Thứ Năm, 29 tháng 7, 2021

Cuộc tình trong ngục thất

Cuộc tình trong ngục thất

Sáu giờ chiều. Trời mưa lớn. Đường phố ướt ẩm bẩn thỉu. Xe người qua lại vội vàng, kín mít, câm nín. Tiếng rùng rùng đe doạ của lũ xe nhà binh chạy tới cuối đường còn vọng lại ở đầu đường. Mưa rơi đều và nặng trên mái hiên buồn bã. Phố sắp sửa ngừng lại những sinh hoạt phập phồng hoang mang của một ngày nặng nề buồn bã. Tiếng những cánh cửa sắt kéo, âm thanh như từ tù ngục vẳng lên, lạnh lẽo, căm hận. Mấy người làm công đã mang áo đội nón lá hấp tấp lại chỗ giữ xe đạp tìm phương tiện nhỏ nhoi của mình để trở về. Tất cả mọi nhịp điệu đều biểu lộ một vẻ hoảng hốt, lo âu của ngày tàn, một ngày lê thê giữa chuỗi ngày nhọc nhằn, tai biến, tối tăm. Với một chút gì chìm ngập trong bất an, trong phiền muộn, trong rã rời tàn lụi.
Người đàn bà kéo mũ áo mưa che kín phần trên mặt. Nàng bước nhanh vào hãng máy bay, mong ước mỗi một điều thật là đơn giản, đừng bắt gặp một người quen nào cả. Sự mong ước cũng thừa, vì nàng đang tới, đang qua một vùng hoàn toàn xa lạ, cách biệt. Sẽ không có một người quen nào, từ xa tới, hoặc từ tuổi nhỏ tìm về nhận diện hỏi thăm. Nàng cảm thấy đủ an toàn để có thể lo liệu một mình mọi chuyện, không ai hay biết để ngăn trở hay quyết định, dứt khoát, và từ phút này thì không một động lực hay ý muốn nào khác, từ bên ngoài, có thể lay chuyển hay xê dịch được con đường đã chọn lựa.
Quanh cái quầy bán vé hình chữ U, hành khách đủ các giới đang đưa chân chen lấn, hỏi han lao xao. Mũ nón, áo mưa, sùm sụp bốn bề. Tiếng những cô nhân viên hàng không cất lên the thé, gay gắt. Tiếng cãi cọ loạn xạ giữa những tiếng ồn ào ong vỡ, từ mọi phía.
Người đàn bà xông xáo vào vòng đai kín mít quanh quầy bán vé. Nàng cảm thấy ngột thở vì hồi hộp và lo âu. Cảm thấy nao núng với lối tiếp khách hách dịch và nặng nề của nhân viên hàng không lúc gần mãn giờ làm việc. Nàng nghĩ thầm, mọi chuyện sẽ không dễ dàng như mình tưởng, nếu không có một may mắn, một phép lạ nào đó sẽ xảy ra.
Đám khách mua vé, đổi vé, hỏi giờ bay, vào ngày mai, hình như mỗi lúc một đông. Nàng nghĩ, tình trạng lộn xộn đôi khi lại là một cơ hội tốt cho những hoàn cảnh bất thường. Nàng cười, cố nghĩ đến một điều gì vui để trở lại thản nhiên can đảm. Khung cảnh xung quanh gợi nhớ những hình ảnh trong các phim gián điệp. Một người đàn bà chen lấn vào hãng máy bay. Lấy một cái vé. Chuyến bay bất ngờ và bất thường. Chuyến đi. Những săn đuổi. Theo dõi. Đoạn kết. Đoạn kết thế nào? Nàng cảm thấy nhói thắt nơi tim. Trong phim hình như một người đàn ông nằm phủ phục xuống mặt đất chập chùng mưa phủ, đầu gối lên cánh tay buông dài chới với quãng đường còn xa phía trước. Với những viên đạn ghim vào lưng, bắn đi từ phía sau, và những dòng máu. Lắc đầu, nàng quẩy mái tóc ướt còn phủ trùm cái mũ áo mưa. Không, đó chỉ là phim ảnh. Từ lâu, đã không được xem những loại phim hay như thế. Không biết bao giờ lại có nữa. Bây giờ Sài Gòn phim chưởng ngập tràn. Và đời sống thì ngập tràn những chưởng và chưởng. Đấu công khai. Đấu âm thầm. Võ đài thì cùng khắp.
Còn ta, ta gác kiếm rửa tay, lui về, chờ đợi…
Cánh tay cầm thẻ căn cước duỗi dài trên quầy để chiếm chỗ đã mỏi nhừ. Mấy người bán vé đẩy ghế lên đứng kẹp tóc, mặc áo mưa, nhìn ra ngoài trời. Chỉ còn có hai người siêng năng cầm cự với công việc.
Người đàn bà giả dại qua ải, năn nỉ cô nhân viên nhỏ bé đáng bằng con cháu mình ngồi ở góc quầy loay hoay ghi chép.
“Cô ơi, làm ơn chút đi, cô ơi.”
“Hết giờ rồi bà, để đến mai sớm đi.”
“Tôi biết là hết giờ rồi từ lâu, nhưng cô còn ngồi nán làm giúp bà con cô bác đó.”
Cô ta chừng như bị cái giọng dỗ dành ngọt ngào ru ngủ, ngẩng mặt lên nhìn, thoáng ngạc nhiên:
“Bà cần gì?”
“Có thế chứ. Tôi đứng đây từ trưa đến giờ, hỏi hoài mà các cô kia không thèm trả lời đó. Ít ra cả Hãng máy bay phải có một người tử tế như cô đây.”
Nàng đâu có đứng từ trưa. Mới tới, và mọi chuyện, vừa quyết định tức thì, như chiếc bánh, vừa gắp từ lò ra.
“Bà mua vé, đi đâu?”
“Sài Gòn, cô ơi.”
“Ngày nào?”
“Mai, cô à."
“Mai, hết chỗ.”
“Còn cô à, không hết đâu.”
“Tôi bán vé, bộ tôi không biết lúc nào còn hết à?”
“Việc nhiều, đôi khi cô không nhớ hết thật đấy. Tôi đã cho người đi hỏi trước, ngày mai còn.”
Cô gái quay mình nhìn lên tấm bảng ghi các chuyến bay trên vách. Các chuyến bay đi Sài Gòn, vào ngày mai, đều ghi hết.
“Bà thấy không, có thì đã ghi là còn.”
Người đàn bà cãi:
“Ngày mai có tới ba chuyến đi mà cô.”
“Ba chuyến, nhưng để chở mấy người trễ tàu từ cả tuần nay. Các vụ lộn xộn và đình công trong Sài Gòn ở hãng máy bay cả tuần trước, bà không biết sao? Hành khách đây chờ chực đọng lại đó. Bà để đến ngày kia, ngày kia thì hy vọng.”
Cô gái cúi xuống, hí hoáy ghi vé cho những người khác.
“Mai bà tới sớm, tôi sẽ dành cho vé ngày kia.”
Người đàn bà nghe ngực như khô đi, hơi thở đứt cụt. Hai tay nàng chuồi trên mặt quầy nhão ra như nến lụn.
“Trời ơi!”
Một lúc, nàng kêu:
“Này cô.”
“Để cho tôi làm việc, tôi đã nói không cách nào được đâu.”
Cô gái có vẻ gắt.
Nàng hết muốn năn nỉ, hết muốn tử tế, hết cảm tình ơn nghĩa gì nữa. Nàng nghĩ tới lá bài chót, đến bí mật cuối cùng mà một nhân viên của hãng đã tiết lộ riêng cho biết.
“Nhưng mà ngày mai có chuyến bay đặc biệt, chưa định giờ.”
Cô gái vứt bút, bực dọc cau mặt nhìn lên:
“Ai nói với bà?”
“Nhân viên trong hãng máy bay nói. Lấy cho tôi vé ở chuyến đặc biệt, ngày mai.”
Người đàn bà đã rút cánh tay về. Mặt nàng đanh lại. Cánh cửa sắt của hãng đã kéo bớt một bên. Chỉ còn vừa lối cho một người ra vào. Sắp đóng cửa hẳn. Những người mua vé mới hay ghi lại vé cũng cũng đã xong việc, bỏ ra ngoài hết. Chỉ còn lại có mấy người loay hoay mặc áo mưa, kiểm lại giấy tờ ghi, nhận ở quầy.
Có vé hay không có vé. Sống hay chết. Ra đi. Hay ở lại. Ngày mai, ngày kia, ngày mai. Ngày mai thôi. Không thể và không còn bất cứ một ngày nào khác trong suốt đời còn lại. Hãy bán vé cho tôi. Hãy dẫn đường sống cho tôi. Hãy chừa lối thoát cho tôi. Nàng nghĩ, triền miên, điên cuồng, như mưa không ngừng rơi bên ngoài mái trời chợt tối.
Cô gái hình như tạm xong mọi việc vội vàng lúc trước. Cô giãn mặt ra một chút, thở dài thật nhẹ.
“Bà làm gì gấp dữ vậy?”
“Tôi phải về ngày mai, nếu không là trễ.”
“Sao vậy? Nếu không có chuyến bay thực.”
“Là chuyện khác. Tôi hỏi cô, nếu một người thân trong gia đình, đã hấp hối, chờ cô về gặp mặt lần chót, từng phút, từng phút, liệu cô có cần vé sớm như tôi không?”
“A! Bà không nói sớm.”
Nàng cười, hy vọng chập chờn:
“Phải chờ đến lúc cô nghe tôi mới nói chứ. Vé chuyến đặc biệt còn nhiều mà, phải không cô? Thôi lẹ lẹ còn đi về. Gớm, ngày nào cô cũng làm việc nhiều hơn các cô khác thế này hay sao. Rồi hãng có tính tiền phụ trội hay không. Chắc là không. Ai chứng đâu mà ghi. Bậy thật. Phải chi người nào cũng như cô, dân chúng được nhờ. Ủa, này, xin lỗi cô, hỏi cô việc ngoài lề một chút nhé”, nàng nhỏ giọng xuống, “cô mua cái màu son môi này ở đâu vậy. Tôi kiếm muốn chết khắp Sài Gòn, không có đấy. Cứ dặn thằng Chà-và ở Tax mua hộ. Nó bảo dặn bên Xinh-ga-po rồi, chờ. Chờ hoài không thấy. Tôi có một thỏi, từ đó hết là chịu. Cái màu này quý lắm, hiếm lắm đấy cô ạ, biết điệu mới xài thành ra ít bán, khó mua.”
Người đàn bà bỗng mở máy tán, tán lia, và cô gái mắc lỡm, hớn hở mở cái nắp viết nguyên tử đã đậy, rút tập giấy tờ dưới hộc quầy ra xem lại. Hai gò má cô căng lên, ửng hồng, cảm thấy bị nhìn ngắm, trầm trồ, khen ngợi. Một lúc, không nhìn được, chừng quá thẹn, cô cắn nhẹ môi, chớp mắt, hỏi vọng lên phía khách:
“Này bà. Chuyến bay đặc biệt ngày mai, bay trễ lắm, chưa biết chắc giờ nào và còn được một số ghế, hy vọng là trống, vì khách bỏ không đến kịp không được thông báo đấy. Chứ không phải có ghế đàng hoàng thật sự đâu.”
“Tức là sao?"
"Nếu tôi cứ bán vé, bà cứ đi và chờ. May có người nào bỏ chỗ không đi chuyến ấy, thì ghế sẽ phần bà, được không? Bà bằng lòng như thế thì tôi sẽ ghi.”
“Lên sân bay chờ à?”
“Vâng, nếu không có, bà lại về. Hôm khác đi. Chỉ còn cách ấy. Như thế, có thể hy vọng được. Mà lại không mất vé. Bà có thể ghi lại ngày hôm sau.”
Nàng mím môi, hai bàn tay lạnh ngắt xoắn vào nhau. Tất nhiên là không có ngày mai thì hôm khác. Không mất vé. Nhưng mất thứ khác. Mất cơ hội. Mất đời người. Mất cái phút giây thấp thoáng cứu vớt cho một đời người tăm tối triền miên. Cái vé bình thường trị giá mấy ngàn đồng bạc. Nhưng cái vé ngày mai đáng giá bằng cả một đời người.
“Sao, bà có bằng lòng không?”
Người đàn bà nhăn mặt, chết đau quằn nơi bụng thật sự.
“Liệu ngày mai có người bỏ chỗ không cô?”
Nàng hỏi vào khoảng không, hỏi trời, hỏi mình. Một triệu người bán vé cũng không trả lời được câu hỏi đó. Nhưng cô bán vé chừng như cảm thấy vấn đề sống chết nào đó của người khách cuối cùng, cô uý lạo một câu:
“Mấy hôm trước thì có, vậy ngày mai, chắc cũng có. Nhiều người chờ lâu không được đi, đến khi có chuyến, làm như lẫy, hãng liên lạc mời đi, lại bỏ không đi nữa.”
Người đàn bà nhắm mắt:
“Vậy cô cứ ghi đi cô, nhanh cho ông già kia đóng cửa, ổng chờ.”
Người lao công của hãng đứng loay hoay chờ kéo khoảng cửa sắt cuối cùng. Nàng cảm thấy mình được xếp vào khúc chót của một sợi dây phao lênh đênh. Và cảm thấy được cứu lên, vớt khỏi cơn đắm tàu, bằng cách may mắn được xếp đặt kỳ diệu:
“Một vé, bà?"
Nàng nói nhanh:
"Hai, cô ạ."
Nàng nói nhanh thêm nữa:
"Cần căn cước không?"
Cô gái vừa ghi vé vừa xem đồng hồ tay:
"Thôi khỏi, mong cho bà đi kịp.”
Người đàn bà cười nhẹ tênh:
“Cô giúp thì chắc chắn là kịp rồi.”
“Không có chi, thưa bà.”
Nàng chuồi tay lên quầy, những ngón tay lạnh ngắt mở xòe, đón lấy hai cái vé như con mèo đòi vồ lấy miếng mỡ ngon trong tầm tay, cuốn chặt lại, bỏ vào ví, ôm chặt trong tay. Những xấp giấy bạc xòe nhanh trên quầy một ngàn hai ngàn ba ngàn… không biết bao nhiêu. Nàng hoa mắt. Nàng líu lưỡi. Nàng không đếm được nữa. Không tính được nữa. Tai nàng ù đi, mắt nàng hoa lên. Cả người lao đao, nhẹ tênh, nàng thoát ra khoảng cửa hẹp cuối cùng còn dành cho riêng mình.
Một phút, tiếng cửa sắt như rít lên phía sau lưng. Tiếng cửa sắt làm ớn lạnh, rùng mình, làm nhức nhối cả những khớp xương cũ mòn lỏng lẻo vì toan tính, vì lo âu, vì phập phồng, vì suy nghĩ trong đầu óc nhỏ bé, đáng lẽ chỉ mơ màng, chỉ ước ao, chỉ mường tượng đến những thứ tuyệt vời tình tứ.
Nàng ngửa mặt lên trời mưa, cười một mình. Nước mắt nước mưa chảy ròng rỏng xuống cổ vai bên trong áo mưa đã ướt đẫm lạnh ngắt.
Người đàn ông hình như nhảy xuống từ chiếc xe jeep mới ngừng ở lề đường, trước mặt người đàn bà. Hắn toan đi thẳng vào Hãng máy bay thì nhận ra hai cánh cửa sắt nặng nề đã đóng. Nàng nghe tiếng hắn kêu lên, reo vui:
“Kìa, chị. Chị đi đâu đây vậy? Chị mới ra?”
Nàng quay mặt lên. Mọi việc của buổi chiều đối với nàng như đã xong hẳn, êm ả, kín đáo, và bây giờ, có gặp người quen cũng chẳng sao. Nàng chào hắn, với nụ cười vui riêng với mình.
“Chào anh. Anh đi làm phóng sự chắc?”
“Vâng, nhưng xong rồi chị. Đánh dữ quá. Suýt thì tôi tiêu luôn trong trận sáng nay, hết về Sài Gòn.”
“Tình hình thế nào, anh?”
“Găng quá, địch đòi tấn công lớn. Ta mở vòng đai lên vùng tây nam thành phố. Chị thấy chuồn chuồn sáng nào cũng bay về phía ấy chứ?”
Nàng không muốn nói đến những thứ đó. Chuyến bay. Trận đánh. Hành quân. Trời mưa. Di chuyển. Tiếp vận. Địch. Ta. Đạn. Máu. Thù. Bây giờ, nàng không đủ sức để nghĩ đến bất cứ một điều gì nữa, ngoài hai cái vé ngày mai.
“Chị lấy vé máy bay à?"
"Vâng."
"Phí của, phải chi tôi gặp chị sớm một chút."
"Việc gì vậy anh?"
"Mai tôi về Sài Gòn, máy bay quân sự còn thừa mấy chỗ. Nếu chị muốn cùng đi. Máy bay thường, dạo này bất thường lắm chị ạ. Chị xem mấy người trong gia đình tôi mua vé cả tuần nay không đi được, chiều nay giận quá, tôi mang vé trả lại, mai họ đi cùng tôi luôn. Nếu chị cùng đi thì đỡ mất thì giờ, và cũng không có gì phiền chị."
Một thoáng, nàng nghĩ đến chuyến bay quân sự. Có thể được không?
Được, chứ sao lại không. Ném hai cái vé trong ví này đi. Nói với hắn thu xếp chỗ. Hắn sẽ đưa xe jeep lại nhà đón. Đến phi trường, sẽ theo hắn. Vậy là xong. Chuyến bay quân sự. Công tác phóng sự chiến trường.
Nàng hỏi:
"Mai anh đi à?"
"Tôi ra đây một tuần rồi, ghê quá chị ơi, nhưng bù lại, mấy cái phóng sự tuyệt vời. Còn chị, chị ra có việc, hay đi chơi?"
Nàng nhìn mưa còn bay xuống mang theo bóng chiều đã thấp ngoài kia mặt sông xám thẫm lạnh lùng.
"Thời buổi này thì còn ai chơi được. Tôi ra có việc."
"Dạo sau này không thấy chị. Thế chị ở đây?"
"Không, vẫn Sài Gòn, tôi ra có việc, tôi lại vào ngay."
"Nhiều người hỏi thăm chị. Suốt mấy tháng nay, không ai thấy chị cả."
"Tưởng là tôi mất tích cũng được."
"Có người cho như thế đó."
"Không đâu. Tôi không bao giờ mất tích. Chỉ thỉnh thoảng mất tăm."
"Chị về, cho bạn bè biết, họ lại thăm."
Giọng nói, câu chuyện của người quen nhắc lại từng khuôn mặt, từng tên người, từng việc làm nhộn nhịp của thành phố suốt đời ăn chơi huyên náo đó. Những ngày xấp tài liệu trên tay, bài vở trong cặp da, đồng hồ lớn luôn luôn đúng giờ, chạy từ nơi này qua nơi nọ. Dò hỏi, nghe ngóng săn tin. Những bộ mặt xám ngoẹt mực in của các toà soạn. Những chồng báo ngoằn ngoèo nham nhở. Những tiếng nói cười vui vẻ ồn ào quanh các tiệm cà-phê, đầu các xe mì phở. Những buổi sáng từ góc tiệm nước máy lạnh nhìn ra ngã tư đường phố đang dấy lên một cuộc xuống đường, một màn bầu cử, một cuộc đổi thay. Mọi sự chớp nhoáng, bất thần, ào ạt. Rồi lại lắng chìm, tan nguôi, lặng im. Đâu lại vào đấy. Những gì đáng mất đi vẫn còn. Những gì đáng lẽ còn đã phải mất. Những kẻ được, lại thua lỗ bỏ đi. Kẻ đáng thua lỗ, lại ngồi trì, ăn có. Mọi chuyện như cái con vụ. Con ếch nhường chỗ cho con gà. Con tôm nhường chỗ cho con heo. Cái vụ tròn bé thơ quay tít trong bao nhiêu con mắt khắc khoải đợi chờ.
"Ngày mai, chị đi với chúng tôi hay không? Tôi đưa xe lại đón."
Nàng nghĩ đến chuyến bay, thật an toàn, thật dễ dàng, nhanh chóng. Nhưng cũng nghĩ đến những chuyện trò phải nói. Những mặt người phải nhìn. Những thắc mắc phải giải đáp. Những lời lẽ phải giải thích. Thôi, mặc tôi, mình tôi. Hãy tự ráp nối lấy những xích sắt dắt dẫn đời mình, không ai giúp đỡ, không ai lay chuyển. Hãy nối và gỡ những vòng dây xích định mệnh, tuỳ lúc, và bước chân về phía những tiếng kêu trong mịt mờ im lặng của tâm can. Không chia sẻ ai. Không ai chia sẻ.
“Cám ơn anh. Nhưng tôi còn các cháu nhỏ, không đi máy bay quân sự được. Có một lần tôi đi nhờ như thế, nửa đường máy bay đổi hướng, định ném đám khách đi nhờ xuống rừng Ai Lao. Từ ấy đến nay, không muốn nghĩ đến con đường xuất ngoại kiểu đó nữa. Trẻ con không có nệm, không chịu ngồi lâu đường dài đâu.”
