áo
Khuê phụ chày xa dục nắng tàn.
(Nguyễn Tam dịch)
(*) Nghề làm vải ngày xưa có đoạn dùng chày nện vải trên một tảng đá (=châm) cho vải mềm mại mỏng đẹp. Âm thanh nện vải nầy gợi cảm hứng rất lớn cho thi nhân ngày xưa, đặc biệt dùng miêu tả nỗi lòng chinh phụ nhớ chồng (chinh phu) ngoài biên ải. Ở đây là chinh phụ nện vải để may áo rét cho chồng.
THU CHÍ
Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật
Phao trịch như thoa hoán bất hồi
Thiên lý xích thân vi khách cửu
Nhất đình hoàng diệp tống thu lai
Liêm thùy tiểu cát tây phong động
Tuyết ám cùng thôn hiểu giốc ai
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát
Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
(Nguyễn Du)
THU ĐẾN
Bốn mùa cảnh đẹp được bao ngày
Vùn vụt thoi đưa gọi chẳng lùi
Ngàn dặm năm chày thân khách trọi
Một sân thu đến lá vàng bay
Gió tây gác nhỏ rèm lay động
Còi sớm làng xa tuyết phủ đầy
Ngày tháng trôi mau buồn tóc bạc
Nỗi riêng u uất chửa chừng khuây.
(Nguyễn Thạch Giang dịch)
Thời Pháp Thuộc:
GIÓ THU THU SANG
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm lá rơi sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Trận gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không.
(Tản Đà)
Thu sang
Khắp nẻo hồng mai trải lá vàng
Đàn ve dắng dỏi đón thu sang
Lòng ơi chớ để đêm trăng lạnh
Giấc mộng gia hương bướm phụ phàng.
TÌNH THÙ
Xưa tiễn thu đi chiếc lá hồng
Nay thu về với bóng trăng trong
Sương qua hoa biết tình thu trượng
Mượn gió đưa hương ấp ủ lòng.
(Quách Tấn)
ĐÊM THU NGHE HỌA KÊU
Từ Ô Y Hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương sông bạc (*)
Lạnh lẽo thương ai rụng giếng vàng (*)
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
(Quách Tấn)
(*) Ô Y Hạng=xóm áo đen, nơi những nhà quyền quý họ Vương và họ Tạ ở kinh đô Kiến Nghiệp bên Tàu thời Đông Tấn. Kiến Nghiệp nay là Nam Kinh. Chữ “Ô” ở đây nghĩa là đen chứ không phải là con quạ (tác giả chơi chữ).
(*) Sông bạc=Ngân hà, nhắc chuyện Chức Nữ. Giếng vàng=Giếng Trọng Thủy, nhắc chuyện Mỵ Châu.
BUỒN THU
Ấp úng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Ngàn trùng sương tỏa cây e lạnh
Cảnh sắp về đông mắt lệ rơi.
(Hàn Mặc Tử)
TIẾNG THU
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạt
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
(Lưu Trọng Lư)
THU
Hôm qua thu mới về
Với một cành hoa gãy
Sương nặng gieo đầu tre
Lạnh tràn theo gió đẩy
Thu tới trong vườn bên
Ngợ ngàng màu cúc mới
Đêm qua bên láng giềng
Êm tựa nhàn, thu tới
Cô gái nhỏ thung dung
Qua miếng vườn hoa nhỏ
Đất nằm in dưới cỏ
Hoa tạ màu nhớ nhung.
(Huy Cận)
ĐÂY MÙA THU TỚI
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang với chuyến đò
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khi trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
(Xuân Diệu)
TRUNG THU
Tuổi nầy cũng dự lễ Trung Thu
Góp mặt làng văn chén tạc thù
Thi hữu chuốt lời xinh tựa vẽ
Ca công cất giọng đẹp như ru
Đầy đường xanh đỏ, đèn dưng cộ (*)
Khắp chợ tùng chen, trống múa cù (*)
Thấy trẻ vui đùa, vui gượng gạo
Nước non sầu thảm bóng trăng lu.
(Lãng Ba) (*) Cù lân và cộ đèn.
Thời VN cộng hòa:
THU (Xướng)
Thu ơi, ai nhuộm lá thu vàng
Lá ngập tơi bời đến ải quan
Cây cỏ ngậm ngùi sầu thế hệ
Nước non vương vấn hận thời gian
Vườn thơ vắng bướm hương tàn tạ
Cánh nhạn tung mây gió phũ phàng
Ôi mảnh hồn trăng từ vạn kỷ
Gieo chi đất bụi một màu tang.
(Nguyễn Vỹ)
THU (Họa)
Tàn lục lưa thưa điểm lá vàng
Heo mây heo hắt giục thu sang
Sương lồng trướng khói: mờ gương thỏ
Gió vén rèm mây: chẳng bóng nhàn
Khí mát xông thềm, hơi dế lạnh
Mưa dầm trĩu nhánh, giọng thiền khan
Bắc Nam kinh vỹ trời tuy khác
Thu đến sầu thu cũng ngập tràn.
(Trần Văn Hương)
THU
Giong buồm lục tỉnh về chơi
Mưa thu nhớ mãi mây trời miền Tây
Ba mươi ngày trước bao ngày
Lang thang bờ bến dọc dài đồng xanh
Giòng sông rộng, sống mông mênh
Trời mây trăng nước gió bềnh bồng đưa
Nhớ nhung những tháng ngày xưa
Thân còn khỏe mạnh hồn chưa rã rời
Tha hồ du lãm khắp nơi
Long Xuyên Châu Đốc đất trời miền Tây
Thu xưa sống lại thu nầy
Thu xưa nô nức thu nay buồn buồn
Buồn vui cũng một cỗi nguồn
Nhấp nhô ngọn sống vui buồn xuống lên.
(Bùi Giáng)
(3) Đây là những bài thơ đặc biệt muốn ra khỏi 2 khuynh hướng trên: SƠN VŨ
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la
Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức vị thùy đa.
(Tổ sư Huyền Quang)
NHÀ NÚI
Gió thu xào xạc thổi ngoài hiên
Núi vắng lều tranh gối cỏ mềm
Nếu quả thiền tâm là một khối
Tiếng trùng sao réo gọi thâu đêm.
(Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch)
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nữa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
(Tản Đà)
CHIỀU THU
Chiều thu mây trắng nhớ nhung
Những trăm nghìn nỗi mông lung nhớ gì
Nhớ gì có lúc lâm ly
Có lần thư thái thuận tùy nhớ nhung
Nhớ gì cũng thể như không
Nhớ gì cũng được - nhớ mong không gì
Không gì cả! Chẳng có gì
Nhớ gì chẳng có, có vì nhớ suông.
(Bùi Giáng)
(1) Khuynh hướng thơ Thu ngày nay trước hết là đem sự sống động của chính tác giả vào (bối) Cảnh Thu như 2 bài họa dưới đây của bài Thu Điếu của ông Nguyễn Khuyến.
