Thứ Tư, 28 tháng 7, 2021

Thềm hoang 2

Thềm hoang 2

Chương bảy

Trời chưa sáng hẳn mà cụ Nết đã mò mẫm trở dậy.Thật ra cụ thao thức từ đêm. Nằm nghe mãi tiếng mọt nghiến gỗ trên rui nhà, tiếng chuột chạy rúc rích trên mái lá và giở mình suốt một đêm trên phản gỗ, lưng cụ đau ê ẩm. Trong cái màn nâu lụp xụp, ba chị em cái Hai vẫn ngủ li bì. Mỗi đứa nằm xoay một góc. Chân đứa nọ ghếch lên bụng đứa kia. Không khí oi nồng của đêm mùa hạ làm mồ hôi chúng vã ra như tắm. Phía chân giường, thằng Út đái dầm đầy ra một vũng. Dòng nước khai nồng nặc chảy loang khắp mặt phản, thấm vào áo, vào mền, vào cả những cái gối mỏng làm mùi hôi hám xông lên sặc sụa. Qua khuôn cửa sổ nhỏ hẹp, trời trong và sáng như có ánh trăng. Những vì sao nhạt dần trên vòm cây. Lúc gà gáy sáng lần đầu tiên, bà cụ đã mò đậy. Cụ với lấy bao diêm ở đầu giường châm vào ngọn đèn dầu đặt trên bàn gỗ.Vừa vấn lại đầu, cụ vừa bước xuống đất. Hơi đất ẩm thấm vào gan bàn chân làm cụ thấy tỉnh táo hơn. Tuy vậy lưng và vai cụ vẫn mỏi như dần. Nhất là hai cánh tay, cả đêm phe phẩy cái quạt cho chúng nó, bây giờ thấy rã rời. Trong bóng tối, cụ sửa soạn bếp lửa và vo đầy một rá gạo. Cụ định nắm cơm ăn một ngày cho ba đứa trẻ rồi sẽ mang chúng nó đến trại mồ côi. Lời của mụ Năm Trà ác khẩu thế mà bây giờ lại đúng:
"Tôi còn lo thân tôi chớ. Đó! Bà coi nuôi được chúng thì nuôi, không thì mang cho đi, tôi không tiếc.”
Cứ nghĩ như thế cụ lại bật ra tiếng khóc. Khuôn mặt nhăn nheo của cụ dúm lại. Nếp da sần sùi, tái sạm thấp thoáng dưới ánh lửa đỏ. Dòng nước mắt chảy lăn tăn trên gò má chằng chịt tàn nhang, rơi từng giọt xuống thấm lên những mảnh tro lá dừa đùn ngoài miệng bếp. Nồi nước đang sôi âm ỉ. Ánh lửa chạy chập chờn trên vách gỗ. Cụ nghĩ đến tiếng cười nói nô đùa của ba đứa trẻ trong những ngày nào năm trước. Dạo ấy thằng Năm còn ở nhà. Buổi chiều có gió mát, ba bốn bố con bắc ghế ra ngồi ở đầu hè. Cái Ba cười khanh khách trên đôi vai vạm vỡ của bố. Phía đằng sau, trên bực gỗ, cái Hai ngồi vắt vẻo, hai chân đu đưa, thỉnh thoảng lại rũ lên cười. Ở một góc thềm, mụ Năm ôm thằng Út ngồi trên chiếc chõng nhỏ. Thằng bé hai tay ôm lấy bầu vú căng sữa mút chùn chụt. Nụ cười không ngớt nở trên vành môi dầy và mọng của người đàn bà trẻ.
Mới có mấy năm trời mà bây giờ tan nát đến như thế. Bà cụ đau đớn gạt nước mắt. Lúc trời sáng rõ thì cụ cũng vừa nắm xong ba vỉ cơm trắng. Cụ hối hả lên đánh thức từng đứa mang đi tắm rửa. Bây giờ cụ mới lấy quần áo mới ra thay cho chúng nó. Cái Hai và cái Ba mỗi đứa bận một cái váy đầm xanh hoa trắng, thằng Út có một bộ đồ lính thủy. Nhìn ba đứa súng sính trong những quần áo đẹp, bà cụ ôm chầm lấy chúng nó nghẹn ngào, hôn chùn chụt mãi lên mái tóc của chúng nó. Được quần áo mới, bọn trẻ cười nói huyên thuyên. Chúng ngắm vuốt cho nhau bằng vẻ mặt hoan hỉ, mừng rỡ, rồi rủ nhau chạy tuốt ra đường. Những bàn chân đen thủi khẳng khiu giẫm bừa lên từng viên gạch lổn nhổn. Vạt váy của hai đứa con gái xòe tung lên, hở cả rốn lẫn bụng. Lúc khóa cửa, bà cụ Nết nói với mọi người:
"Tôi mang chúng nó đem cho nhà mồ côi đây!"
Một người đàn bà la lớn:
"Trời đất ơi, không thấy đứt ruột sao mà mang cho?"
Bà cụ trả lời:
"Ruột gan gì bằng đói.”
"Thôi bà cụ ơi, rán đi. Rồi thì bố chúng nó về..."
Bà cụ lại ôm mặt khóc. Một lát sau, bà nói:
"Tôi thì tôi chịu cực được nhưng còn chúng nó. Thiếu một bữa là chúng nó có yên cho đâu. Không, tôi thà đem cho còn hơn là để chúng nó đói.”
Nói rồi bà cụ xốc thằng Út lên tay. Cái Hai reo lên vui mừng:
"Đi. Đi bà đi..."
Mấy bà cháu đi ra đường cái. Một người chạy theo:
"Thôi, cho tôi đứa lớn này cho. Nó sẽ được ăn no.”
Bà cụ nắm lấy tay đứa bé:
"Không... tụi nó phải đi với nhau. Tôi không chịu cho chúng phải lìa nhau đâu.”
"Bộ tưởng vô trỏng làm vua sao mà đòi người ta cho ở chung với nhau.”
"Nói tầm bậy!"
"Chèn ơi! Nhà mồ côi tôi lạ gì... chúng nó về sau rồi vô nhà tu kín hết.”
"Tôi không tin đâu.”
"Chó đẻ đứa nào nói sai! Tôi quen biết người mang con cho thiếu gì.”
Bà cụ lắc đầu:
"Tôi đã đi hỏi trước rồi. Chúng nó sẽ được nuôi tử tế. Mà mình muốn xin ra lúc nào cũng được.”
Người đàn bà chợt phá lên cười. Tiếng cười ngặt nghẽo làm cụ Nết sa sầm nét mặt. Bà dẫn mấy đứa hầm hầm đi thẳng ra ngõ.
Qua nhà Phó Ngữ, thấy Hai Hào đang lúi húi lau xe, cụ nói:
"Đi không mầy, Hai?"
Gã đàn ông ngẩng lên nhìn. Có vợ vào nom gã sáng sủa đẹp trai thêm ra. Gã hỏi:
"Đi đâu đây, cụ Nết?"
"Đến trại mồ côi!"
Gã kêu lên:
"Trời đất ơi... bộ mang cho hả?"
Bà cụ ứa nước mắt gật đầu. Gã đàn ông nhẩy cẫng lên như vừa giẫm phải lửa. Gã nhìn vào trong nhà, hai tay vẫy rối rít:
"Mình ơi... chèn đéc ơi!"
Đào hớt hải chạy ra, tay còn cầm cái gương soi mặt. Gã nói hốt hoảng:
"Cho! Lũ này đem cho vào trại mồ côi.”
Đào ngớ mặt ra hết nhìn cụ Nết lại nhìn lũ nhỏ. Cái Hai xấu hổ che gói cơm lên ngang tầm mắt. Một lát, Đào mới cất tiếng hỏi:
"Thật đấy hả cụ?"
Bà cụ gật đầu làm hai tay Đào buông thõng xuống, mồm nàng há ra. Qua kẽ vách, có tiếng Phó Ngữ kè nhè:
"Sáng bảnh mắt ra rồi mà chưa đi à Hai?"
Hai Hào rối rít:
"Dạ đi! Đi chớ!"
"Quẩy đầy nước chưa?"
"Dạ quẩy rồi chớ.”
"Bảo cái con vợ nhà mày là hôm nay dậy muộn đấy nhá. Rồi héo bố nó hết rau.”
Gã đáp:
"Dạ bảo rồi.”
Đào đứng cạnh cấu vào lưng gã. Miệng gã nhăn ra cười, nhe hai hàm răng trắng nhởn. Gã ấn cái giẻ vào thùng rồi quay đầu xe về phía đường cái. Gã nói:
"Nên đây tôi đạp ủng hộ một cuốc.”
Mấy bà cháu líu ríu lên xe. Tay bấm chuông liên hồi, gã bắt đầu cong lưng lên đạp. Chiếc xe chao đi mấy lần rồi lăn ì ạch trên mặt đường khấp khểnh. Đào giơ tay ra vẫy gã đàn ông. Gã nheo mắt điệu lại. Chợt nàng bỏ chỗ đứng chạy theo. Hai Hào vội phanh riết cái xe lại. Đào vừa móc túi vừa nói:
"Để tôi cho các cháu mấy đồng ăn quà.”
Lúc ấn mấy tờ giấy bạc vào tay cái Hai, Đào mỉm cười với nó. Nó nhe răng ra cười theo rồi dúi tiền vào trong túi bà cụ. Bà Nết nắm lấy tay Đào tỏ ý cám ơn. Hai Hào lại gò lưng lên đạp. Đào trông lên những giải nắng vừa mới bừng trên những mái lá, nhưng hình ảnh của ba đứa nhỏ bỗng làm cho nàng thấy cay cay ở mắt.
Đến tối, lúc trở về, lão Hói thấy bà cụ ngồi khóc ở ngưỡng cửa. Căn nhà không đèn đóm, âm thầm yên lặng nom như một cái miệng sâu và tối. Lão ngừng lại, ngất ngư cái đầu, hai cẳng chân nhún nhẩy trên đôi giầy ba ta rách. Giọng lão kè nhè, sặc sụa hơi men:
"Chèn ơi... nghe tôi đi... yêu đời đi! Can gì mà khóc.”
Bà cụ không đáp, đưa vạt áo lên hỉ mũi. Lão lại tiếp:
"Tôi nói không sai đâu. Có ông trời. Có ông trời thiệt tình mà. Bây giờ mà khổ ấy nhen, rồi sau này ắt sướng. Bây giờ mà sướng ấy nhen, rồi sau này ắt khổ. Ông trời bình đẳng mà, vậy mới xứng bực làm ông trời chớ!"
Cụ Nết lại càng khóc to hơn, và bây giờ cụ bật ra thành tiếng:
"Ới cháu ơi..."
Lão Hói ngạc nhiên, mắt lão trố ra nhìn bà cụ, rồi lão cúi xuống nắm cái vạt áo của bà lên hỏi:
"Chèn đéc ơi... bộ chết cháu rồi hả?"
Một người ở trước cửa nói sang:
"Không, bà ấy mang cho nhà mồ côi hết cả ba đứa rồi.”
Lão Hói buông cái vạt áo ra, lảo đảo đứng lên, quay sang nhìn người hàng xóm. Rồi ngó bộ câu nói ấy không phải nói đùa, lão mới cất tiếng:
"Thiệt ư? Bà đem cho mấy cháu tôi thiệt rồi ư? Ui chao ơi... bộ không còn là người sao?"
Bà cụ nổi đoá vơ lấy hòn gạch ném về phía lão, la lớn:
"Xéo tuốt đi! Xéo đi!"
Lão Hói lùi lại ba bốn bước. Lão thò tay xoa xoa cái chỗ bị ném đau rồi ngồi phệt ngay xuống đất. Chân lão duỗi thẳng ra phía trước, tay lão loay hoay mở cái túi vải moi ra bao thuốc, rồi vừa cuộn vừa ngó bà cụ Nết, lát sau lão nói:
"Tội nghiệp mấy cháu tôi. Biết trước thì tôi đã mua cho chúng nó mấy tấm bánh. Thằng Út thích ăn bánh bàng là hạng nhứt!"
Lòng lão tràn ngập nỗi bùi ngùi. Lão thấy cay cay ở mũi, nhưng chẳng bao giờ lão chịu để cho nỗi buồn đến xâm chiếm mình. Lão moi trong bị ra cút rượu còn giở nửa chừng, ngửa cổ lên, tu một hơi. Rồi lão đổi giọng vui vẻ:
"Thằng Út ngoan và mắc tức cười quá đi. Coi bộ thế chớ, nó ưng theo tui hoài à. Mà mấy kí? Nó chừng sáu bảy kí chứ bao nhiêu. Vậy mà tui bế nó hổng nổi đó. Chèn ơi... phải ngày xưa coi, tay này phải biết, khoẻ hạng nhứt ở bến tàu đó nhen..."
Ngừng lại một chút để nhấm nước bọt lên điếu thuốc, lão lại tiếp:
"Mà điều không nhằm nhò gì. Rầu làm chi mất công. Có ông trời mà nghe bà cụ. Ông trời mà giáng xuống thì êm hết trơn. Tới lúc đó nhen, căn nhà này sẽ lên bốn năm từng lầu bê tông cốt sắt đàng hoàng. Mà điều khỏi đóng cửa. Không ai vô hết đó. Vô làm chi? Đến cái nước đó thì thái bình rồi, khỏi có còn cái sự tùm lum như vầy nữa. Ông trời làm mà! Vậy mới xứng bực ông trời chớ!"
Rồi lão đổi giọng ngâm:
"Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu
Hoàng thiên thương mến quả địa cầu
Giáng tạo thay đời không tranh đấu
Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu.”
Ngâm xong lão phá lên cười khoái trá. Đến lúc lão đứng dậy thì chẳng còn ai ở chung quanh lão. Căn nhà cụ Nết bỏ ngỏ cửa. Cụ ấy đang đi về phía đường cái. Những lùm cây cao mọc thẳng tắp soi từng bóng đen dài chạy giăng lên mãi đầu phố. Phía đằng xa, những ngọn đèn xanh đỏ nhấp nháy trên từng bảng hiệu. Ở đâu, chỗ nào cụ cũng vẩn vơ nom thấy hình ảnh chị em thằng Út. Cụ nhớ tiếng chúng nó cười, nhớ hơi thở đều hoà của chúng mỗi khi chúng ngủ. Nếu chúng còn ở nhà thì bây giờ cụ đã quạt cho chúng nằm thiu thiu trong cái màn nâu lụp xụp. Ba đứa xoay vần như chong chóng. Đùi chúng nó gác lên nhau. Mặt đứa nọ úp vào gối đứa kia thi nhau ngủ. Bây giờ, lang thang vất vưởng trong thành phố, cụ thấy hình bóng của chúng ở khắp nơi, trên tủ kính, trên biển hàng, trong ánh sáng chói chang và âm thanh rộn rã của đô thị lúc về đêm. Bất giác cụ ôm mặt khóc. Nước mắt của cụ chan hoà in nhòe cả thành phố trước mặt. Bên tai cụ chỉ còn thấy vang lên tiếng nói, tiếng cười, và tiếng khóc của ba đứa cháu.
Đêm hôm ấy, cụ ngủ gục ở cổng sắt nhà mồ côi. Sáng ra, xin vào thăm, thì người ta ngăn lại:
"Phải chờ đến ngày Chủ nhật!"
Đến khi trở về, nhà cụ bị trộm nó khoắng không còn lấy một ly. Xúc vải Mỹ-A mẹ Năm cho may quần chưa kịp cắt, rồi ba bộ quần áo mới ở trại mồ côi người ta bắt mang về vì trong trại bọn chúng không dùng đến, rồi nồi, niêu, xoong, chảo cất dưới đáy trạn từ hồi xưa cũng đều bị khuân đi hết sạch. Tiếc của, bà cụ điên người chạy ra lối ngõ, một tay cụ cầm con dao mẻ, một tay cụ xắn quần lên ngang đầu gối, cụ cứ chém mãi con dao xuống mặt đường mà chửi:
"Cha đời quân chó đẻ... trẻ không tha, già không thương. Cửa nhà cơ nghiệp người ta chả có bao nhiêu mà khuân hết đi, đem về xây mồ cất mả bên nội bên ngoại nhà tụi bay... trời vật chết hết tụi bay đi... quân chó đẻ..."
Tiếng bà cụ gào to, vang lên từ đầu đến cuối xóm. Cụ chạy hết ngõ ngang sang ngõ dọc, hết cửa nhà này sang cửa nhà khác. Mỗi lần cụ đứng ở đâu là trẻ con người lớn bu lại đến đấy. Xóm Cỏ bỗng nhiên đông rần rần như ngày hội. Người ta tụm nhau lại bàn tán om sòm. Chỉ khổ bà cụ phơi đầu ra từ sáng đến trưa, quần áo tả tơi, mặt mũi nhem nhuốc, tiếng nói thì khản đặc lại, có lúc nói năng y như người lẩn thẩn. Đến xế chiều, cụ về ngồi ở hàng hiên khóc thút thít. Đầu cụ gục xuống, hai đầu gối trơ xương áp vào hai bên mang tai. Mái tóc nửa đen, nửa bạc xù lên rã rượi. Con dao mẻ cụ cắm sâu vào cột gỗ còn dính đầy vết vôi lở và gạch non. Người ta không một ai dám lại gần. Trong tia nhìn hằn học của cụ ẩn chứa một cái gì dữ dội lúc nào cũng như sẵn sàng nổ bùng ra, nom cụ bây giờ chẳng khác một con chó ốm, già và đang hoá dại.
Chương tám
Từ đầu mùa xuân, bác Nhan gái đã dự tính gây lấy cho mình một cái vốn nhỏ để bán hàng quà rong trong chợ. Những hôm bỏ từng đồng bạc vào chiếc ống tre, bác như đã ngửi thấy mùi xôi vò thơm phức ở hai cái thúng đặt bên cạnh mình. Hoặc có khi bác hình dung thấy những khuôn bánh xèo ngậy mỡ, nóng bỏng trong chiếc chảo mới tinh đặt trên bếp lò đỏ rực than hồng. Nhưng rồi dự tính của bác chẳng bao giờ thực hiện được cả. Vì dành dụm được bao nhiêu thì rồi cuối cùng lại đổ vào tiền thuốc thang cho bác Nhan trai hết. Người đàn ông yếu đuối, èo uột, suốt ngày chỉ biết nằm đập ruồi trên phản gỗ hay cùng lắm là bế con bé đỡ cho vợ được một đôi lát. Trong nhà, tình cảnh đã đến chỗ quẫn cùng. Bữa cơm chỉ lác đác có mấy sợi rau, đĩa dưa khú và dăm ba quả cà muối dầm tương. Hàng tháng trời không ai được biết đến miếng thịt. Cho nên bác Nhan trai thèm thịt không bút nào tả xiết. Sự kham khổ khiến bác thành hèn cả người đi. Suốt ngày nằm thiu thiu trên phản gỗ, đầu óc bác chỉ lơ mơ nghĩ đến mùi thịt. Bác nhớ lại ngày xưa, mỗi khi nhà có đám, những con lợn béo tốt được vật ra. Tiếng kêu eng éc vang động cả khung cảnh tĩnh mịch ở thôn quê. Chính một tay bác đã nhóm hồng lò lửa rồi quay lên những khoanh thịt lợn vàng tươi, bóng nhẫy mỡ. Mùi thịt cháy thơm lừng, xen với tiếng dao thớt, tiếng chày nện thình thịch trong cối đá và tiếng người rộn rã ra vào, gieo vào lòng bác một niềm vui khoan khoái. Bác lại còn nhớ đến cả những ngày giáp tết ở thôn quê, tới thời điểm tát ao bắt cá. Sau một ngày tát nước mệt nhọc, không đêm nào là bọn thợ như bác không được người ta cho ăn cháo cá, những con cá trắm to bằng bắp vế, thịt xé ra trắng phau phau, đem chấm với nước mắm pha ớt với gừng thì thật là tuyệt hảo. Mỗi miếng đặt vào đầu lưỡi, là tất cả nước dãi trong mồm đều ứa ra, gai thịt nổi lên, từ răng đến lợi như tê đi vì cái mùi vị thơm phức, vừa cay, vừa ngậy, vừa béo, vừa bùi, tưởng đến lúc chết cũng chẳng thể quên được. Nằm buồn một mình, bác còn tưởng tượng ra đủ hết những sơn hào hải vị, món thì rán, món thì xào, món đem nướng chả, món nào theo bác cũng đều có một cách ngon riêng cả. Nhưng càng nghĩ, lưỡi bác càng thấy khô, miệng càng thấy đắng, và bác thấy miếng thịt vẫn luôn luôn ở một chỗ xa xôi mà không tài nào bác với cho tới được Nhiều khi giận mình, bác cố mở to mắt nhìn trên trần nhà để nghĩ đến sự vất vả của bác Nhan gái:
"Mình đã ăn báo cô nó, lại còn yêu sách cá với thịt!"
Tuy vậy bác chỉ nhủ thầm như thế được một đôi lúc. Rồi đến bữa cơm, trông vào cái đĩa mẻ vẫn chỉ chỏng chơ có rau với cà, cơn tức mình lại ngấm ngầm hiện ra, có lúc dồn lên nóng cả mang tai. " Ăn cái gì mà cứ như cho chó ăn!" Bác muốn văng tục một câu như thế và có ý trông sang phía bác Tốn để mong hắn ta đồng minh với mình. Nhưng bác Tốn lại cứ nhởn nhơ vẫn ăn uống một cách thật thà vui vẻ, cứ y như thể hắn ta chưa bao giờ biết miếng ngon là cái gì. Hàm răng trắng nhởn của bác ngốn những cuộng rau vừa dai, vừa già một cách sốt sắng và nom thú vị. Suốt bữa cơm, bác còn vừa ăn vừa đùa. Cái cổ đưa ra đằng trước, mồm nhe ra cười, cái đầu lắc lư theo điệu rung ở đùi. Lâu lâu bác lại chêm vào một câu nói giỡn:
"Gớm, cà ngoài chợ sao mà họ muối khéo thế. Cứ ròn tan đi thôi. Mà cà đã ròn thì phải biết, trắng như đùi đầm.”
Tuy tức mình, bác Nhan cũng phải chen vào:
"Cậu có được nhìn đùi đầm bao giờ mà biết nó trắng. Mà điều cậu không thấy đó chứ, quả cà thâm xì như đít bà lão thế này lại cứ cong cổ lên khen là trắng.”
Bác Tốn gân cổ cãi lại:
"Nói như bố chó xồm ấy. Cà ròn thế này làm sao mà thâm được. Cà mà đã thâm thì nó dai nhách nhà ông ơi!"
Bác Nhan gái tự nhiên cũng chen vào:
"Cà như thế này là trắng lắm rồi. Bác Tốn coi vậy chứ cũng tinh gớm!"
Thấy hai người về phe với nhau, bác Nhan trai tức mình dằn ngay đôi đũa xuống mâm rồi nhìn trừng trừng ra ngoài ngõ. Bác gái ngó bộ không yên nên vội lùa nốt bát cơm rồi đứng dậy, trong khi ấy bác Tốn vô tình vẫn vừa nhai rau ráu miếng cà vừa gật gù một cách khoái trá. Bác Nhan trai nghĩ bụng, nó dễ ăn như thế thì đâu còn nhu cầu thịt cá gì nữa. Chẳng trách được, chớ có khi nào nó chịu bỏ tiền riêng ra cho đi mua thêm mấy con tôm hay vài lạng thịt. Cơn tức vì thế càng chẳng nguôi. Bác cũng lùa xong bát cơm rồi đứng dậy bỏ ra nằm dài trên giường. Đến quá trưa, lúc thiu thiu ngủ, bác lại nằm mơ thấy mình được ăn thịt, thấy những cuộng rau bò ra ở lỗ tai và thấy cả tương lõng bõng trong đầu.
Một hôm, bác nằm mơ thấy mình xách một con gà đi làm thịt ở cầu ao. Con gà béo chắc, ngậy những mỡ vàng. Bác nghĩ đến món lòng gà xào mướp, món chả chìa thơm lừng và những miếng thịt luộc mềm nuột chấm muối tiêu. Sự khoan khoái làm bác như khoẻ ra. Bác vặt lông nhanh nhẩu và kỹ lưỡng. Chợt vợ bác trên nhà réo lên nhờ khuân hộ cái cối đá nén vại cà. Nghĩ đến cà, bác lợm giọng. Phải chi những lần khác thì bác lờ đi giả vờ điếc, nhưng hôm nay bác sắp được ăn thịt. Lại thịt gà nữa thì phải biết! Bác thấy mình dễ dãi hơn. Bác bỏ con gà ở cầu ao đi lên làm giúp vợ. Những quả cà ủng trong vại nước váng bọt khiến mũi bác chun lại. Nếu không vì sắp được ăn thịt gà có lẽ bác đã tuột tay cho vại cà đổ xuống đất ngay. Lúc trơ lại cầu ao, mắt bác trố lên vì ngạc nhiên và giận dữ. Con gà của bác đã bị lũ chuột to bằng bắp vế, núng nính thịt vẫn thường bò ra từ hang cùng ngõ hẻm, xông vào bu đen như sự đen tối vẫn ấp ủ trong đầu bác từ bao lâu nay. Cơn giận lên tới cực điểm, bác chạy lên khuân cái cối đá trong vại cà ra rồi ném xuống. Đàn chuột bỏ chạy tứ tung, để lại cho bác những mảnh xương tàn còn sót lại. Tiếc của, bác chồm lên đuổi theo một con chuột béo nhất đang chạy lên mé bếp. Một tay bác cầm hòn gạch lớn, một tay bác xách cái đòn càn. Bác quật con vật túi bụi ở khắp mọi xó. Cuối cùng nó nhẩy tõm vào chum tương và vừa vặn bác phang một gậy vào lưng nó. Con chuột kêu chóe lên đồng thời cái chum cũng vỡ tan tành. Một dòng nước tương hôi và ủng đổ loang ra chan hoà trên mặt đất. Bác thấy khối nước ấy cứ loang mãi càng ngày càng rộng, càng xông mùi lên nhức óc. Rồi trong khắp nhà chỗ nào cũng đầy những tương đỏ, ngập giường, ngập ghế, ngập cả đầu óc của bác khiến bác hét lên và choàng tỉnh dậy.
Thì ra bác vừa trải qua một giấc mơ! Mồ hôi vã ra đầm đìa trên trán, tim bác đập mạnh, mắt bác liếc nhìn ra đầu hè. May quá, chum tương của vợ bác vẫn nằm yên ổn trong một góc. Bác ngẫm nghĩ thấy mình phải khuân gạch về chặn lên cho chắc chắn hơn. Biết đâu sẽ có ngày bác làm vỡ chum tương của vợ bác thật. Rồi nghĩ đến con gà và đàn chuột, bác thấy ngẩn ngơ như mình vừa bị đàn chuột cuỗm mất hẳn một con gà thật. Bỗng một ý định bừng lên trong đầu bác. Tại sao bác lại không ăn chuột thay gà được nhỉ. Thịt chuột vừa thơm vừa lạ miệng. Mà ở xóm Cỏ thì thiếu gì chuột lớn. Con nào cũng béo lẳn, tròn thu lu và bệ vệ đi lại tung tăng khắp mọi nơi trong xóm. Nghĩ vậy, bác thấy người bừng lên như trẻ thêm lại. Bác vùng dậy quơ đôi guốc đi ra đầu thềm. Bác nhớ đến cách bẫy chuột ngày xưa khi mình còn là một đứa bé chạy chơi nhởn nhơ đầu làng cuối xóm. Bằng một cái thúng, cái que có cột một sợi dây dài và dăm ba hạt cơm nguội, anh chuột nào háu ăn chui vào là:.. a lê hấp, chỉ việc giật sợi dây là cái thúng ụp xuống. Thế là bác thấy lòng hăng hái hẳn lên. Bác nhỏm dậy lui cui đi sửa soạn cái bẫy của mình. Vợ bác có cái thúng thật tốt, mụ vẫn dùng để đong gạo, hay cắp mang đi những hôm vắng nhà. Bác cẩn thận đem xuống nắn thử cái cạp chung quanh. Bác nghĩ với loại thúng ấy thì dù là chuột cống hay chuột chù to đến đâu cũng không thể nào thoát khỏi tay bác.Trở vào trong nhà, bác kiếm được một cuộn dây gai và một thanh củi ngắn tròn và chắc nịch. Như thế cái bẫy của bác đã đủ hết đồ lề. Bác kê cái thúng trên nhánh củi dựng đứng. Sợi dây bác cột lại rồi ròng vào trong cửa bếp. Mồi nhử của bác là một nắm cơm nguội tãi ra vung vẩy. Bác ngồi xổm và thu mình trong một ngách kín. Sự háu ăn bây giờ lại hoá ra một trò giải trí. Như thế còn vui hơn là nằm bẹp một chỗ than trời, oán vợ. Hơn nữa, bác tin chắc rằng tối nay bác sẽ mang lại cho mọi người một sự ngạc nhiên thích thú. Đĩa chả nướng thơm lừng sẽ đặt ở giữa mâm cơm, bên cạnh là món thịt luộc ướp lá chanh, chấm nước mắm dấm ớt. Úi chà, chỉ mới nghĩ như thế, bác đã thấy mình rỏ cả rãi ra rồi.
Quả nhiên, chỉ một lát đã thấy ở miệng cống thò ra một cái đầu đen thui có hai hàng râu ngoe nguẩy. Mắt bác vụt sáng lên, tim bác đập mạnh, tay bác ghì lấy cuộn dây nhìn thẳng về phía đằng trước y như một chiến sĩ quả cảm nom thấy bóng địch quân ngoài chiến địa. Con chuột của bác như một mồi ngon đang vô tình lọt vào ổ phục kích. Bây giờ thì nó thò hẳn người ra khỏi miệng cống. Bộ lông của nó đen mượt, ướt nhếch nháp. Mõm nó dài ngoằng, hếch lên, ngoe nguẩy bộ râu rậm và dài. Mình nó béo hú, béo hơn cả con chuột chù bị đuổi đánh trong giấc mơ. Hai bên lườn nó bạnh ra, núng nính những mỡ làm dáng đi của nó càng thêm nặng nề, bệ vệ. Mỗi lần nó nhích lại gần thì tay bác Nhan lại run thêm một chút nữa. Bác vẫn ghì lấy sợi dây. Mắt bác mở to thêm. Bác cầu mong cho nó trông rõ những hạt cơm trắng tinh đang tãi ra một cách rất ngon lành trên mặt đất. Một lát sau nó đã nhấm vào hạt cơm thứ nhất. Rồi cu cậu mon men lại gần sát cái thúng. Cuối cùng nó lao cả cái thân nặng nề của nó vào gọn ở giữa đống cơm trong lòng thúng. Bác Nhan nghiến răng giật mạnh sợi dây. Que củi văng ra và cái thúng úp xuống. Bác nhẩy bổ ra ngoài. Con chuột vùng vẫy ở bên trong nhưng không đủ sức đẩy được hòn gạch đặt ở trên mặt thúng. Nó bắt đầu kêu lên thảm thiết. Bác cẩn thận nhấc viên gạch ra, kênh cái rổ lên và rê đi trên mặt đất. Chỉ trong một loáng bác đã túm được cái đuôi của nó, đem xoắn mấy vòng và quay tròn trong không khí. Cuối cùng bác nện cho nó một cái nên thân vào thành vại nước. Bây giờ thì cu cậu nằm quay cu lơ trên mặt đất. Cái đầu ngoẹo sang một bên, cái mõm nát bét ra, ướt đẫm những máu. Đó là con chuột cống khoẻ mạnh, mập mạp, sườn lưng béo tốt, nắn vào rất chắc tay. Nghĩ đến món chả nướng sắp được nhấm nháp với ly rượu trắng, bác Nhan nhe răng cười một mình. Bác rất tự hào về cái chiến công vẻ vang này. Lát sau, bác lui cui vào bếp quạt hồng lò lửa. Bác trói con chuột vào một cái que cời bằng sắt và đem xoay tròn như thể người ta quay những con lợn. Mùi lông khét lẹt xông lên. Lớp da nứt nẻ toác thành những kẽ nhỏ, tiết ra một thứ nước vàng, cháy xèo xèo trên ngọn lửa. Bác lẩm bẩm:
"Khét một tí, nhưng cháy hết lông rồi thơm phải biết!"
