Thứ Tư, 28 tháng 7, 2021

Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương

Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương

Mới nghe cũng nghĩ rằng là thực
Sau nghĩ ra xem một tiếng bòm
(Hồ Xuân Hương)
1. Tỷ dụ là Hồ Xuân Hương có và tất cả các tác phẩm năm cha và ba mẹ [1] người ta gán cho nàng đều của nàng thì, để bắt đầu, người ta có thể nói rằng mọi vật trong thơ nàng đều chảy nước. Quả mít chín cây cũng như những núi đá. Nước có thể nhiều. Khi thì nước tăn teo như sắp cạn. Ngần ấy nước tuy nhiên đều là nước ở trong ta. Có một dòng thông chảy giữa trong và ngoài sự vật. Lượng của nước tùy sự thông nhau ấy. Sự thông nhau càng lớn, nước càng to, cái vui của thi sĩ càng nhiều. Và giữa một vùng nước lộn trời thì cái vui ấy, tới cùng độ, được gọi là cực lạc:
Một vũng tang thương nước lộn trời.
Bể ải nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân trăm trượng dễ khơi vơi.
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười!
Nước cực lạc ấy của nguồn ân và bể ái chứa chan, là nước rất nhiệm mầu. Khôn tát cạn và cũng như ái và ân nó ở lòng mọi vật trào ra. Hạnh phúc nó cho là của những tấm lòng son đầy và mở, khi, giữa ngoài và trong, ly gián không còn nữa, tất cả chiều sâu rào rạt lộ ra ngoài. Lẽ dĩ nhiên không phải nước nào cũng cho hạnh phúc. Có nước nhiệm mầu thì cũng có nước mỉa mai. Nó rơi lõm bõm. Nó vỗ tông tông. Ấy là nước hang nghĩa là nước rỗng của những hò đá rỗng. Khi thì nước chết. Trông nó như vẽ. Và nó trắng xóa và nó phẳng lặng tờ. Mặt phẳng kín ấy, tẻ nhạt và có mầu trắng bạc như vôi, là của một thế giới nghèo lòng đã như khóa trái. Nhưng nước nào thì nước và cả sự thiếu nước nữa cũng nhắc đến một chiều sâu. Và tất cả xảy ra như trong Hồ Xuân Hương mọi vật đều giữ một nguồn nước ẩn. Như tấm lòng son của cái bánh trôi là một kết-tinh-thể của đào nguyên.
Một tầng nước, một tầng thịt, và một tấm lòng son ở cuối. Thơ Hồ Xuân Hương mời người ta vào một thực-thể địa-tầng luận. Càng vào sâu thì thực thể càng đặc, càng chắc và càng nặng. Và tấm lòng son ấy chỉ là thực-thể ở mật độ tuyệt đối. Một khối nhỏ. Nhưng son của nó chẳng bao giờ thôi. Ở giữa lòng thực thể nó là cái nguồn không thể nào vơi của thực thể. Và nó có thì cái bánh trôi, rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, mới vẫn còn là cái bánh trôi. Hay nói một cách khó nghe hơn thì căn bản của mọi vật ở lòng của chúng.
Mà đã có lòng thì chúng có vỏ. Sự phân biệt ấy có lạ gì! Thói thường coi vỏ là thứ bỏ đi và người ta vẫn nghĩ rằng chỉ những cái ở trong mới thật đáng kể. Chẳng hạn một tâm hồn đẹp có thể chuộc lại cả một đời khốn nạn, và người ta có thể làm như mọi người, xu thời, yên phận và gật đầu nhận tất cả những tàn bạo, những áp bức, những oan khổ của đời, miễn là ở trong người ta vẫn khác đời và, như người ta nói, mình lại biết mình là được. Có một cái lòng để sống như thế thật sướng biết mấy! Ấy là cách sống có lề, có lối, có gói và két ở băng của những người biết sống, một thì có gái để chơi, một thì vẫn giữ vợ ở nhà để trọng, để quý, để chiều và truyền cho đời sau gia tài và cái nòi biết sống của mình. Nhưng tiếc thay Hồ Xuân Hương không biết sống như thế! Lẽ dĩ nhiên thơ nàng cũng có sự đổi nhau giữa ngoài và trong. Ấy là thể và phần của tất cả những xuyên tạc. Sau những xuyên tạc ấy tuy nhiên, Hồ Xuân Hương tin là vẫn có, trường tồn, một cái nhân nguyên ủy. Nhưng mộng của nàng là làm thế nào cho cái nhân ấy được giải phóng. Thơ nàng không là thơ của những cuộc đời đã tháo lui vào thế giới ở trong. Nàng không ca ngợi nội tâm, như người ta ca ngợi chữ trinh còn lại của Thúy Kiều, là cái két tự để dành của những tâm hồn chọn lọc. Mà nói đến nội tâm, trong thơ nàng, như một sự sống cũng không thể. Cái ở trong còn ở trong thì sống chỉ là sống tù, sống mượn, sống giả. Và Hồ Xuân Hương đòi người ta sống theo lòng mình nghĩa là sống tự do, sống mở và sống cho cũng như, để có cái biết thực trong thâm tình của mọi vật, nàng đòi người ta xé vỏ chúng. Thơ nàng không ngừng tố giác những xuyên tạc của ngoại thể và đạo lý của nàng không là cái đạo lý khôn ngoan của những người mượn cái tốt ở trong để minh oan cho cái xấu ở ngoài. Mà nàng cũng không so cái tốt ở ngoài và cái xấu ở trong để, một lần nữa, như tất cả mọi người, nguyền rủa những đồ rẻ cùi nhưng đẹp mã. Xấu và tốt, những thứ loại của cái đạo lý xã hội, đã mất nghĩa. Chỉ có một cái xấu. Là cái hoạ của những đời không thực, khi, trong và ngoài gián đoạn, người ta, chẳng biết lòng mình đâu và chỗ nào là lòng mọi vật, đành sống điêu trên một thế giới xa nguồn.
2. Cái bánh trôi thì trái lại vẫn giữ tấm lòng son của nó. Mà nó không giấu, mà nó vẫn khoe, và thế nghĩa là, rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, nó và lòng của nó vẫn là một. Hạnh phúc của nó là không có bí mật và được lội và nổi và chìm trong nước ngọt và nhiều. Chìm và nổi lẽ dĩ nhiên chỉ là những kiểu nói trái. Và ai cũng biết rằng cuộc trầm luân ấy của cái bánh trôi là một cuộc tắm mình giữa một dòng cực lạc mà ngay nó lại là nguồn.
Có một Hồ Xuân Hương trèo thì cũng có một Hồ Xuân Hương bơi. Nhưng trèo là đi ngược chiều đá nổi sóng mà bơi là để mình xuôi theo một dòng lành. Ấy là một chuyến thủy-du nhiệm-màu. Lâng-lâng êm-ái và rất nhẹ nhàng, không cần một cố gắng nào, tự nhiên người ta thấy mình ở giữa vùng cực lạc. Cực lạc không tìm cũng gặp. Tại nó chỉ là cực lạc của lòng mình. Mình lại trùng với mình. Nhưng mình trùng với mình ở giữa lòng thế giới. Tại thế giới đầy và giầu nên lòng người ta giầu và đầy. Và ngược lại thế giới đến người ta nhiều như chim đến vườn đào là tại như vườn đào lòng người ta nhiều và mở. Lòng người ta là ái thì lòng thế giới là ân. Người ta đã ngọt ngào thả mình xuống thì ngọt ngào thế giới đón và chở và mang. Thế giới và người ta là một cũng như bơi là sống một lòng với nước. Cái bánh trôi và nước quanh nó đồng tâm, và tấm lòng son ấy là cái nguồn chung của tất cả. Tất cả đều thông nhau, tất cả đề cùng một chất, và thịt cái bánh trôi, rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, vẫn không ngớt nở làm thịt hoa. Nó nở trắng và tròn.
Tròn là sung mãn. Là thận, là thuần và gọi vuốt ve cũng như mầu trắng ấy người ta biết của một xác thịt tự do nghĩa là ngọt và dẻo và rất nõn nà. Nhưng tròn cũng có nghĩa là chu toàn nữa. Thực thể tròn là thực thể không tan trong thực thể. Như cái bánh trôi chìm trong nước những vẫn giữ tấm lòng son và, chan hoà ở giữa lòng thế giới, người ta lại gặp lòng người ta thực hiện. Cái nguồn cực lạc, vẫn trào ra nhưng không thể cạn, cũng là cái nhân của một sự trường tồn. Vừa là lưu thuỷ nó vừa là kết tinh. Nó xoè khắp mênh mông và cả mênh mông lại trở về nó tụ hội. Nghĩa là có nó làm trung tâm, mênh mông là một mênh mông tròn. Hình tròn ấy không có vẽ một giới hạn, nhưng, giữa mênh mông và trung tâm của nó, nó là cái nhịp ba động – không ngừng chuyển trong ra ngoài và, cùng một lúc, ngược lại, chuyển ngoài vào trong - của cái phận tròn của cái bánh trôi ngay ở tấm lòng son của nó đã gặp cả mênh mông và, giữa mênh mông, vẫn giữ nguyên tấm lòng son của nó. Như một thống nhất điểm.
Ấy là một điểm mênh mông. Nhưng mênh mông không là chỗ người ta thất lạc nữa. Cả mênh mông có mặt trong một điểm. Mọi quãng cách đều mất. Cuộc đời không tìm mà gặp. Thì sống là biết, biết là ái ân, tự do và thực thể tương kết, người và vật đồng tâm mà vẫn giữ lòng riêng. Người ta vẫn là người ta, thế giới vẫn là thế giới, và cực lạc, như một cuộc tương biến giữa trung tâm điểm và mênh mông, giữ nguyên sự kín đáo ấy ngay trong sự chan hòa. Như tấm lòng son của cái bánh trôi, vừa là đá đang hóa nước vừa là nước đang hoá đá, là nơi tất cả, thả mình trong một cái nguồn chung, lại tự thu tròn một sự sung mãn riêng. Tất cả đều thuận nhau, tại tất cả đều cùng một gốc. Và có gốc thì tất cả đều thực. Tròn là tròn, trắng là trắng, son là son. Ấy là những chứ sáng và đầy và mịn và sâu. Và chúng cũng thuận nhau như những gì chúng gọi tên để gọi tên cho đúng trong một ngôn ngữ nhịp nhàng. Không những chúng vẽ ra những thể rất ngọt ngào mà sự ngọt ngào chúng cho người ta thấy còn là của một chất. Ngôn ngữ lên từ lòng thế giới, ở chỗ người ta và thế giới trùng nhau, để dẫn người ta vào thâm tình của thế giới. Hay nói đúng hơn thì tất cả thâm tình của thế giới đã sáng trên mặt chữ. Và trên mặt cuộc đời.
Hạnh phúc ấy tuy nhiên trong Hồ Xuân Hương chẳng mấy lần được gặp. Mà nó ở giai đoạn nào trong thơ nàng? Không ai biết? Nhưng có lẽ người ta đã biết rằng nó là cái nàng vẫn tin là có và vẫn chờ. Nàng chờ nó ở sự xuất hiện của cái lòng của mọi vật. Nhưng mọi vật chỉ cho người ta thấy cái vỏ của chúng. Lòng thế giới đóng nguồn nước ẩn, và thơ Hồ Xuân Hương chạy theo dấu của một đào nguyên đã lánh trần. Như nước của cái giếng thanh tân lẫn cuối một ngõ xa thăm thẳm.
3. A! Cái giếng thanh tân mà Hồ Xuân Hương gọi là một cái giếng lạ lùng! Nàng vừa mong được thấy nó vừa ngạc nhiên trước một khám phá không ngờ. Ấy là sự không ngờ của những lần gặp đầu tiên. Và lẽ dĩ nhiên sự không ngờ ấy chỉ có một nửa. Không ngờ thì làm sao khám phá? Ít nhất thì Hồ Xuân Hương cũng đã ngờ rằng tất cả thế giới không có mặt ở cái trật tự ngoại tại của nó và có ngờ nghĩa là có đã sống cái trật tự ấy như sự thiếu một cái gì căn bản thì nàng mới tìm cách đi vào trong để khám phá rằng cái trật tự ấy chỉ là một cái vỏ và, sau nó, có sự ngọt ngào của một giếng mới, người ta đang chờ mà người ta không biết là người ta đang chờ, vẫn đang chờ người ta.
Giếng thì đẹp. Và nước trong. Nhưng nước trong giếng là nước đã vào khuôn. Cái dòng thông của nó không thông tuyệt đối. Mà người ta cũng chỉ là kẻ đứng trên bờ. Để ngó, để thèm. Thấy giếng thanh tân ai là chẳng? Nhưng lẻn trong sự thèm ấy có một phần e ngại:
Đố ai dám thả nạ rồng rồng?
Hóa ra sự cám dỗ của nước cũng là một thách đố. Như cái thú thung thăng lội giữa dòng là một thú cấm. Nước của cái giếng ấy không phải là nước chảy giữa đường, đại lượng, và ai cũng có thể đi vào. Nó của riêng và, như một tự hữu, người qua đường không có quyền xâm phạm. Mà chẳng ai có quyền. Nước thanh tân đâu có để người dùng. Chủ nhân nó cũng chỉ là người có trách nhiệm giữ nó thanh tân. Sự thanh tân của nó là của nước thiêng cũng như nó là nước thiêng của lòng đất. Vượt cái ngõ sâu thăm thẳm dẫn đến dòng nước thiêng cũng như nó là nước thiêng của lòng đất. Vượt cái ngõ sâu thăm thẳm dẫn đến dòng nước ấy vừa là vượt một tầng ly gián vừa là vượt một vòng giới nghiêm. Ấy là một sự gây hấn, một cuộc tấn công, một cử chỉ xâm đoạt. Khám phá của Hồ Xuân Hương có tất cả những tính cách của bạo động. Và nàng cũng khám phá rằng có tính bạo động thì người ta mới khám phá và thấy được lòng mọi vật. Khám phá nghĩa như là khám phá. Lòng mọi vật đang bị tù. Nó chờ được giải phóng. Và ở giữa nó và người ta vẫn chặn một cái vỏ xù xì.
Cái vỏ ấy có thể, như cái cửa ngõ chặn đường tới giếng chẳng hạn, là một trật tự do xã hội xếp đặt. Nhưng xã hội chỉ xếp đặt - và ấy là sự thiếu căn bản của tất cả những trật tự - một cái vỏ vốn có của mọi vật làm sẵn như để giữ mình. Mà để nói thật thì cái vỏ ấy ở đâu lại Hồ Xuân Hương cũng chẳng để ý. Quan trọng là nó có. Nó chặt đôi thực thể. Một nửa thì nó cấm ở ngoài. Và nó cầm ở trong một nửa. Trong là đề lao thì ngoài là ngục thất. Cuộc sống ở đằng nào cũng bị nhốt. Ngoài, quân tử dùng dằng đi chẳng rứt thì trong, một lạch đào nguyên suối chửa thông. Hai cảnh ngộ nhưng của cùng một sự bế tắc. Cái lòng của mọi vật đã khóa lại thì kẻ qua đường cũng quẩn lối về. Sự dùng dằng của cùng người quân tử là của một tự do đã mắc cạm. Ấy là cái cạm của ngoại thể. Như người “thiếu nữ ngủ ngày”, là cái máy dử người ta vào thế bí. Cách loã trang của nàng cám dỗ người ta lại. Nhưng người ta lại thì nàng lại trốn vào một giấc ngủ thờ ơ. Vừa thờ ơ cảnh cám dỗ. Cũng như thơ nàng, trong thơ Hồ Xuân Hương cảnh thường lưỡng ý. Ý cảnh ngược nhau như ý nào cũng chỉ có nửa chừng nghĩa là chưa có đã có cái ý khác chặn đường để, kết luận, người ta chẳng biết ý nào là thực. Nói một đằng cảnh chằng một nẻo. Vừa gọi người ta nó vừa đào tẩu. Sự ỡm ờ ấy làm cái điêu trác của ngoại thể. Nửa nạc nửa mỡ, nửa hở nửa kín, ngoại thể lừa người ta và người ta lạc trong một trò hú tim không thể giải quyết. Hay nói đúng hơn thì chỉ có một cách giải quyết cho cảnh úp mở ấy. Là sự tỉnh giấc của cái nguồn đang ngủ. Nhưng cái nguồn vẫn ngủ và người quân tử, không biết đâu mà lần, đi thì cũng dở, ở không xong. Những mâu thuẫn của ngoại thể chuyền tay nhau giữ hắn và giằng co. Hắn gỡ ra không nổi. Như một người sờ mít nhựa ra tay.
Cảnh nhầy nhụa ấy là một cảnh sa lầy nữa. Vẫn một cái hoạ của cuộc đời bị tống ra ngoài vỏ! Ngoài là chỗ tự do, chỉ tựu thành khi cùng lòng mọi vật tương kết, như còn chửa biết mình. Nó không dám tự xưng. Và nếu ngoại thể còn làm nó sa lầy thì cũng tại nó còn sa lầy ngay trong nó. Nhựa ra tay người ta tại người ta vẫn dùng dằng chưa quyết. Lẽ dĩ nhiên nhựa ở lòng quả mít ra. Của lòng mít và của lòng đất (nghĩa là của lòng thế giới như trong Hồ Xuân Hương, lòng của vật nào cũng là trung tâm của tất cả). Nhưng nước lòng ấy không trong và thoải mái. Mà đâu nó còn thật là nước? Nó là nhựa nghĩa là một thứ nước thiếu thật thà, nhầy nhụa và phản trắc đã lỡ mó vào là trở tay không kịp nữa. Như chính tay người ta đang chảy nhựa. Không cứng như đá trong một thể nhất định nhựa cũng không lỏng như nước sẵn sàng mượn nghìn thể khác nhau nghĩa là như một tự do tuyệt đối, ở thể nào cũng thuận và có sức chan hòa có thể cưới được cả mênh mông. Nó là một chất nhựa thành chất, nửa muốn chan hoà, nửa muốn keo lại, và dở dang như chính người quân tử, chẳng biết mình muốn gì, tự giam vào những cử chỉ thậm thụt, khả nghi và gian lận. Thì làm sao hắn giải phóng được gì? Khi ngay hắn còn chưa thể tự giải phóng! Và cảnh nhựa ra tay làm chứng cho một sự khó ở trong mọi vật cũng như ở lòng người. Nửa như muốn, nửa như không, người ta mân mó, ngó ngoáy, châm chọc. Những cử chỉ thậm thụt ấy như tìm cách đánh thức cái nguồn đang ngủ. Và đôi khi cái nguồn ấy cũng tự nhiên chợt tỉnh giấc. Quả mít chảy nhựa. Ong non ngứa nọc, Dê cỏn buồn sừng. Như cả một chiều sâu ngọ nguậy đang cố sức ngoi ra ngoài. Nhưng sức không đủ, vỏ không chịu vỡ và người ta chỉ có những thể nhỡ nhang. Của cỏ gà lún phún, của siêu hương lấp ló, của nước mó lam nham. Những tính tự vô phúc ấy chỉ nhắc lại, một lần nữa, sự vô phúc của vẫn một cảnh úp mở và ỡm ờ.