THU ĐIẾU
(Nguyên bản)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền con bé tẻo teo
Sóng nước theo làn hơi gợn tý
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Nguyễn Khuyến)
THU CẢM
(Họa 1)
Sân vắng bóng người, muỗi véo veo
Chiều thu ảm đạm thấy buồn teo (theo)
Hoa tàn theo nắng, cành khô cứng
Lá rụng đầy sân, gió thổi vèo
Nhớ bạn cố tri, sầu áo não
Thương người cố cựu, ốm tong teo
Ao sâu nước đục không còn cá
Thơ thẩn vài câu, đứng đá bèo! (*)
(Phan Thượng Hải)
(*) Giống như ông Trạng Quỳnh.
THU CA
(Họa 2)
Mặt hồ yên tĩnh, nước trong veo
Thu cảm lạnh người thấy tí teo (lạnh theo)
Xa lánh tình đời tìm vắng vẻ
Sợ e miệng thế phải vòng vèo
Thu đàm lắm lúc quên cằn cỗi? (*)
Thu cuối trong đời bệnh ốm teo!
Thu điếu ôm cần lâu chẳng động
Thu ca ướt át mát tai bèo.
(Phan Thượng Hải)
(*) Đàm=đàm luận, chuyện trò.
(2) Một số thi nhân viễn xứ cũng dùng mùa thu để riêng tỏ tình yêu cố quốc nồng ấm mà thôi:
THU MƠ
(Nguyên bản)
Mỗi độ thu sang ta thẩn thơ,
Mơ về đất nước cách đôi bờ.
Mơ dân chủ thực không còn mộng,
Mơ tự do rồi chẳng phải mơ.
Mơ ngọn cờ vàng bay phất phới,
Mơ người em gái đợi mong chờ.
Mơ mùa thu tới quê hương đẹp,
Mơ gặp mẹ già với trẻ thơ…
(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)
(3) Tuy nhiên căn bản về Cảnh Thu và Cảm Tình trong mùa Thu vẫn không thay đổi vì đó là Cái Đẹp trong thơ Mùa Thu của thi nhân:
THU MƠ
(Họa)
Thu về gợi cảm hứng nhà thơ
Lãng mạn tâm tư khắp cõi bờ
Nguyễn Khuyến ôm cần say cảnh đẹp
Tản Đà nhìn lá thả hồn mơ
Sóng tình tiền chiến yêu sầu khổ
Nỗi nhớ tha hương mộng ngóng chờ
Theo giấc thụy miên đầy quyến rũ
Hiu hiu gió mát quyện thành thơ.
(Phan Thượng Hải)
THU LÃNG MẠN
Ngoạn cảnh si tình nghĩ vẩn vơ
Mùa thu quyến rũ dệt thành thơ
Đất trời ảm đạm sinh buồn bã
Vạn vật tàn phai thấy thẫn thờ
Lộng nguyệt thanh thiên xây cõi mộng
Hoàng hoa lạc diệp thả hồn mơ
Buồn mơ thương nhớ say theo rượu
Lãng mạn thi nhân thỏa đợi chờ.
(Phan Thượng Hải)
THU VỀ
(Nguyên bản)
Hạ khuất thu về tưởng bóng em
Ngoài hiên lá đổ ngập bên thềm
Lưng trời gió thổi mây bay thoảng
Mặt nước bèo trôi sóng gợn êm
Năm tháng phôi pha lòng lữ khách
Tuổi đời dang dở mộng chinh yên
Thu nầy gợi nhớ trăng thu cũ
Dưới mái trường xưa một dáng tiên
(Cư sĩ Bùi Đình Liệu)
(4) Cái Đẹp là một hiện tượng Buồn và không lối thoát nhưng thi nhân hiện đại đã đưa ra những lối thoát dựa trên “Tịnh Tâm”, “Hưởng Nhàn” và nhất là “Tri Túc” trong tuổi già. Nhờ đó thi nhân lại càng thêm cảm hứng với mùa Thu hơn nữa?
THU VỀ
(Họa)
Chớm lạnh vào thu nghĩ đến em
Đạo tràng thưởng nguyệt dạo quanh thềm
Trăng trong mường tượng người xưa cũ
Gió thoảng mơ hồ tiếng dịu êm
Thục nữ cách xa lòng vẫn nhớ
Thiền môn gần gũi dạ chưa yên
Trời thu lãng mạn hồn cư sĩ
Mơ mộng hình hài một Giáng Tiên.
(Phan Thượng Hải)
THU HỨNG
Gió mát hiu hiu bóng xế tà
Thu về cảm hứng sướng đời ta
Nhấp trà nhắm rượu, người khoan khoái
Tức cảnh sinh tình, dạ thiết tha
Thấy lá vàng rơi thương mỹ nữ!
Nhờ trăng huyền ảo tưởng tiên nga
Quên hè nắng cực, chờ đông giá…
Thích thú lăng nhăng hết thấy già.
(Phan Thượng Hải)
(*) Một trà một rượu một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. (Tú Xương)
MÙA THU CỦA TUỔI GIÀ
(Nguyên bản)
Lá rụng đầy sân ngập lối vào
Gió Thu thoáng nhẹ nhạc lao xao
Ông già lọm khọm đưa cần chổi
Bà lão lui cui đẩy cán cào
Lửa nhóm một lùm nương gió quyện
Tình khơi hai bóng dựa vai nhau
Hong tay khói ấm mùi thu thảo
Nắng xế ai tô bạc trắng đầu.
(Kế Đô Đỗ Kiểm)
MÙA THU CỦA TUỔI GIÀ
(Họa)
Nhà vắng đìu hiu gió lạnh vào,
Trời Thu ảm đạm sắc xanh xao.
Lá vàng trước ngõ đầy cây chổi
Cành mục ngoài sân mắc lưỡi cào.
Lúc trẻ hai người cùng góp sức,
Về già đôi lứa sống nương nhau.
Tình yêu gắn bó bao dâu bể,
Ngày tháng phôi pha bạc mái đầu.
(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)
VÀO THU
(Họa)
Xuân hết Hè qua Thu đã vào
Nhìn màu lá đổi dạ xôn xao
Mảnh vườn lúc trước siêng năng cuốc
Đống đất khi nay biếng ngại cào
Con cái trưởng thành đi tuốt luốt
Mẹ cha hưu dưỡng ở bên nhau
Gần xa nhịp bước cùng lui tới
Mãi sánh bờ vai dẫu bạc đầu
(Thạch Ngọc Trương Ngọc Thạch)
THU TÀN
(Họa)
Danh lợi phù sinh chẳng bước vào
Thu tàn đông đến tránh xôn xao
Lòng còn thương nhớ, tim thôi nhói
Thân trải gian lao, ruột hết cào
Tráng chí hùng tâm thành quá khứ
Tiện nhàn tri túc sống gần nhau
Tình già nghĩa cũ cùng chia sẻ
Thơ thẩn trần gian lúc bạc đầu.