Vừa lúc ấy, bác Nhan gái trở về. Bác đánh hơi thấy mùi khen khét khác thường, nên vội vàng chạy bổ xuống bếp. Nom thấy chồng đang cởi trần trùng trục loay hoay với con chuột nham nhở ở trên tay, bác giậm chân tru tréo:
"Ới giời đất ơi... ông tính ăn thịt chuột đấy à?"
Bác Nhan trai giật bắn người, đứng bật dậy. Nom thấy vợ, mặt bác đỏ bừng lên như một người phạm tội bị bắt quả tang. Bác ấp úng:
"Ơ, thì thịt chuột ngon chứ..."
"Đã ốm lại còn đi ăn chuột... mà lại chuột cống tởm thế này thì chỉ có chết!"
Vừa xấu hổ vừa giận, bác Nhan trai vội nắm lấy áo vợ chì chiết:
"Thì bé cái mồm chứ nào. Cái gì mà cứ oang oang như mồm mõ. Hàng xóm nó biết thì còn ra cái chó gì nữa!"
Giọng bác gái nhỏ lại:
"Thôi vứt đi, ngon lành gì. Ăn thì người ta ăn chuột đồng cơ chứ.”
Bác trai văng lên:
"Chuột chó nào chẳng là chuột. Đây thích!"
"Thích cũng không được. Ốm mà cứ đòi ăn của độc. Rồi nằm đó ai hầu?"
Vừa nói bác vừa cúi xuống nhặt lấy hai nhánh củi khều con chuột lên. Bốn chân nó bây giờ co quắp lại, mình mẩy loang lổ những vết nứt vàng khé và đưa lên một mùi hôi khét lèn lẹt. Bác Nhan trai không thấy tiếc công trình của mình nhưng bác cảm thấy tức tối đến sôi máu. Bác nghĩ nếu để vợ nó vất đi mất của mình thì hèn quá. Cho nên bác xông đến, hai tay túm lấy áo vợ co lại:
"Mặc bố tôi... Tôi làm gì tôi làm.”
Bác Nhan gái dùng cả sức lực của mình gạt chồng ra đằng sau, rồi bác lặng lặng cầm con chuột liệng vào thùng rác. Bị cái gạt bất thình lình, bác trai loạng choạng muốn ngã. Bác gầm lên:
"Đồ chết tiệt! Đồ chết tiệt!"
Nhưng bác Nhan gái bao giờ cũng tốt nhịn. Bác cúi xuống nhặt bao diêm ở dưới đất, rồi lẳng lặng bỏ lên nhà lấy rau ra nhặt ở đầu hè. Bác Nhan trai thì ngồi ăn vạ ở cửa bếp. Mặt bác sưng sỉa lên, cặp mắt tức tối nhìn chỗ nào cũng như muốn đập phá. Rồi càng nghĩ càng căm, bác đứng dậy đá cái lon sữa bò đựng đóm nhóm bếp sang một bên và săm săm đi ra cổng. Nhưng ra tới ngoài bác lại nghĩ có đi cũng không hả tức bác lại trở vào, du cái cánh cửa một cái thật mạnh. Cánh cửa ọp ẹp rung lên, bụi đất và mọt gỗ rụng lả tả. Mắt bác liếc nhìn vợ để chờ phản ứng. Bác nghĩ nếu vợ bác mà tỏ một cử chỉ gì hỗn láo thì bác sẽ xông ngay vào thụi cho nó mấy cái. Nhưng may quá, con mẹ ấy vẫn lầm lì cúi xuống rổ rau. Sự nhượng bộ của mụ làm bác thấy cơn tức nguôi đi. Tuy nhiên bác vẫn giữ bộ mặt hầm hầm như thế mà trèo lên giường, dằn chân dằn tay nằm xuống chiếu. Bây giờ thì bác thấy ghét thịt cay đắng! Bác tưởng tượng nếu lúc này mà có mấy lạng thịt trong tay, bác sẽ vất nó xuống đất rồi lấy chân di lên như người ta di một con bọ ghê tởm. Bác tự thề với mình là từ nay, dù cho vợ bác có bưng đến tận mồm, có van xin, bác cũng nhất quyết không thèm ăn một miếng thịt.
Đến bữa cơm chiều, bác không bước ra khỏi giường, và vợ bác cũng không thèm mời bác lấy một câu. Hai người đâm ra giận nhau. Bác cho rằng trên đời này không còn ai đáng ghét hơn vợ bác. Nhưng sáng sớm sau, lúc đi chợ, bác Nhan gái đã thủ theo cái áo dài đẹp nhất và độc nhất của mình. Bác bán được hơn bốn chục bạc. Bác rẽ vào mua ba lạng thịt, mấy củ su hào và lưng chai rượu đế. Nghĩ đến sự ngạc nhiên, thích thú của chồng, bác không thấy tiếc cái áo hàng sang, cắt khéo, mà bác chỉ mặc vào những dịp tết nhất, hội hè.
Ở chợ về, bác Nhan trai còn ngủ. Đêm qua vì dỗi đã nhịn cơm nên chắc thao thức dữ. Nhưng càng đói chốc nữa ăn càng ngon, bác Nhan gái nghĩ vậy và hoan hỉ xuống bếp sửa soạn bữa cơm. Lúc gọt củ su hào, đi tìm cái rổ, bác nhận ra rằng cái thúng của bác không còn để ở chỗ mọi khi. Bác đảo ra đằng sau nhà, và cơn giận dữ đột nhiên len vào niềm vui của bác. Cái thúng mà hôm qua chồng bác mang bẫy chuột thì bây giờ lại bị chuột cắn nát thành năm bảy lỗ thủng. Bác vồ lấy, cầm lên ngắm nghía một cách xót xa. Rồi cơn tiếc của nổi dậy, bác xách lên nhà la lớn:
"Giời ơi! Phá hoại người ta thế này đây..."
Vừa nói bác vừa lay chồng và dí mãi chỗ thủng vào mặt người đàn ông. Bác Nhan trai choàng dậy, hốt hoảng:
"Làm sao? Cái gì?"
"Còn cái gì, thử mở mắt ra nhìn coi ông bẫy chuột rồi để nó phá đến thế này đây.”
Bác Nhan trai hậm hực hết ngó cái thúng lại nhìn vào khuôn mặt cau có đáng ghét của vợ. Cuối cùng bác nằm vật xuống văng một câu:
"Này thôi đi... sốt tiết lắm nữa!"
Bác Nhan gái chồm lên nắm lấy áo chồng:
"Sốt với rét gì! Chỉ được cái báo hại là không ai bằng.”
Mắt người đàn ông vụt nóng lên. Trong một giây không suy nghĩ gì cả, bác ta nhỏm dậy co cẳng đạp thật mạnh vào giữa ngực vợ một cái. Phản ứng lạ lùng và vũ phu của bác làm vợ bác gào lên. Người đàn bà ngã chúi xuống sàn, cái thúng văng ra đằng xa, hai chân bác giẫy lên đành đạch, miệng bác la lớn:
"Giời ơi là giời! Đây! Ông giết tôi đi... ông giết tôi đi..."
Nói rồi bác ta đứng dậy lao cả cái thân mình to lớn về phía chồng. Hai người vật nhau ở ngay bên cạnh giường. Cái mễ kê ở dưới nghiêng hẳn đi, mặt phản chao đi chao lại làm xô lệch cả tấm chiếu trải bên trên đồng thời có cả tiếng gỗ nghiến vào nhau kêu cọt kẹt. Bị đè ở dưới, bác Nhan trai đã thấy cái yếu của mình. Cánh tay khẳng khiu của bác bị bàn tay cứng cáp sần sùi của vợ kẹp chặt, bộ ngực lép kẹp của bác tưởng như bị nghẹt lại dưới cái bộ vú thỗn thện của mụ ta. Phía đằng sau, cái thành giường như có cạnh sắc nghiến mạnh vào ngang lưng khiến bác tưởng như xương sống của mình sắp bị gẫy làm hai. Cái đau làm tứ chi bác rã rời, người bác lả đi, mồ hôi vã hết cả ra trán và lưng. Bác vội vàng lấy hết sức cựa mạnh để cố kêu được thật to:
"Gẫy xương... gẫy... giời ơi... có buông ra không nào.”
Bác Nhan gái nghe la, vội hốt hoảng buông ra, nhưng lúc đứng dậy bác cũng còn cố du chồng một cái thật mạnh làm bác trai ngã quay cu lơ xuống mặt đất. Tuy ở vào thế của kẻ thắng cuộc, bác vẫn cất tiếng khóc:
"Giời ơi là giời. Chồng với con. Chồng với con. Cứ đạp chết tôi đi..."
Bác Nhan lồm cồm bò dậy, người tuy đã nhược hẳn ra, nhưng nom thấy cái thúng trước mặt mình, bác cũng vẫn còn đủ sức xông lại đá tung nó ra khỏi bực cửa và hổn hển như người sắp hết hơi:
"Ông cứ đá... ông sợ gì... đừng có trêu gan ông... Sốt tiết lắm rồi đây!"
Nạt vợ xong ngần ấy câu, bác leo lên giường thở hồng hộc. Hai vợ chồng vụt thành giận nhau to. Bác Nhan gái không làm gì nữa, cứ tỉ tê ngồi khóc. Nghĩ đến mấy lạng thịt và dăm củ su hào để ôi dưới bếp, bây giờ bác mới thấy tiếc cái áo của mình.
Mãi đến chiều tối mâm cơm thịnh soạn mới được làm xong. Có một đĩa thịt luộc, một đĩa su hào xào, một đĩa trứng đúc thịt và một bát canh nghi ngút khói. Mùi thơm ngào ngạt làm điếc mũi bác Nhan trai. Bác đã quên rằng mình mới tự thề là không thèm ăn thịt. Nằm trên phản, bác có ý chờ vợ đến mời dậy rửa mặt rồi ăn cơm. Nhưng đã lâu, bác chẳng thấy nó động tĩnh gì cả. Ghé đầu nhòm xuống bếp, không thấy một ai, bác đoán mụ ta đã đi mời bác Tốn. Cái Hòn cũng bế em đi chơi chưa về, thật là một dịp may để bác có thể ngồi dậy ăn thử một miếng. Bác nhỏm người lên và nhoài về phía phản gỗ. Tay bác cặp díp hai miếng su hào trắng muốt đeo theo một miếng thịt xào. Bác ngửa cổ vội vã bỏ tọt luôn tất cả vào miệng. Làm xong công việc ấy, bác lại thản nhiên nằm ngửa nhìn lên đám rui cột trên xà nhà. Hương vị thơm tho của miếng thịt làm nước dãi của bác ứa ra, lưỡi bác cong lại, bác hết đẩy sang hàm bên này lại đưa sang hàm bên kia, và giữ cho miếng thịt không trôi vội vào cổ họng. Vừa lúc ấy, có tiếng vợ và bác Tốn lao xao ở ngoài cửa. Bác Tốn nói:
"Ái chà sang nhỉ! Mùi thịt thơm lừng!"
Bác Nhan gái mỉm cười không đáp, bước lại khêu to ngọn đèn trên phản rồi trở sang đánh thức chồng. Từ nãy bác Nhan trai nằm thin thít không dám nhai. Đầu bác giấu vào hai đầu gối, chân co lại như người đang say ngủ. Cục thịt vẫn lúng búng ở trong mồm bác. Bác nghe thấy tiếng vợ mình léo nhéo bên tai:
"Dậy! Dậy! Gớm ngủ gì mà ngủ khiếp thế.”
Vừa nói bác ta vừa thò mấy ngón tay vào cạnh sườn chồng cù mấy cái. Bác Nhan trai tức cười muốn chết, cực chẳng đã, bác phải vờ cựa mình và quay lại nhìn mọi người chung quanh. Căn phòng mờ mờ tối. Ánh sáng leo lét của ngọn đèn in những cái bóng chập chờn trên vách. Bác lấy dáng uể oải ngồi dậy, hai bàn tay cố che cái miệng như vẫn còn đang muốn phồng lên vì miếng thịt.
Bác Tốn hỏi:
"Bớt ho chưa nhà ông?"
Bác định trả lời mà không sao lên tiếng được, nên tảng lờ như đang còn mải tìm đôi guốc. Tiếng bác Tốn vẫn bô bô:
"Có thịt thì phải có rượu chứ nhỉ. Nhà ông "tê" không?"
Sợ vợ gạt đi, bác vội vàng nói qua một mồm nước rãi:
"Cê!"
Nói rồi bác đi nhanh xuống nhà sau múc gáo nước rửa mặt. Bây giờ thì bác được thong thả nuốt miếng thịt của mình. Bác khua cái gáo vục vào lu nước đem ra rửa chiếu lệ rồi tất tả lên nhà. Nhìn mâm cơm thịnh soạn, bác thấy lòng mình khoan khoái, hể hả như mới nhận được một tin vui.
Trời tối hẳn. Ngọn đèn như sáng thêm ra. Mọi người không mời nhau, ăn như ngốn. Lưng chai rượu vơi đi dần dần. Bác Nhan gái nói:
"Vậy mà tính ăn thịt chuột đấy.”
Bác Tốn vỗ đùi:
"Úi chà, thịt chuột lá chanh thì số dách rồi còn gì.”
Mặt bác Nhan trai vênh lên:
"Đấy! Thấy chưa... tôi đã bảo mà. Thật phí của con chuột béo quá.”
Bác gái la lên:
"Nhưng chuột là chuột đồng cơ ông ạ. Chuột cống thì bố ai mà nuốt được.”
Bác Tốn gật gù:
"Thì tê đi rồi. Chuột là chuột đồng ấy chứ. Chó nhà gà đồng mà lị. Còn chuột cống thì có đến bố tây cũng đếch đớp được.”
Bác Nhan trai bẽn lẽn, chữa thẹn một câu:
"Thì thịt nào chả là thịt.”
"Nói như bố chó xồm ấy! Mỗi thịt một khác chứ, ví thế nào được. Mà chuột cống thì ở đâu ra? Ai bán cơ chứ?"
Bác gái giề mồm:
"Ông ấy bẫy!"
Bác Tốn chợt phá lên cười. Hai hàm răng nhe ra, lấp loáng dưới ánh sáng lung linh của ngọn đèn. Một tay bác cầm đôi đũa, một tay bác vỗ đôm đốp vào đùi bạn ngồi bên cạnh:
"Giời đất ơi! Nhà ông đi bẫy chuột cống thì bố tây cũng đếch chịu được... ấm ớ thật.”
Bác Nhan trai cố nén giận, chỉ nhếch miệng cười gượng gạo. Phải lúc khác thì bác đã đập bát cơm mà đứng dậy rồi.
Một lát sau, còn đang tìm cách gỡ mình ra khỏi cái điều xấu xa ấy thì ngoài ngõ bỗng có tiếng người đuổi nhau chạy thình thịch. Giọng Hai Hào oang oang như lệnh vỡ:
"Đứng có nàm tàng! Điên tiết ông khện cho vỡ đít!"
Rồi có tiếng Đào the thé ở đằng sau:
"Đứng lại! Có giỏi thì đứng lại khện đi! Đồ bị thịt!"
Bác Nhan gái bổ ra ngoài nhìn. Hai Hào cởi trần trùng trục chạy trước, Đào xách cái gậy của bố đuổi theo sau. Sau cùng là Phó Ngữ. Giọng lão kè nhè như mỗi lần lão đang say rượu:
"Ghè bỏ bố nó đi! Cái thứ như nó ông không chịu được biết chưa!"
Thì ra bố con nhà lão đánh đuổi gã đàn ông chạy từ đầu làng tới cuối xóm. Luồn qua được mấy cái hàng rào, kiếm được một chỗ khuất nẻo trong bóng tối, gã đứng lại nói chõ ra:
"Ghè! Ghè cái nỗ đít!"
Mọi người theo đám đuổi nhau đi ùa vào xóm trong. Bác Tốn thì bật lên cười:
"Cái thằng! Chỉ được cái đánh võ mồm là giỏi.”
Bác Nhan gái chêm vào:
"Chả võ mồm thì võ tay à! Nội cái con Đào béo như con trâu trương, mình nó cũng đủ giã cho cậu nhừ xương ra nữa là thêm thằng bố.
Rồi như còn tức tối về lần đánh nhau với Phó Ngữ hôm nào, bác nói tiếp:
"Cái thằng Hai Hào có vô phúc mục mả thì mới đâm đầu đi lấy cái của nhà ấy. Du côn du kề một thời đấy!"
Bác Nhan trai vội vàng xuýt xoa:
"Thôi mà! Mặc kệ người ta. Mình dính vào chẳng phải đầu, lại phải tai.”
Nói rồi bác gắp miếng thịt cuối cùng vào bát của mình. Mâm cơm sạch nhẵn không còn một ly. Chưa hôm nào bác được ăn một bữa đã đời như thế. Và bây giờ bác mới nhận ra sự hy sinh và tốt bụng của vợ mình. Bác tự nhủ đêm hôm nay bác sẽ nói ra với vợ điều ấy.
Chương chín
Huệ chưa khỏi hẳn nhưng đã đi lại được ở mấy nhà quanh ngách. Nàng hay bắc ghế ra ngồi ngoài thềm cửa. Một vài lần có người quen đi qua, Huệ lại kéo vào nói chuyện bâng quơ. Nàng bô bô cả chuyện chồng con của mình khi nhác thấy bác Tốn thấp thoáng ở đằng xa:
"Chồng tôi đấy! Chồng ơi..."
"Rõ nỡm chửa kìa! Cưới chồng ở đâu ra mà nhanh thế.”
Huệ chỉ về phía căn nhà lụp xụp của bác Tốn:
"Nhà chồng tôi đấy... chồng tôi cưng tôi, tôi ốm thì mua cả bánh đem cho nữa.”
Có tiếng cười rích lên:
"À! Thằng khỉ gió!"
Huệ phát bẳn lên:
"Nỡm cái nhà bác này! Nói chồng người ta!"
Rồi Huệ cười rúc rích, cổ nàng ngoẹo sang một bên, mái tóc rũ xuống trán và má. Nàng có vẻ thích thú khi nghĩ rằng trong đời sống của mình có một nhân vật mới. Thật là giản tiện, vừa có chồng để nói sướng mồm, vừa không vướng víu, thiệt thòi gì cả. Mà dân trong xóm Cỏ cũng mặc nhiên công nhận tình trạng vợ chồng trời ơi đất hỡi ấy bằng một sự vui thích. Họ không từ bỏ cơ hội nào để có thể được cười đùa. Thỉnh thoảng một người đi qua ngưỡng cửa nhà Huệ lại ngứa miệng hỏi một câu:
"Chồng đâu? Cô Huệ ơi!"
Huệ đáp:
"Chồng không có nhà.”
"Có "đi" không?"
"Khỉ gió đùng lăn nhà bác lắm nữa! Chồng tôi nó ghen lắm đấy biết chưa!"
Sự bông đùa khiến Huệ thấy gần gũi với bác Tốn hơn. Những ngày khỏi ốm, lúc đánh phấn bôi môi đi qua nhà bác, Huệ bắt đầu chú ý đến túp lá tồi tàn nằm im lìm trong bóng tối. Bác Tốn đi hát từ chiều. Cánh cửa bằng nan tre xộc xệch khép hờ hững vào sát thân cây xoan tây mới lớn. Khoảng sân đất nhỏ hẹp trơ trụi mấy ngọn cỏ mọc hoang. Một lu nước thấp lè tè kê trên mấy hòn gạch đặt ở đầu hiên. Căn nhà im lặng đến hoang vắng. Qua khung cửa nhỏ, bóng lối hun hút như một lỗ mắt có chiều sâu. Huệ nghĩ đến sự mù loà của bác Tốn. Một đôi lần Huệ đã định ngắm kỹ khuôn mặt trắng xanh của bác. Nhưng tròng mắt đỏ ngầu lẫn lộn những sợi thịt xanh tím của bác khiến Huệ thấy ghê sợ. Nàng bất giác quay đi để khỏi ghi lại trong đầu cái hình ảnh ấy. Huệ chỉ thấy thích nụ cười nhếch nửa miệng và giọng hát ỡm ờ đáng yêu của bác:
"Cô Huệ ơi...
Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng..."
Huệ nghĩ rằng nếu bác không mù loà thì nàng chẳng ngần ngại gì mà không về với bác. Còn thực tế thì bao giờ cũng chua chát hơn. Huệ chỉ thấy như mình đang nắm giữ một trò đùa thích thú. Thỉnh thoảng đứng trước mọi người, Huệ lại réo tướng lên khi nhác nom thấy bác:
"Chồng tôi đấy! Chồng ơi..."
Bác Tốn tuy nghe thấy nhưng không bao giờ ngoái cổ lại. Bác có cảm giác như tất cả mọi người đang chú ý đến mình. Những tiếng cười rúc rích như xoáy vào lưng, khiến bác thấy xấu hổ muốn chết được. Mặt bác đỏ lên ở dưới nắng. Hai hàm răng của bác cười nhe ra như để chữa thẹn với mình. Hình như bác cũng biết rõ là Huệ cũng chỉ nói đùa. Phải duyên phải nợ thì cả hai đã "bén" từ lâu rồi ấy chứ, đã bao lần bác tự nhủ thầm với mình như vậy! Bây giờ, bác lại tìm ra được mấy câu hát mới, và bác chỉ hát mỗi khi nghe thấy tiếng Huệ léo xéo với mọi người ở ngách trong:
Tôi trông thấy cô...
Tôi buồn...
Tôi chán...
Tôi chuồn...uồn...
Tiếng Huệ lại rít lên ở trong những tiếng cười của chòm xóm làm bác thích chí. Sợi dây đàn bác bật một cách rất ẩu ở trên ngón tay, và bác cũng bật lên cười nghe khì khì có vẻ khoái trá. Ấy cứ chọc qua chọc lại với nhau như thế cũng đủ khiến cho lòng bác thấy ấm áp và trong trái tim thổn thức, bác đã thấy Huệ rất gần gũi với mình. Bác yêu sự chanh chua, kiêu kì của Huệ. Bác nghĩ rằng không lấy nhau mà được đùa với nhau như thế thì cũng đã là sướng lắm rồi. Mà hình như Huệ cũng chia sẻ chung với bác cái cảm nghĩ ấy. Một đôi lần, lúc về khuya đi qua cửa nhà bác, Huệ thấy bác Tốn bắc ghế ngồi ngoài sân. Nàng làm như hai người đã thân thiết với nhau lắm nên nói trước:
"Hát đi bác Tốn!"
Bác Tốn ngẩng lên:
"Ai đấy?"
"Ai chả được!"
"À! Cô Huệ..."
"Hát đi một bài nghe chơi..."
Bác Tốn cười một mình trong bóng tối, mùi phấn thơm thoang thoảng theo gió đưa vào mũi bác. Mặt bác ngửa lên, ngón tay bác gõ vào bầu gỗ:
"Tôi trông thấy cô..."
Huệ dẫy nẩy lên:
"Khỉ gió!"
Bác Tốn tủm tỉm cười, nghiêng mặt về phía có tiếng Huệ nói:
"Hát thế chứ hát làm sao?"
"Ca cải cách đi!"
Bác Tốn liền cất giọng:
"Đêm qua mơ dáng em nâng cung đàn gieo muôn tiếng tơ..."
Bài hát chưa dứt được một câu thì Huệ đã đi thẳng vào trong xóm tự lúc nào. Tiếng guốc lóc cóc của nàng vang lên mặt đá khấp khểnh, âm thanh khô ròn và ngắn gọn vang vọng trong lòng bác một nỗi niềm lưu luyến. Bác ước gì chạy được ngay tới bên Huệ, cầm lấy tay nàng, hôn lên má và trán nàng, rồi ngỏ lời xin lấy nàng làm vợ. Nhưng bao giờ thì những chuyện ấy cũng chỉ là niềm ước vọng. Nó khắc khoải không nguôi trong khoảng tối đen mù mịt như khoảng trời trong đôi mắt của bác. Như đêm dài mịt mùng và mãi mãi bác chỉ hình dung thấy bóng Huệ, thon nhỏ, mặc áo đỏ quần trắng, đánh má hồng đi ở dưới ánh sáng rực rỡ của những ngọn đèn hắt từ ngoài phố vào. Bất giác, một nỗi buồn thấm thía ùa đến xâm chiếm lòng bác. Bác ngồi xuống, ngả lưng vào thành ghế, hai chân duỗi thẳng, mặt ngửa lên trời. Một luồng gió mát thoang thoảng thổi qua cổ và má mơn man. Bác nghĩ đến một khoảng trời bao la và đầy sao sáng. Ngày xưa ở quê nhà, những đêm mùa thu phải đi coi lúa ngoài đồng, hay nằm ở trên gò cao hóng mát thì bác cũng có những giây phút được các làn gió mơn man như thế. Bác còn nhìn thấy những vì sao lấp lánh trên đỉnh đầu xếp với nhau thành những hình thù rõ rệt. Bầy vịt bơi trong giải sông Ngân kéo dài mãi xuống cuối trời. Những chòm sao Mục Phu, Thất Nữ, Thần Nông, Đại Hùng lấp lánh ngang tầm mắt. Ôi! Cái thời còn sáng mắt sao mà hạnh phúc đến thế! Bác vụt thấy lòng khao khát một tia sáng, dù chỉ một tia sáng thôi thì bác cũng đủ hình dung ra được khung cảnh thật sự đang diễn ra ở chung quanh bác hàng ngày. Đã sống quen với bóng tối, lâu lắm hôm nay bác mới lại thấy lòng vụt trỗi lên những cảm giác khổ sở, ray rứt, đớn đau, dằn vặt, giống như cái thời bác mới bị lâm vào cảnh mù loà. Bác Tốn chợt rưng rưng khóc. Từng giọt nước mắt ứa ra ở hai bên bờ mi. Bác châm cho mình một điếu thuốc rồi im lặng ngồi hút trong bóng tối. Đêm về khuya nên cảnh vật yên tĩnh lạ. Chỉ có tiếng xe cộ từ giữa phố vọng về ù ù trong gió. Tiếng võng kẽo kẹt đưa buồn nản vang lên từ mấy nhà chung quanh. Thỉnh thoảng có một chiếc xích lô uể oải đạp qua, lăn khấp khểnh vào lòng ngõ. Mấy người đàn bà bán quà đêm trở về lê dép quèn quẹt trong bóng tối. Bác Tốn ngồi thiu thiu như thế cho đến khi có tiếng người gọi mình ở hàng rào, mới choàng dậy.
"Tốn đấy à?"
"Ai đấy?"
"Tám đây!"
"À! Dượng thằng Ích. Đi đâu về khuya thế?"
Có tiếng ngáp bên tai, tiếp theo là giọng nói uể oải:
"Buồn thì đi làm một quắn xóc đĩa!"
"Được hay thua?"
"Thua! Mà thua cay chứ lị! Mình khát nước hoài.”
"Thôi thì còn canh này, canh khác.”
Dượng Tám chép miệng:
"Ừ! Thì sông có khúc, người có lúc chứ. Này!"
"Gì cơ?"
"Cho mượn mấy trăm nhớ!"
"Có đếch đâu.”
"Thôi đi! Cậu cứ vờ! Tẩm ngẩm tầm ngầm mà giầu nhất xóm đấy!"
Bác Tốn giẫy nẩy lên:
"Gớm! Có mà của đi hót được. Đủ ăn hai bữa là may.”
"Sao bảo cậu có bạc nghìn cơ mà.”
"Đứa nào độc mồm vậy? Tớ mà có bạc nghìn thì chó có váy lĩnh!"
"Ôi dào, người ta nói thiếu gì! Không có lửa sao có khói?"
"Chẳng có đâu.”
Mắt dượng Tám long lên. Giọng nói của dượng đượm sự giận dỗi:
"Thôi thì một trăm cũng được.”
Bác Tốn cười hề hề:
"Nói thật mà, có thì tiếc đếch gì anh em.”
Dượng Tám muốn chửi tục một câu. Dượng đá hòn gạch cho lăn lông lốc vào lối đi để tỏ sự tức giận của mình. Vừa lúc ấy có tiếng người đi vào trong ngõ xen lẫn với tiếng chuyện trò lao xao. Dượng bỏ bác Tốn, hậm hực bước đi, chân nện đôi guốc lên nền đất nghe thậm thịch. Khi tới cổng nhà, con chó đang nằm bỗng chồm lên sủa loạn xạ. Dượng mắm môi nhằm bụng nó đá một cái thật mạnh. Con vật bé nhỏ tung lên cao rồi lăn lông lốc vào bờ rào. Tiếng sủa của nó vang lên, phá tan bầu không khí tĩnh mịch. Sự tăm tối, thản nhiên ở mọi ngách quen thuộc trong nhà khiến dượng có ý nghĩ muốn xòe một que diêm châm đốt cho mọi thứ bùng lên cháy hết. Những ngọn lửa nóng và dữ dội bốc cao phải nóng hơn cái nóng giận đang âm ỉ trong lòng thì lúc đó chắc dượng mới thấy hả dạ. Dượng tiến lại chum nước ngửa cổ tu một gáo đầy. Mồ hôi vã ra lấm tấm ở trán và hai bả vai. Lòng dượng dịu bớt lại. Dượng phanh áo vắt lên xà ngang rồi mò mẫm đi trong bóng tối. Tay dượng chạm phải u Tám nằm ngủ trên phản giữa. Dượng nghĩ đến hình ảnh mũm mĩm của u ngày xưa với làn da thớ thịt mềm mại. Bất giác dượng cúi xuống mò mẫm. Rồi những tiếng cằn nhằn vang lên. Sau đó là một sự im bặt!
Một lát dượng ra đứng quạt ở đầu hè. Bóng dáng cao lớn của dượng che lấp một khoảng trời sáng đục bên ngoài. Chợt có tiếng nói rụt rè từ trong góc tối:
"Thưa dượng đã về.”
Dượng Tám giật mình quay lại. Dượng vụt gắt lên:
"Cái Ngoan đấy à?"
Ngoan rụt rè:
"Dạ..."
"Con chết tiệt không ngủ hay sao mà ngồi làm mẹ gì ở đấy?"
Ngoan không đáp, vội vàng đứng dậy. Nó len lén bước xuống sân đất để đi vòng lên cửa giữa. Nhưng dượng đã gọi giật nó:
"Ngoan!"
Ngoan vội vàng đứng dừng lại, tim nó đập mạnh như một kẻ tội phạm đang chờ người ta tuyên án. Nhưng giọng dượng chợt trở nên dịu dàng như chưa bao giờ thấy:
"Hàng họ của mày ra sao?"
Ngoan đáp:
"Vẫn như thường đấy ạ..."
"Thường là thế nào, có nổi dăm đồng một ngày không?"
Ngoan cãi lại một cách sung sướng:
"Hơn chứ, hôm nào khá thì cũng được hai, ba chục.”
Dượng nói giọng ngạc nhiên:
"Hai, ba chục cơ! Vốn mày những bao nhiêu mà lãi nhiều thế?"