Nàng nín lặng, ngạc nhiên nghe thấy tiếng nói mình trơn tru như cháo chảy với những lời bịa đặt. Trẻ con nào đâu. Chuyến bay quân sự nào đâu. Hình như nghe loáng thoáng trường hợp những hành khách nào đó bị ném xuống rừng Lào để phi cơ kịp trở lại chuyển quân tới mặt trận. Hình như…
“Chắc chị thích tiện nghi. Thôi. Theo chuyến đi kham khổ của chúng tôi không xong đâu. Chừng nào có mặt chị ở Sài Gòn, chúng tôi đến gặp chị.”
“Để làm gì?”
“Chị viết cho báo tôi mấy bài.”
“Thôi, tôi gác bút từ lâu rồi. Tôi hết là ký giả. Đang muốn là ký thiệt đây."
"Chị định gì?"
"Thì ký thiệt."
Nàng nói, nghe mình nói, nhưng quả tình là không biết mình đang nói, với kẻ khác những gì. Chừng như con người nàng bị tách đôi. Một nửa để thờ ơ đón đợi, chống chọi với đời ngoài. Một nửa đắm chìm vào lo âu tính toán những nỗi niềm cay cực riêng tư. Người đàn ông nói gì nàng cũng không nghe. Hình như hắn ném ra hai chữ tiện nghi, hắn nói gì. Một chút phẩm bình. Một phần nhận định. Về mình. Tiện nghi. Có phải không? A, con đàn bà thứ nhất hãy nghe con đàn bà thứ hai nhìn ngắm lại mình. Có phải mình thích tiện nghi hay không? Khỏi bàn. Khỏi nói. Mày là thứ đòi hỏi những tiện nghi tột đỉnh. Tiện nghi trên tất cả mọi tiện nghi. Không phải tiện nghi của bàn dân. Mà tiện nghi của vương giả. Nhưng bây giờ, dù là của vương giả. Bây giờ thì sao. Có dấu vết gì tiện nghi trong tháng ngày, trong vóc dáng nữa. Hết rồi. Cái xe đã bán. Cái nhà đã tan. Tháng ngày đã cụt. Sức tàn đã hao. Bạc tiền cũng nhẵn. Không còn gì ngoài cái xác héo hon, cái hồn thoi thóp, cái quyết định cuối cùng điên đảo một đời. Nhưng cách nào khác. Này ông bạn, này mọi người, này thành phố, tôi sinh trưởng ở đây, tôi khôn lớn ở đây, tôi học hành vui chơi ngày tháng ở đây. Rồi ra đi rồi lớn khôn ròi thành công và thất bại theo những tiếng gọi vang lừng phía chân trời. Bây giờ hai chân trên thành phố cũ. Bây giờ hai tay ôm buổi chiều tăm tối cũ. Bây giờ con mắt buồn thiu mở xuống phía dòng sông cũ. Nhưng mà tôi đã thua liên miên. Đã hoà tấu tất cả những cung bậc cao nhất thấp nhất của nửa đời mình. Bây giờ làm người lạ, ta ghé qua đây. Ghé qua tìm kiếm cái kho tàng đời mình thất lạc đâu đây. Kho tàng của ta. Đời sống của ta. Nhưng mà ta không có quyền gì về đời sống ta. Không có quyền gì về liên hệ ta. Không gìn giữ được kho tàng trân quý của riêng ta tìm kiếm, nâng niu, giữ gìn. Vậy thì, không có cách nào khác hơn là phải đánh cướp. Cướp lấy đời ta. Lạy trời, nếu như quả có một định mệnh dẫn dắt đời người, xin giúp người đàn bà đứng ở lề đường, buổi chiều mưa bay thành phố đìu hiu, cướp lấy được đời nó, cướp lấy từng phút giây sống, từng trăm năm chết, cướp lấy nước mắt và nụ cười, cướp lấy hạnh phúc và thương đau, trong vòng quay vô tình của con tụ tôm cua rùa cá…
Người vợ tỉnh dậy, không biết vì một đánh thức lặng lẽ thầm kín nào, từ đâu. Căn phòng nhỏ hẹp phủ trùm bóng tối. Ngọn đèn chong dưới chân giường đã tắt, từ cơn gió lọt vào trong đêm qua ngõ khe cửa sổ. Nàng mở lớn mắt nhìn quanh. Cố tìm lại mình, có thật, trong vũng tối hoang vu im lặng, như dưới một đáy mồ mới đắp. Nàng đưa tay sờ soạng quanh mình. Chạm phải nền ván giường ọp ẹp dưới lưng nằm. Một tảng mùng căng sập sệu trên đầu. Tấm mền lên màu lính còn nặng trĩu trên ngực như tảng đá.
Đột nhiên sợ hãi, hoang mang, nàng nhắm mắt lại như khi đang ngủ. Mở mắt và nhắm lại, cảm tưởng về mọi sự vật xung quanh cũng không hề thay đổi. Tất cả đều mang nỗi gì vắng vẻ, hoang vu đến rợn người, đến thèm cất lên một tiếng kêu cầu cứu với người đời cách vắng trên kia xa tắp.
Nàng chợt nghe tiếng gió rì rào lùa qua rặng tre cao sau nhà. Tiếng gió lướt thướt, như một điệu đàn xưa não nuột vọng về qua thời gi an, không gian muôn kiếp.
Rồi là một con chó sủa lên vài ba tiếng ngắn ngủi vội vàng. Lẫn với tiếng gáy dài và cao của một con gà đánh thức ngày lên.
Nàng nghe tiếng mình tự hỏi trong im lìm.
"Đã ngày rồi sao?"
Nàng định nhỏm dậy, tìm hộp diêm, châm lại ngọn đèn chong, kéo dài một chút đêm an toàn còn lại. Mọi sự hình như sắp sửa, biến động, náo loạn, đổi thay, theo chiều hướng nào, theo may mắn hay rủi ro nào, không thể đoán biết. Nhưng ngồi dậy, bước chân xuống giường, chạm mặt với ngày, ngày lạ lùng, chậm chạp và dửng dưng đang dần tới ngoài kia chân trời xám mờ, là chút yên vui đầm ấm cuối cùng, chút hạnh phúc nâng niu ôm giữ trong kéo dài căng thẳng rồi sẽ tan hoang. Sau đó, những gì kéo tới. Như cơn giông. Như trận bão. Hay chỉ như một làn mưa. Một thoáng gió bất ngờ. Cái gì. Rồi sẽ là cái gì, cho từng phút giây chậm chạp, nín hơi, ngập ngừng, lén lút đang tới, đang tới.
Bỗng nàng thu tay lại trong mền, nằm yên, lắng nghe.
Ngoài hiên, có tiếng nước chảy từng giọt từng dòng róc rách từ chiếc gáo xuống mặt thau nhôm. Tiếng lách chách của bàn tay vỗ nhẹ nước vào mặt cổ. Một tiếng tằng hắng nhẹ và khô. Tiếng nhổ nước bọt xà-bông đánh răng xuống ngoài sân ướt. Nàng đặt tay lên bụng, mỉm cười, an vui tạm bợ.
Đứa con trong bụng, chưa là trai chưa là gái, đã nằm im sau buổi chiều lặn lội dầm mưa từ phố về. Nàng vuốt bụng nhẹ, và nhủ thầm, không sao đâu, sẽ không sao đâu con. Bào thai chừng như nghe, hiểu đã nằm im, từ tối.
Tiếng dép đã quay vào tới cửa lén lén vào phòng cố không gây một tiếng động nào đánh thức giấc ngủ. Người chồng, như một tảng bóng tối tách ra từ bóng tối, cúi xuống sờ tay lên mặt vợ. Bàn tay để yên trên má môi nàng một lúc. Nàng nín thở, nằm im. Vị nước mưa mát lạnh từ lòng bàn tay thấm vào môi, ngọt như một làn nước mắt.
Nàng rút ra tay ra khỏi mền, ấp lên bàn tay lạnh ngắt kia. Bàn tay từ xa xôi trở về. Từ cõi chết trở về, từ gian nguy trở về. Từ điạ ngục trở về. Và bây giờ. Một phút là của mình. Một thoáng qua nhấp nháy thời gian này thực sự của mình. Nhưng còn chốc nữa. Nhưng rồi đêm sẽ tan, trời sẽ sáng. Mọi điều rồi sẽ ra sao, cuộc đời rồi sẽ tới đâu.
Chưa bao giờ, trong suốt quãng đời vợ chồng với nhau, nàng cảm thấy tất cả nỗi mong manh trong gần gũi và sự mất mát hiện còn, nơi một bàn tay ấp ôm, như bây giờ.
"Em không ngủ nữa à."
"Em vừa thức dậy."
"Em có ngủ được không?"
"Một giấc ngắn, mà ngon. Cũng nhờ bữa tối hôm qua. Anh ngủ được không?"
"Được, nhưng nôn nao quá."
"Em cũng vậy. Anh ạ, nếu như…"
Chồng rút bàn tay ra khỏi mặt vợ, giở tấm mèn, nằm xuống thật êm, thật nhẹ, bên cạnh vợ.
"Em cứ thản nhiên, như những lần khác, bình thường đừng nghĩ gì hết."
Vợ nằm nghiêng người, tựa lưng vào cánh tay chồng. Đêm còn lạnh ngắt bên ngoài tấm mền dày. Bóng tối mịt mùng toả lan bốn phía.
Nàng chợt lịm đi trong nỗi lo âu căng thẳng.
"Nếu như…"
"Anh đã nói, đừng nghĩ gì nữa hết."
Vợ sờ tay quanh giường, tìm kiếm. Chồng hỏi:
"Em kiếm gì?"
"Diêm."
"Em đừng hút thuốc, mệt thai."
"Không."
"Làm gì?"
"Châm ngọn đèn chong cho em.”
“Em không thích nằm tối với nhau à?”
“Lờ mờ một chút thì được, tối quá, em sợ.”
"Gì?"
"Lúc này, sợ tất cả mọi thứ."
Chồng ngồi dậy, tìm hộp diêm, thắp ngọn đèn. Ánh sáng bằng hạt đậu xanh dưới chân giường, không soi nổi mặt nhau. Chồng nằm xuống, giữ vợ ở vị trí cũ. Hai người im lặng. Đêm tan dần và nhỏ giọt như nến tàn.
"Mấy giờ rồi anh?"
"Năm hơn."
"Anh dậy sớm thế!"
"Rửa mặt cho tỉnh táo, rồi vào với em. Em còn buồn ngủ không?"
"Không, nói chuyện gì đi anh, đừng im, em sợ."
"Đã bảo, đừng nghĩ đến gì cả."
Tiếng một que diêm thứ hai xòe bùng lên. Đốm thuốc đỏ hồng trên ngón tay chồng bên ngoài tấm mùng buông vẽ một điểm lấp lánh rực rỡ trong vũng đêm còn đặc quánh màu đen mực tàu.
Người chồng im lặng nằm hút thuốc. Khói thuốc trộn lẫn vào bóng tối những vòng tròn dự định im lìm. Bây giờ không thì giờ, không còn giây phút nào để nhìn lui nữa. Có lẽ sau này, xa lắm trong đời sống trong thời gian, rất thư nhàn rất thanh thản, có lẽ ta mới nghĩ lại, nhớ tới chặng đường mù mịt vừa qua. Bây giờ thì mọi sự phải được khởi đầu từ ngày hôm nay, khi bóng đêm cuối cùng dứt hẳn ngoài trời. Mình đã chọn lựa. Đã quyết định. Không phải một giây phút. Một phản ứng bất ngờ. Mà quyết định cho cả một đời. Và quyết định bằng cả một đời. Và trả giá bằng cả một đời. Vô định.
Người vợ muốn nói điều gì, nhưng lại thôi. Nàng sợ cả tiếng nói mình, dù nhỏ nhẹ, vẫn nghe rõ, vẫn khuấy động đêm tan mau, ngày tới gần, và những bước chân đi gần lại triền vực thẳm. Nàng đặt hai tay lên bụng, cố giữ một vẻ an nhàn, êm ái, vô tư, khoan thai. Như người nhà giàu tỉnh dậy, nằm chờ xem ý muốn của mình để gọi gia nhân tới gần hầu hạ. Không còn gì, không có ai đâu. Hãy nghĩ đến một chút gì trong tầm tay, vừa có, chưa mất, mà thực sự, dù mong manh. Hãy nghĩ tới tối hôm qua, hình như là đêm Giáng sinh, và những bước chân lưu lạc của đời người về xa vời, về ngục tối.
Con đường ven sông lờ mờ trắng như một tấm lụa mềm trải giữa bờ cây xanh đã ngả màu đêm. Những ngôi nhà nhỏ im lìm đóng cửa. Bốn bề quanh xóm, vắng ngắt không bóng dáng đàn bà trẻ con như những buổi tối trăng về. Mọi người đã quần áo chỉnh tề lũ lượt kéo nhau về phía nhà thờ từ chập choạng tối, sau bữa cơm chiều vội vã.
Buổi tối sau cơn mưa, trời đất trao nhau mùi thơm ngai ngái của lá cây và nước ẩm trong khu vườn bỗng dưng thanh tĩnh lạ thường. Không một tiếng động. Sâu bọ, chuồn chuồn, cóc nhái, chim chóc như để kéo nhau đi nhà thờ xem lễ từ đầu đêm. Chỉ còn lại, tiếng lá chao mình mơ hồ trong giỏ nhẹ, lẫn với tiếng một mái chèo nào trở về muộn màng, khua nước trên dòng đêm vắng ngắt chiêm bao.
Ngôi nhà mái hình thang cao cất lên nền trời đen một khối sáng đục thầm kín, phía dưới là những khung cửa đen ngòm soi vào bên trong tối mù không đèn đuốc.
Sau bữa cơm tối, thằng con trai chở bà chủ nhà đi xem lễ. Vợ chồng khách trọ một mình thừa hưởng trong vài giờ ngắn ngủi hoang sơ lạ lùng mênh mang bóng tối của khu vườn nhà tịch mịch ven sông.
Buổi chiều nồng nàn nhờ một chút xíu rượu còn lại. Với vài thức ăn tạm bợ mua từ chợ đầy ngập gió mưa bên kia sông. Người vợ thèm quay một con gà. Nhưng chợ không bán gà đã làm thịt, và phố không bán bơ. Đành nhớ món gà quay như nhớ bài Silent Night đêm Giáng sinh xa nhà buồn thảm và bấp bênh này.
"Hay là ta đi chơi một vòng."
"Thôi, em ngại lắm."
"Không sao mà."
"Ở nhà thế này, được rồi, còn hơn. Lẽ ra bây giờ cũng không được ở nhà thế này với nhau."
Nàng nói, nhìn trời đêm long lanh trên đầu, thèm nhớ những vùng đêm bát ngát đầy sao đã qua đi trong đời, đã phai màu trong hồn. Những ngón tay nàng chạm vào chiếc nhẫn cuối cùng còn mang trên tay. Nghĩ, chỉ còn lại ngần này. Một phút nào, đã thầm nguyện ước, đánh đổi vật quý giá cuối cùng còn lại này cho một ai, bất cứ ai, đem về lại trong tay mình mảnh vỡ hạnh phúc vừa lìa xa. Không ai đáp lại lời nguyền và người vợ đã liều thân vào miền mưa bay đi tìm mảnh vỡ của đời mình lưu lạc.
Bây giờ nàng đã tới chân vạn lý trường thành. Và nàng đã tìm thấy xương da hạnh phúc đời mình nguyên vẹn. Bây giờ… Không còn ao ước gì hơn. Ngày hôm qua đã qua rồi. Ngày mai chưa tới. Hãy mặc bóng tối qua rồi. Hãy mặc một ngày sẽ còn. Với long đong. Với gian nan. Hãy mặc. Đêm nay là Giáng sinh. Ta tới đâu đây? Khu vườn thơm ngát mùi hoa dạ hợp này. Mùi của cỏ cay và nước mưa này. Mùi của nước sông và gió tối này. Mùi của tóc mun và môi rượu này…
Vợ rùng mình với cơn gió nổi bàng hoàng trong vòm lá cây mọng nước mưa chiều.
“Em lạnh không.”
Nàng gật đầu, đứng sát vào chồng.
Bỗng nhiên, cả khu vườn như cháy sáng lên rực rỡ với ánh hồng của một ngọn pháo bông nào ai đốt từ phương xa chiếu tới. Rồi màu đỏ, màu vàng, màu xanh, chớp lên khắp cùng không gian mù thẳm đoạ đày lạnh lẽo.
Ánh sáng bất ngờ, rực rỡ làm lung lay chao chọng bóng giàn hoa lồng bóng vườn cây, in lên vách nhà im vắng, thỉnh thoảng, giữa những màu sắc nhẹ nhàng hư ảo và lộng lẫy của pháo bông, trộn lẫn những vệt sáng chói loà và mong manh của hoả châu từ những góc trời thấp tối. Một vài tiếng súng rời rạc nào xa. Tiếng súng vui như lẫn trong tiếng súng thù, tao loạn.
“Lẽ ra giờ này mình trôi trong dòng người đông nghẹt của đường phố Sài Gòn.” Chồng nói.
“Nhưng lẽ ra, giờ này, anh đang vượt đường cheo leo trên núi cao, hay đang bị vây ở giữa trận không chừng, bây giờ đang ăn cơm khô hay uống nước bùn giữa rừng muỗi. Chiều nay vẫn có từng đám trực thăng tải về đó.”
“Mình còn cả bao nhiêu đêm Noel khác.”
“Em chỉ tiếc đêm nay, thiếu gà quay cho anh và tí nhạc cho em.”
Lại thoảng trong gió đêm đưa mùi hoa dạ hợp nồng nàn.
“Thôi ta vào."
Vợ bước chậm theo chồng, vào ngồi nhà tối vắng. Cố nghĩ như đêm Noel này xa lìa thành phố, cùng tới một miền xa lạ với nhau, để vui chơi. Chỉ rủi, chỗ lạ bất an thiếu tiện nghi và mọi sự tình cờ rơi vào trong tình trạng khẩn trương, báo động.
Nhưng chao chọng trong hồn nàng những câu thơ não nùng của Chinh phụ ngâm, chàng từ đi vào nơi gió cát, đêm trăng này nghỉ mát phương nao, cùng với những viễn tượng thảm sầu, ly biệt.
Chiếc va-li nằm im chờ đợi bên ngưỡng cửa. Trong va-li, bây giờ, bên cạnh những chồng áo quần đồ đạc của vợ, xếp ngăn nắp và cẩn thận thêm những đồ cần dùng vặt vãnh của chồng. Găng tay da, dao cạo râu, kem chải tóc, mù-soa màu, cà-vạt, áo len chưa mặc lần nào mặc, cái đèn bấm nhỏ, dao rọc giấy, kéo tỉa râu, bàn chải đánh răng…
Bữa ăn sáng, bữa ăn sáng cuối cùng, được dọn lên tươm tất dù vội vã trên bàn khách gian nhà giữa. Những món quê mùa, nhưng ưa thích của hai người khách trọ. Xôi bắp thơm mùi hành mỡ và đậu xanh, cháo gạo đỏ huyết, bánh nậm, bánh bột lọc bánh ram bánh ít… Trời mưa lớn, bà chủ nhà từ sớm mờ trời đã lặn lội qua vùng chợ bên kia sông mua tạm tất cả những thức ăn có bán. Một bình trà nóng mới pha với hai cái ly nhỏ sạch sẽ dọn ngoài hiên.
Bà chủ nhà nhìn thấy hai người khách trọ đã quần áo chỉnh tề, đồ đạc xong xuôi, buồn bã và băn khoăn hỏi:
“Đi thực à."
“Không lẽ nằm ăn vạ đây sao.” Chồng đáp.
“Nếu không đi được thì cứ việc trở lại.”
“Hoặc đi được, hoặc không đi được thì lại không thể về đây nữa.”
Vợ không muốn nghe những lời nói gở như vậy. Hoặc đừng nói gì hết, hoặc chỉ những câu che giấu, trấn an chính mình là hơn.
Nàng nói:
“Nay ngày tốt, chắc không đến đỗi nào.”
Bà chủ nhà hỏi thăm:
“Hai vé chứ."
"Vé dự khuyết của chuyến đặc biệt mà."
"Trời mưa, chắc có người bỏ cuộc không đi, chắc chắn là còn chỗ trống."
"Mong thế. Và chắc chắn là sẽ phải như thế."
Chồng tin tưởng:
"Đừng bàn nữa, đã bảo có chỗ là có chỗ. Mình đã đi là tự nhiên máy bay phải có chỗ trống."
Bên ngoài hàng rào, tiếng rao lảnh lót của bà hàng bún bò ngon nhất xóm.
"Còn sớm, ăn thêm đã rồi đi", bà chủ trọ bàn.
Vợ lắc đầu:
"No quá."
Chồng nói theo:
"No thật, thôi để dành hôm nào về ăn."
Nói thế, nhưng chồng tự biết, là không bao giờ còn có lần thứ hai, dù mọi chuyện xảy ra cách nào, ăn hàng bún bò của bà hàng xóm quen thuộc mỗi buổi sáng thức dậy lạnh trời đói bụng đó nữa.
Trời bỗng rào rào trút thêm cơn mưa tầm tã. Vườn cây lảo đảo vặn mình dưới thác nước trắng xoá. Người vợ nhìn trời, cảm thấy yên tâm hơn.
"Mưa như thế này lại hay."
"Em lại nghĩ quẩn. Mưa nắng gì cũng vậy thôi. Em đừng nghĩ gì nữa hết, có được không."
Chồng rót cho vợ chén trà nóng, cho mình một, uống cạn rồi quả quyết đứng lên xách lấy chiếc va-li nặng trĩu.