Ấy cũng là sự vô phúc của cảm giác. Không những cảm giác như một cái biết qua ngũ quan, nhốt người ta vào những mâu thuẫn của ngoại thể mà ngoại thể, như một cái xù xì và nhầy nhụa, chỉ cho người ta những cảm giác khốn nạn nhất. Mà thật thế. Sướng gì khi sờ thấy lún phún, nhòm thì thấy lấp ló, mó thì thấy lam nham. Ngần ấy cảm giác nhưng vẫn chỉ một cái biết ngắn, nghèo, nông và thiếu. Cái biết ngoài da ấy là một cái hoạ. Nhưng sự sung mãn của một vùng nước chan hoà vẫn chờ người ta ở giữa lòng thực thể. Và cái lòng ấy vẫn chờ được giải phóng. Hóa ra sự ỡm ờ của mọi vẫn chỉ là một cách gọi bạo động! Cũng như bao động là cách độc nhất để phá sự ỡm ờ của mọi vật và bắt chúng tự xưng. Con ốc nhồi chờ được bóc yếm. Quả mít chín chờ được cắm cọc. Tất cả đều chờ người ta xé vỏ chúng. Vừa là một giải phóng tri thức vừa là một cưỡng dâm.
4. Nhưng không phải ngẫu nhiên mà trong Hồ Xuân Hương người ta gặp những thể bạo động ấy của nhục tình trong cuộc truy tầm cái biết thực. Thiên đường của cái biết thực, như một sự chan hoà trong lòng thực thể, có khác gì cực lạc của nhục tình, khi lòng thực thể chan hoà những người yêu? Ấy chỉ là những kiểu khác nhau của thực thể để đạt tới lòng mình. Nhưng để thành công chúng đòi làm nổ tung lên những gì đang chặt đôi thực thể. Và trong Hồ Xuân Hương có một cái thú của sự công phá. Núi của nàng đâm toạc chân mây và dang tay và. Xoạc và toạc là những chữ nổ và xé, như cắm cọc và bóc yếm, nặng nghĩa của nhục tình. Nhưng có lẽ người ta đã biết rằng Hồ Xuân Hương không săn trong nhục tình những mồi ngon cho ngũ giác cũng như nghệ thuật tả cảnh của nàng, như người ta sẽ thấy, không tả nhưng để phá cảnh. Cảnh càng ngoạn mục thì nàng càng ngó mắt nhòm. Hẳn cái nhòm ấy không thể thưởng lãm. Nhòm là một cái nhìn soi móc và tọc mạch như, sốt ruột trước những gì trông thấy được, Hồ Xuân Hương muốn đâm thủng cái vỏ vui mắt ấy để, lột truồng mọi vật, trả lại cảnh nhục tính của nó. Không phải ngẫu nhiên mà cái cảnh cực-lạc-độc-nhất trong thơ nàng là một vũng tang thương! Có tang thương nghĩa là trời có long, đất có lở, thế giới có vỡ vỏ thì lòng thế giới mới ồ ra làm cho nước lộn trời. Sự sụp đổ của những trật tự, trong những cuộc đổi đời, là chừng ấy dịp may cho thực thể trở thành. Và Hồ Xuân Hương ghét những trật tự như nàng ghét những gì người ta gọi là ngoạn mục. Lòng người thi sĩ ấy tưng bừng reo như rào rạt nguồn thơ đúng lúc, thế giới chỉ còn là một vùng nước thuần nhất và mênh mông, nàng không có gì để ngắm và tả nữa cho đẹp mắt người đời. Mộng của nàng là một ngày hồng thủy và tất cả những công phá thơ nàng náo nức gọi là để cướp lại một sự êm ái không ngờ. Nghĩa là nàng không gọi chúng để làm đau xác thịt. Thú bạo động trong thơ nàng không là thú ác dâm. Nhưng của một sức mạnh tưng bừng, thủ tiêu tất cả những giới hạn. Cũng như khi sức mạnh ấy chưa thức dậy thì chỉ có một sự thụ động vừa giữ người quân tử dùng dằng vửa đóng cửa đào nguyên, từ giờ, sức mạnh ấy vừa ở lòng mọi vật vọt ra vừa ở ngoài xông vào, cũng chỉ có một. Ấy là sức mạnh của cả thực thể đang vùng lên để thực hiện. Núi chợt cao vút và theo cùng một nhịp, người ta thấy Hồ Xuân Hương ráng sức trèo.
5. Trèo là một bước đi chinh phục. Sự dùng dằng xưa đã hết. Người ta mở cuộc tấn công và, ôm lấy núi, nhất quyết vật được quả núi cao để cướp cho bằng được cái lòng đất núi đang giữ. Nhưng một đằng khác thì có núi tại lòng đất đã nổi sóng. Và sự quật khởi ấy làm thông trời. Thông là sự vọt lên. Và liễu mềm, liễu rủ, liễu tuôn như một sự trào ra và người ta không ngạc nhiên thấy, trên những dòng lá xanh của liễu, có sương chảy đầm đìa. Như cả lòng đất, trước những nỗ lực để giải phóng nó, cũng nỗ lực vùng lên tiếp ứng. Và Hồ Xuân Hương, để tiếp ứng cho sự vùng lên ấy, lại càng nỗ lực trèo. Càng trèo thì, lạ thay! Núi lại càng cao. Núi này trèo chưa hết thì đã thấy núi khác đứng chờ. Hay nói đúng hơn thì vẫn một núi ấy. Khi người ta tưởng nó sắp thua thì nó đã chạy thoát và đúng trước mặt người ta trêu ngươi và riễu cợt để, cứ thế mãi, một đèo, một đèo, lại một đèo, không bao giờ người ta bắt được nó… Trò hú tim lại tiếp tục. Ai trèo thì cứ tha hồ trèo. Và có trèo đến mỏi gối, chồn chân, vẫn muốn trèo. Sự thoả mãn không thể có. Cái thèm vẫn không hết. Vẫn không hết khát, không gặp được nguồn cực lạc và, khoe sức là vẫn muốn trèo, Hồ Xuân Hương chỉ thú nhận một thất bại không cùng. Thoạt tiên thì người ta nghĩ rằng lòng đất vùng lên để trả lời sự tấn công của người ta. Nhưng sự vùng lên ấy đã chết đứng. Thông là gỗ. Núi là đá. Tất cả xảy ra như lòng đất đã mất và cái gì chờ người ta không phải là sự sung mãn trong thực thể nhưng là sự chóng mặt trước chân không. Như càng trèo thì ngưới ta càng thiếu chỗ đứng và không những người ta mất lòng đất mà cả mặt đất và tấ cả những gì người ta vẫn dựa vào để sống cũng như mất dần dưới gót chân người ta và rốt cuộc, sau khi đã vượt tất cà, hết chỗ bám, người ta thấy mình lửng giữa trời ở cuối một cảnh cheo leo.
Ấy là một cảnh đá tạc. Tạc cũng như đẽo là bạo động. Người ta lấy những khí giới bén để chém vào cảnh. Nhưng sự phá cảnh ấy chỉ tạc cảnh nghĩa là đổi cảnh ra những thể cứng, đặc và cằn. Cảnh đâm trơ ra như bị vạc mất vỏ. Nhưng cái lòng còn lại của nó chỉ là một mặt đá già không có tuổi. Thì còn đào nguyên nào nữa để chan hoà. Sự xuất hiện của cảnh đá tạc trong Hồ Xuân Hương có nghĩa là bạo động đã thua. Nhưng thua thì thua, cố níu lấy con! Hồ Xuân Hương chưa thoả. Nàng chưa tuyệt vọng. Nàng vẫn muốn trèo. Và trên đèo ba dội, thông và liễu và nhiều mầu khác nữa, át sự đe doạ của đá, làm người ta tưởng thế giới vẫn rồi rào. Nhưng đá vẫn có và, dưới ánh sặc sỡ, thế giới đã cứng lại. Thì sặc sỡ thế là điêu. Ai tuy nhiên thế sẽ bảo rằng thế là lần thứ nhất với Hồ Xuân Hương người ta thấy trong và ngoài chửi nhau! Múi mít dầy chửi cái vỏ xù xì của mít. Thì ngược lại giờ tảng đá xấu xí làm thất ước cả một vùng khoe sắc tới. Vẫn một mâu thuẫn ấy! Nhưng thế giới của Hồ Xuân Hương bị đảo lộn trong căn bản. Xưa nó tại nội thì giờ nó tại ngoại. Hình như tất cả chiều sâu của nó đã bị trục xuất lên mặt. Nhưng lên mặt rồi thì còn là chiều sâu nữa? Và người ta có một thế giới ngoài thì sặc sỡ nhưng trong đã cạn rồi. Hoá ra Hồ Xuân Hương ép được lòng thế giới xuất hiện để lại mất nó ngay. Nó đã hoá ra ngoại thể. Sự xuất hiện ấy của nó là một sa đoạ. Và thế giới tại ngoại của Hồ Xuân Hương không là thế giới trong nguyên tính của nó mà môt thế giới lại càng giả tạo, lại mất gốc trong thực thể, lại càng vô phúc, tại nó giam con người ta trong cái hoạ của cảm giác, lại càng tuyệt vọng, tại không còn nguồn cực lạc nào ước hẹn nữa trên đời. Kết luận là bạo động không trả cho Hồ Xuân Hương sự sung mãn nàng chờ. Nó làm cho thế giới thêm đốn. Xưa thì nguồn ẩn. Giờ thì nguồn tuyệt tăm. Cuộc sống thực hình như không thể nào có. Và đi tìm cuộc sống thực trong thâm tình của thế giới Hồ Xuân Hương khám phá ra rằng thế giới chỉ có để từ chối người ta. Sự ly gián giữa thế giới và người ta trở nên tuyệt đối. Người ta và thế giới trở nên đối nghịch nhau. Không đối nghịch nhau sao được khi người ta đã chọn bạo động để cướp lòng thế giới? Lòng thế giới có cướp được chăng nữa thì, xuất hiện trong cảnh đối nghịch ấy, xa trước mặt người ta, nó cũng không còn là cái lòng để người ta sống đẹp và chan hoà. Nó đã hoá ra ngoại thể. Và thế giới trở nên sặc sỡ để nghèo đi, ngay trong khi, gây cảnh đối nghịch nhau giữa người ta và thế giới, bạo động của ngưới ta làm thế giới cứng lại. Thế giới đã hoá đá. Thì lòng đá ở đâu? Nó đã bị lột truồng. Nhưng nó lại càng kín. Và nó nhốt người ta ra ngoài, cheo leo, trên một vực thẳm.
Vực không chỉ ở ngoài. Trong còn một vực nữa. Ấy là những khi đá nứt và bầy ra một lỗ hỏm hòm hom. Những cái hang ấy dẫn người ta vào trong đá. Cái người ta vào tuy nhiên chỉ là một vùng vô ngạn tối om om. Ai biết đâu lòng đá chẳng ở giữa cái đêm mênh mông ấy! Và để tới trung tâm nhiệm màu của nó, có lẽ người ta phải tin ở đêm và, như một con thuyền vô trạo, thả mình cho đêm lôi đi khắp mênh mông. Có lẽ phải thất lạc trong mênh mông, người ta mới có thể gặp lòng đêm để, thu mênh mông vào một điểm, ở lòng đêm lại gặp lòng mình. Nhưng Hồ Xuân Hương không đi theo những cám dỗ của đêm. Ấy chỉ là đêm của đá. Và đá là thế giới khi người ta và thế giới đối nghịch nhau. Thì làm sao trong đêm của đá Hồ Xuân Hương có thể thả mình xuống chan hoà? Mà không thể chan hoà là vẫn bị tù trong cái biết khốn nạn của cảm giác. Người ta lại sờ, lại mó, lại nhòm. Sự mở lòng của đá, trước cái nhòm soi mói ấy, chỉ là một sự hớ hênh. Và cái lòng của đá người ta chỉ biết trong một cái nhòm là một cái lòng có cũng hơn không có. Nó không còn là nơi của cực lạc. Và người ta hiểu tại sao chưa vào trong đá Hồ Xuân Hương đã nhạo là trong đá chẳng có gì. Cái lỗ hỏm hòm hom ấy mới thấy đã kêu to là nó rỗng. Như cái cảnh tối om om mà nó dẫn người ta vào. Hoá ra bạo động làm thế giới hoá đá giờ cũng làm Hồ Xuân Hương, giữa lòng đá, chỉ thấy có chân không. Cái nguồn cực lạc thật đã mất tích. Và có giọt nước hữu tình nào rơi thì, trên một mặt nước tù và lạnh như đã hoá khoáng, nó cũng chỉ rơi lõm bõm. Như gió vỗ phập phồng trong những hốc đá. Những chữ tượng thanh ấy cũng như những chữ khác tương tự, lẽ dĩ nhiên Hồ Xuân Hương không chỉ dùng tại chúng khó có vần và lạ, nhưng để lấy chúng nhại cái chân không đang doạ nàng. Nàng nhại bóng tối, nàng chế chiều sâu, nàng cười lòng đá. Lòng đá bị nhạo báng. Nghĩa là nó hết thiêng. Và người ta khám phá rằng những bí mật của nó toàn là ảo tưởng. Nó chẳng giấu một nguồn nước nhiệm mầu nào và, ngoài đêm, người ta chỉ gặp một khoảng trống vô cùng. Thế là mộng đào nguyên vỡ và tiếng Hồ Xuân Hương cười riễu cợt xé tan giấc mộng ấy, lôi người ta về sự nông cạn của cuộc sống thường ngày. Quanh người ta, những vách đá lại trơ toen toẻn, lại mó lam nham; lại sờ rậm rạp. Như để nhắc người ta rằng trong đá ngưới ta vẫn ở ngoài đá. Sự ly gián giữa ngoài và trong không thể vượt. Và Hồ Xuân Hương đành chịu cấm cố ở ngoài. Nhưng nàng đã hết ảo tưởng. Và những mặt đá trụi của nàng vừa tố giác, trong sự khéo tạc cứng và khôi hài của nó, cái điêu trác của ngoại thể vừa làm chứng cho một thế giới đã toi nguồn.
Tuy nhiên người ta có thể nghe rằng đã trụi thì đá là một chất thật thà. Ấy là cái thật thà của một sự trơ ra đó. Và đá như chỉ tự xưng để khỏi phải trả lời. Khi nó trụi là khi nó kín. Khi nó đầy là khi nó đặc. Sự đặc ấy là nghịch hoạ của sự sung mãn. Vừa đặc đá vừa rỗng. Nó đặc tại nó không ngừng từ chối người ta. Nó trống tại người ta không thấy gì trong nó. Tất cả xảy ra như không có gì. Nhưng nó có. Và tịch mịch và trêu ngươi, nó tóm tắt, trong sự có mặt câm của nó, cái bí mật của cái của sự có mặt cuả thế giới. Hơn một lần người ta thấy Hồ Xuân Hương tra vấn đá! Mộng của nàng là giải quyết cái bí mật của đá trong một ngày nước lộn trời. Nhung nước nào có thể làm đá chảy đến những chân trời xa nhất để, trời và đá làm một, thạch liên thiên trong một vùng nước chan hòa, đá lại về quê hương cũ của mình? A!
Thiên thạch nguyên lai bản thậm huyền
Nhất triều thiên vũ thạch liên thiên [2]
Người ta kể rằng trong con người của những câu thơ ấy Hồ Xuân Hương đã thấy một tâm hồn tri kỷ. Giờ thì người ta hiểu tại sao. Nhưng thế giới đã cạn, đào nguyên đã mất, thì có đâm toạc chân mây cũng không làm sa một giọt nước! Và cái nhịp vùng lên ấy rốt cuộc, chỉ để rớt lại, đá mấy hòn trơ ra như tang chứng của một sa đoạ không thể vãn hồi. Nó không còn là đá ở lòng đất lên nữa. Người ta bảo nó ở khoảng trống trên trời xuống. Ấy là một cách khác để nói rằng nó ở chân không ra. Và thế giới chỉ là một câu hỏi đặc và không có trả lời.
Mà trả lời gì một tảng đá vô tri giác? Người ta không thể nào hiểu nó. Nó là sự có mặt rất bướng đầu. Nhưng sự có mặt ấy ở chân không ra chỉ là một chút chân không sa đoạ, một sự có mặt không có thực, một hiện thể không có nguyên nhân và tuy rất bướng, rất đặc, rất lầm lì, cũng không có hơn là một ảo ảnh. Cho nên đi tìm nguồn, tìm gốc, tìm rễ của nó người ta chỉ gặp những khoảng trống lớn. Hay nói tóm lại thì sự có mặt cũng chỉ có như một vực thẳm. Và vực kia là vực của chân không. Cheo leo giữa hai vực ấy tuy là cả hai chỉ là một con người trên thế giới là một kẻ sẽ đi qua. Nhưng ảo ảnh của thế giới sẽ còn mãi. Tại thế giới là đá và đá, cũng như thể tròn của cái bánh trôi chỉ là sự sung mãn của một chất, và một chất chỉ là thể. Nghĩa là làm gì nó người ta cũng chỉ có những thể. Càng làm thì thể càng khéo tạc. Mà càng khéo tạc thì thể càng điêu trác. A! khen ai đẽo đá tài xuyên tạc! Ai thì ai không cần biết. Chỉ biết rằng những thể của đá là của ai khác đẽo chứ không của đá tự nhiên thành. Và những tác động của người ta, lấy thể này thay thể khác, không thể nào chuyển được lòng thế giới và làm đá kkhông còn là đá. Thể chỉ là trò chơi mà đá nếu là ảo ảnh thì cũng là sự trường tồn. Lẽ dĩ nhiên đá sẵn sàng nhận tất cả những thể người ta khéo tạc cho nó. Nhưng thế lại càng tỏ rằng giữa đá và những thể người ta tạc cho nó không có một tương quan nào thiết yếu. Thể nào cũng điêu như thể nào. Cái khéo của thể ghẹo đá, nhưng đá thản nhiên ghẹo cái khéo ấy và tất cả những công-cốc của người.
Chú thích:
[1] Sự kiện ấy tuy nhiên chẳng có gì đáng ngại. Người ta có thể quan niệm, như dân một xứ nào của nhà đại văn hào Á-căn-đình, J. Luis Borges, đã tưởng tượng, rằng tất cả những tác phẩm trên đời đều của cùng một tác giả. Và như thế thì lấy những sách thật khác nhau, như Đạo đức kinh và Hamlet chẳng hạn, để nghiên cứu tác giả chung của chúng là một chuyện không thật trái lý.
[2] Theo Ô. Thuần Phong (Hồ Xuân Hương Thi tập, tr. 6, Đoàn Văn x.b. Sài Gòn 1958) thì hai câu ấy của anh em Ông Phủ Vĩnh Tường làm, theo cái đề “Thạch liên thiên” Hồ Xuân Hương ra, khi họ đến cầu hôn. Lẽ dĩ nhiên ấy chỉ là một tục truyền. Nhưng tất cả xảy ra như người ta chỉ có những tục truyền giống người ta.

