Thứ Năm, 29 tháng 7, 2021

Im lặng hố thẳm 2

Im lặng hố thẳm 2

VI.

Vì sao Nietzsche phải im lặng? Heidegger đã hỏi: “Zarathustra là ai?” Kẻ dạy việt nhân? Kẻ dạy sự phục thể của đồng thể? Zarathustra chưa là việt nhân, như Heidegger đã nói? Zarathustra là ai? Việt nhân (Übermensch) là gì? Việt là gì? Đối với Heidegger, Zarathustra không phải thực sự là Nietzsche? Đối với Heidegger, Zarathustra chưa phải là việt nhân? Nietzsche chưa phải là việt nhân? Heidegger đã hiểu sai ẩn ý của Nietzsche? Hay đã hiểu mà cố ý khuây lấp? Khuây lấp để cùng sống chung trong sự im lặng hố thẳm?
Tất cả việt nhân đều im lặng. Vì sao Nietzsche phải im lặng? Việt tính của việt nhân là gì? Việt tính là gì? Việt là gì? Tính là gì? Việt thể là gì? Tính thể là gì? Thể là gì?
Những câu hỏi trên là những câu hỏi của siêu thể học? Siêu hình học (Siêu thể học) là gì? Thể là gì? Tính thể là gì? Thể tính là gì? Tính tính là gì? Thể thế là gì?
Song thể là gì? Song song thể (Zwiefalt) là gì?
Siêu thể học là tất mệnh, chứa đựng một tất mệnh (Verhängnis). Tất mệnh (Verhängnis) của Tây phương chính là siêu thể học. Nét đặc biệt, nét đậm làm nền tảng cho lịch sử Âu châu chính là siêu thể học đặt dưới thể diện của tất mệnh (Verhängnis). Nghĩa là thế nào? Trong quyển Vorträge und Aufsätze (Pfullingen, Neske, 1954), Heidegger giải thích rằng tất mệnh (Verhängnis) của siêu thể học Tây phương là treo (hängen lässt) những sự thể của loài người lửng lơ giữa thể mà thể tính của tính thể lại không bao giờ được thể nghiệm trong thể diện của Song song thể (Zwiefalt). Song song tính (Zwiefalt) có nghĩa là song song thể của tính thể và thể tính (cf. Essais et Conférences, p. 88-89).
Thể tính ẩn trốn đã quy định thể điệu mà con người thể nhận tính thể trong tòan thể. Tính thể trong toàn thể là gì? “Tính thể trong toàn thể” dịch ra danh từ triết của Đức ngữ chính là “das Seiende im Ganzen”, mà người Pháp dịch lại là “l’étant en totalité”.
Trong quyển bộ sách dày của Heidegger viết về Nietzsche, Heidegger đã xác định một lần nữa rằng siêu thể học (Metaphysik) chính là tư tưởng về thể tính của tính thể, nói khác đi thì có nghĩa là tư tưởng về tính thể trong toàn thể (cf. Heidegger, Nietzsche, t.II, p.75: “Die Metaphysik lässt sich bestimmen als die in das Wort des Denkens sich fügende Wahrheit über das Seiende als solches im Ganzen”).
Bởi vì siêu thể học (Metaphysik) chỉ tư nghiệm về thể tính của tính thể hay về tính thể trong toàn thể (das Seiende im Ganzen), cho nên siêu thể học đã bỏ quên và không biết đến thể tính của thể tính. Thể tính của Thể tính có nghĩa là gì? Chân tính (Wahrheit) chính là Thể tính của Thể tính. Đừng lầm lẫn “thể tính của thể tính” với “thể tính của tính thể”. Sự lầm lẫn này rất nguy hiểm, vì chính sự lầm lẫn ấy là đặc tính của siêu thể học Tây phương. “Thể Tính của Thể Tính” dịch ra danh từ triết lý Đức chính là “des Wesens des Seins”, mà trong bản dịch quyển Essais et Conférences (N. R. F, Paris, 1958), ông A. Préau dịch ra Pháp ngữ là “l’être de l’être”. Chữ Đức “Wesen” có nghĩa là “đặc tính” hay “tinh túy”; xin dịch theo phương trời của Triết lý về Việt và Tính thì “Wesen” chính là “Thể Tính”; Chữ Đức “Sein” thì xin dịch theo phương trời của Triết lý về Việt và Tính là “thể tính”, “tính thể”; “tính”: tùy theo sự biến tính của ý nghĩa từng đoạn văn.
Sein dịch là tính để đối lại với thể;
Sein dịch là tính thể để đối lại với thể thể.
Sein dịch là thể tính đối lại với tính thể.
Chữ “Thể tính” vừa dùng để dịch chữ “Sein” mà đồng thời cũng dùng để dịch luôn chữ “Wesen” trong thể diện của Tính mệnh Tư tưởng Nhân loại. Chữ “Thể tính” biến tính tùy theo tính nghĩa:
Thể tính (nhấn mạnh về thể của tính);
- Thể tính (nhấn mạnh về tính của thể).
Chữ “tính thể” cũng biến tính tùy theo thể nghĩa:
tính thể (nhấn mạnh tính của thể);
- tính thể (nhấn mạnh thể của tính).
Đó là tính cách song song tính (Zwiefalt) của song song thể về thể và tính (chữ Pháp dịch là: le Pli de l’étant et l’Être”).
Dịch ra chuyển hóa tính diện và thể diện của ngôn ngữ trong Tính mệnh của Nhân loại; ở Việt Nam, từ trước tới nay chưa ai dịch được chữ Sein của Heidegger vì chưa đặt được liên hệ suy tư trong sứ mệnh Tư tưởng trước Hố thẳm (Hố thẳm tư tưởng và Im lặng Hố thẳm dịch “Sein” là “Tính”, “Tính Thể”, “Thể Tính” là đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng của Tư tưởng Việt Nam trong Sử tính và lịch sử triết học thế giới).
Chữ “Wesen” và “Sein” cùng được dịch chung là “Thể Tính” cũng là một bước đi quyết định của suy tư trong hố thẳm của căn thể (Grund).
Đối với Heidegger, siêu thể học (Metaphysik) của Tây phương chỉ tư nghiệm thể tính của tính thể mà không biết đến thể tính của thể tính (des Wesens des Seins = l’être de l’être).
Như vậy, khi Heidegger nói rằng Nietzsche là nhà siêu thể học thành tựu hay người thành tựu siêu thể học thì Heidegger đã cố ý khuây lấp mặt ý của Nietzsche như thế nào? Và tại sao?
VII.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Trong bộ sách (hai cuốn) của Heidegger viết về Nietzsche, Heidegger đã nhận rằng: “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia chân chính” (cf. Heidegger, Nietzsche, t. I, p. 475: “Nietzsche gehört zu den wesentlichen Denkern.”).
Câu nói trên của Heidegger về Nietzsche có nghĩa thế nào? Chữ “wesentlich” trong câu văn trên của Heidegger đáng lẽ phải dịch cho đúng là “chân tính”, và “tính” ở đây có nghĩa “tính thể”.
Heidegger có tài sử dụng chữ Đức rất trơn trượt, không có chữ nào hoàn toàn có một nghĩa nhất định; mỗi chữ của Heidegger đều tiềm tàng nhiều nghĩa đối nghịch. Chúng ta thử đọc lại câu văn của Heidegger và lắng nghe câu văn ấy trong tinh thần ngôn ngữ Đức đặc biệt của Heidegger:
Nietzsche gehört zu den wesentlichen Denkern.
Có thể dịch ra Việt ngữ bằng nhiều cách thể tùy theo thể nghĩa và tính nghĩa của ngôn ngữ:
1) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia chân chính”;
2) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia trung thực”;
3) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia chân tính”;
4) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia chân thể”;
5) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia tính thể”;
6) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia thể tính”.
Nhưng chữ “chân chính”, “chân tính”, “thể tính”, cùng nằm chung trong tính diện của Tính mệnh Tư tưởng; những chữ “trung thực”, “chân thể”, “tính thể” cùng nằm chung trong thể diện của Sinh mệnh và Tất mệnh của Triết lý.
Chúng ta hãy đọc lại câu văn của Heidegger nói về Nietzsche:
Nietzsche gehört zu den wesentlichen Denkern.
Người nào quen biết với tư tưởng Heidegger sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi đọc xong câu trên, vì chẳng phải Heidegger đã từng xô đẩy Nietzsche vào đường cuối của siêu thể học, đường cùng của Triết lý Tây phương? Và chẳng phải Heidegger đã từng muốn giải thoát Tư tưởng ra ngoài Triết lý? Chẳng phải Heidegger thường gọi rằng Nietzsche là nhà siêu thể học cuối cùng (tựu thành) của Tây phương? Trong toàn thể lịch sử triết học Tây phương chỉ có Héraclite và Parménide là được Heidegger gọi là “tư tưởng gia chân chính”, thế sao bây giờ nơi trang 475 trong quyển Nietzsche, cuốn I (Pfullingen, Günther Neske, 1961), Heidegger lại gọi Nietzsche là “tư tưởng gia chân chính”, nghĩa là cũng “[ein] wesentlicher Denker” như Héraclite và Parménide sao? Như thế Heidegger lại mâu thuẫn với Heidegger? Vì sao một nhà siêu thể học thành tựu lại đồng thời là nhà tư tưởng chân tính? Không thể như thế được. Vì chính Heidegger chẳng phải đã từng nói: “Tư tưởng ngày mai sẽ không còn là Triết lý”? (cf. Heidegger, Über den Humanismus: “Das künftige Denken ist nicht mehr Pholosophie”).
Tư tưởng gia chân chính (chân tính) là gì? “tư tưởng gia chân chính” hay “Tư tưởng gia chân tính” là dịch theo chữ Đức của Heidegger: “die wesentlichen Denker”. Đối với Heidegger “die wesentlichen Denker” có nghĩa là gì? Heidegger chỉ gọi “die wesentlichen Denker” những tư tưởng gia nào đã tư nghiệm với “Thể Tính của Thể Tính” (des Wesen des Seins); tĩnh từ “wesentlich” trong từ ngữ “die wesentlichen Denker “có nghĩa là thuộc về “Wesen” mà “Wesen” chính là “Thể Tính” Heidegger cho rằng siêu thể học (Metaphysik) là tất mệnh (Verhängnis) của Tây phương, vì siêu thể học đã quy định thể điệu của con người thời đại trong việc thể nhận “tính thể trong toàn thể” (das Seiende im Ganzen) và bỏ quên “Thể Tính của Thể Tính” (des Wesens des Seins). Tư tưởng gia chân chính (chân tính) là con người tư tưởng đi trên con đường uyên nguyên và không bỏ quân “Thể Tính của Thể Tính”.
Siêu thể học bỏ quên thể tính của thể tính và Heidegger đã xem Nietzsche như là nhà siêu thể học cuối cùng và trọn vẹn. Thế tại sao Heidegger lại nói rằng Nietzsche thuộc vào “tư tưởng gia chân chính”?
Nietzsche gehört zu den wesentlichen Denkern.
(Heidegger, Nietzsche, t. I, p.475)
Như thế Heidegger muốn nói gì? Heidegger đã hiểu ẩn ý, mật ý của Nietzsche? Không, xin hãy chậm rãi suy tư từng bước một với Heidegger. Theo dấu vết của Heidegger trên con đường của Thể Tính, chúng ta thấy Heidegger cho rằng những tư tưởng gia chân chính (die wesentlichen Denker) là những người đều nói Như Tính (Heidegger: “Darum sagen die wesentlischen Denker stets das Selbe”) và Heidegger lại xác định rõ ràng rằng “Như Tính” (das Selbe) không có nghĩa là “Đồng Tính” (das Gleiche) (cf. Heidegger: “Das heisst aber nicht: das Gleiche”).
Chữ “das Selbe” (le Même) có thể dịch ra hai thể cách:
1) Như Tính
2) Như Thể.
Dịch là “Như Tính” để nói lên “Đồng Tính” của “Như Thể”, dịch là “Như Thể” để nói lên “Như Tính” của “Đồng Thể”. Chữ “das Gleiche” (l’idientiqÜ) có thể dịch ra hai thể cách:
1) Đồng Tính
2) Đồng Thể
Dịch là “Đồng Tính” để nói lên “Như Tính” của “Đồng Thể”; dịch là “Đồng Thể” để nói lên “Đồng Tính” của “Như Thể”.
Dịch như trên là đã đánh dấu một bước đi quyết liệt mà quyển Hố thẳm tư tưởng và quyển Im lặng Hố thẳm đã thể hiện đầu tiên trong Tư Tưởng Việt Nam và Tư Tưởng Á Đông trong việc song thoại với Tư Tưởng Triết Lý Tây phương, mà đại diện bi tráng nhất hiện nay là Heidegger. Dịch “das Selbe” là “Như Tính” và “Như Thể” là một cửa ngõ hé mở ra lối thoát cho tư tưởng Heidegger trở về với phương trời “Như Thị” của Á đông; dịch “das Selbe” và “das Gleiche” là “Như Tính”, “Như Thể”, “Đồng Tính” và “Đồng Thể” là mở hé thêm cửa ngõ khác để cho Tư Tưởng Heidegger khỏi kẹt trong đường cụt để về với phương trời “viên dung môn” của Á Đông.
Có dịch bốn cách như trên trong tinh thần “tương dung tương nhiếp” của Hoa Nghiêm thì mới có thể bắc cầu cho Heidegger gặp lại Nietzsche trong Tính mệnh của Lịch sử Nhân loại, bắc cầu lại cho Đông phương và Tây phương gặp lại trong Núi cao của Hố thẳm.
Heidegger đã tự cắt đứt lìa khỏi Nietzsche, vì Heidegger đã xô đẩy Nietzsche vào “Đồng Thể” (das Gleiche = l’identiqÜ). Đối với Heidegger thì Nietzsche đã dạy về “sự phục thể vĩnh cửu” của đồng thể” (die ewige Wiederkehr des Gleichen = l’éternel retour de l’identiqÜ) (cf. Heidegger, Nietzsche, tI, p. 255)
Khi xô đẩy Nietzsche vào “das Gleiche” (Đồng Thể) thì Heidegger đã cố ý xô đẩy Nietzsche vào Tất Mệnh (Verhängnis) của siêu thể học Tây phương; như thế, Heidegger đã cố ý bỏ quên mật ý của Nietzsche và bỏ quên ý nghĩa huyền bí của sự im lặng cuối cùng mà Nietzsche đã kéo dài trên mười năm trời (1889-1900). Đối với Heidegger chỉ có những tư tưởng gia chân chính (die wesentlichen Denker) mới nói lên Như Tính (das Selbe), nhưng tại sao nơi trang 475 trong quyển Nietzsche (cuốn I), Heidegger lại cho rằng Nietzsche thuộc về “những tư tưởng gia chân chính”?
Nietzsche gehört zu den wesentlichen Denkern.
Như thế thì Nietzsche cũng nói lên “Như Tính” (das Selbe)? Nhưng tại sao Heidegger xô đẩy Nietzsche rơi vào “Đồng Tính” (das Gleiche)? Phải chăng lại là mật ý của Heidegger? Hay Heidegger lại mâu thuẫn với chính Heidegger?
Không phải thế. Khi gọi Nietzsche là “tư tưởng gia chân chính”, Heidegger chỉ muốn nói rằng Nietzsche là kẻ thành tựu tất mệnh của siêu thể học, nghĩa là muốn hiểu tư tưởng Nietzsche thì phải suy tưởng về thể tính của siêu thể học. Thể Tính của siêu thể học là thể nhận. thể tính của tính thể hay tính thể trong toàn thể (das Seinde im Ganzen), nghĩa là bỏ quên thể tính của thể tính (des Wesens des Seins).
Như thế, câu văn của Heidegger về Nietzsche:
Nietzsche gehört zu den wesentlichen Denkern.
không có nghĩa là:
1) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia chân chính”;
2) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia chân tính”;
3) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia thể tính”.
mà lại có nghĩa rõ ràng là:
1) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia trung thực”;
2) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia chân thể”;
3) “Nietzsche thuộc về loại tư tưởng gia tính thể”;
Thế là Heidegger đã tỏ ra dứt khoát với Nietzsche và tự đào hố phân chia biên giới giữa Heidegger và Nietzsche.
Thế tướng “viên dung” của bốn cách dịch:
1) như tính
2) đồng tính
3) như thể
4) đồng thể
Đã chứa đựng ẩn ý là nhảy qua (Satz) hố sâu mà Heidegger đã tự đào ra để phân chia giữa “das Selbe” và “das Gleiche”, giữa Heidegger và Nietzsche, giữa lời nói của Heidegger và sự im lặng bí mật của Nietzsche.
Sự trở về vĩnh cửu (Le Retour éternel) của Nietzsche phải chăng là “sự phục hồi vĩnh cửu của đồng thể” (Retour éternel de l’identiqÜ) như Heidegger đã cố ý giải thích? Phải chăng Heidegger đã lôi niềm bí ẩn (énigme) của Nietzsche xuống ngôn ngữ lạnh lùng của siêu thể học? Tại sao Heidegger có thể giản dị dễ dãi như thế? Hay Heidegger lại muốn tàn phá niềm bí ẩn của Nietzsche để che giấu niềm bí ẩn riêng lẻ nào đó của Heidegger? Trên Sinh mệnh mình, đặt một Sinh mệnh? Trên Hố thẳm lại đặt một Hố thẳm? Hố thẳm kêu gọi Hố thẳm? Abyssus abyssum invocat? Im lặng kêu gọi im lặng? Heidegger kêu gọi Nietzsche? Như tính kêu gọi Như tính bằng ngôn ngữ của Tất mệnh Đồng tính? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập kéo tới và người viết đến đây muốn nghẹt thở. Hố thẳm Im lặng lại còn trở nên im lặng hơn nữa…
VIII.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Người ta có hiểu tôi không? Có ai hiểu nổi tôi? Loài người có hiểu nổi ta? Có ai hiểu nổi tôi? - Hat man mich verstanden? - Nietzsche lặp lại câu hỏi này đến bốn lần trong chương cuối cùng của quyển sách cuối cùng trong đời, Ecce Homo:
1) Versteht man mich?
2) Hat man mich verstanden?
3) Hat man mich verstanden?
4) Hat man mich verstanden?
Câu 1 có nghĩa “người ta hiểu tôi?”; câu 2, 3 và 4 có nghĩa: “người ta đã hiểu tôi chưa?”