(Phan Thượng Hải)
MÙA THU DẪN CHÁU ĐI CHƠI
(Họa)
Sáng sáng công viên ghé bước vào
Ngắm đàn cháu nhỏ tiếng lao xao
Thằng em hớn hở, vui hay phá
Con chị hung hăng, giận cứ cào
Cầu tuột, xích đu, theo chẳng kịp
Năm mười, cút bắt, trốn kề nhau
Mùa Thu tuổi tác thôi băng giá
Bởi có mùa Xuân tựa mái đầu
(Phan Huệ Lan)
THU HƯƠNG
Mùa thu tàn tạ tiếc thu hương
Qua đến lập đông đã tận tường
Sắc đẹp hoa xuân tuy vẫn nhớ
Tình nồng nắng hạ hết còn vương
Tử sinh từng trải đời vô ngã
Lão bệnh cưu mang cảnh đoạn trường
Man mác trong ta bao kỷ niệm
Cùng nhau chia sẻ một niềm thương.
(Phan Thượng Hải)
Ngoài việc làm không gian thêm sống động và vẫn giữ cảm tình, thi nhân hiện đại đem tâm tình và thời gian vào thơ mùa thu. Tất cả những thể thơ cũng đã được dùng trong thơ về mùa Thu. Như vậy thơ về mùa thu đã hoàn hảo, không thêm bớt được nữa. Bài thơ Thu mới làm dưới đây cũng trong vòng lẩn quẩn với Cảnh Tình Thu giống như thơ xưa mấy trăm năm về trước?
DÁNG THU
Yểu điệu nàng thu đến dịu dàng
Bên hồ bán nguyệt bóng trăng loang
Lung linh mặt nước soi màu biếc
Rực rỡ rừng phong trổ sắc vàng
Nhặt chiếc lá rơi sầu diệu vợi
Gom cành hoa rụng nhớ mênh mang
Bóng chiều thấp thoáng trên sông vắng
Vọng tiếng xa xa én gọi đàn.
(Vô Danh Thị)
Tuy nhiên khí hậu mùa Thu ở California cũng tạo ra một ý thơ mới lạ về thơ Mùa Thu?
THU NÓNG QUÁ TRỜI
(Xướng)
Vừa mới vào thu nóng quá trời
Cháy rừng lan rộng khắp nơi nơi
Tầng mây từng cụm bay lơ lửng
Bãi biển đầy người tắm đã đời
Lũ trẻ thả diều quên mệt nhọc
Cụ già trốn nắng thích nằm ngơi
Môi trường phá hủy do nhân loại
Bởi vậy đừng than trách tại trời.
(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)
THU ĐẾN CALI
(Họa)
An cư viễn xứ cũng nhờ
Trời Thu đến Cali, nóng khắp nơi
Hạn hán thiên nhiên không toại ý
Tiện nghi nhân tạo vẫn vui đời
Tâm tư vô niệm càng thơ thẩn
Hoa cỏ để tàn được nghỉ ngơi
Dẫu có khát khao còn nhớ nước
Thủy chung thức ngộ biết ơn Trời.
Cảnh không gian mùa Thu (đa số là cảnh thiên nhiên), ngoài những thông thường là sông, núi, biển, ao, rừng…. thì có thực vật và động vật ở dưới đất, trên trời và khí hậu. Thực vật gồm có cây cành, hoa và lá. Thường là cây cành khô tiêu điều và lá vàng rơi rụng. Những cây được mô tả là lau, liễu, ngô đồng, thùy dương; đôi khi có cây hoè hay cây trúc, cây tùng. Hoa của mùa thu là cúc (vàng), hải đường và sen. Động vật thường là chim, đặc biệt là nhạn (én), quạ và ngỗng. Dưới đất thì có cá, vịt, dế, ếch hay ểnh ương trong mùa mưa. Thi nhân tiền chiến có thêm nai (vàng) hay cô gái trẻ. Nếu không mưa, thì trời xanh, ít mây (cô vân) và trăng sáng, tròn hay trăng trong. Ngoài ra còn có gió tây hay heo may rồi sương và tuyết. Thời tiết mát lạnh và không khí êm nhẹ. Thi nhân không quên âm thanh của mùa thư từ thiên nhiên, động vật hay tiếng sáo và tiếng đàn. Thi nhân thường có Thu Cảm tức là cảm giác hòa đồng với cảnh Thu và thích uống rượu hoặc đi chùa.
Từ cảnh mùa Thu, thi nhân cảm động sinh ra Cảm Tình gồm có sầu buồn, mơ, nhung nhớ, cô đơn, xa vắng, ly biệt… và say (có khi với rượu). Đối tượng của tình thu là quê nhà, non nước, người thương yêu (như tình nhân hay vợ chồng) hay đặc biệt là Mỵ Châu, Chức Nữ và Hằng Nga. Một đối tượng khác thuộc về thời gian đó là Lão (và Bệnh).
Chúng ta hãy nhìn lại Văn học sử từ đời nhà Trần để tìm những bài thơ cũ bằng chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc Ngữ:
(1) Thơ nước ta bắt đầu từ đời nhà Trần thì cũng có thơ về Cảnh mùa Thu. Thơ tả cảnh lần lượt xuất hiện qua đời nhà Hậu Lê, đời nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc (tiền chiến) và thời VN cộng hòa:
Đời nhà Trần:
TẢO THU
Dạ khí phân lương nhập họa bình
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh
Trúc đường vọng thích hương sơ tận
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.
(Tổ sư Huyền Quang)
ĐẦU THU
Hương đêm mát dịu bình phong lạnh
Xào xạc thu sang lá động cành
Trúc đường thong thả hương vừa đốt
Cành cây chăng lưới lọt trăng thanh.
(Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch)
PHIẾM CHU
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang
Sơn thanh thủy lục hựu thu quang
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoạn
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
(Tổ sư Huyền Quang)
ĐI THUYỀN
Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ
Thu sáng ngời xanh nước với cây
Tiếng sáo thôn chài lau lách vọng
Trăng lặng giòng sông sương trắng đầy.
(Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch)
THU NHẬT
Lâm lưu mao xá bản phi huynh
Tiểu phố thu thâm hứng chuyển thanh
Mai tảo cúc phương hiền tử đệ
Tùng thương trúc sấu lão công khanh
Thụ huyên phong nộ tâm nan động
Vân tận thiên cao nhãn tự minh
Tây vọng yên hoa phi tích nhật
Thuần lô tứ viễn bất câm tình.
(Trần Nguyên Đán) (*)
NGÀY THU
Nhà cỏ cài then đứng mé sông
Vườn thu trong trẻo hứng mênh mông
Con em tài tuấn dường mai cúc
Khanh tướng già nua tựa trúc thông (tòng)
Cây rộn gió gào lòng vẫn vững
Mây quang trời bổng mát thêm trong
Phồn hoa ngoảnh lại xa ngày trước
Vược cá thuần rau vướng nỗi lòng.