6. Cho nên chữ khéo trong Hồ Xuân Hương thường có một nghĩa mỉa mai. Nó tố giác một sự bày đặt không có căn bản nào trong mọi vật. Khi mọi vật có lòng thì cái vỏ chúng xù xì. Nó không khéo, không có ai đẽo, không có ai tạc. Sự cục mịch của nó, một đằng có thể gọi là điêu trác, một đằng khác, cũng giống như một sự thật thà. Nó thô và chất phác. Và thoạt trông người ta đã biết rằng ở sau nó có một cái lòng đầy. Mà thật thế, nó chỉ là sự đông lại của một chất ở trong mọi vật tiết ra. Vừa giam lòng mọi vật nó vừa làm chứng rằng mọi vật có lòng. Nhưng cái lòng ấy mất trong bạo động thì người ta có độc những thể khéo tạc. Ấy là những thể tuyệt đối giả tạo. Và nghèo và nguệch ngoạc và xương xẩu. Như tất cả thế giới từ trong ra ngoài đã chết cứng. Thì trên thế giới ấy sự sống cũng chỉ là một sự sống vờ. Của cỏ gà và của rêu nham nhở. Ngay cả thông nữa mới ở lòng đất vọt ra đã lắt lẻo như không có rễ. Và tất cả đều xộc xệch và chênh vênh và lộn phèo [1]. Lẽ dĩ nhiên không phải Hồ Xuân Hương thấy chúng như thế. Nhưng nàng vặn cổ mọi vật, xô lệch chúng, làm chúng mất quân bình như để bắt chúng phải bỏ cái chỗ thường ngày của chúng để tự xưng. Khổ là chúng không có gì để xưng nữa. Và Hồ Xuân Hương đi phá cảnh chỉ làm cho cảnh bị sái. Mà bị sái là không có căn bản nào trong thực thể. Nhưng thể của cảnh chỉ là những thể không đâu. Không cái nguồn chung nào làm chúng thuận nhau. Thì cái cảnh thường, khi người ta tưởng là thuận, cũng là một cảnh vốn đã sái rồi. Nhưng có làm sái cảnh thì người ta mới biết là cảnh vốn sái. Hoá ra sái cảnh cũng là một cách khác để tả cảnh. Cảnh nào cũng là cảnh của sự tương nghịch thì làm sái cảnh, thơ Hồ Xuân Hương chỉ nhại những thể của cảnh như một nghịch hoạ và, như một nghịch hoạ nó nhại ngay chính nó.
Và thế là cái thời đã hết của thơ như một ngôn ngữ đầy. Thế giới khi ấy yên nghỉ trong sự sung mãn ấy, là sự sung mãn ấy nên lời. Người làm thơ nói thay lời mọi vật. Và những chữ của nàng đều giản dị và tầm thường, nhưng chữ nào cũng đậm, tại trong chữ nào cũng vẩn một chiều sâu nồng nàn. Nhưng chiều sâu ấy mất thì những chữ cũng như thiếu mật độ. Chữ trắng như không đủ trắng nữa. Và để nói cho thực trắng, để trắng không chỉ là một màu mà còn là một chất, người ta có một cách là thêm chữ. Oái oăm của từ chương là, càng ngờ ngôn ngữ không nói thực thì, để nói thực, người ta càng nói nhiều và, lấy ngôn ngữ để thực hiện mọi vật, rốt cuộc, người ta chỉ gây một ngôn ngữ quá đáng. Nhưng vừa tỏ ý muốn thực hiện mọi vật, ngôn ngữ quá đáng của Hồ Xuân Hương vừa làm chứng rằng sự thực hiện ấy đã thất bại. Càng làm cho thực, người ta càng xảo tác, và càng thêm chữ thì ngôn ngữ lại càng như nói ngọng và làm mọi vật càng nguệch ngoạc và thêm trơ. Trắng xoá chẳng hạn, trắng hơn là trắng, nhưng màu trắng ấy như trát lên trên và trâng tráo, và những chữ thêm vào những tĩnh tự tả màu của Hồ Xuân Hương chỉ làm cho màu thêm lòe loẹt, sặc sỡ, nhố nhăng. Ấy không là những màu có sẵn trong chất nở ra nhưng là những màu bôi xấu. Và Hồ Xuân Hương bôi xấu mọi vật cũng như nàng vẽ chúng nguệch ngoạc để tố giác một thế giới chỉ có mặt ngoài. Hình-thể-sai-lệch, đường nét gẫy khúc, âm thanh xô xát, màu sắc chửi nhau. Ở chỗ nào người ta cũng chỉ gặp một sự tương nghịch. Thì dù những chữ như đỏ lòm, chín mõm mòm có làm người ta tưởng thế giới đang thối nghĩa là có một sự sống ở trong thì sự sống thối ấy cũng chỉ làm người ta nực cười. Cũng như xanh om không là xanh thẫm nhưng là cái rỗng nực cười của màu xanh. Và của chữ xanh. Những chữ của Hồ Xuân Hương, trong sự quá đáng của chúng, tự thú là những chữ rỗng, và ngay khi, trong những câu như:
Gió thổi cành thông rung lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ tông tông