Câu thứ 4, Nietzsche nói thêm lời nói tối hậu:
Hat man mich verstanden? - Dionysos gegen den Gekreuzigten…
Người ta đã hiểu tôi? - Dionysos đối mặt lại với kẻ bị đóng đinh…
Heidegger, Karl Jaspers, Paul Valéry đã hiểu Nietzsche? Không bao giờ. Heidegger đã cố ý hiểu sai Nietzsche; Heidegger đã phê phán Nietzsche một cách quá giản dị và dễ dãi. Nietzsche chỉ là triết gia ư? Nietzsche chỉ là nhà siêu thể học ư? Tư tưởng Nietzsche chỉ là tư tưởng về ý chí quyền lực thôi sao? Chỉ là sự trở về vĩnh cửu của Đồng thể thôi sao?
Tại sao Heidegger đã phá vỡ sự bí ẩn kỳ diệu của Nietzsche? Tại sao Heidegger đã lạnh lùng hệ thống hóa tất cả những mảnh giấy rời rạc, mang tên là “Der Wille zur Macht”? Nietzsche chỉ là một triết gia có hệ thống đàng hoàng hay sao? Nietzsche chỉ là kẻ bị vướng trong triết lý Platon?
- Hat man mich verstanden?
- Người ta đã hiểu tôi chưa?
Máu của Nietzsche, nước mắt của Nietzsche, lửa của Nietzsche, những đêm tối của Nietzsche, sự im lặng cuối cùng của Nietzsche, Heidegger đã bỏ quên ở đâu? Tôi sẵn sàng vứt bỏ tất cả quyển sách của Heidegger vào sọt rác để đổi một câu thơ vô nghĩa của Nietzsche. Tôi sẵn sàng vứt bỏ tất cả quyển sách của Goethe, Paul Valéry, Platon, Socrate, Kant, Hegel, Shakespeare, Descartes, Sartre, Camus, vân vân. Tôi sẵn sàng vứt bỏ trọn sự nghiệp văn chương và tư tưởng của các triết gia văn thi hào trên để đổi lấy một câu văn duy nhất dưới đây của Nietzsche:
- Ich bin kein Mensch, ich bin Dynamit.
- Tôi không phải là một con người, tôi là một trái mìn.
Câu trên nằm ở chương cuối quyển Ecce Homo, nhan đề là: “Tại sao tôi là tất mệnh” (Warum ich ein Schicksal bin) (cf. F. Nietzsche, Werke in drei Bänden, cuốn II, trang 1152).
Tại sao Heidegger đã cố ý làm trái mìn ấy tịt ngòi? Heidegger sợ mình sẽ bị nổ bấy ra từng mảnh? Vì chân lý quá khủng khiếp?
- Aber meine Wahrheit ist furchtbar.
- Nhưng chân lý của tôi thì lại khủng khiếp (Nietzsche, op. cit, id.)
Tại sao Heidegger đã cố vội vàng kết luận? Đã cố ý nhốt Nietzsche vào một mớ lý luận về Tính thể và Thể tính? Thể tính của Thể tính là gì? Một trăm cuốn Sein und Zeit (l’Être et le Temps) của Heidegger cũng không đáng một chương trong quyển Also sprach Zarathustra của Nietzsche? Nói như thế là pensée calculante ư? Vậy không phải chính Heidegger đã ngu xuẩn biến đổi pensée médiante của Nietzsche thành ra pensée calculante hay sao? Nietzsche sẽ nghĩ gì, nếu ông còn sống và đọc hai cuốn sách dày trên cả ngàn trang mà Heidegger đã viết riêng về Nietzsche? Nietzsche sẽ nghĩ gì?
Trở về quê hương
Hỡi cô đơn! Hỡi cô đơn, quê hương của ta! Bao nhiêu năm trời ta đã sống man rợ nơi những vùng xa lạ hoang vu để mà không trở về mi với nước mắt chảy dài! Bây giờ mi có thể trỏ tay đe dọa ta như mẹ già đe dọa con cái; bây giờ mi có thể cười mơn ta như mẹ già cười mơn con cái; bây giờ mi có thể nói với ta:
Ai đấy, mà ngày xưa đã vũ bão xa lánh ta như cơn giông tố? Mà ngày xưa đã la hét lúc xa lìa ta? “Ta đã ngồi quá lâu với nỗi cô đơn và đã tập quên im lặng!” Ừ, thế thì bây giờ mi đã tập được im lặng lại rồi ư? Hỡi Zarathustra ta biết tất cả mọi sự. Biết rằng mi đã bị bỏ quên hất hủi hơn nữa giữa đám đông loài người; mi, mi, kẻ cô độc, mi lại bị hất hủi bỏ rơi giữa thiên hạ hơn là khi còn ở với ta! Bị bỏ rơi hất hủi là một việc, được cô đơn lại một việc khác: ừ, ừ; bây giờ, mi đã học được điều ấy rồi. Mi đã học được rằng giữa loài người mi vẫn chỉ luôn luôn là man dại và xa lạ - man dại và xa lạ ngay cả lúc họ thương yêu mi, bởi vì họ chỉ thích được nể nang xoay sở kiêng dè khéo léo, họ chỉ thích thế hơn tất cả mọi sự!
“Nhưng về đây, mi lại được thoải mái tự tại trong nhà cửa quê hương mi; về đây mi được tự do ăn nói, mi có thể nói bất cứ điều gì, mi có thể đổ ào ra tất cả lý lẽ của mi, mà không hề cảm thấy hổ thẹn vì đã có những cảm giác lì lợm kín đáo. Về đây, tất cả mọi sự vật mon men chạy đến ve vuốt lời nói của mi, ve vuốt vỗ về mi vì tất cả sự vật ấy muốn cỡi trên lưng mi. Ngồi cỡi trên tất cả những biểu tượng ẩn ý, mi phóng nước đại đến tất cả những chân lý. Về đây, mi có thể ăn nói với tất cả mọi sự một cách chân thành và chính trực: thực thế, lời nói văng vẳng đung đưa trong tai sự vật như là những lời tán tụng, khi mình ăn nói thẳng thắn chính trực.
“Bị bỏ rơi lại là chuyện khác. Ừ, vì lý do mà chắc mi còn nhớ chứ, hỡi Zarathustra? Lúc con chim mi hót cao vút trên đầu mi, khi mi đứng trong rừng và không thể quyết định quay đi về hướng nào, lưỡng lự bất định, gần bên một xác chết, lúc ấy mi nói: ước gì những con thú của ta sẽ dẫn đường ta đi! Ta thấy rằng sống giữa loài người lại còn nguy hiểm hơn là sống với loài thú vật”. Đó, đó chính là lúc bị bỏ rơi hất hủi! À, mi còn nhớ chứ, hỡi Zarathustra? Lúc mi ngồi trên hải đảo của mi, một giếng nước rượu giữa những thùng rỗng, phân phát ban hết cho tất cả những kẻ khát để rồi mi ngồi chết khát giữa những kẻ say rượu, rồi than thở cả đêm: “Lấy phải chăng phúc hơn là cho? Đánh cắp phải chăng phúc hơn là nhận lấy?” Đó, đó chính là bị bỏ rơi hất hủi! Và mi còn nhớ chứ, hỡi Zarathustra? Lúc giờ phút im lặng nhất hiện đến mi, xô đuổi mi ra ngoài mi, và nói với mi qua lời thì thầm tàn bạo: “Hãy nói đi và vỡ tung ra!” - lúc ấy giờ phút im lặng khiến mi phải hối hận ăn năn về tất cả sự chờ đợi của mi, về sự im lặng của mi; nó khiến mi buồn chán lòng can đảm nhún nhường của mi: Đó, đó chính là lúc bị bỏ rơi hất hủi!”.
Hỡi cô đơn! Hỡi cô đơn, quê hương của ta! Lời mi nói với ta thực là dịu dàng âu yếm triền miên biết bao! Chúng ta không cật vấn với nhau, chúng ta không than thở với nhau, chúng ta lại bước đi chung nhau qua những cánh cửa mở rộng. Bất cứ nơi nào mi bước tới thì mọi sự vật ở nơi đó liền mở rộng và ngời sáng lên; ngay đến những giờ phút cũng lướt qua với bước chân nhẹ nhàng. Bởi vì trong bóng tối, thời gian lại trở thành nặng nề hơn là ngoài ánh sáng. Nơi đây, những lời nói và những lăng thánh của lời nói về tất cả tính thể đã bật mở rộng ra trước ta: nơi đây, tất cả tính thể muốn trở thành ngôn ngữ, tất cả dịch thể muốn ta dạy nói cho nên lời.
Nhưng dưới kia, tất cả lời nói đều vô vọng hão huyền. Dưới kia, khôn ngoan nhất là cứ quên phứt đi và bỏ qua đi: - ừ, ta đã học được điều ấy. Kẻ nào muốn lãnh hội tất cả mọi sự thế nhân thì phải xông xáo nắm lấy tất cả mọi sự. Nhưng đôi tay ta quá sạch để mà có thể làm như vậy. Ta chán chường ghê tởm ngay cả hơi thở của họ; hỡi ôi, ta đã sống quá lâu trong sự ồn ào huyên náo của họ, trong hơi thở thối tha của họ!
Ồ sự im lặng tuyệt vời chung quanh ta! Ồ hương thơm thuần khiết chung quanh ta! Ôi, sung sướng biết bao, sự im lặng đã cho ta hít thở không khí trong sạch vào ứ cả phổi! Ồ, sự im lặng đang lắng nghe kìa, ồ, sự im lặng tuyệt vời!
Nhưng dưới kia thì mọi người đều nói và chẳng ai nghe. Mi có thể khua động đạo lý vào tai họ bằng những tiếng chuông; nhưng chủ hiệu buôn ở chợ búa lại khua động mạnh hơn mi bằng những đồng tiền của họ.
Trong đám họ ai cũng ham nói; không ai còn biết cách hiểu nữa. Tất cả mọi sự đều rơi xuống nước, chẳng có vật gì rơi xuống giếng sâu nữa. Trong đám họ ai cũng ham nói; không có gì ra hồn nữa và thành tựu được nữa. Tất cả mọi người đều cục tác như gà mái mắc đẻ, nhưng còn có ai chịu ngồi im trong ổ để ấp trứng?
Trong đám họ ai cũng ham nói; tất cả mọi sự đều bị nói lải nhải lằng nhằng ra từng mảnh. Những gì ngày qua còn quá cứng rắn, cứng rắn cả đối với thời gian và răng nhọn thời gian thì ngày hôm nay treo lửng lơ mòn nhẵn ngoài mồm miệng của con người thời đại.
Trong đám họ ai cũng ham nói; tất cả mọi sự đều bị phản bội. Và những gì mà ngày hôm qua còn là sự bí ẩn bí mật của những tâm hồn sâu thẳm thì ngày hôm nay trở thành vật sở hữu của những tên thổi kèn ngoài đường và của những con bướm đú đởn.
Ồ, tính thể con người! Mi kỳ dị lạ lùng! Ồn ào huyên náo trên những con đường tối! Nhưng bây giờ nó lại nằm đằng sau ta rồi: nỗi nguy hiểm lớn nhất của ta nằm đằng sau ta rồi!
Sự xoay xở kiêng dè và lòng thương xót đã từng là những nỗi nguy hiểm lớn nhất của ta, tất cả mọi người đều thích được kiêng dè nể nang và thích được thương hại. Mang chứa những chân lý giấu kín với đôi tay của một thằng khờ và trái tim ngơ ngác âu yếm đầy dẫy những sự láo khoét nhỏ nhoi của tình thương xót: ta đã phải luôn luôn sống như thế giữa loài người: Giả dạng trá hình ngồi với họ, sẵn sàng đánh lạc bản thể để mà có thể chịu đựng họ và sẵn sàng tự nhủ “Mi khờ khệch ngớ ngẩn! Mi không hiểu loài người”.
Mình quên những gì mình biết về loài người khi mình sống giữa loài người; có quá nhiều bình phong che đậy đằng trước tất cả loài người; đôi mắt viễn thị thẩm thấu có ích lợi gì ở đó? Khi nào họ không nhận ra ta, lúc khờ khệch ngu dại, ta lại xoay xở kiêng dè họ hơn là chính ta: vì vốn sẵn cứng rắn nghiêm khắc với mình, thường khi ta phải trả thù ta về sự xoay xở kiêng dè thái quá ấy. Bị những con ruồi nhặng độc địa đâm chích đầy người, và sâu hõm như một hòn đá bị những giọt nước gian manh đục khoét, ta ngồi đó, như thế đó, giữa loài người để rồi còn tự nhủ: “Những gì bé nhỏ thì vô tội, vì không tự biết rằng bé nhỏ”.
Nhất là những kẻ tự nhận là “những người hiền tốt” thì ta thấy đúng là những con ruồi nhặng độc địa nhất: chúng nó đâm chích một cách vô tội hoàn toàn, chúng nó láo khoét một cách vô tội hoàn toàn làm sao mà chúng nó có thể công chính với ta được? Lòng thương xót dạy rằng những kẻ nào sống giữa những người hiền lành thì phải nói dối. Lòng thương xót vây phủ không khí nặng nề meo mốc chung quanh những tâm hồn tự do phóng dật. Bởi vì sự ngu xuẩn của hạng người hiền lành thì không thể nào lường được.
Tự ẩn giấu mình và giấu sự giàu sang phong phú của mình, đó, đó là điều ta đã học được dưới kia, vì ta thấy tất cả mọi người đều nghèo trí, nghèo hồn. Đây là sự giả dối của ta: ta biết rằng ta có thể thấy và ngửi được trong bất cứ người nào đâu là vừa đủ hồn trí cho hắn, đâu là hồn trí quá thừa thãi cho hắn.
Những bậc thánh nhân cứng đơ của họ, ta gọi họ là thánh nhân, chứ tránh nói là cứng đơ, làm thế thì ta tập nuốt được lời lẽ. Những kẻ đào huyệt của họ: ta gọi là những nhà khảo cứu và những nhà thông thái khảo nghiệm; làm như thế thì ta tập đổi được lời lẽ.
Những kẻ đào huyệt ham đào đến phải đau bệnh; dưới đống dơ bẩn ấy chứa chấp bao nhiêu mùi hôi thối. Không nên bươi móc khuấy động vũng lầy. Nên lên núi cao mà sống.
Lỗ mũi thoải mái của ta được thở lại sự tự do phóng dật của núi cao. Thế là sau cùng mũi ta đã được giải thoát ra khỏi tất cả mùi hôi của thế sự!
Linh hồn ta cảm thấy nhột nhột nơi mũi bởi không khí sắc buốt như rượu sủi bọt, nó vụt hắt hơi, linh hồn ta nhảy mũi và reo vui: “Cầu trời ạ, sức khỏe ạ! Gesundheit!”
Zarathustra đã nói như thế.
IX.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Im lặng là gì? Im lặng chẳng phải không có âm thanh, im lặng nổ vỡ như một triệu mặt trời nát bấy ra bụi:
… Sprich und zerbrich!…
Câu trên nằm âm thầm lẳng lặng tịch mịch trong phần III của quyển Also sprach Zarathustra (cf. Friedrich Nietzsche, Werke in drei Bänden, II, 433); câu nói không lời nằm im nín thở:
… Sprich und zerbrich!…
Và nổ bấy ra trong ngôn ngữ Việt Nam:
…Hãy nói đi và nổ vỡ bấy ra từng mảnh!
Nietzsche đã nói xong và đã im lặng: sự im lặng của Nietzsche nổ vỡ bấy ra từng mảnh. Sự im lặng của Nietzsche như trái mìn ở trận chiến tranh Việt Nam:
Tôi không phải là một con người
Tôi là một trái mìn.
ICH BIN KEIN MENSCH,
ICH BIN DYNAMIT.
(Ecce Homo)
Lời nói của Nietzsche đã được thành lời; sự im lặng của Nietzsche làm nổ tung quyền Sein und Zeit của Heidegger. Và Heidegger đã nói gì và đã im lặng gì?
Trong quyển Sein und Zeit, Heidegger chỉ kín đáo nhắc đến tên Nietzsche có ba lần, một lần ở trang 264, một lần ở trang 272 nơi phần chú thích và một lần ở trang 396 (cf. Martin Heidegger Sein und Zeit, Max Niemeyer Verlag, Tübingen, 1960).
Trang 264, Heidegger trích lại một lời nói của Nietzsche để làm sáng tỏ ý tưởng mình; trang 272, Heidegger nhắc người đọc lưu ý đến cách giải thích về ý thức của Nietzsche, chỉ nhắc đến tên Nietzsche và không tỏ ý kiến rõ rệt; trang 396, Heidegger nhắc đến ba đoạn sử quan của Nietzsche vào năm 1874 và mượn ý Nietzsche để làm sáng tỏ nội dung về tính sử của Heidegger; Heidegger kết luận về Nietzsche ở trang 396:
Sự khởi đầu cuộc khảo sát của Nietzsche cho phép ta nhận rằng Nietzsche đã hiểu nhiều hơn những điều mà Nietzsche đã cho ta được biết”.
(Der Anfang seiner “Betrachtung” lässt vermuten, dass er mehr verstand als er kundgab). (cf. Sein und Zeit, p. 369)
Quyển Sein und Zeit là tác phẩm vĩ đại nhất trong đời của Heidegger; trong toàn thể 437 trang của quyển sách, Heidegger chỉ kín đáo nhắc đến Nietzsche có ba lần như dẫn trên; cả ba lần nhắc đến Nietzsche đều nói lên sự kính trọng âm thầm của Heidegger đối với Nietzsche và quan trọng nhất là đoạn đã dịch trên, ở trang 396 của quyển Sein und Zeit.
Nhưng sau này, trong những tác phẩm khác, Heidegger lại xô đẩy Nietzsche vào cứu cánh của siêu thể học và sắp xếp Nietzsche vào đứng chung cùng đám triết gia thiếu máu và mất lửa như Platon và Descartes! Tại sao? Tại sao Heidegger lại gán vào Nietzsche tất cả những gì mà Nietzsche đã từng đả phá? Tại sao Heidegger lại làm thế? Phải chăng Heidegger cố ý làm thế để che đậy một đại mật niệm nào? Phải chăng Heidegger cố ý làm thế để giữ thể diện bi tráng của chính Heidegger? Bởi vì tất cả những gì Heidegger đã nói, muốn nói và không nói đều đã được Nietzsche nói hết và đập vỡ ra từng mảnh, bởi vì tư tưởng của Heidegger đã bị Nietzsche đưa vào chỗ bế tắc ngay trong lúc Heidegger vừa mới chào đời? Heidegger sinh vào năm 1889, năm ấy là năm đầu tiên mà Nietzsche rút về ẩn náu trong sự im lặng cho tới lúc chết (1889-1900).