"Vốn thì chả cần nhiều, lắm khi mua được đồ rẻ đem bán đắt là thường.”
"Chả cần nhiều thì là bao nhiêu?"
"Mỗi ngày con cũng chỉ cầm đi tám, chín chục.”
"Sao ít thế? Dạo đầu mày có vốn ba, bốn trăm cơ mà?"
"Vốn thì còn nguyên đấy nhưng con lại gửi u cả.”
Dượng nói to:
"Mày nói láo! Tao có thấy u mày có nổi đến một trăm đâu?"
Ngoan nhanh nhẩu:
"U để dành tiền sắm tết đấy.”
"Dành dụm gì, u mày tiêu riêng hết rồi, còn chó đâu mà để.”
Cái Ngoan thấy tức thay cho u nó. Nó cãi lại như chính nó bị dượng nghi ngờ một cách oan ức:
"Thật mà! U không tiêu một cái gì đâu. Tiền để dành hình như vẫn để dưới chân bát hương trên bàn thờ.”
Dượng Tám gật gù:
"Thế à! Tao lại cứ nghĩ u mày phung phí đi hết rồi. Thôi thế cũng phải. Khuya rồi, mày đi ngủ đi.”
Ngoan lẳng lặng lần đi trong bóng tối. Nó thấy đây là lần đầu tiên dượng nói với nó được một câu chuyện dài như thế. Lúc trèo lên giường Ngoan nghe thấy tiếng ngáy nặng nề của u Tám ở bên tai. Khung cửa phía ngoài in nền trời đục trắng nhờ của một đêm mùa hạ. Có tiếng dượng Tám đi guốc xuống sân đất và tiếng dượng múc nước tắm lịch kịch ở chỗ mấy cái chum. Ngoan nằm một lúc thì hai mắt díu lại. Giấc ngủ êm đềm đến với nó trong những niềm vui nhỏ. Hình ảnh những ánh đèn rực rỡ như đêm hoa đăng chập chờn trong ý nghĩ. Giọng nói êm dịu của dượng Tám thoáng qua mơ hồ bên tai. Ngoan mơ thấy cuộc đời tươi sáng, tràn đầy tình yêu thương, ở đó thằng Ích ăn no rồi đánh đu trên một cành cây cao đầy bóng mát. Miệng u Tám hé một nụ cười. Mặt u tươi tỉnh như chưa bao giờ Ngoan được nom thấy u như thế. Còn dượng Tám thì bận quần áo trắng là phẳng nếp đứng khoanh tay nhìn Ích. Tiếng cười của dượng ròn giã vang lên nghe thành những âm thanh chói buốt. Hàm răng vàng của dượng lộ ra lóng lánh dưới ánh nắng. Ngoan chăm chú nhìn những tia sáng phản chiếu hắt lên mặt đường một mầu vàng ối. Mầu vàng ấy trước sáng, rồi dần dần thành nhạt, rất nhạt, cuối cùng Ngoan có cảm giác như trông thấy dượng đứng bên những ánh lửa héo úa và mặt dượng vụt trở nên hung dữ và độc ác. Nó chợt nghĩ đến những lần dượng xoắn lọn tóc của u Tám vào lòng bàn tay rồi giật đi giật lại. U Tám bấy giờ chỉ như một con vật nhỏ bé, hai tay ôm chặt lấy hai bên mang tai, tiếng khóc của u không bật ra khỏi cổ họng mà chỉ thành những tiếng rên rỉ. Hình ảnh hãi hùng ấy khiến tim Ngoan thốt nhiên đập rất mạnh và nó bàng hoàng như đang đứng trước cảnh thật. Ngoan bừng mở mắt, lưng ép xuống phản gỗ. Nó nhìn ra chung quanh. Đêm đã khuya, căn buồng chật hẹp oi bức và ngột ngạt. Muỗi bay vo vo loạn xạ ở bên tai. Tiếng ngáy của u Tám vẫn đều hoà. Chợt Ngoan vụt nhận ra rằng căn buồng còn sáng lên một thứ ánh sáng khác, héo úa, vàng vọt. Nó xoay người trở lại, nhìn xuống cuối buồng. Ngoan trông thấy dượng Tám đang bưng một cây đèn dầu, đứng lúi húi trên cái ghế gỗ trước bàn thờ. Sự ngạc nhiên và sợ hãi khiến Ngoan nín thở. Nó không hiểu được hành động kỳ quặc của dượng. Mắt nó mở to, tim hồi hộp, chân tay nó như muốn dính liền với tấm phản. Ở đằng này, dượng Tám hình như không biết cái Ngoan đã thức dậy. Dượng vẫn lặng lẽ giơ cây đèn lên soi vào những chỗ ngóc ngách. Mắt dượng long lanh sáng, hai bên lông mày nhíu sát vào nhau nom thật dữ tợn. Ánh sáng của ngọn đèn hắt lên soi rõ hẳn cái trán cao và gồ. Mái tóc bóng nhẫy xoã xuống một bên má. Một tay dượng cầm đèn, một tay dượng khẽ lấy cái que chọc vào những khe nhỏ. Ngoan vụt nghĩ đến món tiền u Tám giấu ở trên ấy. Nó nhận ra rồi, dượng ăn cắp tiền của u nó. Ngoan muốn kêu to lên cho u nghe thấy, nhưng phần vì sợ dượng đánh, phần sợ u Tám cũng bị đòn lây nên hai hàm của Ngoan cứ cứng lại không sao cất được thành lời. Bây giờ thì dượng Tám đã nhấc được cái bát hương sang một bên và mặt dượng lộ rõ vẻ vui mừng. Dượng moi được những tờ giấy bạc mới nguyên nằm sâu dưới chân đế. Sự lúi húi của dượng làm cây đèn chao đi. Bóng tối được dịp đảo đi một vòng che lấp hẳn khuôn mặt dễ ghét của dượng. Ngoan tiếc tiền nên vụt bật dậy. Nó hét lên như vừa nhận được một sức mạnh nào đến giúp nó:
"Dượng... Tiền của u đấy!"
Tiếng hét làm dượng Tám giật nẩy mình, và lần này thì ngọn đèn lộn hẳn qua cái thành gỗ rồi rơi vỡ tan tành trên mặt đất. Bóng tối vụt bưng lấy tất cả mọi vật. Có tiếng u Tám nhỏm phắt dậy và giọng của u hỏi một cách hốt hoảng ở bên tai:
"Ngoan! Ngoan! Cái gì thế?"
Ngoan bật lên khóc. Tiếng khóc của nó làm giọng u lạc đi hơn:
"Sao? Cái gì thế? Ngoan!"
Ngoan giơ tay ra quờ quạng trong bóng tối. Nó sờ thấy vai áo của u. Ngoan ôm chầm lấy u mếu máo:
"Dượng lấy tiền ở trên bát hương!"
Người u Tám bật lên như bị điện giật, u hốt hoảng bổ nhào xuống đất. Có tiếng u vấp phải cái ghế lăn đổ loảng xoảng, đồng thời u kêu thất thanh trong bóng tối:
"Giời đất ơi là giời! Vốn lưng cả nhà còn có ngần ấy.”
Rồi u lăn xuống cuối phòng. Tiếng Ngoan hét lên:
"Đèn vỡ! Đèn vỡ u ơi!"
Nhưng bàn chân u Tám đã dẫm lạo xạo trên mặt đất. Tiếng cạnh sắc của thủy tinh vỡ vụn kêu ròn tan dưới sức ép nặng nề của hai gan bàn chân. Cái đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần làm cho cổ họng u như tắc lại. U kêu lên một tiếng "giời" rất nhỏ rồi ngã ngửa ra đằng sau, hai chân u giơ lên cao đạp loạn xạ. Ngoan lật mạnh chiếu lên tìm được bao diêm, nó vội vã xòe một que. Ánh sáng đỏ úa bừng lên yếu ớt nhưng cũng đủ để cho Ngoan trông thấy dượng Tám đứng bối rối ở trên ghế. Mặt dượng hơi tái đi nhưng hai con mắt thì càng long lên dữ tợn. Ở dưới mặt đất còn đẫm dầu, nó thấy U Tám nằm ngửa trong cái thế như còn đang chới với, hai gan bàn chân của u giơ lên cao, dẫy dụa liên hồi và có từng tia máu đỏ lòm ứa ra ở kẽ chân rồi nhỏ xuống mặt đất. Thế là Ngoan oà lên khóc. Que diêm mà nó vừa vứt ra, đảo lên thành một vệt đỏ lừ rồi teo lại. Bóng tối lại bưng kín lấy căn buồng. Dượng Tám tụt nhanh xuống đất, quơ được đôi guốc mộc. Tiếng chân của dượng giẫm phũ phàng lên những mảnh chai. Chỉ một phút, dượng đã ra đến cửa ngoài. Con chó nằm ở bờ giậu hực lên sủa loạn xạ. Ngoan trông thấy dượng mở then cổng hàng rào và lẻn ra vội vã như một con cáo ôm mồi chạy đi mất biệt!

Chương mười

"Cái khỉ gió gì thế cô Huệ ơi?"
Huệ không quay lại, nhưng nói bâng quơ:
"Cha bố cái giống... chỉ nốc là khoẻ thôi.”
Nói rồi nàng du mạnh người lính một cái. Anh ta rú lên cười. Tiếng cười nghe rờn rợn như tiếng chó tru. Rồi anh ta lại ôm choàng lấy Huệ làm nàng chúi hẳn người đi. Cả hai líu ríu vướng vào nhau loạng choạng như sắp té. Huệ ghé mồm vào tai anh ta hét lên:
"Khỉ gió đùng lăn nhà mày lắm nữa, béo cơm rửng mỡ chưa!"
Rồi nàng lại sốc hắn ta lên bờ vai, mũi nàng chun lại vì hơi thở của hắn nặng nề, xông lên mùi rượu bia sặc sụa làm nóng cả mũi và má Huệ. Nàng vội vàng túm lấy mái tóc của hắn ta, giật ngửa về phía đằng sau. Lần này hắn xiết hai vòng tay nhấc bổng hẳn nàng lên vai. Mặc cho Huệ hét ầm ĩ, hắn ta vẫn bế nàng ngông nghênh đi xiêu vẹo, lảo đảo từng bước. Chó hai bên lề hực lên rồi sủa loạn xạ. Tiếng chó, tiếng Huệ, tiếng cười của người lính say xen lẫn tiếng giầy đinh xúc vào rãnh vào bùn làm vang rộn cả khúc đường tối tăm, vắng vẻ.
Qua cửa nhà, Huệ nói rối rít:
"Ici! ici! Tốp là bas!"
Hắn vội vàng đứng lại, đặt Huệ xuống hàng hiên. Huệ thọc tay vào túi áo hắn tìm ra được cái bật lửa. Một làn ánh sáng đỏ đùng đục nhoáng lên, nhấp nháy soi rõ khuôn cửa gỗ xộc xệch và những mô đất ẩm ướt xung quanh. Huệ lùa chìa khoá vào ổ, lách cách mở. Lúc nàng vặn sáng được ngọn đèn lên thì người lính vẫn ngập ngừng ở bực cửa. Bây giờ hắn ta có vẻ thẹn thùng và ngượng ngập. Dưới ánh đèn, nom hắn trẻ và đẹp trai. Mái tóc vàng óng cắt gọn ghẽ, uốn rất nhẹ mấy lượn sóng nhỏ. Vầng trán cao và phẳng. Đôi mắt hắn tuy ngầu đỏ nhưng vẫn còn ánh lên một mầu xanh biếc khiến Huệ nghĩ đến tròng mắt của những con mèo ban đêm. Miệng hắn nhỏ, cặp môi đỏ và dầy. Lúc hắn cười, Huệ trông thấy hai hàm răng trắng, khấp khểnh một cách rất có duyên. Huệ mới quen hắn từ hồi chập tối. Hắn vào quán rượu với mấy người bạn đồng ngũ. Bọn này cần đàn bà hơn cả cần ăn, cần uống. Trong khi họ dìu nhau từng cặp đi vào dẫy hành lang phía sau thì hắn ta ngồi lầm lì uống rượu một mình trong một góc nhỏ. Huệ rót cho hắn hết ly này đến ly khác. Hơi men bốc lên làm cặp mắt xanh của hắn trở thành ngầu đỏ. Hắn nhìn Huệ chăm chú rồi mỉm cười. Huệ lùa cánh tay qua cổ hắn, những móng đỏ của nàng vuốt nhè nhẹ lên nếp áo vải dầy. Từ lúc ấy, Huệ ngồi với hắn như một đôi tình nhân thực thụ. Hai mái đầu chụm vào nhau, hắn tiếp tục uống rượu như không bao giờ biết say là gì cả. Tiếng nhạc nhè nhẹ phát ra từ một góc phòng. Đêm càng về khuya, bầu không khí trong căn phòng càng thêm im lặng. Ở những góc tối, từng cặp ngồi với nhau thủ thỉ. Thỉnh thoảng lại có đôi đứng đậy đi vào nhà trong. Huệ chẳng nói gì với hắn vì nàng có biết tiếng tây tiếng u gì mấy đâu. Hai người chỉ nhìn nhau mỉm cười. Thỉnh thoảng Huệ trao cho hắn một cái hôn. Bây giờ thì mặt hắn đỏ gay và đang ngả sang mầu tái lợt. Hắn cất giọng ồm ồm nho nhỏ theo tiếng nhạc. Hồi lâu sau, Huệ thấy hắn khóc. Nàng kéo hắn đứng dậy và quay sang hỏi cô giữ két:
"Bảo nó về nhà mình thì nói thế nào?"
Cô ta nhìn Huệ, nhìn hắn rồi mỉm cười đáp:
"Voudriez-vous aller chez moi?"
Huệ nhắc lại câu ấy với hắn. Hắn ta đứng dậy, ôm lấy Huệ lảo đảo. Nàng dìu hắn đi ra cửa. Bên ngoài trời lất phất mưa. Hai người dìu nhau đi dưới ánh đèn héo úa. Hắn bắt đầu cất tiếng hát ông ổng và cười đùa rũ rượi. Huệ vừa buồn cười vừa bực mình. Nhiều khi nàng văng tục ra với hắn, nhưng hắn không hiểu gì cả. Đường phố về khuya vắng ngắt bóng người. Lùm cây hai bên đường loang loáng bụi mưa. Qua những đống rác bẩn, tiếng mèo hoang rú lên trong đêm khuya khiến hai người dừng lại. Huệ nhặt lên một viên đá nhỏ ném về phía ấy. Con mèo càng rú to thêm khiến hắn phá lên cười. Huệ tức mình cũng chửi đổng một câu:
"Cha tổ bố!"
Hắn nhắc lại nhiều lần mấy tiếng "cha tổ bố" một cách thú vị. Sự có mặt của hắn khiến Huệ thấy lòng nẩy nở một niềm vui. Nàng nghĩ đến sự cô đơn của mình trong những đêm mưa rả rích phải lủi thủi một mình trở về ngõ tối. Bất giác Huệ thấy mến hắn và muốn lôi hắn bằng được về xóm Cỏ. Nàng săn sóc hắn một cách tận tình. Cứ như một bà chị săn sóc cho một đứa em nhỏ. Lúc hắn ngồi ở ghế, Huệ tháo giầy cho hắn. Đôi giầy đinh sũng nước nặng như hai cái cùm, Huệ ghếch chúng vào một góc. Nàng bưng cho hắn một chậu nước rửa mặt rồi vào cài then cánh cửa thông với buồng trong. Tiếng thở nặng nề của cụ Chín khiến Huệ biết bà ta đã ngủ say. Huệ vào chạn bát, lục được tô cháo đậu xanh. Tô cháo này tối nào bà cụ cũng để dành cho Huệ lúc nàng đi khuya về. Huệ bưng ra cho hắn. Hắn nhìn Huệ bằng đôi mắt đầy vẻ biết ơn. Rồi tự nhiên hắn lục ví lấy ra mấy tờ giấy bạc. Huệ gạt tay hắn một cách giận dỗi. Lần này thì đến lượt hắn ta thẹn thùng. Hắn nhét tiền vào ví một cách ngượng ngập rồi húp cháo như một đứa trẻ. Dưới ánh đèn, cặp mắt của hắn bớt đỏ. Trong khi hắn ngồi ăn thì Huệ đi thay quần áo. Một lát nàng ngồi trang điểm lại trước cái gương kê ghếch lên chân ngọn đèn dầu. Hắn chăm chú nhìn công việc của Huệ. Nước mưa làm mái tóc Huệ trở nên óng ả. Nàng không cuộn mà để xoã xuống hai bờ vai. Cái vẻ tự nhiên ấy làm Huệ trẻ lại như một thiếu nữ còn xuân sắc. Lúc nàng tô son lên môi, Huệ thấy hắn nhìn mình một cách đắm đuối. Huệ cũng thấy hắn không xa cách với mình. Nàng sà vào lòng hắn như một người yêu thực thụ. Bao nhiêu lần nằm trong tay những người đàn ông, chưa lần nào Huệ nao nức như thế. Nàng muốn trao cho hắn tất cả nỗi xao xuyến của mình. Nàng dẫn hắn đi lại phía giường, và đem ngọn đèn dầu đặt lên trên cái ghế kê ngay bên cạnh. Căn buồng chỉ sáng lên ở một góc. Ánh sáng rung rinh, ấm cúng in bóng hai người lên vách gỗ. Nàng châm cho hắn một điếu thuốc lá. Khói thuốc mầu xanh lơ bay tản mạn trong bầu không khí lạnh và ẩm. Hai người ngồi dựa lưng vào thành giường nhìn những con thiêu thân nhảy loạn xạ quanh bầu đèn. Mưa bên ngoài nhỏ xuống mái tôn nghe tí tách. Huệ thấy mình dễ chịu lạ. Nàng muốn nói với hắn nhưng không biết phát biểu thế nào. Nghĩ một hồi, Huệ bảo:
"Moi Huệ... et toi?"
Mắt hắn ngớ ra và hắn nhắc lại tiếng Huệ một cách ngượng ngập. Huệ nhớ đến một người bạn có tên tây nên vội tiếp:
"Moi: Marie, et toi?"
Mắt hắn sáng lên. Hắn lùa tay vào cổ Huệ nhắc lại tiếng Marie mấy lần. Điều ấy khiến Huệ có vẻ tự hào về cái tên chọn rất nhanh chóng của mình. Từ lúc ấy, hắn gọi Huệ là Marie và Huệ cũng biết tên hắn là Jean. Jean lục ví cho Huệ xem tất cả ảnh của gia đình hắn và nói huyên thuyên. Huệ tuy chẳng hiểu mô tê ất giáp gì nhưng cũng cứ gật đầu lia lịa. Thật ra, qua mấy tấm ảnh cũ kỹ Huệ chỉ đoán phỏng hắn ta còn cả ông nội, bà nội, bố hắn, mẹ hắn và cả các anh, các chị nữa. Nàng nói:
"Tú pha-mi? (Toute famille?)"
Hắn sung sướng gật đầu và có vẻ thích thú về sự thông minh của Huệ. Dưới ánh đèn, đôi mắt của Huệ long lanh một cách quyến rũ. Nàng dựa đầu lên thành giường, cổ nghiêng sang một bên. Mái tóc xoã xợi rũ xuống hai bờ vai. Huệ cao nên chân nàng duỗi ra tới mãi tận cuối giường. Bàn chân Huệ ghếch lên đùi Jean. Hắn ủ hai cái gót nhỏ vào lòng bàn tay của mình. Giây lâu, hắn lại tìm ra ở trong ví một cái ảnh của hắn trao cho Huệ. Huệ cầm lấy, ngắm nghía rồi hỏi:
"À moi?"
Hắn gật đầu, lấy bút hí hoáy ký tặng. Huệ đưa tấm ảnh lên môi hôn rồi nhìn hắn cười. Hắn ném bút lên giường và thò tay vặn nhỏ ngọn đèn. Huệ ôm lấy hắn. Hắn gọi tên Marie rất nhiều lần trong bóng tối...
Buổi sáng lúc Huệ trở dậy thì Jean đã đi từ lâu. Hắn để lại trên bàn một xấp giấy bạc. Huệ cầm lên ngắm nghía một cách vui sướng. Món tiền thật là to đối với Huệ. Nàng đi chân đất lại mở tung các cửa sổ. Ánh nắng lùa vào chiếu lên những đồ vật còn ngổn ngang trên mặt đất. Bát cháo Jean ăn hồi đêm còn dính mấy hạt đỗ xanh và những cặn bẩn. Quần áo ướt sũng của Huệ vo tròn thành đống ấn ở dưới gậm giường. Huệ mệt mỏi, không muốn dọn dẹp, ra đứng tựa lưng vào cánh cửa, nhìn ra ngoài. Nàng nghĩ đến những món mình sẽ tiêu với số tiền còn thơm mùi mực ở trong túi. Hình ảnh Jean chập chờn đi qua những tờ giấy bạc. Bất giác Huệ mỉm cười nhớ đến tên Marie mà Jean vẫn gọi hồi đêm. Nàng có vẻ mãn nguyện với mình.
Lúc thằng Ích quẩy đôi thùng đi qua cửa, Huệ gọi nó:
"Ích ơi! Sao mày đi gánh nước sớm thế.”
Ích quay lại, kêu lên:
"Sáng nửa ngày rồi còn kêu là sớm. Bộ cô hôm qua mệt lắm hả..."
Huệ tru lên:
"Khỉ gió đùng lăn chửa! Bộ ai dậy mày ăn nói thế hở thằng khỉ kia.”
Ích cười rinh rích, tay gõ vào lưng thùng, thủng thỉnh bước. Huệ gọi giật lại:
"Này Ích! Ở yên đấy tao bảo cái đã. Cho mày hai đồng ăn kẹo đây này!"
Ích đặt đôi thùng xuống, kêu lên:
"Ái chà sang nhỉ! Hôm qua cô phát tài phải không. Đưa đây. Kẹo thì sợ gì.”
Huệ cười:
"Thằng khỉ gió! Nói đến kẹo sao mà nhanh thế. Vào đây cái đã rồi tao cho.”
Ích theo Huệ bước vào nhà. Huệ bảo:
"Chờ tao rửa mặt một tí đã.”
Ích sốt ruột:
"Mau lên đấy nhé! Dượng tôi mà ra giếng không gặp tôi thì tôi chết đòn.”
Tiếng Huệ khuất ở phía nhà trong:
"Rõ bầy đặt lắm điều chửa! Mày nhẩy như chó dái ngoài đường thì chả sao.”
Ích không đáp nhìn quanh quẩn khắp nhà. Mùi ẩm mốc xông lên đống chăn, xen lẫn mùi hôi hám bốc ra từ cái bô sứ để dưới gầm giường khiến nó thấy lợm giọng. Ích bỏ giường ra ngồi trên một cái ghế gỗ. Tay nó táy máy nghịch mấy hộp phấn son ngai ngái của Huệ. Mấy con ruồi bay vung lên từ bát cháo, táp vào mắt nó làm nó nhăn mặt lại. Lúc Huệ cầm cái khăn ra, đem vắt lên dây thép thì Ích nói:
"Đâu! Cô bảo cho hai đồng đâu. Bỏ lẹ lẹ ra đây.”
"Thì mày làm gì mà rối lên thế. Dạo này mày vẫn đi hát với bác Tốn đấy chứ.”
"Tối nào mà không đi.”
"Khá không?"
"Cũng tàm tạm thôi. Bác Tốn dạo này hay về ngủ sớm thành ra cả hai người được năm chục là giỏi.”
"Về sớm thì làm cái khỉ gió gì ở nhà ấy?"
"Ai mà biết được! Thấy bác ấy bảo: tao bây giờ già rồi, đứng mộït tí là đau lưng.”
Huệ phì cười:
"Nỡm chưa! Mặt mày hơn hớn ra thế mà kêu già với cả. Bộ không muốn lấy vợ nữa sao?"
Ích sốt ruột:
"Thôi đi! Có định cho thì bỏ mau mau ra đây, không thì tôi đi gánh nước đây.”
Huệ móc túi:
"Tao cho chứ ai thèm nói dứ mày! Nhân thể tao nhờ mày đến chiều qua đưa hộ bác Tốn bánh thuốc lào nhé!"
Ích kêu lên:
"Ái chà! Sang nhỉ! Cô định trả nợ đấy à?"
"Ai thèm trả nợ! Lúc tao ốm, người ta tốt với tao thì bây giờ tao cám ơn lại chứ can cớ gì.”
"Thuốc lào thì nhất rồi! Bác ấy khoái phải biết!"
"Thế à! Tao cũng nghĩ thế. Vậy chốc nữa tao đi mua.”
Lúc Huệ lấy tiền, nàng làm rơi ra cái ảnh của Jean. Ích nhặt lên hỏi:
"Ảnh của ai thế?"
Huệ đáp:
"Chồng tao đấy!"
Ích bĩu môi:
"Chồng gì! Mũi lõ rõ ràng đây mà.”
"Lõ thì đã làm sao! Cốt tử tế thôi chứ! Mà cấm mày bép xép đấy nghe không.”
Ích cầm lấy tiền rồi trở ra giếng nước. Đến gần trưa, nó tót sang tìm bác Tốn. Lúc này bác đang ngồi tần mần bứt những cọng rơm ở dưới chiếu. Thấy tiếng động bác ngẩng lên nhìn về phía cửa, hai hàm răng của bác nhe ra trắng nhởn:
"Ai đấy?"
Ích đáp:
"Ích đây!"
"À! Đi đâu thế mày?"
"Bác không đi đánh cờ à?"
"Cờ quạt gì! Đau lưng bỏ bố đi..."
"Hút thuốc lào thì có khỏi không?"
Bác Tốn ngồi xích vào trong, nhường chỗ cho nó:
"Sao lại hút thuốc lào?"
"Thế mới bí mật quân sự chứ! Mất gì đây nói cho mà nghe!"
"Nghe cái gì?"
"Thì mất gì cho đây cái đã.”
"Thôi đi, xin ông! Hôm qua ông đã xơi của nhà con hai đồng bánh mì giò rồi! Lần này đếch chơi dại nữa.”
Ích đáp:
"Ờ! Được rồi nhé! Rồi đừng có mà hỏi nữa. Đây có chuyện cô Huệ hay bỏ xừ đi.”
Mặt bác Tốn nghếch lên:
"Chuyện gì của cô Huệ?"
Ích nháy:
"Thì bỏ gì ra đây đã nào!"
Bác Tốn nhe răng ra cười, cái cổ đưa hẳn về phía trước:
"Thôi! Năm cắc bò khô đấy!"
"Năm cắc chả bõ dính răng.”
Bác giẫy nẩy lên:
"Biết thế chó nào là dính được răng. Cái mồm nhà ông thì dễ phải hàng kí lô mới bõ chắc!"
Ích đáp:
"Chả cần kí lô thì cũng phải hai tì!"
"Thôi một tì đi! Một tì thì đã mất bố nó với nhà ông gói thuốc lào rồi.”
"Ôi, cần gì! Cô Huệ còn định cho nhà bác cả phong kia mà!"
Bác Tốn kêu lên:
"Ái chà! Sang nhỉ! Nhưng sao lại thế?"
"Thì đã bảo có khô bò đã mà!"
Bác Tốn đáp:
"Thôi đếch cần cậu nữa. Cậu phun bố nó ra cho tớ biết rồi. Cô Huệ trả nợ cái khoản hộp bánh hôm nọ bằng phong thuốc lào chớ gì! Cái nhà cô ấy hay thật! Chỉ vẽ chuyện.”
Ích túm lấy áo bác Tốn lắc mạnh:
"Còn nữa! Chưa hết đâu! Chuyện này còn hay hơn!"
"Bịa!"
"Đây thèm vào bịa! Rõ ràng buổi sáng nay mà.”
Bác Tốn gật gù:
"Ừ, thế thì được! Bằng lòng hai tì. Hai tì là kể hai chuyện đấy nhé!"
"Chuyện trước bác biết bố nó rồi còn gì!"
"Thế cô ấy bảo sao?"
"Bảo lần trước cô ấy ốm, bác tử tế mang cho bánh thì bây giờ mua thuốc lào biếu bác.”
Bác Tốn hỏi:
"Có thế thôi à?"
Ích đáp:
"Thế thôi chứù còn cái đếch gì nữa.”
Bác Tốn cười hề hề. Vớ lấy cái điếu cầy treo ở bên cạnh, bác hỏi tiếp:
"Thế còn chuyện thứ hai?"
"À, chuyện thứ hai là chuyện cô Huệ lấy Tây!"
Bác Tốn khựng hẳn người lại. Vẻ mặt bác hơi tái đi, nhưng chợt nghĩ ngay ra là thằng Ích hay đùa nên bác nhoẻn một nụ cười:
"Ấm ớ chưa! Tây đếch ở đâu ra mà lấy.”
Ích gân cổ cãi lại:
"Thật mà! Thì chính cô ấy nói ra mà!"
"Vậy thì cô ấy phịa chuyện với nhà ông rồi! Tây Tầu nào quen cô Huệ. Mà cô ấy mù tịt có biết chữ nghĩa nói năng gì đâu mà đòi lấy nhau.”
"Ấy thế mà lại cứ lấy đấy. Không lấy thì làm sao có cả ảnh con người ta nằm trong túi!"
"Ảnh của ai?"
"Bác rõ vớ vẩn, của Tây chứ của ai.”
"Tây thật không? Thôi! Khéo bố mày lại trông nhầm nhà ông nào rồi!"
"Vô lý! Cháu tinh mắt thế này mà lại bảo trông nhầm. Rõ ràng như ảnh tài tử trong ci nê ma, thì sao lại không Tây được.”
Mặt bác Tốm hơi sạm lại. Bác nuốt một cục nước miếng đang nghẹn trong cổ họng và cất giọng hỏi một cách khó khăn:
"Thật à? Tây trắng hay Tây đen?"
"Trắng!"
"Già hay trẻ?"
"Trẻ măng!"
Giọng bác bắt đầu chua chát hơn:
"Sướng nhỉ! Béo hay gầy?"
"Béo!"
"Tóc xoăn không?"
"Bác nói như bố chó xồm ấy. Tóc Tây mà không xoăn!"
"Vậy đích thị là Tây rồi! Giầu phải biết đấy nhé!"
Ích đáp:
"Đứt đuôi đi rồi. Chả thế mà tự dưng cô ấy lại gọi cho hẳn cháu hai đồng, lại cho bác cả một phong thuốc lào nữa.”
Bác Tốn nói như muốn khóc:
"Tao đếch thèm lấy!"
Ích ngạc nhiên:
"Ô hay! Sao lại dại thế?"
"Thì đã bảo không là không mà! Cần đếch gì dại với khôn.”
"Thì cứ lấy đi rồi cho cháu!"
"Gớm! Mày nói như bố chó xồm ấy! Tao mà lại đi lấy của Tây.”
"Thôi! Thế là nhà bác nổi cơn ghen rồi.”
Bác Tốn phát bẳn lên:
"Ghen đếch tao đây này! Mấy lại tao có mê đâu cơ chứ.”
"Không mê mà dạo trước lại bảo mê đứt đuôi đi rồi!"
Bác Tốn cười hềnh hệch:
"Nói thì nói thế chứ. Chả có bao giờ tao thèm mê ai đứt đuôi đi được.Thôi mày lấy cái đàn ra đây, tao hát cung văn cho mà nghe.”
Ích vỗ tay:
"Phải đấy! Bác hát cung văn thì phải biết.”