Người ta thấy chúng tượng thanh như thể bắt chước cho thật đúng những sự chúng tả thì chúng cũng chỉ nhại những sự ấy và những công cốc của chúng để thành một ngôn ngữ thực. Những tượng thanh ấy chỉ là những nghịch thanh! Và cái ngôn ngữ người ta tưởng là thực không thực hơn là cái ngôn ngữ ấy ái uông của những người nó ngọng. Ấy chỉ là hai kiểu nói ngọng khác nhau. Ngôn ngữ thực không có. Và thơ như một nghệ thuật ngôn ngữ chỉ là một chuyện không đâu. Mà càng ý thức được sự không đâu của nó thì thơ càng cầu kỳ. Cái khó của Đường luật không đủ. Hồ Xuân Hương còn thêm vào cái khó của những vần oái oăm, của những chữ vặn méo và những câu lưỡng ý. Ngần ấy cái khó tuy nhiên, không dựa trên một lý do tự nhiên nào, chỉ là ngần ấy cái khéo. Thì ngược lại ngần ấy cái khéo lại tố giác rằng thơ chỉ là một trò chơi. Và kinh nghiệm thơ Hồ Xuân Hương rốt cuộc chỉ để lại cái chân không của những thể tinh xảo.
Người ta bảo nàng tài! Nhưng cái tài khi người ta và thế giới thuận nhau là làm sao giấu được cái tài đi. Cho tất cả những gì người ta nói đều có vẻ tự nhiên. Ấy là hạnh phúc của từ-chương-cổ-điển. Nhưng khi trong Hồ Xuân Hương người ta chỉ thấy tài thôi thì nàng là người đầu tiên cười tài nàng là hão. Mà có gì nàng không cười đâu? Nàng cười cái hão của tất cả. Của đêm rỗng, của ngày không có ruột và của thơ. Thơ nàng lấy cả cái chết làm trò cười. Thì hẳn tiếng cười ấy không phải chỉ để mua vui người thiên hạ. Nó là tất cả gì còn lại cho một người đã một lần chọn không bao giờ khóc nữa. Và khi nàng khuyên người vợ goá rằng nín đi kẻo thẹn với non sông thì không nói, ai cũng biết là nàng đã khuyên mình. Sông thì bạc, non thì trơ. Nghĩa là thế giới nhạo cái sầu của người ta. Thì ai khóc làm gì cho tốn nước mắt! Khóc là để tỏ lòng. Nhưng không có ai nhận những giọt nước mắt ấy chẳng nham nhở lắm sao? Tỏ lòng, khi thế giới và người ta đối nghịch nhau chỉ làm cho lòng sa đoạ. Và người ta hiểu tại sao trong Hồ Xuân Hương tất cả những gì ở trong mọc ra như thông, như rêu, như cỏ, như nước của đá đều có một vẻ đốn mạt và khả nghi. Cũng như thế người thi sĩ ấy coi rẻ nước mắt. Thành ra không thể khóc mà cũng không thể nhịn nghĩa không thể nén sầu trong mình, Hồ Xuân Hương chỉ có một cách là, coi cái sầu ấy như không có để, trong một tiếng cười riễu cợt trả lời một thế giới đã hết ân tình. Lẽ dĩ nhiên khi có sầu tự nhiên dậy. Nhưng ngay khi ấy, ngay khi:
Mõ thảm không khua mà cũng cốc
Trống sầu chẳng đánh cũng kêu om

Nghĩa là mọi vật cũng như sầu theo người thì, cái sầu ấy, nàng cũng không thể cười!
Mới nghe cũng nghĩ rằng là thực
Sau ngẫm mà xem một tiếng bòm

Ấy là hai câu thơ để tóm tắt kinh nghiệm và thế giới của nàng. Kinh nghiệm của một tình yêu đời bị tẽn tò. Thế giới của những vật rỗng. Như mõ, như trống, như chuông và chúng oang oang như đều kêu lên rằng tất cả đều hão. Nhưng nếu ngay cái sầu của người ta trước cái hão của tất cả cũng hão nữa thì còn gì? Sẽ đến một thời Hồ Xuân Hương nhận cái hão ấy để không chờ gì ở cái thế giới nữa, xây dựng một đạo lý giống như sự thản nhiên. Nhưng giờ thơ nàng ở một giai đoạn tố giác. Nàng công kích. Nàng nhạo báng. Nàng thoá mạ. Như nàng không muốn để một ảo tưởng nào cám dỗ nữa. Và nhất là ảo tưởng rằng sau đời này còn có một đời sau! Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Xuân Hương vừa thích viếng những cảnh chùa vừa lấy chúng để riễu. Nàng không có cái tín ngưỡng của những thầy tu, nhưng, một đằng khác, như những thầy tu, nàng cũng ở trên con đường tuyệt thế. Nàng nhạo trong cảnh chùa một tôn giáo nàng cho là ảo tưởng, nhưng trong cảnh chùa, nàng tự nhắc mình là ảo tưởng có ở khắp trên đời. Con người ấy đã lồng đi tìm thâm tình của thế giới để tìm hết cách giết trong thế giới tất cả những gì nghe như một thâm tình. A! Có làm rỗng thế giới thì người ta mới khỏi bị thế giới cám dỗ! Thất bại của Hồ Xuân Hương đã trở nên một cố gắng để thực hiện thất bại. Và nghệ thuật nghịch hoạ của nàng, giờ, để tóm tắt, người ta có thể nói là nó có hơn một tầng nghĩa.
Qua cái nghệ thuật ấy, thoạt tiên, tất cả đều bị sái. Và như thế thì nó không là một nghệ thuật để ca ngợi cái mặt ngoài của cảnh. Nó có một chủ ý phá. Hay nói một cách khác thì nó là một bạo động.
Nhưng bạo động mà chỉ làm sái cảnh thôi, nghĩa là giữ cảnh chết đứng trong những thể tương nghịch thì nó cũng tự thú nhận là một bạo động không có ngày mai. Những đồ tuyến nguệch ngoạc của nó tố giác cảnh là đã chết khô và cứng. Cứng, tại trong bạo động cảnh và người ta đã trở nên đối nghịch nhau. Và khô, tại đã mất lòng, cảnh chỉ còn là một cái vỏ cằn cỗi. Lòng của cảnh có xuất hiện thì, trong sự đối nghịch nhau giữa cảnh và người, sự xuất hiện ấy cũng chỉ làm cho cái mặt ngoài của cảnh thêm những màu sặc sỡ và sự nham nhở của cỏ, của nước, của rêu.
Tất cả xảy ra như lòng của cảnh không có. Và nghệ thuật của Hồ Xuân Hương, chủ ngoại và dựng trên sự tương nghịch, là một cách nhại những thể đã chết cứng của một thế giới không có lòng. Hay nói đúng hơn thì không thể để lòng thế giới ẩn mà cũng không thể để nó xuất hiện mà không làm nó sa đoạ, Hồ Xuân Hương, để tránh hai tai hoạ ấy, đã tươngnghịch hoá thế giới trong những thể chết cứng, để thủ tiêu lòng thế giới đến cùng cũng như những tiếng gọi của nó và cả giấc mộng đào nguyên giờ chỉ còn là một ảo mộng. Không phải ngẫu nhiên mà nàng đã chọn những thể nghiêm khắc của Đường luật để phá cảnh. Nhưng nàng muốn sự phá cảnh ấy chỉ là một trò cười… Người ta thấy nàng nói quá thì người ta tưởng nàng cố nói cho thật đúng. Nhưng thật ra thì sự nói quá của nàng chỉ để nói ngọng và làm ngôn ngữ trơ ra vỏ và xương. Và qua ngôn ngữ ấy, thế giới cũng trơ ra xương và vỏ. Hoá ra ngần ấy câu nguệch ngoạc, nham nhở và sặc sỡ của nàng là ngần ấy cách diệt dục! Và ngay cả cái phần người ta gọi là tục trong thơ nàng…
Nửa tục nửa thanh, tất cả trong Hồ Xuân Hương qua một ngôn ngữ lưỡng ý, đều có một thể nước đôi. Song tuy nhiên sự nước đôi ấy có một nghĩa khác. Vừa trông thấy như một quả mít chẳng hạn cái vật ấy vừa trông như một thục nữ khiêu dâm. Trông như thế nào tuy nhiên thì nó cũng hứa là ở trong nó vẫn đầy. Sự nước đôi của nó chỉ có ngoài mặt. Và cả đôi nước đều gọi người ta vượt những mâu thuẫn của mặt ngoài ấy để mở cái ngọt ngào ở trong. Ấy là nơi tất cả những mâu thuẫn đều được giải quyết. Thì những mâu thuẫn ấy đâu là những mâu thuẫn nữa! Nghĩa là khi mọi vật có lòng thì những gì người ta tưởng mâu thuẫn nhau thực ra trợ lực nhau. Cái mặt tục của mọi vật và của ngôn ngữ không chửi cái mặt thanh của chúng. Nó làm cái mặt thanh ấy thêm đậm và sâu và càng rõ nghĩa và giầu. Và ngược lại và cả hai đều nói lên một nguyện vọng sống đầy. Mà Hồ Xuân Hương đã thành thực chờ nhục tình thực hiện. Hay nói đúng hơn thì cực lạc thực hiện trong nhục tình nàng cũng chờ được thực hiện trong tương quan với tất cả mọi vật. Thì có gì lạ nếu mọi vật trong thơ nàng cũng như mọi cử chỉ đều có một nghĩa nhục tình. Người ta bảo thơ nàng tục. “Tục” tuy nhiên có một nghĩa lương thiện quá. Ai giữa những người lương thiện đã chẳng có lần cao hứng nói tục chơi? Họ nói tục để tự giải toả. Và nói tục cho sướng rồi thì họ lại tiếp tục cái việc chính đáng là duy trì cái trật tự xã hội và xây dựng gia tài. Nhưng Hồ Xuân Hương nói tục thường xuyên. Nàng để tất cả tài ba ra để nói tục. Thì làm sao sự nói tục ấy có thể lương thiện như chữ tục có thể làm người ta tưởng lầm? Nếu người ta không thẹn chữ thì tôi có thể nói rằng thơ Hồ Xuân Hương dâm. Nhưng dâm tính ấy không diễn tả một xu hướng nào có sẵn trong cơ thể nàng. Nó thiết lập một quan điểm sống. Và lẽ dĩ nhiên trong quan niệm ấy tự do nhục tình là một yêu sách cốt yếu. Lạ rằng thơ Hồ Xuân Hương tuy thế vẫn được truyền tụng ! Hình như xưa người ta không cho thế là trái đạo lý. Có lẽ tại người ta xưa không đặt đạo lý ở chỗ tôi tưởng. Nhưng cuộc đời này đã làm cho người ta méo óc! Ở chỗ nào người ta cũng thấy có tội. Mà tội gì ở nhục tình? Chỉ những thời đại suy vong khi trên thì đầy túi dưới thì đói khổ, trật tự xã hội không còn chính đáng và tất cả xảy ra như, ngoài kẻ thống trị, không ai có quyền sống nữa thì người ta mới thấy, trong một ngôn ngữ đã trở nên vô liêm sỉ, những kẻ làm đĩ miệng đứng lên đổ nhục tình cái tội làm đốn mạt cuộc đời. Hay lưu manh hơn, giả danh khoa học, kết án những lới ca nhục tình là triệu chứng của một tâm hồn mang bệnh. Thơ Hồ Xuân Hương không bệnh. Nó cũng lành mạnh như người ta có thể nghĩ ngược lại. Lành mạnh là con người thượng lưu trí thức ăn to và nói tục, ngoài cái tài chuyên nghiệp lại có tài chửi đổng để hết giải quyết sinh lý lại uống rượu làm thơ, chơi đàn, đánh bạc, thể thao và lúc nào cũng sống tự nhiên. Cái tự nhiên ấy có một tên khác đẹp hơn. Là đặc quyền. Và như tất cả những đặc quyền, nó đòi sự duy trì của cái trật tự xã hội đã cho phép nó có. Cho nên người ta không thể nhịn cười khi thấy những chính quyền đương thời thi nhau nghi ngờ trí thức. Trí thức vốn ngoan. Có đốt thì đốt Hồ Xuân Hương trước đã. Trật tự nào nàng cũng cho là không có lý và gọi phá. Như nàng nghĩ rằng cực lạ chỉ thực hiện được trong sự bạo động. Và bạo động đã bắt đầu ngay khi vặn méo mọi vật, nàng bắt chúng đeo một cái mặt nhục tình chúng vốn không có.
Nhục tình và bạo động trong Hồ Xuân Hương đi liền nhau. Cho nên sự thất bại của bạo động cũng đổi nhục tình ra một kinh nghiệm điêu trác. Và Hồ Xuân Hương đành nhận rằng ngay nhục tình không thể cho nàng sự sung mãn nàng đòi. Nó chỉ để lại cảm giác của một sự thiếu lớn và, như thi sĩ nói trong một ngôn ngữ nước đôi, cọc nhổ đi rồi lỗ để không. Ấy là một cái lỗ nông toen toẻn nhưng không thể nào đầy. Và người ta càng chen chân xọc thì người ta càng tưng hửng như người ta bước hụt. Có một người con gái trên cây đang ngửa ngửa lòng như mời mọc, nhưng người ta vừa đu lại thì nàng lại đu đi và ngọc của đôi chân song song ruỗi thẳng nhắc người ta rằng thế giới đã hoá đá. Như thế giới chỉ gợi tình để nhạo cái tình của người ta. Cái người ta tưởng một âm đạo thật ra cứng như một hốc đá. Nhưng hốc đá ấy trông như một âm đạo, còn thực là một hốc đá không? Vẫn sự lưỡng cách ấy của mọi vật và của ngôn ngữ! Nhưng hai mặt của chúng giờ chửi nhau. Mặt thanh làm mặt tục đâm ra giả tạo. Và ngược lại và không có chiều sâu nào để giải quyết những mâu thuẫn của chúng thì cũng không có mặt nào là thực. Thực là cái chân không ở dưới và sự tưng hửng của người ta trước những vật lai căng, vừa trông như thế này lại vừa trông như thế khác, nhưng không thực là cái gì cả và trong lưỡng cách của chúng, chỉ để tự định nghĩa như một sự thiếu nhân đôi. Thanh không ra thanh. Tục không ra tục. Hay nói đúng hơn thì giờ tục có có một nghĩa phản nhục tình. Nhục tình có mặt trong những vật ấy như một sự không có thể. Như trong nhân vật của những thầy tu, những ông quan hoạn, những người ái nam.
Ấy là những nhân vật Hồ Xuân Hương thường lấy để riễu. Nàng không riễu họ tuy nhiên, như người ta tưởng, tại họ không như tất cả mọi người. Con người theo nàng có gì đáng tự hào đâu! Nó không tròn. Nó không thẳng. Sự lom khom của nó là một sự nửa chừng. Thì nó có khác gì họ? Và họ cũng như tất cả mọi người. Hơn ai hết, Hồ Xuân Hương biết rằng tất cả mọi người, cũng như mọi vật trong một thế giới đã mất nguồn, dưới một cái tên nghe tưởng rất xứng đáng, thật ra cũng đều như họ là những đồ dơ danh. Nghĩa là đều thiếu thực chất, thiếu thực tình, và không thể thực định nghĩa. Hay nói đúng hơn thì người ta chỉ có thể địh nghĩa họ một cách tiêu cực như một cái gì chẳng phải ngô mà chẳng phải ta. Người ta không thể gọi họ là gì cho đúng. Họ chỉ “trông như”. Nhưng trông như thế nào thì trong sự trông ấy cũng có điều làm họ không thể là cái họ trông như:
Tựa khách nhưng mà không có bím
Giống sư nhưng lại hãy còn râu