Năm 1889 là một năm bí mật trong lịch sử Tây phương: năm đầu tiên của sự im lặng bí ẩn của Nietzsche và năm đầu tiên của sự hiện diện nhập thể của Heidegger trong sinh mệnh Tây phương.
Trái mìn đã nổ và Heidegger chỉ là kẻ sinh sau tàn phế: Heidegger đi lượm lại từng mảnh bấy để tạo lại một trái mìn khác và nói rằng trái mìn của Nietzsche chỉ là trái pháo tịt ngòi của Platon, Aristote và Descartes! Việc làm của Heidegger không khác gì việc làm của Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu) đối với Long Thọ (Nâgârjuna).
Kinh nghiệm của Nietzsche là kinh nghiệm của Máu và Lửa; kinh nghiệm của Heidegger chỉ là kinh nghiệm buốt lạnh của một kẻ lạc đường giữa băng giá hoang vu của Nam Cực và Bắc Cực. Bên kia Bắc Cực và Nam Cực là mặt trời và mặt trăng, rắn và ó, máu và nước mắt, tiếng nổ ngút trời và sự im lặng huyền bí trong mười năm trời.
Nietzsche đã đi vào im lặng, còn Heidegger chỉ mới bắt đầu lên đường đi về im lặng. Sự bắt đầu ấy, sự khởi đầu ấy của Heidegger đã khiến ta muốn nhắc lại lời của Heidegger đã nói về Nietzsche trong Sein und Zeit; nhưng lần này, khi nhắc lại, ta đổi tên Nietzsche là Heidegger:
Sự khởi đầu cuộc khảo sát của Heidegger cho phép ta nhận rằng Heidegger đã hiểu nhiều hơn những điều mà Heidegger đã cho ta biết được”.
(Der Anfang seiner “Betrachtung” lässt vermuten, das er mehr verstand, als er kundgab)
Trên chỏm núi cô đơn ở vùng Hắc Lâm, có lẽ Heidegger cũng trải qua kinh nghiệm nhập tính và xuất thể mà Nietzsche đã sống qua vào đầu năm 1882 ở vùng núi cao của hố thẳm:
Ta ngồi đó chờ đợi, không chờ đợi gì cả, chờ đợi vô thể, chờ đợi không chờ đợi.
Vượt lên trên Thiện và Ác, khi thì hưởng nếm ánh sáng, khi thì bóng tối, chỉ toàn là trò đùa.
Chỉ toàn là biển, chỉ toàn là mười hai giờ trưa, chỉ toàn là thời gian không mục đích.
Thế rồi bỗng nhiên, em ơi, một trở thành hai và Zarathustra lướt qua bên ta…
Đọc qua nguyên tác, bài thơ phảng phất sự tĩnh mịch thì thầm se sẽ của nguyên ngôn Đức quốc:
Hier sass ich, wartend, wartend - doch auf nichts,
jenseits von Gut und Böse, bald des Lichts
geniessend, bald des Schattens, ganz nur Spiel,
ganz See, ganz Mittag, ganz Zeit ohne Ziel.
Da, plötzlich, Freundin, wurde eins zu zwei-
und Zarathustra ging an mir vorbei.
Ta nghe như tiếng gọi se sẽ của hư vô bàng bạc man mác trên non cao, khi hố thẳm của thể tính bỗng động mình biến thành song song thể:
… wurde eins zu zwei...
(một trở thành hai)
Như chiếc cánh khéo lại của con bướm bỗng xòe mở ra làm hai cánh chập chờn thoáng hiện trên nụ tầm xuân.
Xòe mở ra là Phusis và thoáng hiện là Ousia. Com bướm đen huyền lượn chơi trên hố thẳm của tính mệnh, bướm lượn chơi cuộn vòng không mục đích như thời gian không mục đích của Nietzsche:
… ganz Zeit ohne Ziel
Com bướm lượn chơi:
… ganz nur Spiel
(chỉ toàn là trò đùa)
và “một trở thành hai” của Nietzsche bỗng trở thành song song thể (Zwiefalt) của Heidegger.
Đọc lại đoạn thơ của Nietzsche đã dịch ở trên:

… Chỉ toàn là trò đùa

Chỉ toàn là biển, chỉ toàn là trưa, chỉ toàn là thời gian không mục đích
… ganz nur Spiel,
ganz See; ganz Mittag, ganz Zeit ohne Ziel…
Rồi đọc lại đoạn cuối trong chương cuối quyển Der Satz vom Grund của Heidegger:
Tính thể mà khi lập thể thì không có căn thể, nghĩa là không có đáy. Mà khi là hố thẳm (không đáy) thì thể tính chơi trò đùa, mà khi đùa thì đưa tính mệnh cho chúng ta bằng tính thể và căn thể”.
Sein als Gründendes hat keinen Grund, spielt als der Ab-Grund jenes Spiel, das als Geschick uns Sein und Grund zuspielt”. (Heidegger, Der Satz vom Grund, Neske, Pfullingen, 1965, trang 188)
Câu văn dịch lại Việt ngữ ở trên có vẻ khó hiểu, bởi vì đây là lần đầu tiên tiếng nói của Hố Thẳm Việt Nam vọng lại đáp ứng nguyên ngôn của tư tưởng Tây phương:
Tính thể mà khi lập thể thì không có căn thể”.
Sein als Gründendes hat keinen Grund…”
Đó là ý nghĩa hàm súc của quyển Hố Thẳm Tư Tưởng.
Khi hố thẳm (không đáy) thì thể tính chơi trò đùa…”
spielt als des Ab-grund jenes Spiel…”
Đó là ý nghĩa hàm súc của quyển tiểu thuyết Trời tháng Tư.
“Mà khi đùa thì đưa tính mệnh cho chúng ta bằng tính thể và căn thể”
“… das als Geschick uns Sein und Grund zuspielt”
Đó là ý nghĩa súc tích của tính thể (Sein) trong quyển thơ Ngày sinh của rắn qua sự hiện diện bí ẩn của hình bóng Quế Hương xa xưa; và đó cũng là ý nghĩa súc tích của căn thể (Grund) trong quyển Im lặng Hố thẳm trở về nối kết với tính thể (Sein) của Ngày sinh của rắn trong Tính Diện của Hố Thẳm (als der Ab-Grund) cùng trong Thể Diện của Tính Mệnh (als Geschick) trong Trò Đùa muôn thuở của Bất Sinh và Bất Diệt giữa cuộc chiến tranh Việt Nam:
rắn cuộn tròn
tương lai
Đó là ý nghĩa hàm súc của thời gian không mục đích trong Ngày sinh của rắn:
… ganz Zeit ohne Ziel
Thời gian không mục đích đưa Heidegger lên đường bắt đầu trở về trong sự im lặng tối hậu với Nietzsche trong Trò chơi không lý do, không “tại sao” (Heidegger: “Das Spiel ist ohne “Warum”).
Trên chỏm núi cô đơn ở Todtnau ở vùng Hắc Lâm, Heidegger ngồi âm thầm lặng lẽ chờ đợi, chờ đợi không chờ đợi, không chờ đợi gì cả.
Sự im lặng của Nietzsche và tiếng nói heo hút của Heidegger cùng nhau vọng về bay vờn trên đôi mặt khép lại của những người trẻ tuổi đã bỏ mình trong trận chiến tranh Việt Nam, những người không tổ quốc, họ chết cho sự mất quê hương (Heimatlosigkeit) của toàn thể nhân loại. Hố thẳm không đáy đã mở ra và núi cao của Tính Mệnh hiện ra lồ lộ trong máu lửa ngút trời.
Khi tất cả đã mất rồi thì còn lại gì?
Còn lại gì?
Chỉ còn lại Trò Đùa: đó là cái gì cao siêu nhất và sâu thẳm nhất.
Es bleibt nur Spiel: das Höchste und Tiefste.
(Heidegger, Der Satz vom Grund, trang 188)
Cao siêu nhất như Núi Cao và sâu thẳm nhất như Hố Thẳm: Núi Cao là Việt và Hố Thẳm là Tính, phương pháp suy tư về Việt và Tính là con đường trở về: không lối, không cứu cánh, không lộ, không con đường, con đường của Tính Mệnh Việt Nam: “Phương pháp suy tư về Việt và Tính”: phương pháp có nghĩa là phương tiện của pháp tướng trong tính diện tư tưởng Đông phương; đồng thời phương pháp cũng có nghĩa là méthodos hiểu theo thể diện tư tưởng Hy Lạp (Tây phương): con đường là ódos của Hy Lạp; trở về  metá; phương pháp (methodos = méta + odos) là con đường trở về thể tính của Việt và Tính (cf. Der Satz vom Grund, trang 111; “Der Weg heisst griechisch ódos, metá heisst “nach”; méthodos ist der Weg, auf dem wir einer Sache nachgehen: die Methode”)
Tiếng nói heo hút của Heidegger lại làm sự im lặng của Nietzsche càng trở nên im lặng sâu thẳm hơn. Sự im lặng của Nietzsche bỗng xoáy tròn sâu thẳm hơn nữa trong Im lặng Hố thẳm cùa Tư Tưởng Việt Nam. Núi cao của Đông phương bỗng làm lễ cưới với Hố thẳm của Tây phương qua Trò Đùa Vô Biên của Thể mệnh, mà Việt Nam đã tựu thành qua Máu, Lửa, Nước Mắt và Sự Im Lặng của tất cả những người đã chết và của tất cả những người sẽ chết. Bên Im Lặng Hố Thẳm là sự chờ đợi không đối tượng, vượt lên trên Thiện và Ác, và thời gian thì không mục đích.
Giữa sự im lặng tịch mịch, bỗng vọng lên tiếng nói se sẽ của Nietzsche:
… chỉ toàn là trò đùa
(… ganz nur Spiel)
Giữa sự im lặng tịch mịch, bỗng đáp lại tiếng nói thì thầm của Heidegger:
 Chỉ còn lại là trò đùa
(Es bleibt nur Spiel…)
Giữa sự im lặng tịch mịch, Ngày sinh của rắn bỗng xuất hiện theo tiếng nổ của mặt trời, bởi vì:
Mặt Trời không có thực
Mặt Trời chỉ là ảo tưởng của con Người chạy trốn Hố Thẳm vả chạy trốn Trò Đùa của Vũ Trụ.
Và thi sĩ là một con rắn, một con rắn độc mọc cánh, cánh bay không tiếng động của Hố Thẳm.
Thượng đế hóa thân thành rắn, Nietzsche đã nói thế một lần trong đời sống để rồi im lặng trong mười năm trời trước khi trở về Trò Đùa bất khả thuyết, bất khả thuyết của Niềm Im Lặng bất sinh và bất diệt.
X.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Nietzsche có phải là Nietzsche hiểu theo Heidegger? Nietzsche hiểu theo Karl Jaspers, Nietzsche hiểu theo Eugen Fink, Nietzsche hiểu theo Jean Granier? Hiểu theo Gilles Deleuze? Hiểu theo Chaix-Ruy? Hiểu theo Pierre Garnier? Hiểu theo Henri Lefebvre? Hiểu theo Walter Kaufmann? Hiểu theo Albert Camus? Hiểu theo Karl Loewith? Hiểu theo Giovanni Papini? Hiểu theo Paul Valéry? Hiểu theo Stefan Zweig?
Nietzsche là ai? Các ngài là ai mà đặt câu hỏi về Nietzsche? Trong các ngài có ai đã leo lên nửa sườn núi? Chỉ nửa sườn núi thôi? Có ai đã leo lên giữa lưng chừng trời? Dù người ấy tên là Heidegger? Hay tên là Paul Valéry? Hay là Albert Camus? Hoặc là Giovanni Papini? Có ai đã nhảy xuống hố thẳm?
Các ngài chỉ đứng ở dưới lưng chừng trời để ngó lên đỉnh núi cao ngất trên kia; Nietzsche ngó xuống các ngài và chỉ mỉm cười:
“Các ngài ngó lên cao, lúc các ngài ngưỡng vọng lên cao. Còn ta, ta nhìn xuống, bởi vì ta đã ở trên cao vòi vọi.
“Trong các ngài có ai mà có thể cười cợt và đồng thời đứng trên cao tít mù?
“Kẻ nào leo được lên tận những đỉnh núi cao nhất thì cười cợt tất cả những vở kịch bi đát và thực tại trang trọng bi đát”.
(Zarathustra, I, đoạn III)
“Ihr seht nach oben, wenn ihr nach Erhebung verlangt. Und ich sehe hinab, weil ich erhoben bin.
Wer von euch kann zugleich lachen und erhoben sein?
Wer auf den höchsten Bergen steigt, der lacht über alle TraÜr-Spiele und TraÜr-Ernste”.
(Zarathustra, Vom Lesen und Schreiben)
Từ năm 1889 đến 1900, Nietzsche đã nhảy xuống hố thẳm và đã im lặng vĩnh viễn.
Sự im lặng của Nietzsche là một niềm bí ẩn kỳ lạ nhất trong toàn thể lịch sử loài người.
Sự im lặng ấy là một nỗi huyền bí trang nghiêm đáng kính sợ, hiểu theo nghĩa “mysterium tremendum” của Rudolf Otto (cf. R. Otto, Das Heilige).
Vì sao Nietzsche phải im lặng?
Mysterium tremendum!
Nietzsche đã nói gì trước khi im lặng?
“Đỉnh núi cao và hố thẳm - bây giờ cả hai đã nối liền làm một với nhau”
“Gipfel und Abgrund - das ist jetzt in eins beschlossen!”
(Also sprach Zarathustra, III, Der Wanderer)
Câu nói trên có nghĩa là gì?
Đỉnh núi cao chính là Việt nhân (Übermensch)
Hố thẳm chính là sự Phục hồi vĩnh cửu (Ewige Wiederkunft).
Dịch chữ “Übermensch” là “siêu nhân” thì chưa diễn tả hết nghĩa chữ “Über”; phải dịch “Übermensch” là “Việt nhân” trong tinh thần triết lý về Việt và Tính, vì Nietzsche đã đùa chữ theo tinh thần tương dung tương nhiếp giữa “trên” và “dưới”, “Über” và “Unter”, “đi lên” và “đi xuống”, “Übergehen” và “Untergehen”, “Übergang” và Untergang” trong tinh thần Tính Ngôn của Héraclite; do đó, “Übermensch” là kẻ vượt lên trên người, không phải bằng cách đi lên trên theo nghĩa không gian và thời gian, mà vượt lên trên người theo nghĩa đi lên núi cao và đi xuống hố thẳm: đi lên và đi xuống đồng lúc, đồng loạt với nhau để nối kết làm thành “khoen tròn vàng ửng” như tượng hình rắn và chim ó cuộn tròn nhau bay lượn giữa trời: rắn ở dưới hố thẳm, “Abgrund”; chim ó ở trên núi cao, “Gipfel”. Hơn nữa, chữ “việt nhân” diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của “Übermensch”, bởi vì chữ Hán “việt” vừa có nghĩa là “vượt lên” mà đồng thời cũng có nghĩa là “rớt xuống”. Do đó, chữ “việt” trong chữ “Việt Nam” đã vạch rõ thể tính của người Việt; trong tinh thần triết lý về Việt và Tính thì người Việt (Việt nhân) mang trong tự thể thể tính (Wesen) của ý nghĩa “Übermensch” của Nietzsche; người Việt hiện nay đang đi xuống Hố Thẳm của toàn thể nhân loại qua cuộc chiến tranh cơ khí tàn khốc hiện nay, nhưng đồng thời sự đi xuống (Untergang) ấy cũng có nghĩa là đi lên (Übergang), đi lên Núi Cao của Tính Mệnh của toàn thể nhân loại qua sự chịu đựng đau đớn nỗi phân tán bi tráng của Việt Tính trong sự tựu thành trọn vẹn của chủ nghĩa hư vô quốc tế.
Dịch chữ “Übermensch” của Nietzsche là “siêu nhân” thì chỉ nói đến sự đi lên (Übergang) mà bỏ quên sự đi xuống (Untergang); do đó, đánh lạc mất tinh túy của lời nói và sự im lặng tối hậu của Nietzsche.
“Đỉnh núi cao và hố thẳm - bây giờ cả hai đã nối liền làm một với nhau”.
“Gipfel und Abgrund - das ist jetzt in eins beschlossen!”
(F. Nietzsche, Werke in drei Bänden, II, 404)
Câu trên có nghĩa là sự đi lên (Übergang) và sự đi xuống (Untergang) chỉ là một, không khác nhau và tương dung tương nhiếp nhau (như tinh thần “viên dung” của Hoa nghiêm kinh).
Câu trên cũng có nghĩa rằng con sư tử biến thành trẻ thơ: Zarathustra biến thành Dionysos.
Zarathustra đi lên núi cao thì Dionysos đi xuống hố thẳm: Dionysos đi lên núi cao thì Zarathustra đi xuống hố thẳm: Dionysos và Zarathustra gặp nhau nhập thành một thì núi cao và hố thẳm gặp nhau nhập thành một: con sư tử tàn bạo trở thành đứa trẻ con hiền lành: TRÒ ĐÙA bắt đầu và vũ trụ lại sinh thành hoại diệt trong vòng tròn vĩnh cửu.
“Trẻ con là sự ngây thơ và quên lãng, một sự bắt đầu mới và một trò đùa, một bánh xe tự xoay chuyển…”
“Unschuld ist das Kind und Vergessen, ein Neubeginnen, ein Spiel, ein aus sich rollendes Rad…”
(Zarathustra, I, Von den drei Verwandlungen)
Nietzsche đã đi xuống tận hố thẳm (Abgrund) và thấy hố thẳm không đáy (Ab=không+Grund=đáy); khi vụt thấy thế, Nietzsche bỗng nhận rằng Hố Thẳm (Abgrund) chính là Đỉnh Núi Cao (Gipfel): Nietzsche liền im lặng.
Nietzsche đi xuống hố thẳm thì Heidegger đi lên núi cao: Heidegger mới đi tới lưng chừng núi và nhìn với lên trên đỉnh cao: Nietzsche ngó xuống. Sự đi lên (Übergang) của Heidegger chưa gặp sự đi xuống (Untergang) của Nietzsche: hố thẳm (Abgrund) chưa làm một với núi cao (Gipfel).
Bây giờ, ngồi cô đơn trên đỉnh núi Todtnau ở vùng Huyền Lâm, có lẽ Heidegger đã bắt đầu thấy rằng núi cao và hố thẳm nhập nhau làm một?