Trong khi Ích bắc ghế trèo lên vách lấy cây đàn thì bác Tốn châm lửa, hút thuốc lào sòng sọc. Hai bên má bác hóp lại, đôi lông mày díu vào nhau. Vầng trán cao và rộng của bác nổi rõ lên những đường gân xanh nhằng nhịt. Lúc bác rời cái điếu ra thì mặt bác ngây đi, cặp mắt nhắm nghiền lại, những sợi khói xanh lơ quyện lấy khuôn mặt khắc khổ, phong trần, rồi bay toả lên cao. Lúc ấy Ích đã ôm cây đàn lại gần. Nó dùng ngón tay bật lên mấy sợi dây. Âm thanh rung trong bầu gỗ làm bác Tốn quay lại mỉm cười. Hai hàm răng trắng nhởn nhe ra như răng ngựa. Bác đưa cổ ra đằng trước, lắc mấy cái cho bắp thịt dưới hàm giãn ra rồi bác đón lấy cây đàn, thử dây và bắt đầu cất giọng:
"Tình tang ơi!
Cổ tay em trắng, trắng mà lại tròn
Em để cho ai gối... ấy mà... mòn... mà mòn một bên...
Ới tình tang ơi..."
Ích kêu lên:
"Không! Không chơi hát nhảm. Bác hát những bài lên đồng nghe khoái hơn.
Bác Tốn hướng mặt về phía nó mỉm cười. Bác có cảm giác như lòng bỗng nhẹ vơi đi khi có âm thanh của tiếng đàn. Tay bác búng rất ròn một nốt thật cao. Rồi bác gẩy tiếp theo và cất giọng lên đồng:
"Ới a...ới a...
Cô Bé về đồng..
Cô Bé về đồng...
Cô bận áo lục
Cô chít... chít... à... chít chứ cái khăn hồng.
Cô cài trâm bạc ấy chứ... trâm bạc... cho bồng mấy sợi tóc mai.
Ý... y
Lủng lẳng trên vai...
Ý y... lủng lẳng trên vai
Giỏ hoa cô xếp thật tài
Cưỡi mây... mà đạp gió... ý y...
Cưỡi mây mà đạp gió... ý y...
Cô đi đôi hài xanh xảnh xành xanh.”
Thằng Ích giúi cái cọng rơm vào tay bác:
"Đây nè! Cô thưởng cho đây nè!"
Bác Tốn khoái chí, rung đùi hát to hơn:
"Đệ tử vui mừng...
Ý a... mà đệ tử vui mừng
Nghe cô chẳng quản... nghe cô chẳng quản ý a...
mưa gió bão bùng... mà... cô tới đây
Rượu đây, cô uống... mời cô uống cho say...
Mà... sa lông cô ngự... ý y... báo này để cô xem.
Sắp hàng là đệ tử hai bên
Nghe cô kể truyện ý ý... kể chuyện săn trên... trên miệt rừng...
Súng tây cô bắn đùng đùng...
Ới a... súng tây cô bắn đùng đùng...
Cô gầm... cô rít... oai hùng... oai thật là oai...“
Bác Tốn ngâm dứt giọng thì hạ cây đàn xuống, vớ lấy bát nước chiêu một ngụm. Ích vỗ tay:
"Hay nhỉ! Ai dạy mà bác biết những điệu hát lạ thế?“
Bác Tốn cười hề hề:
"Thì nghề chính cống bà lang trọc mà lị. Ngày xưa tao mê một cô gõ phách. Cô ấy còn hát hay bằng mười tao kia. Lại đẹp không chê được.
"Bây giờ cô ấy đâu rồi?“
"Tây nó bắn chết rồi.”
Ích xuýt xoa:
"Ui chao. Lại thế nữa?“
"Hồi ấy đi hát ở đền nào cô ấy cũng rủ tao đi. Tiền thu vào vô khối, lại no nê, nhưng tao thì chỉ mê có mỗi hai con mắt của cô ta thôi.”
Ích hỏi:
"Mắt cô ấy làm sao?“
"Mắt tình bỏ bố đi!“
Ích tủm tỉm cười:
"Hay nhỉ! Mắt tình khác mắt thường thế nào hả bác?“
Bác Tốn bật cái đóm trên mấy đầu ngón tay:
"Đếch ai mà nói được. Tình là tình chứ biết tả làm sao.”
"Thế rồi hai người có... gì nhau không?“
"Gì gì?“
"Gì ấy!"
Bàn tay của bác dúi khẽ vào bụng thằng Ích:
"Bằng từng đây mà gớm nhỉ! Nhà ông thì biết cái chó gì mà nói!“
Ích cãi:
"Biết chứ sao lại không!“
Bác Tốn cười rinh rích:
"Ái chà hăng nhỉ! Ngữ này về sau dê phải biết.”
"Bác nhảm nhí bỏ bố đi. Cháu thì còn xơi!“
"Thật không?“
"Thật!“
"Năm nay mày lên mấy?“
"Cháu mười hai!“
"Úi! Mười hai tốt rồi. Ngày xưa ở làng tao khối người lên tám đã có vợ rồi.”
Ích kêu lên:
"Bác nói phét!“
"Kìa! Thật mà! Đây mà lại có thèm nói phét với nhà ông nữa. Có vợ rồi mà còn đái dầm ra vợ nữa kìa.”
Ích trèo phắt ngay lên cổ bác Tốn, đè xuống:
"Bác nói như bố chó xồm ấy! Có mà vợ nó "phút" cho.”
Bác Tốn vừa gỡ Ích ra vừa cười:
"Phút" thật ấy chứ. Nó lôi cu cậu ra đầu hè, vừa xi nó vừa chửi.”
"Nhà bác này hôm nay nói phét không chê được. Đây đếch thèm nghe nữa đâu.”
Bác Tốn giả bộ giận dữ:
"Thì đấy mày về hỏi dượng mày xem. Có mà ối ra!“
"Thôi đi! Bác lại xui dại cháu. Hỏi ông ấy những chuyện ấy, ông ấy đánh vỡ đít.”
"Dượng mày vẫn ác thế đấy à?“
Ích gân cổ:
"Còn ngôn gì nữa. Dạo này ở nhà chán thấy mồ. Hơi một tí thì cái lão ấy rút guốc chực phang rồi.”
Bác Tốn chép miệng:
"Thế u mày không can được à?“
Ích thở dài:
"U cháu thì nói làm đếch gì. U cháu còn nhát hơn cả cháu nữa.”
"Chả phải nhát đâu. U mày nhường!“
Ích cãi:
"Nhường đếch gì! Tiền vốn, tiền lãi, lão ta moi móc đi đánh bài cả mà lại bảo nhường.”
"Chết! Đánh thế rồi lấy gì mà sống?"
"Thế đấy! U cháu thì suốt ngày than thở rằng sắp chết đói đến nơi.”
Bác Tốn không nói tiếp, ngồi im lặng trầm ngâm. Ích đang vui, nét mặt cũng trở nên buồn thỉu lại. Nó hình dung đến khuôn mặt xanh rờn và hốc hác của u Tám. Buổi chiều ở nhà, sau bữa cơm thật là buồn thảm. Dượng Tám đi chưa về, mâm cơm để phần nằm chỏng chơ trên phản gỗ. U Tám ngồi quạt muỗi âm thầm trong một góc tối. Ngọn đèn hoa kỳ leo lét trên bàn thờ soi sáng nửa mặt phía ngoài của u. Má u hóp lại. Hai mắt sâu, đen và thâm quầng. Mớ tóc quấn hờ hững ngang đầu lệch nghiêng đi, những sợi tóc xổ ra, rũ xuống cái cổ gầy vêu vao. Hôm nào u cũng ngồi yên ở chỗ đó, tay phe phẩy cái quạt hay bóp nắn những vết thâm tím mà dượng Tám đánh u như đòn thù. Ích cũng không biết u nghĩ gì về chúng nó, mà chúng nó cũng không muốn hỏi. Vì u đối với anh em Ích thật hờ hững và thản nhiên, ít khi u tỏ được một cử chỉ âu yếm hay săn sóc tới hai anh em nó. Cũng vì thế, Ích ít hay thăm hỏi đến u. Lúc bắt đầu đi hát thì nó chỉ nói gióng với cái Ngoan:
"Tao đi đây nhé!“
Ngoan đang ngồi ghếch cằm lên ngưỡng cửa. Nó cũng không đáp mà chỉ giương mắt nhìn Ích. Ích biết nó cũng chán ngán như mình. Những lúc như thế Ích thấy sự đi hát với bác Tốn thật là thần tiên. Nó quên hết những hình ảnh buồn nản ở nhà. Cảnh vật trên phố hôm nào cũng như hôm nào, nhưng đối với nó có một sức quyến rũ lạ lùng. Nhất là lại thêm bác Tốn để mà nói dóc thì vui phải biết. Nhiều hôm trời mưa vắng khách, Ích kéo bác Tốn ngồi dưới mái hiên nghe tiếng nước vỗ rào rào trên ống máng. Lòng Ích thấy thanh thản vô cùng. Nó không phải bận tâm điều gì về dượng Tám. Hình ảnh của u và em Ngoan không gợi cho nó sự hằn học, tức tủi. Lúc ấy Ích chỉ khoái chuyền nhau với bác Tốn điếu thuốc lá cháy đỏ trong bóng tối. Hai bác cháu cười rúc rích với nhau. Ích nói:
"Hút thuốc lá khoái thật!“
Bác Tốn rít một hơi dài, hai má hóp lại, khuôn mặt hồng lên vì đốm lửa sáng:
"Nói như bố chó xồm ấy. Thuốc lá mà lại không khoái.”
"Nhưng mà thuốc lá thơm chắc khoái hơn.”
"Còn phải nói! Nhất là thuốc lá Ăng lê thì phải biết. Rít vào sướng mê cu tơi!"
Ích ngơ ngẩn như thèm thuồng:
"Ừ! Chắc sướng thật, nhưng mà đắt lắm phải không?“
"Một điếu bằng một cái bánh ga tô đấy nhà ông ạ!“
"Ý! Thế thì đây đếch vào! Ăn bánh ga tô còn sướng hơn.”
Câu chuyện của hai bác cháu cứ dấm dẳn như vậy cho đến khi thành phố vắng cả tiếng xe lẫn bóng người. Ích dẫn bác Tốn dò dẫm đi trên mặt đường láng ướt. Những tối mưa buồn như thế, thể nào thằng Ích cũng ăn mấy cái bợp tai của dượng Tám vì không kiếm nổi một chục bạc. Nghĩ đến đấy, bất giác Ích thở dài. Thấy nó có vẻ buồn, bác Tốn hỏi:
"Hôm nay ở nhà rỗi việc hả?“
Ích đáp:
"Thiếu gì! Còn một thúng đỗ tương cháu chưa nhặt sạn.”
Bác Tốn nằm ngả xuống nệm cỏ, vươn vai cho xương cốt giãn rarăng rắc:
"Vậy nhà ông về đi không lại chết đòn. Tối nay sang sớm sớm nhé.”
Ích đứng dậy:
"Lạy giời hôm nay đừng mưa.”
Nói rồi nó bước ra khỏi bực cửa. Bác Tốn trở mình trên nệm cỏ mấy lần mà vẫn thấy chân tay rời rã. Một lúc lâu, bác nằm ngửa mặt lên phía mái lá. Hơi nóng buổi trưa hắt xuống hầm hập. Qua khung cửa đục lờ lờ ở tròng con mắt, bác như thấy bóng dáng Huệ mơ hồ qua lại. Toàn thân Huệ chỗ nào cũng chỉ như một vệt sáng mờ nhạt. Bác nghĩ đến cái áo đỏ sực mùi phấn thơm mà Ích vẫn tả cho nghe. Giọng nói kiêu kì của Huệ bây giờ như có những cạnh sắc. Bác thấy lòng mình đau đớn trong những âm thanh quen thuộc ấy. Nằm yên một lát, đầu suy nghĩ miên man đến chuyện này, chuyện khác, chuyện Huệ ốm trong cảnh cô đơn, chuyện mơ lấy Huệ làm vợ để tối tối hai người ngồi thủ thỉ với nhau ngoài đầu thềm, chuyện Huệ giữ ảnh của một ông lính tây và định lấy hắn ta làm chồng. Bất giác bác thấy buồn thấm thía. Bác nghĩ đến mình với căn nhà lụp xụp và sự cô đơn trong mù loà. Tự nhiên bác Tốn muốn khóc. Nhưng khi nhận ra hai giọt nước mắt chực ứa khỏi hàng mi thì bác lại ngồi nhỏm dậy, cười một mình, nụ cười khô héo và gượng gạo. Bác lẩm bẩm:
"Mình ấm ớ thật!“
Tay bác quơ lấy cây đàn rồi ôm chặt vật thân yêu ấy vào lòng. Bác tưởng mình hát được thật to cho vui cửa, vui nhà, nhưng thật ra giọng bác như bị tắc lại trong cổ. Có một cái gì nghèn nghẹn dâng lên ở mũi và mắt. Bác chợt buông một tiếng thở dài.
Tiếng hát mọi ngày, vui vẻ và thân yêu, vẳng về qua tai bác: "Cô Huệ ơi... Nếu cô lấy tôi thì tôi xây nhà gạch hai tầng", tiếp theo là câu nói chanh chua của Huệ: "Khỉ gió đùng lăn chửa? Rõ thừa cơm rửng mỡ chưa!"
Giọng Huệ nghe sao mà thân thiết, gần gũi, nó khiến bác bất giác mỉm cười một mình. Tình yêu lại dâng lên làm bác thấy nôn nao cả người. Nếu bây giờ đang ngồi cạnh Huệ, bác sẽ chẳng ngần ngại gì mà không nắm tay Huệ, ôm lấy Huệ vào lòng để nói với Huệ một câu thật tình tứ. Mà theo ý bác, chẳng có tiếng nào trút hết lòng yêu của bác bằng hai tiếng "Mợ ơi"! Đó là hai tiếng bác vẫn thường gọi Huệ trong những đêm trằn trọc không ngủ. Bác tưởng tượng Huệ với bác đã thành vợ chồng. Huệ nằm gọn trong cánh tay của bác. Nàng thơm tho và nũng nịu như một đứa trẻ. Bác sẽ bắt Huệ nhắm mắt lại để mình vuốt ve âu yếm lên hai hàng mi. Phía bên ngoài trời sẽ mưa rả rích. Tiếng nước nhỏ giọt đều đều trên mái lá, gió lại heo hút lạnh lùng lùa qua kẽ vách, mọi thứ như tức cảnh sinh tình hẳn sự ấm cúng chỉ thu gọn lại trong thế giới của mỗi hai người. Bác sẽ nói:
"Chúng mình hay nhỉ!“
Huệ hỏi:
"Hay cái gì cơ?“
"Chúng mình lấy nhau!“
"Khéo nỡm chưa!“
"Ừ! Nỡm thật? Nhưng mà cũng lại chẳng nỡm đâu.”
"Thế mà còn chẳng nỡm!“
"Nỡm mà lại lấy nhau!"
Những tưởng tượng vu vơ của bác gây cho bác nhiều cái thú say sưa. Bác hay cười một mình. Nếu cuộc sống đừng có những đổi thay cay nghiệt thì như thế, bác cũng đã cảm thấy đầy đủ lắm rồi. Cái đó gọi là tình yêu trong mộng tưởng!
Nhưng thật ra thì Huệ không ưng bác. Sự mù loà của bác như một bức tường cao ngăn cách hai người. Đứng ở bên này, bác chỉ được nghe thấy tiếng Huệ nói, cười. Bác không thể với tới được, không gần gũi được, mà cũng không cả nhìn thấy được nữa. Ôi, Huệ ở ngay bên cạnh bác nhưng sao mà quá xa vời, như mỗi người có riêng một thế giới. Trạnh nghĩ như thế là niềm vui vừa nhóm lên trong lòng bác lại bắt đầu tàn lụi. Như thế, từ sự vui đến nỗi buồn đối với bác chẳng cách nhau bao xa.
Lúc bác đang day dứt với mình thì cái Hòn bế em vào đến bậc cửa. Nó gọi bác sang ăn cơm trưa. Bác thấy mồm miệng bã ra hơn bao giờ hết. Nghĩ đến cơm, chưa lần nào bác chán như thế. Vì vậy, bác bảo nó:
"Cháu về bảo thầy u ăn đi. Hôm nay tao no.”
Cái Hòn nói:
"Vậy cháu để phần cho bác nhé.”
Bác Tốn vội xua tay:
"Ấy đừng. Tao no thật mà! Đứng vẽ chuyện phần phò gì mất công.”
Cái Hòn không đáp nữa, nó lặng lẽ bước ra ngoài. Chợt bác Tốn gọi nó:
"Này Hòn ơi! Để em đấy tao bế cho, đi mua hộ tao cái này nhá.”
Hòn ngoái cổ lại, mặt nó tươi lên nhìn bác:
"Mua gì thế?"
Bác Tốn cười, hàm răng đưa cả về phía trước:
"Chạy ra đầu ngõ mua hộ mấy đồng rượu trắng. Cả tôm khô nữa.”
Hòn toe toét:
"Hôm nay bác sang nhỉ! Nhậu nữa cơ à?"
Bác Tốn vội vã ra hiệu cho nó im:
"Ấy! Về chớ có nói với thầy u nhá! Tao... tao đau bụng bỏ bố đi. Uống rượu chắc khỏi. Đây này! Cầm lấy tiền. Tao cho chị em mày mỗi đứa một đồng nữa đấy. Về đừng nói nghe không!"
Thấy tiền, mắt cái Hòn sáng lên. Nó vội vã bỏ em xuống chiếu, đi tìm chai và nhanh nhẩu ra cổng. Cái Hơn thấy chị đi khỏi thì choé lên khóc. Bác Tốn vội bế nó lên tay, vừa cười vừa nói:
"Âu! Tao đây mà! Tao bế đây mà!"
Trông thấy bác, con bé lại càng sợ. Nó khóc to hơn trước. Bác Tốn cuống quít vội vớ lấy cây đàn, bật khẽ mấy tiếng. Âm thanh phát ra là lạ khiến con bé nín khóc. Bác Tốn khoái chí cười toe toét:
"Hà... thấy không... hay không... con cháu bác có khiếu âm nhạc, ngày sau mày làm nhạc sĩ nghe không.”
Rồi bác hôn chùn chụt lên má nó. Những sợi râu gai và cứng cọ quậy khiến con bé lại oà lên khóc. Lần này bác Tốn phải bế nó đứng dậy. Hai bác cháu dò dẫm ra đứng ở đầu hè. Ánh nắng chói chang hắt nghiêng qua mái lá làm khoảng đục trước mắt bác sáng lên. Bàn tay gầy guộc của bác sờ được tấm giại đặt ở ngoài hiên. Bác lấy ngón tay bẩy những cái nan lên, tạo ra những tiếng kêu lách tách. Con bé trố mắt ra nhìn. Vừa lúc ấy có tiếng san sát của bác Nhan gái ngoài ngõ:
"Cha tiên nhân con ranh con, sai có một việc mà mất biến đi đằng nào.”
Bác Tốn thò đầu ra ngoài nắng:
"À, cái Hòn ấy phải không? Tôi nhờ nó đi chút việc ấy mà.”
Tiếng bác Nhan gái:
"Khéo nỡm chửa. Giờ ăn sao chẳng về lại còn sai nó đi đâu?"
Bác Tốn cười hề hề:
"Thôi! Hôm nay "súp" phần tôi đi! Đau bụng phát rên lên đây này!"
Bác gái bước vào sân:
"Chết! Đau làm sao?"
"Ấm ớ thôi!"
Tiếng bác Nhan bật cười:
"Ấm ớ thì thôi về đi. Ăn một tí cho nó chắc bụng. Hôm nay có món cá chiên bột chắc bác thích.”
Bác Tốn gật gù:
"Ừ! Cá chiên bột thì khoái tê đi rồi. Nhưng thôi, đã nhịn thì khoái cũng nhịn.”
"Vậy ăn cháo nhé.”
"Ấy thôi! Vẽ vời lắm nữa! Cám ơn nhà bà, bà cứ về ăn đi. Đây tôi trả con bé đây này. Thối thật, mình ăn cơm nhà nó hằng ngày, lúc bế nó, nó lại lạ cơ chứ.”
Bác Nhan đỡ lấy con, hôn chùn chụt lên má nó:
"Cha bố con khỉ, ai mà con khỉ chẳng lạ. Chỉ có mẹ thôi, phải không con.”
Ra đến cổng thì bác gặp cái Hòn cắp chai rượu và gói tôm khô chạy vào. Nó lúng búng:
"U!"
Bác Nhan hỏi:
"Mày mua được cái gì thế?"
Con bé không đáp, lẳng lặng đặt chai rượu xuống đất, mở cái gói cho mẹ xem. Những con tôm khô quắt queo, nhơm nhớp nước củ kiệu phơi ra dưới nắng.
Bác Nhan hỏi:
"Bao nhiêu?"
Con bé trả lời với một giọng đầy dãi và nước bọt:
"Ba... ba đồng..."
Lập tức bàn tay bác thò ra bóp lấy hai bên má nó. Con bé đỏ bừng mặt lên rồi lè ra một rúm tôm đỏ, nhuyễn nát với những mảnh kiệu trắng tinh.
"Con ranh! Con ranh! Lại ăn vụng rồi? Nhà xa tí nữa thì mày ăn hết chắc.”
Vừa nói bác vừa thẳng tay củng rõ mạnh lên đầu con bé làm người nó dúm lại. Bác Tốn nói:
"Tôm khô phải không! Thì để cho nó mấy miếng.”
Được lời nói đỡ, cái Hòn khom lưng luồn qua cánh tay mẹ, chạy vội ngay vào trao cho bác Tốn chai rượu và gói giấy. U nó hét lên:
"Về ngay! Tiên nhân nhà mày, rồi chết đòn.”
Con bé không đáp, len lén men theo cánh liếp ra tận đầu hè rồi mới vùng lên chạy. Bác Nhan bật cười:
"Sao bảo đau bụng còn ăn tôm khô.
Bác Tốn ngượng nghịu:
"Dăm con thôi. Dăm con mà tu hết chỗ rượu này thì đau mấy cũng khỏi.”
Khi bác Nhan đã trở về, bác Tốn bày rượu và tôm lên một cái khay gỗ. Hai tay bác sờ soạng hồi lâu trong cái thúng dưới gậm giường rồi bác lôi ra được một cái chén nhỏ. Bác nghiêng miệng ấm nước đổ ra một ít vào chén và dùng đầu ngón tay cọ sạch. Công việc tỉ mẩn với ý nghĩ sắp nhắm tôm khô và củ kiệu khiến bác khoái chí. Vừa làm bác vừa đưa cái cổ ra đằng trước cười một mình. Bác lẩm bẩm:
"Có ông Ích ở đây thì phải biết. Lại mất với bố ấy dăm đồng nữa chứ chẳng chơi.”
Bầy biện xong xuôi bác ngồi xếp chân lên nệm cỏ. Ly rượu được rót rất khéo dần đầy ắp mà không sánh ra ngoài một giọt. Bác Tốn ngửa cổ hớp một hơi dài rồi nhón một con tôm cho vào miệng. Con tôm tẩm ớt đường tan ra mùi vị lờ lợ, cay cay khiến bác thấy tê ở đầu lưỡi. Bác quên hẳn cái lý do mình bỏ cơm, uống rượu vì chuyện Huệ lấy Tây. Nhất là hơi rượu bắt đầu bén lên tai và mắt. Bác thấy nóng ran và ngứa ngáy. Cái nóng từ trong người thoát ra thêm với cái nóng hầm hập từ trên mái hắt xuống làm khuôn mặt trắng xanh của bác đỏ lên rần rần. Bác cởi phăng cái áo sơ mi ném vào một góc nệm, rồi lẩm bẩm:

Một buổi tối Huệ dìu về nhà một người lính say. Trời lất phất bụi mưa. Xóm Cỏ im lặng và tối om như một đường hầm sâu hun hút. Lối đi nhớp nháp bùn. Trận mưa buổi chiều làm nước đọng thành vũng lớn. Người lính say ngoẹo đầu trên vai Huệ. Anh ta đi lảo đảo, tiếng giầy đinh miết vào lòng sỏi kêu lộp cộp ầm ĩ. Một tay Huệ đỡ lưng anh ta, một tay nàng nắm lấy ngực áo, vừa đi Huệ vừa cất mồm chửi. Tiếng chửi chanh chua len qua kẽ vách, khiến có người ở trong nhà bên lề đường bật lên cười, hỏi vọng ra:

"Mình ấm ớ thật. Không dưng đi uống rượu vào. Nóng bỏ bố đi.”
Tuy thế những ngón tay của bác lại sờ lên gói tôm một cách tiếc rẻ. Ba đồng bạc ít ỏi quá. Đã thế, cái Hòn nhà ta xơi vào đấy cũng mất dăm con rồi. Nếu lúc ấy có ai để nhờ được thì hẳn bác chẳng ngần ngại gì không mua thêm dăm đồng nữa. Lúc nhón đến con tôm cuối cùng thì lưng chai rượu của bác cũng cạn hẳn. Bác thấy người chuếnh choáng một cách thích thú. Trước mắt bác khoảng đục lờ lờ nổi lên những đốm hoa đủ màu sặc sỡ. Chân tay bác như nhẹ bỗng hẳn ra. Đầu lưỡi cay sè, tê ra cả môi và mép. Bác xếp dọn đĩa chén và lần ra đầu hè rửa tay. Một lát bác vào ngồi dựa lưng vào vách đất. Tuy chẳng nom thấy gì, nhưng bác có cảm giác tất cả căn buồng đang đưa bác đi vòng quanh. Lòng bác lâng lâng. Bác nghĩ đến thằng Ích và sự say sưa của dượng nó. Bác nhủ thầm: Ngày nào nó cũng say như thế này, chẳng trách nó "khện" cho cu cậu mất hết hồn vía. Bác vụt thấy mình thương Ích lạ lùng. Thằng bé tuy láu cá vặt nhưng đối với bác lại thật thà và quấn quít. Cuộc sống có Ích, bác cảm thấy bớt cô đơn. Những buổi tối, hai bác cháu quấn lấy nhau như bóng với hình. Nhất là những hôm trời đổi gió lành lạnh thì thích phải biết. Trên đường về, Ích nhảy cẫng lên như một con chó nhỏ. Một đôi lần hai bác cháu lại ghé vào hàng bánh mì ròn cặp chả. Vừa ăn bánh vừa nghe Ích kể truyện về Huệ, lòng bác Tốn phơi phới như nở hoa. Thỉnh thoảng bác lại xen vào một câu vô nghĩa:
"Ấm ớ thật!"
Nghĩ đến Ích và Huệ, bác Tốn thấy mình đầy đủ. Nhưng nếu không có chuyện Ích kể lại hồi sáng thì chắc bác sẽ thấy đầy đủ hơn. Bây giờ hình ảnh Huệ chập chờn trong trí bác như những đầu gai nhọn, làm bác thấy như mình bối rối một cách vu vơ. Rồi bác muốn khóc. Trong trí tưởng tượng của bác, chỗ nào cũng mơ hồ có bóng dáng Huệ đi bên anh chồng lính Tây. Huệ đánh phấn, bôi môi, mặc áo đỏ và xách ví đầm ẩn hiện, chập chờn một cách quái ác. Rồi nỗi buồn cứ mỗi lúc một thấm sâu vào lòng bác. Chân tay bác trở nên nặng nề, uể oải. Khoảng lờ mờ trước mắt bây giờ kết lại thành một mầu đỏ đục. Mầu đỏ khiến bác thấy chói mắt. Bác đổi kiểu ngồi cho đỡ mỏi rồi nhắm nghiền hai mắt lại. Bác ao ước một giấc ngủ dài. Giấc ngủ không bị ám ảnh bởi hình bóng Huệ. Điều ấy thật dễ dàng vì chỉ trong chốc lát, bác quên hết mọi chuyện quanh mình. Đầu bác ngoẹo xuống một bên bờ vai. Bàn chân bác đạp xuống làm xô lệch cả manh chiếu phủ lên nệm cỏ. Bác đã ngủ ngon lành như một đứa trẻ. Mái tóc xoã xuống phủ lên nếp trán cao và rộng. Miệng hơi nhếch lên có vẻ đang nhịn cười. Cục xương ở cổ nhô ra giữa mấy sợi gân xanh.
Trong giấc ngủ, bác nằm mơ thấy mình nhìn rõ tất cả cảnh vật. Bác trông thấy Huệ đẹp và trắng nõn như những bà đầm mà ngày xưa bác thấy ở trên phố. Trước sắc đẹp của nàng, bác thấy mình chỉ là một kẻ nghèo đi hát dạo. Cho nên bác bỏ nàng để đi về một nơi có toàn bóng tối.
Chương mười một
Buổi chiều, tới lúc thằng Ích chọc cái cuộng rơm vào nách bác Tốn, bác mới mở bừng mắt trở dậy. Trời bên ngoài đang sâm sẩm tối. Tiếng trẻ con khóc và tiếng người cãi nhau loạn xạ vang lên từ ngoài hàng rào. Căn buồng tranh tối tranh sáng vo vo đầy tiếng muỗi bay. Bác Tốn hốt hoảng nhỏm dậy hỏi thằng Ích:
"Chết. Mấy giờ rồi hở nhà ông?"
Ích đáp:
"Sắp tối rồi. Khiếp, ngủ đếch gì mà ngủ ghê thế."
Bác vội vàng quơ lấy đôi guốc mộc, sờ soạng tìm thằng Ích, hai hàm răng của bác nhe ra nhăn nhở:
"Ừ nhỉ, mình nỡm thật. Ngủ cả một nửa ngày, chả biết đếch gì cả.”
Ích giục:
"Thôi lẹ tay đi bác. Cháu mà không bận chẻ mấy gốc củi thì đã sang sớm hơn rồi. Có cả thuốc lào của cô Huệ đây này.”
Bác Tốn kêu lên:
"Ý! Sao mày lại đi nhận thuốc lào của cô Huệ. Tao đếch vào lấy đâu.”
Ích tròn cái mồm:
"Ơ hay, nhà bác này ấm ớ không. Người ta gửi tặng mà lại không lấy.”
"Tặng chó đâu mà nhà ông cứ tán rộng ra mãi. Cô ấy trả nợ hộp bánh đấy. Nhưng đây đếch thích.”
Ích gí cái mũi vào phong thuốc lào, hít hít:
"Thuốc thơm thế này mà không lấy thật hoài của.”
"Thôi, sáng mai nhờ nhà ông mang trả hộ. Bảo tớ cai rồi.”
Ích giẫy nẩy lên:
"Ý! Đây chịu thôi. Bác đi mà giả lại.”
"Mày nói như bố chó xồm ấy. Tao đem sang giả thì còn nói làm đếch gì.”
"Cháu cũng chịu thôi. Cô ấy dặn nếu bác không lấy thì cũng để đại vào trong nhà. Bây giờ mang về cô ấy nói.”
Bác Tốn rờ được mái đầu thằng Ích. Bàn tay của bác lật ngửa khuôn mặt choắt choeo của nó lên:
"Thôi đích thị nhà ông này đã ăn hối lộ được cái gì rồi. Ga-tô có phải không?"
Ích toét miệng ra cười:
"Không phải.”
Bác Tốn tiếp:
"Kẹo sìu phải không?"
Ích lắc:
"Không phải nốt.”
"Thế thì cục cứt khô vậy.”
Ích trèo phắt ngay lên lưng bác, đè xuống:
"Ê! Cái nhà bác này nói nhảm đếch chịu được.”
Bác Tốn giơ cái cổ ra đằng trước để đẩy nó xuống:
"Thế thì cái gì?"