Họ là những nhân vật thiếu. Nhưng sự thiếu của cái âm đạo đá là ở cảnh tự tương nghịch của một thể lưỡng cách. Của những nhân vật ấy thì, giờ, sự lưỡng cách chỉ còn là một sự nhỡ nhàng. Như những mâu thuẫn của ngoại thể đã đổi dấu. Những thể méo, lai căng và xung đột nhau, nhường chỗ cho sự nhẵn nhụi chẳng hạn, của những cái đầu không có tóc. Tóc cũng như là làm chứng cho một năng lực ẩn. Thì không có tóc nghĩa là đã chết ở trong rồi. Nhẵn nhụi và khô cạn, những nhân vật ấy của Hồ Xuân Hương là những nhân vật lạnh, nhạt nhẽo và thờ ơ. Họ có sự trừu tượng của cái chết. Thể nào họ không có thể. Và đặc tính của họ là không có tính. Sự nhẵn nhụi của họ dẫn người ta vào cảnh mênh mông của một cơn ác mộng trắng, không thấy đâu là giới hạn, không lấy gì làm cứ điểm, nhưng cứ vào là thất lạc và, như thi sĩ nói:
Nào ai biết được bông hay củi
Nọ kẻ phân ra cuối với đầu.

Chỗ nào của họ cũng như chỗ nào. Họ là những tượng thân của sự vắng mặt cũng như cảnh đá cheo leo ấy là chân không đặc lại để lúc nào cũng muốn sụp xuống chân không. Sự phiếm định trong họ là những thể khuyết tâm mà vừa nhạo Hồ Xuân Hương vừ lấy để nhạo tri giác của người ta. Nàng nhạo ngôn ngữ là bất lực, những ý niệm sẵn có là giả tạo, cái lẽ thường là thiếu thốn. Và khi nàng chơi chữ cũng thế. Người ta khen nàng khéo dùng những thành ngữ. Hẳn không tại, như người ta nói, nàng có ý làm thơ bình dân! Nhưng tại những thành ngữ, với một nghĩa đen và một nghĩa thường là những chữ càng dễ chơi. Nghĩa là càng dễ dùng sái nghĩa, xa cái nghĩa người ta đợi và một nghĩa nước đôi. Tất cả là để đánh lạc cái lẽ thường, làm nó mất những toạ độ của nó và từng thấy là nó sai. Mà làm sao không thấy là nó sai được? Cái ngôn ngữ của nó không ngừng tự phản bội. Và qua cái ngôn ngữ ấy là cả thế giới bị hoá ra nơi của tất cả những lừa đảo. Nhưng đối lại những lừa đảo ấy, giờ, có thể có một cái biết thực nào không? Không những thơ Hồ Xuân Hương tố giác tất cả cái biết sẵn có là sai mà thơ nàng, như người ta đã thấy, trong nghệ thuật chủ ngoại cúa nó, là một cố gắng để tiêu diệt cái ảo tưởng rằng, cái biết sai ấy còn có giấu một cái gì khác ở đằng sau. Có thì nó cũng ở ngoài tầm người ta. Người ta có vào trong thế giới thì thế giới vẫn để người ta ra ngoài. Và thế giới có lòng đi chăng nữa thì cái lòng ấy có cũng không. Tất cả xảy ra như giữ tạo là cơ cấu của đời, thế giới chỉ là vỏ và nó rỗng. Nhưng thế thì tất cả ở đâu ra? Hư tính của tất cả cũng đổi tất cả ra một bí mật tuyệt đối và như thi sĩ nói:
Không có nhưng mà có mới ngoan.
Tương quan nhân quả của cái lẽ thường không có nữa. Và người ta vào cái thời gian của sự đột nhiên. A! Những ngày đã hết của những quả mít chín cây! Mít chỉ chín lẽ dĩ nhiên trong một thời gian có liên tục như nhịp của nhựa từ lòng đất trào lên, súc tích và hoá chất dần dần. Sự đột nhiên trái lại là của một thời gian đã sụp đổ. Không phải là nhhững quãng cách giữa sau và trước đã được xoá bỏ trong cực lạc của một cuộc sống trực nhiên, như cảnh chan hòa của cái bánh trôi chẳng hạn, để chỉ còn lại một hiện tại bát ngát và vô cùng. Thời gian sụp đổ của Hồ Xuân Hương là một thời gian đứt khúc. Không có quá khứ, không có tương lai, nghĩa là không có một liên tục sống nào giữa sau và trước, nhưng một chuỗi hiện tại gián đoạn và nhì nhằng chắp nối nhau. Mọi vật đều như tự dưng trồi lên:
Duyên thiên chửa thấy nhô đầu mọc
Phận liễu sao đà nẩy nét ngang.

Hai câu thơ ấy tuy nhiên không chỉ kể chuyện một người con gái chửa hoang. Không chồng mà chửa thì có gì lạ? Lạ ở chỗ đứa con nàng mang trong bụng là một đứa con của điêu trác. Nghĩa là của chân không. Hóa ra chân không, cũng sinh, cũng nở, cũng mọc, cũng gây sự sống. Nhưng sự sống ấy ở chân không ra, có gì là thực? Ngay chữ “nẩy” thôi cũng đủ cho người ta thấy, trong sự sống ấy, tất cả tính cách máy móc của một di động tĩnh vật. Như sự sống ấy là một sự sống giả tạo. Cỏ vẫn rậm rạp. Nước vẫn lam nham. Rêu vẫn lún phún. Nhưng ấy chỉ là những sản phẩm của đá, những chất nham nhở rỉ ra từ những đồ vật chết, nghĩa là những quái thai. Và người ta hiểu tại sao trong Hồ Xuân Hương chúng đều có một cái gì ương và dở và gở và rất khả nghi. Những di tích sinh lý ấy là những nghịch hoạ của sinh lý. Sự nhỡ nhàng của chúng như điệu múa chết đứng, trên một mặt đất cằn, của ba trạc thế cây hình uốn éo, vừa ghẹo vừa thách đố người ta vừa tố giác một thế giới đã hoá kháng. Cái nguồn sống đã mất. Thế giới rỗng. Nghĩa là nó đặc. Và người ta chỉ là những kẻ đứng ngoài, sống ngẩn ngơ và lạc, trước một thế giới không làm cho người ta. Thì làm sao người ta hiểu?
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất?
Miệng túi càn không thắt lại rồi.

Cán cân tạo hoá đã gẫy, thế giới mất quân bình, và tất cả những gì xảy ra như không theo một quy luật nào cả. Sự thiếu quy luật ấy tuy nhiên không có nghĩa là tự do. Nó chỉ là cách xuất hiện, như ảnh tượng của cái túi càn khôn cho người ta thấy, của một thế giới đóng. Cho nên những thể nhố nhăng của thế giới ấy, trong sự thiếu vắng quy luật của chúng, chỉ là những thể cứng và nhỡ nhàng của cái chết. Và chúng nhại một tự do thực không thể có cũng như, ở đằng khác, những nhịp đứt khúc, giật giọng, trục trặc nhưng tẻ đều một điệu của đời. Cá thì đầu ngơ ngác, chim thì cổ gật gù và người ta cũng quỳ hai gối xuống gật lom xom. Như chầy máy, như con cò mấp máy suốt đêm thâu, như máy móc là đặc tính của tất cả những cử chỉ. Khom khom cật, ngửa ngửa lòng, nâng nâng nhấc, thích thích mau là ngần ấy từ ngữ để bắt chước, ngay trong cách láy âm thanh của chúng, những nhịp máy móc ấy của một cuộc sống không có hồn. Cái nguồn sống đã mất. Thì cuộc sống thực không thể có. Những cảnh của Hồ Xuân Hương, ngay trong sự sặc sỡ giả tạo của chúng, đều là những cảnh buồn và rất vắng. Và giữa những cảnh bỏ hoang ấy, đôi khi, người ta gặp những bà vãi lần tràng, hết đếm lại đeo, sống nghìn năm theo một tác động đã mất nghĩa. Hoá ra thời gian của sự đột nhiên cũng là thời gian của sự nhai lại. Thế giới loạn thể của Hồ Xuân Hương, rốt cuộc, chạy theo độc một chiều. Và sự thiếu quy luật của nó lại giam người ta vào những nhịp cứng và máy móc nhất. Hai mặt ấy tuy nhiên không mâu thuẫn nhau. Ấy là hai mặt của cùng một cuộc sống xa nguồn. Một mặt thì tất cả đều như vô lý và đứt quãng. Và mặt khác, cái túi càn khôn cứ khép lại, người ta sống như những tử tù của một định mệnh [2] càng ngày càng cưỡng bách. Một định mệnh người ta chịu, nhưng người ta không hiểu, và đến chết, không thể làm thế nào thoát khỏi. Và những thầy tu cũng như tất cả mọi người:
Thuyền từ cũng muốn sang Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo.