Heidegger bắt đầu im lặng: Qua tiếng gọi, từ vùng Uyên nguyên miên viễn
XI.
Vì sao Nietzsche phải im lặng?
Tại sao Hố Thẳm và Núi Cao chỉ là một?
Hãy nghe tiếng nói không lời của Hố Thẳm trên đỉnh Núi Cao ngất trời
“Kẻ nào ở gần những ngôi sao mà cũng vẫn ở nơi Hố Thẳm u ám nhất?
“Wer wohnt den Sternen
“So nahe, wer des Abgrunds grausten Fernen?
(Nietzsche, Aus hohen Bergen)
Tại sao ngôi sao trên cao và hố thẳm dưới kia chỉ là một?
Kẻ nào sống trên những ngôi sao mà cũng vẫn sống dưới hố thẳm âm u nhất? Người ấy là ai mà những ngôi sao lại còn thấp hơn hẳn? Kẻ ấy là ai?
Kẻ lang bạt
Đêm đã khuya, lúc Zarathustra bắt đầu lên đường vượt qua đỉnh cao của hải đảo để sớm mai sang tới bờ bên kia, vì hắn muốn khởi trình nơi bờ biển ấy. Nơi bờ ấy có một vùng cạn ăn thông ra biển rất tiện lợi cho tàu bè, nhất là những tàu bè xa lạ thường hay bỏ neo ở đó và mang theo những kẻ ở vùng đảo thần tiên muốn vượt biển. Vừa leo lên đỉnh cao, Zarathustra vừa hồi tưởng lại muôn vàn chuyến hành trình cô đơn trong đời từ lúc lên đường phiêu dạt thuở còn trai trẻ, ở, biết bao là núi non đồi đỉnh mà hắn đã băng qua.
Ta vốn là kẻ lang bạt kỳ hồ, kẻ băng núi xuyên sơn, ở, hắn tự nói với lòng, ta không thích những đồng bằng, dường như là ta không thể ở yên nơi đâu được lâu nữa.
Dù vận số ta thế nào đi nữa, dù có biến cố gì xảy ra đi nữa - đối với ta, đó cũng chỉ là một dịp để phiêu lưu đăng trình, một cớ để thượng sơn: rốt ráo rồi thì mình chỉ sống với những gì còn lại với mình.
Đã qua rồi cái thời mà ta chỉ nương cậy trông đợi những sự việc ngẫu nhiên xảy đến, bây giờ thì có gì xảy đến lại chẳng nằm sẵn trong ta rồi?
Ta chỉ cần trở lại ta, cuối cùng trở về lại với mình, về nhóm lại những mảnh hồn ly tán trong cõi xa lạ và rã rời tan tác giữa vạn sự ngẫu nhiên ở đời.
Ờ, ta còn biết một điều này nữa: bây giờ ta đang đứng trước chóp đỉnh cuối cùng của đời ta, mà từ lâu ta vẫn chưa được đối mặt. Hỡi ôi, ta phải đi theo con đường mình, con đường khó khăn gian nan nhất trên đời: Ôi chao, ta bắt đầu chuyến đi cô đơn nhất của đời mình!
Kẻ nào mang một dòng máu như ta thì sớm muộn gì cũng không thoát khỏi giờ phút đó, giờ phút lên tiếng gọi thầm: “Chỉ có lúc này mới đúng là lúc mi đi theo con đường oanh liệt cao sang của mi! Chóp đỉnh và Hố thẳm chỉ là một thôi!
Mi đang đi theo con đường oanh liệt cao vút của mi: cho mãi đến bây giờ nỗi nguy hiểm cuối cùng của đời mi mới trở thành nơi ẩn náu tối thượng của lòng mi!
Mi đang đi theo con đường oanh liệt cao ngất của mi: bây giờ mới phải là lúc mi cần tỏ ra can đảm nhất vì không còn con đường nào nữa rớt lại sau mi!
Mi đang đi theo con đường oanh liệt cao vút của mi: bây giờ chẳng có ai còn lén lút đi theo nổi mi được nữa? Những bước chân mi đã xóa nhòa con đường đã đi qua và đằng trước con đường mi đi chỉ còn viết lại hàng chữ: Không thể đi tới được nữa!
Và từ đây trở đi nếu mi không còn nấc thang để bước lên nữa thì phải biết leo lên đầu mi mà vươn lên: chứ làm gì nữa bây giờ để mà có thể lên cao hơn nữa?
Leo lên đầu mi và vượt lên trên kia, lên trên tim mi! Bây giờ cái gì dịu dàng nhất trong lòng mi sắp trở thành cứng rắn nhất.
Kẻ nào chỉ e dè kiêng nể thì sự kiêng kị nể nang quá sức ấy rốt lại chỉ xui hắn đau bệnh thôi. Phúc cho kẻ nào trở nên cứng rắn lì lợm! Ta không hề xưng tụng vùng nào trù phú xôi mật!
Muốn nhìn thấy nhiều sự lạ thì phải tập nhìn xa ngoài mình: lòng cứng rắn lì lợm ấy rất cần thiết cho những kẻ nào muốn leo núi cao.
Nhưng kẻ nào muốn tìm hiểu với đôi mắt hờ hững, thì làm sao mà nhìn thấy được xuyên qua những ý tưởng bình phong hời hợt?
Nhưng mi, hỡi Zarathustra, mi muốn thấy hết những lý lẽ đằng sau sự vật: mi phải vượt qua chính mi để mà leo lên - leo lên cao vút, trên cao kia, leo cao ngất đến nỗi chính những ngôi sao cũng phải ở lại dưới mi!
Ừ, ờ, nhìn xuống dưới mình và xuống dưới những ngôi sao của mình: đó mới đúng là chóp đỉnh của ta, đó mới là chóp đỉnh tối thượng còn lại để ta leo lên!
Zarathustra tự nói như thế, lúc hắn leo lên cao và an ủi lòng mình với những lời lẽ cứng rắn: bởi vì tim hắn trở nên lở lói nhói đau hơn bao giờ hết. Vừa khi hắn leo tới chóp đỉnh cao, hắn vụt thấy đằng trước hắn mặt biển kia trải dài lóng lánh.
Thế rồi hắn ngồi im lặng bất động, không hề nói năng gì nữa một hồi lâu. Cao vòi vọi ở trên thượng đỉnh thì đêm tối trở lạnh buốt giá, trong suốt và nhấp nhánh những hạt sao cườm.
Ta nhận ra số phận ta rồi, hắn nói một cách buồn thảm. Thôi! Ta sẵn sàng chuẩn bị rồi! Nỗi cô đơn tối hậu của đời ta vừa mới bắt đầu.
Ồ! Mặt biển buồn thảm đen tối ở dưới chân ta! Ồ! Nỗi bất mãn tối đen khuya khoắt! Ồ! Tính mệnh và đại dương! Ta phải đi xuống ngươi!
Ta đang đứng đối mặt với đỉnh núi cao nhất đời mình và đối mặt với cuộc viễn trình dài nhất đời mình: vì thế ta phải đi xuống sâu, đi xuống sâu thẳm hơn bao giờ hết:
- Xuống sâu thẳm trong cơn đau nhói quằn quại hơn bao giờ hết, sâu thẳm trong lòng nước đen tối nhất của cơn đau đớn! Tính mệnh ta muốn như thế! Ồ, thôi, ta đã chuẩn bị sẵn sàng rồi!
Núi cao nhất mọc lên từ đâu? Trước kia ta đã từng hỏi thế. Thế rồi ra mới biết rằng những ngọn núi cao nhất đều mọc từ đáy biển sâu thẳm.
Chứng tích ấy đã được hằn vết trong những băng đá, tận trên vách đỉnh núi. Chính từ dưới lòng sâu thẳm nhất mà ngút đỉnh vòi vọi cao nhất phải đạt tới chóp ngọn của nó.
Zarathustra đã nói thế trên chóp đỉnh núi lạnh buốt, nhưng lúc hắn đi gần biển, rồi đứng lại cô thân độc ảnh giữa những mỏm đá loi nhoi hắn bỗng cảm thấy chán chường mỏi mệt về lộ trình của mình và cảm thấy khao khát u hoài hơn bao giờ cả.
Mọi sự hiện giờ đều đang còn ngủ say, hắn nói, ngay cả biển cũng đang ngủ say. Khóe mắt của biển đang hướng nhìn về ta, lạ lùng, mê man chập chờn nửa mê nửa tỉnh.
Nhưng hơi hám của biển cả vẫn nồng ấm, ờ, ta cảm thấy thế. Ờ, ta cũng cảm thấy rằng biển cả đang mê man, mộng mị, biển động đậy mơ màng trên những gối tảng chai cứng.
Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Bao nhiêu là kỷ niệm đau đớn xui biển kêu gào van vỉ! Phải chăng mộng triệu quái gở gì đây?
Ôi chao, ta cảm thấy đau buồn cùng mi, hỡi con quái vật đen tối kia và ta bực mình cũng chỉ vì mi.
Ơi trời, tại sao đôi tay ta lại không còn đủ sức! Ta hăm hở muốn rứt mi khỏi cơn ác mộng kia! Vừa lúc Zarathustra nói thế thì hắn vụt cười ầm lên để tự nhạo báng mình một cách bàng hoàng chua chát. Thế nào! Ồ Zarathustra! Hắn nói, mi lại còn muốn ca xướng vỗ về biển cả ư?
Chao ôi! Ồ Zarathustra, ồ thằng điên mà giàu nặng tình thương, tràn đầy tự mãn? Nhưng mi vẫn luôn luôn là thế kia mà: mi vẫn luôn luôn xoắn xuýt gần gũi với tất cả những con quái vật khủng khiếp.
Mi muốn vuốt ve mân mê tất cả những con quái vật. Chỉ cần một hơi hám ấm áp, một nhúm lông mơn mơn dưới chân móng quái vật - ờ, chỉ thế thôi, mi cũng đã sẵn sàng yêu đương và dụ dỗ quyến rũ nó cho mi.
Tình thương là nỗi nguy hiểm của kẻ cô đơn nhất; thương yêu tất cả mọi sự, miễn là chúng nó sống động! Ồ, cơn điên dại và lòng nhún nhường của ta trong tình thương! Ồ, thực là đáng cười!
Zarathustra đã nói thế và hắn vụt cười giòn một lần nữa: nhưng rồi bỗng hắn nhớ đến những bạn bè bỏ quên, ngỡ như là trong tâm tưởng mình đã phạm lỗi với chúng: hắn liền nổi giận với tâm tưởng mình. Thế rồi bỗng nhiên đang cười hắn sực khóc nức nở, vừa cười vừa khóc: Zarathustra khóc chua xót trong cơn thịnh nộ, diệu vợi mang mang khát vọng nuối tiếc.
XII.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Trong quyển Qu’appelle-t-on penser? (P.U.F., 1959, trang 125), phần đầu nói về Nietzsche trong khóa dạy mùa đông năm 1951-1952 tại trường Đại học Fribourg-en-Brisgau, Heidegger lại nhấn mạnh một lần nữa:
Thể tính của tính thể xuất hiện trong siêu thể học hiện đại theo cách thể của ý tính”.
(L’Être de l’étant apparait dans la métaphysique moderne comme la volonté).
“Ý tính” diễn tả trọn vẹn danh từ “la volonté” trong ý nghĩa của Siêu thể học. Chúng ta hãy để ý chữ ý nghĩa trong chữ ý tính: ba chữ ý lại có thể diễn tả ba chữ khác nhau của ngôn ngữ Tây phương: để ý → remarquer; ý nghĩa signification; ý tính volonté. Điều này nói lên cái gì? Phải chăng nói lên rằng thể ngữ Đông phương có khả năng suy tư tận nguồn hơn thể ngữ Tây phương?
Nghĩa là ngôn ngữ của Việt và Tính có khả năng suy tư về ý nghĩa của tư tưởng Nietzsche hơn là bất cứ một triết gia hay tư tưởng gia Tây phương nào, dù người ấy là thiên tài tư tưởng như Heidegger, hay giáo sư tư tưởng như Karl Jaspers?
Phục thể là phẫn thể của ý thể đối ngược lại với thời thể và tính thể quá thể của chính thời thể”.
Câu trên tối nghĩa? Đó là ngôn ngữ của tư tưởng về Việt và Tính, dùng để giải nghĩa và dịch nghĩa ý nghĩa câu văn dưới đây của Nietzsche:
Dies, ja dies allein ist Rache selber: des Willens Widerwille gegen die Zeit und ihr “Es war”.
Câu trên nằm trong chương “Von der Erlösung” (Nói về giải thoát) ở phần II quyển Also sprach Zarathustra (cf. Nietzsche in drei Bänden, II, p. 394).
Trong bản dịch Essais et Conférences, André Préau dịch là:
“Ceci, oui, seul ceci est la vengeance elle-même: le ressentiment de la vonlonté envers le temps et son “il y avait””. (cf. op. cit., p. 133).
Trong bản dịch Qu’appelle-t-on penser? Aloys Becker và Gérard Granel dịch là:
“La vengeance est le ressentiment de la volonté contre le temps et son “il était”.” (cf. op. cit., p 125, 126).
Trong bản dịch Ainsi parlait Zarathustra, Henri Albert dịch là:
“Ceci, oui, ceci seul est la vengeance même: la répulsion de la volonté contre le temps et son “ce fut”.” (cf. op. cit. p., 163)
Trong bản dịch Ainsi parlait Zarathustra, Maurice Betz dịch là:
“Ceci, oui, ceci seul est la vengeance même: la répulsion de la volonté contre le temps et son “ce fut”.” (cf. op. cit., p. 164)
Trong bản dịch Thus spoke Zarathustra, Walter Kaufmann dịch là:
This, indeed this alone, is what revenge is: the will’s ill will against time and its “it was””. (cf. The Portable Nietzsche, p. 252)
Chúng ta hãy đọc lại nguyên tác chữ Đức của Nietzsche:
Diess, ja diess allein ist Rache selber: des Willens Widerwille gegen die Zeit und ihr “Es war”.
Và đọc lại bản dịch chữ Việt theo tư tưởng về Việt và Tính:
- Đây, ừ, đây mới chính là phục thể: phẫn thể của ý thể đối ngược lại với thời thể và quá thể của chính thời thể.
Chữ Đức “Rache” có nghĩa là sự trả thù; “Will” (Wille, Willens, Willen) có nghĩa là ý muốn, ý chí, chí hướng; “wider” có nghĩa là chống lại, đối lại, ngược lại, nghịch lại: “Widerwille” (Widerwillen) có nghĩa là phật ý, nghịch ý, cưỡng ý, phản ý, ác ý; “Zeit” là thời gian; “Es war” có nghĩa là đã qua, đã xảy ra, đã qua rồi.
Chúng ta hãy đọc lại một lần nữa nguyên tác Đức ngữ của Nietzsche:
Diess, ja diess allein ist Rache selber: des Willens Widerwille gegen die Zeit und ihr “Es war”.
Đây không phải là nơi giảng văn Đức ngữ; việc tư tưởng không thể là việc trích cú từ chương hay tầm nguyên kinh sách. Im lặng Hố thẳm lưu ý đặc biệt câu văn trên của Nietzsche vì lý do là Heidegger đã tập trung tất cả nỗ lực suy tư của ông hướng về câu trên của Nietzsche để lật ngược thế cờ tư tưởng, để xô đẩy Nietzsche vào trong đường cùng của toàn thể Siêu thể học Tây phương (cf. Qu’appelle-t-on penser?; pp. 21-126; Essais et Conférences, p.p. 116-145).
Những chữ quan trọng trong câu văn của Nietzsche là chữ “Rache” (sự trả thù), “des Willens Widerwille” (sự phẫn hận của ý chí), “die Zeit und ihr “es war” (thời gian và cái “đã qua” của thời gian). Nếu dịch nôm na câu văn của Nietzsche ra ngôn ngữ thông thường thì có thể dịch như thế này:
- Đây, ừ, đây, mới thực chính là sự trả thù: sự phẫn hận của ý chí chống lại thời gian và cái “đã qua” của thời gian.
Nhưng nếu dịch lại một cách “triết lý” theo ngôn ngữ độc đáo của tư tưởng về Việt và Tính thì phải dịch như thế này:
- Đây, ừ, đây, mới chính là phục thể: phẫn thể của ý thể đối ngược lại thời thể và quá thể của thời thể.
Dịch là suy tư; dịch Nietzsche là suy tư với Nietzsche. Chữ Việt-Hán “phục” có hai nghĩa: 1. trở về; 2. đáp lại. Chữ “phục thể” dùng để dịch chung cho hai chữ của Nietzsche:
1) Rache
2) die ewige Wiederkehr
Dịch nôm na là:
1) Sự trả thù
2) Sự trở về vĩnh cửu
Dịch lại theo ngôn ngữ của hố thẳm:
1) phục thể
2) phục thể (phục thể vĩnh thể).
Chữ “phục” trong “phục thể” (1) có nghĩa là: “đáp lại”; chữ “phục” trong “phục thể” (2) có nghĩa là: “trở về” (Wiederkehr).
Theo Heidegger, “Rache” (trả thù), “rächen” (trả thù), “wreken” (cùng nghĩa), “uregeen” còn có nghĩa là: đuổi theo (poursuivre, être sur la piste…) (cf. Essais et Conférences, p 130), như thế chữ “phục” lại diễn tả trọn vẹn ý nghĩa chữ “Rache”, vì chữ “phục”, ngoài ý nghĩa “đáp lại”, còn có ý nghĩa là “theo”. Song thoại với tư tưởng Tây phương thì phải đặt lại tính thể của ngôn ngữ; đặt lại tính thể ngôn ngữ Đông phương thì phải cần nhấn mạnh tính thể nhất như của ngữ tính Đông phương để mở cửa ngõ cho sự đón nhận tính thể nhất đồng của ngữ tính Tây phương, để rồi cùng nhau chuẩn bị cho cuộc song hôn giữa thể tính Như Tính của Tư Tưởng Á Đông và tính thể Đồng Tính của Tư Tưởng Âu châu trong Tính Mệnh của Uyên Mặc (Im lặng Hố thẳm).