"Một bao thuốc lá nhé!"
Mặt bác Tốn thoáng một vẻ ngạc nhiên, bác nghiêng về phía nó nhắc lại:
"Một bao thuốc lá?"
Ích không đáp, móc túi lấy ra gói thuốc. Bác Tốn quơ lấy đưa lên mũi hít hít:
"Thuốc Gô-loa nhà binh đây mà. Nhà ông mà rít vào thì quay cu lơ ra.”
Ích gân cổ cãi:
"Quay thì mới khoái chứ. Tại cháu thấy cô ấy có mấy bao, nên cháu đòi bằng được. Mấy khi! Bác làm một điếu nhá.”
Bác Tốn gật đầu. Ích thò tay vào túi bác tìm cái bật lửa. Nó chụm mồm lại, đặt điếu thuốc lá vào giữa hai môi hít chầm chậm. Điếu thuốc cháy đỏ lên, toả ra một làn khói xanh lơ, mùi khét lèn lẹt. Vị thuốc nặng và chối đưa xộc lên mũi, ùa vào phổi khiến thằng bé bật lên ho sặc sụa. Bác Tốn nhìn về phía nó mỉm cười:
"Thấy không. Nhà ông rít vào có phen vỡ bố nó lồng ngực.”
Ích định nói nhưng khói thuốc làm nước mắt nó giàn giụa, mũi nó cay sè và chưa bao giờ nó thấy ngực mình bị rát đến thế. Nó vội vàng ấn điếu thuốc vào tay bác Tốn rồi chạy ra giữa nhà, gục đầu vào cột gỗ tiếp tục ho sặc sụa. Bác Tốn đưa hàm ra đằng trước, nhăn ra cười. Mấy ngón tay của bác mân mê điếu thuốc rồi bác đưa lên miệng hút. Vị thuốc ngai ngái và đượm khói gây cho bác một cảm giác nào quen thuộc. Cặp lông mày của bác nhíu lại. Đôi gò má hơi nhô lên cao làm hai bên má hóp vào. Bác như cảm thấy có những sợi khói bay mơ hồ ở trong một khoảng lờ lờ đục. Tiềm thức của bác gợn lên một hình ảnh xa xôi. Mắt bác cay sè và nóng ran vì điếu thuốc ngậm quá lâu. Bác chớp mắt thật nhanh mấy lần và thấy như nước mắt đang ứa ra ở trong lần thịt cồm cộm sau tròng con mắt.
Sự khó chịu ấy khiến bác vụt nhớ đến lần mình ngồi trong góc tối với điếu thuốc Gô loa cháy đỏ không dứt trên môi. Lần ấy bác khóc thật sự chứ không cay mắt vì khói thuốc. Bên ngoài là một buổi chiều mùa đông đầy mây xám. Qua khuôn cửa gỗ nhỏ hẹp, bác nom thấy những hàng rào dây kẽm gai bò ngoằn ngoèo trên các mô đất. Gió buổi chiều lồng lộng ngoài cánh đồng đưa lắc lư những ống sữa bò treo lủng lẳng, đầy dẫy trên hàng rào. Có những họng súng lớn nhô lên lạnh lẽo trên từng lô cốt cao. Bọn người bị quây bắt trong cuộc hành quân buổi sáng bây giờ được chia làm hai bên, ngồi ủ rũ. Một bên là đàn ông, một bên là đàn bà. Những người đàn bà gầy guộc và xấu xí. Còn bọn con gái đã được lùa lên dẫy nhà mái tôn ở phía bên kia cột cờ. Mọi người hiểu được số phận của họ. Lòng bác Tốn như nổi lên những đầu gai sắc và nhọn đâm vào làm bác tê buốt. Ở bên ấy vọng về những tiếng kêu gào thảm thiết. Bác nghĩ đến hình ảnh Dậu với thân hình mảnh khảnh, với làn da trắng mát và cặp mắt lá răm đen láy. Cặp mắt mà về sau này bác vẫn kể với thằng Ích là tình tứ mà bác giữ trọn vẹn trong bóng tối của sự mù loà. Tiếng kêu gào vọng về như những mảnh thuỷ tinh sắc cạnh. Bác Tốn không dám nhìn ai, đầu bác cúi xuống như một con chó ghẻ. Quanh bác, có những cụ già bật lên tiếng khóc. Có người vùng lên, hai tay giơ lên trời, vừa la vừa chạy về phía ấy. Nhưng lập tức tiếng súng ở trên chòi lia xuống từng tràng khô khan và lạnh lẽo. Bác Tốn nhìn thấy tấm áo nâu chập choạng đi trên nệm cỏ. Hai cánh tay chới với in rõ trên nền mây xám vẩn đục. Người bác vụt gai lên như vừa có một linh hồn đi qua ý nghĩ của bác. Nước mắt bác chảy giàn giụa. Bên tai bác có tiếng người lao xao xen lẫn với tiếng giầy đinh khua lộp cộp trên sân gạch. Những người lính chạy qua mơ hồ như những cái bóng lớn.
Đến buổi chiều tối sẫm hơn chút nữa thì có một người lính ném cho bác một điếu thuốc. Bác Tốn nhận ra người bạn ngày xưa vẫn đi với mình theo đàn trâu qua đầm nước. Vị thuốc lúc ấy còn đắng và bã hơn khói thuốc bây giờ. Bác Tốn trệu trạo nuốt từng cuộn khói khai và khét như muốn nén xuống những cảm giác tức tưởi đang dâng lên trong cổ họng. Đấy là điếu thuốc đầu tiên của quãng đời bác xa Dậu. Vì từ lúc Dậu lủi thủi đi trong đám người qua sân cỏ lên dẫy nhà tôn cho đến về sau, không bao giờ bác còn được gặp Dậu nữa. Hình ảnh cuối cùng của Dậu trong trí nhớ của bác là hình ảnh lúc nàng bị nắm tay lôi ra khỏi đám người bị bắt giữ. Nàng cố quay lại nhìn bác. Cái nhìn chỉ thoáng trong một giây nhưng ghi dấu mãi mãi trong đầu bác cái ấn tượng của sự vừa hốt hoảng, kinh hoàng vừa não nùng, tuyệt vọng, mà trong suốt cuộc đời của bác sau này, chẳng bao giờ bác quên được. Bác ngồi chết lặng như một con chó nằm trong cũi. Cặp mắt của bác dõi theo bước chân xinh xắn của Dậu đi qua những cái thùng xăng, những bao cát ngổn ngang trên mặt đất. Rồi hình dáng đáng thương của nàng khuất hẳn đằng sau những cái vỏ xe bị đốt cháy dở dang. Tiếng hát ngày xưa của nàng, giọng hát trong và ấm như bay chập chờn trên nếp tường lạnh, trong khuôn cửa gỗ, ở ngoài bầu trời bao la dầy đặc sương mù.
Thấy lâu lâu, bác Tốn không nói, Ích hỏi:
"Ê! Thế mà bác cũng say đấy nhá.”
Bác Tốn cười qua lớp nước mắt long lanh:
"Ừ say thật. Cái thuốc nhà binh có khác. Nặng đáo để. Tao mới rít có mấy hơi mà cũng đã muốn quay cu lơ ra rồi.”
Nói rồi bác thong thả đứngg dậy, mò lại phía vách, khua tay với lấy chiếc khăn mặt trên dây. Vừa lau mặt bác vừa cười gượng với thằng Ích:
"Nhà ông đớp chưa?"
Ích đáp:
"Ăn từ bốn giờ rồi, chốc nữa thế nào cháu cũng phải làm một củ bánh mì ba tê. Lâu lắm không ăn bánh mì ba tê đấy nhé.”
Bác Tốn biểu đồng tình:
"Ừ, phải đấy. Chốc nữa đây cũng phải làm một củ. Chiều nay ngủ quên bố nó mất giờ cơm. Mà cái Hòn cũng không thấy sang gọi.”
Ích nói:
"Gọi gì, nó bị u nó đánh về tội làm cháy nồi cơm nên đã trốn biệt từ chiều rồi.”
Bác Tốn giật mình:
"Chết! Nó đi đâu?"
"Ai mà biết được. Chắc nó lại trốn vào ngõ ngách nào ngủ vùi chứ gì. Hôm nay u nó khện một trận nên thân, cháu ở bên này cũng thấy "tê" cả người.”
"Bộ nó bế cả con bé con đi à?"
"Không. Lúc bị đánh thì nó quẳng cả em chạy lấy thân còn bế ẵm gì. Phen này mà về thì nó chết đòn.”
Bác Tốn nhìn ra ngoài trời giọng lo lắng:
"Trời đất này mà chưa về thì khéo nó biến hẳn mất thôi.”
Rồi bác văng tục một mình:
"Đánh thế là cái chó gì! Đếch chịu được!"
Nói rồi bác lần ra bực cửa, nghiêng mặt trông ra bầu trời đang bắt đầu xẩm tối. Bác nói với Ích:
"Mày chờ tao ở đây, để tao qua bên ấy một chút xem sao.”
Ích không đáp nằm lăn ngay lên nệm cỏ. Hai tay nó vươn lên đỉnh đầu, ngực nó ưỡn ra. Những chiếc xương sườn nhô lên khiến nó nom như một thằng ốm đói. Ích nói vọng ra:
"Giá tối nay được ở nhà mà nằm thế này thì phải biết..."
Lúc bác Tốn sang đến nơi thì hai vợ chồng bác Nhan đang vặc nhau. Bác Nhan trai ngồi trên phản, bác Nhan gái bế cái Hơn đứng ở đầu hè, giọng bác đầy vẻ hằn học, tức tối:
"Tiên nhân cha con bỏ mẹ, đi biệt như thế rồi thì biết bà.”
Bác trai giọng bực dọc nhưng vẫn rụt rè:
"Thì đánh nó thế mà lị... Ai đời con cái..."
Giọng của bác bị cắt ngang ngay bằng tiếng hực lên của bác gái:
"Thôi im đi!"
Bác Tốn cười nhăn cả hai hàm răng:
"Sao, con bé chưa về à?"
Mọi người cùng im lặng, khiến bác thấy nụ cười của mình không hợp chỗ. Bác liền giơ hai tay về phía có tiếng nói của bác Nhan gái:
"Thôi đưa tôi ẵm hộ cho một tí, thử ra đầu phố tìm nó xem.”
Bác gái chồm lên như muốn trút cả nỗi hận lên đầu bác Tốn:
"Tìm cái ba vạn! Nó đi, đói rã họng ra thì phải bò về. Bộ tôi phải đi rước nó chắc.”
Lần này bác Tốn lại thấy phải bật cười một lần nữa:
"Ơ! Ấm ớ chửa! Con đẻ đứt ruột ra mà lại không lo. Để nó đi thế, nhỡ có xẩy ra chuyện gì thì làm sao. Bây giờ quá bữa cơm nó không về tức là nó không dám về.”
Bác Nhan trai được thể cũng hoạ vào:
"Thì đấy, tôi đã bảo mà cứ..."
Nỗi lo của bác Tốn mới mang đến càng làm cái nóng nảy của bác Nhan gái tăng thêm. Bác chặn ngang câu nói của chồng:
"Này thôi đi, đừng có lắm chuyện. Cứ là cứ cái nỗi gì?"
Bác Nhan trai ngừng ngay lại. Bác hậm hực nhìn cái vẻ đanh đá vừa xuất hiện trên mặt vợ. Rồi vừa cúi xuống để tránh cái nhìn gây hấn của mụ, bác vừa nói:
"Sốt tiết lắm nữa!"
Nói rồi bác nằm vật ngay xuống giường, vắt tay lên trán. Những lúc như thế bác ghét vợ đến tưởng như muốn cầm dao chém cho nó một nhát. Trong khi ấy bác Nhan gái ẵm cái Hơn sồng sộc đi ra ngõ. Dáng đi của bác đầy sự giận dữ, bác dằn con bé trên cánh tay, vừa đi bác vừa chửi thề trong miệng.
Đêm hôm ấy cái Hòn không về. Cả đêm hai vợ chồng bác chong đèn chờ nó cho đến tận khi gà gáy sáng. Bây giờ thì bác gái mới lo lồng lên. Bác chạy sang tìm anh em thằng Ích từ lúc tờ mờ đất. Bác nhờ chúng nó bổ đi tìm hộ. Tiếng khóc của bác làm hàng xóm xôn xao. Một người mách rằng hồi chiều thấy nó đi qua vườn hoa mãi tận trên phố. Không ai ngờ con nhãi ranh bằng ấy tuổi đầu mà đã ghê gớm như thế.
Nhất là thằng Ích. Nó phục lăn con bé. Đã nhiều lần Ích tính bỏ nhà ra đi mà không bao giờ nó thực hiện được cả. Đời sống ở trên phố đông đúc và sang trọng khiến nó sợ hãi. Nó biết đi vào đấy là sẽ bơ vơ lạc lõng, không ai quen mình, rồi chẳng bao lâu sẽ lại phải bò về nhận những ngọn roi như đòn thù của dượng Tám. Thế mà cái Hòn dám sống qua một đêm bỏ nhà! Nhãi con tầm ngầm thế mà "chúa" thật!
Thật ra cái Hòn không bao giờ có ý định bỏ nhà mà đi cả. Buổi trưa hôm trước, sau lúc nó làm khê nồi cơm, u nó đã phang nó ba bốn thanh củi. Vốn tính nhút nhát và ít chịu được đòn, nó vùng lên chạy. Đít và lưng nó bỏng dẫy và rát tê đi. Nó chạy tuốt ra đầu ngõ và lẩn nhanh vào những túp lều chợ. Nó ngồi khóc một mình dưới quán lá mãi đến khi có phường xiếc ở đâu trở về khua chiêng, gõ trống, vừa bán thuốc vừa làm trò ảo thuật. Hòn vụt quên ngay cái hoàn cảnh bi đát của nó. Nó mon men lại gần và cố len bằng được qua đám đông đang xúm lại quanh mấy con khỉ, cái xe và đồ lề lủng củng của phường xiếc. Từ lâu, ít khi Hòn thấy mình được tự do như thế. Tay chân nó nhẹ nhõm vì không phải đeo con bé ở bên mình. Nó không phải làm việc, không phải lo lắng cơm nước ở nhà. Cái sự u nó đánh nó đã được đền bù bằng những giây phút sung sướng như thế này đây. Hòn lau vội nước mắt bằng vạt áo rồi ngồi gọn vào một chỗ ở tít mãi phía trong. Những người làm xiếc thật là giỏi. Họ có đủ trò vui và lạ. Họ có thể biến lọ thuốc nước đang màu xanh thành màu đỏ, biến cái mùi soa ở trong tay thành quả trứng, biến quả trứng thành con chim, hay họ có thể cầm cả một cái đinh mười phân đâm lọt thỏm vào tuốt trong lỗ mũi. Cái Hòn mải mê xem đến nỗi không nghĩ tới chuyện trở về.
Đến lúc rã đám, nhìn ra ngoài trời, nắng đã xế ngang đầu. Lúc đó cái Hòn mới thực sự lo sợ. Nó nghĩ đến lúc phải thổi bữa cơm chiều, đến việc phải trông cái Hơn cho u nó đi quẩy nước, phải giặt chậu quần áo mà hôm qua lười biếng nó đã để ùn lại. Rồi còn biết bao nhiêu công việc vặt khác nữa mà nó sẽ phải làm. Trận đòn buổi trưa làm lưng nó đau và buốt thon thót. Hòn vạch áo lên ngắm mãi những vết tím bầm in trên màu da đen đủi của nó. Nó nghĩ bây giờ mà bị phang vào những chỗ ấy lần nữa thì chỉ có chết quách cho rảnh. Nghĩ vậy nên Hòn không dám trở về. Nó bỏ đi ngược lên mạn trên phố. Lần đầu tiên trong đời Hòn, nó đã được đi dạo trên những hè phố đông nghịt người qua lại. Đối với nó, cái gì cũng lạ cả. Hòn đi theo một đám ma đầy trướng, đối và vòng hoa. Chán rồi nó dừng chân ở cửa một rạp hát. Sau cùng nó lạc đến khu vườn hoa. Hòn tìm một chỗ kín đáo, rồi nằm lăn trên nệm cỏ. Cái đói và mệt làm người nó lả đi. Nó nghĩ đến mọi người trong nhà và bắt đầu thấy hối hận về sự liều lĩnh của mình. Giá buổi trưa nó chạy sang nhà bác Tốn nhờ bác ấy xin cho thì bây giờ mọi việc đã xong xuôi cả. Nó sẽ được tự do như mọi ngày, đâu đến nỗi phạm cái tội nặng nề là bỏ nhà đi biền biệt. Tủi thân, Hòn lại bưng mặt khóc.
Ánh nắng cứ nhạt dần trên những lùm cây và hoàng hôn xuống rất nhanh trong sự im vắng của khu công viên. Hòn chợt ngủ thiếp đi lúc nào và đến khi tỉnh dậy thì trời đã tối hẳn.Trước mặt nó là ánh sáng yếu ớt của mấy ngọn đèn toả xuống từ trên cao. Lùm cây xanh ngắt ban chiều bây giờ trở thành đen đặc. Hòn nom thấy từng đôi trai gái ôm nhau rủ rỉ trong những góc tối. Nó hớt hải đứng dậy và bỏ đi về phía có ánh đèn sáng. Người Hòn lả đi. Mắt nó hoa lên vì đói và khát. Nó bật lên tiếng khóc. Một lát sau, nó lạc đến một ngã tư. Phía bên kia là ánh sáng rực rỡ của những cửa tiệm buôn lớn. Hòn ước ao được uống nước và ăn cơm. Nó mon men lại gần một cửa hàng bán hoa quả. Người ta không trông thấy nó đứng ở chân chiếc quầy cao. Ý tưởng ăn cắp một quả cam hay một quả táo đến với nó một cách dễ dàng. Nhưng tim nó đập thật mạnh. Nó có cảm giác như mọi người đã biết rõ ý định của nó rồi. Cũng vì thế, tay nó run bắn lên khiến nó không tài nào thò tay vào nhón được lấy một quả táo nằm ngon lành trước mặt. Rồi người bán hàng chợt trong thấy nó. Người bà ta nẩy lên như một cái lò xo. Bà ta quơ vội đôi guốc ở dưới gậm ghế và tiến lại phát vào mông nó một cái tưởng đến cháy thịt:
"Tiên nhân nhà mày... Sán vào đây làm gì. Cút ngay!"
Mặt cái Hòn tái xanh tái tử. Nó có cảm giác như người ta đã bắt được quả tang nó đang ăn cắp táo. Nó vội vàng co chân chạy tuốt xuống cuối phố. Ở đây Hòn gặp một cái máy nước. Nó sung sướng vục cả đầu mình vào dòng nước chảy xối xả. No nê rồi, Hòn ngồi xuống chân một cột đèn và bâng khuâng nhìn lên bầu trời lưa thưa ánh sao. Nó không biết mình đã đi bao nhiêu đường phố rồi và xóm Cỏ nằm ở phương nào trên nền trời. Nó rưng rưng nước mắt khi nghĩ đến thầy, u và em nó, không biết rằng có còn bao giờ nó gặp lại nữa không. Rồi sự lo sợ và nhớ tiếc ấy dâng lên khiến nó bật lên tiếng khóc. Chợt có bàn tay vỗ vào vai nó khiến con bé giật nẩy người quay lại. Một người đàn bà đang cười với nó. Nụ cười cố làm ra vẻ tươi tắn mà không giấu nổi cái vẻ độc ác và hung dữ thoát ra từ đôi mắt quắc lên long lanh sáng. Mụ ta trạc chừng ngoài ba mươi, nước da tái xám, khuôn mặt choắt choeo, đôi gò má cao, nhô lên, trát bự phấn. Không để cho cái Hòn kịp ngạc nhiên, mụ ta nói:
"Mày cầu bơ cầu bất hả. Đói không? Muốn có tiền không?"
Nói rồi mụ ta mở cái ví lấy cho Hòn xem một tờ giấy trăm còn mới tinh. Hòn ngơ ngác nhìn mụ như một nhân vật lạ lùng hiếm có. Nó bối rối không biết sẽ có sự gì xảy đến. Mụ tiếp:
"Muốn không? Một trăm đây này. Còn mới nguyên. Mày muốn lấy thì tao cho, nhưng phải nghe lời tao.”
Hòn giơ tay ra định đón lấy thì mụ đã rụt lại:
"Bây giờ mày hãy đi theo tao. Tao để một trăm ở trong ví này. Lúc nào tao ra hiệu thì mày giật đại lấy cái ví mà chạy tuốt vào ngõ hẻm. Mày trốn được thì đó là của mày. Muốn tiêu gì thì tiêu.”
Hòn ngạc nhiên không hiểu mụ ta có ý định gì mà lại bày ra cái trò chơi kỳ quặc ấy. Nó chưa hề cướp giật bao giờ, nhưng làm như thế thì kể cũng dễ, nhất là lại giật cái sắc của một người đã hứa cho mình rồi. Ngần ngại một lúc, Hòn nói:
"Tôi giật để rồi bà gọi lính bắt tôi ấy à?"
Mụ đàn bà cười khanh khách, cúi xuống vuốt tóc nó:
"Tao gọi lính bắt mày làm cái gì. Đã bảo là tao cho mày rồi kia mà.”
"Cho tôi thì cho sao còn bắt tôi giật..."
"Lý sự như mày thì thôi... bộ tưởng một trăm của tao nhỏ lắm đấy hả..."
Hòn hăm hở:
"Được rồi, tôi nhận. Nhưng bà đừng có kêu người ta bắt tôi đấy nhé.”
"Tao thề với mày là tao không nói gì cả.”
Mụ đàn bà vui vẻ dẫn Hòn trở lại đám đông. Vừa đi mụ vừa nói:
"Tao chỉ cầm hờ thế này thôi. Rồi lúc nào tao bấm vào lưng thì giật lấy mà chạy nhé. Mày chạy nhanh chứ? Tao mong là mày trốn được trong ngõ tối.”
Hai người len lỏi trong một khu vực đông đúc. Nhiều lúc Hòn muốn bỏ mà đi nhưng tay nó đã bị mụ nắm chặt, mấy cái nhẫn của mụ miết vào da nó khiến nó vừa đau vừa sợ. Nó khẽ ngước lên, liếc nhìn mụ. Mụ ta nhe răng ra cười. Nụ cười mới độc ác làm sao. Bỗng mụ ta chăm chú nhìn một người đàn bà sang trọng đi đàng trước. Tay bà ta cũng cầm một cái ví. Đường phố đông nên bà ta đi rất chậm, mắt bà ta luôn luôn chăm chú nhìn vào những món đồ bầy trong tủ kính. Mụ đàn bà ghé vào sát tai Hòn, giọng rít lại:
"Mày nhớ chưa?"
Hòn bối rối gật đầu. Tức thì mụ buông tay Hòn ra và sán lại gần người đàn bà. Hòn bỡ ngỡ theo. Bất chợt mụ giật rất mạnh cái sắc của bà ta, thu vội vào vạt áo rồi dùng khuỷu tay huých mạnh vào xương sống cái Hòn làm nó đau điếng. Như một cái máy, Hòn giằng cái sắc ở trên tay mụ rồi vùng lên chạy. Sự việc xẩy ra trong chớp mắt và người ta nghe thấy tiếng người đàn bà la thất thanh:
"Cướp giật... các ông bà ơi... Nó lấy cái sắc của tôi.”
Mọi người quay cả lại và họ trông thấy cái Hòn đang ôm cái sắc chạy sang bên kia lề đường. Thế là tất cả đổ dồn về phía nó. Tiếng la, tiếng hét, tiếng chửi rủa chợt om sòm cả một góc phố. Người ta bắt đầu đuổi theo Hòn như săn một con thú bị đạn. Nó chạy một cách lao đao. Đầu óc nó đang nghĩ về những người thân yêu ở trong xóm Cỏ. Bác Tốn ngồi ôm đàn hát vu vơ ngoài ngưỡng cửa, lão Hói say rượu ngất ngưởng đi đàng trước, lũ trẻ con bu lại quanh lão, rồi thầy u nó, cái Hơn và anh em thằng Ích... Những hình ảnh ấy làm nó chóng mặt và nó ngã sấp xuống vỉa hè, mũi nó đập lên những hòn đá nhọn, cái sắc văng ra xa. Sự sợ hãi làm người nó tê cứng lại. Nó thấy nhiều người xúm đến quanh nó, xốc nó lên, chửi và đánh nó như đánh một con chó dại.
Những ngày hôm sau nữa cũng không thấy cái Hòn trở về xóm Cỏ.
Người ta đã đưa nó vào trại giáo huấn trẻ em.
Chương mười hai
Bác Tốn ngồi ôm cái Hơn ở đầu hè. Con bé trần truồng, hết nhoài sang bên này, lại nhoài sang bên kia, khiến bác phải luôn tay nắm lấy nó. Mâm cơm ăn xong rồi chưa được dọn, chỏng chơ mấy cái bát rếch. Từng đàn ruồi táp lại bu đen trên những miệng bát, kêu vo vo và bay loạn xạ. Bác Nhan trai nằm lả đi ở trên chiếu. Lớp da tái xanh của bác dính sát vào những đốt xương dài và nhỏ. Hai ống chân khẳng khiu như hai ống sậy ghếch mệt mỏi lên cái chăn dạ màu xám. Mặt bác vêu ra, hai gò má nhô lên hai cục xương nhỏ khiến đôi mắt của bác trũng sâu xuống, hai hàng mi thưa thớt thỉnh thoảng hé ra lim dim nhìn lơ đãng vào mấy chiếc rui gỗ trên xà nhà.

Căn nhà yên lặng một bầu không khí tang tóc. Nắng nhễ nhại buổi trưa hầm hập hắt qua cánh liếp, chiếu loang lổ lên mặt thềm những vệt sáng chói mắt. Ngoài sân, bác Nhan gái thỉnh thoảng lại huỳnh huỵch trở về, trên vai quẩy đôi thùng đầy nước. Tiếng nước đổ ùm ùm vào trong vại khiến bác Tốn hiếng mắt nhìn ra. Bác ấy cười với con bé:
"Hề hề... Ai đấy? Con chó này có biết ai đấy không? Ui chao, sao mà ngoan vậy nè, thấy bu mà không đòi.”
Nhưng cái Hơn tự nhiên tu lên khóc. Bác Tốn vội ôm lấy nó. Bàn tay xương xẩu của bác lần từ lưng nó xuống đến đít. Chợt bác kêu lên:
"Ý trời đất ơi! Con chó đùn bố nó ra đây mất rồi!"
Con bé càng gào to. Đàn ruồi bây giờ túa lại, bay vo vo bên tai bác, mùi phân thối bốc lên, xen với mùi tanh tưởi của mâm cơm khiến mũi bác Tốn chun lại. Bác vội vàng gọi lớn:
"Bu cái Hòn hãy gượm một tí, hộ tôi cái này đã.”
Bác Nhan gái đặt đôi thùng xuống đất, bước lên thềm, tức tối:
"Con bỏ mẹ, ỉa với đái thế này đây.”
Nói rồi bác giằng lấy con bé, phát đôm đốp vào cái lưng bé bỏng của nó. Con bé khóc lặng đi không thành tiếng, mặt nó xám lại như đổ chì. Bác Tốn cười gượng gạo:
"Thôi nào! Nó còn bé biết gì! Ngày xưa thì bà cũng thế.”
Lần theo cái gậy đi về phía lu nước, vừa rửa tay bác vừa nói:
"Nhà ông ấy thấy bớt hơn hôm qua. Bớt sốt rồi.”
Bác Nhan gái nhìn lên nhà thở dài:
"Thật chồng với con, toàn là cái nợ..."
Bác Tốn đáp:
"Thôi rán đi! Trời có mắt!"
Bác Nhan gái phát bẳn lên:
"Mắt gì? Có mà mắt toét! Mấy mươi năm nay rồi, chả được nhàn lấy một phút. Bác tính chồng thế, con thế thì còn là khổ cả đời.”
Nói rồi bác trao cái Hơn vào tay bác Tốn. Hơn giẫy ra không chịu. Nó lại nhè mồm ra khóc. U nó liền phát thêm cho ba bốn cái nữa vào mông rồi vùng vằng xách đôi thùng đi ra cổng. Bác Tốn vội ôm lấy con bé chỉ lên cao:
"Ô kìa! Con chim kìa... Đấy! Nó đấy! Con chích chòe đàng hoàng nhớ! Hay không?"
Con bé nín thinh, tò mò nhìn theo tay bác. Ánh nắng chiếu loá vào đôi mắt khiến nó nhắm lại. Đầu nó dựa mãi vào cổ bác Tốn. Bác ôm lấy nó, lần lên thềm, vừa đi vừa nói:
"Cái Hơn này ngoan quá! Ngủ đi nhé! Cha bố con chó buồn ngủ rồi đây mà.”
Hai bác cháu ngồi lên bực cửa, bác Tốn cất giọng ru:
"Ò e... tóc quăn như sợi thuốc lào
Chỉ em cái cách thế nào hết quăn.
Ò e...
Ới cô em ơi......
Tóc quăn chải lược đồi mồi
Chải đứng chải ngồi quăn vẫn hoàn quăn....
Ò...e..."
Mắt cái Hơn díu lại. Dãi nó chảy nhớt ra cả cánh tay bác Tốn. Bác ôm chặt lấy nó vào lòng và ghé môi hôn lên má nó. Một lát nó ngủ say hẳn, bác bế nó đặt lên mặt phản giữa nhà. Tay bác quơ lấy cái quạt nan, phẩy luôn mấy cái. Lúc ấy, có tiếng bác Nhan trai cựa mình và hỏi:
"Ai đấy?"
Bác Tốn cười nhe răng, cặp mắt hiếng lên mái nhà:
"Tốn đây!"
"Đã ai thấy cái Hòn chưa?"
"Thấy tê đi chứ lị!"
Giọng bác Nhan trai có vẻ hốt hoảng:
"Đâu? Nó đâu rồi?"
"À... à... chắc là còn nằm ở trong bóp. Con ranh đi ngủ ở ghế đá vườn hoa. Ghế để ngồi chứ đâu để nằm.”
"Ghế đá nhà nước mà!"
"Tê đi rồi! Nhưng nhà nước thì mới sợ chứ, ghế nhà dân thì ai giữ làm đếch gì! Nhà ông đói chưa. Làm tí cháo nhé?"
"Tôi không đói!"
"Thế ăn gì?"
"Chả ăn gì.”
"Thấy thế nào?"
"Chỉ mệt thôi.”
"Mệt thì làm một tí cái gì đi. Này, cháo thịt rim phải biết. Ngon không chê được.”
Bác Nhan thở một hơi dài:
"Thôi.”
"Ấm ớ không! Ăn một tí đi cho vợ con nó nhờ. Rồi chỉ nay mai cái Hòn được về thôi. Đây hỏi kỹ rồi.”
"Thật không?"
"Đứt đuôi đi chứ lại không thật. Đây nói dối làm đếch gì.”
Mặt bác Nhan rạng lên một tí. Cặp môi khô khan của bác thoáng một nụ cười. Nằm một lúc, bác ta nói:
"Thế mà tới nằm mê thấy nó mình mẩy thâm tím cứ về khóc ở đầu giường. Ghê quá!"
"Phỉ phui cái mồm nhà ông đi. Chỉ được cái nói nhảm là không ai bằng. Nó làm chó gì mà đến nỗi thâm tím. Ngủ ghế đá vườn hoa thì chỉ có hoạ là phải ăn cơm hẩm với cá khô thôi. Mà tầm ngầm thế chứ ngon phải biết, bùi không chê được.”