Ấy không chỉ là những câu thơ để riễu, như người ta nói, một xã hội tôn giáo suy vong và thối nát. Nếu thế thì chẳng tiếc lắm sao! Tiếc Hồ Xuân Hương không sống ở xứ Lào để người ta mời nàng ra lành mạnh hoá xã hội, chấn hưng đạo đức và được thể làm tiền. Nhưng Hồ Xuân Hương không nghĩ đến tiền và đạo đức. Qua những thầy tu nàng riễu là cả cái giải thoát siêu hình của tôn giáo đã bị nàng từ chối và coi là điêu trác. Cực lạc nếu có thì, theo nàng, nó không thể nào có người cõi tục. Và người ta biết rằng nàng đặt nó ở chỗ tục nhất của cõi tục ấy là ở lòng thế giới. Nhưng lòng thế giới không có thì, như những thầy tu, nàng không chờ gì nữa ở đời sau. Nhất là ở một đời sau người ta tính lấy những “bồ phúc đức” để mua. Và sỗ sàng nàng hỏi ông thầy tu:
Phúc đức nhà ngươi được mấy bồ?
Chừng mấy bồ thì được giải thoát? Nhưng người ta hiểu tại sao sự kế toán ấy không thể cám dỗ được một người vẫn tin rằng cực lạc là được thả mình xuôi một dòng nước đại lượng và rạt rào. Hơn nữa có ai ngồi đếm những bồ phúc đức ấy cho người ta đâu! Thế giới vẫn trơ mặt đá. Và người đá Hồ Xuân Hương chỉ thấy có chân không. Sự tuyệt vọng của nàng là của người duy vật. Huyền bí cũng như thiện và ác trong thơ nàng không có. Mà nàng cũng không có oán trách ai. Oán trách gì những đồ vô tri giác! Con người duy vật trong ấy vật thể chỉ thấy một chút chân không đọng lại và trong vật lý chỉ thấy một sự vô lý không cùng. Lý của vật không phải lý của người. Những quy luật của nó, nếu nó, cũng chỉ là những quy luật mù. Người ta chỉ có việc chịu. Tất cả những gì ở trong tay người ta xuyên tạc một lần nữa cái mặt ngoài của thế giới vốn đã là một xuyên tạc rồi. Nghĩa là người ta có toàn quyền gây thêm những thể nhố nhăng, cứng và chết. Và thế người ta gọi là sáng tác. Ai ngờ đâu đi tìm thiên đường của thực thể Hồ Xuân Hương lại lâm vào cái hoạ của một tự do múa rối! Cái tự do ấy đâu có đổi được gì! Và tất cả những gì xảy ra vẫn xảy ra một cách trêu người như người ta không có. Con người có nghĩa gì đâu trước cái nhịp muôn đời của thế giới! Cái chợ người sẽ hết. Nhưng cái chợ Trời vẫn tiếp tục:
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi

Thế giới chỉ có một sự thật là sự vô nhân đạo của nó. Và như con ong châm phải đầu sư, người ta là những kẻ bé cái lầm, chạy theo cực lạc ở chỗ nó không có. Thì sao người ta không tưng hửng, không tẽn tò, không “hố”? Không những cái lẽ thường của người ta thất thế, mà làm gì thì những tác động của người ta cũng cứ bị tráo nghĩa giữa đường. Từ thất bại này sang thất bại khác, người ta là trò chơi của một định mệnh oái oăm. Lấy chồng thì chồng chết, theo trai thì trai bỏ, đưa khách qua sông thì khách phụ. Con người của Hồ Xuân Hương đi thì nhỡ bước [3], lập kế thì sa ngay khi đã chịu thua, chịu thiệt, chịu “hố”, người ta, đón định mệnh, chọn trước cái phần đê tiện nhất của đời cho thì ngay khi ấy, tưởng là đã yên thân, người ta vẫn chưa yên. Như trong một cái hố nào của đời cũng sắn có một cái hố sâu hơn nữa chờ người ta và như thi sĩ nói:
Cổ đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công.
Kết luận là không có chỗ nào trên đời, dù là một chỗ tủi nhục, có thể bảo là làm cho người ta và ngưi ta có thể ở. Người ta còn chờ gì ở thế giới thì người ta còn mắc lừa. Và tuyệt vọng là tất cả những gì còn lại.
Chú thích:
[1] Xộc xệch cũng như lắt lẻo tả một sự mất gốc. Và chênh vênh và cheo leo là những gì nhô ra trên một nền chân không. Người ta hiểu rằng trong khoảng không có gì ấy tất cả đều lộn vèo và bấp bênh nghĩa là không ngừng nhỡ bước.
[2] Ảnh tượng của cái diều một đằng thì lộn lèo theo những di động loạn xạ, một đằng vẫn bị tù trong giới hạn của một quãng giây cũng chỉ có cái nghĩa ấy.
[3] Sự nhỡ bước ấy cần được hiểu theo nghĩa cụ thể của một sự bước hụt. Người ta đi và thấy “đất” chợt thiếu dưới chân mình. Ấy là một thứ “đất” lỏng như không có người và ta lộn lèo theo một cuộc sống bấp bênh như lúc nào cũng có thể nhào xuống một khoảng trống lớn. Vẫn cuộc đời không có căn bản ấy! Và chân không là chỗ đến của tất cả những tác động người.
7. Thế giới tuy nhiên vẫn cám dỗ. Cảnh trông như vẫn ưa người. Nhưng giờ tiếng gọi của cảnh chỉ làm cho Hồ Xuân Hương ngạc nhiên và nghi ngại:
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xoa tràng giang phẳng lặng tờ.

Sự sặc sỡ ấy có thể mua được lòng người khác. Nhưng trong thơ nàng thì sặc sỡ cũng có nghĩa là điêu. Và nhất là những mầu xanh và trắng ấy thì ai cũng biết rằng, trong những câu:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi

nàng đã mượn chúng để tả sự thờ ơ. Ở đây chúng không có nghĩa gì khác. Và cái hình tròn xoe tán ấy cũng thế. Như mặt nước phẳng lặng tờ, nó là một trừu tượng kỷ hà và vừa tô điểm cho cảnh nó vừa làm chứng rằng cảnh đã chết. Ấy là một cảnh sơn và vẽ như của sân khấu. Người ta đã kẻ, đã gọt, đã tô mầu cảnh theo thước thợ. Sự vui mắt của nó là của những sảo, thể. Cho nên cảnh vui mắt ấy cũng là một cảnh tiêu sơ. Như trong sự sặc sỡ của nó, Hồ Xuân Hương thấy một cái nghèo căn bản. Thì làm sao nàng có thể để nó cám dỗ?
Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ?
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Cảnh ưa người. Sự mới lạ sao! Tất cả kinh nghiệm của nàng cho Hồ Xuân Hương biết rằng ấy là một sự không thể có thực. Nàng ngạc nhiên. Vừa tỏ tý ngạc nhiên tán thán tự của nàng vừa sốt ruột xua đuổi một mối tình lường đảo. Và thế là đoạn tuyệt giữa cảnh và người. Lẽ dĩ nhiên ngườI ta không thể không thấy mất, thấy tiếc, thấy ngẩn ngơ. Ngẩn ngơ là cái sầu của một người ngay trong sự ưa người của cảnh đã cảm là có thiếu một cái gì. Nhưng ngay cái sầu ấy người ta biết rằng Hồ Xuân Hương cũng từ chối là điêu trác. Kiêu ngạo cuối cùng của con người ấy là không có ngay đến sự an ủi của một lời than thở nhịp nhàng! Nàng đã thật hết chỗ tựa. Nhưng tình cảnh ấy nàng nhận. Nàng nhận tuyệt vọng. Thì tiếng cười nhạo báng nàng cũng không cần đến nữa. Còn gì để nhạo nữa đâu! Lần đầu tiên trong Hồ Xuân Hương cảnh hết sai lệch để có cái tĩnh của kỷ hà [1]. Ấy là sự bắt đầu của thản nhiên. Hy vọng đã hết và tất cả những ảo tưởng đã bị tố giác. Trơ ra là một mặt đất cằn.
Thì nước có thể chảy. Ấy chỉ là một dòng tăn teo như sắp cạn. Mà nó cũng không nói gì cho Hồ Xuân Hương nữa. Nó đã hết nhiệm mầu. Cho nên giếng tuy đầy mà cỏ vẫn đìu hiu. Như nước không còn là nước sống. Có nước thì có nhưng cảnh vẫn hắt heo. Một con đường thiên thẹo, một nhịp cầu tre khẳng, một quán tranh xơ xác và thế giới chẳng khác gì một cỗ xương khô. Ấy là thế giới của một người đã từ chối tất cả những cám dỗ ngoài mặt của thế giới để, không chờ gì ở thế giới nữa, nhận sống đến cùng cái nghèo căn bản của thế giới. Và thế giới để người ta đứng tréo như sắp đổ giữa một con đường cằn và sai lệch, cheo leo trên một cái vực tuyệt vời. Không còn gì cho người ta nữa! Không còn gì ngoài cái vực ấy, không còn gì ngoài một miếng đất trơ xương và, ở giữa, ba ngạc thế cây hình uốn éo, như một lời mai mỉa cuối cùng. Như một dòng nước hoá đá. Tất cả đều nhắc người ta rằng, người ta đang ở trong xứ của cái chết và tất cả trên thế giới vô phúc này, đều dẫn đến chân không. Nhưng khi đã thắng những thương tiếc hão, người ta nhận cái chân không của tất cả, thì ngần ấy lý do để người ta tuyệt vọng cũng là ngần ấy cớ để người ta vui. Và người ta có thể thành thực ca rằng thú vui quên cả niềm lo cũ… Quên thì quên! Quên sao được sự quên ấy. Và nếu cái vui của Hồ Xuân Hương giờ không còn là cái vui giả tạo của nhạo báng thì nó cũng không là cái vui của con người tự nhiên. Ấy là cái vui cằn của tuyệt vong. Một cái vui cướp lại trên nghìn nỗi lo xưa. Như của những người khổ tu thuở trước chọn sa mạc để sống, lấy sọ người làm bát ăn và, đập xương khô gõ nhịp, mặc cái điều ai nó lộn lèo. Khác là họ đã ngoảnh mặt đi trước những cái thú của đời, mà họ cho là ảo tưởng, để chuộc lấy một thiên đường sau cái chết… Và hy vọng ấy làm sa mạc của họ lên hoa. Nhưng Hồ Xuân Hương không tin là có một đời sau. Nàng chỉ có cái đời này và, trong đời này, nàng chỉ thấy sa mạc, thì cái vui của nàng, dựng trên tuyệt vọng và sa mạc của đời, cũng đắng mùi vô đạo. Nó giống sự thản nhiên, ngoài cửa Lục của núi Thầy Tiêu:
Đồn rằng núi Lục có Thầy Tiêu
Ngồi nhịn đêm thanh lắng muỗi kêu
Cửa trống phó cho thằng nhện đóng
Đèn tàn để mặc cái dơi kêu.