(Đào Phương Bình dịch)
(*) Ông Trần Nguyên Đán là em vua Trần Nghệ Tông và là ông ngoại của ông Nguyễn Trãi.
Đời nhà Hậu Lê:
VỊNH CẢNH MÙA THU 1
Một nhạn hòa truyền lệnh Nhục Thu (*)
Song thưa ngần ngật lọt hơi thu
Vàng phô rãnh cúc khi sương rụng
Bạc điểm ngàn lau thuở tuyết mù
Đèn sách trên yên nghề cử tử
Can qua ngoài ải việc chinh phu
Thảnh thơi đêm có vầng trăng giãi
Sáng tỏ làu làu khắp chín châu.
(Lê Thánh Tông/ thi nhân đời Hồng Đức)
(*) Nhạn=chim én. Nhục Thu=vị thần giữ hành Kim, trông coi việc mùa thu (sách Lễ ký)
VỊNH CẢNH MÙA THU 2
Hơi may hây hẩy lọt chồi ngô (*)
Đòi trận so le nhạn khiếp thu (*)
Xan xát vàng, buông chậu cúc
Phau phau bạc, phất cờ lau
Hòe pha khóm lục chim phơi ngọc
Nguyệt giãi dòng trong cá hớp châu (đớp ngọc châu)
Với hỏi kia ai trong tuyết tĩnh
Thủa về niềm niệm mãi sông Ngô. (**)
(Lê Thánh Tông/thi nhân đời Hồng Đức)
(*) Ngô=ngô đồng. Đòi trận=nhiều đàn
(**) Sông Ngô: chuyện Trương Hàn người Ngô Quận làm quan ở Lạc Dương thời Tây Tấn nhân “cảm” tiết mùa thu nhớ quê hương nên cáo quan trở về.
VỊNH CẢNH MÙA THU 3
Lác đác ngô đồng mấy lá bay (*)
Tin thu hiu hắt lọt hơi may
Ngàn kia cách nước xo le địch (*)
Mái nọ bên tường đủng đỉnh chày (*)
Lau chống bãi nam ngàn dặm lợp
Nhạn về ải bắc mấy hàng bày
Quý Ưng, Tống Ngọc, dường bao nữa (**)
Khi ấy nhiều người cám cảnh thay.
(Lê Thánh Tông/thi nhân đời Hồng Đức)
(*) Ngô đồng đến mùa thu thì rụng lá. Địch=sáo. Chày: chày giả gạo (**) Quý Ưng=tên tự của Trương Hàn. Tống Ngọc có thơ thương cảm về mùa thu.
MÙA THU CHƠI THUYỀN
Nước xuôi nước ngược sóng dâng triều
Thuyền khách chơi thu nọ phải dìu
Chèo vượt bóng trăng nhân lúc hứng
Buồn giong ngọn gió mặc cơn phèo
Phơ phơ đầu bạc ông câu cá
Leo lẻo giòng xanh nước mắt mèo
Le vịt cùng ta như có ý
Đến đâu thời cũng thấy đi theo.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Đời nhà Nguyễn Tây Sơn:
VÃN THU THAM THIỀN
Khuất chỉ phiêu bồng ký ngũ niên
Kim thu thôn tự nhất tham thiền
Cúc hoa sơ quải hoàng kim giáp
Bối diệp trọng chiêm bạch ngọc thuyên
Vãng sự kỷ hồi hòe quốc mộng
Cố ngô y cựu trúc lâu duyên
Linh am tự tại linh quang tĩnh
Sảng nhập ngân câu tú thủy liên.
(Ngô Thì Nhậm)
THAM THIỀN VÀO BUỔI CUỐI THU
Bấm đốt năm năm dạt khắp miền
Chùa quê thu lại bước tìm lên
Cánh vàng vừa tách xòe hoa cúc
Lá bối lần xem bén vị thiền
Chuyện cũ giấc hòe bao ảo mộng
Thân xưa lầu trúc vẫn tiền duyên
Am thiêng còn đó tòa sen lặng
Khí mát hồ trong mặt nước êm.
(Khương Hữu Dụng dịch)
Đời nhà Nguyễn:
VỊNH MÙA THU
Trời thu phảng phất gió chiều
Mây về Ngàn Hống buồn treo ráng vàng (*)
Sang thu tiết hơi may hiu hắt
Cụm sen già lã chã phai hương
Sương giày giậu trúc đóa hoa vàng
Son nhuộm non đào cành lá đỏ
Lãnh vũ như ty trùng chức dạ
Tình thiên tác chỉ nhạn thư không
Phúc đâu đâu một trận hảo phong
Trên cung Quảng xa đưa hương quế
Giời biếc biếc nước xanh một vẻ
Khéo hóa công khéo vẽ nên đồ
Một năm được mấy mùa thu.
(Nguyễn Công Trứ) (*)
Tên tiếng Nôm của núi Hồng Lĩnh (cũng là quê hương của ông Nguyễn Công Trứ)
THU DẠ ĐỘC TỌA TỨC SỰ
Minh nguyệt nhập tiền hiên
Cô ả khuy thanh tôn
U nhân ái dạ tọa
Tương đối diệc vong ngôn
Khởi lập miện không vũ
Nhân chi thiệp nhàn viên
Tức tức hậu trùng ngữ
Thu thu giang điểu huyên
Minh cư đạm độc thích
U thưởng diệu tư luân
Bạc chước sấn hương dạ
Úy ngã cơ lưu hồn.
(Cao Bá Quát)
Đêm thu ngồi một mình tức cảnh
Trăng sáng lọt hiên trước
Bóng nghiêng bầu rượu nhòm
Người buồn thích đêm vắng
Ngồi lặng đối trăng suông
Đứng dậy nhìn trời đất
Tiện bước dạo quanh vườn
Trùng tới mùa, ran rỉ
Chim bên song véo von
Riêng thích ở nơi vắng
Tự vui trong cảnh buồn
Nhân đêm thanh nhắp chén
Yên ủi nỗi cô đơn.
(Khương Hữu Dụng dịch)
THU CẢM
Thu vũ liên hà giáp ngạn phồn
Ngư ca ái ái náo tiền thôn
Thiên biên nhất nhất hoành không lộ
Giang thượng song song phá lãng đồn
Cao thọ loạn dao phong tự chiến
Lạc hoa bất tụ thủy như bôn
Biên chu nhất trạo tri hà vãng
Tháp thượng đàm tâm tửu mãn tôn.
(Bùi Hữu Nghĩa)
CẢM XÚC MÙA THU
Sen gặp mưa thu rộ loáng bờ
Rộn nghe thợ lưới hát u ơ
Chân mây cò ráp cành dài đặc
Mặt sóng nước đưa tóc bạc phơ
Gió thổi cây chồm rung lấp cập
Nước đùa hoa rụng chảy lờ đờ
Giong thuyền nào biết đi đâu hử?
Cùng khách chuyện riêng say gật gờ.