"Bảy giờ mười lăm, đi được rồi."
Ông phu xích-lô dặn trước từ tôi hôm qua chờ chực cả hàng giờ ngoài cổng, thấy khách trong nhà đã đứng lên khỏi ghế, gạt mưa trên mặt, vội vã nhổm lên vén mui xe chờ sẵn.
"Không chờ hết mưa rồi đi à." Bà chủ nhà hỏi.
"Sợ trễ. Thôi đi."
Người vợ bước ra sân mưa. Chiếc áo mưa ngắn không che kín hết tay chân quần áo. Lối đi từ sân ra tới cổng chừng như dài hẳn ra, với tiếng mưa rào rào triền miên phả trên lá cây, như tiếng thóc rơi xuống sàn ván, với tiếng cánh non uốn mình lướt thướt như tiếng cáy tay áo phất phơ vẫy chào, và tiếng chân xê dịch từng bước đời quá khứ bỏ đi. Đột nhiên, nàng bùi ngùi đứng lại một thoáng trong sân mưa, trước khi quay mình đi thẳng về phía cổng. Một thoáng đủ thấy lại chập chờn trong làn mưa mù đặc những buổi hoàng hôn tím thẫm sông đầy, những đêm trăng long lanh bóng lá in lên vách tường trắng lờ mờ bóng người chen bóng tối. Bốn bề hàng tre cao vút đứng im bình thản ngạo nghễ dưới trời mưa gió dập vùi. Trời phía sau nhà hẩng cao lên, báo trước một ngày sáng đẹp sau cơn mưa bất thần mù mịt.
Đã tưởng một ngày thong thả rong chơi. Đã tưởng một ngày trở về dung dăng hạnh phúc tìm kiếm lại những góc đời cô tịch bỏ quên quá khứ ấu thơ thuở nào. Để trả thù đời. Để trả thù ta. Nhưng mây đã đưa, nước đã đẩy, con thuyền đâm vào giữa vùng nước xoáy mịt mờ, đã mong xa lánh, đã muốn quên nguôi.
Thôi đành, xem như đời chưa bắt đầu, tháng ngày chưa được sống, dưới những lớp đất đen dày, như loại côn trùng đày đoạ còn phải trăm ngàn năm sau mới thôi rên rỉ, mới tìm đường về mặt đất hồng thơm, phía trời trong sáng, phía người thênh thang. Hãy đào thêm đường hầm, thoát bằng những lối thoát không thể có, và gọi lên thân phận, ngoi lên đoạ đày, bất khuất.
Nàng nghe trong mình những tiếng nói thầm lãng lênh đâu đâu. Chiếc xe đã gài kín rèm che phía trước. Chồng ngồi tựa vào lưng xe, vợ ngồi chênh chếch phía trước trong cánh tay chồng. Chiếc xích-lô chòng chành lấy lại thăng bằng với sức nặng mới, một lúc, rồi thong thả trườn mình qua những vũng bùn con, những khúc đường nước đọng, những bờ cỏ chênh vênh, băng về phía cầu. Loáng thoáng đàng sau trông lại chỉ còn thấy tre trúc xanh xao, hàng rào mướt lá, bóng mưa loang loáng chạy theo người, như một bức màn trùng điệp của nước mắt trăm năm, của những người sống một ngày, chết một đời, và chịu chết cả một đời để được sống một ngày muốn năm như mong ước.
Ngồi trong khung xe chật hẹp, giữa tiếng mưa rào rào rụng trên mui xe, giữa âm thanh rời rạc buồn lặng của bánh xe nhỏ bé trườn nghiền lên mặt đường ướt át người đàn bà bỗng quên đi giây phút những sự thật não nề che giấu trong lòng mình. Chuyến đi trở lại tính cách bình thường, nhàn hạ của một đôi vợ chồng xa xứ, về thăm quê nhà năm bảy bữa, bây giờ, động máu giang hồ, lại bỏ lìa quê cũ ra đi.
“Anh có quên gì không.”
“Quên gì cũng bỏ.”
“Rồi lại phải mua lần khác những thứ cần dùng.”
“Bây giờ anh không cần gì hết, những tiện nghi, những vật dụng, tất cả mọi thứ khác, không cần gì hơn là có em, và đừng mất đi giờ phút nào với em.”
Vợ thở dài, không vui không buồn, nhưng dây tơ đàn trong lòng đã căng quá đỗi, chợt héo chùng mênh mang. Xa nhau đâu một tuần, một tháng, đã nghe người chồng nói thế. Đánh đổi tất cả để được lại những phút giờ đầy đủ có nhau. Một ý nghĩ, một câu nói nhưng nặng trĩu quyết định của cả một đời người hệ luỵ. Với người đàn bà, thì phải chịu đựng, phải tận cùng khốn khổ, tận cùng cay cực, cũng đành để về sau, tìm thấy những phút hạnh phúc có thực, vẹn toàn, yên ổn, vững chãi, bảo đảm. Còn người đàn ông lại khác. Người đàn ông không thể chờ. Không chịu mất gì cho ai, nhất là sự mất mát thối tha vô nghĩa, đánh gục chính mình nhưng cái chết không đóng góp gì thêm vào những bức tường xây hỏng nát từ nền tảng.
“Em nghĩ gì rồi?”
“Không.”
Nàng nhìn ra ngoài. Xe đang qua con đường trước trường học cũ. Hỡi ngói nâu. Hỡi tường hồng. Hỡi phượng thầm ngày xưa. Im lìm bốn bề mưa rung cửa kín. Nàng nói một mình trong ý nghĩ. Giờ này, em đang ngồi trong lớp học kia, hai tay khoanh trước bàn, hai chân loay hoay dưới đất, nền xi-măng mát lạnh những sáng mưa thật sớm. Hai mắt thỉnh thoảng liếc chừng phía giảng bài, rồi lại mông lung ngó ra ngoài cửa. Khung cửa sổ thật rộng trong tầm mắt nhớ nhung những quê hương xa vời chưa biết mặt. Vòm trời rộng và thấp, màu bạc đục, những sáng vừa dứt cơn mưa đêm, chỉ còn nhỏ giọt xuống từ hàng mái cao, cái rèm nước long lanh từng giọt châu trắng sáng trong vắt. Qua bức rèm châu long lanh là những tàn lá phượng xanh rờn, vừa thở hơi nước mát, thức dậy, vươn cao mình, phe phẩy đón chào giờ ra chơi trống đánh ba dùi. Tiếng chân rào rào tuôn ra từ các cửa lớp. Áo trắng phấp phới đầy sân, như bầy ngỗng trắng rong chơi dưới bãi cỏ xanh mọc lên phơi phới như ngày tháng mới hoài sau mỗi sáng mưa, sau mỗi chiều nắng. Hình như còn nghe lạnh nỗi lạnh lùng xưa thơng nhớ vẩn vơ, mỗi giờ ra chơi, đứng trong hiên mưa khoanh tay nhìn trời, đếm những trái phượng già đầy cành lủng lẳng. Bây giờ… Chỉ còn trong chiêm bao, chỉ về trong chiêm bao. Sự im lặng chừng như hất hủ, chừng như lừa lọc gian dối.
Cánh cổng trường xưa vẫn còn mở rộng, nhưng làm sao để vào. Làm sao để đi vào nhưng đừng thất vọng buồn rầu hổ tủi đi ra. Như mãi mãi em không thể lớn lên, không thể trưởng thành, không thể già nua cằn cỗi. Mãi mãi vẫn mơ tưởng mình là con học trò bé nhỏ ngày xưa, mơ mộng và điên cuồng với ước mơ hơn là chữ nghĩa.
“Một ngày kia, em phải về thăm trường.”
“Những ngày vừa rồi, sao em không tới thăm trường?”
Nàng cười không đáp. Mỗi bước ra đi là một lần thù hận. Mỗi chuyến trở về phải là một chuyến phục thù. Ở đâu cũng thế. Bao giờ cũng thế. Và nếu không đủ phương tiện, cách thế để phục thù… thì thà chết đi trong nhớ nhung, mà không bao giờ nhìn lại chính mình là kẻ trở về chiến bại.
“Gần tới ga rồi.”
Nàng nhìn ra khỏi rèm xe. Qua màn mưa giăng mù dòng sông trắng, con đường sắp sửa tận cùng. Bên kia là khu vực của nhà ga, những con đường rẽ về đời sống khác.
Thỉnh thoảng một tiếng còi của lính kiểm soát gọi xe dừng thét lên lảnh lót. Trong bụng vợ, đứa bé cuộn mình từng vòng tròn như muốn tuôn ra, vùng vẫy.
Dù sao con đường từ nhà lên tới sân ga ngắn ngủi như một chút bình yên không mong cầu cũng đã tới, thản nhiên.
Chiếc xích-lô chậm chạp trườn vào phía sân ga, day trở một lúc rồi dừng lại. Rèm xe cất lên, trời như được vén khỏi màn mưa dày trắng xoá, cao và sáng hẳn lên trong tầm mắt nhìn bỡ ngỡ lo âu.
Trong sân, mấy chiếc xe ca không tài xế còn im lìm trống trải đợi chờ. Khách đi máy bay lũ lượt kéo tới từ bao giờ, ngồi chen chúc từ cửa vào tới phòng trong. Đồ đạc, gánh gồng, xách bị, đủ các thứ lôi thôi quanh đám hành khách áo mũ lùm thùm như xưa kia trong toa xe lửa hạng chót.
Người chồng nhấc cái va-li ra khỏi chiếc xích lô, hai người trả tiền xe, nói vài lời nhắn nhủ thân tình với người phu xe quen thuộc, rồi quay vào ga. Chiếc xích lô trống quay ra khỏi vùng sân ga, ha người cùng trông theo, cùng cảm thấy đường về, dù cách nào, cũng đã cắt đứt. Lối sau cùng là ra đi, không thể thay đổi, dù muốn dù không.
Bây giờ, họ đã đứng đầu đường như còn tàu đã lên trên đường sắt, đã được ấn định giờ khởi hành, điểm đi và đến, chuyến tàu suốt không dừng nghĩ một ga nào cứu vớt tiếp sức, chỉ chờ lá cờ đỏ phất lên nhẹ nhàng, là tiếng còi tàu thống thiết cất lên.
Họ như chuyến tàu và cũng như người giương cung trước kẻ thù sống chết. Mũi tên đã lắp vào cánh cung, kẻ thù đã chờn vờn trước mặt. Không còn một thứ khí giới nào khác, hai vợ chồng, hai người đâu lưng nhau, chỉ còn là một hoà nhập, biến thành một, sắp sửa bắn đi mũi tên cuối cùng, độc nhất. Mũi tên sẽ về trúng đích, và sống, hay mũi tên chếch nhẹ ra ngoài mục tiêu, và chết. Không, nào phải giản dị, dịu dàng như cái chết tức thì, với một viên đạn, một lát dao, một đường tên bay. Mà con đường từ cái sống tới cái chết phải đi qua bao nhiêu hàng rào kẽm gai, bao nhiêu rừng mưa đạn, bao nhiêu sông máu đầy, bao nhiêu đợi chờ và nước mắt, bao nhiêu khổ nhục và mồ hôi, bao nhiêu đoạ đày và thống khổ, ngoài sức chịu đựng có hạn của xác và hồn, kiên nhẫn vô biên của con người đã thách đấu với đời, thách đấu với hư vô.
Phòng kiểm vé, cân hành lý của hãng máy bay bây giờ là nhà ga xe lửa xưa kia. Khu vực khổng lồ rộng rãi của nhà ga xưa kia, gần như hoang phế hư hoại hết vì chiến tranh, vì thời gian, chỉ còn lại mấy phòng tương đối kín đáo tươm tất vừa đủ cho công việc thu xếp đến và đi của những chuyến xe ca đưa tiễn và tiếp nhận hành khách của hãng máy bay giữa thành phố và phi trường.
Đám hành khách đi máy bay, từ thành phố buồn thiu mưa gió này, đi Đà Nẵng đi Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, cũng không khác đám hành khách nghèo cực vất vả gánh gống bồng con bế cái đi xe lửa hạng ba ngày xưa là bao. Vẫn cái vẻ lôi thôi, lếch thếc, đói rách lầm than, cùn mằn khổ nhọc, của từng người, của từng gói hàng, của từng vết tích của chuyến di chuyển nặng nề mệt mỏi.
Người đàn ông và người đàn bà cảm thấy lộ liễu khác thường giữa đám hành khách lao xao với hành lý nặng nề, con cái đông đảo, vội vàng tất tả ngược xuôi kia.
Từ khi đến sân ga, hai người nhìn mãi ra khoảng sân vắng xe ca đậu mong ngóng bóng dáng người tài xế. Nửa giờ sau hắn mới tới. Đám khách lục tục đứng dậy dồn ra phía cửa, xuống thềm. Người tài xế bước vào khệnh khạng.
“Chưa nghe, còn lâu mới đi.”
“Đi đâu trước đó, bác?”
“Quy Nhơn.”
“Còn Sài Gòn?”
“Còn lâu.”
“Chừng mấy giờ xe ca rước khách đi Sài Gòn chạy vậy bác.”
“Chưa biết. Rảnh ngồi chơi, gấp gì.”
Hai người ngồi xuống chiếc ghế dài cứng nhắc. Mấy người bán mè xửng và nem, dầu, vây quanh mời mọc. Một lúc khác, có lẽ người vợ sẽ mua lấy một ít nem, mang theo. Không dễ gì ở Sài Gòn có thể tìm thấy một cái nem chua giòn và thơm như ở đây. Chỉ nhão nhoẹt, ngọt lừ, không mùi vị. Những miếng mè xửng căng tròn từng hột đậu phụng nổi gò lên trên mặt mè đường láng mướt dẻo dắng. Nếu cần, nàng đã mua một chai dầu nhỏ xíu. Nàng biết trước, một lúc nào đó, tay chân sẽ nhũn xuống, người sẽ lạnh ngắt và ngất đi không chừng, trong chuyến đó còn lâu mới có thể khởi hành. Nhưng nàng cũng đã phòng xa trường hợp bất trắc nên mang theo đủ dầu lẫn thuốc. Nếu thấy choáng váng, vì mọi chuyện vượt quá xa sức chịu đựng vừa dẻo dai vừa mong manh của mình, sẽ che giấu, sẽ im lìm chữa trị lấy. Nhất định không để người thứ hai thấy mình ngã xuống. Tránh làm ồn. Tránh kinh động. Tránh tất cả mọi chú ý xung quanh. Nếu cơn đau tới, nếu sự mệt mỏi tới, hay gì đi nữa, ta cũng sẽ nghiến răng im lìm chịu đựng, cho qua. Mọi điều đều do nơi ta cả. Hãy cố mà chịu đựng, nàng tự nhủ. Hãy trả giá thật đắt đi, rồi mỗi phút của đời sống đánh cướp được từ đây sẽ là những phút giây vàng.
Vợ hỏi chồng:
“Anh liệu xem có đi được chuyến đặc biệt không?”
“Chắc chắn là được. Trời mưa, nhiều người bỏ chỗ.”
Nàng định hỏi thêm, những câu hỏi mà nàng biết là người chồng cũng có cùng câu giải đáp như chính mình đang nghĩ đến. Nhưng nàng muốn nói, muốn khuấy động sự im lặng, muốn xác nhận với chính mình với nhau, những điều thỉnh thoảng lại lung linh chao chọng bởi một thoáng lo âu nặng trĩu vất vưởng, tưởng là mơ hồ không một lý do, nhưng có thực, bền vững, như một trái núi đè lên miền đồng bằng còn xanh xao chút hy vọng mùa màng:
“Em đến ghi vé, nhé?”
“Có cần không?”
“Người ta ghi đó, thà ghi trước còn hơn để người ta gọi. Cho xong, để xe gọi, là đi nhanh ngay, càng nhanh càng tiện.”
“Thì em đi ghi đi.”
“Anh ngồi một mình, có sao không?”
Chồng vỗ nhẹ bàn tay lạnh và chai cứng những ngày nhọc nhằn xa cách lên bàn tay mềm mại của vợ.
“Nhảm quá, là sao. »
"Rời anh một bước, em cũng thấy không yên tâm."
Chồng cười, rút thuốc, châm hút. Vợ bước đi một bước, nhìn lui, ngập ngừng. Người đàn ông tóc ngắn, mặt gày gò, rám nắng, hai con mắt sáng, cái nhìn quả quyết, lạnh lẽo nhưng nồng nàn ở mỗi chớp mắt, mỗi long lanh ưu tư suy nghĩ. Điếu thuốc cháy đỏ, nhả khói xám mờ nhẹ nhõm, như một hơi thở ra khoan khoái, trút bỏ ưu phiền.
Khói thuốc u nhã, trang trọng, dịu dàng bình thản vươn lên, nửa u uất đìu hiu, nửa mênh mang khoan hoà, thở lại nhịp đời tưởng đã bình yên đầm ấm vẹn toàn năm tháng. Có đâu ngờ hoạn nạn tiếp tai ương. Có đâu biết gian nan sau điên đảo. Có đâu ngờ sự lặng lẽ không cùng của một thái độ là sóng gió quay cuồng của một đời người chưa dứt oan khiên.
Người ghi vé ngồi sau khung lưới sắt lỗ vuông lõ mắt kính nhìn lên. Ngày tháng làm cho ông ta trở nên hiền lành mệt mỏi từ lười biếng.
“Ghi vé hả, đi đâu?”
“Bác ơi, liệu chuyến đặc biệt có bay không bác.”
“Tới phi trường mới biết được. Đã mấy tuần mới có lại chuyến đặc biệt là may lắm rồi. Đi thì cứ đi không có thì lên xe ca đón về, có đi bộ đâu mà sợ.”
Không có thì về. Nàng tưởng chết đi từng khúc ruột, từng đường gân máu khắp người. Nhưng nàng tỉnh táo, thản nhiên như người bình thường đối đáp với đời ung dung trước mắt.
“Phải, không có thì lộn về, ăn vài ba bữa bún bò nữa, có sao đâu. Mà này bác, có phải ghi vé hay không?”
Người nhân viên già xua tay:
“Thôi khỏi, có đi thì ghi, không thì thôi lên trên ấy mới biết đi hay không chớ.”
Nàng hỏi và thấp thỏi nhìn ra sân.
“Gần có xe ca chưa bác.”
“Tài xế tới thì đi liền.”
“Sài Gòn hả bác?”
“Sài Gòn.”
“Nhưng chuyến nào?”
“Giành được chỗ thì cứ đi. Chuyến nào cũng đi cùng xe ca kia cả, lên trên kia mới phải chờ, còn đây thì ăn thua chi.”
Lên trên ấy, phi trường, sẽ phải chờ. Chờ. Bao lâu. Một giờ. Nửa ngày. Hay suốt cả ngày. Có chuyến bay. Hay suốt cả ngày. Có chuyến bay. Hay không. Có, là đi. Đi, được không? Không có, quay về. Về được không. Quay lốc từng câu hỏi. Quay lốc từng chữ trả lời. Cuộc đối thoại im lìm và căng thẳng trong từng đường gân mạch máu, làm cho trái tim thắt bóp không đều, làm cho thần trí nhức nhối mỏi mê. Từng phút xê dịch rã rời của kim đồng hồ. Từng phút như không muốn vượt qua cái mốc ngập ngừng rình chực của định mệnh. Thời gian bỗng chết đứng, ngày bỗng treo cao. Mọi sự như ngừng đọng lại hết trong câm nín, lặng lờ, tai hoạ…
Bên ngoài, trời mưa vẫn mưa. Những sợi nhỏ thưa đan nhau nghiêng chiếu soi dãy phố bên kia sân ga đìu hiu đợi khách. Và chiếc xe jeep đổ xuống đám sĩ quan. Mấy cái xe nhà binh khổng lồ thả xuống hấp tấp một toán lính, cảnh sát.
Nàng thu hai tay cầm vé vào túi áo mưa, trở lại, kéo áo che nửa mặt, ngồi sát cạnh chồng. Chồng nói, nhẹ như khói thuốc đang bay tản.
“Bọn kia có lẽ cùng đi máy bay cả.”
Nàng không muốn nói gì nữa, im lặng theo dõi từng người, từng chiếc xe di chuyển chậm chạp trong khu sân mưa bay. Mọi người như có vẻ đi tới để đi qua. Nhưng mọi người cũng như có vẻ đi tới, xốc xáo, kiếm tìm, sục sạo một cái gì đâu đó quanh vùng.
Miệng nàng khô đắng. Bao nhiêu nước trong cơ thể chừng như rút khô đi. Vì lo âu. Vì căng thẳng. Vì những thứ không thể diễn tả ra bằng bất cứ lời lẽ nào của người sống ở trần gian. Ta đang ở địa ngục. Địa ngục. Không ai biết. Chen qua từng kẽ hở của lũ quỷ hung dữ, tìm một vệt ánh sáng, một chút không khí, tiến tới phía có sinh khí. Rồi sẽ đi qua, đi qua. Và qua đi qua đi.