Ấy là cảnh của một người hóa đá. Như cứ nhìn mãi một mặt đá vô tình, người ta cũng thấy mình thong thả trở thành đá theo. Và còn lại trên núi Thầy Tiêu một cảnh đá không có người. Có ai để nhìn nó nữa đâu? Người ta đồn rằng nó có như nó thuộc một thế giới nào khác. Như những người ở một thế giới khác, một ngày nào, sẽ đồn rằng có một thế giới xưa của người. Con người chỉ là một sự thoáng qua. Mà nước mà non thì không có tuổi. Núi Thầy Tiêu, trong cảnh hoang của nó, là một tiền ảnh của thế giới, khi ngọn đèn cuối cùng chợt tắt, thế giới lại được trả cho đêm của thời gian và tiếng bể hát muôn đời. Ai khi ấy còn nhớ là con người đã có?
Như thế có phải là tiếng chót của kinh nghiệm Hồ Xuân Hương? Ngoảnh lại con đường đã qua thì theo nàng người ta đã từ một nguyện vọng đã cực lạc đến sự chấp thuận của cuộc sống trụi và nghèo, từ những vật ở trong sung mãn đến những cảnh gầy trơ xương, từ cái vui của một hy vọng giầu đến cái vui cằn của tuyệt vọng. Thơ nàng bắt đầu trong trực giác rằng lòng thế giới giữ một nguồn nước ẩn. Và nàng gọi người ta giải phóng cái nguồn ấy để sống có thể là sống thực trong chan hoà. Nhưng bạo động đổi sự giải phóng ấy ra một cuộc chinh phục. Và đáng lẽ chan hoà nó lại càng tăng ly gián. Nó ép lòng thế giới xuất hiện. Nhưng xuất hiện trong ly gián là để người ta sờ, người ta mó, người ta nhòm. Thì sự xuất hiện ấy chỉ là một sa đoạ. Và cái nhòm soi móc, cưỡng bách, xâm đoạt của người ta, đáng lẽ cho người ta lòng thế giới, lại làm thế giới trở lên sặc sỡ, nham nhở và khôi hài. Như người ta muốn cướp lòng thế giới thì thế giới nhăn mặt lại và tự bôi hề để nhạo lại người ta. Hẳn lỗi không ở thế giới. Mà cũng không phải thế giới muốn cho người ta một bài học lễ độ. Nhưng lòng thế giới đã hoá ra ngoại thể. Và cái gì còn lại của thế giới là những cảnh đá tạc. Ấy là những cảnh đã chết cứng của một thế giới đã hết nguồn. Nhưng sự cứng lại của cảnh còn là của một tình trạng nữa. Là sự đối nghịch nhau giữa cảnh và người mà, trong bạo động, người ta đã tự cấu tạo. Hay nói một cách khác thì chọn bạo động để mở lòng của cảnh người ta cũng đã chọn làm cho cảnh mất lòng. Vừa làm cho lòng của cảnh sa đoạ, bạo động vừa làm cho cảnh hoá đá! Và tất cả xảy ra như thất bại của Hồ Xuân Hương đã nằm sẵn trong cơ cấu của bạo động. Như vừa tấn công thế giới vừa làm thế giới cứng lại bạo động chỉ là thể gay nhất của một mâu thuẫn sẵn có trong nguyện vọng cực lạc của nàng. Là nàng muốn giữ nguyên sự kín đáo ngay trong cảnh chan hoà. Cho đến nỗi vừa muốn chan hoà vừa muốn giữ nguyên sự kín đáo. Hồ Xuân Hương, đã vào tới mênh mông lại còn e mình thất lạc, như nàng quên rằng để biết cái mênh mông của lòng thế giới người ta phải biết quên mình, ở giữa lòng thế giới, lại thấy mình ở ngoài thế giới, giữa đêm và những mặt đá sỗ sàng. Nhưng sự sỗ sàng ấy người ta biết cũng của một tâm hồn e lệ. Con người đa tình ấy coi rẻ những thổ lộ của lòng. Lời than thở của nàng là một lời riễu cợt. Và ái ân là một cách để nàng thực hiện tự do. Như cái bánh trôi bẩy nổi ba chìm với nước non mà tấm lòng son vẫn giữ. Hạnh phúc của nó là thực hiện được cùng một lúc, một cặp yêu sách ngược lại nhau, trong sự giải quyết của cái mâu thuẫn giữa chúng. Một mâu thuẫn người ta thấy, trái lại, ngưng đọng suốt kinh nghiệm Hồ Xuân Hương. Khi thế giới đầy thì lòng nó kín, khi lòng nó xuất hiện thì nó nghèo đi và nham nhở, khi nó gọi người ta dùng dằng, khi người ta xông đến thì nó hoá đá và người ta hiểu tại sao trước sự mở lòng của đá Hồ Xuân Hương chỉ thấy một sự hớ hênh. Sự hớ hênh ấy cũng như những vật úp mở, những đồ lai căng, những cử chỉ nửa chừng, những chữ nửa thanh nửa tục và rêu và liễu và cỏ và sự đối nhau giữa thông và liễu nữa là ngần ấy thể của cái mâu thuẫn căn bản trong thế giới Hồ Xuân Hương giữa một giấc mộng nước và sức kết tinh mà sự hóa đá chỉ là một nghịch hoạ [2]. Cũng như của mâu thuẫn ấy, sự xung đột trong bạo động, giữa Hồ Xuân Hương và thế giới, là giai đoạn gay nhất.
Những sự xung đột ấy lẽ dĩ nhiên cũng không thể đi tới cùng. Chẳng hạn tới chỗ xung đột có thể làm nổ tung lên tất cả. Nổ làm sao được? Khi vừa phá cảnh bạo động vừa làm cảnh cứng lại. Mà cảnh đã cứng thì cái khuôn nghiêm khắc của Đường luật lại làm cảnh cứng hơn nữa. Hoá ra phá cảnh Hồ Xuân Hương phá cảnh trong luật. Luật bị xô lệch. Nhưng sự phá cảnh theo luật ấy, người ta biết, cũng không phá gì hơn một nghịch hoạ. Nó chỉ làm chứng cho cái tài của Hồ Xuân Hương. Ấy là cái tài làm méo những bề mặt. Và người ta vẫn không thoát khỏi cái mặt ngoài của thế giới. Thì lòng thế giới có cũng như không. Hay nói đúng hơn thì người ta có thể nhắc lại rằng không thể để lòng thế giới ẩn mà cũng không thể làm nó xuất hiện mà không làm nó sa đọa. Hồ Xuân Hương chỉ còn một cách là làm như nó không của nàng đổi ra một tài nhạo báng, nàng có thể nhạo, rằng thế giới không có lòng. Như thế thì tất cả những trật tự của thế giới đều không có căn bản như nhau. Thì phá những trật tự làm gì? Những con người của trật tự quý cái tài nhạo báng của Hồ Xuân Hương cũng phải. Cái tài ấy là một thể của thất bại. Nó từ chối và lên án tất cả những tác động của người ta để làm một thế giới thực hơn. Và qua cái tài ấy thì cuộc xung đột giữa Hồ Xuân Hương và thế giới, chưa bắt đầu, người ta đã biết là một cuộc xung đột vờ. Một đằng thì nó làm thế giới cứng lại để chỉ cho người ta chân không của những thể và một đằng thì tất cả những thể của thế giới người ta đều làm sái để nhạo rằng thế giới chỉ có những thể là chân không. Ấy là những thể của một cuộc xung đột trong ấy những địch thủ xô xát nhau thì không những tìm hết cách để ghẹo nhau. Và tất cả thơ Hồ Xuân Hương chạy trong một tiếng cười. Nàng cười tất cả là chân không. Nhưng cười như thế có khác gì những người trí thức không đủ sức sống đến cùng tư tưởng của mình, nửa đường lại tháo lui, trở mặt cười tất cả những tư tưởng là hão? Và như thế thì tiếng cười của Hồ Xuân Hương một đằng có thể gọi là sáng suốt thì một đằng khác cũng gọi là một tiếng cười nguỵ tín. Nhưng còn cười, còn nhạo, còn riễu thì vẫn còn tha thiết những gì mình riễu, mình nhạo, mình cười. Xung đột còn tiếp tục.
Cho đến khi, người ta không tha thiết gì nữa, sự xung đột chỉ còn là một sự thờ ơ, cho đến khi sự tương nghịch nó gây nên trong những thể chỉ còn là sự nhỡ nhàng của một thế giới rỗng, cho đến khi tuyệt vọng ở thế giới, người ta nhận sống rỗng và ly gián, không chờ cũng không nhạo gì nữa, để trong sự thản nhiên của người ta trước tất cả, người ta trả lại tất cả sự thản nhiên của nó cho thế giới. Thì:
Bên trời phấp phới sương gieo lá
Sườn bể quanh co sóng vỗ đều

Tất cả những ngọn đền đã tắt. Và bắt đầu cái đêm thứ nhất của thế giới Hồ Xuân Hương. Không phải cái đêm tối om om trong lòng đá, không phải cái đêm trắng mắt, nghe tiếng gào eo óc, oán hận trông ra khắp mọi chòm, nhưng cái đêm lành của thế giới lần đầu tiên không có người. Thế giới hết méo mó. Sự thản nhiên của nó giờ giống một sự dịu dàng. Tất cả lại trở nên thuần và dễ dãi. Và sườn núi quanh co ấy cũng nhịp nhàng như tiếng sóng vỗ. Như trên cảnh chợ Trời ngày và đêm vẫn chuyển đều:
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng…
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.

Sự tương hòa lại có mặt trên thế giới. Hơn thế nữa, bầy hàng hoa quả tứ mùa sẵn, thế giới lại rồi rào. Như khi người ta không chờ gì ở thế giới nữa thì lòng thế giới lại mở. Người ta làm như người người ta không có mặt nữa trên đời. Thì sự vắng mặt ấy lại là nơi thế giới tụ hội, thế giới lại đầy và tất cả những gì xảy ra, xưa như ghẹo người ta, lại xảy ra nhịp nhàng. Hóa ra khi người ta từ bỏ cuộc đời thì cuộc đời lại đến. Như chọn sự thản nhiên của đá người ta cũng biến đá của thế giới ra cho người ta và thế giới thuận nhau. Mà thật thế. Thản nhiên là để mặt cho thế giới lôi đi. Lôi đi vào đêm, lôi đi vào cái chết, lôi đi vào đâu thì Hồ Xuân Hương cũng thuận. Nàng có thể thuận tất cả tại, không chờ gì ở thế giới nữa, nàng như một kẻ đã chết rồi. Sự tuyệt vọng ấy, nói cho cùng, có khác gì tình yêu? Qua nó thế giới có nghèo đến mấy cũng là một thế giới thuần nhất, đại lượng, rồi rào. Và ái ân giữa thế giới và người ta lại bắt đầu. Hóa ra cái tình của thế giới, người ta không đoạt nổi, lại đến cho sự vô tình của người ta. Như có để thế giới giữ tấm lòng son của nó thì lòng thế giới mới rào rạt. Hay nói đúng hơn thì lòng thế giới có thực không người ta cũng không biết. Người ta đã trả cho thế giới sự kín đáo của nó và nhận sống ở ngoài, thì tất cả xảy ra như ở ngoài thế giới người ta ở giữa lòng thế giới; người ta vẫn là người ta; thế giới vẫn là thế giới; nhưng người ta không có, thì êm ái, lâng lâng theo một nhịp tang thương, sự kín đáo tuyệt đối ấy cũng là sự tuyệt đối chan hòa và, như thi sĩ nói:
Nào nào cực lạc là đâu tá,
Cực lạc là đây chín rõ mười.

9. Lẽ dĩ nhiên rất có thể tôi lầm. Về Hồ Xuân Hương người ta có biết gì đâu mà có thể kết luận một cách chắc chắn. Những yếu tố càng ít thì vị trí và nghĩa của mỗi yếu tố càng khó định và sự tổ hợp của chúng càng có thể có nhiều kiểu khác nhau. Cho nên những trang này không có giá trị gì hơn là một giả thuyết. Coi chúng là một bài phê bình thì quá. Phê bình thực là giảng văn. Nhưng trước khi giảng, trước khi tìm những lý do của tác phẩm trong tiểu sử của tác giả và, qua tiểu sử ấy, trong những hoàn cảnh cụ thể (sinh lý, văn học, chính trị, xã hội, kinh tế) tác giả đã sống để, trong tác phẩm, trả lời, giải quyết, vượt qua, thì người ta phải biết cái tác phẩm người ta định giảng nó thế nào, nghĩa là, theo một giả thuyết mới của phê bình, trước hết “phải trả cho tác phẩm sự mạch lạc của nó”. Lẽ dĩ nhiên sự mạch lạc ấy không của một hệ thống tư tưởng như cái danh từ sai lạc là “phê bình triết lý” làm nhiều người tưởng lầm, nhưng của một thế giới riêng với những chất, những thể, những đồ đạc, những vật, những nhân vật đặc biệt của nó mà - mà qua tác phẩm, tác giả đã dàn cảnh cho mình theo những nguyên liệu của đời cho và dự ý của mình. Cho nên công việc không phải là tóm tắt tác phẩm trong một số ý niệm sẵn có như lãng mạn, khắc kỷ, duy vật, hưởng lạc v.v… nhưng là định những tương quan đặc biệt giữa những nguyên liệu cụ thể tác giả đã lấy để dàn cảnh cái thế giới của mình, nghĩa là đổi sự tương cận giữa những yếu tố cấu tạo thế giới ấy ra một sự tương kết. Tìm lối tương kết nhau của những yếu tố ấy - và tư tưởng của tác giả, nếu có, cũng chỉ là một trong những yếu tố khác - là việc của người muốn đọc đến cùng. Và về Hồ Xuân Hương tôi cũng không có tham vọng gì hơn là đề nghị một cách đọc. Hay để dùng một danh từ khó nghe, người ta có thể gọi thế là giải văn. Giải là mở, là gỡ, là tháo. Người ta mở tác phẩm ra để định xem những yếu tố nào đã cấu tạo nó. Những yếu tố được dùng nhiều nhất là những yếu tố chính. Ấy là những thường tố của tác phẩm. Và công việc là lấy những thường tố ấy, tìm chỗ ăn khớp với nhau giữa chúng và xếp chúng lại. Xếp chúng lại rồi, nghĩa là sau khi đã duy nhất chúng, người ta có cái người ta gọi là cơ cấu của tác phẩm.
Sự định cơ cấu ấy, như trên đã nói, chỉ là một giai đoạn của phê bình. Nó ở giữa việc định bản (établissement des textes) và giảng văn. Cái hay của nó là bắt người ta trở lại tác phẩm, tra vấn tác phẩm đến cùng, tìm nghĩa của tác phẩm ngay trong chính tác phẩm. Ở đây không phải chỗ để trình bầy tại sao, sau những thất bại, những giả thuyết, những khám phá nào, sự định cơ cấu đã trở nên cái phần cám dỗ nhất của phê bình. Quan trọng là người ta đừng quên rằng định xong cơ cấu của một tác phẩm, người ta vẫn chưa giảng được gì. Tác phẩm chỉ là một phần của cái đời người đã sản xuất nó. Và cái nghĩa sống, cái nghĩa thực, cái nghĩa cuối cùng của nó, người ta chỉ có thể biết khi đã đặt nó trong thống bộ của đời người ấy nghĩa là khi người ta đã biết nó trả lời, giải quyết, vượt qua những hoàn cảnh cụ thể nào. Cho nên cái nghĩa của tác phẩm người ta đọc qua cơ cấu của nó như mối duy nhất cơ cấu ấy chỉ là cái nghĩa thứ nhất của tác phẩm. Tỷ dụ tôi đã xếp cơ cấu thơ Hồ Xuân Hương quanh trực giác của một nguồn nước ẩn. Và trong trực giác ấy tôi lại thấy một mâu thuẫn, nguyên ủy giữa một dự ước chan hòa và một dự ước khác nữa là giữ nguyên sự kín đáo. Ấy là hai mặt của một dự ước cực lạc. Và thực hiện cảnh cực lạc ấy là dự ước nguyên ủy của nàng. Nhưng sao nàng lại quan niệm cực lạc như thế là một chuyện khác. Xưa người ta lấy cái người gọi là cá tính của tác giả để giải thích tác phẩm. Giờ thì người ta bảo rằng tác giả có một dự ước nguyên ủy. Nhưng thế chẳng giải thích gì hơn và người ta quên rằng dự ước nguyên ủy, những mâu thuẫn cũng như những biến thể của nó chỉ có thể hiểu qua cái thực tại đã cho phép nó có và vừa diễn tả nó vừa vượt qua. Tác phẩm không tự nhiên thành trong đầu tác giả. Nó thực hiện một kinh nghiệm sống. Và như tất cả những kinh nghiệm, cơ cấu của nó là nơi của một cuộc tương biến giữa ngoại lực và tự do. Cho nên giảng một tác phẩm không phải là quy nó ra một phản ảnh của cái thực tại trong ấy nó ra đời mà cũng không phải là để kết luận rằng nó thế nào là tại tác giả nhất nhất muốn nó thế. Khoa học chỉ bắt đầu khi trong những thành công cũng như những thất bại của một kinh nghiệm sáng tác người ta biết đâu là phần của người và đâu là phần của ngoại lực. Và như thế thì định cơ cấu một tác phẩm, theo một danh từ mới, mới là một “tiền phê bình” [3].
Chữ cơ cấu thường có một nghĩa tĩnh. Nó cho người ta cảm tưởng rằng tác phẩm chỉ là sự thực hiện trong thời gian của một dự ước lúc nào cũng là một. Hắn cũng có những tác phẩm như thế và những tác giả mà sự nghiệp không ngừng đào sâu, mở rộng, làm giàu thêm một thế giới mà cơ cấu như đã định sẵn ngay từ đầu. Nhưng thường thì người ta đổi cũng như tất cả đều đổi quanh người ta. Và những sự chuyển hướng ấy, nếu người ta chỉ có thể hiểu chúng từ cái dự ước nguyên ủy mà chúng là những biến thể, thì chúng cũng đổi cái thế giới của tác giả và đôi khi đảo lộn nó trong căn bản. Nghĩa là cơ cấu của thế giới ấy là một cơ cấu động, và xếp lại một tác phẩm không chỉ là xếp trên một mặt phẳng mà còn là xếp theo một trục thời gian nữa.
Ấy là điều tôi đã làm với Hồ Xuân Hương. Nhưng niên lịch của tác phẩm nàng ai biết? Người ta có thể xếp lại cái thứ tự tôi đề nghị. Nhưng ngay cái trật tự ấy, người ta cũng không thể hiểu nó một cách chặt chẽ như tôi đã trình bầy. Ai cũng biết rằng trong thực tế, từ giai đoạn này đến giai đoạn khác của một kinh nghiệm, không bao giờ có những giới hạn rõ rệt. Ở giai đoạn sau có thể còn sót lại những đề tài của giai đoạn trước. Và ở giai đoạn trước có thể đã bắt đầu những kinh nghiệm sửa soạn những giai đoạn sau. Cũng như có khi những gì, để tiện việc trình bầy, người ta xếp như là nối tiếp theo nhau, lại xảy ra cùng một lúc. Nhưng dù sao thì cách xếp giai đoạn của tôi, như đã nói, không là cách độc nhất có thể có. Chẳng hạn có thể coi cảnh cực lạc trong Hồ Xuân Hương như một đặc ân của tuổi trẻ và, sau đó, thơ nàng chuyển theo trục của một sự cạn dần. Hay bắt đầu trong một thế giới cạn, Hồ Xuân Hương đã cá ước ở một nguồn nước ẩn để, trong bạo động, giải phóng cái nguồn ấy và trả lại sung mãn cho cuộc đời. Thế nghe cũng xuôi tai. Nhưng để chứng minh được thì có lẽ khó. Ai tuy nhiên dám nói trước là không thể chứng mình? Và có lẽ giả thuyết ấy cho Hồ Xuân Hương một bộ mặt cám dỗ và giống thời đại này, thời đại, như một thi sĩ nói, của:
Người nữ sinh viên già
Ôm ngư lôi và phóng pháo