Đặc tính của Tư Tưởng Âu châu là sự phẫn thể, sự trả thù của thể đối với thể qua sự tiền tượng (Vor-stellen) của tư tưởng; đặc thể của tư tưởng ấy là ý thể (le vouloir) (cf. F. W. J. Schellig: “ý thể là tính thể uyên nguyên”: Vouloir est l’Être originel. Cf. F.W.J. Schelling, Écrits philosophiques, t. Ier, Landshut, 189, p. 419); chữ “ý thể” (vouloir) ở đây, theo Heidegger, chính là thể tính của tính thể trong toàn thể (l’être de l’étant dans son ensemble) và thể tính ấy chính là ý tính (cet être est vonlonté). Đối với Nietzsche, tinh thần phẫn thể (l’esprit de vengeance=Rache) đã qui định tư tưởng Tây phương từ trước đến nay, mà phẫn thể (Rache) có nghĩa là phẫn thể của ý thể (Des Willens Widerwille=la contre-volonté de la volonté=le ressentiment de la volonté):
- des Willens Widerwille gegen die Zeit und ihr “Es war”.
(Phẫn thể của ý thể đối ngược lại thời thể và quá thể của thời thể).
Đối với Heidegger, câu “quá thể của thời thể” (und ihr “Es war”) có nghĩa:
- đối với sự lướt qua của thời gian.
Thời gian là sự lướt qua, như thế là sự đi ngược chiều lại ý muốn, ý chí; do đó, ý chí, ý muốn phải đau đớn, đau đớn về sự lướt qua (souffrance du passer) và muốn mình lướt qua mình (souffrance qui veut alors son propre passer) (cf. Essais et Conférences, p. 135) Chấp nhận thời gian là ý tính (volonté) muốn rằng quá thể (le passer) được thường còn (le passer demeure); muốn quá thể còn lại thì quá thể không chỉ luôn luôn hiện đến (venir); đi và đến là trở về, trở về vĩnh cửu; phục thể vĩnh thể (die ewige Wiederkehr). Giải thoát khỏi phẫn thể là đạt đến ý tính (la volonté) tiền tượng tính thể (l’étant) trong sự phục thể vĩnh thể của đồng thể (le Retour éternel de l’Identique).
Heidegger giải thích: thể tính của tính thể xuất hiện cho con người như là sự phục thể vĩnh thể của đồng thể, chỉ có thế, con người mới đi qua cầu mà giải thoát khỏi sự phẫn thể để mà làm kẻ quá giang, gọi là việt nhân (le surhomme). Đó là lối giải thích của Heidegger về ý nghĩa của tư tưởng Nietzsche. Heidegger lại kết luận rằng Nietzsche không thể thể hiện ý tính của mình vì chính Nietzsche không thể giải thoát khỏi cái mình muốn giải thoát.
Heidegger đã hiểu sai Nietzsche: chính Heidegger mới không giải thoát khỏi cái mình muốn giải thoát: tinh thần phẫn thể đã qui định thái độ của Heidegger đối với Nietzsche.
Ý tính của Nietzsche đi qua hai chặng:
1. ý tính giải thoát ra khỏi phẫn thể đối lại với quá thể của thời gian;
2. ý tính trở về phục tính (Wiederkehr) phục tính ở đây chính là sự im lặng của ý tính: ý tính im lặng: trò đùa: trẻ con, sự ngây thơ: vòng tròn tự động: Dionysos: tiếng chấp nhận thiêng liêng của uyên mặc. Chặng hai chính là Im lặng của Hố thẳm:
Heidegger đã bỏ quên chặng hai và chỉ giải thích Nietzsche qua chặng đầu: do đó, mười năm im lặng cuối cùng (1889-1900) của Nietzsche vẫn đời đời giấu kín sự Huyền Bí lạ lùng của Phục Tính giữa Hiện Thể Tây phương.
XIII.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Buổi tư nghiệm vừa qua (XII), chúng ta đã nói về sự im lặng của Nietzsche và chấm dứt bằng một câu nói về Hiện Thể Tây phương. Hiện thể là gì? Câu hỏi này đã được đặt lên theo thể điệu “ti tó õn” của Aristote: thể là gì?
Thể có nghĩa là Hiện (an-wesend). Hiện Thể là Thể Hiện (l’Être en tant que Présence); Hiện thể thể hiện (là Présence pré-sente=Nune Stans) chính là phục thể của vĩnh thể (l’éternité); nhưng Phục Tính của Nietzsche thì không có nghĩa là “phục thể vĩnh thể của đồng thể” theo ngôn ngữ siêu thể học: Hiện Tính của Nietzsche trong Tính Mệnh Uyên Nguyên chính là Phục Tính, mà Phục Tính (Wiederkehr) có nghĩa là Phục Hương (hồi phục Quế Hương) lên đường trở về quê hương (Heimkehr) (cf. Im lặng Hố thẳm, trang 262-271); Phục Tính cũng có nghĩa là Phục Nguyên và Phục Uyên: Phục Tính đồng nghĩa với Uyên Mặc (Sự Im lặng của Hố thẳm). Giờ phút im lặng nhất chính là Phục Tính của Uyên Nguyên: thời gian đảo ngược xoáy tròn như con rắn ôm tròn con ó, lúc ó đảo vòng tròn lớn giữa trời.
Die stillste Stunde (giờ phút im lặng nhất)  Die ewige Wiederkehr (phục tính vĩnh cửu)  die Heimkehr (sự trở về quê hương: phục hương, hồi hương).
Zarathustra chính là kẻ bình phục, kẻ thoát bệnh (Der Genesende), con người lên đường trở về tính thể của mình, kẻ phục nguyên, phục tính, con người của Hố thẳm:
Ồ sung sướng cho ta, mi đến! Ta nghe mi! Hố thẳm của ta đang nói.
- Heil mir! Du kommst - icd höre dich! Mein Abgrund redet…
(Also Sprach Zarathustra, III, Der Genesende)
Phục tính chính là Uyên Tư: tư tưởng của Hố thẳm (cf. Zarathustra “meinen abgründigsten Gedanken!”).
Phục Tính là khoen tròn hôn phối của những khoen tròn (dem hochzeitlichen Ring der Ringe), khoen tròn của sự Phục Hồi (dem Ring der Wiederkunft).
Zarathustra nói lên tiếng nói của Hố thẳm:
- Ta, Zarathustra, kẻ phát ngôn của đời sống, kẻ phát ngôn của nỗi đau khổ, kẻ phát ngôn của vòng tròn.
Ich, Zarathustra, der Fürsprecher des Lebens, der Fürsprecher des Leidens, der Fürsprecher des Kreises…
(Zarathustra, III, Der Genesende)
Phục Tính chính là con rắn cuộn tròn và Việt Nhân (Übermensch) chính là kẻ nuốt con rắn đen trong cổ họng mình, cắn đứt đầu rắn và cười ầm lên một cách dị thường, tiếng cười, không phải của một người nữa (nicht mehr Mensch), tiếng cười của một kẻ hóa thể, nhập một với rắn, nhập thể vì đã phục tính trong vòng tròn vĩnh cửu của Tính thể và Dịch thể (cf. Zarathustra, III, Vom Gesicht und Rätsel).
Zarathustra dạy những gì?
1) Thượng đế đã chết (Gott ist tot).
2) Việt nhân (Übermensch).
3) Phục tính vĩnh cửu (ewige Wiederkunft).
Đó là ba hóa thể (drei Verwandlungen) của Tâm Thể (des Geistes): tâm thể biến thành con lạc đà, mang chở tất cả những gánh nặng nề nhất của loài người để băng qua sa mạc mênh mông lớn rộng, chịu đựng đói khát trong hồn vì quá yêu chân lý: sự chịu đựng lì lợm của một kẻ đau đớn và bệnh hoạn mà vẫn đuổi bỏ tất cả những ai muốn vỗ về an ủi mình, làm bạn bè với những kẻ điếc vì chúng nó không bao giờ nghe biết mình muốn gì trong lòng, lao mình xuống vũng nước lạnh đục ngầu của chân lý, mà không kinh tởm lũ cóc nhái sốt nóng ([Oder ist es das:] in schmutziges Wasser steigen, wenn es das Wasser der Wahrheit ist, und kalte Frösche und heisse Kröten nicht von sich weisen?), yêu thương những kẻ khinh bỉ mình, chìa tay cho quỉ ma bắt khi nó muốn nhát mình ([Oder ist es das:] Die lieben, die uns verachten, und dem Gespenste die Hand reichen, wenn es uns fürchten machen will?), vội vàng chạy lủi vào sa mạc (also eilt er in seine Wüste)
Trong vùng sa mạc cô liêu nhất:
Aber in der einsamsten Wüste…
Nhưng giữa vùng sa mạc hoang vu nhất, cô đơn nhất, hiu quạnh nhất:
Aber in der einsamsten Wüste
Giữa miền sa mạc hiu hắt ấy, con lạc đà bỗng hóa thể thành con sư tử: sư tử chinh phục tự do và làm chủ sa mạc của chính mình (Freiheit will er sich erbeuten und Herr sein in seiner eigenen Wüste).
Sư tử rống lên và vồ chụp tàn phá tất cả những gì thiêng liêng nhất trong bao nhiêu ngàn năm: tất cả những giá trị đều sụp đổ: Hư vô bắt đầu lan rộng vây phủ trần gian: Hư vô bay về ám đen tất cả lãnh thổ Việt Nam: Hư vô bay vèo trên đôi mắt khép lại của người trai trẻ Việt trên đèo heo hút gió, giữa sơn khê rừng quế, dưới đồng ruộng lúa đỏ: Hư vô bay vèo trên đôi mắt vời vợi của người con gái Việt, khi con bướm đen không còn bay về phố cũ: Hư vô bay vèo qua bước chân lạnh lùng của người về từ miền núi: Hư vô bàng bạc tràn ngập Trời tháng Tư: Hư vô cuộn tròn bí ẩn trong Ngày sinh của rắn; Hư vô viết thư gửi cho Nietzsche trong Ý thức mới trong văn nghệ và triết học: Hư vô mửa khói đen bi tráng trong Hố thẳm Tư tưởng: Hư vô ôm chân Nietzsche một cách bơ phờ trong Im lặng Hố thẳm - Hư vô ho lao, bể phổi, vỡ tim những hàng cây hững hờ âm thầm trên đất xưa.
Hư vô lại nói? Hư vô lại im lặng? Im lặng để nói? Nói để im lặng? Im lặng mà nói? Nói vì không còn gì để nói? Hư vô trở về với Hư vô. Hố thẳm kêu gọi Hố thẳm. Nhưng giữa vùng sa mạc hoang vu nhất…
Aber in der einsamsten Wüste…
Lạc đà biến thể thành sư tử: Sư tử làm chủ sa mạc của chính mình: làm chủ Hư vô của chính mình.
Có người trai trẻ Việt nào đã làm chủ Hư vô của chính mình? Có người Việt nào trở thành người Việt, nghĩa là “Việt nhân”, nghĩa là “Übermensch”?
“Übermensch” không có nghĩa là “siêu nhân”; “Übermensch” chỉ có nghĩa là “việt nhân”, vì “việt” có nghĩa là đi lên và đi xuống, đi lên núi cao và đi xuống hố thẳm, đi lên là Übergang và đi xuống là Untergang, đúng như nghĩa của chữ “Übermensch” mà Nietzsche muốn dựng lên để đối mặt với Hư vô của thế kỷ XX, và lạ lùng biết bao, Hư vô của thế kỷ XX lại thành tựu tại Việt Nam, và huyền bí biết bao, người Việt chính là ý nghĩa của chữ “Übermensch”?
Giữa vùng sa mạc hoang vu nhất của Việt Nam…
Aber in der einsamsten Wüste…
Có người Việt nào hóa thể thành sư tử để tàn phá tất cả những giá trị truyền thống? Tàn phá hết để cưu mang sứ mệnh của Hố thẳm? Phá hủy hết tất cả triết lý Đông phương và Tây phương để nhìn thẳng vào Hố thẳm? Phá hủy hết Văn hóa và Văn minh nhân loại để đứng trần truồng dưới ánh mắt của mặt trời? Lột truồng đứng thẳng dưới mắt mặt trời? Nackt vor den Augen der Sonne zu stehn (cf. Zarathustra, III, Von der grossen Sehnsucht) Chủ nghĩa quốc gia ư? Chủ nghĩa quốc tế ư? Dân tộc tính ư? Xã hội tính ư? Ái quốc ư? Tình thương ư? Vứt bỏ tất cả những thứ ấy vào sọt rác.
Hãy vứt bỏ tất cả những mớ giá trị lải nhải đàn bà ấy! Bước một bước là dân tộc, bước một bước là truyền thống dân tộc; bước hai bước là đạo pháp và giáo hội; bước hai bước là trách nhiệm và hy sinh; bước ba bước là đạo đức và xã hội. Dân tộc gì? Ái quốc gì? Truyền thống gì? Trách nhiệm gì?
Vứt hết tất cả thứ ấy vào sa mạc.
Đứng lên.
Đứng lên trần truồng nhìn thẳng vào mắt mặt trời. Giữa vùng sa mạc hoang vu nhất của Việt Nam, anh hãy đứng lên mà nhìn thẳng vào mắt mặt trời; anh hãy cắn đầu rắn đen mà phun nhổ vào mắt mặt trời. Nhảy múa trên hố thẳm và cười ầm lên, cười như chưa bao giờ biết cười. Leo lên tận đỉnh núi mà tru lên như điên, rồi nhảy xuống ôm hố thẳm của Empédocle. Bước đi giữa loài người như con sư tử, bởi vì chỉ có trách nhiệm duy nhất và tối thượng là trách nhiệm trước Hố thẳm.
Hãy cắn đầu Nietzsche và phun nhổ đầu tóc đen vào mắt Hư vô.
Im lặng Hố thẳm? Hố thẳm đang nói? Đánh rách tất cả ngôn ngữ để cho Hố thẳm lên tiếng…
Mein Abgrund redet…
Khi Hố thẳm lên tiếng thì sự sâu thẳm cuối cùng lật ngược lại ánh sáng (meine letzte Tiefe habe ich ans Licht gestülpt!) cf. (Zarathustra III, Der Genesende), Hố thẳm tiếp nối Núi cao: sư tử biến thành trẻ thơ và thành tựu chặng hóa thể thứ ba cuối cùng:

Ngây thơ và quên lãng là trẻ thơ, một sự bắt đầu mới, một trò chơi, một bánh xe tự xoay chuyển, một cử chỉ đầu tiên, một tiếng Dạ thiêng liêng…
Unschuld ist das Kind und Vergessen, ein Neubeginnen, ein Spiel, ein aus sich roolendes Rad, eine erste Bewegung, ein heiliges Ja-sagen.
(cf Zarathustra, I, Von den drei Verwandlungen)
Ba sự hóa thể của tâm thể: lạc đà biến thành sư tử, sư tử biến thành trẻ con (cf. Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, t.b. III, trang 524-535).
1) Thượng đế đã chết = lạc đà.
2) Việt nhân = sư tử.
3) Phúc tính vĩnh cửu = trẻ con.
Hay:
1) Thượng đế đã chết = kẻ bị đóng đinh mà không sống lại.
2) Việt nhân = Zarathustra.
3) Phục tính vĩnh cửu = Dionysos
Hay:
Nietzsche = le crucifié + Zarathustra + Dionysos.
Khi sư tử biến thành trẻ con thì Hố thẳm lại trở về với sự im lặng: Nietzsche trở về im lặng trên mười năm trời (1889-1900) và lìa bỏ mặt đất khi thế kỷ XX vừa bắt đầu xuất hiện.
Mặt trời lặn dưới chân thế kỷ XX.
Hãy đứng lên trần truồng dưới mắt đêm tối…
XIV.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Vì đã nói? Hay chưa nói? Để rồi im lặng?
Still! -
Von grossen Dingen - ich sehe Grosses! - soll man schweigen…
(cf, Nietzsche, Werke in drei Bänden, II, trang 1262)
Im lặng!
Về những sự thể vĩ đại - ta đã thấy sự vĩ đại! -
Ta phải im lặng…
XV.
Trong bức thư gửi cho Malwida von Meysenbug vào tháng Hai năm 1884, đang lúc ở Nice, Nietzsche xin lỗi về sự im lặng của mình:
“Tôi không có được người nào hiểu nổi tác phẩm của tôi muốn nói gì: không có ai đủ sức để giúp đỡ tôi. Đó chính là nhân thể của tôi: sống ở đời mà tôi đành phải im lặng một cách tế nhị về những ý định tối thượng của mình… Người ta sẽ chạy trốn xa tôi nếu họ biết được những bổn phận nào đã xuất phát từ đường lối suy tư của tôi! Và chính cô cũng thế! Cô bạn thân mến mà tôi kính trọng nhiều!
Tôi vẫn đập nát cái này, tôi vẫn phá hủy cái kia: xin cô hãy bỏ tôi trong nỗi cô đơn của tôi!!!
… Tôi đã ngu dại khờ khệch mà đi về “giữa loài người”: đáng lẽ tôi phải biết trước những gì có thể xảy đến cho tôi.
Nhưng điều quan trọng nhất là điều này: tôi mang trong hồn tôi những sự việc nặng trĩu gấp trăm lần sự ngu xuẩn của loài người. Có thể tôi là một định mệnh, tôi là tính mệnh cho tất cả những người trong tương lai và rất có thể một ngày nào tới đây tôi sẽ phải tự im lặng vì thương nhân loại!
… Ồ, ôi chao! Bây giờ tôi cảm thấy cần nghe nhạc quá!… Có còn người nào khao khát âm nhạc như thế?”
(cf. Nietzsche, Lettres choisies, traduite par A. Vialatte, Gallimard, pp. 214-216)
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Hãy đọc lại bức thư trên, đọc từng dấu phết, dấu chấm và nhất là những dấu chấm than!
XVI.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Vì sao Rimbaud phải im lặng? Vì sao Van Gogh phải im lặng? Vì sao Henry Miller phải nói với sự im lặng, bằng sự im lặng và qua sự im lặng? Vì sao trầm tư về Nietzsche hay trầm tư về Henry Miller là trầm tư về sự im lặng qua chính sự im lặng? (cf. Hố thẳm tư tưởng, ecce homo: Henry Miller, fire for fire). Vì sao Nietzsche phải im lặng? Rimbaud? Henry Miller?
René Char trả lời:
Vài ba người không ở trong xã hội, cũng không ở trong mộng mị. Họ thuộc về một tính mệnh đơn độc, thuộc về một nỗi hoài vọng xa lạ. Việc làm dễ thấy của họ dường như đi trước sự tố cáo đầu tiên của thời gian và đi trước niềm vô tư lự của những phương trời…
(Quelques êtres ne sont ni dans la société ni dans une rêverie. Ils appartiennent à un desti isolé, à une espérance inconnue. Leurs actes apparents semblent antérieurs à la première inculpation du temps et à l’insouciance des cieux…)
“Họ thuộc về một Tính mệnh đơn độc, thuộc về một nỗi hoài vọng xa lạ…” Họ là ai? Héraclite? Rimbaud? Nietzsche? Van Gogh? Henry Miller? Những người đi về từ Hố thẳm? Những người lên đường đi trở về lại Hố thẳm?
René Char trả lời mà không trả lời:
Tương lai chảy tan trước cái nhìn của họ. Họ là những người cao thượng quí phái nhất và xao xuyến ray rứt nhất…
(L’avenir fond devant leur regard. Ce sont les plus nobles et les plus inquiétants).
XVII.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Tại sao Zarathustra nằm ngủ mà vẫn mở mắt? Tại Zarathustra nằm mộng mà mắt vẫn mở?
- Mặc dù ngủ, nhưng mắt Zarathustra vẫn mở.
(cf. Im lặng Hố thẳm, Credo, trang 183)
Người nào mơ mộng mà mắt vẫn mở? Người nào nói mà môi vẫn bất động? Nói mà vẫn im lặng? Mơ mộng mà mắt vẫn mở? Mơ mộng mà vẫn thức tỉnh? Và quan trọng nhất là vì sao người viết cứ hỏi mãi mà không trả lời?
Và vì sao khi viết về Dostoievski, tình cờ André Gide đã viết một câu bất ngờ như sau:
Nỗi xao xuyến quằn quại bắt đầu xuất hiện, khi câu hỏi còn lại, mà vẫn không có sự trả lời…
- L’angoisse commence lorsque la question demeure sans réponse (André Gide, Dostoïevski, N.R.F., 1964, trang 191)
Khi tất cả mọi sự đều sụp đổ rồi thì còn lại gì nữa?
Còn lại gì?
Chỉ còn lại câu hỏi.
Chỉ còn lại một dấu hỏi: một dấu hỏi bằng lửa.
Một dấu hỏi bằng lửa mà Zarathustra đã nhóm lên trên đỉnh núi cao.
Một câu hỏi bằng lửa dưới bầu trời đen tối:
Nơi đây, châu đảo nhoai đầu lên giữa những mặt biển,
Nơi đây sừng sững vút lên mô đá tế trời,
Nơi đây, dưới lòng trời đen huyền,
Zarathustra nhóm dậy ngọn lửa của chóp cao ngút đỉnh:
Dấu hiệu lửa đỏ cho những hoa tiêu lạc hướng
Dấu hỏi cho những kẻ nào được hồi âm…
Ngọn lửa se lòng tro xám trắng phau
Phóng lưỡi khát khao liếm quanh vùng viễn phương buốt lạnh,
Ngọn lửa se cổ thon lên những đỉnh cao trong suốt
Con rắn ngoi thẳng lưng cao se dạ bồn chồn:
Đó là dấu hiệu mà ta đã dựng lên trước mặt ta
Chính hồn ta là ngọn lửa ấy:
Nó đốt cháy khôn nguôi nhiệt cuồng lặng lẽ vọng về những phương trời mới lạ
Vút cao nghi ngút, nghi ngút…
Tại sao Zarathustra phải trốn bỏ loài người, loài thú
Và bỏ trốn những giải đất triền miên?
Hắn đã quen biết sáu nỗi cô đơn
Biển cả không còn chứa đủ cô đơn cho hắn
Châu đảo bồng hắn lên cao; trên chóp cao, hắn hóa thể trở thành ngọn lửa
Và ném lưỡi câu lên đầu mình
Tìm kiếm nỗi cô đơn thứ bảy.
Ới những hoa tiêu lạc lõng! Ới những phế tích của những vì sao xưa!
Ới chúng mi, những biển cả của tương lai!
Ới chúng mi, những phương trời vô lượng!
Ta ném lưỡi câu đến tất cả niềm cô đơn:
Hãy đáp ứng lại nỗi bồn chồn của lửa ngọn
Ới nỗi cô đơn tối hậu, nỗi cô đơn thứ bảy!
Hãy bắt lấy ta, kẻ câu cá trên những đỉnh non cao.
Nguyên tác chữ Đức của Nietzsche gợi lên trọn vẹn tiếng kêu trên đỉnh núi của bảy nỗi niềm cô đơn:
Das Feuerzeichen
Hier, wo zwischen Meeren die Insel wuchs,
Ein Opferstein jäh hinaufgethürmt,
Hier zündet sich unter schwarzem Himmel
Zarathustra seine Höhenfeuer an,
Feuerzeichen für verschlagne Schiffer,
Fragezeichen für solche, die Antwort haben…
Die Flamme mit weissgrauem Bauche
- in kalte Fernen züngelt ihre Gier,
nach immer reineren Höhn biegt sie den Hals -
eine Schlange gerad aufgerichtet vor Ungeduld:
dieses Zeichen stellte ich vor mich hin.
Meine Seele selber ist diese Flamme,
Unersättlich nach neuen Fernen
Loder aufwärts, aufwärts ihre stille Gluth.
Was floh Zarathustra vor Thier und Menschen?
Was eintlief er jäh allem festen Lande?
Sechs Einsamkeiten kennt er schon -,
aber das Meer selbst war nicht genug ihm einsam,
Die Insel liess ihn steigen, auf dem Berg wurde er zur Flamme,
Nach einer siebenten Einsamkeit
Wirft er suchend jetzt die Angel über sein Haupt.
Verschlagne Schiffer! Trümmer alter Sterne!
Ihre Meere der Zukünft! Unnausgeforschte Himmel!
Nach allem Einsamen werfe ich jetzt die Angel:
Gebt Antwort auf die Ungeduld der Flamme,
Fangt mir, dem Fischer auf hohen Bergen,
Meine siebente letzte Einsamkeit! -
(Nietzsche, Dionysos-Dithyramben, cf. Werke in drei Bänden, p. 1253)
Hiểu được sự khác nhau giữa Biểu tượng (Sinnbild) và Dấu hiệu (Zeichen) là hiểu được sự khác nhau giữa Tính thể (Seiende) và Thể tính (Sein): ý thức được sự khác nhau giữa dấu hiệu và biểu tượng là một bước đi quan trọng trong tư tưởng (cf. Hố thẳm Tư tưởng, chương I-II); sự khác nhau giữa biểu tượng và dấu hiệu là sự khác nhau giữa văn minh và u minh (Ủngund).
Tư tưởng của Nietzsche là tư tưởng của dấu hiệu (Zeichen); tất cả truyền thống triết lý Tây phương chỉ là tư tưởng của biểu tượng (Sinnbild); ngay đến Heidegger, mặc dù Heidegger ý thức được sự bí ẩn huyền diệu của dấu hiệu (Zeichen), nhưng chính tư tưởng của Heidegger cũng chỉ là tư tưởng của biểu tượng về dấu hiệu: biểu tượng về dấu hiệu cũng chỉ là biểu tượng bất lực. Heidegger không hiểu tư tưởng Nietzsche, chỉ vì Heidegger chỉ muốn biến đổi dấu hiệu của Nietzsche thành biểu tượng: biểu tượng ấy là Siêu thể học; biểu tượng thì siêu thể; dấu hiệu thì nhập thể để phục tính (siêu thể: đi lên trên thể; nhập thể: đi vào trong thể).
Tư tưởng Nietzsche là một dấu hiệu (Zeichen).
Quan trọng hơn nữa, dấu hiệu của Nietzsche là một dấu hỏi (Fragezeichen).
Quan trọng nhất, dấu hỏi của Nietzsche là một dấu hỏi bằng lửa (Feuerzeichen).
Bài thơ trích dịch ở trên mang nhan đề là “Feuerzeichen”, nghĩa là “dấu hỏi bằng lửa”.
Nỗi cô đơn thứ bảy Nietzsche chính là ý thức sự im lặng tối hậu mà dấu hiệu đã đưa về trong ngọn lửa nghi ngút tận đỉnh non cao: hóa thể phục tính: nhìn thấy và im lặng: con người biến thành lửa núi: nỗi cô đơn cuối cùng của một kẻ suất tính để biến thành lửa của những vũ trụ mới: lửa tế trời biến thành lửa của trời.
Mặt trời chỉ là vết tích rớt lại của con rắn lửa se tròn đùa chơi trong khoen tròn của vòng tròn thế mệnh.
XVIII.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Tính thể của sự im là dấu hỏi; thể tính của dấu hỏi là sự im lặng. Nietzsche im lặng, vì đã hỏi; và khi dấu hỏi biến thành dấu hỏi lửa thì sự im lặng của Nietzsche đã được thành tựu. Lực ý chính là dấu hỏi; phục tính vĩnh cửu chính là dấu hỏi lửa: con rắn ngoi đầu thẳng lên đỉnh trời mà Zarathustra đã dựng lên trước mặt mình (eine Schlange gerad aufgerichtet… dieses Zeichen stellte ich vor mich hin).
Khi Zarathustra hóa thể thành Dionysos thì Nietzsche trở về im lặng (1889-1900).
Sự hóa thể phục tính trải qua hai giai đoạn:
1) Dionysos chống lại kẻ bị đóng đinh
2) Dionysos và kẻ bị đóng đinh chỉ là một.
Khi Dionysos chống lại kẻ bị đóng đinh thì Nietzsche đánh lên một dấu hỏi trước toàn thể giá trị truyền thống Tây phương. Đó là đảo ngược lại tất cả giá trị (Umwertung aller Werte); trong lời mở đầu của quyển Götzen – Dämmerung (Hoàng hôn của những thần tượng), Nietzsche gọi “sự đảo ngược tất cả giá trị ấy” là một dấu hỏi màu đen, một dấu hỏi quá đen:
Eine Umwertung aller Werte, dies Fragezeichen so schwarz…
(cf. Werke in drei Bänden, II, p. 941)
mà Nietzsche phải mang sinh mệnh mình để đổi lấy nó trong việc cưu mang thể mệnh nhân loại.
Khi Dionysos và kẻ bị đóng đinh nhập lại làm một, như trong năm đầu tiên đi vào im lặng, năm 1889, Nietzsche đã viết thư cho Peter Gast và ký ở dưới là:
- “kẻ bị đóng đinh”
- Der Gekreuzige
(cf. Werke in drei Bänden, III, p. 1350)
Lúc viết cho Georg Brandes, Nietzsche cũng ký tên là “kẻ bị đóng đinh” (Poststempel: Turin 4. I. 1889); còn viết cho Jacob Burckhardt, Nietzsche ký là “Dionysos” (Poststempel: Turin, 4.I.1889), nghĩa là cũng vào ngày 4 tháng 1 năm 1889, Nietzsche đã ký cùng lúc hai tên đối nghịch “kẻ bị đóng đinh” (Der Gekreuzigte) và “Dionysos”.
Khi Dionysos và kẻ bị đóng đinh nhập lại làm một (Der Gekreuzigte = Dionysos) thì Phục Tính vĩnh cửu xuất hiện như mười hai giờ trưa nhập với mười hai giờ khuya: Việt nhân (Übermensch) không còn mâu thuẫn với phục thể vĩnh thể của đồng thể (Die ewige Wiederkehr des Gleichen): lực ý (Der Wille zur Macht) và phục thể vĩnh thể của đồng thể nhập nhau làm một, tương dung tương nhiếp với nhau:
Trong sự thể hữu hạn và độc nhất chiếu ngời lên sự vĩnh cửu của vũ trụ; sự thể biến mất trong thâm cùng Hố thẳm bỏ ngỏ lời trần gian”.
- Dans la chose finie et unique luit l’éternité du cosmos; la chose disparait pour ainsi dire dans la profondeur de l’ABIME ouvert du temps.
(Eugen Fink, La philosophie de Nietzsche, Editions de Minuit, p. 220)
Hố thẳm bỏ ngỏ là Uyên Nguyên khai thể: Thái cực sinh lưỡng nghi: con bướm xòe ra hai cánh và bay lượn tròn quanh thi thể của người con trai chết trong trận chiến tranh Việt Nam: Sự im lặng của lòng đất quê hương bốc lên trở về nhập một với sự im lặng cuối cùng của Nietzsche: Uyên Tư trở về với Uyên Mặc…
XIX.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Nietzsche là người ý thức rõ rệt rằng ngôn ngữ chỉ có thể là ngôn ngữ biểu tượng, khi ngôn ngữ muốn chuyển hóa thành dấu hiệu thì ngôn ngữ đã tự huỷ thể và không còn lý do tồn tại: người nói ồn ào nhất bỗng trở thành kẻ im lặng phũ phàng nhất: hắn bước vào một phương trời khác, phương trời linh thiêng của Uyên Mặc.
Tiếng kêu la của kẻ bị đóng đinh, “cha, cha, tại sao cha bỏ con”, tiếng kêu la bi đát và bi tráng ấy là tiếng kêu chót vót trên đỉnh núi cuối cùng của một kẻ đã ôm toàn thể nhân loại trong tim mình, tiếng kêu tối hậu của Hóa thể, của Ngôn thể trước khi đi vào Uyên Mặc, đi vào nỗi bí ẩn thăm thẳm của Bất sinh và Bất diệt. Trên đỉnh núi cuối cùng, một giây cuối cùng của đời sống, biên giới phân chia giữa sống  chết đã đảo ngược và biến mất; con người thể hiện đã lột xác lần cuối, vứt bỏ hiện thể mình để trở thành Thượng đế: kẻ giết Chúa trở thành kẻ cứu Chúa: người thù của kẻ bị đóng đinh chính là kẻ bị đóng đinh: hai trở về lại với mộtphục tính xuất hiện: Dionysos và kẻ bị đóng đinh chỉ là một người: Antéchrist chính là Christ.
Trong quyển Lettre au Gréco, Nikos Kanzantzaki đã để ba chương trọn viết về Nietzsche; Nikos Kazantzaki đã thấy rằng Antéchrist cũng đã chiến đấu và đau khổ như chính Christ: thoáng vụt trong những khoảnh khắc đau đớn quằn quại, nét mặt của hai bỗng giống nhau. “L’Antéchrist lutte et souffre comme le Christ, et que parfois, dans leurs moments de souffrance, leurs visages se ressemblent” (cf. Lettre au Gréco, p 315).
Kẻ bị đóng đinh và kẻ bị chống đối người bị đóng đinh nhập lại với nhau thành một: “Le Christ et l’Antéchrist se sont confondus” (op. cit., p. 316).
Nikos Kazantzaki đã tóm tắt lại tất cả lộ trình tâm linh của Nietzsche trong một câu văn nặng nghĩa:
Chối bỏ tất cả sự an ủi vỗ về, chối bỏ tất cả sự tìm kiếm nương cậy an ủi vỗ về nơi những thần thánh, nơi những tổ quốc quê hương, nơi những chân lý. Chỉ đứng một mình đơn độc, còn lại một mình, đi một mình và bắt đầu sáng tạo với sức lực riêng lẻ của mình, tự sáng tạo một thế giới xứng đáng, một thế giới không bôi nhọ con tim mình. Nỗi nguy hiểm lớn nhất trong đời hiện ở đâu? Chính đó là điều ta mong muốn đối mặt. Hố thẳm ở nơi nào? Chính đó là nơi ta muốn lên đường trở về. Cơn khoái lạc ngây ngất mạnh bạo nhất là gì? Đó là mang trách nhiệm trọn vẹn. (Refuser toutes les consolations - dieux, patries, vérités - rester seul et se mettre à créer sou-même, avec sa seule force, un monde qui ne déshonore pas son coeur. Où est le plus grand danger? C’est cela que je veux. Où est le précipice? C’est vers lui que je fais route. Quelle est laf joue la plus virile? C’est d’assumer la pleine respnsabilité) (cf. op. cit., p. 327).
Mang trọn vẹn trách nhiệm là gì? Đây không phải là trách nhiệm đối với ai cả, vì tất cả chân lý, tất cả thần thánh, Thượng đế, tổ quốc đã bị chối bỏ phủ nhận. Mình mang trọn vẹn trách nhiệm đối với mình, nghĩa là trách nhiệm trọn vẹn trước Hố thẳm: chỉ có trách nhiệm duy nhất là trách nhiệm trước Hố thẳm:
Bổn phận mi là lên đường đi đến Hố thẳm, một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng”.
XX.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Hố thẳm là gì? Nietzsche gọi là Abgrund; Meister Eckhart cũng gọi là Abgrund (đồng nghĩa với Gottheit); quan trọng nhất là Jakob Boehme: Hố thẳm chính là Urgrund của Jakob Boehme: Hố thẳm tư tưởng  Im lặng Hố thẳm khép lại sinh mệnh Tây phương và tính mệnh Đông phương để mở ra phương trời Uyên Mệnh bằng song thoại thầm kín với Urgrund của Jakob Boehme:
Der Urgrund ist ein ewig Nichts.
(Hố thẳm là Chân không vĩnh cửu)
(cf. Jakob Boehme, Sämtliche Werke)
(cf. Nocolas Berdyaev, The Meaning of The Creative Act, Collier books, 1962, pp. 139, 295)
Trở về sự im lặng cuối cùng của Nietzsche là khép lại một sinh mệnh để đặt lên một Sinh mệnh trong Toàn thể Tính mệnh của Nhân loại.
Trong thời đại Đêm tối của thế giới Hố thẳm của thế giới phải được học và học cho cạn. Mà muốn thế thì phải có người với tới Hố thẳm”.
(Heidegger, pourquoi des poètes? in Chemins qui ne mènent nulle part, NRF, 1962, pp. 220-221)
Lộ trình suy tư của Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, Hố thẳm tư tưởng  Im lặng Hố thẳm đã đi về trên phương hướng ấy.
Và đây là Credo:
Mặc dù đêm đã đến” (Saint Jean de la Croix): AUNQUE ES DE NOCHE…
XXI.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Câu hỏi chỉ còn lại là câu hỏi: câu hỏi chỉ là câu hỏi: câu hỏi không có câu trả lời.
“Vì sao” và “Tại sao” chỉ là thể thế đặc biệt của con người chạy trốn Hố thẳm và không chịu tham dự thể nhập với Trò Đùa của Vũ trụ “Weltspiel”.
Trò Đùa của Vũ Trụ (Weltspiel) chơi vơi phiêu lãng trên Thiện và Ác: Thể Tính (Sein) chính là Trò Đùa (Spiel): Trò Đùa vũ trụ là Trò Đùa của Đứa Trẻ thơ, tên là Dionysos: “Das Spiel das Unnützliche - als Ideal des mit Kraft Überhäuften, als “kindlich”. Die “Kindlichkeit” Gottes…” (cf. Nietzsche, Der Wille zur Macht, III. 797, p. 226).
Trò Đùa không có “tại sao” (cf. Heidegger: Das Spiel ist ohne Warum). Vì sao Nietzsche phải im lặng? Sự im lặng không có “tại sao” hay “vì sao”: Nietzsche im lặng, bởi vì Nietzsche im lặng, giống như đóa hoa hồng của Angelus Silesius trong một bài thơ ở tập Der Cherubinische Wandersmann (1657, I, no 289).
Heidegger đã dùng đóa hoa hồng của Angelus Silesius để mở phương trời cho quyển Der Satz vom Grund (Pfullingen, Neske, 1957).
Đóa hoa hồng của Angelus Silesius nở trọn vẹn thơm ngát, không lý do, trong sự im lặng cuối cùng (1889-1900) của Nietzsche.
Thể Tính như là Thể Tính thì không có căn tính… Thể Tính là: Hố thẳm” (Abgrund).
(Heidegger, Der Satz vom Grund, p. 185)
Heidegger đã nói được như trên, nhưng Heidegger đã bỏ quên đóa hoa hồng mọc trên sự im lặng trên mười năm cuối cùng của Nietzsche. Đó là sự ẩn tính (Verborgenheit) bi tráng nhất, bi đát nhất, mà Heidegger, tư tưởng gia vĩ đại nhất ở thế kỷ XX, tư tưởng gia ý thức nhất về sự vong tính ấy lại chính là người thể hiện sự vong tính mãnh liệt nhất trong thể thế của mình đối với Nietzsche: tư tưởng gia vĩ đại nhất của hai ngàn năm trong lịch sử văn hóa Tây phương, Nietzsche, con người đầu tỉên và cuối cùng, đứng chung với Héraclite, trong cuộc đối chất tối hậu với Uyên Mặc.
Vì sao Nietzsche phải im lặng?
“Như thế, tất cả mọi sự kêu gọi ta bằng những dấu hiệu: “Đã đến giờ rồi!”. Nhưng ta đã không nghe, cho mãi đến lúc cuối cùng HỐ THẲM của ta chuyển động và tư tưởng của ta cắn vào ta. Ôi chao, HỐ THẲM TƯ TƯỞNG là tư tưởng của ta, cho đến khi nào ta mới tìm được sức lực để nghe mi đào xới mà ta không còn run rẩy nữa, hỡi tư tưởng của ta? Tim ta nhảy thoi thóp quá mạnh mỗi lúc ta nghe mi đào xới. Ngay đến sự im lặng của mi cũng muốn bóp nghẹn ta; mi, hỡi tư tưởng, mi im lặng như IM LẶNG HỐ THẲM” (Also Sprach Zarathustra, III, Von der Seligkeit wider Willen)
“Also rief mir Alles in Zeichen zu: “es ist Zeit!” - Aber ich - hörte nicht: bis endlich mein ABGRUND sich rührte und mein Gedanke mich biss.
“Ach, ABGRÜNDLICHER GEDANKE, der du mein Gedanke bist! Wann finde ich die Stärke, dich graben zu hören und nicht mehr zu zittern?
Bis zu Kehle hinauf klopft mir das Herz, wenn ich dich graben höre! Dein Schweigen noch will mich würgen, du ABGRÜNDLICH SCHWEIGENDER!
(cf. Werke in drei Bänden, II, p. 413)
Zarathustra đã nói thế.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Câu hỏi không được trả lời.
Vì sao Nietzsche phải im lặng? Vì sao? Vì sao?
Chỉ còn câu hỏi rớt lại.
Vì sao Nietzsche phải im lặng?…
Coda:
Kết luận Im lặng Hố thẳm
Khi người muốn nghe tiếng ca của nỗi cô đơn thì hãy lắng nghe nhạc của Beethoven” (Und wenn ihr seine einsamen Gesänge hören wollt, so hört Beethoven’s Musik) (cf. Nietzsche, Unzeitgemässe Betrachtungen, III, 3).
Câu nói trên của Nietzsche về Beethoven là lời nói cuối mà người viết dùng mở ra lời kết luận của Im lặng Hố thẳm.
Im lặng Hố thẳm chấm dứt và trở về với sự im lặng của Nietzsche. Trọn phần “Trở về sự im lặng của Nietzsche” đã được viết ra trong suốt thời gian người viết chỉ nghe, sống, ngủ, và thức với tiếng nhạc bí ẩn của Beethoven.
Tiếng nhạc vòi vọi ngút đỉnh của Beethoven đã quyện lấy câu hỏi dồn dập “vì sao Nietzsche phải im lặng?” trong những tháng ngày chơi vơi mà người viết đã trong Hố thẳm không đáy, đã chết tàn tạ trong sự im lặng của đêm sâu, khi hai mươi lăm năm đầu tiên trong đời đã lùi mất trong triền phong của lửa và nước.
Chóp đỉnh cao nhất đã bắt đầu, Hố thẳm dưới kia đã mở ra…
Chỉ còn một bước nữa thôi.
Chỉ còn một bước.
Bao giờ? Bao giờ?
Phạm Công Thiện
I. VI. 1967
Phụ chú:
Dưới đây xin trích lại nguyên tác chữ Đức của Nietzsche về bốn bài giảng của Zarathustra (đã được dịch trong IM LẶNG HỐ THẲM, trang 181-190, trang 231-239, trang 262-271, và trang 262-303); bài thứ nhất thuộc chương IV của ALSO SPRACH ZARATHUSTRA, bài thứ hai thuộc chương II, bài thứ ba và thứ tư thuộc chương III của ALSO SPRACH ZARATHUSTRA. Nietzsche đã đưa ngôn ngữ Đức đến tuyệt đỉnh trong quyển ALSO SPRACH ZARATHUSTRA (Zarathustra đã nói thế): toàn thể quyển ALSO SPRACH ZARATHUSTRA bàng bạc đìu hiu tiếng nói se gió thì thầm của một tâm hồn cô đơn, khi thì bốc cháy như hỏa diệm sơn, khi thì xao xác như tiếng mùa đông trên cõi hư vô, khi thì bảng lảng như tiếng ru diệu vợi của rừng quế thưở mộng đầu, tất cả tiếng động xoáy với nhau nhảy múa chờn vờn trong sự im lặng huyền bí của những người đã ra đi và không bao giờ trở lại, của những người đi về từ miền núi và phải chết đi trong cơn mộng mị khôn cùng về một đỉnh cao tuyết phủ, mà mình đã bỏ mất để nhìn lại một lần cuối thung lũng hư vô, trong nỗi bàng hoàng triền miên buổi chiều nắng quái của những người dưới phố: Nietzsche đã thể hiện được tất cả âm thanh hình ảnh ấy trong nguyên tác chữ Đức. Dưới đây xin trích lại nguyên tác để những người nào biết chữ Đức được dịp đi thẳng vào tiếng nói của Nietzsche; những phần sau đây được trích theo những trang 512-515, trang 399-401, trang 432-435, và trang 403-406 trong bộ Friedrich Nietzsche, Werke in drei Bänden, cuốn II, do Karl Schlechta san nhuận (Carl Haner Verlag, München, 1960).
I. MITTAGS [1] (đã dịch trong IM LẶNG HỐ THẲM trang 181-190)
- Und Zarathustra lief und lief und fand Niemanden mehr und war allein und fand immer wieder sich und genoss und schlürfte seine Einsamkeit und dachte an gute Dinge, - stundenlang. Um die Stunde des Mittags aber, als die Sonne gerade über Zarathustra's Haupte stand, kam er an einem alten krummen und knorrichten Baume vorbei, der von der reichen Liebe eines Weinstocks rings umarmt und vor sich selber verborgen war: von dem hingen gelbe Trauben in Fülle dem Wandernden entgegen. Da gelüstete ihn, einen kleinen Durst zu löschen und sich eine Traube abzubrechen; als er aber schon den Arm dazu ausstreckte, da gelüstete ihn etwas Anderes noch mehr: nämlich sich neben den Baum niederzulegen, um die Stunde des vollkommnen Mittags, und zu schlafen.
Diess that Zarathustra; und sobald er auf dem Boden lag, in der Stille und Heimlichkeit des bunten Grases, hatte er auch schon seinen kleinen Durst vergessen und schlief ein. Denn, wie das Sprichwort Zarathustra's sagt: Eins ist nothwendiger als das Andre. Nur dass seine Augen offen blieben: - sie wurden nämlich nicht satt, den Baum und die Liebe des Weinstocks zu sehn und zu preisen. Im Einschlafen aber sprach Zarathustra also zu seinem Herzen:
Still! Still! Ward die Welt nicht eben vollkommen? Was geschieht mir doch?
Wie ein zierlicher Wind, ungesehn, auf getäfeltem Meere tanzt, leicht, federleicht: so - tanzt der Schlaf auf mir,
Kein Auge drückt er mir zu, die Seele lässt er mir wach. Leicht ist er, wahrlich! federleicht.
Er überredet mich, ich weiss nicht wie?, er betupft mich innewendig mit schmeichelnder Hand, er zwingt mich. Ja, er zwingt mich, dass meine Seele sich ausstreckt: -
- wie sie mir lang und müde wird, meine wunderliche Seele! Kam ihr eines siebenten Tages Abend gerade am Mittage? Wandelte sie zu lange schon selig zwischen guten und reifen Dingen?
Sie streckt sich lang aus, lang, - länger! sie liegt stille, meine wunderliche Seele. Zu viel Gutes hat sie schon geschmeckt, diese. goldene Traurigkeit drückt sie, sie verzieht den Mund.
- Wie ein Schiff, das in seine stillste Bucht einlief: - nun lehnt es sich an die Erde, der langen Reisen müde und der ungewissen Meere. Ist die Erde nicht treuer?
Wie solch ein Schiff sich dem Lande anlegt, anschmiegt: - da genügt's, dass eine Spinne vom Lande her zu ihm ihren Faden spinnt. Keiner stärkeren Taue bedarf es da.
Wie solch ein müdes Schiff in der stillsten Bucht: so ruhe auch ich nun der Erde nahe, treu, zutrauend, wartend, mit den leisesten Fäden ihr angebunden.
Oh Glück! Oh Glück! Willst du wohl singen, oh meine Seele? Du liegst im Grase. Aber das ist die heimliche feierliche Stunde, wo kein Hirt seine Flöte bläst.
Scheue dich! Heisser Mittag schläft auf den Fluren. Singe nicht! Still! Die Welt ist vollkommen.
Singe nicht, du Gras-Geflügel, oh meine Seele! Flüstere nicht einmal! Sieh doch - still! der alte Mittag schläft, er bewegt den Mund: trinkt er nicht eben einen Tropfen Glücks -
- einen alten braunen Tropfen goldenen Glücks, goldenen Weins? Es huscht über ihn hin, sein Glück lacht. So - lacht ein Gott. Still! -
- "Zum Glück, wie wenig genügt schon zum Glücke!'' So sprach ich einst, und dünkte mich klug. Aber es war eine Lästerung: das lernte ich nun. Kluge Narrn reden besser.
Das Wenigste gerade, das Leiseste, Leichteste, einer Eidechse Rascheln, ein Hauch, ein Husch, ein Augen-Blidk - Wenig macht die Art des besten Glücks. Still!
- Was geschah mir: Horch! Flog die Zeit wohl davon? Falle ich nicht? Fiel ich nicht - horch! in den Brunnen der Ewigkeit?
- Was geschieht mir? Still! Es sticht mich - wehe - in's Herz? In's Herz! Oh zerbrich, zerbrich, Herz, nach solchem Glücke, nach solchem Stiche!
- Wie? Ward die Welt nicht eben vollkommen? Rund und reif? Oh des goldenen runden Reifs - wohin fliegt er wohl? Laufe ich ihm nach! Husch!
Still - (und hier dehnte sich Zarathustra und fühlte, dass er schlafe.) -
Auf! sprach er zu sich selber, du Schläfer! Du Mittagsschläfer! Wohlan, wohlauf, ihr alten Beine! Zeit ist's und Überzeit, manch gut Stück Wegs blieb euch noch zurück -
Nun schlieft ihr euch aus, wie lange doch? Eine halbe Ewigkeit! Wohlan, wohlauf nun, mein altes Herz! Wie lange erst darfst du nach solchem Schlaf - dich auswachen?
(Aber da schlief er schon von Neuem ein, und seine Seele sprach gegen ihn und wehrte sich und legte sich wieder hin) - "Lass mich doch! Still! Ward nicht die Welt eben vollkommen? Oh des goldnen runden Balls!'' -
"Steh auf, sprach Zarathustra, du kleine Diebin, du Tagediebin! Wie? Immer noch sich strecken, gähnen, seufzen, hinunterfallen in tiefe Brunnen?
Wer bist du doch! Oh meine Seele!'' (und hier erschrak er, denn ein Sonnenstrahl fiel vom Himmel herunter auf sein Gesicht)
"Oh Himmel über mir, sprach er seufzend und setzte sich aufrecht, du schaust mir zu? Du horchst meiner wunderlichen Seele zu?
Wann trinkst du diesen Tropfen Thau's, der auf alle Erden-Dinge niederfiel, - wann trinkst du diese wunderliche Seele -
- wann, Brunnen der Ewigkeit! du heiterer schauerlicher Mittags-Abgrund! wann trinkst du meine Seele in dich zurück?''
Also sprach Zarathustra und erhob sich von seinem Lager am Baume wie aus einer fremden Trunkenheit: und siehe, da stand die Sonne immer noch gerade über seinem Haupte. Es möchte aber Einer daraus mit Recht abnehmen, dass Zarathustra damals nicht lange geschlafen habe.
II. DIE STILLSTE STUNDE [2] (đã dịch trong IM LẶNG HỐ THẲM trang 231-239)
Was geschah mir, meine Freunde? Ihr seht mich verstört, fortgetrieben, unwillig-folgsam, bereit zu gehen - ach, von euch fortzugehen!
Ja, noch Ein Mal muss Zarathustra in seine Einsamkeit: aber unlustig geht diessmal der Bär zurück in seine Höhle!
Was geschah mir? Wer gebeut diess? - Ach, meine zornige Herrin will es so, sie sprach zu mir: nannte ich je euch schon ihren Namen?
Gestern gen Abend sprach zu mir meine stillste Stunde: das ist der Name meiner furchtbaren Herrin.
Und so geschah's, - denn Alles muss ich euch sagen, dass euer Herz sich nicht verhärte gegen den plötzlich Scheidenden!
Kennt ihr den Schrecken des Einschlafenden? -
Bis in die Zehen hinein erschrickt er, darob, dass ihm der Boden weicht und der Traum beginnt.
Dieses sage ich euch zum Gleichniss. Gestern, zur stillsten Stunde, wich mir der Boden: der Traum begann.
Der Zeiger rückte, die Uhr meines Lebens holte Athem - nie hörte ich solche Stille um mich: also dass mein Herz erschrak.
Dann sprach es ohne Stimme zu mir: “Du weisst esZarathustra?” -
Und ich schrie vor Schrecken bei diesem Flüstern, und das Blut wich aus meinem Gesichte: aber ich schwieg.
Da sprach es abermals ohne Stimme zu mir: “Du weisst es, Zarathustra, aber du redest es nicht!” -
Und ich antwortete endlich gleich einem Trotzigen: “Ja, ich weiss es, aber ich will es nicht reden!”
Da sprach es wieder ohne Stimme zu mir: “Du willst nicht, Zarathustra? Ist diess auch wahr? Verstecke dich nicht in deinen Trotz!” -
Und ich weinte und zitterte wie ein Kind und sprach: “Ach, ich wollte schon, aber wie kann ich es! Erlass mir diess nur! Es ist über meine Kraft!”
Da sprach es wieder ohne Stimme zu mir: “Was liegt an dir, Zarathustra! Sprich dein Wort und zerbrich!” -
Und ich antwortete: “Ach, ist es mein Wort? Wer bin ich? Ich warte des Würdigeren; ich bin nicht werth, an ihm auch nur zu zerbrechen.”
Da sprach es wieder ohne Stimme zu mir: “Was liegt an dir? Du bist mir noch nicht demüthig genug. Die Demuth hat das härteste Fell.” -
Und ich antwortete: “Was trug nicht schon das Fell meiner Demuth! Am Fusse wohne ich meiner Höhe: wie hoch meine Gipfel sind? Niemand sagte es mir noch. Aber gut kenne ich meine Thäler.”
Da sprach es wieder ohne Stimme zu mir: “Oh Zarathustra, wer Berge zu versetzen hat, der versetzt auch Thäler und Niederungen.” -
Und ich antwortete: “Noch versetzte mein Wort keine Berge, und was ich redete, erreichte die Menschen nicht. Ich gieng wohl zu den Menschen, aber noch langte ich nicht bei ihnen an.”
Da sprach es wieder ohne Stimme zu mir: “Was weisst du davon! Der Thau fällt auf das Gras, wenn die Nacht am verschwiegensten ist.” -
Und ich antwortete: “sie verspotteten mich, als ich meinen eigenen Weg fand und gieng; und in Wahrheit zitterten damals meine Füsse.
Und so sprachen sie zu mir: "du verlerntest den Weg, nun verlernst du auch das Gehen!"
Da sprach es wieder ohne Stimme zu mir: “Was liegt an ihrem Spotte! Du bist Einer, der das Gehorchen verlernt hat: nun sollst du befehlen!
Weisst du nicht, wer Allen am nöthigsten thut? Der Grosses befiehlt.
Grosses vollführen ist schwer: aber das Schwerere ist, Grosses befehlen.
Das ist dein Unverzeihlichstes: du hast die Macht, und du willst nicht herrschen.” -
Und ich antwortete: “Mir fehlt des Löwen Stimme zu allem Befehlen.”
Da sprach es wieder wie ein Flüstern zu mir: “Die stillsten Worte sind es, welche den Sturm bringen. Gedanken, die mit Taubenfüssen kommen, lenken die Welt.
Oh Zarathustra, du sollst gehen als ein Schatten dessen, was kommen muss: so wirst du befehlen und befehlend vorangehen.” -
Und ich antwortete: “Ich schäme mich.”
Da sprach es wieder ohne Stimme zu mir: “Du musst noch Kind werden und ohne Scham.
Der Stolz der Jugend ist noch auf dir, spät bist du jung geworden: aber wer zum Kinde werden will, muss auch noch seine Jugend überwinden.” -
Und ich besann mich lange und zitterte. Endlich aber sagte ich, was ich zuerst sagte: “Ich will nicht.”
Da geschah ein Lachen um mich. Wehe, wie diess Lachen mir die Eingeweide zerriss und das Herz aufschlitzte!
Und es sprach zum letzten Male zu mir: “Oh Zarathustra, deine Früchte sind reif, aber du bist nicht reif für deine Früchte!
So musst du wieder in die Einsamkeit: denn du sollst noch mürbe werden.” -
Und wieder lachte es und floh: dann wurde es stille um mich wie mit einer zwiefachen Stille. Ich aber lag am Boden, und der Schweiss floss mir von den Gliedern.
- Nun hörtet ihr Alles, und warum ich in meine Einsamkeit zurück muss. Nichts verschwieg ich euch, meine Freunde.
Aber auch diess hörtet ihr von mir, wer immer noch aller Menschen Verschwiegenster ist - und es sein will!
Ach meine Freunde! Ich hätte euch noch Etwas zu sagen, ich hätte euch noch Etwas zu geben! Warum gebe ich es nicht? Bin ich denn geizig?” -
Als Zarathustra aber diese Worte gesprochen hatte, überfiel ihn die Gewalt des Schmerzes und die Nähe des Abschieds von seinen Freunden, also dass er laut weinte; und Niemand wusste ihn zu trösten. Des Nachts aber gieng er allein fort und verliess seine Freunde.
III. DIE HEIMKEHR [3] (đã dịch ở trang 262-271)
Oh Einsamkeit! Du meine Heimat Einsamkeit! Zu lange lebte ich wild in wilder Fremde, als dass ich nicht mit Thränen zu dir heimkehrte!
Nun drohe mir nur mit dem Finger, wie Mütter drohn, nein lächle mir zu, wie Mütter lächeln, nun sprich nur: "Und wer war das, der wie ein Sturmwind einst von mir davonstürmte?" -
- der scheidend rief: zu lange sass ich bei der Einsamkeit, da verlernte ich das Schweigen! Das -lerntest du nun wohl?
Oh Zarathustra, Alles weiss ich: und dass du unter den Vielen verlassener warst, du Einer, als je bei mir!
Ein Anderes ist Verlassenheit, ein Anderes Einsamkeit: Das - lerntest du nun! Und dass du unter Menschen immer wild und fremd sein wirst:
- Wild und fremd auch noch, wenn sie dich lieben: denn zuerst von Allem wollen sie geschont sein!
Hier aber bist du bei dir zu Heim und Hause; hier kannst du Alles hinausreden und alle Gründe ausschütten, Nichts schämt sich hier versteckter, verstockter Gefühle.
Hier kommen alle Dinge liebkosend zu deiner Rede und schmeicheln dir: denn sie wollen auf deinem Rücken reiten. Auf jedem Gleichniss reitest du hier zu jeder Wahrheit.
Aufrecht und aufrichtig darfst du hier zu allen Dingen reden: und wahrlich, wie Lob klingt es ihren Ohren, dass Einer mit allen Dingen - gerade redet!
Ein Anderes aber ist Verlassensein. Denn, weisst du noch, oh Zarathustra? Als damals dein Vogel über dir schrie, als du im Walde standest, unschlüssig, wohin? unkundig, einem Leichnam nahe: -
- als du sprachst: mögen mich meine Thiere führen! Gefährlicher fand ich's unter Menschen, als unter Thieren: - Das war Verlassenheit!
Und weisst du noch, oh Zarathustra? Als du auf deiner Insel sassest, unter leeren Eimern ein Brunnen Weins, gebend und ausgebend, unter Durstigen schenkend und ausschenkend:
- bis du endlich durstig allein unter Trunkenen sassest und nächtlich klagtest "ist Nehmen nicht seliger als Geben? Und Stehlen noch seliger als Nehmen?" - Das war Verlassenheit!
Und weisst du noch, oh Zarathustra? Als deine stillste Stunde kam und dich von dir selber forttrieb, als sie mit bösem Flüstern sprach: "Sprich und zerbrich! -
- als sie dir all dein Warten und Schweigen leid machte und deinen demüthigen Muth entmuthigte: Das war Verlassenheit!" -
Oh Einsamkeit! Du meine Heimat Einsamkeit! Wie selig und zärtlich redet deine Stimme zu mir!
Wir fragen einander nicht, wir klagen einander nicht, wir gehen offen mit einander durch offne Thüren.
Denn offen ist es bei dir und hell; und auch die Stunden laufen hier auf leichteren Füssen. Im Dunklen nämlich trägt man schwerer an der Zeit, als im Lichte.
Hier springen mir alles Seins Worte und Wort-Schreine auf: alles Sein will hier Wort werden, alles Werden will hier von mir reden lernen.
Da unten aber - da ist alles Reden umsonst! Da ist Vergessen und Vorübergehn die beste Weisheit: Das - lernte ich nun!
Wer Alles bei den Menschen begreifen wollte, der müsste Alles angreifen. Aber dazu habe ich zu reinliche Hände.
Ich mag schon ihren Athem nicht einathmen; ach, dass ich so lange unter ihrem Lärm und üblem Athem lebte!
Oh selige Stille um mich! Oh reine Gerüche um mich! Oh wie aus tiefer Brust diese Stille reinen Athem holt! Oh wie sie horcht, diese selige Stille!
Aber da unten - da redet Alles, da wird Alles überhört. Man mag seine Weisheit mit Glocken einläuten: die Krämer auf dem Markte werden sie mit Pfennigen überklingeln!
Alles bei ihnen redet, Niemand weiss mehr zu verstehn. Alles fällt in's Wasser, Nichts fällt mehr in tiefe Brunnen.
Alles bei ihnen redet, Nichts geräth mehr und kommt zu Ende. Alles gackert, aber wer will noch still auf dem Neste sitzen und Eier brüten?
Alles bei ihnen redet, Alles wird zerredet. Und was gestern noch zu hart war für die Zeit selber und ihren Zahn: heute hängt es zerschabt und zernagt aus den Mäulern der Heutigen.
Alles bei ihnen redet, Alles wird verrathen. Und was einst Geheimniss hiess und Heimlichkeit tiefer Seelen, heute gehört es den Gassen-Trompetern und andern Schmetterlingen.
Oh Menschenwesen, du wunderliches! Du Lärm auf dunklen Gassen! Nun liegst du wieder hinter mir: - meine grösste Gefahr liegt hinter mir!
Im Schonen und Mitleiden lag immer meine grösste Gefahr; und alles Menschenwesen will geschont und gelitten sein.
Mit verhaltenen Wahrheiten, mit Narrenhand und vernarrtem Herzen und reich an kleinen Lügen des Mitleidens: - also lebte ich immer unter Menschen.
Verkleidet sass ich unter ihnen, bereit, mich zu verkennen, dass ich sie ertrüge, und gern mir zuredend "du Narr, du kennst die Menschen nicht!"
Man verlernt die Menschen, wenn man unter Menschen lebt: zu viel Vordergrund ist an allen Menschen, - was sollen da weitsichtige, weit-süchtige Augen!
Und wenn sie mich verkannten: ich Narr schonte sie darob mehr, als mich: gewohnt zur Härte gegen mich und oft noch an mir selber mich rächend für diese Schonung.
Zerstochen von giftigen Fliegen und ausgehöhlt, dem Steine gleich, von vielen Tropfen Bosheit, so sass ich unter ihnen und redete mir noch zu: "unschuldig ist alles Kleine an seiner Kleinheit!"
Sonderlich Die, welche sich "die Guten" heissen, fand ich als die giftigsten Fliegen: sie stechen in aller Unschuld, sie lügen in aller Unschuld; wie vermöchten sie, gegen mich - gerecht zu sein!
Wer unter den Guten lebt, den lehrt Mitleid lügen. Mitleid macht dumpfe Luft allen freien Seelen. Die Dummheit der Guten nämlich ist unergründlich.
Mich selber verbergen und meinen Reichthum - das lernte ich da unten: denn jeden fand ich noch arm am Geiste. Das war der Lug meines Mitleidens, dass ich bei jedem wusste,
- dass ich jedem es ansah und anroch, was ihm Geistes genug und was ihm schon Geistes zuviel war!
Ihre steifen Weisen: ich hiess sie weise, nicht steif, - so lernte ich Worte verschlucken. Ihre Todtengräber: ich hiess sie Forscher und Prüfer, - so lernte ich Worte vertauschen.
Die Todtengräber graben sich Krankheiten an. Unter altem Schutte ruhn schlimme Dünste. Man soll den Morast nicht aufrühren. Man soll auf Bergen leben.
Mit seligen Nüstern athme ich wieder Berges-Freiheit! Erlöst ist endlich meine Nase vom Geruch alles Menschenwesens!
Von scharfen Lüften gekitzelt, wie von schäumenden Weinen, niest meine Seele, - niest und jubelt sich zu: Gesundheit!
Also sprach Zarathustra.
IV. DER WANDERER [4] (đã dịch ở trang 296-303)
Um Mitternacht war es, da nahm Zarathustra seinen Weg über den Rücken der Insel, dass er mit dem frühen Morgen an das andre Gestade käme: denn dort wollte er zu Schiff steigen. Es gab nämlich allda eine gute Rhede, an der auch fremde Schiffe gern vor Anker giengen; die nahmen Manchen mit sich, der von den glückseligen Inseln über das Meer wollte. Als nun Zarathustra so den Berg hinanstieg, gedachte er unterwegs des vielen einsamen Wanderns von Jugend an, und wie viele Berge und Rücken und Gipfel er schon gestiegen sei.
"Ich bin ein Wanderer und ein Bergsteiger", sagte er zu seinem Herzen, “ich liebe die Ebenen nicht und es scheint, ich kann nicht lange still sitzen".
Und was mir nun auch noch als Schicksal und Erlebniss komme, - ein Wandern wird darin sein und ein Bergsteigen: man erlebt endlich nur noch sich selber.
Die Zeit ist abgeflossen, wo mir noch Zufälle begegnen durften; und was könnte jetzt noch zu mir fallen, was nicht schon mein Eigen wäre!
Es kehrt nur zurück, es kommt mir endlich heim - mein eigen Selbst, und was von ihm lange in der Fremde war und zerstreut unter alle Dinge und Zufälle.
Und noch Eins weiss ich: ich stehe jetzt vor meinem letzten Gipfel und vor dem, was mir am längsten aufgespart war. Ach, meinen härtesten Weg muss ich hinan! Ach, ich begann meine einsamste Wanderung!
Wer aber meiner Art ist, der entgeht einer solchen Stunde nicht: der Stunde, die zu ihm redet: "Jetzo erst gehst du deinen Weg der Grösse! Gipfel und Abgrund - das ist jetzt in Eins beschlossen!
Du gehst deinen Weg der Grösse: nun ist deine letzte Zuflucht worden, was bisher deine letzte Gefahr hiess!
Du gehst deinen Weg der Grösse: das muss nun dein bester Muth sein, dass es hinter dir keinen Weg mehr giebt!
Du gehst deinen Weg der Grösse; hier soll dir Keiner nachschleichen! Dein Fuss selber löschte hinter dir den Weg aus, und über ihm steht geschrieben: Unmöglichkeit.
Und wenn dir nunmehr alle Leitern fehlen, so musst du verstehen, noch auf deinen eigenen Kopf zu steigen: wie wolltest du anders aufwärts steigen?
Auf deinen eigenen Kopf und hinweg über dein eigenes Herz! Jetzt muss das Mildeste an dir noch zum Härtesten werden.
Wer sich stets viel geschont hat, der kränkelt zuletzt an seiner vielen Schonung. Gelobt sei, was hart macht! Ich lobe das Land nicht, wo Butter und Honig - fliesst!
Von sich absehn lernen ist nöthig, um Viel zu sehn: - diese Härte thut jedem Berge-Steigenden Noth.
Wer aber mit den Augen zudringlich ist als Erkennender, wie sollte der von allen Dingen mehr als ihre vorderen Gründe sehn!
Du aber, oh Zarathustra, wolltest aller Dinge Grund schaun und Hintergrund: so musst du schon über dich selber steigen, - hinan, hinauf, bis du auch deine Sterne noch unter dir hast!"
Ja! Hinab auf mich selber sehn und noch auf meine Sterne: das erst hiesse mir mein Gipfel, das blieb mir noch zurück als mein letzter Gipfel!” -
Also sprach Zarathustra im Steigen zu sich, mit harten Sprüchlein sein Herz tröstend: denn er war wund am Herzen wie noch niemals zuvor. Und als er auf die Höhe des Bergrückens kam, siehe, da lag das andere Meer vor ihm ausgebreitet: und er stand still und schwieg lange. Die Nacht aber war kalt in dieser Höhe und klar und hellgestirnt.
"Ich erkenne mein Loos", sagte er endlich mit Trauer. "Wohlan! Ich bin bereit. Eben begann meine letzte Einsamkeit".
Ach, diese schwarze traurige See unter mir! Ach, diese schwangere nächtliche Verdrossenheit! Ach, Schicksal und See! Zu euch muss ich nun hinab steigen!
Vor meinem höchsten Berge stehe ich und vor meiner längsten Wanderung: darum muss ich erst tiefer hinab als ich jemals stieg:
- tiefer hinab in den Schmerz als ich jemals stieg, bis hinein in seine schwärzeste Fluth! So will es mein Schicksal: Wohlan! Ich bin bereit.
"Woher kommen die höchsten Berge?" so fragte ich einst. Da lernte ich, dass sie aus dem Meere kommen.
Diess Zeugniss ist in ihr Gestein geschrieben und in die Wände ihrer Gipfel. Aus dem Tiefsten muss das Höchste zu seiner Höhe kommen. "
Also sprach Zarathustra auf der Spitze des Berges, wo es kalt war; als er aber in die Nähe des Meeres kam und zuletzt allein unter den Klippen stand, da war er unterwegs müde geworden und sehnsüchtiger als noch zuvor.
"Es schläft jetzt Alles noch", sprach er; "auch das Meer schläft. Schlaftrunken und fremd blickt sein Auge nach mir.
Aber es athmet warm, das fühle ich. Und ich fühle auch, dass es träumt. Es windet sieh träumend auf harten Kissen.
Horch! Horch! Wie es stöhnt von bösen Erinnerungen! Oder bösen Erwartungen?
Ach, ich bin traurig mit dir, du dunkles Ungeheuer, und mir selber noch gram um deinetwillen.
Ach, dass meine Hand nicht Stärke genug hat! Gerne, wahrlich, möchte ich dich von bösen Träumen erlösen! -"
Und indem Zarathustra so sprach, lachte er mit Schwermuth und Bitterkeit über sich selber. "Wie! Zarathustra!" sagte er, "willst du noch dem Meere Trost singen?
Ach, du liebreicher Narr Zarathustra, du Vertrauens-Überseliger! Aber so warst du immer: immer kamst du vertraulich zu allem Furchtbaren.
Jedes Ungethüm wolltest du noch streicheln. Ein Hauch warmen Athems, ein Wenig weiches Gezottel an der Tatze -: und gleich warst du bereit, es zu lieben und zu locken.
Die Liebe ist die Gefahr des Einsamsten, die Liebe zu Allem, wenn es nur lebt! Zum Lachen ist wahrlich meine Narrheit und meine Bescheidenheit in der Liebe! -"
Also sprach Zarathustra und lachte dabei zum andern Male: da aber gedachte er seiner verlassenen Freunde -, und wie als ob er sich mit seinen Gedanken an ihnen vergangen habe, zürnte er sich ob seiner Gedanken. Und alsbald geschah es, dass der Lachende weinte: - vor Zorn und Sehnsucht weinte Zarathustra bitterlich.
IM LẶNG HỐ THẲM ĐI VỀ
TRÊN CON ĐƯỜNG HUYỀN BÍ
CỦA JACOB BOEHME
QUA UYÊN NGÔN VỀ
URGRUND
BẮT ĐẦU KHỞI HÀNH
TỪ TÍNH NGÔN CỦA
SAINT AUGUSTIN:
“CON NGƯỜI LÀ HỐ THẲM”
HOMO ABYSSUS EST
ĐÔNG PHƯƠNG VÀ TÂY PHƯƠNG
NHẬP MỘT VỚI NHAU
QUA TIẾNG NÓI CỦA HỐ THẲM
ĐỂ LÊN ĐƯỜNG TRỞ VỀ UYÊN MẶC
IM LẶNG HỐ THẲM ĐI VỀ
TRÊN CON ĐƯỜNG HUYỀN BÍ
CỦA ANAXIMANDRE
QUA UYÊN NGÔN VỀ
ADIKIA
BẮT ĐẦU KHỞI HÀNH
TỪ TÍNH NGÔN CỦA HÉRACLITE VỀ
POLEMOS
ĐỂ MỞ PHƯƠNG TRỜI MÂY TRẮNG
CHO CUỘC CHIẾN TRANH QUÊ HƯƠNG

Im lặng hố thẳm được ra đời lần đầu tiên vào mười hai giờ khuya ngày 24 tháng Tám năm 1967 rạng ngày 25 tháng Tám năm 1967 để đánh dấu ngày tạ thế của Nietzsche vào lúc mười hai giờ trưa ngày 25 tháng Tám năm 1900.
Mười hai giờ khuya xoáy tròn với mười hai giờ trưa và tựu thành.
Giờ Phút Im Lặng nhất
Giờ Phút Tối Thượng
của
Im Lặng Hố Thẳm.
[1] Chú thích của talawas: Vì bản đánh máy từ sách đã xuất bản có quá nhiều lỗi về hiển thị chữ nên phần nguyên tác tiếng Đức này sẽ được lấy từ các nguồn trên internet. Tuy nhiên, các nguồn này cũng có một số sự khác nhau, nhất là phần trình bày, nên chúng tôi sẽ liệt kê các nguồn mà chúng tôi đã tham khảo. Nguồn:
http://www.hamilton.net.au/ (Song ngữ Anh-Đức)
[2] Nguồn: http://www.geocities.com/thenietzschechannel/zarapt2g.htm
[3] Nguồn: http://www.geocities.com/thenietzschechannel/zarapt3g.htm
[4] Nguồn: http://www.geocities.com/thenietzschechannel/zarapt3g.htm
http://www.hamilton.net.au/nietzsche/zarathustra/zara081.html (Song ngữ Anh-Đức)
Nguồn: Im lặng hố thẳm của Phạm Công Thiện. An Tiêm xuất bản 1967, tái bản lần 2 năm 1969.
 
18/8/2007
Phạm Công Thiện
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thơ có cần thiết cho đời sống

Thơ có cần thiết cho đời sống? Trong kỷ nguyên nghe nhìn, thơ đang có khoảng cách với đời sống. Độc giả thèm khát những câu thơ tương tác ...