(Nguyễn Hữu Nghĩa dịch)
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền con bé tẻo teo
Sóng nước theo làn hơi gợn tý
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Nguyễn Khuyến)
THU VỊNH
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
Nước biếc trong như làn khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
(Nguyễn Khuyến)
THU ẨM
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Mắt lão không vần cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
(Nguyễn Khuyến)
Thời Pháp thuộc:
ĐÊM THU CẢM TÁC
Khen ai khéo vẽ nét trời thu
Nước biếc non xanh một bức đồ
Bên vách rỉ reo đờn cánh dế
Ngoài sân lác đác mõ nhành ngô
Mây năm tầng bũa, rồng phun nước
Trống bốn bể vang, ếch được mưa
Đêm vắng cùng ai trò chuyện nhỉ?
Chuông chùa xen với tiếng nam mô.
(Phan Bội Châu)
THU RỪNG
Bỗng dưng buồn bã không gian
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về
Sắc trời trôi nhạt dưới khe
Chim đi lá rụng cành nghe lạnh lùng
Sầu thu lên vút song song
Với cây hiu quạnh với lòng quạnh hiu
Non xanh ngây cả buồn chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia,
(Huy Cận)
ĐÊM THU
Vườn thu óng ả nét thùy dương
Đưa nhẹ đêm thu cánh hải đường
Lóng lánh rẻo vàng gieo bến nguyệt
Phất phơ tơ nhện tỏa ngàn sương
Chim hồi hộp mộng cơn mê lá
Cúc vẩn vơ hồn ngọn gió hương
Say khước hơi men thời Lý Bạch
Non xa mây phới nếp Nghê Thường.
(Quách Tấn)
Thời VN cộng hòa:
TIẾT THU
Ẩm ướt cỏ hoa đã ngán mùi
Đất trời ầm ĩ vẫn chưa nguôi
Sương trùm, ngọc thố đang buồn bã
Mây phủ, kim ô luống ngậm ngùi (*)
Lạnh suốt ngày đêm còn gió thốc (*)
Nắng sơ giây lát lại mưa vùi
Cảnh thu ảm đạm chiều thu vắng
Khúc nhạc uền(h) oan(g) mãi sụt sùi. (**)
(Lãng Ba)
(*) Ngọc thố=thỏ ngọc, ám chỉ mặt trăng. Kim ô=quạ vàng, ám chỉ mặt trời
(**) Tiếng kêu của con ểnh ương
(2) Đây là những bài thơ về mùa Thu vừa tả cảnh vừa tả tình bắt đầu từ cuối đời Hậu Lê với ông Nguyễn Trãi:
Đời nhà Hậu Lê:
THU DẠ KHÁCH CẢM
Tây phong hán thụ hưởng tranh tranh
Diêu lạc thanh bi cửu khách tình
Hoàng diệp mãn đình thu quá bán
Thanh đăng hòa vũ dạ tam canh
Bệnh đa cốt sấu miên ưng thiểu
Quan lãnh thân nhàn mộng diệc thanh
Nhất niệm tức lai thiên niệm tức
Kê trùng tự thử liễu tương tranh.
(Nguyễn Trãi)
Đêm thu đất khách cảm hoài
Cây lộng gió tây vẳng tiếng đàn
Dạt dào tình khách tiếng bi than
Sân đầy lá úa thu già nửa
Mưa hắt đèn xanh khắc chửa tàn
Ngủ ít, xương gầy do bệnh lắm
Mộng thanh, mình rỗi bởi quan nhàn
Một niềm dứt ấy, muôn (ngàn) niềm dứt
Gà bọ thôi tranh kẻo hại thân.
(Đào Duy Anh dịch)
TRUNG THU ĐỐI NGUYỆT HỮU CẢM
Thiên cao thu nguyệt minh
Dao dao tương đối nhân
Tích niên thử kim dạ
Cao đường bạch phát xuân
Nguyệt hạ thiết tửu quả
Mỗi tiếu ngô gia bần
Kim niên thử kim dạ
Cô vẫn nhập vọng tần
Vân gian hà sở kiến
Trường không nguyệt nhất luân
Đăng tiền hí nhi nữ
Trùng vi ức ngô thân
Quan lý mãn nhai mạch
Ca quản động bàng lân
Hữu hoài đối minh nguyệt
Bất giác lệ triêm cân.
(Bùi Huy Bích)
Cảm xúc trước trăng thu
Trăng thu trong sáng trên cao
Xa xôi đối diện người vào cung trăng
Trăng xưa đêm ấy nhớ chăng
Song thân tóc bạc trán nhăn dãi dầu
Vẫn vui rượu dưới trăng thâu
Cười nhà ta đã bao lâu vẫn nghèo
Năm nay đêm cũng tiêu diêu
Ngắm nhìn mây lượn liêu xiêu trên trời
Thấy gì đây nữa mây ơi
Mênh mông bàng bạc một trời trăng non
Trước đèn đùa với các con
Mà lòng thương nhớ mỏi mòn song thân
Phố đông thiên hạ quây quần
Bên nhà hàng xóm sáo ngân vang rền
U hoài ngắm ánh trăng lên
Mà dòng lệ chảy bên thềm thắm khăn.
(Phạm Đình Nhân dịch)
THU VŨ
Thiên cách vân âm thảm bất minh
Tiêu tiêu thu vũ lạc nhân đình
Đoản trường khô thụ chi đầu lệ
Thù cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh
Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng
Sầu khiên liêu lạc ngũ canh tình
Thâm khuê tối khổ như hoa diện
Nhất phiến sầu dung dạ bất thành.
(Hồ Xuân Hương)
MƯA THU
Trời cách mây mù thảm chả (chẳng) xanh
Mưa thu sân vắng giọt buồn tanh
Đầu cành cây héo châu dài vắn
Trên lá tiêu vàng tiếng chậm thanh
Hát dứt đê mê mơ vạn dặm
Sầu giăng quạng quẽ nỗi năm canh
Khuê sâu rất khổ mày hoa ấy
Vẻ mặt buồn thương vẽ (dạ) chẳng thành.
(Bùi Hạnh Cẩn dịch)
THU NHẬT TỨC SỰ
Tây phong lạc dạ áp hàn chi
Ly cúc tiêu sơ tuyết vị phi
Mật vũ tà phi nhân sĩ diện
Cô vân miêu chức viễn sơn my
Liên dư tàn hạ lưu xuân đới
Liễu bạng nhiêu hương lão thúy y
Đề điểu mạc phi tri ngã huống
Thanh thanh trường động cố hương ty (tư)
(Hồ Xuân Hương)
NGÀY THU TỨC CẢNH
Đêm qua lành lạnh gió tây về
Dậu cúc đìu hiu tuyết chửa đi
Mưa nặng sông chia mờ vẻ mặt
Mây trơ non thẳm vẽ đường mi
Sen tàn hạ cuối dây thơm sót
Liễu ngả xuân thừa biếc áo che
Chim hót nỗi mình chăng có thấu
Lời lời dài đọng nỗi lòng quê.