hơn là một sự thản nhiên thực ra chỉ là một sự phục tòng. Thì dù phục tòng ấy là của một người đã đổi mình và cái chết làm một người cũng không thể chối rằng chết như thế dễ hơn là sống. Nhưng tôi đọc Hồ Xuân Hương đâu có để tô điểm hay xử án nàng? Xếp lại thơ nàng tôi chỉ xếp theo cái kiểu tôi cho là dễ và dễ hiểu nhất. Nhưng tìm hiểu một người làm thơ cũng là tìm những lý do của một tình yêu. Mà có lẽ người ta chỉ có cái tình yêu người ta có. Cho nên tuy có tất cả những lý do để chọn giữa nhiều giả thuyết cái giả thuyết tôi đã chọn, tôi cũng không có ảo tưởng rằng tất cả những gì tôi viết về Hồ Xuân Hương là đúng. Thừa can đảm thì có lẽ tôi đã viết lại. Nhưng lễ độ của người viết là không bao giờ muốn có lý đến cùng. Muốn có lý thì người ta dùng súng! Mà viết có nghĩa gì đâu? Là mượn một lời nói khó nghe để người ta giận mà đi tìm cái biết thực. Nếu cái biết thực lẽ dĩ nhiên còn có nghĩa gì trong một thế giới của bạo động, của oán thù, của đói và rét và có nghìn đao phủ thủ sẵn sàng biết trước hộ người ta.
10. Mà về Hồ Xuân Hương có thể có cái biết thực nàng không? Những tác phẩm gán cho nàng người ta không chắc là của nàng. Và có người còn ngỡ là nàng không có thực. Nhưng Hồ Xuân Hương không có thì cũng có một truyền thuyết Hồ Xuân Hương…
Chẳng hạn người ta bảo Hồ Xuân Hương lãng mạn. Thì cũng không hẳn là sai. Sai là khi người ta tưởng lãng mạn là làm thơ tự tình, có một ngôn ngữ và một quan niệm sống phóng túng. Không. Xu hướng lãng mạn của Hồ Xuân Hương bắt đầu trong ý thức rằng có một sự sai lệch giữa cái biết thường của người ta và thực tính của mọi vật. Nhưng thực tính ấy thế nào thì nàng cũng không biết. Sao người ta có thể bảo là nàng tả chân? Nàng đâu có tả. Mà có tả thì cũng để người ta thấy trong cái người ta gọi là “chân” cái chân không và sự sai lệch của nó. Ngôn ngữ nàng là một ngôn ngữ phản tả chân, nghệ thuật chủ ngoại của nàng là một nghệ thuật tố ngoại, và thơ nàng thường là những nghịch hoạ để nhạo đời. Nàng nhạo vua, nhạo chúa, nhạo ông quan võ, nhạo người quân tử và gì nữa? Tôn giáo, lễ nghi và cả đến cái chết nàng cũng không chừa. Tất cả những gì xã hội cho là thiêng và trọng nàng đều lấy ra để cười. Và có người đã vội kêu rằng nàng làm thơ cách mạng. Nếu thế thì thượng lưu trí thức ở xứ này toàn là những người siêu cách mạng cả sao! Nhưng chữ cách mạng, như tất cả những chữ điêu khắc của thời đại như: biện chứng, mặc cảm, tự do v.v… là một chữ đã mắc bệnh nghĩa là ai cũng lấy dùng nhưng chỉ để dùng sái nghĩa. Hình như người ta quên rằng làm cách mạng là lấy trật tự xã hội thay trật tự xã hội khác. Mà cảnh cực lạc của Hồ Xuân Hương Không có tính cách xã hội. Nó là một giải thoát cá nhân. Và nó đòi một sự chan hoà không để một trật tự nào sống sót thì tính cách phản cách mạng của nó đã rõ. Hơn nữa để nói đến cùng thì còn gì phản cách mạng hơn là một yêu sách tự do nhục tình? Sự thật đáng buồn là tất cả cũng cuộc cách mạng, đến buổi thoái trào nghĩa là khi những nguyện vọng thuở đầu đã vỡ, đều lên án tự do nhất là tự do nhục tình và mượn đạo đức để minh oan cho những yêu sách của nó càng ngày càng xa những có thể của thực tại và không thuận lòng người. Nhưng đạo đức thì Hồ Xuân Hương không thể nào hiểu nổi. Và người ta lại càng lầm khi người ta tưởng tiếng cười nhạo báng của nàng là của một tâm hồn đẹp, trước đạo đức suy vong của thời đại mình đã trở nên chán đời. Không. Hồ Xuân Hương không là một tâm hồn đẹp, như đời vẫn có thừa, có chán thì cũng chỉ biết chán người ta chứ chẳng bao giờ biết chán mình! Nàng thì trái lại, nàng là người đầu tiên nàng chán, và sự yếm thế của nàng, xây từ kinh nghiệm rằng cuộc sống thực không thể có thực trên thế giới, chỉ là mặt trái của một tình tha thiết yêu đời. Ai đã nói rằng con người ấy yêu đời đến nỗi gặp cái gì cũng thấy vui mắt, cũng sướng, cũng cười, cũng múa, cũng nhẩy? Nhưng yêu đời Hồ Xuân Hương đòi ở đời nhiều hơn những cái thú ấy của cảm giác, và ngôn ngữ quá đáng của nàng vừa như cố làm sống những cảm giác ấy, vừa cho người ta thấy rằng không thể đổi cảm giác ra một nguồn sống thực. Và người ta hiểu trong thơ nàng cái nghĩa nặng nhục tình. Của cái phần người ta gọi là tục. Vừa là một cách vặn méo mọi vật nghĩa là một khí giới để phá cái oai ngoài mặt của thế giới cái tục ấy vừa cụ thể hóa một tương quan đặc biệt nàng muốn thiết lập giữa thế giới và nàng. Nàng không làm thơ tục để giải tỏa trên ngôn ngữ, như người ta tưởng, một tính đa dâm không được thỏa mãn. Mà cũng không để, nhân một lời nói được đôi, khoe tài chơi chữ. A! Cái tài của Hồ Xuân Hương ai mà không ca ngợi! Như nó có thể chuộc lại được cái tục của nàng. Hay nói đúng hơn là người ta đã tha thứ cái tục ấy như một phần của cái tài làm thơ. Làm thơ tục như thế chỉ là một tiểu xảo kỹ thuật và tất cả những người lương thiện để có thể vỗ tay vào. Nhưng họ càng vỗ tay thì cái tục ấy lại càng mất nghĩa. Cho nên người ta càng thán phục tài Hồ Xuân Hương thì tôi lại càng nghi ngờ. Hơn nữa sự thán phục ấy, dựng trên một quan niệm kế toán về nghệ thuật, nó định giá trị của một tác phẩm theo tổng số những cái khó người làm thơ phải giải quyết, là một sự hiểu lầm. Hiểu lầm nghệ thuật và cả Hồ Xuân Hương nữa. Cái đẹp của nghệ thuật có đếm được đâu! Mà nếu thơ Hồ Xuân Hương chỉ có cái phần đếm được ấy thì nó cũng chẳng quý gì hơn một đồ chơi đắt tiền. Cái phần đếm được ấy là cái người ta thường lấy để khen nàng là tài. Và cái tài ấy có lẽ là cái phần đáng bỏ đi nhất trong thơ nàng, nếu nàng không là người đầu tiên riễu nó và nếu người ta không biết rằng nó là tất cả những gì còn lại cho nàng để tố giác một thế giới đã hết ân tình. Cho đến khi ân tình ấy, không cần nữa, nàng cũng quên đi, và quên cả tố giác, nàng cũng quên cả cái tài của mình để, trong một cái nhìn lơ đãng, làm thế giới và, qua thế giới, ngôn ngữ lại trở nên thái bình. Thành ra người ta có thể nói rằng, tài thì tài, Hồ Xuân Hương vẫn đáng yêu. Mà còn gì đáng yêu hơn khi trong một người thục nữ, người ta gặp một thân thể tự do, một tâm hồn mênh mông như không có và sự vô tình ấy để cho nụ cười ưng thuận cái gì cũng giống như sự dịu dàng của mỉa mai. Ưng thuận? Tiếc sao! Tiếc sao! Hạnh phúc ấy không có trong cuộc đời nô lệ.
Mà có thể có không khi bạo động và sự từ chối đối thoại càng ngày càng gây thêm thảm khổ và khơi to cái hố của oán thù?
Chú thích:
[1] Những thế kỷ hà ấy cũng như những mầu sặc sỡ của chúng thực ra cũng có thể hiểu như sự bắt đầu của một đạo lý nhân bản trong ấy con người có toàn quyền bắt thiên nhiên vào trong những thể của mình sáng tác. Nhưng tất cả thơ Hồ Xuân Hương từ chối các giải thích ấy. Và nếu có thì cái cám dỗ không có ngày mai. Nàng không ca ngợi sức sáng tác của con người mà tố giác sảo tính của những cảnh người ta tưởng là của thiên nhiên. Thiên nhiên không có. Chỉ có nghệ thuật nghĩa là những thể không có thực. Và theo nghĩa ấy thì con “Tạo khéo trêu ngươi” của nàng không thể hiểu như một Thượng đế có quyền cho thực thể mà chỉ là một nghệ sĩ nghĩa là một nhân vật tác quái giống như cái mà Thiên Chúa giáo gọi là “le Malin”.
[2] Vẫn những sự kiện ấy. Nhưng ở mỗi tầng của sự tìm hiểu chúng có một nghĩa khác.
[3] Ấy là một danh từ của Roland Barthes cũng như một số ý tưởng trong này.
Nguồn: Nxb Trình Bày. Bản điện tử do talawas thực hiện.
30/12/2006
Đỗ Long Vân
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thơ có cần thiết cho đời sống? 10 Tháng Ba, 2023 Trong kỷ nguyên nghe nhìn, thơ đang có khoảng cách với đời sống. Độc giả thèm khát nh...