Nàng vẫy, vô hồn, một người bán kẹo và lấy một thỏi cao su bạc hà, im lặng đặt bốn mươi đồng xuống cái khay đầy dầu và kẹo, không thèm lấy tiền thối. Nàng nhìn qua bên kia. Lẽ ra, hai ta về thăm quê hương cũ, như ngày nào mơ tưởng, một lần, du nàng dăng dung dẻ khắp cùng những vết tích tan hoang của quá khứ vàng son. Lẽ ra sáng hôm nay, trước khi bỏ đi về với đời sống huy hoàng có thật của chúng ta ở một phương trời nào khác, ta đã chọn một cái bàn sạch sẽ trong dãy quán ăn bên kia đường, gọi một chút rượu nồng, một món ăn thích, một chút gì nhấm nháp trước giờ lên đường, chúc phúc cho nhau, mừng rủi cho nhau, hứa hẹn cùng nhau quãng đường đời cùng nhau còn lại can đảm và sum họp tới cùng. Có phải như thế không anh. Có là bao nhiêu. Vài ba trăm bạc, năm mười phút ngắn. Bước vài ba bước, lên thềm quán kia, gọi người hầu bàn, chờ một lát, ta có thể thưởng thức thi vị của đời đôi lứa, trên đường đời, trên chuyến đi, cái khoảnh khắc mong manh chỉ tới một lần, biền biệt một đời đi khuất thiên thu. Vậy mà ta ngồi đây, co ro, cô đơn, cô đơn cùng cực, cô đơn của cả hai người nhập lại làm mặt trận còn xót xa và lạnh lẽo gấp trăm nghìn lần cô đơn của một người chưa hệ luỵ, chưa san sẻ đời, chưa ghép trao tìm. Ta ngồi đây, hai tay thong dong, thân thể vẹn toàn, đầu óc tỉnh táo, thời gian thênh thang, tiền bạc còn thừa, nhưng ta ngồi đây, trông ngóng từng phút từng giờ một người tài xế tiểu tốt vô danh, trông chờ từng phút từng giờ một chuyến xe đưa đẩy kiếp người từ biên cương cõi chết về bến bờ an toàn của đời người còn rạng rỡ hoan mê. Ta ngồi đây, xin tạ ơn đời, xin khẩn cầu trời, một chút may mắn cuối cùng, một chút gió đưa cuối cùng, cho mũi tên cuối cùng đừng chếch hướng bay.
Vợ gỡ miếng kẹo cao su màu đất sét khỏi tấm giấy bọc màu cỏ non, cuộn tròn lại, vươn tay lên, đút vào miệng chồng. Những ngón tay nàng dừng lại, lâu, một thoáng yên tĩnh, nghe ngóng trên đôi moi cũng khô se nhưng ấm áp của người đàn ông. Nàng bàng hoàng khắp người đón nhận cảm giác quen thuộc của đôi môi cuốn nhẹ lấy một số kẹo mỏng từ ngón tay mình đưa đẩy. Nỗi xúc động bất chợt, rưng rưng như giọt nước mắt ngập ngừng giữa mừng tủi và lo âu, giữa khóc thương và hoan hỉ, chỉ chớm thấy, rồi trôi tan vào lòng không ai biết ngoài thầm kín, thâm tâm.
“Hình như xe đến, em.”
Tiếng người chồng thốt lên, như một hồi chuông vui lảnh lót.
Một chiếc xe ca từ đâu tới, lừng lững đến gần cửa lạng một vòng bán nguyệt trong sân rồi sắp hàng bên cạnh những xe trống khác. Người tài xế vui vẻ nhảy xuống. Hắn bước vào trong phòng, nhìn quanh một lượt, rồi loan báo tin vui cho những người ruột gan đã dài thêm mấy tấc đợi chờ.
“Ai đi Sài Gòn, lên xe đi!”
Vợ nắm tay chồng. Cái va-li trong người đàn ông chợt nhẹ tênh. Đứa con trong bào thai người vợ chừng như duỗi dài ra khoan khoái, với những nhịp tim tí hon bắt đầu lại nhịp đập bình thường.
Họ muốn nói câu gì đó với nhau, trước khi cùng bước lên xe, cùng ra đi. Nhưng nỗi vui mừng chợt tan khi họ cùng nhớ ra, trong im lặng, chuyến đi chưa tới chặng khởi đầu, và đường trở về đời còn cả trùng dương sóng gió mông mênh.
Chiếc xe ca chở đầy khách đi lạng một vòng chậm chạp quanh sân ga rồi thẳng đường mưa bay loáng loáng. Một vòng vừa đủ cho người đàn bà trong cửa kính mù mưa nhìn thấy lại hình ảnh hôm nào như hôm nay, đã ra đi một mình, và người đàn ông đứng lại dưới kia, không còn một người nào phải ra đi, đường xa, một mình. Mà bây giờ, cả hai, đôi ta cùng đi, cùng bỏ, cùng đến, những chặng đường đời, những khúc tang thương. Cùng nhận chịu. Và cùng chia sẻ. Cùng xót xa và cùng đắm say. Liều thân với đời. Gửi thân cho trời. Quỷ dữ, từ địa ngục mà đi, rồi sẽ phải trở về địa ngục. Còn ta, những kẻ đoạ đày, từ thiên đường tới, nếu chẳng thể trở lại thiên đường, ta sẽ trôi về vắng vẻ sương sao an nhàn tịch mịch. Giữa cái chết của đời này, và cái chết của một đời khác, chắc hẳn là trời sẽ muốn cho ta chọn lối bỏ đi. Nhắm mắt, che tai, hãy đi trong què quặt tận cùng này của thân phận, để tới vùng sương sao ảo diệu của hồn mình lựa chọn, lẻ loi cùng nhau bay lượn cùng nhau, ru êm cùng nhau cái chết lang thang trên chín tầng mây khói tuyệt vời.
Hai người ngồi băng ghế sau cùng, hai chỗ trống cuối cùng còn lại trong khung xe chật hẹp đầy người và đồ đạc xách tay. Qua khung kính mờ, dòng sông, con đường, nhà cửa hàng cây, những vết tích mông lung của một thời mù sương buồn bã, qua dần, xa dần cho đến khi chỉ còn là con đường thẳng tắp khấp khểnh chạy ngoằn ngoèo giữa hai bờ ruộng khô cằn sũng nước.
Xe càng chạy, họ càng cảm thấy nhẹ bớt những lo âu nặng trĩu trong lòng, những nỗi hoang mang về quãng đường trước mặt càng xốn xang thêm, như mỗi một bước qua đi của chuyến xe nặng nề, là một hơi thở được tiếp sức từ sự chết thoi thóp.
“Em mệt không?”
“Không.”
“Trời sắp hết mưa.”
“Em lại mong trời mưa.”
“Cũng vậy thôi. Nhưng trời sáng hẩng ra rồi đó. Mọi sự rồi sẽ như trời.”
“Anh ạ.”
“Gì em?”
“Có sao không?”
“Không. Sao tay em lạnh ghê thế?”
“Thai động, đường nhiều ổ gà quá.”
“Em đừng nghĩ đến gì cả xem.”
“Em đang không nghĩ gì hết.”
“Láo.”
“Thiệt mà.”
“Em nhìn gì thế.”
“Con đường.”
“Yên ổn.”
“Biết đâu.”
“Lại thế nữa. Em ngủ đi một chút, có được không?”
“Nhắm mắt, em càng nghĩ ra nhiều chuyện. Kìa, trời lại mưa, vẫn còn mưa.”
“Mấy giờ rồi anh?”
“Tám giờ rưỡi.”
“Chừng một giờ nữa tới sân bay.”
“Không biết mình có chuyến đi trong buổi sáng hay chưa?”
“Chắc là có."
"Sao anh biết?"
"Đám khách này đi Sài Gòn cả. Có khách thì có chuyến bay chứ.”
"Em cảm thấy như anh bỏ quên cái gì."
“Nhiều thứ. Nhưng anh vứt luôn. Sắm cái khác.”
“Không chỉ đơn giản như vậy.”
“Thế còn cái gì nữa?”
“Một phần đời, cắt đi.”
“Phải cắt đi. Như bác sĩ giải phẫu cắt bỏ để cứu sống nhân mạng.”
“Không phải như thế.”
“Thôi, em đừng nói gì nữa.”
Họ im. Những tiếng nói trong xe chợt nổi lên rào rào. Người đàn bà quấn tang trắng ngồi phía trước giở một tờ thư ra đọc. Thư của một người thân ở xa gửi về chia buồn. Sao bà lại lớn tiếng và cười giòn giã như thế được? Người đàn bà bên cạnh ghé đầu xem chung bức thư. Họ bàn với nhau cái gì trong thư viết và cùng phá lên cười.
Họ nói với nhau.
“Mang theo hết đồ đạc à.”
“Ừ, cái dao cái thớt cũng đem theo.”
“Tới đâu lo đó, hơi đâu.”
“Để lại, bà con họ hàng chiếm hết, đâu còn khi về. Đem theo, đỡ tiền mua sắm các thứ mới. Và cho họ khỏi xâu xé.”
“Chị định đi luôn?”
“Chỉ cầu đi luôn.”
“Còn mồ mả ai trông nom nhang khói.”
“Có mấy chú, mấy bác cha nó lo. Mình lo mòn xương khi anh ấy sống rồi. Không đủ sao.”
Đời sống khốn nạn đến nỗi hai gò má của người đàn bà nhô cao trên khuôn mặt, đôi mắt lõm sâu, đen ngòm, và hai cánh mũi hốc lên, như đánh hơi chút tiền còn vét thấy đâu đó trong xó nhà ẩm mốc, cái miệng rộng, với hàng răng mọc thẳng trắng hếu dưới khoảng nướu đỏ tím, nổi gồ từng đường gân máu xanh. Và bây giờ người đàn ông nằm xuống, bà ta vẫn còn tiếp tục cay chua, đắng xót một mình kể lể.
“Giấy bổ nhiệm của chị mới gởi ra.”
Bà ta chỉ người đàn ông ngồi băng bên kia.
“Anh nhà tôi lo hết, đâm đơn, chờ tin, gọi tôi. Anh ra đem tôi vào.”
“Còn mấy cháu?”
“Chúng đi sau. Tôi vào dọn nhà cửa chỗ đằm đã.”
“Từ nay chị nhẹ gánh, nhỉ.”
Người đàn bà so vai.
“Hết chồng, tới nhà chồng. Nhẹ sao được. Không chừng lại nặng thêm. Ôi, chồng với con.”
Người vợ ngạc nhiên nhìn người đàn bà. Tại sao mụ ta như thế. Trông mắt mụ quen quen. Nàng nghĩ một hồi vẫn nhớ ra. Nhà mụ trước ở trong con hẻm nhỏ. Ông chồng đi dạy áo quần bẩn thỉu. Thỉnh thoảng say rượu. Vợ chồng kéo nhau ra đánh lộn đầu giếng. Chửi toe toét, nước mắt nước mũi, đôi khi máu be bét. Tại sao như thế. Không dứt bỏ nhau đi. Để chịu đựng cho tới chết còn đay nghiến, rủa nguyền. Cái gì lôi kéo họ lại gần nhau? Điều kiện vật chất. Quyền lợi. Thói quen. Những ràng buộc do con cái. Cái gì? Không còn tình. Chẳng còn nghĩa. Vợ chồng là thế hay sao. Thương yêu thì quấn quít, hùng hục. Giận hờn thì cấu xé nghiến ngầm nhau. Đến chết còn chưa nguôi. Đến chết còn căm thù hay sao? Không cách này thì cách khác, những cặp vợ chồng, trong hoàn cảnh không sáng sủa, đầy đủ, đại khái đều đối đãi nhau như thế cả, hay sao?
Còn mình. Ôi đôi ta. Có phải trời đày để bù trừ hạnh phúc quá vẹn toàn, trong xác hồn trong ý chí trong lý tưởng chung cao vời chôn kín tâm can. Tại sao trời cho những người không biết sống một đời sống trôi chảy, dễ dàng, trọn vẹn, bình yên như thế. Tại sao trời cất giấu khỏi đời mình những nấc thang đi đến cùng đích, đi đến với nhiệt tình, với tham vọng, với phấn đấu kiên trì và bất khuất như thế.
"Em xem này.“
Người vợ nhìn theo tay chỉ của chồng. Không thấy gì ngoài đồng ruộng chơ vơ. Những mái nhà lụp xụp vắng người, mấy dãy hàng rào đổ nát. Một đồn canh bỏ trống.
"Gì đâu, anh?"
"Vắng tanh. Không bóng người."
"Sao thế?"
Chồng cười, qua khói thuốc lan man thơm bay.
"Cho ta đi qua."
Nàng im nghe tim đập nhịp đều, nhẹ nhàng, ấm áp. Sắp tới sân bay. Phải tới sân bay. Có con đường nào đi máy bay mà khỏi phải tới sân bay hay không. Không. Phải tới đó. Tất nhiên rồi. Và chờ đợi. Bao lâu? Ra sao? Chuyến bay sẽ có? Mấy giờ? Có? Hay không có? Có. Và không có.
Người đàn bà chống tay vào quầy bán vé nhìn ra ngoài. Sân bay trống vắng, đìu hiu. Cơn mưa còn vướng vất lại một màn hơi nước mỏng đục mờ trong không ảm đạm. Những người ngồi đợi chuyến đi tản mác ngoài sân, trong hành lang hay trong phòng ăn chật hẹp. Mọi người im lặng, chờ đợi trong không khí có vẻ gì như nín thở ngột ngạt, chờ đợi một thay đổi, diễn biến bất ngờ vào phút cuối.
Thỉnh thoảng, một nhân viên hàng không từ đâu tới, đi tạt qua khoảng hành lang gió lộng, tiếng nói lẫn tiếng giày xôn xao rồi tắt chìm trong im lặng bất thường.
"Bà lại phòng ăn ngồi chờ. Có tôi sẽ mời đi."
"Cô liệu có thể có máy bay trong buổi sáng hay không?"
Người ghi vé nhìn lên đồng hồ treo tường:
"Mọi khi là buổi sáng có chuyến đặc biệt. Hôm nay mọi chuyện đều bị thay đổi xáo trộn hết nên không biết ra sao. Nhưng cũng có thể."
"Sắp tới là chuyến nào?"
"Chuyến thứ nhất đi Sài Gòn."
"Nếu trên chuyến này có chỗ trống, tôi có thể đi được không?"
"Không bao giờ có chỗ trống trên những chuyến bay thường."
"Cô có cách nào giúp?"
"Trừ khi có một hành khách bệnh bất ngờ vào phút chót, và huỷ vé tại đây. Nhưng trường hợp này cũng không xảy ra."
Người đàn bà cau mặt nhìn ra. Chừng như có tiếng ù ù cuối chân mây tối vắng.
"Máy bay nào tới vậy cô?"
"Chuyến từ Quy Nhơn."
"Rồi sẽ cất cánh ngay à?"
"Vâng, cho những người đi Quy Nhơn."
"Sau chuyến đó."
"Là chuyến Nha Trang."
"Rồi chuyến Sài Gòn tiếp theo."
"Vâng."
"Sau chuyến thường đi Sài Gòn sẽ là chuyến đặc biệt."
"Có thể."
Người ghi vé hết kiên nhẫn trả lời. Cô ta không muốn buồn lòng khách, quay lưng lại phía ngoài loay hoay tìm kiếm cái gì trong tủ hồ sơ.
"Tôi lại đàng kia ngồi, có tin cô cho biết ngay nhé."
"Tôi sẽ mời bà."
Nàng rời khỏi quầy ghi vé, đi qua phòng đợi rộng thênh thang và trống trải, gió lùa dào dạt, trả lời chỗ ngồi của mình ở trong phòng ăn.
Mùi bún bò cay thơm tản mác khắp căn phòng nhỏ chỉ đủ bày không quá mười chiếc bàn nhỏ. Những đầu người cúi xuống ngẩng lên lô nhô trên bàn ăn. Tiếng nói chuyện xì xào xen lẫn tiếng xuýt xoa vì cay ớt.
Ngoài sân, chiếc máy bay đã sắp đáp xuống, một đám người nhôn nhao đứng lên. Nàng nghe rõ người ta nói với nhau.
"Chuyến đi Quy Nhơn đó."
Không phải là Sài Gòn. Máy bay Sài Gòn chưa tới, nhưng nếu tới rồi thì cũng chưa phải là chiếc dành cho chuyến bay đặc biệt tăng cường trong ngày. Và nếu là chuyến đặc biệt được tăng cường, thì cũng chưa hẳn là có hai chỗ ngồi cho loại vé dự khuyết.
Hai bàn tay nàng lạnh ngắt vặn xoắn vào nhau.
Người chồng ngồi lặng yên nhả khói thuốc. Khói thuốc ấm áp toả vòng tròn trên hai con mắt nâu đã đục vàng vì những đêm liên miên mất ngủ. Thỉnh thoảng, những ngón tay dài đã gầy gò lồng trong mái tóc cắt ngắn lô nhô sợi buồn rã rượi, cào một vòng, trút bỏ bụi mù của đường xa đã đi.
Chồng không nói gì. Vợ cũng im hơi, nhưng hai người nghe rõ trong nhau những tiếng thở dài thầm kín pha lẫn những tiếng kêu gào náo nức quắt quay của phút đợi chờ phập phồng kéo dài tưởng đến hết một đời người chưa dứt.
Bỗng nhiên nàng thấy hoảng kinh. Hoảng kinh tất cả mọi thứ, trong im lìm không nói. Mình chịu đựng được sự chịu đựng cay nghiệt và kéo dài của mình, nàng tự nhủ, nhưng còn đương sự, còn người kia ra sao? Im lìm. Thản nhiên, ung dung, kiên nhẫn. Có vẻ như thế thật đấy. Nhưng nàng đoán biết biển dầu đang sôi. Đại dương đang sóng. Đất trời đang bão nổi trong đầu óc thanh thản im lìm đóng kín đó. Đời sống như đã hoàn toàn vắng mặt, hoàn toàn bỏ đi. Chỉ còn lại những phấn đấu mù quáng và tê liệt, cuối cùng, trong một thân phận một đầu óc đã tưởng nổ tung vì sự chịu đựng ngoài sự chịu đựng, vì vượt qua nhiều thứ ngoài tầm nhảy vọt của xác thân và ý chí. Rồi sẽ ra sao? Nàng tưởng tượng, một phút, bất ngờ, bùng nổ, người đàn ông sẽ đứng dậy, sẽ đi tuôn như gió bão ra ngoài kia, phía đám lính gác. Và nói một câu gì đó. Làm một điều gì đó. Một điều chính người đàn ông, và người đàn bà, cũng không thể quan niệm, chấp nhận hay tưởng tượng được. Một điều gì xáo trộn hoàn toàn chương trình đã hoạch định quyết liệt từ đầu. Chuyến đi có thể huỷ bỏ và mọi điều có thể rơi vào trong vòng lưới vô hình tối tăm cũ của định mệnh.
Nàng hỏi, run sợ thực tình.
"Anh sao vậy?"
"Có sao đâu em. Em mệt lắm không?"
Nàng chớp mắt. Chưa bao giờ người đàn ông nghĩ đến và hỏi han vợ mình bằng thái độ và giọng điệu ấy. Kể cả những lần nàng sinh đẻ dậy một hai hôm đã phải làm lụng việc nhà, tính toán việc ngoài, va chạm với nhiều khó khăn rắc rối điên đầu lại bại óc nhất. Mà bây giờ đã hỏi. Rất băn khoăn. Rất lo nghĩ. Rất ăn năn.
Điều ấy chứng tỏ sợi dây đang căng thẳng đến tận cùng trong thời gian, sự việc và trí não của mỗi người. Và cả hai đang đi bằng hơi thở đứt quãng chính mình trên sợi dây căng sắp đứt kia, ở trên một vực thẳm chứa đầy gai nhọn. Nàng lắc đầu, nhắm mắt lại, và bàng hoàng với ý nghĩ là không dễ gì an toàn qua tới đầu núi bên kia vực thẳm cheo leo này bằng đường dây mong manh căng đứt này. Không dễ gì lại có một thứ may mắn kỳ diệu cứu rỗi đời người qua bờ bên an toàn một lần thứ hai. Lần thứ hai ư? Cũng có thể lần thứ nhất. Hay một lần nào đó. Hình như họ đã ném đời sống mình qua cửa sổ, và sự sống nát bét dưới kia những tầng lầu ngây ngất cheo leo. Những mớ xác hồn được vớt lên từ cái chết, đã sống lại, và phải chết đi lần nữa, nhiều lần khác, riêng tư, thầm kín, và lạ lùng nhau hoàn toàn. Nàng bỗng nhận ra và hoảng kinh một sự thật quái dị. Mỗi người không phải chỉ được chết một lần, thật êm đềm trọn vẹn, cuối đời, mà cứ mỗi đoạn đời, qua mỗi biến chuyển, mỗi khúc quanh lịch sử của đời người trầm luân, đều phải bị chết đi một lần. Một đời người, bao nhiêu lần biến động, là bấy nhiêu lần chết. Sau mỗi lần chết ấy, đời sống chừng như bi thảm hơn, nhưng cũng từ đó, rõ ràng và hưng thịnh hơn lên, ít ra là trong tính chất bi thảm đặc biệt của nó.