Lúc ấy bác Nhan gái đã trở về, treo đôi thùng loảng xoảng lên cái móc. Bác Tốn hỏi vọng ra:
"Rồi chưa, nhà bà?"
Có tiếng đáp vào:
"Xong rồi đây. Cám ơn bác nhá! Không có bác thì chả biết xoay xở thế nào?"
"Ơn iếc gì, nhà bà chỉ ấm ớ. Thế lúc tôi ốm, chả ông bà trông nom cho thì ai. Bây giờ bà dụ cho ông ấy ăn tí cháo đi. Hơi tỉnh tỉnh rồi đấy. Rồi mai liệu đi đón cái Hòn về.”
Giọng bác gái ngạc nhiên:
"Cái gì?"
Bác Tốn cười, mặt ngó nghiêng ra hai bên:
"Cái Hòn ấy. Thì ông quận chả nói với bà mai mốt thả con bé ra là gì.”
Bác Nhan gái thò đầu vào trong nhà nhìn bác Tốn thật lâu, rồi như hiểu ý bác ta muốn làm yên lòng chồng lúc đau ốm, bác thở dài im lặng. Thấy bạn không trả lời, bác Tốn đứng dậy, vươn vai, vặn người cho xương cốt giãn ra răng rắc:
"Đau lưng không chê được. Mà bảo dăm bẩy vợ gì cho nó cam. Thôi tôi về đây, các bác.”
Lúc tiễn bác ra cửa, bác Nhan gái thì thào:
"Cái Hòn cướp giật trên phố, bị bắt rồi bác ạ. Tiên nhân nhà nó chứ không biết vô phúc làm sao lại nẩy nòi ra cái quân đầu trộm đuôi cướp đến thế được.”
Bác Tốn giật mình hỏi:
"Thật à? Làm sao bà biết?"
"Có người mách với tôi. Lên quận hỏi thì người ta bảo đã tống vào trại trẻ con rồi.”
Mặt bác Tốn xịu xuống. Bác thấy thương hại con bé lạ lùng. Lâu lắm bác mới cất lời được:
"Thôi bà giấu ông ấy đi nhé. Có hỏi thì bảo nó chưa được về. Bây giờ mà ông ấy biết, ông ấy uất lên thì chỉ có chết.”
Tự nhiên bác gái tu lên khóc. Bác Tốn bối rối nghe tiếng nức nở của người đàn bà. Rồi không biết khuyên giải thế nào bác chỉ nói:
"Tôi lạy bà, bà làm cho ông ấy biết thì khổ. Thôi rán đi, trời có mắt mà bà ơi!"
Bác Nhan gái nói qua giọng đầy nước mắt:
"Khổ cái thân tôi, nếu tôi chết đi thì thân tôi được rảnh..."
"Thôi! Thôi! Ích gì! Cái Hòn còn đấy, đã thiếu ai đâu. Nay mai rồi lại đông đủ. Vào đấy người ta dậy dỗ cho nó càng tốt.”
Nói rồi bác lần theo cái gậy đi ra ngõ. Gió hiu hiu thổi qua những lùm cây. Bác Tốn nghĩ đến cái Hòn và lại thấy mình muốn uống rượu thật say một lần nữa. Ý nghĩ được ngất ngưởng bên ly rượu, để lúc trở về không còn nhớ một điều gì chung quanh mình, khiến bác thoáng thấy một niềm vui. Bác chợt mỉm cười một mình và đi chầm chậm ra đầu ngõ. Bác lần đến chỗ có tiếng cười nói ồn ào quen thuộc phát ra từ cái quán nhỏ. Mùi mỡ cháy, mùi thịt kho, mùi cá rán đưa lên thơm phức cả một vùng. Đã lâu lắm bác Tốn chưa hề nghĩ đến những món ăn ngon như thế. Lần này bác quả quyết bước vào. Có tiếng người gọi:
"Ê! Tốn đấy hả?"
Bác Tốn nhe hàm răng ngựa ra cười huếch hoác:
"Tốn đây! Cho cút rượu nhá, bà Tư.”
"Bộ thất tình hay sao mà lại vô đây uống rượu nữa hả?"
"Nói như bố chó xồm ấy. Đây thì ai thèm mê mà thất với bát. Thích thì uống chơi!"
"Này thôi đi. Cậu cứ giấu mãi. Hát "Cô Huệ ơi..." đi.”
Bác Tốn mỉm cười:
"Bậy nào! Người ta đứng đắn bỏ bố đi.”
"Thôi đi cha nội ơi. Cậu làm gì tớ cũng biết hết ráo. Đây là lính kín một cây mà.”
Bác Tốn nhận ra tiếng gã thông cầu tiêu mà mọi người vẫn gọi là "xếp Bốt.” Xếp Bốt mình trần trùng trục chỉ bận có mỗi cái quần xà lỏn trễ xuống tận dưới rốn. Người hắn nhô ra những khớp xương, lớp da đen sạm ép sát xuống, nhăn nhúm khiến cho bộ ngực của hắn đã lép lại càng thêm lép. Mồm hắn rộng huếch hoác, mỗi lần hắn cười, hai hàm răng nham nhở nhe ra nom vô duyên và tởm lạ. Lúc ấy xếp Bốt đang ngồi ôm đĩa tôm khô và chai rượu trắng. Mặt hắn đỏ gay, trên trán nổi gân xanh nhằng nhịt. Giọng hắn bô bô:
"Này, Tốn ơi..."
Bác Tốn hướng mặt về phía ấy:
"Tốn đây.”
"Trắng đáo để!"
Mặt bác Tốn hơi đỏ lên, nụ cười gượng gạo trên vành môi:
"Gì trắng cơ chứ?"
"Cậu còn vờ. Lại không "tê" từ lâu ấy chứ.”
"Bậy nào. Đây đứng đắn. Có biết đếch gì đâu.”
"Thằng Ích nói mà.”
"Nói sao?"
"Tối nào cậu cũng mò vào đấy.”
Bác Tốn nhổm dậy:
"Thôi lậy bố trẻ đi. Nói chó nó cũng không nghe được. Đây chỉ khoái rượu thôi. Có rượu chưa bà Tư?"
Bà hàng đặt vào cạnh bác một ly rượu trắng và hỏi:
"Rượu đây. Bác nhậu gì nào?"
"Bà cho thịt giò đi.”
"Ba đồng nhé.”
"Ba chả bõ dính răng. Năm đi.”
Bác phó Sửu nhìn sang:
"Dạo này cậu Tốn bốc tệ. Chắc hận với chú lõ nhà ta.”
Mặt bác Tốn sạm lại:
"Lõ nào?"
Phó Sửu nhận ra cái giọng xẵng của bác nên vội vàng xuê xoa:
"Giỡn chơi vậy thôi. Anh em mà.”
Coi chừng thấy không khí giữa mọi người đã bắt đầu căng thẳng, bà Tư vội vàng vui vẻ:
"Bác Tốn nhậu rồi ca một bài đi. Nhiều hôm nằm ở nhà nghe tiếng bác, thấy cung khoái cái lỗ tai.”
Xếp Bốt cũng vỗ tay:
"Phải đó. Nhậu rồi hát cho anh em nghe chơi, bác.”
Mặt bác Tốn dịu xuống, bác sờ lấy chén rượu tợp một ngụm nhỏ rồi nói:
"Hát bậy, nghe không?"
Mọi người đồng thanh:
"Nghe!"
Bác Tốn sửa giọng, mặt ngửa lên, bác nhìn thấy khuôn cửa sáng lên qua màng con mắt. Ngừng một lát, bác cất tiếng:
"Ai... ai mang tôi đến cái chốn này
Ới a... ới a... ban đêm thì nó tối... nó tối... chứ ban ngày... ban ngày thì nó đen... ỳ y...
ôm... ôm... ới a... ôm..."
Mọi người rúc lên cười. Bác Tốn cứ thản nhiên hát:
"Ôm... ôm... ới a... ôm cây đàn... mà ôm cây đàn
Ôm đàn gẩy khúc huyên thuyên...
Nghêu ngao thời nghêu ngao mấy điệu... mấy điệu
Cho quên... quên... tháng ngày...
Tình tính tang... tang tính tình...
Cô nàng rằng... cô nàng ơi...
Rằng có khoái...khoái hay không?"
Cả bọn vỗ tay:
"Khoái! Khoái chớ!"
Bác Tốn thích chí, tợp một ngụm rượu nữa, hơi men đưa lên làm bác nóng cả mặt. Ngừng một lát, bác lại tiếp:
"Ai xui mà xui cho lá rụng... ới a... lá rụng sân đình...
Xui cá gặp nước... mà chớ... xui mình... xui cô mình gặp ta...
Ý y... tuy không cách trở sơn hà
Gần nhau mà gang tấc... ới a... gần nhau gang tấc
Vẫn là... vẫn là... cách nhau...
Như thế mà đau... mình ơi... như thế mà đau
Hận này đem rửa... đem rửa sông Ngâu mới vừa
Năm năm thấp thỏm đợi chờ
Năm năm tôi thấp thỏm đợi chờ
Tôi hình dung ra cô em đẹp...
Tôi tôn thờ ra bóng cô em xinh
Ới a... phấn son cô phết linh đình
Phấn son cô phết linh đình
Nước hoa cô rắc ý... y...
Nước hoa cô rắc... cho mình... cho mình cô thơm...
Cho mình cô thơm!!!"
Tiếng cười và tiếng vỗ tay khoái chí lại trở nên ồn ào sôi nổi. Mọi người cùng đổ dồn nhìn về phía bác Tốn. Hai mắt bác nhắm lim dim, mặt bác hơi ngửa lên trời, cái cổ đưa ra về phía trước, nụ cười ngạo nghễ nhếch ra ở trên vành môi. Bà chủ quán nói:
"Say rồi thì hát bậy đấy!"
Bác Tốn đáp:
"Chưa đâu bà Tư! Hát nghe chơi mà. Ấm ớ dăm ba câu cho đỡ buồn. Đây đang rầu thối ruột lên đây.
"Chà! Chuyện gì mà dữ quá vậy. Nói nghe được không?"
Bác Tốn không đáp, đứng dậy lảo đảo tiến về phía ngưỡng cửa. Mắt bác cố nhướng thật to nhìn ra ngoài nắng nhưng bác chỉ nom thấy một mảng sáng chói loà. Bác khua cái gậy lên mặt đường quay trở lại lối cũ. Chợt có tiếng bánh xe lăn khấp khểnh từ ngoài ngõ đi vào. Bác vội vàng nép sát vào lề đường, giơ vạt áo lên chấm mắt. Rồi như sợ mọi người nom thấy sự rầu rĩ của mình, bác vội vàng mỉm cười, nói bâng quơ:
"Mình ấm ớ thật!"
Rồi bác nghiêng đầu lắng nghe tiếng xe lại gần, sắp đi ngang qua mặt.
Có tiếng gọi từ trong quán vọng ra:
"Mệt không cô Huệ ơi..."
Giọng Huệ quen thuộc như thuở nào:
"Chết tiệt lắm nữa! Người ta hôm nay đi lễ chùa! Ăn nói bậy bạ thánh vật cho đó!"
Bác Tốn quay mặt ra lối đi, cười nhe cả hai hàm răng ngựa:
"Mô Phật hôm nay cô đi lễ chùa nào đấy cô?
Huệ đáp vui vẻ:
"Lạy thánh mớ bái, cũng tính đi từ sáng, nhưng rồi thánh chẳng chứng cho nên lại mắc khách.”
"Ấm ớ không! Vậy mà lại còn kêu không mệt.”
Giọng Huệ ngoắt đi, chua ngoa và hét lanh lảnh:
"Khỉ gió đùng lăn chửa. Can đếch gì đến nhà bác.”
Cái xe vụt qua. Bác Tốn định nói với theo, nhưng chợt ngửi thấy mùi phấn thơm thoang thoảng nên ngừng lại. Mặt bác ngửa lên cao, bàn tay che lấy ngang tầm mắt. Bác nghĩ đến mùi phấn của Huệ vào những nửa đêm về sáng. Hình ảnh Huệ mặc áo đỏ, đánh môi hồng lộng lẫy sáng lên trong trí tưởng tượng của bác. Bác Tốn vụt thấy lòng mình xót xa và buồn bã. Những lúc như thế, hơi men ngà ngà đối với bác thật là tuyệt diệu. Bác thấy rõ ràng cuộc sống tối tăm và đen bạc, thấy sự vất vả của mọi người chung quanh, những túp lá nóng như thiêu đốt, những con người bệnh tật thiếu cơm, thiếu thuốc. Nhưng cũng vì thế bác nguôi được cơn sầu của riêng mình mà thấy yêu mến tất cả những gì hiện đang ràng buộc với bác. Gia đình thằng Ích, gia đình bác Nhan, tiếng nói và mùi thơm của Huệ, tiếng cười đùa hay chửi rủa của những người trong xóm Cỏ và cây đàn thân yêu của bác. Bác đi về nhà chập choạng với ý nghĩ sẽ được ngủ trong một giấc mơ dài. Giấc mơ thấy mình sáng mắt nhìn rõ cuộc đời không chênh lệch và đầy đủ sự thương yêu như tình thương đang nẩy nở trong lòng bác...
Chương mười ba
Những đầu kỳ lương, bao giờ Jean cũng tìm đến Huệ. Hắn khuân về cho nàng đủ thứ đồ ăn, thức uống cầu kỳ, hoặc cam, táo, sữa, bơ hoặc phó mát. Huệ quen lệ thường, dọn dẹp cửa nhà đón hắn như đón một người chồng thực thụ. Hai người đu lấy nhau và hôn rất lâu ở ngay giữa nhà. Jean hay nhè vào mồm Huệ một cái kẹo tây ngậm dở, mùi bạc hà thơm sực nức. Huệ mút một lần rồi thổi bay ra ngoài cửa sổ. Trẻ con đứng rình qua khe cửa tò mò xem từ bao giờ, xô nhau lại cướp. Tiếng chen lấn xô đẩy nhau loạn xạ ở ngay trước nhà Huệ. Sự ầm ĩ ấy khiến Huệ hay nổi giận. Nàng doạ giẫm đủ cách mà không bao giờ chúng chịu rời đi cả. Về sau nàng phải hối lộ bọn ranh bằng thuốc lá. Những điếu thuốc lá vừa hôi vừa khét được chúng nó rất chuộng. Chuộng hơn cả kẹo tây nữa. Mấy đứa xúm lại tranh nhau cầm rồi kéo nhau đi tìm lửa. Vị thuốc chẳng ngon lành gì mà chúng cũng hăm hở chui rúc vào một vách lá râm mát, đứa nọ chuyền đứa kia thi nhau thở khói đằng mũi, và ho sặc sụa.
Mỗi khi được yên thân, Huệ hay nằm gọn ở trong lòng Jean, dùng con dao bổ cam hay cắt táo. Thỉnh thoảng nàng lại rít lên:
"Nhột! Khỉ gió đùng lăn lắm nữa, đứt bố nó tay người ta ra bây giờ.”
Nói rồi Huệ buông dao phát đôm đốp lên cái lưng đầy lông tơ của hắn. Jean đã không tha lại còn cù thêm cho Huệ mấy cái nữa. Huệ rú lên cười, câu chửi của nàng vỡ ra không thành tiếng. Tóc Huệ xổ tung, tay chân Huệ bị ghì cứng lại, nàng vừa thở vừa la:
"Tiên nhân nhà mày... sao mà háu thế!"
Một lát, Jean bẽn lẽn ngồi thu ở một góc. Huệ bỏ hắn đi vào phía trong. Căn nhà im lặng đến độ nghe thấy cả tiếng cọt kẹt ở chỗ Jean ngồi. Lát sau hắn sửa áo quần tề chỉnh rồi ra ngồi ở phía bàn giữa. Huệ châm thuốc lá cho hắn. Hắn nhìn Huệ với cặp mắt biết ơn sâu xa. Huệ mỉm cười sửa soạn bánh và đồ hộp. Hai người ăn uống rất hạnh phúc. Huệ nói chuyện văng tê, chửi tục luôn mồm. Gã nghe không hiểu, nhưng gã thấy Huệ có duyên vô cùng. Chai rượu, hắn nốc hết ly này đến ly khác cho đến khi say mềm thì nằm vật xuống phản ngáy pho pho. Huệ móc ví lấy tiền của hắn đem đi trang trải mấy món nợ nần. Đến chiều, nàng đánh phấn, bôi môi cặp tay với hắn đi lên phố. Jean không tiếc Huệ thức gì. Hắn mua tặng Huệ đồng hồ, nhẫn, vòng, áo dài hay phấn sáp. Sự dễ dãi của hắn càng khiến Huệ thấy mình tha hồ tự do thao túng. Một người bạn đã nói với Huệ:
"Tội gì, chúng nó chán mình ngay. Cho nên lúc nó còn thương thì "cấu" được cái gì là lời cái ấy.”
Huệ đã cấu của Jean rất nhiều, và đổi lại nàng đã dành cho hắn những phút được chiều chuộng, nâng niu. Gã thấy mình chứa chan hạnh phúc.
Hai người thường đi chơi suốt một ngày Chủ nhật. Hoặc ăn kem ở hiệu có máy lạnh, hoặc xem chớp bóng ngồi ở trên tầng lầu, hay đi dạo trên những đường phố lớn hai bên có nhà cao ngất ngưởng, có tủ kính đèn thắp sáng choang. Có hôm Jean dẫn Huệ ra bờ sông, hai người ôm nhau ngồi trong bóng tối. Huệ quên thân phận của mình là một cô gái làm điếm. Nàng ngoan ngoãn ngả đầu vào ngực Jean, ngắm không chán khuôn mặt mơ màng của gã đăm đăm nhìn ra ngoài sóng nước. Không khí về đêm thoải mái và mát rượi. Tiếng nước róc rách vỗ vào mạn bờ, tiếng gió thổi xao xác trong vườn cây khiến Huệ thấy lòng mình yên tĩnh và trong sạch. Lâu lâu Jean lại hôn Huệ một lần. Nàng ôm lấy hắn nũng nịu. Nàng gọi tên gã trong khi gã hát rất nhỏ. Tiếng hát của Jean nghe buồn như ru bên tai Huệ. Khói thuốc từ miệng gã toả ra bay nhẹ nhàng trong gió mát. Huệ nhắm nghiền mắt lại và muốn ngủ thật lâu ở ngay chỗ ấy.
Đến khi hai người trở về thường thường là đêm đã thật khuya. Huệ và Jean chia tay nhau ở đầu xóm Cỏ. Những đàn chó chạy rông ngoài đường xô nhau ra sủa loạn xạ. Mùi rác tanh nồng thoang thoảng bay qua. Huệ đứng vẫy Jean cho đến khi bóng dáng cao lớn của gã khuất sau dẫy phố. Nàng trật đôi giầy ra xách trên tay. Hơi đất ẩm đưa từ gan bàn chân lên người gây cho Huệ cảm giác mát mẻ, khoan khoái. Nàng quay tròn cái dây ví đầm trong tay kia rồi dò dẫm đi vào ngõ tối.
Tiếng đàn của bác Tốn chưa dứt trong túp lá lụp xụp. Một đôi lần thằng Ích trốn nhà ra ngủ chung với bác. Hai bác cháu đùa với nhau rinh rích cả đêm, lúc nóng quá thì kéo nhau ra tắm giếng chán rồi lại trở về hút thuốc lá và nói dóc trên bực cửa.
Một buổi tối trở về Huệ bắt gặp đôi mắt sáng dữ dội của dượng Tám nhìn mình ở hàng rào. Dượng bẻ một nan tre ném về phía Huệ rồi lơi lả:
"Làm người ta chờ mãi. Đi không?"
Huệ ngất ngư cái đầu:
"Để đến mai. Đang mệt lử ra rồi đây.”
Mắt dượng Tám quắc lên khiến Huệ cũng cảm thấy rờn rợn đến nỗi phải cúi xuống. Dượng nói, hai hàm răng sít lại:
"Hôm nay "rích" đây. Để mai lại chui vào sòng hết mất.”
Nàng uể oải:
"Vậy thì đi..."
Hai người lầm lũi đi về phía nhà Huệ. Nàng nhẹ nhàng mở cửa và đánh diêm châm ngọn đèn trên mặt bàn nước. Bà cụ Chín đã ngủ từ lâu và mắt Huệ cũng như muốn díp lại. Nàng kín đáo thay quần áo trong khi dượng Tám ngồi im lặng hút thuốc trên giường. Một lát Huệ đến nằm vươn vai ở bên cạnh dượng và ngáp thật dài:
"Buồn ngủ thấy bà đi. Đi quá rạc cả cẳng.”
Dượng Tám không đáp vẫn nằm im rít từng hơi thuốc lá. Mặt dượng dúm lại, đôi mắt xếch ngược lên, hai bờ môi dầy trễ xuống. Huệ nắm lấy tay dượng thì thào:
"Lẹ đi!"
Dượng uể oải đứng dậy, ném điếu thuốc cháy giở vào góc phòng rồi tiến lại bàn nước vặn thụt cái bấc đèn xuống thấp. Ánh sáng đảo lên rồi teo lại. Căn phòng bây giờ chỉ còn một thứ ánh sáng xanh lét. Khuôn mặt dữ tợn của dượng chìm mờ trong bóng tối. Có tiếng chó sủa vu vơ ở đằng xa. Huệ ngủ thiếp đi trong những tiếng động mơ hồ ấy.
Lúc dượng Tám nhỏm dậy thì bốn bề vắng lặng và yên tĩnh. Trong căn phòng mờ mờ tối chỉ có cái bóng của dượng thấp thoáng đi lại và tiếng guốc rón rén trên nền đất ẩm. Dượng nâng khẽ cánh cửa gỗ và lẻn nhanh ra ngoài như một con cáo mò đi ăn đêm...
Sáng hôm sau, xóm Cỏ loạn lên vì tiếng chửi của Huệ. Trẻ con hàng xóm bu đen lại. Giọng Huệ san sát như xé vải:

"Tổ cha năm đời mười đời thằng mặt sắt, bà đã bán trôn nuôi miệng mà còn húc đầu vào ăn không lấy có của bà. Giời đánh thánh vật thằng Tám ra...

Cửa nhà thằng Ích mở tung, cái Ngoan ngồi thu hình trên bực cửa. Nó thản nhiên nghe Huệ chửi như không có chuyện gì dính dấp đến nó. Cặp mắt đen lay láy của nó chăm chú nhìn xem từng cử chỉ của Huệ. Huệ mặc một cái quần đen bạc phếch, cái áo may ô nhuộm đỏ chẳng có nịt vú ở bên trong. Nàng vung hai tay lên vỗ vào đùi, rồi xỉa xói vào nhà dượng Tám, cứ réo tên dượng mà chửi. Một người hỏi:
"Chuyện gì thế cô Huệ?"
Huệ vừa thở vừa đáp:
"Thằng Tám chứ ai, tiên nhân cha nhà nó.”
"Làm sao?"
"Tối hôm qua nó ở nhà tôi về..."
"Nó vào nhà cô làm gì?"
"Khỉ gió đùng lăn nhà bác lắm nữa. Làm gì thì kệ bố người ta..."
"Thôi biết rồi, sao nữa?"
"Động mồ động mả nhà nó, đây có tí vàng nào nó vét sạch cả. Ối giời ơi Tám ơi là Tám, mày thò mặt ra đây thì bà vạc ra, sư cha quân đầu trộm đuôi cướp.”
Nói rồi Huệ lại tức tối xông lên thềm đất. Cái Ngoan vội vã ngăn lại. Nó nói:
"Dượng tôi chưa về..."
Huệ du mạnh nó ra rồi bước hẳn vào trong. Nàng bắt gặp bộ mặt nhợt nhạt của u Tám. U mệt mỏi ngồi dựa lưng vào vách gỗ. Mái tóc quấn vội trên đỉnh đầu nom xù lên rã rượi. Huệ định cất mồm tác xác thì u Tám bưng mặt khóc. Hai chân u đập xuống mặt giường, đầu u va rất mạnh vào vách gỗ. U bật lên kêu thảm thiết:
"Giời ơi giời, chồng con ơi là chồng con..."
Rồi u ngã vật xuống trước cặp mắt ngơ ngác của Huệ. Nàng lùi lại một bước, quay đầu nhìn cái Ngoan. Ngoan đang ngồi nghe thấy tiếng ngã vội hốt hoảng chồm dậy. Nó đẩy thật mạnh cho Huệ chúi xuống rồi chen vào. Mọi người thấy tiếng nó lu loa:
"Ối u ơi là u, u làm sao thế này..."
Người xem ở bên ngoài len vào, chen lấn xô đẩy. U Tám vẫn nằm thiêm thiếp trên mặt đất. Hai mắt u nhắm nghiền. Những giọt nước mắt chưa khô trên đôi má xanh xao nhợt nhạt. Miệng u mím chặt, hai hàm răng u nghiến ken két, một dòng nước dãi chảy qua môi, lăn xuống cổ. Hai bàn tay u nắm chặt vào nhau, run lẩy bẩy. Người ta xúm lại, kẻ xoa dầu, người gọi tên u Tám. Căn buồng nhỏ hẹp của nhà thằng Ích chật cứng những người.
Huệ hậm hực loanh quanh một lúc rồi bỏ ra ngoài. Nàng bắt gặp thằng Ích đang chạy bổ từ phía nhà bác Tốn lại. Nàng túm lấy nó, quát lên:
"Dượng mày đâu?"
Thằng Ích lắc đầu:
"Tôi đâu có biết, hôm qua tôi ngủ đằng bác Tốn.”
"Mọi khi dượng mày đi đâu mày có biết không?"
Ích không đáp vì nó đã vội giằng tay Huệ ra để len vào trong nhà. Nghĩ tiếc của, Huệ uất lên. Nàng lại cất tiếng chửi. Nàng lại kể cho mọi người nghe về cái việc làm ma bùn của dượng Tám.
Từ hôm ấy, dượng Tám đi biệt không về. U Tám nằm liệt trên giường đã mấy hôm. Sự uất ức và tủi nhục làm u dở cười dở khóc. U gọi tên mọi người và nói lảm nhảm những chuyện không đâu. Khuôn mặt u già sọm đi, nước da xám ngắt. Cặp mắt u lờ đờ mất hết vẻ tinh khôn. Cái Ngoan phải bỏ cả công việc để túc trực bên cạnh u. Trong căn buồng mờ mờ tối, nó ngồi bó gối như một con chó nhỏ, im lặng nghe tiếng thở mệt nhọc của u, tiếng nắng nứt rạn trên mái lá và tiếng cãi cọ vọng lại từ đằng xa. Mỗi buổi trưa, bác Nhan gái lại chịu khó bưng sang cho u một liễn cháo. Hai bác cháu van hết lời u Tám mới nhấm nháp mấy thìa rồi hất xuống đất. Lâu lâu u lại bưng mặt khóc. Cái Ngoan cũng tu lên khóc theo. Bác Nhan gái lùi vào một góc đưa cái vạt áo lên hỉ mũi. Cảnh đó không mấy ngày là không diễn ra, khiến bọn trẻ trong xóm Cỏ hay sán lại, cậy vách ra nhòm. Có đứa vừa nện tay thình thịch lên vách gỗ, vừa la lớn:
"Ê! Ăn cắp! Ăn cắp!"
Rồi cả bọn túa nhau bỏ chạy. Một lát chúng lại xúm vào. Thằng Ích rất bận bịu về cái lũ nhãi ranh ấy. Nó khuân đủ thứ gạch về để ở đầu hè, mang chặn cái thùng xăng ở ngoài cổng, rồi nó rình rập bọn trẻ đông đúc cứ chực lấn vào. Bây giờ cuộc chơi của chúng nó đã biến thành thế trận. Chúng nó ném nhau dữ dội. Tiếng gỗ đá đập vào cửa nhà thằng Ích thình thịch. Bác Nhan gái ở nhà bên trông sang, giậm chânkêu trời về sự quái ác ấy. Tay bác quơ lấy cái đòn gánh nước, quần bác xắn lên, bác chạy ra lối ngõ vụt lia lịa vào bọn trẻ, mồm la không ngớt:
"Tiên nhân chúng mày, xéo đằng nào thì xéo. Người ta ốm phải cho người ta nằm nghỉ chứ.”
Bọn trẻ ùa đi, một lát lại mon men tới gần. Chúng nó chỉ bỏ cuộc khi nào thấy chán cái trò chơi mất dậy ấy.
Cho đến một buổi sáng mọi người vụt nghe cái Ngoan la làng ở đầu ngõ. Ngoan nom thấy u Tám thắt cổ trên xà nhà. U chết từ đêm nên mình mẩy u đã sưng vù lên và tím ngăn ngắt. Mọi người đổ xô vào. Không ai còn nhận ra được u Tám nữa. Mặt u trương to lên, cặp mắt trợn ngược, cái lưỡi nám đen lại và thè dài thõng xuống cằm. Mái tóc của u cứng khô rũ rã rượi xuống ngang lưng. Dưới chân u một đống nước tiểu hoà lẫn dãi rớt chảy loang ra thấm ướt cả nền đất ẩm. Người ta bồng u đặt nằm ngay ngắn ở trên chõng. Cái Ngoan lăn xả vào khóc thảm thiết. Hai bàn tay nó cấu lấy thân thể lạnh cứng của u. Nó gọi tên u trong tiếng khóc ngằn ngặt. Mọi người giữ lấy nó, nhưng nó vùng ra, khỏe lạ lùng. Thằng Ích lúc ấy mặt còn đầy vẻ ngái ngủ, ngồi xệp xuống đầu chõng, vừa khóc nó vừa gọi u như ngày nào u đã ngất ở chỗ ấy. Bác Tốn cũng vội vã tìm sang. Bác đứng im lặng ở một góc. Hai môi bác mím lại. Có sự gì uất ức đưa nghẹn lên cổ bác. Những giọt nước mắt nóng và mặn cứ ròng ròng chẩy xuống hai gò má. Bác đã khóc u Tám như khóc một người thân yêu, mặc dầu lúc còn sống, ít khi u nói với bác một câu chuyện nhà.
Người ta một mặt đi trình báo, một mặt tính toán chuyện lo liệu cho u. U chết đi để lại trên phản một cái bọc nhỏ cuộn bằng chiếc khăn vuông đen, ở trong ấy, u để dành được bốn trăm bạc, một cái gương nhỏ và một cái áo dài bằng nhiễu đen mà từ ngày về xóm Cỏ, chưa lần nào thấy u mặc. Cuộc đời của u như thế là hết. U đã rũ cho mình nỗi cực nhọc, đã tìm được sự thanh thản mà từ bao nhiêu năm u hằng ao ước. Lúc còn sống u không làm gì được cho con cái thì cái chết của u cũng cởi mở cho chúng được tự do đi tìm lấy sự sống mới mẻ của mình. Còn ai mà không ghê tởm căn nhà tối tăm khốn khổ đầy nước mắt ấy. Mọi người thương u là thương cái chết đau đớn mà u chọn, thương sự tủi hổ mà u phải chịu đựng trong những ngày u rầu rĩ với cơn bệnh.
Từ sáng đến chiều, người ta ra vào nhà thằng Ích rần rần. Bác Nhan gái thay mặt thằng Ích nhận từng năm, mười đồng của từng người góp với nó để làm ma cho u Tám. Huệ cũng đến với dáng điệu ngượng ngập. Nàng mở cái khăn che mặt của u Tám để nhìn u rất lâu. Nàng giấu mọi người sự cảm động của mình. Rồi nàng gọi thằng Ích ra dúi vào tay nó hai tờ giấy một trăm. Đấy là vốn liếng cuối cùng của Huệ.