(Bùi Hạnh Cẩn dịch)
Đời nhà Nguyễn Tây Sơn:
TRUNG THU
Thị niên khứ tuế trung thu nguyệt
Nhiệt thủy Minh viên vạn lý nhân
Nga tỷ ngọc nhan toàn tự cựu
Sứ hoa ban mấn hựu thiên tân
Thời quang cường bán tùy kim dạ
Khách huống thiên đa lão thử thân
Tưởng đắc gia hương hoan tịch thượng
Cử tôn dao vị chúc hồi nhân.
(Ngô Thì Nhậm)
TRUNG THU
Thu trước thu nay trăng mấy độ
Vườn Minh sông Nhiệt khách ngàn khơi
Ả Hằng mặt ngọc yên như cũ
Đầu Sứ hoa râm trắng nữa rồi
Thu tiết đêm nay hơn nửa hết
Tha hương thân khách chóng già thôi
Quê nhà tưởng tượng đang nâng chén
Chúc Sứ xa về giữa tiệc vui.
(Khương Hữu Dụng dịch)
THU DẠ LỮ TÌNH
Mai dịch thê lương thấu khách trình
Bích ngô chi thượng báo thu thanh
Song hàm tĩnh luyện giang phong bạch
Chẩm lộng hàn quang hải nguyệt sinh
Án thượng hữu hoài đăng nhất điểm
Lâu tiền hà xứ địch tam canh
Thùy chân tòng xướng câu ly khúc
Lao lạc yên ba mộng bất thành.
(Ngô Thì Nhậm)
TÌNH LỮ KHÁCH ĐÊM THU
Thê lương quán trọ khách buồn thê
Ngô đồng trút lá báo thu về
Bên song trắng xóa dòng sông lặng
Mép gối xanh mờ cát biển xa
Nhung nhớ, đêm tàn lay án độc
Mơ màng, sáo vọng giục canh ba
Kìa đâu vắng khúc sầu ly biệt
Giấc mộng chìm trong khói sóng nhòa.
(Ngô Quang Nam dịch)
THU CHÂM (*)
Thanh tòng nguyệt dạ tam thiên hộ
Hưởng động Trường An thập nhị nhai
Viễn thú vị ưng năng đáo nhĩ
Thiên ư hoa dịch đảo thu hoài.
(Ngô Thì Nhậm)
Tiếng đập vải mùa thu
Trăng khuya chày vải nện sương
Vẳng đưa khắp nẻo phố phường
Chắc gì thấu tới ải quan
Sứ hoa xúc động can tràng nhớ thu.
(Lổ Côn dịch)
(*) Xem chú thích bài Thu Dạ ở dưới.
Đời nhà Nguyễn:
THU DẠ
Bạch lộ vi sương thu khí thâm
Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng
Tứ thì yên cảnh độc trầm ngâm
Tảo hàn dĩ giác vô kỳ khổ
Hà xứ không khuê thôi mộ châm.(*)
(Nguyễn Du)
ĐÊM THU
Móc trắng thành sương thu lạnh loang
Bên thành cây cỏ vẻ tiêu hoang
Đèn khêu độc chiếu đêm dài dặc
Tóc vắt trăm lo vận lỡ làng
Nghìn dặm núi sông lòng luyến nhớ
Bốn mùa mây khói dạ sầu mang
Khổ thay rét sớm người không áo
Khuê phụ chày xa dục nắng tàn.
(Nguyễn Tam dịch)
(*) Nghề làm vải ngày xưa có đoạn dùng chày nện vải trên một tảng đá (=châm) cho vải mềm mại mỏng đẹp. Âm thanh nện vải nầy gợi cảm hứng rất lớn cho thi nhân ngày xưa, đặc biệt dùng miêu tả nỗi lòng chinh phụ nhớ chồng (chinh phu) ngoài biên ải. Ở đây là chinh phụ nện vải để may áo rét cho chồng.
THU CHÍ
Tứ thì hảo cảnh vô đa nhật
Phao trịch như thoa hoán bất hồi
Thiên lý xích thân vi khách cửu
Nhất đình hoàng diệp tống thu lai
Liêm thùy tiểu cát tây phong động
Tuyết ám cùng thôn hiểu giốc ai
Trù trướng lưu quang thôi bạch phát
Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
(Nguyễn Du)
THU ĐẾN
Bốn mùa cảnh đẹp được bao ngày
Vùn vụt thoi đưa gọi chẳng lùi
Ngàn dặm năm chày thân khách trọi
Một sân thu đến lá vàng bay
Gió tây gác nhỏ rèm lay động
Còi sớm làng xa tuyết phủ đầy
Ngày tháng trôi mau buồn tóc bạc
Nỗi riêng u uất chửa chừng khuây.
(Nguyễn Thạch Giang dịch)
Thời Pháp Thuộc:
GIÓ THU THU SANG
Trận gió thu phong rụng lá vàng
Lá rơi hàng xóm lá rơi sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng?
Trận gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không.
(Tản Đà)
Thu sang
Khắp nẻo hồng mai trải lá vàng
Đàn ve dắng dỏi đón thu sang
Lòng ơi chớ để đêm trăng lạnh
Giấc mộng gia hương bướm phụ phàng.
TÌNH THÙ
Xưa tiễn thu đi chiếc lá hồng
Nay thu về với bóng trăng trong
Sương qua hoa biết tình thu trượng
Mượn gió đưa hương ấp ủ lòng.
(Quách Tấn)
ĐÊM THU NGHE HỌA KÊU
Từ Ô Y Hạng rủ rê sang
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng
Bồn chồn thương kẻ nương sông bạc (*)
Lạnh lẽo thương ai rụng giếng vàng (*)
Tiếng dội lưng mây đồng vọng mãi
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
(Quách Tấn)
(*) Ô Y Hạng=xóm áo đen, nơi những nhà quyền quý họ Vương và họ Tạ ở kinh đô Kiến Nghiệp bên Tàu thời Đông Tấn. Kiến Nghiệp nay là Nam Kinh. Chữ “Ô” ở đây nghĩa là đen chứ không phải là con quạ (tác giả chơi chữ).
(*) Sông bạc=Ngân hà, nhắc chuyện Chức Nữ. Giếng vàng=Giếng Trọng Thủy, nhắc chuyện Mỵ Châu.
BUỒN THU
Ấp úng không ra được nửa lời
Tình thu bi thiết lắm thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi
Nằm gắng đã không thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi
Ngàn trùng sương tỏa cây e lạnh
Cảnh sắp về đông mắt lệ rơi.
(Hàn Mặc Tử)
TIẾNG THU
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạt
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
(Lưu Trọng Lư)
THU
Hôm qua thu mới về
Với một cành hoa gãy
Sương nặng gieo đầu tre
Lạnh tràn theo gió đẩy
Thu tới trong vườn bên
Ngợ ngàng màu cúc mới
Đêm qua bên láng giềng
Êm tựa nhàn, thu tới
Cô gái nhỏ thung dung
Qua miếng vườn hoa nhỏ
Đất nằm in dưới cỏ
Hoa tạ màu nhớ nhung.