Vậy thì em đang chết. Anh cũng đang chết. Ta đang chết bên nhau. Đừng thắc mắc băn khoăn gì về điều sắp tới, về điều sẽ xảy ra, thái độ mình hay đối đãi từ người ngoài đưa dẫn tới. Bất cần hết rồi. Ta đang chết. Mà đã chết thì còn cần cái gì nữa. Sự liều lĩnh. Nguy hiểm. Mọi đe doạ khác, từ bốn phía. Bất cần nữa. Hãy ngồi im. Hãy chết, lặng lẽ, riêng tư, một mình, với thảm kịch dịu dàng của đời mình là không ai hay biết. Thảm kịch đó là một cánh phượng hoàng đã gãy. Một cánh phượng hoàng lê lết trên vũng bùn lầy của thế nhân. Cho yêu ma ào ào ném đá. Hãy lết tới cõi chết im lìm. Chết, hay không chết. Gục xuống, hay ta về, chắp cánh, bay lên trời vàng rực rỡ ngôi xưa. Ta đang bay về hay ta đang chết. Ta đang chết hay ta về. Chừng như cả hai đồng nghĩa. Về và chết. Vậy thì đừng nghĩ nữa. Nắm tay nhau, và lặng im. Hãy yêu cái đẹp tuyệt vời còn lại, của con chim phượng hoàng gãy cánh lết lê về trời, không bằng con đường của mây ngũ sắc, mà bằng vũng lầy tanh tưởi của người đời thù hằn, của bất khuất truyền kiếp.
"Em nghĩ gì, em?"
"Đến anh."
Người đàn ông tìm bàn tay vợ ở trên mặt bàn. Hai người đã bỗng xa lạ và mất mát nhau, quá lâu, trong biến cố. Bây giờ chợt tìm thấy nhau. Chợt nhận ra nhau, chợt ấp ôm nhau một lần cuối cùng này, trong hai con mắt nhìn lệ ứa long lanh khát thèm hạnh phúc tìm hoài chẳng tới.
Bây giờ, trong đầu óc người đàn ông, chỉ còn mỗi một tiếng kêu âm thầm và thống thiết, làm thế nào để có thể đi được. Đi ngay, tức thì, không chờ đợi. Mỗi phút giây tới và qua là một cơ hội bỏ lỡ, mất đi, đưa dẫn người tới chân tường, tới đường cùng. Một rồi hai chuyến bay đã tới, đã cất cánh. Một rồi hai đám khách, đã chờ, và đã đi. Đến gần trưa thì hình như những người mong muốn ra đi, những người đáng được ra đi, đều đã bay cả lên trời. Những người còn lại, là những kẻ rớt rơi, từ thượng tầng không khí xuống, và sắp sửa bị lùa vào tấm lưới khổng lồ của mặt đất tối tăm phía dưới, để đời đời không còn cơ hội nào ra thoát. Thoát. Đời sống còn lại, chỉ chừng này. Thoát. Đời sống có hay không, chỉ chừng này thôi. Thoát. Đời sống hết hay còn, chừng này thôi.
Cố không nghĩ gì đến những điều sắp tới, có sự mong đợi chờ chực kéo dài, héo mòn ray rứt nhức nhối từng tích tắc đồng hồ nhỏ nhoi.
Nhưng không nghĩ đến. Thì cái gì? Cái gì trong đầu óc nóng hơn lửa, khô hơn đá, lạnh hơn băng, thê thảm hơn tang ma và phập phồng hơn hấp hối.
Nghĩ đến cái gì? Đó. Chúng nó lại ùa ngập đến khắp cùng trí nhớ. Cái đám bùn đen lênh đênh. Chúng nó vây kín bốn bề hồn hoang tịch mịch.
Ta thấy ta ngồi trên chót núi cao, giữa đêm dài không dứt, với mưa phủ đầy trời, với gió rút xương da, với tuyệt vọng không cùng, với hoang mang không bến. Ta chết ngoài sự chết. Ta sống ngoài sự sống, ta lửng lơ bằn bặt giấc chiêm bao nặng nề, u uất kéo dài này. Chúng nó đốt lên một vầng lửa mọn. Ôi vầng lửa. Có đâu đủ ấm hai bàn tay run. Có đâu đủ sôi một nồi nước lạnh. Chẳng là gì cả. Chỉ là chút khí núi lạnh lùng u uất soi chiếu đêm gầy đỉnh núi chon von. Ta ngồi đây, nhớ em điên cuồng. Ta ngồi đây, nhớ phố vui xưa, ta ngồi đây, nhớ thương đời mình không bao giờ được sống đúng và đầy nghĩa sống như ước mơ, như mong muốn, như hình dung. Ta khoanh tay ngồi đó mặc cho ngọn gió lạnh lùng cắt da thổi tới. Mặc cho cơn lốc thổi bay ta lên cao, ném bung ta xuống đất, dằn vặt hành hạ ta quanh vũng bùn nhầy nhụa của vực thẳm trùng trùng. Làm gì thì làm đi. Ta mặc, ta khoanh tay. Hết rồi. Chỉ là còn trong hồn nỗi thù hằn không nguôi vơi và nếu sống còn, sau cơn biến động bây giờ, ta nguyền dành cả đời mình để phục hận.
Tờ điện tín màu xanh từ em đã tới, dịu dàng, xa vắng hắt hiu, nỗi nhớ bùi ngùi của mắt dõi trông theo ngàn cây xanh khuất, em sẽ về, sáng thứ ba. Sáng thứ ba. Là ngày mai. Là ngày tới. Là sau đêm dài mù mịt tối tăm này. Rồi em sẽ về. Sẽ mở toang những cánh cồng hoàng thành rêu mốc thời gian. Sẽ cho ta nghe lại nhịp đập êm ái mơ mòng của trái tim khô bao lần thao thức, từ tiếng nói gần, từ đôi môi chín, từ cánh tay nhung.
Nhưng nửa đêm. Nửa đêm lệnh hành quân chuyển tới từng giấc ngủ chập chờn. Gió đồng thổi bạt tóc khô phiên gác lạnh lùng. Lùa vội hành trang nặng nề lên vai, đi ra ngoài, tập họp. Chuyến xe rùng rùng lên đường, xé tan bóng tối. Ngày lên bàng hoàng, như một thời gian nào khác, một đời sống xa lạ, hãi hùng chợt vén lên đâu đây, trong không gian mù đục sương dày, trong khí gió âm u rét buốt, trong tiếng xe băng đường lướt bụi về xa.
Mặt trời không mọc nữa. Ngày âm u như địa huyệt. Mưa không âm vang phủ trùm bụi nước khắp vùng hoang vu gió thổi. Qua những đồi nương. Qua những khe suối. Qua những hầm hố. Qua những bụi bờ gai góc, những vực thẳm cheo leo. Chỉ còn trên là trời dưới là cây, điệp điệp trùng trùng không còn dấu tích đời, không còn dấu tích tôi, không còn chút tương quan mơ hồ giữa chính mình và đời sống bỏ lại sau lưng biền biệt.
Buổi chiều, mưa ào ào như thác đổ. Những sườn núi dốc đứng cheo leo như xé tan ra từng mảnh, trôi tuột xuống từng mảnh đất, từng cành khô, từng bụi bờ héo hon. Gió rít gào bốn phía. Mây chìm khuất trong trời. Chỉ còn màu xám chì nặng nề lạnh ngắt. Tiếng thét gầm cuồng nộ của gió mưa, của sấm chớp ầm ầm dâng lên bốn phía.
Đoàn người đi, lúc nhập thành một con rắn dài ngoằn ngoèo quanh co theo triền dốc núi cheo leo, khi tản mác vì lối đi đã mất hút trong cỏ gai rậm rạp, thỉnh thoảng mỗi người lại cảm thấy chỉ còn lại chính mình trong hoang vu gió mưa rừng chiều, mất bóng đồng đội và hành trình gian khổ.
Và tôi chỉ còn là một hình thù lẻ loi, tách rời khỏi đám đông, tách rời khỉ chuyến đi, một mình hoàn toàn trách nhiệm lấy cái sống cái chết chỉ gần nhau bằng một kẽ tóc sa chân. Không còn vấn đề, không còn trầm tư. Không còn nghĩ tưởng đến lý lẽ này và lý lẽ khác, phải hay trái, kết hợp hay chia lìa, chấp nhận hay chống đối, thoát ly hay ràng buộc, chịu đựng hay bất khuất nữa. Bây giờ thì chỉ còn mình, với mình mình. Cái tập thể đang di động quanh quất đâu đây, đã trở thành những phần tử, bên ngoài, phụ thuộc, tách rời, vô vọng. Tôi, lẻ loi, độc lập và cầm quyền lấy sinh mạng hay sự chết của riêng tôi. Đã thoáng nghĩ tới cuộc đời còn nồng nàn phía dưới. Và em. Em bây giờ đã tới. Đang tươi cười hay lệ ứa lưng tròng, nhìn ra con đường và tự hỏi tôi đâu. Hẳn em đã nghe tin tôi đi hành quân. Và tự hỏi bây giờ trong cơn mưa anh đang chìm ngập miền nào. Có lẽ em đang đêm thời gian, từng giây phút, tự hỏi ngày mai ngày mốt, ngày kia hay một ngày nào vào cuối tuần tôi đã về chưa, tôi có về không. Anh có về không hay không bao giờ nữa. Có, em ạ, cứ tin như thế, dù hai ta, mỗi người đã chết thật rồi, ở cõi bên trời vẫn cố mà tin như thế, ta sẽ công việc về phục hồi lại uy quyền tuyệt đối của đời sống ta và tương quan giữa người với người, giữa người với đời miên man. Chắc chắn là ta phải cùng về. Từ dưới vũng đất đến lên tới mặt đời. Chuẩn bị bằng máu, nước mắt, gian khổ cực nhục của cả một đời người, hy sinh đi mười năm, hai mươi năm, hay nếu cần hơn thế, cho phượng hoàng một ngày lại vẫy cánh trời cao của nó. Sao không? Và không sao. Không sao cả. Anh sẽ nghiến răng lại. Em sẽ nhắm mắt lại. Chịu đựng như ta đã chịu đựng. Chịu đựng như ta sẽ chịu đựng. Cho đến khi tìm lại được cánh thần và ta cùng bay vút trời cao.
Nhưng con đường chừng như tận cùng tôi, trước mặt là dòng suối chảy xiết, lòng suối rộng mênh mông. Không đường nào đi vòng quanh, không cây cầu nào qua bến. Chỉ còn cách là bơi qua, đắm mình xuống dòng sông sâu chảy xiết đó. Loáng thoáng bóng người đồng đội đã tìm lại dấu vết nhau bên kia bờ lau cỏ bùi ngùi. Không còn chút sức nào để chiếm ngự và điều khiển được dòng nước chảy. Nó cuốn trôi ta đi. Ta buông theo dòng đưa đẩy. Dưới kia là vực sâu, trên kia là triền núi, ta đang trôi tuột xuống dưới ấy, vũng chết, đen ngòm, với những mỏm đá nhọn vắt như răng ác thần đợi chờ. Cố nhoai người lên, một chút thôi, để lấy đà chống lại dòng nước xiết. Không được nữa, cái gì tan rồi, chới với quanh mình. Sinh lực hao mòn, ý chí tiêu tan. Thời gian chìm khuất. Đất trời mong manh. Cái gì chao chọng, lảo đảo bốn bề tăm tối. Ta đang quay, như con chong chóng giữa lòng gió độc. Và chảy xuống, xuống dần, xuống mãi phía dưới vực sâu, với nước càng lúc càng gia tăng tốc độ điên cuồng đắc thắng. Với cái gì bỗng nham nháp đầu những ngón tay đã mất hết cảm giác, ý thức. Cái gì dài chắc, và làm rát bỏng làn da. Những ngón tay níu lấy. Những ngón tay tìm thấy sợi dây kỳ diệu ràng buộc đời ta với đời người, giành giựt lấy sự sống từ sự chết. Một cọng cỏ. Có thể nào như thế. Cọng cỏ này. Cọng cỏ dai dẳng và sắc bén này. Nó như cánh cung bẫy ta là mũi tên cuối cùng lên lại cõi đời diệu vợi trên kia. Cọng cỏ bất khuất gìm sức nặng dữ dội và kỳ ảo của một đời người quý giá vô song chuyển hẳn lên cõi sống còn tuyệt vời trên ấy.
Cái khối xách và hồn, nước và máu, nặng ngàn cân chuyển lên sườn núi khô từ cọng cỏ mềm lay lắt. Hai chân đặt mốc lại bờ đời tưởng đã vĩnh viễn biệt từ. Bắt đầu lại những bước nặng nề qua núi. Chỉ một con đường dốc dựng cheo leo về trước, lên trên. Áo quần nhúng nước ướt sũng cái ba-lô chất đầy hành trang chưa mở tháo được một lần xem lại từ đầu chuyến đi, chứa đầy nước ủng, nặng thêm ngàn lần trước. Từng bước không nhấc nổi khỏi mặt đất bám lết trên sườn núi trơn như mỡ đất, đi mãi lên cao, đi mãi lên cõi nào không biết, để làm gì ngoài dự tưởng của một đời đáng lẽ phải huy hoàng bao la.
Sáu giờ chiều mới thấy lô nhô lều trại đã dựng của đoàn người đi trước trên đỉnh núi. Cơn mưa vùi toả bóng tối xuống mau mịt mù.
Rồi là bữa cơm đầu tiên của chuyến hành quân ăn nhờ những người lính vừa nấu xong nóng hổi. Cái võng ướt mềm giăng giữa hai gốc cây nương lưng đau nhức. Nằm chờ đêm qua. Nằm ru mộng buồn. Nằm quên khoảng cách. Nằm vùi gian nan. Muỗi rừng râm ran như ong vỡ tổ. Tiếng gió quật rào rào bên ngoài lều. Tiếng núi rừng uất hận kêu gào thống thiết suốt đêm thâu. Tiếng cười nói vang vang của những người đánh bài và kể chuyện hành quân lần trước bên kia lều. Tên Trung uý ái ngại hỏi:
"Đi lần đầu hả?"
"Vâng."
"Rồi sẽ quen khi đi nhiều lần, cả mọi thứ. Tụi này xem như không. Tới đâu thì tới. Luôn luôn trong tình trạng phòng thủ địch sẽ bất ngờ tấn công, nhưng cũng luôn luôn an ổn xem như sẽ không có gì tới cả."
Xem như núi rừng là nhà mình. Đêm này là thời gian riêng của mình. Uống cà-phê không, hôi khói lắm đấy, nhưng ngon nghìn lần hơn dưới phố. Uống đi rồi đánh bài với tụi tôi. Sao? Không hả, không đánh bài? Không muốn chơi hay là không biết chơi? Không biết. Yếu thế. Thôi đi, gì mà lại không biết, chắc lại nhớ nhà ngẩn người ra chẳng muốn chơi cái gì hết thảy, phải vậy không? Ờ, phải rồi, nhớ bồ muốn chết, muốn trở về, muốn bỏ đi, phải không, tôi nói rồi sẽ quen đi mà. Mặc, cứ ngồi vài ván xem, ơ kìa sao thế?
"Không sao cả."
"Nhớ quá rồi hả "
"Nhà tôi…"
"À, vợ… làm sao? Không sao đâu mà. Không mất đâu."
Giọng trả lời lạnh như nước mưa chảy ngoài lều.
"Sáng nay, nhà tôi từ xa tới. Điện tín đây."
Tên Trung uý nhìn tờ điện tín ướt dính rút từ trong túi người kia.
"Tiếc nhỉ, chắc hành quân chuyến này không lâu. Không chừng mai về."
Hắn nói đùa, mà mai về thật.
Qua một đêm rừng, sáng mai, có lệnh xuống núi. Đường đi lên cheo leo vất vả. Nhưng còn dễ đi hơn lúc xuống, sườn núi trơn như tráng mỡ. Cỏ dập nát nhờn ướt. Không một cái gì bám víu ngoài sức nặng chính mình trì lên hai chân và đầu gối. Mặc, minh đang đi xuống. Đi xuống và trở về. Em dưới ấy. Đời dưới ấy. Hạnh phúc màu xanh mà hồng rõ ràng dưới ấy. Đi mau, mau, mau lên, mau lên.
Cứ trôi xuống. Cứ tuột xuống. Không thể ngã. Không thể chết. Những người chưa được sống thì không thể được chết, dù muốn dù không chắc chắn sẽ là như thế. Xuống, xuống mãi. Nhanh nữa, nhanh thêm nữa. Kia rồi, mặt đất đã bằng. Đường núi đã bớt độ chênh. Con đường quanh co, cây cỏ hiền hoà, buổi mai mưa tạnh, mặt trời long lanh, chim ca gió thổi. Xuống nữa, tới nơi. Chắc hẳn là đoàn xe đã đón dưới kia chân núi. Chừng nửa giờ là tới trại. Chỉ nửa giờ nửa từ trại về nhà. Và em ở đó. Em ra sao. Hôm qua, hôm nay, phút này.
Nhưng không xe nào đón đợi. Từ chân núi về đường cái dưới kia, cũng trên mười cây số. Nhắm mắt, lết mà đi, bò mà đi. Bằng hai tay, bằng hai chân, bằng cả sức còn của thân thể rã rời mỏi mệt nặng trĩu.
Vậy mà cũng đã về được tới trại. Người hâm hấp sốt, trí óc lùng bùng đảo lộn. Mặc. Không kịp thay quần áo ướt nước suối từ chiều hôm qua. Ném súng và ba-lô cho một người bạn cất giữ. Chạy bay với mảnh giấy hai mươi bốn giờ ra cổng trại, cái mũ sắt che từng mảng tóc ướt đầm bùn đất bên trong. Đánh đu trên chiếc xe đò chật ních. Phố xá tới gần, gần mãi. Rồi là bến xe. Còn bao nhiêu phút nữa là nhà, là em. Còn bao nhiêu phút nữa là đời, là trời.
Chiếc xích-lô chậm chạp đi qua đường phố. Đi qua cầu. Đi qua cánh đồng, đi qua đi qua… Con ngõ dài. Bờ sông vắng. Mái nhà im. Và em đứng lên, bàng hoàng, sửng sốt như từ giấc mơ, từ mộng tưởng, và hai con mắt long lanh chừng hỏi im lìm, có phải anh về, bằng phép lạ nào, từ cõi chết, từ bên kia mút địa cầu tan vỡ chia xa.
Tiếng vù vù nghe rõ trong chân mây. Mọi người lao xao đứng dậy nhìn lên trời. Bóng máy bay xám đục đã vòng vòng quanh quẩn. những tiếng nói reo mừng lao xao.
“Máy bay Sài Gòn.”
“Không phải. Nha Trang.”
“Cũng không phải, chắc là Quy Nhơn.”
“Hay là chuyến Sài Gòn đặc biệt?”
Vợ nắm chặt tay vào mép bàn, rướn mình lên hỏi:
“Người ta nói chuyện đặc biệt, phải không anh?”
“Chắc không phải.”
“Đã mấy chuyến Sài Gòn và Quy Nhơn rồi, chắc là đang đến lượt chuyến đặc biệt. Thường thì chuyến đặc biệt xen giữa hai chuyến thường.”
Nàng nói, nói liều, theo ý nghĩ, theo mong muốn. Bẻ cong tất cả mọi sự thật theo tư tưởng và ước mong mình, để đỡ bứt rứt, nóng nảy, xốn xang vì thất vọng. Không phải thất vọng. Nếu đời sống còn ở trong tình trạng có thể hy vọng và thất vọng, những tình cảm có giới hạn và vì vậy, trong tầm mức chịu đựng của tâm hồn, của trái tim. Còn bây giờ. Không như thế nữa. Mọi sự như căng phồng đến độ cùng, sắp sửa vỡ toang, bùng nổ. Mọi sự lên tới chót đỉnh của nín thở, của đe doạ, của vỡ rơi hung hiểm nhất. Sẽ làm sao và ra sao. Nghe cồn cào khắp ruột gan, những đường gân và mạch máu trong đầu rần rật nung lên hừng hực, như những ngọn đuốc đã được châm đốt, bùng cháy. Trái tim thắt và phồng, có bóp không đều, chuyển dần cơn đau ngấm ngầm xuống bụng. Đứa con sáu tháng bên trong gò cao lên hai đầu gối, ngột ngạt nhức nhối cựa quậy như muốn đạp tung vỡ làn da bụng ra ngoài. Đừng, con ơi, im đi, ngủ đi. Thế nào rồi cũng sẽ tới đoạn chót, dù tốt lành, dù tan vỡ. Thế nào rồi cũng đến. Cho cùng là một sáng. Cho cùng là một chiều. Cho cùng là hết một ngày hôm nay nữa thôi cái gì cần đến, bắt buộc đến cũng phải đến. Không thể không được. Không thể bỗng dưng một kẻ muốn trốn thoát thân phận có thể nhảy vọt ra khỏi đời bằng phương tiện dễ dàng và khó khăn đó nhất là cái chết. Ngày không thể dài thực sự hơn mọi ngày. Dù ngày đáng lê thê hơn cả một đời người triền miên đuổi bắt mặt trời trên một triền núi dốc đứng chênh vênh. Im đi con, hãy cố thở nhịp đều trong tốc độ chạy đua hụt hơi. Không, cũng chẳng thể là chạy đua. Mà bị rượt đuổi, đã không ngừng, suốt từ mấy tháng nay, trên con đường chập chùng nắng mưa. Sáng, mẹ con mình thức dậy từ bốn năm giờ âm u. Lo nghĩ, làm lụng, khắc khoải, tính toán, rồi chạy việc, nơi này nơi kia, đuổi theo những cái hẹn hão huyền, những giúp đỡ không kết quả, trưa quá giờ ăn mới trở về, nhấm một tí dưa leo, một tí chao, với cơm nguội, rồi buổi chiều lại vã mồ hôi dưới mặt trời vàng chói, chạy nữa, lao mình vào những xoay xở không đâu, không đâu nhưng có chạy vẫn đỡ hơn quay quắt lo âu hơn là im lìm điên cuồng ngồi nhà một chỗ. Đến tối mịt, thất vọng hoàn toàn về những con số không bắt gặp sau một ngày dài hao tốn bạc tiền, tâm sức, thì giờ, xăng nhớt của xe cộ và bao tử, lại manh mối những tin tức và hy vọng khác, thay áo, ra đường chạy nữa, tìm kiếm nữa, toan tính xoay xở nữa, cho đến khuya. Không còn thì giờ để ăn, không còn tâm thần để ngủ. Công việc chừng như chỉ có kết quả như cầu khẩn, như ở người, cầu ở trời, mỗi lúc như càng xa, càng cao, ở trong chiêm bao trùng điệp phỉnh phờ. Thêm nỗi nhớ tiêu cực và nhẹ nhàng trong lòng những chinh phụ xưa kia. Loay hoay trong nhà, trong vườn, nhớ nhung, trông ngóng, và đợi chờ. Cùng với những tưởng tượng, hãi hùng hay thê thảm. Chỉ chừng đó. Còn ta, còn ta, con ơi, còn mẹ con ta. Chạy như chó đạp lửa. Quay như đỉa phải vôi. Lao như rắn bị quất. Nhào như chuột bị vồ. Ta quay, quay chóng mặt điên cuồng trong thứ gian khổ âm thầm không kẻ thứ hai nhìn thấy. Cho tháng ngày con. Cho từng hơi thở của đời sống phải trả giá đắt từng phút từng giây. Cho chút đoàn tụ mong manh phập phồng giữa loạn ly và lừa lọc. Rồi tới đâu. Có tới rồi cũng tan đi. Có còn rồi cũng mất. Có gặp gỡ rồi cũng xa lìa. Tính chất hoang mang và quyết liệt tận cùng của giai đoạn này là thế. Im đi con ơi, hôm qua, có phải hôm qua không. A, hôm kia, mới đó, ta đi trong phố, ngửa mặt lên trời, hong cho khô những sợi tóc dài mới gội thơm chanh và xà-bông. Ta đi như con ma. Ta cười như con điên. Ta lơ láo như cô hồn tháng bảy. Ta hết ta rồi. Còn lại chút xác, nhẹ như nhồi rơm, buồn như ủ tro, ta đi miên man với ý nghĩ con đường lại tận cùng lần nữa, với cái điện tín trong tay người chết gọi về. Từ cõi địa ngục vọng về. Em về ngay, với anh. Chuyện phập phồng lo nghĩ, hoang mang lại xảy ra, lần nữa, lần nữa đây rồi. Làm thế nào. Ra. Không ra. Để mặc, hay bắt tay vào việc. Không thể bắt tay. Nhưng cũng không thể bỏ mặc. Vậy làm thế nào. Hãy nhìn sự việc tại chỗ trước khi quyết định một biện pháp nào. Ta lấy vé máy bay, vội vã. Và ngày hôm sau, ra đi. Ra đi. Ra đi. Lần nữa. Về đâu. Sương mù và sương mù, lan toả khắp cùng âm u hồn vía. Lên cái xoắn ốc khốc liệt và phi thường của định mệnh nữa rồi. Định mệnh là cái quái gì thế. Mãnh lực vô hình yêu ma nào thế. Có phải nó ám ảnh ta, và cuộc đời đã trải dàn theo như ám ảnh tinh ma quỷ quái đó. Như Kiều đã nhận chịu. Như Kiều đã khóc than. Ta làm ra định mệnh. Hay định mệnh làm ra ta. Bây giờ. Cái gì đây. Cái gì nó nổ như động cơ máy bay sắp cất cánh lên trời bỏ lìa phi đạo phía trong tim, trong khắp cùng cơ thể nóng bừng. Đã bảo thôi đừng nghĩ ngợi lan man gì nữa. Cứ ngồi khoanh tay, mặc. Cứ tưởng là sự khốc liệt nó sẽ tới, chắc chắn. Nó đang tới, kia rồi.
Nó tới, hay không?
Bên ngoài, tiếng xe jeep thắng lại đột ngột. Tiếng giày láo xáo trên hiên và tiếng súng chạm nhau cách cách. Người chồng rút một điếu thuốc nữa, châm hút, một bàn tay để nhẹ trên mép bàn, hai con mắt nhìn vào khung cửa gương trước mặt, thoáng thấy bóng chính mình có thể hiện chênh vênh trong đó, thấy người vợ và đứa con sắp khóc chào đời trong đó, thấy vòm trời, sân ga, cuộc đời và những bóng người lao xao đi về trong đó.
“Gọi cho em cái gì uống.”
Nàng nói thều thào, bằng thứ hơi đã cụt, bằng thứ âm đã tàn, kiệt quệ, về sức mạnh, vật chất và tinh thần, về hy vọng, về mọi cầm cứ cuối cùng còn lại trong thái độ trang trải với đời cần vương thoáng bình tĩnh rã rời.
“Em phải ăn một chút gì, em đang đói.”
Nàng mặc chồng gọi, thức uống thức ăn. Một lúc, mùi bún bì bèo và cay bốc lên từ mặt bàn. Nàng quậy nhẹ ly cô-ca. Đá và hơi ga quyện nhau sủi bọt. Ta đang tồi tệ hơn ly nước ngọt này. Không còn chút bọt nào để sủi tăm lên. Mọi thứ đều hết. Đều chết. Ông trời ạ, tôi buông tay từ phút này rồi đây nhé. Sợi dây mong manh đã đứt và không còn đường nào giao nối tôi với đời từ đây.
Cổ họng khô cháy, rát bỏng. Hình như quên uống nước, từ hôm qua, hôm kia. Nước thì vẫn có trong tầm tay, nhưng hình như mãi nhìn và nghĩ đâu đâu, tưởng đã uống nhưng từ nhiều hôm quên uống, không uống. Bây giờ thì cổ họng cháy, thân thể cháy, thần trí óc tim đang cháy, cháy nám, cháy khô.
“Em ăn một miếng, cố ăn một miếng.”
Vợ khuấy tô bún, khều lên một miếng thịt nhỏ, nhấp lên môi, rồi buông xuống, thực ra chỉ còn là than hồng trong những lo âu bỏng cháy. Thôi đành đói khát. Thôi đành chết khô. Anh ăn đi, dù sao anh cũng phải ăn. Em muốn anh ăn, em muốn anh sống, sống thế nào cũng mặc, đoạ đày thế nào cũng xong, em biết là ta sẽ thất bại hoàn toàn không còn hy vọng mong cầu gì nữa, lạy trời, con chỉ cầu xin còn lại mỗi một điều này thôi, là cả hai người còn sống, sống thế nào cũng được, trong khoảng cách cũng cam, miễn là còn có nhau, đâu đó, trên đời địa ngục này. Với chút hy vọng mỏng manh nguôi ngoai là một ngày kia, một trăm một ngàn năm sau, còn tìm thấy nhau, trong đống xương trắng hếu của vạn lý trường thành cay nghiệt.
Nước mắt long lanh, vợ nhìn ra, trời bỗng hẫng cao lên với một thoáng nắng vàng đột ngột. Trời còn cao quá, biết bao giờ ta bay lên. Nàng chớp mắt. Những mảng nắng kim cương tan vỡ trong nước mắt thầm. Nàng nhìn chồng. Người đàn ông cúi hơi thấp mái tóc ngắn trên bàn, bình tĩnh ăn uống, nàng biết là sự bình tĩnh kia, sự chịu đựng kia, tất cả những gì đang diễn ra thầm lặng trong đầu óc người đàn ông kia, đều vì nàng mà có, không thể vì một cái gì hay một ai khác cả. Nàng nghĩ và nhận ra một điều đột ngột, thảm khốc, chân tình: không còn gì hơn sự sống.
Một phút trước, đầu chuyến đi, nàng đã cầu mong một đời sống khác, một cõi cao vời, những điều tốt đẹp sau chuyến bay hôm nay. Nàng nghĩ tưởng đến những khung cảnh và tâm tình sẽ gầy dựng lại sau một lần tan hoang cách vắng. Nhưng bây giờ thì không nữa. Những thứ đó, trong hoàn cảnh thê thảm này, đều trở nên xa xỉ, lộng lẫy, lớn lao quá chừng. Nàng đã vọng tưởng vào khói mây, nếu còn tiếp tục nghĩ tới những điều huyền ảo, sau chuyến đi. Vấn đề còn lại bây giờ chỉ là, có chuyến đi hay không. Và sống hay chết. Chỉ còn lại như thế, giản dị, nhưng vô cùng sống hay chết. Sư cha đứa nào dám phè phỡn huênh hoang lếu láo gáy lên trong đắc thắng và kiêu căng là thà chết còn hơn sống nhục, thà chết còn hơn sống đoạ đày. Tưởng như thế là oai hùng là tốt đẹp là đáng giá hay sao. Những đứa đó yếu, không chịu đựng nổi nhục nhã và đoạ đày. Những đứa đó hèn, chỉ đủ vơ vét cho tiếng can đảm để chết, bằng tự vẫn, bằng liều thân, có một lần, trong một đời. Ôi, những kẻ còn lại, những kẻ phải dở sống dở chết, những kẻ quằn quại, những kẻ trân lì, những kẻ chau mày nghiến răng chịu đựng, hắn vẫn tự vận, hắn vẫn liều thân đấy, nhưng mà hàng trăm ngàn lần, hàng trăm ngàn lần phải chết đi và mỗi cái chết ghê gớm còn trăm ngàn lần hơn cái chết của một người thật sự chết.
Để làm gì ư? Kẻ không chịu đựng nổi, không chấp nhận hết một lần, can đảm và kiêu hãnh một lần, huỷ hoại chính mình, chẳng đem lại gì cho chính bản thân hay người liên hệ thân yêu. Trái lại hắn là kẻ cắp tồi tệ. Hắn đánh cắp, ăn cắp đời sống hắn trong tầm tay ôm ấp mong nhớ của những người thân yêu, hắn huỷ diệt sự sống trong cơn nuôi dưỡng khoan hoà và dịu nhẹ của cõi đời cưu mang mãi hoài tính chất gầy dựng, sáng tạo, sinh trưởng, nâng niu. Hắn huỷ diệt hết. Mầm mống và bản thể của cuộc đời này là gầy dựng và sinh tồn trong bất khuất.
Anh ạ, tại sao em mong cầu chi những điều tham lam ích kỷ và lớn lao vô chừng ấy, sống, và trở về, cùng nhau. Không. Thôi. Hãy đừng cầu mong như thế nữa. Mà chỉ còn sống. Đâu đó cũng được. Ra sao cũng được. Để mọi người nghĩ trong đời còn có kẻ khác cùng ta, theo dõi, nhớ mong, cầu nguyện đợi chờ ta. Còn có, đâu đó, như một chiếc bóng lạ lùng, cách biệt, nhưng như yêu ma từ bóng tối, lai vãng không ngừng trong những bờ hồn ngập tràn nhung nhớ đêm ngày còn lại.
Bỗng dưng nàng nín thở. Bọn người mới tới im lặng, hàm hồ bước vào trong phòng. Mỗi người tản về một phía nhìn quanh, sục sạo. Nàng đoán chừng công việc của họ, sắp diễn ra. Nàng cũng đoán điều ngược lại. Cả hai đều gợi lên trong tưởng tượng những hình ảnh và kết quả trái ngược về đời sống người chồng, những phút tới gần. Trong thâm tâm mơ hồ nàng vắng nghe một thứ tiếng kêu bi ai, như tiếng than của kẻ ngồi chong đêm canh người hấp hối, thôi không xong, không xong rồi. Và một ngón nến hồng leo lét nào cũng vừa lụi tàn, cùng với kẻ hấp hối tắt hơi.
Đó là lần đầu tiên, từ buổi sáng thức dậy, hai người, vợ và chồng, nhìn thấy nhau mỉm cười. Thoáng cười đậu nhẹ trên đôi môi lạnh và buồn, tái nhợt nỗi hoang mang âm u, chỉ như một phiến nắng ngà dát mỏng trên thềm lá xanh mờ rồi tắt nhanh theo cơn gió động báo trước mưa về.
Nàng thấy người chồng lại châm một điếu thuốc, điếu thuốc cuối cùng của bao thuốc thứ nhất. Nàng nghĩ là hôm nay chàng sẽ hút nhiều thuốc hơn mọi ngày, nên trong xắc đã mang theo nhiều gói dự trữ. Thuốc lá bây giờ mang công hiệu của những viên linh dược kéo dài hơi thở của con bệnh ngập chìm trong cõi u minh.
Nhưng khói thuốc lá bây giờ chừng như mỏng thưa, chờn vờn nhẹ nhõm bay lên cao hơn, xa hơn những đợt khói thuốc đã bay lên vất vơ từ buổi sáng. Nàng cũng bắt đầu thấy đói. Như những khi đẻ xong con, nhận ra sự an toàn về phía cả hai sinh mạng, đều cảm thấy đói meo, thèm ăn đền bù một thứ gì cho đã như trăm năm đói khát quên ăn vì lo âu vì gánh nặng vô hình trĩu khắp tâm hồn thể xác.
Bọn người tới, ăn uống, nhìn quanh kiểm điểm tình hình, rồi lại lên xe, đi như biến. Họ biến nhanh đến nỗi, một lúc ngẩng lên, nàng đã cảm thấy mọi sự vừa rồi chỉ là ảo giác của kẻ mất hồn, bại vía vì kiệt lực.
Hai người ăn xong tộ bún thong dong ngồi uống ly cô-ca lạnh ngắt. Bây giờ trong sân ga vắng vẻ. Những người hành khách đã lên máy bay. Hình như ba bốn chuyến đã về trời. Những người còn lại cũng rã rời trong buổi trưa, ngất ngư trong công việc, nửa làm nửa nghỉ. Một số khách của buổi sáng còn đọng lại, im lìm trên những băng ghế dài dở các thức ăn mang theo, trải qua buổi trưa đợi chờ, an phận.
Một thoáng, người đàn bà cảm thấy được buông duỗi và yên nghỉ, xác và hồn, thoát ra ngoài sự lo âu chằng chịt bủa vây từ buổi sáng. Nàng cũng không thể tin, sự nguôi nghỉ là có thực. Tất cả chỉ là tạm bợ và giả tạo đó thôi, rồi điều quan trọng nhất của một ngày đời nín thở như hôm nay, sẽ xảy ập tới, vào buổi chiều. Bây giờ đúng là buổi trưa. Hãy nghỉ ngơi, không chừng sẽ là buổi trưa cuối cùng của đời người. Nhưng nàng không cảm thấy sợ hãi nữa, người ta chỉ điên cuồng quay quắt với cái độ dây căng quá mức. Nhưng sợi dây khi đã đứt rồi, hình thu treo ngược đã lửng lơ ngoài không gian. Bây giờ là khoảng không giữa sườn non và vực thẳm. Chỉ một lúc là chạm phải đáy vực. Cái gì dưới ấy. Sẽ là một dòng nước xoáy cuốn trôi đi. Sẽ là một vùng đá nhọn sắc như mũi kiếm. Có thể là một bầy ác thú. Có thể là những con quạ diều rúc rỉa chực chờ xác chết. Gì cũng được, cái tận cùng vẫn chỉ là tận cùng. Lần chết này, có phải là lần chết cuối cùng chưa. Chưa. Chỉ là khởi sự những khổ hình cam chịu trong cuộc thách đấu lạnh lẽo với đời mình và mệnh số.
Nàng rùng mình. Cố nghĩ một cái gì êm dịu. Cho qua buổi trưa. Nàng nghĩ đến người đàn ông, khi là người tình. Ở người đàn ông, biên cương giữa chồng sau kết hợp hình như là một khoảng cách mênh mông. Người tình cho những thái độ, cách thế, diễn tả, bày tỏ, ý tình tươi đẹp, trang trọng tuyệt vời. Người chồng chia những hỗn hợp phức tạp của mọi trạng thái chồng chất của đời sống làm đôi, tốt và xấu, ghét và yêu, mong ước và xa lìa, thông cảm và ngộ nhận… Đối với nàng, giờ phút này, sắp sửa chạm tới đáy vực thẳm của kiếp người ngắn ngủi, nàng chợt nhận ra là cái biên cương kia, chừng như tan biến, mong manh, chỉ còn là một sợi tóc. Một đường tơ. Toàn thể, người tình và người chồng trong một đàn ông, bây giờ chỉ còn là vóc dáng ngậm ngùi của thân phận con người. Con người trước hoàn cảnh. Con người trước thực tại. Và con người trước thái độ của chính mình đối diện với vực thẳm. Cái vực thẳm ghê gớm đã tự chọn lựa. Bởi không còn cách nào khác. Quả tình là như vậy. Nhưng ít ai hiểu cho, trừ người vợ. Nhưng người vợ, trong cơn thịnh nộ cay chua, chừng như cũng không muốn tỏ bày chút hiểu biết và cảm thông nào.
Lại tiếng ù ù trên trời cao. Nhiều cặp mắt nhìn lên quầy ghi vé. Vài tiếng chân xê dịch chậm chạp. Lại một chuyến bay sắp trút xuống đám sân hành khách phờ phạc thất thần xa lạ.
“Có phải chuyến của mình không anh?”
Nàng hỏi, cắt đứt im lặng, và không còn mong nữa. Hãy chìm xuống im lìm, đừng vọng tưởng gì thêm nữa. Coi như mọi chuyện đã hỏng, đã xong.
“Có lẽ.”
Người đàn ông nói, ơ thờ. Và nhìn vợ. Vóc dáng mảnh mai. Sức khoẻ hao gầy. Đầu óc bé nhỏ kia. Cái gì trong ấy. Một ngọn lửa sống bừng bừng, mãnh liệt, và luôn luôn đồng loã với mình. Đồng loã có nghĩa là bất khuất trước tất cả. Trước tất cả chính mình bại liệt vì sự chịu đựng hữu hạn của xác thân và trí óc. Thật là một sợi cỏ, một hoa lau, một đường tơ, một phiến lá. Hay còn mong manh hơn thế. Nhưng nàng chở mình về cõi xa. Nàng dìu mình ra cõi thoát. Nếu không, nếu không có. Chắc gì ta đã còn đủ sức và trí, phản ứng tự nhiên để bám tay vào cuống cỏ ngày hôm trước. Và bây giờ, đã chắc gì ta thản nhiên trầm tĩnh ngồi đây. Ngồi và đi. Ngồi để đi. Hai sự việc có vẻ là một nhưng phút này thì thăm thẳm cách xa như ân sủng cả trùng dương dậy sóng.
Máy bay vừa đáp xuống phi trường. Hành khách lục tục xuống, lao đao như bị cuốn trong lòng bão rớt. Trời hẩng lên, tráng mỏng một lớp màu thuỷ ngân nhạt. Gió hiu hắt vừa đủ se da. Chắc chắn là buổi chiều cũng chẳng đẹp gì. Trời sẽ chẳng bao giờ đẹp nữa. Nàng lại nhìn trời, ngó người, thắt ruột lo âu.
Những khách lên phi cơ sau đó, lại vẫn không phải là những người đi Sài Gòn. Những người đi Sài Gòn ngồi lại, băn khoăn náo nức đợi chờ. Họ lết dần ra tới sân sau trông ngóng lên trời. Bỗng nhiên nàng thèm khát thân phận và hoàn cảnh họ. Không chắc họ quay quắt và đợi chờ như thế, từ nhiều ngày, và có lẽ sẽ còn nhiều ngày nữa. Chương trình, hẹn hò, công việc, dự định của họ, chậm trễ và đảo lộn hết, chắc chắn. Nhưng rồi cũng chẳng sao. Họ cũng sẽ ra đi. Và rồi họ cũng sẽ đến hay trở về nơi đáng được về, đến.
Còn mình. Việc đi và đến, không phải do chính mình, do hãng máy bay, do chuyến bay quyết định và chọn lựa được. Mà định mệnh. Chính là nó. Và chỉ là nó. Lại là nó. Không thể ai khác. Nó sẽ mở hé cửa cho đi. Hay nó sẽ khoá trái cửa lại, xô đẩy ta lại đường cùng với bức tường và ngõ cụt sau lưng. Người ta đang trong cõi đời, dù phiền não, dù oái oăm và gay cấn tới đâu, cuối cùng rồi cũng sẽ được đi và được đến. Còn ta, ta phóng mình ra ngoài tầm tay nương giữ của đời, ta chọn lấy cõi khác cho ta, và bây giờ thì đừng trông mong gì vào những cứu vớt bình thường của đời sống, từ đời sống nữa.
Máy bay lại cất cánh. Nhà ga bây giờ vắng hoe. Mấy người làm việc chừng như cũng rã rời thu xếp ra về. Chỉ còn lại mấy nhân viên công lực ra vào ở cửa sau, và hai người ở quầy vé.
Vừa mới trưa, mà chiều chừng đã tới, rình rập, đe doạ.
Nàng lê từng bước nặng gông cùm tới phía quầy và hỏi thăm bằng giọng run của người sắp chết:
“Còn chuyến bay nào không cô?”
“Còn, hai chuyến.”
“Đi Sài Gòn chứ?”
“Vâng, Sài Gòn.”
“Chắc chắn không cô?”
“Chưa có tin tới.”
“Làm thế nào?”
“Bà vui lòng ngồi chờ. Thế nào máy bay cũng tới.”
“Tôi sẽ chờ, cho tới nửa đêm cũng đành. Nhưng biết có chỗ hay không?”
“Thưa bà, điều đó thì ngoài sắp đặt và quyền hạn của chúng tôi ở đây. Xin bà chờ. Vâng, chỉ còn chờ xem ra sao.”
Chờ, xem ra sao. Ta đã chờ hai ba bốn năm, bảy tám năm rồi, xem ra sao. Chẳng thấy gì. Chẳng thấy gì hơn mê hồn trận mỗi ngày một mịt mùng thêm khói ám và mù sương.
Và bây giờ. Thêm một ngày. Thêm một lần. Không, chắc chắn là chưa hết đâu. Sau cái chết, sẽ là những cái chết khác, ôi những đứa ngông cuồng bât khuất chọn cuộc đời được chết nhiều lần để hoàn thành dự định xa tắp tương lai.
Nàng trở lại bàn. Và ngồi xuống. Cái tô ăn còn mứa. Cái ly uống chưa vơi. Những con ruồi tới đậu. Những miếng chanh khô nước. Những đốt tàn thuốc cháy cùn bẹp gí. Và người đàn ông ngồi chống tay lên trán. Một vẻ gì mỏi mê, một vẻ gì thoi thóp, dại khờ. Khoảng gần một ngày, trông người đàn ông gầy sút đi mây kí lô, hai má họp lại, trũng mắt thêm sâu, và làn da nâu hồng chợt sạm lại với một cảm nhận tối tăm u ám nào trong hồn trùng héo đợi chờ.
Nàng nhìn xuyên qua vầng trán cao. Nàng nhìn xuyên qua hàng răng trắng. Nàng nhìn xuyên qua đôi má đầy. Nàng nhìn xuyên qua làn tóc đen nâu. Chập choạng đâu đây là bóng hoàng hôn sụp xuống hoang tàn. Đâu đây là tiếng vỗ cánh của loài dơi khát thèm bóng tối. Đâu đây là hình hài xương tuỷ trắng xoá dưới trăng mờ. Rồi đây, hồn tử sỉ gió ù ù thổi, mặt chinh phu trăng dõi dõi soi… Nếu sứ mạng kinh dị của ta ngày hôm nay không thành. Nếu điều ta làm hôm nay không phải là ý trời. Rồi sẽ ra sao? Nhanh lắm, chỉ một ngày, một tháng, một năm sau thôi, cỏ sẽ xanh, mây sẽ trắng, trời sẽ bao la bất tận khắp cùng địa cầu tĩnh mịch còn ta ở lại lẻ loi. Tóc da kia, đời sống tốt tươi và mãnh liệt kia, chỉ còn là vầng dương trắng lạnh lùng trong gió lùa u uất đêm thâu.
Không, có lẽ nào như thế được, có lẽ nào lại như thế được anh? Từ đầu chuyến đi, mình đã bị đày vào cái thế giới của những kẻ cùng đường phải đánh cướp để nuôi sống, để tháo thân. Chúng nó đánh cướp bạc tiền, của cải, ta chỉ đánh cướp lại đời ta. Đánh cướp đời mình từ tù ngục và trở về với một ngục tù mới chung thân, nhưng đồng loã, cùng nhau, có nhau, suốt đời, nếu chỉ còn da thì vẫn còn da với da, nếu còn xương thì vẫn còn xương với xương.
Năm giờ chiều. Chuyến bay cuối cùng đã cất cánh. Hy vọng cuối cùng đã tiêu tan, mảnh ván cầu cuối cùng giao nối với đời đã tuột theo dòng nước lũ. Những chiếc xe ca đã chở đầy hành khách trở về. Tiếng xe nặng nề, chậm chạp quay ra sân, mất hút ngoài kia đường. Đường đi cũng hết. Đường về cũng không. Người ta không có ai loay hoay trong vùng thấp thỏm đợi chờ này nữa. Họ đã đi. Và họ đã về. Chỉ còn lại những người thừa hành phận sự trong sân bay vội vàng thu xếp nhanh tay những công việc cuối cùng của một ngày dài không muốn dứt.
Mấy người đàn ông kỹ sư, nhân viên hàng không bàn bên kia đang vui vể chuyện trò ăn uống, sau một ngày mệt nhọc, trước khi chờ xe hãng đón về thành phố. Người nào cũng có vẻ mạnh khoẻ hòn nhiên đến trơ tráo và phè phỡn với một đời sống trơn tru dễ dãi, theo nhu cầu, theo thói quen.
Dưới gậm bàn, mấy đứa nhỏ đã quét tước nhặt nhạnh những rác rến và đồ thừa thãi. Đàng kia, sau quầy, cô thư ký độc nhất còn lại đã xếp gọn cái áo mưa bỏ vào túi vải. Những cuốn sổ cũng vừa được gấp lại, một thứ hồ sơ tội trạng được thanh toán, vĩnh viễn, với những bản án đã rồi, không thể xoay xở đổi thay, sau phán quyết cuối cùng.
Vòm trời chuyển nhanh từ màu hồng vàng nhợt nhạt qua màu trắng xám pha lẫn tro sương đục mờ và thấp hẳn xuống phía ngoài kia phi đạo. Ngọn gió chiều luồn qua những dãy hành lang vắng hoe, đập mạnh vào những cánh cửa kính lỏng lẻo khua lách cách.
Nàng hỏi, như tự hỏi:
“Làm thế nào, anh?”
“Cứ chờ xem.”
“Nếu máy bay không tới.”
“Thì trở về.”
“Nhưng về đâu?”
“Nhà bà Phán.”
“Ngày mai?”
“Chuyến khác.”
“Không chắc được. Không thể đi hai lần.”
“Rồi cũng phải đi. Và phải được.”
“Anh có thay đổi ý kiến gì không?”
“Em tưởng thế? Không. Tất nhiên là không. Lẽ ra em đã thấy hết, và không nên hỏi.”
Giọng người đàn ông có vẻ cáu. Chực gây hấn. Đến thế này, còn gây gổ nhau, hay sao. Nàng thấy ứa lên khắp cùng cổ họng một mảng gì lầy nhầy khó nuốt, nhưng cũng không thể nhổ khạc ra ngoài. Cái gì như nỗi thống hận chất chứa, nghẹn ngào, chìm ngợp, làm chóng mặt, làm nôn ọe, làm vất vưởng lao đao đến hụt hơi vì ngột thở.
Sự tức giận không đâu, cái không đâu từ nghìn vạn nguyên nhân không thể kể hết, bỗng oà ngập đến như sóng lớn. Nàng cau mắt, nắm hai bàn tay với nhau, ngồi nhìn khoảng không mờ dần bên ngoài, hết muốn hỏi han, nói năng. Trong cùng cực của đau khổ hay tuyệt vọng, hay xót thương, đàn bà thường khóc lóc, đay nghiến, kêu la, hay bày tỏ một thái độ điên cuồng dữ dội nào đó. Còn nàng. Nàng không biết phải làm gì hơn là tưởng chừng ngất đi. Vì uất nghẹn, vì căm hờn, quá nhiều thứ trong một lúc, và im lìm chịu đựng. Nhưng đừng phe phẩy qua cơn giận một thoáng lửa châm chọc nào. Chiến tranh sẽ bùng nổ, đảo lộn hết bình địa đời người. Và sau đó, cái khó chịu không lường sẽ chắc chắn tới. Nàng ghìm lại tất cả. Ngày đã nặng trĩu trên hai vai khô gầy. Cái bụng nặng nề oằn xuống dưới lưng cong. Ôi phải chi ta được trải dài lưng trên một tấm nệm mát phút giây này. Như từ lâu lắm, hàng tháng hàng năm ta chưa được nằm dài ra một phút an toàn và yên tĩnh để nghỉ ngơi, không cho ta, mà cái thai tội nghiệp trong căn phòng cho thuê chín tháng mười ngày chật hẹp của nó. Phải chi ta nhắm mắt ngủ được một giấc, và tỉnh dậy, với mọi điều đã đổi khác hẳn đi, lịch sử, trái đất đã xoay được hàng trăm vòng biến ảo và ta đã rơi hoàn toàn vào cái thế vẹn toàn, yên ổn, bình thường, như trăm ngàn người khác xung quanh.
Người đàn bà đứng lên. Đi chậm và nhẹ, như một người đi dạo thảnh thơi thân xác và tâm hồn về phía quầy vé. Đến quầy vé, nàng nhìn lui. Người đàn ông nói trong phòng ăn. Im lìm. Đã như thế đó hay sao? Từ sáng sớm. Cho tới bây giờ. Và cho tới bao giờ? Thử tưởng mình bỏ ra về. Hay bỏ đi. Để người đàn ông ngồi lại một mình. Cũng chẳng khác gì đặt xuống một đáy huyệt sâu, và mặc đầy, phủi tay. Mọi điều sẽ ra sao? Nếu không có mình, lúc này, những ngày mai, ngày mốt. Không thể được, Nàng chợt nghe nước mắt lưng tròng rưng rưng. Đã từ bao nhiêu năm nay, người đàn ông đã sống một đời sống khác trước kết hợp, vì ta, do ta. Mọi điều mọi thứ nơi người đàn ông, cũng đều vì ta, do ta hết thảy. Không một ai khác xen vào, nhúng tay, tiếp sức. Ta tạo dựng nên cái khởi đầu suy nghĩ nặng nề kia. Ta bày đặt ra dáng ngồi trầm tư miên man kia. Ta thổi phồng những dự định tương lai, những cơ mưu xoay xở trong đầu óc và ý chí vốn căng phồng cánh buồm phiêu lãng kia. Cái áo ấy ta chọn hàng, mang đi thợ may, mang về, ủi thẳng, cho mặc, và cất giữ vào trong tủ. Cả cái quần, cả cà-vạt, cả những chi tiết lặt vặt như mảnh mù-soa kia cũng từ ta, do ta. Những sợi tóc sạch và mịn kia nữa, cũng tự ta do ta. Ta có quyền kể lể công phu thiêng liêng của một người đàn bà là vợ. Lúc này đây. Hơn bao giờ hết. Đàn ông sinh ra từ người mẹ chỉ mới phân nửa con người. Phân nửa con người hồn xác đích thực của đàn ông là chu toàn đảm đang của người vợ. Người đàn bà là mẹ chỉ đem tới cho người đàn ông những gì trong cung mệnh. Nhưng người đàn bà là vợ chồng chất thêm những phần sáng tạo và tham dự của cung thân hoà nhập vào cung mệnh trong bản tử vi người chồng đàn ông.
Cung mệnh là phần bẩm sinh, nhờ người mẹ cho ra đời mà có. Cung thân là phần hình thành, nhờ hôn phối, nhờ người kết hợp tạo dựng và hùn hạp mà có. Em. Không phải chỉ là cung thê của anh. Em phần nào cũng là cung thân của anh, trong tử vi. Và một phần nào cũng là cung quan cung nàng nô cung tài của anh. Cho nên chỉ cách nhau có mấy bước là đã cảm thấy cái gì không xong, cái gì sai lỡ. Cho nên chỉ cách nhau một phiến cửa kính trong suốt đàng này đàng kia phòng là đã thấy chênh vênh hao hút nhớ nhung. Làm thế nào một người lại có thể thiếu đi bao nhiêu cung quan trọng thế kia trong tử vi là hoàn thành được định mệnh mình cho tới cùng mức một đời người.
Tiếng ù ù từ đầu kia máy điện thoại. Mặt cô thư ký tươi lên, hai con mắt long lanh ngó lại người đàn bà.
“Có tin rồi đó bà.”
“Máy bay hả? Trời ơi! Thật không cô, mấy giờ? Còn bao lâu?”
“Sắp tới. Chưa xác định được giờ.”
“Vậy là có máy bay.”
“Vâng, có chắc chắn, bà chờ một lúc nữa.”
“Liệu có chỗ hay không, cô?”
Cô thư ký nhìn quanh:
“Chắc chắn là có."
Nàng hỏi vặn:
"Sao cô biết?"
"Không những có mà thừa là khác."
"Tại sao vậy?"
"Bà xem, khách chờ đã bỏ về phân nửa. Còn lại có mấy người kia. Để tôi tin ngay cho họ biết có chuyến bay không họ cũng bỏ ra về hết.”
Nàng sống lại. Nàng nhẹ tênh. Nàng lướt trên sàn gạch hoa về phòng ăn và nói vọng lại.
“Tôi cũng báo tin cho mấy người đàng ấy họ biết. Không máy bay tới, chỗ ít, lại không bay thì tiêu.”
Nàng phóng vào khung cửa phòng mở. Nàng sập tới sau lưng người đàn ông, như cơn gió mát. Nàng nói với đôi môi vừa thoa lại một lượt son màu tươi.
“Có máy bay rồi, anh.”
Người đàn ông đứng dậy. Lại một điếu thuốc được đốt cháy. Mắt người chồng sau làn kính trắng long lanh. Ánh long lanh của những hạt mưa giọt xuống từ hiên đêm so chiếu dưới một vầng đèn màu óng ả ấm áp.
Nhưng giọng vẫn trầm tĩnh, kiên nhẫn, người chồng hỏi:
“Em đã ghi vé chưa?”
“Nói cho anh biết, rồi em sẽ đi ghi vé. Mấy giờ rồi anh?”
“Năm rưỡi.”
“Chiều quá. Sao lại có chuyến bay chiều thế.”
“Càng chiều càng tốt chứ em.”
Nàng không biết câu ấy nói gì. Nhưng không hỏi. Đột nhiên nàng khựng lại, hai tay lạnh ngắt đi trên thành ghế.
“Còn một việc nữa. Ghi vé.”
“Không sao. Cô thư ký quen mà.”
“Nhưng không phải chỉ mình cô ta ở quầy.”
“Em cứ lại ghi vé đi, cho xong rồi ta ngồi chờ, thong thả.”
Nàng muốn mọi việc nhanh, thật nhanh, như tên trò làm xiếc hoa tay mà loà mắt được thiên hạ, trẻ con và người lớn. Nàng rút hai cái vé ra khỏi ví, cầm lên những ngón tay hờ, quạt quạt, vui vẻ. Nàng vui thật. Nhưng cũng không vui thật. Không một tình cảm nào rõ rệt lúc này. Mọi sự như ở ngoài phản ứng của một người bình thường. Nàng bay, lao đao bằng hai cái cánh gãy vừa mới tháp lại bên hông còn thương tích. Nặng nề.
Nàng cầm vé, đi nhanh, cố trôi lướt qua tất cả mọi ngập ngừng, lo âu, suy tính.
Ở sau quầy, còn hai người khác, ngoài cô ghi vé. Một là cảnh sát. Một là nhân viên an ninh chìm. Họ đang cuốn tròn mấy tờ kê khai tên hành khách và buộc bằng sợi thun. Sợi thun đứt bung ra, rơi xuống vì căng tròn mấy vòng. Nàng nhanh tay lượm một sợi thun khác trên quầy, kéo giãn ra về phía họ, tươi cười gợi chuyện.
“Sắp hết giờ, mấy ông chưa được nghỉ sao.”
“Nghỉ gì được bà, còn chuyến bay là còn phải ở lại.”
Nàng nói vẩn vơ, luồn sợi thun vào cuộn giấy giùm họ.
“Tôi thấy có việc gì nữa đâu, tại các ông làm việc tận tâm quá mức. Làm thêm, có phụ trội chứ?”
“Trội triếc gì. Còn nước là còn phải tát chứ. Có hôm đến tám chín giờ cũng còn chuyến bay chót bất thường đó bà, đói meo, mà vẫn phải làm. Trời lại mưa dầm nữa.”
“Chết thật, thế còn ăn tối chứ?”
“Về nhà mới ăn.”
“Sao các ông không ăn đàng kia?”
“Chỉ chừng ba bữa là hết nhẵn lương.”
“Khổ thật, vậy là nhịn đói cho tới khi về nhà sao?”
“Phải vậy.”
“Còn ít khách, nhờ cô thư ký đây lo giúp các ông về trước có phải hơn không. Đàn bà vẫn dai sức hơn đàn ông.”
Cô thư ký nói vọng qua:
“Muốn về thì về đi, tôi ghi vé là đủ. Chiều quá rồi soát xét gì nữa mà chờ.”
Người cảnh sát nhún vai:
“Cũng phải trông chừng vậy thôi.”
Nàng nói bâng quơ:
“Các ông phải soát xét à? Sợ cái gì, Việt cộng hả, Việt cộng làm sao đi máy bay được?"
"An ninh đại khái vậy. Nhưng phải canh chừng mọi thứ chứ? Cô Diên, tôi ra ngoài kia chút nhé."
Cô thư ký trông theo người cảnh sát.
"Vậy là chuồn rồi, bỏ mình tôi tất cả mọi việc này."
Nàng cười mát mẻ:
"Tôi phụ cho nào. Còn lâu máy bay mới tới. À, này cô Diên, có phải ghi vé không?"
Cô thư ký liếc cuốn sổ đã xếp:
"Thôi được, chỗ quen mà."
Máy bay chưa tới nhưng nàng nghe tiếng ù ù đâu đó trên nền trời đã tối mờ, và đêm sắp sửa như mở toang những cánh cửa dịu dàng cho khách nhàn du phiêu lãng vào cõi nguôi ngoai an nghỉ.
Nàng mở ví. Một xấp tiền. Mấy mảnh giấy tờ không đáng kể. Hai cái vé. Hai chỗ ngồi trên một chuyến bay. Hai cánh cửa mở ra vườn đời tưởng chừng đã khép. Mấy thỏi son, hộp phấn hồng, những cây bút chì kẻ mắt, cái khăn tay, lọ nước hoa vừa mới dùng có một lần.
Nàng nhón lấy lọ nước hoa đắt tiền nhỏ xíu. Nàng chuồi bàn tay lên quầy.
"Tặng cô Diên. Để cám ơn cô đã lo vé cho chuyến đi này. Bụng dạ tôi thế này, chờ đến mai, đi đi về về nữa chắc chết."
Nàng cười, rút tay về, quay nhanh lại chỗ người đàn ông ngồi đợi. Người đàn ông hỏi, giọng nhẹ nhõm, không quay lại.
"Xong cả?"
"Xong rồi."
Một lúc, nàng chợt hỏi:
"Nhưng nếu vì lẽ gì máy bay trục trặc không tới?"
"Em chỉ khổ vì nghĩ quẩn. Không mừng cái đáng mừng. Mà đi lo cái không đáng lo."
"Máy bay gần tới, phải không anh?"
"Gần sáu giờ rồi. Kìa em nghe cái gì ù ù? Máy bay."
Tiếng ù ù đã vọng từ chân mây vắng. Tiếng ù ù vi vút xa xăm, như chỉ nghe trong trí tưởng lạ lùng. Nhưng rồi buổi chiều như khuấy động lên với những âm vang kéo dài, chập chùng, như khúc nhạc trầm của bản đại hoà tấu khởi đầu trong mây xa. Rồi âm thanh thấp xuống dần dần cho tới khi chiếc máy bay màu xám nhạt trông rõ trên nền trời lặng lẽ chiều hôm.
Tiếng của cô nhân viên hàng không trong máy phóng thanh báo tin cho những người đi Sài Gòn chuyến chót. Máy bay sẽ khởi hành đúng sáu giờ rưỡi. Bây giờ là sáu. Mười lăm phút trút khách xa xuống. Mười lăm phút để thêm xăng nhớt và kiểm soát lại phòng máy trước khi quay mũi vào trời đêm.
Chỉ còn nửa giờ. Nửa giờ cho nửa đời bao la sẽ tìm kiếm lại trên kia trời lấp lánh đêm sao.
Đám hành khách của chuyến bay cuối cùng trở về đã ra hết ngoài sân trước và hối hả lên xe. Những nhân viên của hãng máy bay cũng thu xếp giấy tờ đồ đạc và ra về bằng xe riêng của hãng. Phòng ga vắng hoe, với vài người phu chờ dọn dẹp những đồ đạc cuối cùng, mấy đứa trẻ con quét dọn rác rến quanh những căn phòng ra vào, cùng với người phụ trách an ninh phi cảng cũng theo xe ca trở về phố. Đó là quang cảnh lạ lùng, của ga máy bay, vào giờ cuối cùng trong ngày, từ sau khi chuyến cuối cùng thả hết những người về xuống địa điểm chót, và sắp sửa xăng nhớt cho một chuyến đi gượng vào đầu đêm đèn thắp.
Ngoài sân bay, mấy người phụ lo việc ở đầu máy hối hả đẩy các thùng dầu, kéo các đồ đạc qua lại tấp nập. Tiếng động cơ nổi lên, nghe giòn giã và nao nức như chuyển động tới trời đêm đang viền mặt trận đường khăn đen quanh trời. Lối ra vào bỏ ngỏ thênh thang. Một nhân viên của hãng loay hoay vừa kiểm vé của khách ra cổng, vừa nói chuyện với những người thu xếp ra về phòng bên. Hắn đứng đó, chiếu lệ, cho xong việc, như bất đắc dĩ chứng kiến một chuyến tải hàng bất thường, muộn màng. Khách đi không kịp và không cần trình vé, chỉ cầm giấy tờ trên tay, rồi thong dong đi thẳng ra ngoài sân bay.
Chiếc máy bay nhỏ đậu gần sát vào cửa ra vào. Cái thang sắt gập ghềnh chỉ muốn rút vội vào bên trong. Gió quạt ào ào như sắp sửa một trận địa chấn. Trời trắng nhợt tái da vì gió tối tình cờ dạt tới. Tóc bay. Chiều bay. Hồn bay. Những mảnh vỡ rạc rời trí não mịt mù cũng cuốn bay theo. Những bước chân nhẹ tênh từ lôi ra vào tới thang máy bay. Những bước chân chắp cánh về trời từ nấc thang này lên nấc thang khác. Cái gì nhẹ hẫng đi phía dưới. Cái gì đè nén, nặng nề, ngập chìm trôi tuột về phía dưới. Phút cuối cùng là đây. Ngày mở cửa là đây. Đêm thênh thang nhã nhạc vang lừng là đây. Trăm muốn níu gọi cũng là thừa. Trăm muốn kìm giữ cũng là muộn rồi. Thang máy bay đã rút lên. Thang máy bay tròn, kín, an toàn, với những ô cửa giao tiếp với trời rùng mình, quẫy nhẹ đuôi, phơi phới chạy dài trên phi đạo. Rồi thì đất trùng trình ngửa nghiêng phía dưới. Mặt đất như lún xuống, tan rời từng mảnh, từng mảnh nhỏ, trôi mông lung, tản mát như tro tàn rã rời trong vầng chiều tịch mịch khói sương pha.
Nàng bỗng cảm nhận một điều thật lạ lùng, kỳ dị phát sinh từ thoáng rùng mình của chiếc máy bay lấy đà trên phi đạo, từ cánh cửa máy bay đóng kín ngăn cách quãng đời phía dưới vừa trải qua, với tháng ngày dong ruỗi từ đây, là từ nay, mãi mãi, sẽ không bao giờ còn trở lại vùng đất âm u tù đày dưới đó nữa. Không bao giờ, trừ một ngày nào cờ xí rợp trời, trừ một ngày nào… Nàng mỉm cười với những viễn tượng mịt mờ xa thẳm. Nhưng cùng lúc, với những viễn tượng mờ mịt kia, nàng thắp lên bầu trời cả một vầng cao xanh biếc long lanh cho chuyến bay lướt nhẹ vào đêm và chuyến đi trở thành mộng mị ngoài dự tưởng, như chỉ là huyễn mộng, như chỉ là tuần trăng non mật ngọt, cho hai người đôi lứa ngao du. Bây giờ ta ở đầu mây. Bây giờ đời đã cuối mây. Lửng lơ trong giây phút, lửng lơ trong mơ say. Bay lên, xa lìa quá khứ. Xa lìa ngục tù. Xa lìa ám ảnh mịt mờ trận địa.
Máy bay không lên cao nữa. Đường mây như bằng phẳng phía dưới khoảng lưng sát tròn êm ái. Chiều mờ dần trong chân mây. Vài vết sáng hồng giăng ngang như sợi chớp, còn lưu luyến hoàng hôn. Rồi đêm. Chiều mất tăm. Bốn bề trời nhung đen thẫm một màu. Rì rào tiếng động cơ ru hồn viễn xứ. Ánh đèn vàng mờ vỗ về giấc ngủ chập chờn. Như không một đôi mắt nào lơ mơ khép lại, mà cùng mở, như những cánh cửa thâu đêm chong chờ ánh sáng. Mở và nhìn. Thấy mình rõ phút này không còn là mình của phút trước. Không gian bây giờ không là không gian giây phút trước. Chuyến đi đã cắt cuộc đời truân chuyên làm đôi. Nửa gieo xuống con nước xoáy để theo cùng vực thẳm. Nửa bay vút về trời để thắp sáng cõi trăng sao.
Trên những hàng ghế, mấy người lính được phép trở về, nói cười ổn ã. Những người đi buôn chờ chực hàng tuần, nay mua được chỗ, nao nức tính toan. Những người khách cuối cùng, hình như trong sâu xa, đã cùng chung một định mệnh đã đồng hội đồng thuyền, đã chờ một chuyến đi cuối cùng, độc nhất này, như một dịp may tận cùng cho một vấn đề sống chết. Không thể ngày khác. Không thể hôm sau. Hôm nay, hay là không bao giờ nữa. Một lần khác, sẽ chỉ là những định mệnh khác, những mẩu đời khác, những nhịp trùng phùng khác, đắng cay và khốn cùng hơn, trong chia lìa, trong nát tan.
Vợ nhìn sang vai chồng. Chợt nhớ chuyến bay nào của ngày trăng mật đã xưa. Cũng hai chỗ ngồi. Cũng ra đi bất ngờ ngoài vọng tưởng. Cũng là bờ vai gần tưởng suốt đời chạy vòng quanh địa cầu không tìm đâu ra bóng dáng. Cũng mớ tóc im cúi xuống âm thầm. Cũng nỗi gì trong lòng như bãi dâu xanh ngắt, như một đồng lúa non, như một vầng nguyệt đầu ung dung nhàn nhã. Nỗi gì như nước mắt long lanh chao chọng, như nụ cười nửa héo nửa tươi, như tiếng nói tưởng sẽ cất lên bỗng ngập chìm trong nghẹn ngào câm nín quên lời.
“Mình đi thực rồi sao anh?”
“Ta đang bay, trên trời. Anh tin là mình sẽ đi chắc chắn. Nhưng đến phút này, cũng ngạc nhiên đã đi. Và mình đang đi thật.”
“Về nhà mình, phải không? Nhưng con đường cũng chưa dứt.”
Chưa dứt. Nàng muốn nói điều gì hơn thế? Chưa dứt không phải là đơn giản là chưa về tới nhà. và nàng chợt hoảng kinh nhận ra, đoạn kết của cuộc hành trình gian nan, thực ra chỉ là khởi điểm của một thời phiêu lưu khác, truân chuyên và đày đoạ hơn. Nhưng ơn trời, nhưng ơn người, bây giờ thì chúng ta đã đi qua hẳn một giai đoạn tăm tối ngập chìm rồi, và đang trên đường bay về không gian và ánh sáng huy hoàng trường cửu của chúng ta. Đó là chốn đền thiêng vững bền chưa mất. Đó là cánh đồng lúa xanh xao của những triển vọng chưa hình thành. Còn nữa. Còn dài. Còn xa. Và mênh mông. Như trời ngoài. Như đêm sâu, như chuyến đi mịt mờ quái dị của hai ta.
Thử cúi xuống, bây giờ, dưới kia. Một vùng tối tăm. Một trời giông gió. Một mùa gió mưa. Và những cơn biến động không ngừng. Ta như hạt cát giữa những nan xe bị xoay tròn, quay lốc, không cầm cự, không cưỡng chống được, để làm gì, cái hạt cát trong nan xe, hạt cát sẽ là viên thuỷ tinh lấp lánh trong máy biến chế tinh vi nào, bỗng một ngày là hạt bụi lọc lừa trong nan xe quay tít cuồng điên, để chỉ lẫn với đất bùn, chỉ tiêu tan vào cát gió, không cho mình, không cho ai.
Vậy là, chúng mình đã thoát ra khỏi màng lưới. Nàng định nói, nhưng vừa chợt thấy bao nhiêu lời lẽ cũng bằng thừa. Nàng im, bàn tay trên cánh tay chồng cũng im. Một thoáng, nàng nhận ra, thật xao động, nhưng cũng thật lặng lẽ, mùi tóc da và vai áo của người đàn ông ngồi gần lan chuyển vào tâm hồn và thể phách mình, như một hoà điệu kỳ diệu và lặng thầm giữa lá và hoa, giữa cây và cành, giữa sương và khói, giữa nắng và ánh sáng.
“Em khoẻ không?”
“Sao anh không hỏi, em mệt không?”
“Em mệt.”
“Em mệt lắm không?”
“Bây giờ mới cảm thấy mệt mỏi. Suốt ngày, em mê đi, tê đi, không còn nghĩ ra gì về mình.”
Phải rồi, suốt một ngày. Nàng đã quên mình đi. Chỉ nghĩ đến người khác. Xác thân như không còn. Hồn vía như không còn. Chỉ còn cái khối tay chân loay hoay đi lại, đợi chờ, xếp đặt. Chỉ còn trái tim và những nhịp đập không đều, chỉ còn con mắt và nỗi mòn mỏi hanh hao. Bây giờ mới chợt nhớ ra mình. Chợt nhớ ra đứa con cựa quậy tìm đời trong bụng. Nhớ ra đói và khát. Mỏi và đau. Sợ và mừng. Tất cả vỡ ra, tan hoang, tràn lan cùng với hai hàng nước mắt chơi vơi.
Nàng chùi nước mắt với cánh tay áo. Nàng chùi cửa kính máy bay bằng hai con mắt ướt đẫm lệ mừng. Và thấy, như trong cơn mơ tuyệt vời nào đã mất, một vầng tinh tú ngũ sắc lóng lánh chao lượn khắp trời, như những mảnh vỡ rớt rơi tung tóe của kim cương. Rồi tiếng động cơ chậm và chìm đi. Cánh máy bay như chao nghiêng. Rồi cả vầng thuỷ tinh ngũ sắc long lanh bên ngoài cánh bay lao đao, quay nhẹ từng vòng tròn cho đến khi xô dạt tới gần, gần mãi lại, như một tấm màn ảo giác lung linh treo lửng lơ bên ngoài không gian đứng im cùng đêm nín thở, rồi tất cả dềnh lên, như cái váng nổi rực rỡ trên một mặt hồ nghiêng đong đưa trong gió thu, oà vỡ bao trùm lấy thân máy bay, níu xuống thêm gần, níu xuống thêm nhanh cho đến lúc nàng nhận ra, mình đang chao lượn trên một vũng đèn màu lốm đốm như sao sa trăng vỡ của thành phố trở về.
Hai người cùng nhìn xuống. Họ nhận ra dung nhan quyến rũ và bí mật của thành phố dấu yêu. Họ cũng nghĩ đến những người âm thầm đợi chờ phía ấy. Nhưng họ cùng trải hồn ra bao la với tiếng reo thầm lặng tủi mừng, ta đã về, ta đã tới nơi.
Đêm mở hai hàng ánh sáng đèn màu từ phi trường về thành phố. Sài Gòn như đang trẩy hội vui. lũ xe người xôn xao lướt bay trên con đường tim phổi của miền Nam. Chiếc xe ca muộn màng rùng rùng chạy qua thành phố, soi mặt lên vũng đèn đường óng ả sắc màu, loang loáng thanh âm.
Nhưng không có gì xảy ra, thầm kín mà tao loạn, cho mỗi đời người đi về dạ hội đêm nay. Và cơn mơ cũng vừa bừng tỉnh với cánh cửa máy bay mở xuống khoảng sân thênh thang gió tối đón chào. Những cái móc lọc lừa ma quỷ đã tan bay đi đâu. Chỉ còn lại đêm lồng lộng. Chỉ còn đèn giăng soi. Chỉ còn hương ngan ngát. Chỉ còn đàn vui say.
Chiếc xe băng qua những đường phố vui, vòng về phía chợ tìm lại chỗ của mình quen thuộc trong khung sân nhỏ bé của Hãng máy bay đã xa giờ làm việc. Hành lý được bỏ rơi lại tới ngày mai nhận lãnh, đám khách lao nhao trút xuống phố dài, tìm xe náo nức về nhà.
Hai người đi dọc theo con đường phố thênh thang ngược về phía chợ. Hai tay không hành lý, trí óc không lo âu, tháng ngày không hạn chế, họ dìu nhau đi giữa phố đêm, qua những hàng trái cây mọng chín, qua những tiệm ăn thơm mùi mì phở béo ngậy về đêm, qua những khúc quanh tấp nập xe người chơi đêm say đắm.
Nàng nhón một trái nho lên miệng chồng. Nàng nghĩ đến, thoáng qua nhanh thôi, cảm giác lạ lùng của ngón tay vừa chạm lên môi. Ta là gì của nhau? Vợ chồng, có phải không? Đêm nay ta sẽ vô cùng xa lạ và cách biệt nhau. Sẽ ở bên này và bên kia một biên cương ngại ngần, nhung nhớ. Tóc sẽ dài, da sẽ mịn, và bụi đường sẽ rũ sạch hết, ngày mai, những ngày mai. Hãy là người tình của nhau, đêm nay, đêm mai, và đêm mai nữa. Hãy đốt cuộc tình nồng thêm đêm nay đêm mai và đêm mai nữa. Nghe anh. Chúng ta đã trở về với đêm, với đời, với nhau gây dựng lại cơ đồ đã mất. Thắp lửa lại những xôn xao ân ái đã cũ, đã mòn. Nhiều năm với nhau, giữa hai người là vợ chồng, cuộc tình cứ như một ấp yêu và cảm nhận từ chính mình, cho riêng mình, nên mất dần những tính chất nồng nàn đắm đuối của một lần đầu hoa đăng thắp lửa. Phải xa nhau, phải mất nhau đi, như thế, một thời gian rất địa ngục, rất hoang tàn, để trở về, tìm lại thứ ánh đuốc thiên đường cho những đắm say vẫn còn nguyên vẹn như xưa kia si mê.
“Bây giờ mình về nhà, phải không em?”
Chồng hỏi vợ, ngại ngần, dịu dàng như một người tình dò ý một người tình đã xiêu lòng chìu luỵ.
Chồng vẫy nhẹ chiếc taxi. Với một chiếc taxi, một ví tiền, một mối tình, và một thời gian đêm, bất cứ lứa đôi nào trong tay say đắm của Sài Gòn cũng có thể là ông bà hoàng của ân ái sắp sửa. Ta ngự trị lên trên hết. Đuốc đèn rồi sẽ tắt. Ca hát rồi sẽ im. Người xe rồi sẽ vắng. Đêm dài rồi sẽ qua. Ru cho ta giấc tình còn nồng phút trùng lai vô cùng huyền diệu.
Nàng nhớ tới những cái áo ngủ đã từ lâu không mặc. Những mùi nước hoa mấy tháng trời không ủ tóc da. Những ngọn nến hồng chưa thắp lên được để ước ao giờ phút Lụi tàn trả khuya cho bóng tối. Hãy yêu, bằng thân xác, và tâm hồn, hoà hợp rất man dại, rất nồng nàn, rất đắm đuối, rất cuồng điên, rất dại khờ, rất xót xa. Như tình yêu thời khai thiên lập địa, dưới ánh sáng của Thánh Kinh. Như tình yêu thuở cây lá vi vu, đi về địa đàng chỉ có bóng dáng cô liêu của Eva và Adam quấn quít. Hãy như thế, hỡi em, hỡi anh, hãy như thế đêm này, đêm mai, trăm ngàn đêm nữa, cùng nhau. Hỡi đời, hỡi người, hãy làm mất nhau đi, hãy chịu xa nhau đi. Rồi bằng tất cả tâm hồn diễm tuyệt, bằng tất cả ý chí siêu phàm, bằng tất cả say đắm của lòng ta, đánh cướp lại đời, gắn hàn lại hạnh phúc. Cuộc đời vốn là tù ngục. Và ta chỉ có thể là người cai ngục giam cầm kẻ khác, hay chỉ có thể là kẻ tù nhân đoạ đày dưới tay người. Hai người đều là những kẻ suốt đời thiếu vắng bóng dáng hạnh phúc. Bởi lẽ, họ không cần thiết đến hạnh phúc bằng lắm thứ khác, như bạc tiền, danh vọng, của cải, ngôi cao. Xin hãy biết yêu thương và tìm kiếm hạnh phúc. Nó ở trong ngục tù riêng rẽ của chính ta chọn lựa. Tù ngục được đánh cướp từ những tù ngục khác. Nó ở trong lòng người hiệp sĩ điên, giải thoát mình ra khỏi ngục tù này để tự doạ giam giữ mình vào một thứ tù ngục khác. Có phải ra sẽ trả giá bằng cả một đời chìm nổi miên man của mình để được là hiệp sĩ điên đi tìm kiếm hạnh phúc mù trong ngục tù chọn lựa. Có phải không? Có phải không người? Có phải không tôi?
Mười giờ đêm. Chiếc xe đã dừng đầu hẻm. Nhà nhà cửa đóng tối om. Ngọn đèn vàng nghiêng soi lối nhỏ. Tiếng chó sủa rạc rời mơ ngủ. Tiếng trẻ khóc đòi sửa trong nôi. Rồi là sự im lặng khởi đầu dịu dàng, và thân mật của một đêm dài thanh tĩnh, vẹn toàn.
Cánh cửa ngoài được mở ra. Hai bóng người lén lén bước vào, bao nhiêu đèn đều bật lên một loạt. Căn nhà sáng hồng, long lanh như tẩm nước mắt vui. Những cánh mùng buông soi lờ mờ hé cơn nằm ngủ im lìm mộng mị. Ấm nước sôi lèo xèo trên bếp. Tiếng nước chảy róc rách dưới vòi sen của phòng tắm. Tiếng của hai người hỏi và đáp với nhau trong không gian nín thinh đón đợi tình về.
Vợ múc cho chồng thau nước rửa mặt, lấy cho chồng bánh xà-bông mới, cái khăn tắm sạch và đôi dép lâu ngày quên chân. Vợ pha cho chồng bình trà ra, dọn cho chồng đĩa bánh, gọt cho chồng lớp vỏ trái cây, làm tất cả những gì có thể làm, có thể có tức thì, trong đêm, trong nhà, giây phút trở về.
“Em thức các con dậy, nhé!”
“Thôi em, để con ngủ.”
“Anh đi tắm. Rồi uống trà với em.”
“Mặc anh, anh không cần gì hơn nữa.”
Hai người loay hoay. Không muốn đứng, không muốn ngồi. Không biết phải làm gì trước, làm gì sau. Mọi thứ đổ dồn vỡ oà cùng lúc như một tràng pháo nổ giòn giã đón Xuân về. Họ cùng nghĩ, ra vừa đi hết con đường dài gần kín cả Việt Nam. Họ cùng nghĩ, ta đã sống một ngày dài hơn một đời người. Họ cùng ngồi, nếu không có chuyến bay cuối cùng cứu rỗi, ngày mai và đời người, rồi sẽ ra sao?
Nhưng bây giờ, mọi điều đều đã qua, như con đường, như một ngày, và sáng mai, cuộc đời sẽ thắp lại ngọn lửa hồng của một thời gian khác.
Chồng đi quanh nhà, nhìn từng nơi xem từng chỗ, sờ từng vật, rồi dừng lại trước vợ. Chồng nhìn vợ, như lần đầu tiên trông thấy. Như lần đầu tiên thắp lửa cuộc tình. Như lần đầu tiên thử ngỏ lời yêu. Nàng biết chồng nghĩ gì. Nàng biết mình muốn gì. Nhưng nàng còn đợi chờ, thêm nữa dài nữa, nướng những viên than cho cháy hồng thêm nữa để bình trầm ủ kín bốc hương.
“Anh đi tắm đi, rồi vào với em. Nàng nói, nàng lặp lại nghe tiếng mình chợt vang lên như tiếng của một người lạ nào mới tới nhà này lần đầu.”
Chồng vào phòng tắm. Vợ ra ngoài khoá cổng, và cửa. Một hồi sau, tiếng chân dìu nhau ngập ngừng lên thang lầu. Như tiếng chân mèo trong vũng đêm mờ tối nâng niu.
Trước khi dành đêm cho mình, trước khi có thể thay thế một chiếc áo mỏng khói sương, vợ bảo chồng nhỏ nhẹ.
“Anh mặc quần áo tử tế và thắp hương lên bàn Phật cho em.”
Chồng hiểu ý vợ, tìm hộp diêm, bật lửa. Mùi nhang thơm lan toả khắp nhà. Nàng nghe vi vu đâu đây, nhưng xa tít, chập chùng tiếng mõ lẫn tiếng chuông, cùng với tiếng tụng niệm thanh tao, văng vẳng.
Vợ lại gần chồng. Chồng quay lại vợ, trước bàn thờ thơm ngát hương khuya, vợ đứng im trong cánh tay chồng đầm đìa nước mắt. Vợ ngước mắt lên nhìn tượng Phật và tạ ơn đời thầm lặng trong im, ơn trời, ơn Phật, ơn đời, ơn người, chúng con đã trở về, đã trở về được với nhau, đã tới nhà nhau.
Nhưng nàng lại nghe, vẫn văng vẳng, xa xăm, trong tiếng chuông mõ chập chùng siêu thoát cõi nào cao khiết ngoài đời, tiếng nói mình, van lơn như âm hưởng kinh cầu trùng điệp, đã trở về, đã đến nhà, nhưng còn từ đây, nhưng ngày mai, cuộc phấn đấu gian nan vẫn còn kéo dài, căng thẳng, lặng lẽ…
Nguồn: Cuộc tình trong ngục thất. Truyện dài của Nguyễn Thị Hoàng. Bìa Nguyễn Đồng. Nguyễn Đình Vượng xuất bản lần thứ nhất, in tại nhà in riêng của nhà xuất bản, 38 Phạm Ngũ Lão, Sài Gòn. Phát hành ngày 1 tháng 4 năm 1974, số lượng ấn bản 3.00 cuốn, giấy phép xuất bản số 5630 PTUDV/KSALP/TP, Sài Gòn ngày 22 tháng 12 năm 1973. Tác giả giữ bản quyền. Bản điện tử do talawas thực hiện.
4/2/2008
Nguyễn Thị Hoàng
Theo http://www.talawas.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Thơ có cần thiết cho đời sống? 10 Tháng Ba, 2023 Trong kỷ nguyên nghe nhìn, thơ đang có khoảng cách với đời sống. Độc giả thèm khát nh...