Sáng hôm sau, đám ma của u Tám bắt đầu khởi hành. Chiếc quan tài mộc thô sơ đặt trên cỗ xe hai ngựa, loại xe vẫn tải rau và bắp cải từ ngoại ô lên chợ. Ngồi trên, cả thảy có sáu người. Mẹ con cái Hơn, anh em thằng Ích, bác Tốn và một người phu mộ. Theo sau xe còn lác đác mấy người, nhưng được một quãng xa thì họ quay về để chiếc xe bon bon chạy. Nếu không có tiếng khóc của cái Ngoan và những thoi vàng giấy mà bác Nhan gái rắc rải rác trên mặt đường thì không ai biết rằng đấy là một đám táng. Mọi người buồn bã nhìn nhau. Bác Tốn hai tay nắm chặt lấy thành xe, đầu cúi xuống, mặt bác ngó nghiêng, thoạt trông tưởng như là bác cười nửa miệng. Bác suy ngẫm rất nhiều đến cuộc sống vất vả của những người như u Tám. Những đêm nằm thủ thỉ với thằng Ích, Ích hay kể cho bác nghe về ý nghĩ của nó. Nó vẫn ước ao:
"Ngày sau cháu lớn cháu sẽ đi làm.”
Bác Tốn nói:
"Nhà ông thì làm được cái đếch gì!"
Ích cãi:
"Việc gì chả được. Miễn là đến sở đến siếc đàng hoàng, cuối tháng lĩnh lương. Khoái không chê được.”
"Nhà ông tính làm được mấy ghim?"
Ích ngập ngừng:
"Độ hai ghim.”
"Hai ghim thì chả bõ dính răng. Tao thì tao khoái bốn ghim. Bốn ghim mới tha hồ tiêu.”
Ích xuýt xoa như sự mong ước ấy là quá đáng:
"Thôi hai ghim đủ rồi. U cháu, cháu với cái Ngoan thì ăn hết mấy.”
"Dễ mày không để dành tiền lấy vợ à?"
"Thôi đốt bác đi. Vợ làm đếch gì. Cháu chỉ mong cho u cháu sướng hơn bây giờ là cháu khoái mê cu tơi ra rồi. Tưởng tượng cuối tháng mang về đưa hẳn cho u cháu một tập giấy bạc mới toanh, úi dà thích phải biết!"
Bác Tốn lùa tay vào bụng thằng Ích bóp một cái:
"Cái thằng tầm ngầm mà hiếu thảo gớm nhỉ.”
Ích la oẳng lên. Hai bác cháu vật nhau trên nệm rơm. Bây giờ, mộng của thằng Ích vẫn chưa thành sự thật thì u Tám đã chết, mà ngay đến cả cái ý định tốt đẹp ấy của đứa con trai, u cũng không được biết. Ích chưa hề nói với u nó một lời nào về chuyện ấy cả.
Chiếc xe yên lặng đi qua những con đường đầy nắng và bụi. Rổ vàng giấy trên tay bác Nhan gái đã vơi đi quá nửa. Tàn nhang dính đen cả bát cơm đơm đầy trên nắp áo quan của u Tám. Mấy nén hương cháy đỏ hồng lên trong gió lộng. Chiếc xe đi qua những thửa ruộng sẫm đen, những gốc rạ cháy dở dang nằm ngả nghiêng dưới ánh nắng chói chang. Nghĩ đến sự cô đơn từ nay của u Tám ở chốn này, mọi người bây giờ mới bật ra tiếng khóc. Bác Nhan gái hỉ mũi xuống sàn xe luôn tay. Cái Hơn đang thiu thiu ngủ bị tuột vú ra khỏi mồm cũng vụt oà lên. Ích mặt chan hoà nước mắt nhìn mọi người. Bác Tốn đưa tay ra sờ soạng lên đầu nó. Bác có cảm tưởng như từ nay đời nó sẽ gắn liền với mình.
Người ta chôn u Tám tại một khu đất hẻo lánh. Phía bên kia là một con lạch nhỏ có những lớp lau sậy um tùm. Đằng xa từng làn khói xanh lơ bốc lên từ những thửa ruộng đang làm mầu. Nắng im lìm toả rộng, dãi lên mặt nước như một tấm gương sáng loà. Khung cảnh yên tĩnh và vắng vẻ giống như lúc còn sống u Tám hằng ao ước.
Bác Tốn nhờ thằng Ích dẫn mình lại gần miệng huyệt. Mùi đất thơm và ẩm thoang thoảng đưa lên mũi. Bác nhặt từng viên nhỏ ném xuống. Tiếng đất chạm vào thớ gỗ kêu thình thịch. Cái Ngoan và thằng Ích vụt oà lên khóc to hơn. Vào lúc mặt trời đứng bóng, mọi người lặng lẽ xách đồ lên xe. Chiếc xe song mã uể oải lăn bánh trên đường đầy đá dăm lổn nhổn. Anh em thằng Ích ngồi rũ bên cạnh nhau khóc sụt sịt. Trong gió lộng, chiếc xe tung bụi mờ mịt, nom xa như một chuyến xe đò từ dưới tỉnh trở về...
Chương mười bốn
Sau ngày u Tám chết, cái Ngoan bỏ nghề bán đồng nát để đi ở đợ. Mộng tưởng hồi trước của nó nay đã thành sự thật. Thỉnh thoảng, vài tháng một lần nó mới trở lại thăm nhà. Dạo này nó béo tròn ra, bác Nhan gái cứ rờ lên cái lưng tròn lẳn của nó mà khen lấy khen để:
"Cha bố nhà mày. Cơm gạo nhà sang có khác. Giá cái Hòn còn ở nhà, tao cũng cho đi ở phứt.”
Ngoan sung sướng chia kẹo và bánh cho cái Hơn. Nó mơ ước một vài năm nữa, với tiền công để dành được, nó sẽ buôn riêng một gánh hàng xén. Làm cô hàng xén, sáng chiều hai lần quẩy gánh đi về mới thật là điều nó mong ước. Ngoan rất hãnh diện về dự tính của mình. Còn thằng Ích thì vẫn đi hát dạo từng đêm với bác Tốn. Bây giờ nó chuồn sang ngủ chung với bác. Hai bác cháu đùa với nhau như nguỵ. Hôm đầu, bác Tốn hỏi nó:
"Mày thấy ma thật không?"
Giọng Ích thì thào:
"Thật!"
"Ma liền ông hay liền bà?"
"U cháu.”
"Thôi đi ông, chỉ nói phét.”
"Đứa nào nói phét đứa ấy chết nhăn răng ra. U cháu thật mà.”
"Mày thấy thế nào?"
"U cháu đánh đu ở trên xà nhà.”
"Eo ơi!"
"Thật! Rồi u cháu lè cái lưỡi ra xanh lét.”
"Dài không?"
"Dài thoòng!"
"Khiếp!"
"Tóc u cháu xõa xuống, mồm đỏ lòm, rồi u cháu cười khanh khách.”
"U mày gọi "Ích ơi" phải không?"
Ích trợn mắt:
"Sao bác biết.”
Bác Tốn đáp:
"Tao lạ gì, u mày cũng gọi tao là "Tốn ơi.”
Ích nhẩy lên lưng, đè đầu bác xuống, hét:
"Nói phét! Nói phét! Đếch ai tin được nhà bác.”
"Thế thì cũng có chó nó tin được nhà ông. Nhà ông nhát như cáy ngày, mới nom thấy đã mất vía rồi còn đếch đâu mà dám xem ma nữa.”
Ích cười rinh rích tụt xuống nằm lăn trên chiếu. Một lát nó đổi giọng nghiêm trang:
"Nói đùa đấy chứ, cháu thấy ma thật. Nó chạy sột soạt trên trần nhà.”
"Chuột rồi ông ơi!"
"Chuột gì mà to thế. Tiếng chân người mà.”
"Rồi sao nữa?"
"Rồi nó ngồi hát trống quân, hai chân thõng xuống đen thùi.”
"Ma tây đen hả?"
"Chắc tây đen!"
"Ý trời đất ơi! Tây đen mà lại biết hát trống quân.”
Ích bẽn lẽn đấm vào lưng bác thùm thụp. Chán chuyện ma, hai người xoay ra bàn đến chuyện Huệ. Bác Tốn hỏi:
"Cô Huệ... chửa thật không?"
Ích đáp:
"Đứt đuôi đi rồi lại còn không thật.”
Miệng bác cười nhe ra:
"Tầm ngầm thế mà chóng nhỉ. Chắc con Tây.”
"Tây đứt đuôi đi ấy chứ, mà đẻ ra thì thành Tây lai. Cháu được nom thấy Tây lai rồi.”
"Tóc xoăn không?"
"Xoăn tít.”
"Chắc mũi lõ.”
"Lõ đứt đuôi.”
"Mắt xanh không?"
"Xanh biếc.”
"Thế thì Tây bố nó rồi, còn lai liếc đếch gì nữa.”
"Nhưng mà da vàng xịt rõ ràng.”
"Ừ nhỉ, rõ ấm ớ. Tây lai mà lị.”
Trong ý nghĩ, bác hình dung thấy bóng Huệ đi bên cạnh tên Jean cao lớn. Gã bế Huệ như bế một con mèo, cù lên cổ Huệ và tha hồ hít cái mùi phấn thơm ngây ngất toả ra ở khắp người nàng. Bác thấy như mình vừa mất đi hình ảnh quí báu của Huệ, mặc áo đỏ, đánh môi hồng vẫn sáng lên trong ý nghĩ của bác. Dạo này Huệ ít ra đến ngoài, thỉnh thoảng bác mới bắt lỏm được tiếng nói của nàng trao đổi với ai ở lối ngõ:
"Biết bố thằng bé chưa cô Huệ?"
"Khỉ gió đùng lăn nhà bác lắm nữa. Chả con thằng đó thì con ai.”
"Sướng thật! Một bước nên bà.
Bà gì! Bà lả bà la.
Không chằng không rễ như ma giữa đồng.”
Này thôi đi, đừng có khỉ gió lắm chuyện. Đây đang sốt tiết lắm rồi đây!
Tiếp theo là tiếng guốc lóc cóc của Huệ và tiếng phun nước bọt phì phì.
Rồi ngày Huệ đẻ một đứa con trai thì cũng là ngày Jean được về nước. Gã xuống tàu trước khi nom thấy đứa con của mình. Thật ra Huệ đã đẻ non mất hơn một tháng. Buổi sáng lúc tiễn gã ra "ke", nhìn đoàn người chen chúc đổ lên boong tàu, Huệ mới tìm thấy ý nghĩa làm vợ của mình. Nàng vừa khóc vừa vẫy Jean khi gã leo lên những bậc thang bằng sắt sáng bóng. Bên tai Huệ, tiếng còi tàu, tiếng cười nói, tiếng gọi "sê ri" xen lẫn với tiếng chửi rủa ồn ào tán loạn. Một cô đứng bên Huệ giơ tay vẫy lão Tây già, miệng vừa chúm lại hôn gió, vừa la:
"Sư bố mày! Về nhé! Ê cri lét tút suýt (Viết thư ngay) nghe không!"
Riêng Huệ không nói được gì cả. Nàng nhớ đến những ngày hạnh phúc ở bên Jean. Gã chiều Huệ như chiều một cô nhân tình nhỏ bé. Thế mà lúc ấy Huệ lại chỉ coi gã như một khách làng chơi tốt bụng. Gần lâu thì chán ngấy, mà xa lâu thì lại nhớ nhung thấp thỏm. Nhưng từ nay không bao giờ Huệ còn được đón gã ở đầu hè vào những buổi sáng lúc mặt trời mới lên. Không bao giờ gã còn ôm lưng Huệ dìu nàng đi dưới bóng tối những lùm cây. Huệ thấy nhớ mùi mồ hôi trên áo gã, nhớ những cụm lông vàng hoe trên ngực gã, và gã không còn cười ngu si với Huệ, mỗi lần nàng vừa phát đôm đốp lên lưng gã vừa chửi thề:
"Ái! Nhột! Khỉ gió rửng mỡ lắm nữa.”
Những kỷ niệm ấy ngày xưa hờ hững bao nhiêu thì bây giờ buồn bã bấy nhiêu. Nàng mệt mỏi ngồi xuống bên kè đá. Làn nước xanh đen vỗ bì bõm vào mạn bờ khiến Huệ chóng mặt. Huệ thấy tất cả trong người bỗng dưng đổi khác. Bụng nàng đau quặn. Cái đau dội từ dưới lên trên khiến mặt nàng xám lại. Mồ hôi Huệ vã ra ở trán và lưng. Huệ nghĩ đến đứa con sắp ra đời và những ngày đen tối sắp tới. Bóng con tàu tối sầm trước mặt Huệ rồi quay tròn đi như ở trong bão lốc. Mặt và môi nàng nhợt nhạt. Huệ gắng gượng leo lên một chiếc xích lô gần đấy. Nàng bỏ Jean đứng ở trên boong tàu. Gã đang nhớn nhác tìm bóng Huệ. Gã không biết Huệ đã lên xe trở về xóm Cỏ.
Chiều hôm ấy Huệ sinh con trai và băng huyết dữ. Nhờ mấy mũi tiêm của người chích đạo, nàng cầm máu và nằm lả đi ở trên mặt phản. Khuôn mặt nàng hóp hẳn lại, mái tóc rối bù, ướt nhếch nháp mồ hôi. Quanh nàng, đống chăn màn chiếu đệm xông lên mùi tanh tưởi nồng nặc. Căn buồng đóng cửa kín mít. Phía bên ngoài người ta chen nhau nhòm qua khe gỗ để nghe tiếng khóc oe oe của đứa nhỏ. Bà cụ Chín bỏ cả một buổi hàng để ở nhà săn sóc hai mẹ con. Thằng bé nằm gọn vào trong cái thùng sữa. Tóc nó vàng hoe, da đỏ hon hỏn, tiếng khóc oang oang như lệnh vỡ. Bà cụ bật lên cười khanh khách:
"Cha cái con đẻ ra mẹ mày. Giống thằng bố như đúc.”
Vừa nói bà cụ vừa đổ vào mồm nó một thìa nước đường để nguội. Lưỡi nó đánh vào môi tóp tép. Bàn tay nhỏ xíu khua lên, dụi vào mắt. Một lát nó ngủ yên. Cụ xuống nhà xách nước dội ùm ùm và kỳ cọ gậm giường gậm ghế. Mùi tanh tưởi xông lên buốt óc. Mũi cụ chun lại, tay cụ quơ cái chổi vào tận hốc ngách lùa ra những rác rưởi ngầu bọt, trộn dính vào nhau thành một màu tiết xám. Bộ quần áo và đống giẻ dơ được cuộn lại chất đầy trong một cái chậu sành. Ruồi nhặng bu lại xúm xít, bay vo vo.
Trên giường, Huệ đã tỉnh táo hơn. Nàng nhìn thằng bé nằm gọn ở bên cạnh nách. Nó ăn rồi lại ngủ li bì. Cái mồm, cái mũi, cái tai đều giống Jean như đúc. Huệ thấy một niềm vui nhẹ nhàng đi qua ý nghĩ. Lần đầu tiên nàng có cảm giác được làm mẹ. Nàng giơ bàn tay xanh rớt lên vuốt hai má nó. Nó cựa mình tức tối, cất tiếng ọ ẹ. Một lát lại thiu thiu ngủ. Huệ nhắm mắt nhớ lại hình ảnh của Jean và cuộc hành trình trên con tàu đưa gã về xứ sở.
Tối hôm sau thằng Ích dẫn bác Tốn lần sang. Tay nó ôm năm hộp sữa bò. Cái gậy của bác gõ lóc cóc trên ngưỡng cửa. Bà cụ Chín khêu tỏ ngọn đèn đặt trên bàn gỗ rồi kéo cái màn che giường Huệ sang một bên. Huệ đưa mắt nhìn ra. Nàng thấy bác đứng thu thu cạnh cửa sổ, răng nhe ra như muốn cười. Nàng nói với bác bằng một giọng yếu ớt:
"Bác Tốn, mời bác ngồi chơi.”
Hàm răng của bác nhe thêm nữa, cái cổ đưa ra đằng trước, vừa nói bác vừa đưa tay ra sờ cái ghế:
"Chào cô. Nghe cô sinh cháu tôi sang thăm.”
"Cám ơn bác. Bác tử tế quá.”
"Có gì mà ơn với iếc. Cô khoẻ chứ?"
Bà Chín đỡ lời:
"Ấy, cũng may đấy. Hút chết. Bây giờ thì khá hơn rồi.”
"Vậy mà tôi cứ ngỡ nguy cơ chứ. Nằm nhà cứ lo ngay ngáy..."
Rồi biết mình lỡ lời bác vội vàng nói:
"À, có mấy hộp sữa tôi mang cho cháu.”
Huệ nhìn bác mỉm cười. Nàng thấy cảm động trước lòng tốt của người đàn ông mù loà. Còn đang tìm câu nói cám ơn thì bác ta đã bảo:
"Ích tìm chỗ để hộ tao tí. Cháu chịu bú không cô?"
Cụ Chín đáp:
"Háu ăn nhất là nó đấy. Chậm một phút là gang cái mồm ra.”
"Vậy hay! Thế mới tốt. Con trai mà.”
Mọi người im lặng. Một lát bác Tốn ngập ngừng:
"Tôi nói rồi đấy. Cô cần gì thì cứ sai thằng Ích.”
Huệ đáp:
"Cám ơn bác. May nhờ cụ Chín đây cũng đỡ.”
"Nhưng rồi nay mai cụ đi hàng thì ai trông?"
Bà cụ vội nói:
"Cũng phải. Người đẻ đái lúc nào cũng cần có người trông nom.”
Bác Tốn vui vẻ:
"Vậy tốt rồi. Nhà ông chịu khó sang đây luôn nhá.”
Ích gật đầu. Nó tò mò ngó nghiêng nhìn hết Huệ lại đến thằng bé. Huệ nói:
"Thôi thế cũng nhờ Ích vậy. Mà cũng chả cần gì nhiều lắm đâu. Thỉnh thoảng chạy sang pha sữa hộ là đủ.”
Bác Tốn sung sướng đứng dậy. Lòng bác hể hả như một người vừa cất xong được nỗi ưu tư. Bác hướng về phía Huệ nói:
"Thôi tôi về.”
Ra đến cửa, chợt bác quay lại nhướng mắt lên hỏi:
"Quên mất. Cô đặt tên cho cháu là gì nhỉ?"
Huệ đáp:
"Thôi thì tôi cứ gọi là thằng Giăng.”
Cặp mắt bác Tốn hấp him như lúc bác cười. Bác lẩm bẩm:
"Giăng... ừ thằng Giăng.”
Lần này bác bước hẳn ra ngưỡng cửa. Gió mát thổi vào lưng đầy mồ hôi của bác. Hai bác cháu đi vòng trở lại nhà. Giây lâu bác hoan hỉ:
"Thế là tê rồi!"
Ích tiếp:
"Vậy mà cứ kêu xấu hổ đếch dám đi. Cháu đã bảo mà.”
"Nói thế chứ, cũng ngượng bỏ bố đi.”
"Việc đếch gì mà phải ngượng với ai.”
"Với cụ Chín ý.”
"Sao ngượng?"
"Còn sao nữa. Cụ ấy lại tưởng mình xoắn củ tỏi vào cô Huệ ấy chứ.”
"Mặc kệ bu nhà cụ ấy.”
"Mày nói như bố chó xồm ấy. Phải biết, già mà tinh đáo để. Hơi một tí là biết ngay.”
"Nhưng bác có cái gì đâu mà biết.”
"Ừ nhỉ. Mình có gì đâu. Ấm ớ thật.”
Giây lâu, bác lại nói:
"Nhà ông nghĩ có hay không.”
"Cái gì hay cơ chứ?"
"Giăng ấy, tên Giăng ấy.”
Thấy Ích không trả lời, bác nói tiếp:
"Tao thì tao thấy đếch chê được rồi.”
"Thôi gì thì gì bây giờ hãy dẫn nhà cháu đi đớp một chầu trả công đây đã. Bác giữ lời hứa đấy nhá.”
"Đi chứ. Tao sợ gì. Tôm khô củ kiệu không?"
"Thèm vào!"
"Mực nướng nhá.”
"Súp đi!"
"Cháo thịt vậy. Cháo thịt nóng thì ba chê rồi.”
"Không! Cà phê bơ đi. Cà phê bơ mới tuyệt.”
"Cà phê thì mấy tí. Chả bõ dính răng.”
Ích nói:
"Thế thì vừa cà phê bơ, vừa cháo thịt.”
Bác Tốn giẫy nẩy lên:
"Thôi lạy cả nón nhà ông. Ly cà phê đã mất bố nó với nhà ông ba tì rồi.”
Ích nhăn răng cười. Cánh tay nó ôm choàng lấy ngang lưng bác Tốn. Nghĩ đến thìa bơ thơm phức nổi váng trên cốc cà phê ngào ngạt, nó bước mau như muốn chạy.
Đến khuya bác Tốn trở về một mình sau khi đã đánh hai ván cờ ở ngoài quán nước. Thằng Ích lỏn đi từ chập tối. Nó chuồn lên đầu phố xem "cọp" gánh hát cải lương mới về hồi chiều. Cái gậy tre của bác quờ quạng trên mặt đường.
Bác thuộc lòng xóm Cỏ đến từng mô đá, từng gốc cây, từng bờ rào. Qua dẫy thùng xe thì đến nhà Phó Ngữ, khỏi nhà Phó Ngữ là dẫy ăn dôi ra mép đường. Cuối dẫy là rãnh nước, rồi đến nhà mụ Nết. Nhà mụ Nết có điều đặc biệt là đằng trước cửa có cái chuồng gà dựng trên một khoảng đất hẹp. Mùi hôi hám đưa lên thoang thoảng xen lẫn mùi tanh nồng của rãnh nước. Bác Tốn nghếch đầu lên nghe ngóng những tiếng động trong nhà bà cụ mà từ lâu nay cụ sống như người mất trí. Ích kể rằng suốt ngày cụ ngồi ở ngưỡng cửa để kể lể, có khi khóc, có khi cười. Cơm không đi nấu. Lúc trước người ta còn mang đến cho ăn, về sau chán chẳng ai buồn ngó tới. Đồ đạc trong nhà, bọn tham lam thi nhau vào khuân chỉ còn trơ có cái giường và cái tủ. Rồi người ta gọi cụ là mụ điên. Mụ điên lẫn cẫn không còn nhớ những gì đã qua. Hỏi thăm về con cháu mụ thì mụ trả lời mỗi khi một khác. Có lần, tưởng chúng chết rồi nên mụ tu lên khóc. Có lần tưởng chúng trúng số lên phố ở nhà lầu, mụ khoe sẽ bảo chúng may cho đôi quần mới. Có lần tưởng chúng bỏ mụ dắt díu nhau sang Lèo ăn sung mặc sướng, mụ chửi chúng là đồ bất nhân. Ban ngày mụ lang thang ở quán cơm đông khách ngoài chợ. Ở đấy người ta cho mụ ăn những đồ thừa vét voi của thực khách. Thừa mứa và sang trọng. No nê rồi, mụ ngồi tỉ tê bắt chấy và gãi lưng cho mấy đứa con người nấu bếp. Một hôm mụ bế tuốt thằng bé đi từ tối đến nửa đêm. Về sau người ta gặp mụ ôm nó ngủ ở ghế đá vườn hoa. Lần ấy mụ bị một trận đòn mê tơi và người ta cấm cửa. Mỗi lần mụ mon men đến gần là lão đầu bếp giơ dao ra doạ chém. Mụ ù té chạy. Vừa chạy, mụ vừa la:
"Chó đẻ bay chém tao! Con tao về nó bắn chết cha tụi bay.”
Mới trong vòng một tháng mà mụ đã thay đổi đến không còn ai nhận ra. Khuôn mặt mụ càng ngày càng quắt queo lại. Cặp mắt tráo trưng, nhìn ai cũng như muốn hoá dại. Quần áo mụ tả tơi, túm chỗ này, buộc chỗ nọ mà không che nổi hết làn da xám xịt, nhăn nhúm. Ban ngày mụ lang thang đi nhặt lá bánh khắp chợ. Buổi tối có khi mụ ngủ lăn lóc ở vườn hoa, ở ngõ vắng, có khi mụ về nhà ngồi phệt xuống bậc cửa, bạ ai đi qua cũng nói bậy vài câu.
Lúc đi qua nhà mụ, bác Tốn thấy tiếng hỏi từ chân hàng rào:
"Con đấy ư?"
Bác đứng lại:
"Ai đó? Tốn đây!"
"Trời ôi! Con tôi! Mày mệt không hở?"
"Dạ không mệt.”
"Ăn rồi chưa?"
"Dạ rồi!"
"Ăn rồi mà không nghĩ đến mẹ, không cho mẹ đồng xôi.”
"Bây giờ thì còn ai bán mà mua.”
"Thôi! Cha đời quân chó đẻ. Mày đi khuất mắt tao cho rồi. Đừng có nói láo.”
"Trời ơi, ai tiếc bà một đồng cơ chứ. Cháo vậy nhé. Cháo thịt tốt rồi!"
"Tao không thèm ăn cháo. Con tao giàu mà. Nó sắp mang về dao này, súng này. Súng bây lớn kia!"
Bác Tốn mỉm cười:
"Ờ... ờ tôi cũng có nghe nói.”
Bà cụ bật dậy, lồm cồm lê ra phía lối đi:
"Thiệt hả? Bộ có nghe nói hả?"
"Dạ có.”
"Kể đi. Kể rồi bà cho nhiều tiền.”
Bác Tốn ngập ngừng:
"Nghe nói con cụ sắp về.”
Bà cụ múa lên:
"Đó! Tôi nói nó về thiệt mà! Chớ bộ đi Lèo buôn gì mà buôn lâu dữ vậy. Cả con vợ nó cũng về chớ?"
"Về luôn!"
"Còn các cháu tôi?"
"Tuốt luôn!"
Chợt bà cụ đổi giọng chửi toáng lên:
"Quân chó đẻ. Tao đập téc đầu quân nói xàm ra bây giờ. Các cháu tao chết lâu rồi!"
Vừa nói mụ vừa quờ tay vào gậm ghế. Tiếng sắt lê sền sệt trên nền xi măng. Bác Tốn sợ hãi, khua cái gậy đi như chạy trốn. Đằng sau bác có tiếng chém chan chát xuống mặt hè, và giọng mụ hét lanh lảnh:
"Bà chém chết tụi bây. Bà chém chết tụi bây. Quân chó đẻ..."
Chương mười lăm
Ích vật ngửa ba con bài lên mặt đất, bàn tay đen đủi của nó quơ lấy nắm tiền:
"Chín "cơ" của nhà con đây.”
Thằng bé ngồi trước mặt thò nhanh tay ra chặn lại. Mặt nó vênh lên, miệng nó hoác ra, tay nó vật ngửa ba con bài mà từ nãy nó vẫn thu thu trong bụng:
"Đây chỉ có mười "dô" thôi. Vơ cả làng!"
Vừa nói nó vừa quơ lấy mấy đồng bạc. Ích hậm hực xem xét bài của nó rồi văng tục một câu:
"Mẹ kiếp! Đen đếch chê được!"
Nói rồi nó khuỳnh hai tay ra, huých bọn trẻ con đang xúm xít ở đằng sau:
"Xê ra... đen bỏ bố đi mà cứ ám.”
Bọn trẻ lùi ra rồi lại lấn lên. Hàng chục cái đầu xúm xít quanh một khoảng đất trống. Những cánh tay lem luốc thò ra, thụt vào, khua chỗ nọ, gạt chỗ kia, liến thoắng, om sòm. Một đứa lại thu lấy những con bài nhỏ xíu, rồi trang thoăn thoắt trên tay. Ích moi ra ở cạp quần tờ giấy một chục. Nó đổi lấy tiền lẻ rồi lại đặt vào cửa của mình. Đám bạc họp từ sáng, mỗi lúc một đông, trẻ con đứng vòng trong vòng ngoài. Mặt mũi đứa nào cũng hau háu, mắt trố ra, miệng liến láu, nói tục, chửi thề om sòm cả một đầu ngách.
Ích thua dữ. Từ sáng nó đã nướng mất hơn hai chục rồi. Càng thua nó càng ham gỡ đến quên cả giờ về. Mọi lần quen lệ, nó vẫn sang nhà Huệ vào lúc gần trưa. Lúc ấy là lúc bình sữa do cụ Chín pha từ sáng sớm, thằng Giăng đã bú hết. Nghe tiếng khóc vẳng qua vách gỗ là Ích tụt xuống giường chạy sang. Khi thì thay tã hộ Huệ, khi thì đun cho nàng một ấm nước sôi, hay khui ra một hộp sữa mới. Công việc chẳng nặng nhọc là bao nhiêu, nhưng Huệ cũng trả công cho nó bằng mấy tờ giấy bạc. Trước nghe lời bác Tốn dặn nó còn không lấy. Về sau túng tiền, cu cậu nhận bừa để mang đi đánh bạc.
Hôm nay mải mê với đám bài cào, Ích quên mất giờ về. Thằng Giăng nằm trong thùng sữa khóc lên ngằn ngặt. Có lúc bẵng đi từng hơi, rồi nó lại gào lên đến nhức đầu buốt ruột. Mặt nó đỏ gay, cái mồm há rộng ra, cặp môi xám lại, hai tay nó khua loạn xạ, dụi lên mắt, lên đầu. Huệ đang chợp đi, chợt nghe tiếng khóc vội vàng gượng dậy. Nàng gạt cái mền sang một bên, rồi quơ xuống gậm tìm đôi guốc mộc. Hai tay Huệ bám lấy thành giường. Chân nàng run lẩy bẩy. Mắt Huệ mở to. Nàng nom thấy những vật đen xám, chạy như đan cửi phía đằng trước. Khuôn cửa đầy ánh nắng mà Huệ thấy như đang tối lại. Những nan gỗ cong lên, nhòe bóng với nhau. Tiếng khóc của đứa bé như có cạnh sắc đâm vào đầu nàng buốt thon thót. Bất giác Huệ nhắm mắt lại. Chung quanh nàng tối sầm đi. Huệ thấy màng tai mình rung lên, âm vang như hồi ngân của một cái chuông lớn. Vừa đứng lên được, Huệ lại phải ngồi xuống mép giường. Mồ hôi nàng vã ra sâm sấp lưng áo. Một lát định thần trở lại, nàng tiến đến chiếc thùng gỗ, lôi cái đùm lót ra ngoài. Thằng Giăng vẫn khóc ngằn ngặt ở bên trong. Nàng ôm nó vào lòng nựng nịu. Đứa bé hực lên một tí rồi nín bặt. Huệ ôm nó đi lại phía mặt bàn. Một tay Huệ đỡ lấy nó, một tay nàng dốc mãi cái hộp sữa vào bình. Huệ kê mồm vào mép sắt, hai má phồng lên, thổi phù phù. Dòng sữa vàng đục trào ra lỗ thủng, chảy lăn tăn một chút rồi teo lại. Cái mệt mỏi lúc nãy lại bắt đầu làm hai chân Huệ run bắn. Nàng đặt thằng Giăng lên mặt chõng rồi đứng tựa vào thành cửa thở hồng hộc. Một lát nàng lại bàn lấy hộp sữa mới mang xuống bếp. Nàng nhớ đến con dao phay mà bà cụ Chín vẫn gác trên nóc chạn. Huệ ngửa mặt lên nhìn. Mắt nàng bắt đầu hoa. Hai bàn tay khẳng khiu run lên. Môi nàng mím lại. Nàng phải nắm chặt lấy cái núm gỗ ở thành chạn mới khỏi khuỵu xuống. Rồi Huệ nom thấy cái thúng gác ở trên mái bếp, hình như nó đang loe to ra, nặng nề như muốn đổ xuống đầu. Lớp mồ hóng trên nóc bếp bây giờ cũng rung rinh rồi xoay tròn, nghiêng ngả như đang chịu đựng một cơn bão lốc. Trước mắt nàng, vách lá bắt đầu chuyển động, xô đẩy. Rồi bốn bề bỗng dưng đổi sang sắc tím. Trên cao liên tiếp như có những khối lớn nặng nề rơi xuống đầu Huệ. Nàng hét lên, buông hộp sữa ra khỏi bàn tay và ngã vật xuống. Mơ hồ, Huệ nghe thấy tiếng thằng Giăng khóc rất xa ở bên tai, trong đầu Huệ chứa cả một thế giới quay cuồng. Huyết trào ra, đỏ thắm làm ướt cả mặt nền tráng xi măng...
Bây giờ thì bác Tốn không giấu lòng yêu Huệ của mình đối với mọi người nữa. Bác ôm thằng Giăng ngồi khóc ở trên đầu giường Huệ. Huệ mặc áo đỏ, quần trắng, nằm ngay ngắn trên chiếc chiếu hoa. Hai tay nàng duỗi thằng. Khuôn mặt bình thản như một người say sưa trong giấc ngủ. Nước da Huệ xám ngoét, cặp mắt sâu trũng xuống, mái tóc cứng khô, xác xơ rũ xuống đầy trán và má. Bác nghĩ đến hình ảnh của Huệ ngày nào mặc áo đỏ, đánh môi hồng đi trong ngõ tối. Mùi phấn thơm thoang thoảng trong gió mát buổi chiều. Tiếng hát của bác bây giờ đầy dư âm cay đắng như cái chết của nàng:
"Cô Huệ ơi...
Nếu cô lấy tôi thì..."
Bây giờ thì Huệ không còn nữa để nói với bác những lời chanh chua kiêu kì. Huệ đã đi về một thế giới khác, êm ả và nhàn hạ hơn cuộc đời khốn khổ của nàng. Bác nghẹn ngào nắm lấy bàn tay lạnh cứng của Huệ. Bàn tay mà ngày xưa bác vẫn thường ước ao ấp ủ trong những đêm thao thức. Ngày trước bác còn mơ tới những buổi chiều êm ả có gió mát lùa trong lùm cây, có sự yên tĩnh bao quanh trên đầu thềm, hai người ngồi thủ thỉ nói chuyện tương lai. Huệ là nguồn sống soi sáng cho sự mù loà của bác. Nhưng tất cả chỉ là chuyện mơ ước viển vông. Huệ đã xa bác trong cuộc sống hằng ngày và bây giờ sẽ còn xa bác mãi mãi. Nàng nằm đây mà không nói, con nàng đây mà nàng không cười. Nó ngọ ngoạy như một con mèo con trong vòng tay của bác Tốn. Bây giờ thế là hết. Nàng đã đi không một lời để lại. Khuôn mặt úp sấp xuống mặt sàn, bàn tay vịn vội lưng chừng cánh chạn, đôi guốc văng ra xa, hộp sữa bò nằm nghiêng ở dưới cuối vại nước. Nàng chết đau đớn như cuộc đời đau đớn của nàng. Không một lời an ủi, không một cử chỉ vuốt ve, không cả tình thương của đám người sống xô bồ hỗn loạn trong xóm Cỏ này. Bất giác bác bật lên tiếng khóc. Những giọt nước mắt chảy chan hoà trên mặt Huệ. Trong đời Huệ, nàng chưa được ai đến với nàng mà khóc nhiều như thế...
Chương mười sáu
Một ngày đầu mùa mưa, Năm Trà đột nhiên trở về. Hắn xuống xe ở đầu xóm Cỏ và tất tả đi vào. Nom hắn phong trần và vất vả. Bụi đất bám đầy người, quần áo tả tơi, bạc phếch vì nắng mưa. Vai hắn đeo một cái túi nhỏ, tay hắn ôm một bọc đầy hoa quả. Hắn gõ giầy đinh cồm cộp trên mặt đường nứt nẻ. Hắn cười nói oang oang từ đầu ngõ:
"Còn nhớ tui không? Trà đây! Năm Trà đây mà! Trời ơi! lâu quá đi nghe bà con.”
Mọi người đổ ra xem. Không một ai dám trả lời hắn mà chỉ giương mắt lên nhìn. Hắn ngạc nhiên ngó mọi người, rồi như linh cảm điều gì, hắn co giò chạy thẳng vào trong ngõ.
Hai mẹ con gặp nhau ở đầu hè. Hắn bồng bà cụ lên tay, nức nở:
"Má ơi! Má ơi... Con về đây.”
Rồi bỗng hắn nắm lấy hai vai áo bà cụ đẩy ra nhìn. Khuôn mặt tiều tuỵ và quần áo khốn khổ của người đàn bà làm hắn la lên hốt hoảng:
"Trời đất ơi! Sao má đến nỗi này? Vợ con đâu má?"
Nói rồi hắn buông bà cụ ra, mở cửa bổ vào trong nhà. Khung cảnh tan hoang, tiêu điều làm hắn chết lặng đi. Hắn đứng rất lâu ở cạnh vách, nhìn từng cái mắc áo trống trơn, đến mặt giường, mặt tủ, đến bộ bàn ghế nằm chỏng chơ mỗi nơi một chiếc. Một lát, hắn chạy ra ngoài, hai con mắt ngầu đỏ. Hắn nom thấy bà cụ lùi lũi đi như không hề biết sự có mặt của hắn sau bao nhiêu ngày xa cách. Hắn chạy bổ lại, túm lấy áo mụ:
"Má! Má! Má đi đâu vậy?"
Mụ điên lườm gã, giọng tức tối:
"Buông tao ra! Đồ chó đẻ!"
Mắt hắn trợn lên, hắn nắm lấy hai vai mụ già lắc mạnh:
"Năm đây mà má... Năm Trà đây!"
Mụ già phá lên cười:
"Năm đấy hả? Mày là Năm đấy hả?"
Hắn gật lấy gật để. Lập tức mụ giằng ra, cúi xuống đất quơ lấy mấy hòn gạch ném túi bụi vào người gã đàn ông. Vừa ném mụ vừa la:
"Xéo đi đâu thì xéo đi. Con tao nó về nó bắn chết cha tụi bay.”
Năm Trà bưng mặt oà lên khóc. Hắn bỏ bà cụ chạy bổ vào nhà Phó Ngữ. Ở đấy vợ chồng Hai Hào kể cho hắn nghe tất cả chuyện của gia đình hắn từ ngày vợ hắn bỏ nhà ra đi. Bây giờ thì hắn không còn nói gì nữa. Mặt hắn đanh lại. Môi hắn bậm chặt, ở tròng con mắt hắn người ta thấy gợn lên những tia sáng dữ tợn, căm hờn. Rồi hắn bỏ đi lầm lũi trong ngõ hẻm. Đầu hắn cúi xuống, hai tay hắn đút vào túi quần, hắn nện đôi giầy đinh xuống mặt đất như muốn giẫm nát những viên gạch lổn nhổn. Mụ điên chẳng buồn nhìn theo. Mụ quay trở lại, xắn quần đến bẹn, ngồi gặm những quả xoài do Năm Trà ném rơi lăn lóc trên mặt đất. Vừa ăn, mụ vừa lục cái túi của hắn. Mụ lôi ra được mấy bộ quần áo ka-ki. Mụ đứng dậy, bận thử vào mình. Cái quần rộng lùng nhùng, mụ kéo lên tới ngực. Cái áo dài tay che lấp cả bàn tay đen đủi của mụ. Mụ ngồi xuống bực gạch, cẩn thận xắn lên từng nếp một. Rồi mụ đứng ra giữa lối đi, ngắm vuốt một mình, và khoe khoang với tất cả mọi người chung quanh. Bây giờ thì không còn ai dám nói gì đến mụ. Người ta sốt ruột về những cử chỉ lì lợm của gã con trai.
Quả nhiên đến quá trưa hắn trở về. Mặt hắn đỏ nhừ và hơi thở sặc sụa men rượu. Bên nách hắn còn ôm thêm hai chai nữa. Hắn đi lảo đảo. Mặt hắn ngửa lên trời, môi hắn mím sít lại, cặp lông mày đen và rậm díu vào nhau. Mắt hắn quắc lên dữ dội. Đến cửa nhà, hắn dừng lại, trân tráo nhìn bà cụ, rồi bất thần hắn túm lấy hai vai bà cụ lắc lấy lắc để. Mồm hắn la lên:
"Cay nghiệt! Làm sao bà đem cho con tôi đi!"
Mụ nhìn hắn sợ hãi. Hai tay mụ gỡ bàn tay nắm cứng của hắn. Chân mụ lết ra đằng sau, cặp mắt của mụ nhìn hắn như van lơn, mồm mụ há hốc đầy dãi rớt. Một lát mụ vùng lên chạy. Vừa chạy mụ vừa la:
"Chó đẻ mày đánh tao, chó đẻ mày đánh tao. Thằng Năm về nó bắn chết cha mày!"
Năm Trà co chân chạy theo. Hắn hớt hải:
"Má ơi... Con đây... Năm đây..."
Hắn túm được mụ ở đầu rãnh. Mụ chắp tay lên đầu vái hắn lia lịa:
"Tui lậy ông... tui lậy ông..."
Năm Trà ôm lấy mẹ khóc lên rưng rức. Nước mắt của hắn ướt đẫm cả chiếc áo có cầu vai. Rồi hắn dìu bà cụ đi, miệng không ngớt nói:
"Má ơi! Năm đây! Năm Trà đây!"
Mắt mụ điên sáng lên mừng rỡ. Mụ quay phắt sang túm lấy ngực áo của hắn. Mụ ngắm nghía Năm Trà từ đầu đến chân, tay mụ sờ lên khuôn mặt đẫm nước mắt của hắn. Một lát mụ run rẩy:
"Năm! Phải Năm không?"
Hắn ôm chầm lấy mụ:
"Con đây!"
Hai mẹ con cùng òa lên khóc. Hắn dẫn bà cụ đi vào trong nhà. Lúc khép cánh cửa lại hắn không quên ném cho những người hàng xóm tò mò một cái nhìn hằn học. Nhưng chỉ một lát sau, mụ điên đã chạy ra, chân mụ nhảy cuống cuồng, mồm mụ la lên:
"Quân chó đẻ! Quân chó đẻ! Con tao nó về nó bắn chết cha mày!"
Nói rồi mụ chạy tuốt ra ngõ. Tay mụ ôm khư khư một quả xoài ngoạm dở. Năm Trà đứng sững ở cánh cửa nhìn theo. Sự uất ức khổ sở đưa đầy lên cổ hắn. Hai tay hắn đấm vào nhau. Rồi hắn quơ lấy chai rượu, đập mạnh cái cổ chai xuống nền xi măng. Tiếng thuỷ tinh vỡ tan tành vang lên sắc và gọn. Hắn ngửa mặt lên, đổ ồng ộc vào mồm. Rượu đổ tràn xuống cổ và ngực áo. Môi hắn rách toác ra, một dòng máu rỉ xuống bên mép. Tu hết chai này hắn đập đến chai khác, tới khi hắn ném cái vỏ cuối cùng xuống mặt đất thì hắn bắt đầu ngất ngư. Hắn chồm lại bên cánh tủ, lấy hết sức đẩy mạnh. Cái tủ nghiêng đi rồi đổ xuống ầm ầm. Mồm hắn la lên:
"Hai đâu?"
"Ba đâu?"
"Út đâu?"
"Ối trời đất ơi là trời!"
Kéo xong cái tủ, hắn quay sang đạp đổ cái giường, hai tay hắn múa vung lên những chiếc chân ghế. Hắn đập nát từng thứ đến gẫy tan tành. Hàng xóm đổ xô lại. Hắn mở tung cửa ra, nhăm nhăm cầm mỗi tay một khúc gỗ. Mọi người sợ hãi xô nhau chạy. Hắn chửi theo:
"Chết cha hết tụi bay đi! Chết cha hết tụi bay đi!"
Vừa la hắn vừa thuận chân đá lăn lông lốc những mảnh gỗ ngổn ngang trên mặt đất. Hai mắt hắn đỏ ngầu. Bàn tay nhem nhuốc của hắn rách xoạc ra, rơm rớm máu. Hắn trở vào trong nhà đứng dựa lưng vào vách thở hổn hển. Mồ hôi vã ra thấm ướt cả lưng và ngực áo. Hắn thèm có một con dao sắc bén để đâm chém những kẻ mà hắn mang lòng thù hận. Chợt hắn đứng thẳng dậy, chân hắn đạp nghiêng cái mặt bàn chắn lối vào bếp. Hắn nằm bò xuống trên mặt đất, đầu chui dưới gậm chạn đầy muỗi và màng nhện. Loay hoay một lát hắn lôi ra được một chai dầu. Mắt hắn sáng lên một cách dữ tợn. Tay hắn run run mở nút rồi đưa cái chai lên mũi ngửi. Mùi dầu hôi xông lên làm hắn hả dạ. Môi hắn mím lại, hắn ngước mắt nhìn lên mái nhà thấp. Nghĩ đến bể lửa ngùn ngụt khói lan tràn khắp mọi nơi trong xóm Cỏ, mắt hắn sáng lên. Hắn hắt chai dầu vào những mảng lá khô cong. Sau cùng hắn xòe diêm châm lửa đốt. Đốm lửa trên que diêm đảo lên một vòng rồi lem lém cháy. Trong chốc lát, dưới mắt hắn, mái lá đỏ rực và nóng rát. Cổ họng hắn se lại, nước bọt quyện vào nhau, đùn ở trong hàm, hắn liếm môi rồi trệu trạo nuốt. Một tay hắn quăng chai dầu vào góc bếp, một tay hắn rút khăn ra lau trán và cổ. Mắt hắn bắt đầu hoa lên vì lửa đỏ. Ngọn lửa trên mái bây giờ như một vết dầu loang, liếm lem lép trên nóc bếp. Khói toả mù mịt khắp chỗ hắn đứng. Hắn thấy như cơn giận của mình cũng đang toả ra từ chỗ ấy.
Làn khói bốc từ khoảng trời xanh nhỏ hẹp ngoài sân rồi cuộn lên cao. Gió thổi táp vào khiến ngọn lửa càng bùng lên dữ dội, nhô hẳn ra ngoài những ánh lửa quằn quại thứ nhất.
Phía đằng trước vụt có tiếng hét:
"Cháy nhà! Cháy nhà!"
Tiếng kêu kinh hoàng như xé bên màng tai. Khắp xóm Cỏ chợt nháo lên một cách phi thường. Mọi người đổ xô ra cửa. Tiếng chân chạy, tiếng trẻ con khóc, tiếng la thất thanh truyền nhanh như một luồng điện giật:
"Năm Trà đốt nhà! Năm Trà đốt nhà!"
"Cháy! Cháy!"
Ngọn lửa mỗi lúc một bốc lên cao. Khói và tàn than ngùn ngụt cuộn lên che mờ cả lối đi trong ngõ hẹp. Gió buổi chiều thổi táp lại, xoáy trong đống lửa khơi lên hàng trăm ngàn những đốm đỏ sáng rực bay tứ tung. Tre nứa khô ròn bắt lửa như những ngọn đuốc, nổ toác ra, kêu lốp bốp. Ở khắp mọi nhà người ta bắt đầu quăng ra đường mọi thứ đồ đạc. Lối đi bất chợt nghẽn lại, sóng người xô đẩy ngã sấp lên nhau, tiếng cãi vã chửi rủa, xen lẫn với tiếng khóc la thảm thiết gây nên một khung cảnh hỗn độn kinh hoàng chưa từng có.
Ở cửa nhà bác Nhan, mọi người cũng đang dồn cứng lại. Bác Nhan gái mặt cắt không còn hột máu, một tay xốc cái Hơn bên nách, một tay nhét vội những mớ quần áo vào tay nải. Bác Nhan trai cuống cuồng chạy lên chạy xuống. Vật nào bác cũng muốn vơ, mà vật nào cũng chẳng có cách gì mang đi được. Hai tay bác lay thử cái giường ọp ẹp. Mặt ván nhúc nhích một tí rồi lại nằm ì trên mễ gỗ. Mồ hôi bác vã ra, hơi thở phì phò đùn dốc ra ở mũi. Bác bỏ cái giường ra vần chiếc bàn thờ. Mấy cái chân nến đảo lên rồi đổ nghiêng ngả. Cái bát hương nghiêng đi, lăn xuống mặt phản vỡ tan tành. Có tiếng bác gái rít lên:
"Ăn hại! Đồ ăn hại! Trời đất ơi, chồng với con!"
Bác Nhan trai tức mình đứng phắt đậy, trừng mắt nhìn vợ:
"Ăn hại cái gì? Đừng có lắm chuyện! Sốt tiết lắm nữa!"
Tiếng hai vợ chồng chợt chìm đi vì tiếng la ồn ào:
"Cháy sang nhà Tốn rồi! Cháy sang nhà Tốn rồi!"
Hai vợ chồng hốt hoảng chạy ra ngó bên ngoài. Phía trước mặt là một biển lửa đỏ rực mù mịt tàn than. Những mái lá đang sụm xuống, đổ nghiêng đi, rui kèo bửa ra rơi lả tả.
Ngọn lửa càng ngày càng mạnh, mỗi lần gió thổi tốc đến, những mảnh than hồng sáng chói lại bốc lên, văng ra bốn phía bắt vào lá khô ở mái bên cạnh, cháy lem lém. Ngoài đường cái, tiếng còi xe cấp cứu chợt rú lên thê thảm. Sóng người trên lối đi lại một phen bị dồn ép. Bây giờ thì không còn ai lo lắng đến đồ đạc nhà mình nữa. Tiếng con gọi mẹ, vợ gọi chồng, tiếng người xéo giẫm lên nhau kêu gào khóc lóc gây hỗn loạn cả một góc trời.
Tới lúc này, Hai Hào mới nghe tin và chạy bổ về. Gã quăng xe ở ngoài đường cái. Mặt gã tái mét, gã vừa len qua những đống đồ đạc ngổn ngang trên mặt đất, vừa la hốt hoảng:
"Mình ơi! Chèng đéc ơi!"
Gã lao vào đám đông. Cụm người nêm cứng lại. Ngực gã vướng phải một người đàn bà hai tay còn nắm khư khư lấy miệng túi áo. Mụ ta tru tréo:
"Coi chừng tao... quân ăn cướp..."
Cánh tay mụ chợt bị hất mạnh. Một cuộn tiền rơi ra vung vãi, mấy cúc áo của mụ xổ tung, vạt áo xoạc ra từng mảnh. Mụ la lớn:
"Ối làng nước ơi! Nó cướp của tôi!"
Lớp người lại xô đến. Lần này thì người ta vít mụ xuống, hàng mấy chục bàn tay thi nhau khoắng lấy những đồng bạc rơi lả tả trên mặt đường. Tiếng kêu của mụ bị át đi. Người mụ chúi về đằng trước, bộ ngực vướng phải những bắp thịt cuồn cuộn của Hai Hào, khiến hắn dẫy nẩy như người phải bỏng:
"Ý chèng đéc ơi! Xê tôi ra..."
Tiếng của gã cũng bị át đi. Những người đằng trước xô gã lại, những người đằng sau đẩy gã lên. Người đàn bà tóc xổ tung gần ngất đi trong cánh tay của gã. Gã càng thêm cuống quít:
"Ý chèng đéc ơi! Xê tôi ra..."
Gã cố gắng dìu mụ lại gần một đống gỗ. Khuôn mặt mụ nhợt nhạt, cặp mắt đờ hẳn đi, miệng mụ không ngớt kêu lải nhải:
"Tiền hàng của tôi! Tiền hàng của tôi! Ối giời ơi là giời!"
Hai Hào đặt vội mụ ngồi trên một cái chõng xiêu vẹo, đoạn gã trèo lên nhìn vào trong ngõ. Căn nhà của vợ chồng gã lửa đã bén xuống cánh cửa và đang ngùn ngụt lan xuống hàng rào. Ở đằng xa, những vách gỗ của dẫy nhà xóm trong đang xiêu đi và bắt đầu sụp xuống. Than hồng lả tả rụng văng ngập cả lối đi và cống rãnh. Gã chợt nom thấy vợ mình đang ngoi ra từ mấy cái chạn gỗ đổ lổng chổng. Một tay Đào dắt Phó Ngữ, một tay nàng cố níu theo cái tay nải bị đám đông vít lại, trôi ngược về phía sau. Hai Hào sung sướng nhẩy chồm lên, gã vỗ đùi đen đét:
"Ý! Mình ơi! Chèng đéc ơi..."
Gã nhẩy bổ ngay xuống đất và cố sức len vào. Trong đám đông hỗn loạn, mơ hồ gã nom thấy đủ mặt mọi người quen thuộc. Tất cả chen nhau giạt ra xa để tránh những cái rui nhà đổ văng xuống. Lửa nóng dữ dội làm ai nấy đổ mồ hôi, mặt lem luốc đầy tàn than và rát như phải bỏng. Người ta xúm lại kéo đổ những túp lá còn lại. Tre nứa quằn quại cháy, vách đất bửa ra, chum vại thi nhau nứt toác rồi vỡ tan tành gây nên những tiếng nổ chát chúa.
Một lát sau, Hai Hào đón được bàn tay của vợ. Gã sung sướng bế nàng lên hai cánh tay. Miệng gã không ngớt la:
"May thiệt là may. Tôi ngỡ mình chôn luôn trong đó rồi chớ!"
Đào lả đi trên vai gã, nàng nói ấm ức:
"Bố tôi không say thì còn chạy được bao nhiêu là đồ.”
Hai Hào quay lại nhìn. Gã thấy mặt Phó Ngữ đỏ lừ vì men rượu. Đầu lão ngất ngư, mắt lão lim dim, lão túm lấy Hai Hào kè nhè:
"Thôi hỏng! Tao quên mất cái áo sa đen trăm mấy bạc! Hai... Hai Hào quay lại đi!"
Hai Hào tức mình đun lão một cái. Lão ngã ngồi trên đống vữa vụn. Gã đặt Đào xuống, ôm bổng chiếc tay nải lên vai. Vừa len chân lấy chỗ ra, gã vừa càu nhàu:
"Quay! Quay cái nỗ đít! Tôi hãi bỏ bố tôi đi.”
Căn nhà cuối cùng đang bị kéo xuống gây nên tiếng đổ gẫy răng rắc và sau cùng sập xuống nghe đánh rầm như trời long đất lở. Mọi người ùa ra. Một luồng gió thổi mạnh làm làn than bay vung lên, có những đốm lửa cháy đỏ quay cuồng trong không khí. Toàn xóm Cỏ bây giờ chỉ còn là một khung cảnh hoang tàn đang ngùn ngụt cháy. Khói cuộn lên che kín cả một vùng mây. Cả một khoảng trời đỏ rực lên và đầy khói nóng.
Phía ngoài xa, hàng ngàn người chen nhau đứng chật ních trên đường cái và trong các quán chợ. Đồ đạc, quần áo, nồi niêu vớt vát được, người ta quẳng ngổn ngang khắp mọi chỗ. Từ mạn trên phố, đoàn xe cứu thương và cứu hoả không ngớt đổ đến, tiếng còi rít lên từng hồi nghe vừa khẩn cấp vừa thê thảm. Càng về chiều, trời càng nổi gió, ngọn lửa càng cháy mạnh. Mãi đến lúc tối mịt, đám cháy mới hạ dần. Lửa đỏ soi bóng đám người khốn khổ lố nhố trên mặt đường. Trong khoảng tối mờ mịt, lúc này người ta mới đi tìm nhau. Vợ gọi chồng, con gọi mẹ, tiếng than khóc, hỗn độn không kém lúc ngọn lửa mới bắt đầu bốc lên.
Lão Hói cũng xuất hiện ở đám người ấy. Lão vẫn say khướt như mọi ngày. Ống chân rún rẩy trên đôi giầy ba ta rách. Cái túi lúc lắc trên vai. Khuôn mặt lão thấp thoáng trong ánh lửa đỏ. Hai tay lão múa lên, giọng lão kè nhè:
"Có ông trời mà... Có ông trời thiệt mà..."
Rồi lão nằm lăn ra bờ cỏ, lục túi lấy chai rượu, ngửa cổ tu từng hơi ừng ực. Hơi men đưa lên nóng bừng bừng. Lão cất giọng ngâm ư ử:
"Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu.
Hoàng thiên thương mến quả địa cầu.
Giáng tạo thay đời không tranh đấu.
Thế giới thanh bình khói thuế sâu.
Có trời! Có ông trời thiệt mà..."
Trước mắt lão, khung cảnh hỗn loạn và vui tươi như một ngày mở hội. Những bóng người chạy thấp thoáng trong ánh hồng rực lên của tàn than. Nền trời cao vút long lanh mấy vì sao. Gió buổi chiều lùa xuống mát rượi. Bên dưới, xóm Cỏ với những nếp nhà xiêu vẹo, mọc chen nhau san sát đã trở thành bình địa. Khói âm ỉ bốc lên từ những thạp gạo và đồ đạc cháy giở. Các lối đi bị lấp kín. Tất cả chỉ còn là một khoảng trống, hầm hập hơi nóng, đưa lên mùi khét lẹt.
Chương cuối
Trời đổ mưa dữ dội. Những giọt mưa đầu mùa sầm sập rơi như thác chảy. Xóm Cỏ chìm trong làn nước trắng xoá mù mịt. Nước xoáy miết vào những đống tàn than và gạch vữa, bào lên từng mảng đất bở, rồi cuốn trôi băng băng theo cùng rác rưởi. Dòng nước đen ngầu sùi bọt, ứ lên từ những chỗ trũng, trào len lỏi qua những chiếc rui cột chỏng chơ rồi đổ ra đường cái. Gió thổi phần phật vào những mái lều dựng tạm thời trên một khoảng đất mới dọn. Những cái cột mỏng manh nghiêng đi, vít từng sợi dây thừng căng ra nghiến ken két vào thớ gỗ. Nước quạt ào ào trên nóc lều, thổi tung từng cánh bạt, hắt xiên vào quá nửa mé bên trong.
Trẻ con túa hết ra ngoài mưa. Chúng nó đuổi nhau, hò hét trong những vũng nước bẩn. Bóng dáng trần truồng của chúng len lỏi qua những cái rui kèo đen thui nằm nghiêng ngửa trên đống gạch vụn. Tiếng hò hét cười đùa xen lẫn tiếng chân lội bì bõm làm tung toé bọt. Cơn mưa đổ xuống bất chợt khiến bầu không khí mát rượi hẳn đi. Sấm chớp thi nhau nổ rền trên một khoảng trời xám đục. Những người chờ đợi cơn mưa từ mấy tháng trời chạy túa ra khỏi lều, ngửa mặt lên cao. Từng đợt nước hắt lên mặt, xối xả chảy từ cổ xuống chân làm những mái tóc ướt rã rượi, rũ hết cả ra phía đằng sau. Người ta bật lên những tiếng khoan khoái:
"Mưa... mưa!"
Cơn mưa vẫn tiếp tục đổ liên miên hầu như không dứt. Than, củi, gỗ nổi lều bều trên mặt nước, xoay tròn, trôi băng băng ra ngoài đường. Những nếp tường đổ, những cái thùng đen xám nằm nghiêng ngửa, những rui kèo sần sùi muội than và những cái thềm trơ trụi hoang tàn trong khoảnh khắc được rửa sạch.
Ngồi trong lều, bác Tốn thủ thằng Giăng vào vạt áo. Nó nằm ngửa trong vòng tay của bác, đôi mắt thao láo phô ra một mầu xanh biếc như hai viên ngọc đang mở to nhìn chăm chăm vào mặt bác. Cái miệng xinh xắn của nó hé ra hai vành môi đỏ hồng nom tươi tắn như nụ hoa. Bàn tay nhỏ xíu bụ bẫm và trắng ngần của nó hoa lên, có lúc quơ được cái vạt áo của bác thì nó níu chặt lấy. Thằng Ích ngồi bên cạnh cố che cái nón ra phía đằng trước để tránh những cơn gió tạt vào. Bác Tốn nghển cổ lên, hàm răng trắng bóng nhe ra như bác đang nhăn nhở cười. Bác nói lớn vào tai thằng Ích:
"Công tử có bị ướt không mày?"
Ích hét to:
"Không ướt một ly.”
"Ngủ hay thức?"
Ích nhìn vào cặp mắt xanh lơ của đứa bé:
"Thức! Mắt thô lố ra thế này này.”
Bác Tốn cúi xuống ôm nó vào sát với mình hơn. Bàn tay của bác quờ quạng và bác rờ được lên một bên má mũm mĩm của nó. Bác ghì nó chặt hơn và ghé môi hôn lên má nó chùn chụt. Một lát bác nói:
"Giá còn cái đàn nhỉ!"
Ích cười:
"Còn giá với rổ gì nữa. Cháy tiêu rồi!"
"Chắc không?"
"Tê đi chứ lại!"
"Ừ nhỉ, tao để nó ở đầu giường. Lúng túng với nhà ông này, quên bố nó mất.”
"Bác tiếc không?"
"Nói như bố chó xồm ấy. Mất đàn mà lại không tiếc.”
Ngừng một lát bác tiếp:
"Mà cũng chả tiếc đâu. Của đi thay người.”
"Nhà bác này ấm ớ thật. Tiếc rồi lại không tiếc.”
"Nhà ông tiếc không?"
"Tiếc chứ!"
"Ừ nhỉ, cũng tiếc thật. Cây đàn bao nhiêu năm đi hát với mình.”
Ích nói:
"Chả cần! Rồi có tiền lại mua.”
"Nhưng giờ mình biết đi hát làm sao đây. Không có đàn kiếm ăn khó chứ chẳng chơi đâu!"
Một lát Ích hỏi:
"Bác biết thổi sáo không?"
Bác Tốn phát đánh đốp vào lưng nó một cái rồi reo lên:
"Có thế mà tao không nghĩ ra. Sáo tao thổi thì phải biết. Đếch chê được!"
Ích múa tay:
"Sáo thì ở chợ thiếu gì!"
Bác Tốn nâng hẳn thằng Giăng lên, áp cả người nó vào một bên vai của mình, mũi của bác hít hít vào cái cổ thơm tho của nó. Rồi bác nói:
"Thế thì tê đi rồi. Còn sợ gì nữa!"

Cả hai bác cháu cùng vui vẻ quay ra ngoài trời. Trên một khoảng nền đất rộng, những mái lều được dựng lên san sát đang nghiêng ngả dưới những đợt mưa. Nước vẫn xoáy tròn, miết vào đống kèo rui cháy dở, làm rác nổi dềnh lên, táp vào những khoảng thềm hoang trơ trụi đất. Gió thổi ào ạt trong lùm cây, lùa qua những ống nứa ngổn ngang trên đống vật liệu xây cất, văng vẳng nghe như có tiếng sáo trỗi lên ở đâu đây...

Sài Gòn tháng 10/1959
tháng 4/1961
Nhật Tiến
Nguồn: Thềm hoang, truyện dài của Nhật Tiến. 
Đời Nay ấn hành lần thứ nhất ở Sài Gòn năm 1961 
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thơ có cần thiết cho đời sống? 10 Tháng Ba, 2023 Trong kỷ nguyên nghe nhìn, thơ đang có khoảng cách với đời sống. Độc giả thèm khát nh...