(Huy Cận)
ĐÂY MÙA THU TỚI
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang với chuyến đò
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khi trời u uất hận chia ly
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
(Xuân Diệu)
TRUNG THU
Tuổi nầy cũng dự lễ Trung Thu
Góp mặt làng văn chén tạc thù
Thi hữu chuốt lời xinh tựa vẽ
Ca công cất giọng đẹp như ru
Đầy đường xanh đỏ, đèn dưng cộ (*)
Khắp chợ tùng chen, trống múa cù (*)
Thấy trẻ vui đùa, vui gượng gạo
Nước non sầu thảm bóng trăng lu.
(Lãng Ba) (*) Cù lân và cộ đèn.
Thời VN cộng hòa:
THU (Xướng)
Thu ơi, ai nhuộm lá thu vàng
Lá ngập tơi bời đến ải quan
Cây cỏ ngậm ngùi sầu thế hệ
Nước non vương vấn hận thời gian
Vườn thơ vắng bướm hương tàn tạ
Cánh nhạn tung mây gió phũ phàng
Ôi mảnh hồn trăng từ vạn kỷ
Gieo chi đất bụi một màu tang.
(Nguyễn Vỹ)
THU (Họa)
Tàn lục lưa thưa điểm lá vàng
Heo mây heo hắt giục thu sang
Sương lồng trướng khói: mờ gương thỏ
Gió vén rèm mây: chẳng bóng nhàn
Khí mát xông thềm, hơi dế lạnh
Mưa dầm trĩu nhánh, giọng thiền khan
Bắc Nam kinh vỹ trời tuy khác
Thu đến sầu thu cũng ngập tràn.
(Trần Văn Hương)
THU
Giong buồm lục tỉnh về chơi
Mưa thu nhớ mãi mây trời miền Tây
Ba mươi ngày trước bao ngày
Lang thang bờ bến dọc dài đồng xanh
Giòng sông rộng, sống mông mênh
Trời mây trăng nước gió bềnh bồng đưa
Nhớ nhung những tháng ngày xưa
Thân còn khỏe mạnh hồn chưa rã rời
Tha hồ du lãm khắp nơi
Long Xuyên Châu Đốc đất trời miền Tây
Thu xưa sống lại thu nầy
Thu xưa nô nức thu nay buồn buồn
Buồn vui cũng một cỗi nguồn
Nhấp nhô ngọn sống vui buồn xuống lên.
(Bùi Giáng)
(3) Đây là những bài thơ đặc biệt muốn ra khỏi 2 khuynh hướng trên: SƠN VŨ
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la
Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức vị thùy đa.
(Tổ sư Huyền Quang)
NHÀ NÚI
Gió thu xào xạc thổi ngoài hiên
Núi vắng lều tranh gối cỏ mềm
Nếu quả thiền tâm là một khối
Tiếng trùng sao réo gọi thâu đêm.
(Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch)
MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần thế em nay chán nữa rồi
Cung quế đã ai ngồi đó chửa
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Có bầu có bạn can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.
(Tản Đà)
CHIỀU THU
Chiều thu mây trắng nhớ nhung
Những trăm nghìn nỗi mông lung nhớ gì
Nhớ gì có lúc lâm ly
Có lần thư thái thuận tùy nhớ nhung
Nhớ gì cũng thể như không
Nhớ gì cũng được - nhớ mong không gì
Không gì cả! Chẳng có gì
Nhớ gì chẳng có, có vì nhớ suông.
(Bùi Giáng)
(1) Khuynh hướng thơ Thu ngày nay trước hết là đem sự sống động của chính tác giả vào (bối) Cảnh Thu như 2 bài họa dưới đây của bài Thu Điếu của ông Nguyễn Khuyến.
THU ĐIẾU
(Nguyên bản)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền con bé tẻo teo
Sóng nước theo làn hơi gợn tý
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Nguyễn Khuyến)
THU CẢM
(Họa 1)
Sân vắng bóng người, muỗi véo veo
Chiều thu ảm đạm thấy buồn teo (theo)
Hoa tàn theo nắng, cành khô cứng
Lá rụng đầy sân, gió thổi vèo
Nhớ bạn cố tri, sầu áo não
Thương người cố cựu, ốm tong teo
Ao sâu nước đục không còn cá
Thơ thẩn vài câu, đứng đá bèo! (*)
(Phan Thượng Hải)
(*) Giống như ông Trạng Quỳnh.
THU CA
(Họa 2)
Mặt hồ yên tĩnh, nước trong veo
Thu cảm lạnh người thấy tí teo (lạnh theo)
Xa lánh tình đời tìm vắng vẻ
Sợ e miệng thế phải vòng vèo
Thu đàm lắm lúc quên cằn cỗi? (*)
Thu cuối trong đời bệnh ốm teo!
Thu điếu ôm cần lâu chẳng động
Thu ca ướt át mát tai bèo.
(Phan Thượng Hải)
(*) Đàm=đàm luận, chuyện trò.
(2) Một số thi nhân viễn xứ cũng dùng mùa thu để riêng tỏ tình yêu cố quốc nồng ấm mà thôi:
THU MƠ
(Nguyên bản)
Mỗi độ thu sang ta thẩn thơ,
Mơ về đất nước cách đôi bờ.
Mơ dân chủ thực không còn mộng,
Mơ tự do rồi chẳng phải mơ.
Mơ ngọn cờ vàng bay phất phới,
Mơ người em gái đợi mong chờ.
Mơ mùa thu tới quê hương đẹp,
Mơ gặp mẹ già với trẻ thơ…
(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)
(3) Tuy nhiên căn bản về Cảnh Thu và Cảm Tình trong mùa Thu vẫn không thay đổi vì đó là Cái Đẹp trong thơ Mùa Thu của thi nhân:
THU MƠ
(Họa)
Thu về gợi cảm hứng nhà thơ
Lãng mạn tâm tư khắp cõi bờ
Nguyễn Khuyến ôm cần say cảnh đẹp
Tản Đà nhìn lá thả hồn mơ
Sóng tình tiền chiến yêu sầu khổ
Nỗi nhớ tha hương mộng ngóng chờ
Theo giấc thụy miên đầy quyến rũ
Hiu hiu gió mát quyện thành thơ.
(Phan Thượng Hải)
THU LÃNG MẠN
Ngoạn cảnh si tình nghĩ vẩn vơ
Mùa thu quyến rũ dệt thành thơ
Đất trời ảm đạm sinh buồn bã
Vạn vật tàn phai thấy thẫn thờ
Lộng nguyệt thanh thiên xây cõi mộng
Hoàng hoa lạc diệp thả hồn mơ
Buồn mơ thương nhớ say theo rượu
Lãng mạn thi nhân thỏa đợi chờ.
(Phan Thượng Hải)
THU VỀ
(Nguyên bản)
Hạ khuất thu về tưởng bóng em
Ngoài hiên lá đổ ngập bên thềm
Lưng trời gió thổi mây bay thoảng
Mặt nước bèo trôi sóng gợn êm
Năm tháng phôi pha lòng lữ khách
Tuổi đời dang dở mộng chinh yên
Thu nầy gợi nhớ trăng thu cũ
Dưới mái trường xưa một dáng tiên
(Cư sĩ Bùi Đình Liệu)
(4) Cái Đẹp là một hiện tượng Buồn và không lối thoát nhưng thi nhân hiện đại đã đưa ra những lối thoát dựa trên “Tịnh Tâm”, “Hưởng Nhàn” và nhất là “Tri Túc” trong tuổi già. Nhờ đó thi nhân lại càng thêm cảm hứng với mùa Thu hơn nữa?
THU VỀ
(Họa)
Chớm lạnh vào thu nghĩ đến em
Đạo tràng thưởng nguyệt dạo quanh thềm
Trăng trong mường tượng người xưa cũ
Gió thoảng mơ hồ tiếng dịu êm
Thục nữ cách xa lòng vẫn nhớ
Thiền môn gần gũi dạ chưa yên
Trời thu lãng mạn hồn cư sĩ
Mơ mộng hình hài một Giáng Tiên.
(Phan Thượng Hải)
THU HỨNG
Gió mát hiu hiu bóng xế tà
Thu về cảm hứng sướng đời ta
Nhấp trà nhắm rượu, người khoan khoái
Tức cảnh sinh tình, dạ thiết tha
Thấy lá vàng rơi thương mỹ nữ!
Nhờ trăng huyền ảo tưởng tiên nga
Quên hè nắng cực, chờ đông giá…
Thích thú lăng nhăng hết thấy già.
(Phan Thượng Hải)
(*) Một trà một rượu một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. (Tú Xương)
MÙA THU CỦA TUỔI GIÀ
(Nguyên bản)
Lá rụng đầy sân ngập lối vào
Gió Thu thoáng nhẹ nhạc lao xao
Ông già lọm khọm đưa cần chổi
Bà lão lui cui đẩy cán cào
Lửa nhóm một lùm nương gió quyện
Tình khơi hai bóng dựa vai nhau
Hong tay khói ấm mùi thu thảo
Nắng xế ai tô bạc trắng đầu.
(Kế Đô Đỗ Kiểm)
MÙA THU CỦA TUỔI GIÀ
(Họa)
Nhà vắng đìu hiu gió lạnh vào,
Trời Thu ảm đạm sắc xanh xao.
Lá vàng trước ngõ đầy cây chổi
Cành mục ngoài sân mắc lưỡi cào.
Lúc trẻ hai người cùng góp sức,
Về già đôi lứa sống nương nhau.
Tình yêu gắn bó bao dâu bể,
Ngày tháng phôi pha bạc mái đầu.
(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)
VÀO THU
(Họa)
Xuân hết Hè qua Thu đã vào
Nhìn màu lá đổi dạ xôn xao
Mảnh vườn lúc trước siêng năng cuốc
Đống đất khi nay biếng ngại cào
Con cái trưởng thành đi tuốt luốt
Mẹ cha hưu dưỡng ở bên nhau
Gần xa nhịp bước cùng lui tới
Mãi sánh bờ vai dẫu bạc đầu
(Thạch Ngọc Trương Ngọc Thạch)
THU TÀN
(Họa)
Danh lợi phù sinh chẳng bước vào
Thu tàn đông đến tránh xôn xao
Lòng còn thương nhớ, tim thôi nhói
Thân trải gian lao, ruột hết cào
Tráng chí hùng tâm thành quá khứ
Tiện nhàn tri túc sống gần nhau
Tình già nghĩa cũ cùng chia sẻ
Thơ thẩn trần gian lúc bạc đầu.
(Phan Thượng Hải)
MÙA THU DẪN CHÁU ĐI CHƠI
(Họa)
Sáng sáng công viên ghé bước vào
Ngắm đàn cháu nhỏ tiếng lao xao
Thằng em hớn hở, vui hay phá
Con chị hung hăng, giận cứ cào
Cầu tuột, xích đu, theo chẳng kịp
Năm mười, cút bắt, trốn kề nhau
Mùa Thu tuổi tác thôi băng giá
Bởi có mùa Xuân tựa mái đầu
(Phan Huệ Lan)
THU HƯƠNG
Mùa thu tàn tạ tiếc thu hương
Qua đến lập đông đã tận tường
Sắc đẹp hoa xuân tuy vẫn nhớ
Tình nồng nắng hạ hết còn vương
Tử sinh từng trải đời vô ngã
Lão bệnh cưu mang cảnh đoạn trường
Man mác trong ta bao kỷ niệm
Cùng nhau chia sẻ một niềm thương.
(Phan Thượng Hải)
Ngoài việc làm không gian thêm sống động và vẫn giữ cảm tình, thi nhân hiện đại đem tâm tình và thời gian vào thơ mùa thu. Tất cả những thể thơ cũng đã được dùng trong thơ về mùa Thu. Như vậy thơ về mùa thu đã hoàn hảo, không thêm bớt được nữa. Bài thơ Thu mới làm dưới đây cũng trong vòng lẩn quẩn với Cảnh Tình Thu giống như thơ xưa mấy trăm năm về trước?
DÁNG THU
Yểu điệu nàng thu đến dịu dàng
Bên hồ bán nguyệt bóng trăng loang
Lung linh mặt nước soi màu biếc
Rực rỡ rừng phong trổ sắc vàng
Nhặt chiếc lá rơi sầu diệu vợi
Gom cành hoa rụng nhớ mênh mang
Bóng chiều thấp thoáng trên sông vắng
Vọng tiếng xa xa én gọi đàn.
(Vô Danh Thị)
Tuy nhiên khí hậu mùa Thu ở California cũng tạo ra một ý thơ mới lạ về thơ Mùa Thu?
THU NÓNG QUÁ TRỜI
(Xướng)
Vừa mới vào thu nóng quá trời
Cháy rừng lan rộng khắp nơi nơi
Tầng mây từng cụm bay lơ lửng
Bãi biển đầy người tắm đã đời
Lũ trẻ thả diều quên mệt nhọc
Cụ già trốn nắng thích nằm ngơi
Môi trường phá hủy do nhân loại
Bởi vậy đừng than trách tại trời.
(Chánh Minh Nguyễn Văn Minh)
THU ĐẾN CALI
(Họa)
An cư viễn xứ cũng nhờ
Trời Thu đến Cali, nóng khắp nơi
Hạn hán thiên nhiên không toại ý
Tiện nghi nhân tạo vẫn vui đời
Tâm tư vô niệm càng thơ thẩn
Hoa cỏ để tàn được nghỉ ngơi
Dẫu có khát khao còn nhớ nước
Thủy chung thức ngộ biết ơn Trời.
Phan Thượng Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét