Nguyễn Nho Nhượn - Một ánh sao
bay xẹt qua bầu trời
Dường như chẳng có gì phải chối cãi khi xác quyết rằng: mỗi
thi sĩ sinh ra ở đời, hầu như cái tố chất siêu nhiên, bẩm sinh, vốn như một niềm
bí mật ẩn chứa hồn cốt và thi tài của mỗi thi sĩ.
Muốn phát hiện ra những bí mật đó, hoặc có hoặc không, thì
duy nhất chỉ có một con đường thông qua các sáng tác thơ của họ. Cố nhiên là
không phải ai cũng có cái nhãn lực đủ sức soi vào từng câu thơ, bài thơ để tường
minh những giá trị siêu lý ấy.
Mặt khác, cũng có thi sĩ thể hiện trong tác phẩm thơ của
mình, người đọc có cảm giác như đấy là một lời tiên tri, một dự cảm nào đó hé lộ
về cái thế giới bí mật nhuốm màu định mệnh kia. Trong trường hợp thứ hai này
xem ra ứng với thơ và cuộc đời thi sĩ Nguyễn Nho Nhượn – một nhà thơ Đất Quảng,
đồng thời với lớp các nhà thơ: Đynh Trầm Ca, Hoàng Lộc, Phan Duy Nhân… Đặc biệt
gần gũi hơn cả là với thi sĩ Nguyễn Nho Sa Mạc. Một người anh em cùng dòng tộc
Nguyễn Nho, lại cùng là bạn thơ xuất hiện cùng thời trên văn đàn Sài Gòn vào những
năm đầu thập niên sáu mươi của thế kỷ trước. Vậy rồi cả hai, lần lượt kẻ trước
người sau như là tia chớp, là ánh sao bay xẹt qua bầu trời rồi vụt tắt, để lại
một sự nghiệp thơ đầy những hứa hẹn nhưng đành dang dở.
Nhà thơ Nguyễn Nho Nhượn (1946 –
1969)
Nguyễn Nho Nhượn sinh ngày 12.3.1946 tại thôn Bồng Lai, làng
La Qua huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, đã từng theo học các trường Nguyễn Duy Hiệu
(Điện Bàn), Trần Quí Cáp (Hội An). Bắt đầu sáng tác từ năm 1962, đã đăng thơ
trên các tạp chí xuất bản tại Sài Gòn; Văn, Văn học, Bách khoa, Phổ thông, Thời
nay, Nghệ thuật… suốt từ những năm 1962 đến 1968. Vào cuối năm Mậu Thân này,
thi sĩ lâm trọng bệnh, được gia đình đưa vào nằm điều trị tại Tổng Y Viện Duy
Tân, nhưng bệnh tình anh mỗi ngày thêm trầm trọng, anh đã được chuyển qua bệnh
viện Mỹ tại Non Nước để tiếp tục điều trị, và đã qua đời tại đây vào ngày
24.5.1969.
Vậy là 23 năm có mặt ở cuộc đời, theo các nhà thơ bạn bè của
anh cho biết thì Nguyễn Nho Nhượn đã sáng tác được 6 tập thơ. Như vậy là chừng
hơn 6 năm ăn ở với thơ, bình quân mỗi năm anh có một tập thơ (Tiếng nói giữa hư
vô, Những lời sương khói, Lời buồn trong tim, Hơi thở miền nhiệt đới, Nỗi buồn
mọc cánh, Những khúc ca hoang). Nhưng, theo nhà thơ Đynh Trầm Ca, trong số thi
phẩm đó chỉ có tập “ Tiếng Nói Giữa Hư Vô” đã được bằng hữu hoàn thành nhân vào
dịp kỉ niệm ngày giỗ lần thứ 2 thi sĩ Nguyễn Nho Nhượn (1971).
“Tiếng Nói Giữa Hư Vô”, thi phẩm gồm 38 bài thơ đủ các thể loại,
đã từng đăng trên các tạp chí: Văn, Văn học, Bách khoa, Thời nay…Tập thơ này
dày có 100 trang in trên giấy trắng, sách do hai người bạn thân là nhà thơ Đynh
Trầm Ca và Lê Nghiêm Vũ viết lời giới thiệu.
Cho dù thời gian gắn bó với thơ không dài, lại nữa, tình trạng
sức khỏe đau ốm kéo dài gần hai năm cuối đời, tuy vậy ta cũng có thể phân kỳ
thơ Nguyễn Nho Nhượn theo từng dòng ở các chủ đề khác nhau: Thơ học trò, thơ
tình yêu và thơ thân phận. Nhưng dù là dòng thơ nào chăng nữa, sự ám ảnh về thế
giới hẳn sẽ in sâu trong tâm tưởng của thi sĩ, nhất là những năm tháng đạn bom
cày xới trên quê hương xứ sở từng ngày, sự gieo rắc đau thương chết chóc do chiến
tranh khốc liệt gây ra luôn là vết thương làm chảy máu tâm hồn nhà thơ.
Quê hương, quê hương chìm trong khói lửa
Chim muốn bay nhưng sợ lạc phương trời
(Ý nghĩ học trò)
Cũng trong những ý niệm tương quan cùng thế giới ấy, thân phận
thi sĩ là một hiện hữu cô đơn thường hằng. Mà không chỉ thì hiện tại, bằng cái
nhãn quan thi sĩ siêu hình, nhà thơ dự báo luôn cả tương lai:
Bây giờ tôi chẳng là tôi
hồn mang oan trái thân phơi bãi tình
mỏi mòn đếm tuổi điêu linh
cây tương lai vẫn nhánh cành quạnh hiu
(Bây giờ)
Nhà phê bình văn học Diên Nghị – người cùng thời với thi sĩ
Nguyễn Nho Nhượn, trong bài viết “Một người thơ Quảng Nam: Nguyễn Nho Nhượn
(1946 – 1969) đã đăng trên” Khởi Hành, số 96 tháng 10.2004, đã có một nhận định
khái quát về thơ Nguyễn Nho Nhượn, rằng: “Thơ Nguyễn Nho Nhượn như những tiếng
thở dài. Tiếng Nói Giữa Hư Vô là một chuỗi hơi thở buồn trầm từ một khoảng sống
của một người trẻ tuổi sớm ý thức được niềm bất hạnh trên quê hương, thân phận.
Nỗi chết đã ám ảnh Nhượn một cách ghê rợn, thường trực. Có lẽ từ cái chết của
Sa Mạc (*), mầu tang chế miên viễn gần gũi, thành mặc cảm hằng sâu trong hồn của
một kẻ bệnh hoạn. Nhượn đã nhìn đời sống bằng đôi mắt thật nghi ngờ, bằng trái
tim ngập ngừng khô héo trước một cảm nhận huyền kì về nỗi chết bên kia”. Vâng,
quả là thơ Nguyễn Nho Nhượn nơi này nơi kia có nhuốm màu tang. Quả là có nỗi chết,
mà cụ thể là cái chết của nhà thơ mệnh yểu Nguyễn Nho Sa Mạc đã ám ảnh thi sĩ.
Ngôn từ thơ cứ như rút ruột mà thành: “Đám tang qua thành phố/ có người
cười như điên/ không ai là thân thích/ Thương linh hồn vô danh/ cây gục đầu
cúi lạy/ bụi mờ làm khói hương/ mưa phùn làm nước mắt/ khóc cho người tha
phương. (Đám tang qua thành phố. NNN).
Tôi mượn một ý của nhà phê bình văn học Pháp lừng danh Milan
Kundera đã viết trong tiểu luận “Nghệ thuật tiểu thuyết” (L’art du Roman), bản
dịch Nguyên Ngọc, NXB Đà Nẵng 1998 – để nói về trường hợp này, rằng: “Biết về
tác giả sẽ chẳng làm tăng (hay giảm) giá trị tác phẩm”. Quan điểm này minh định
tiêu chí để làm thước đo (thẩm định) các giá trị nghệ thuật, đấy chính là các
tác phẩm của nhà văn chứ không thể một thứ gì thay vào dù đó là nhân thân tác
giả. Vậy nên để có cái nhìn thấu đáo, nhận định trung thực khách quan hoàn toàn
khi viết về một bạn thơ, lại là người đồng hương, thì việc cảnh giác là cần thiết
bởi đôi khi cảm tính dẫn đường mà ta không hề hay biết.
Nhưng thi sĩ tồn tại ở giữa đời chính là sự lưu lại tác phẩm
của mình giữa dòng thời gian bất tận. Hơn nữa thế kỉ đã qua , “Tiếng Nói Giữa
Hư Vô” của thi sĩ Nguyễn Nho Nhượn vẫn như một hình hài, một chân dung siêu
hình hiển lộ trong trái tim, trong ký ức của những người yêu thơ anh như ánh lửa
lung linh giữa thời gian.
Thời gian lên ánh lửa
chuyến xe đời đi qua
đốt tan thành sương khói
âm vang lời bi ca…
Bấy nhiêu đó với tôi cũng là một thứ ánh sáng, mà tôi thường
gọi là “kiếp thi sĩ – kiếp ánh sáng” – huyền nhiệm như một thứ trò chơi thần khải
(une névélation), như bản mệnh một vì sao băng một hôm bay xẹt qua bầu trời
này.
Chú thích:
(*) Đọc bài “Niềm bí mật sáng tạo và số phận một thi
sĩ” bài viết về nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc của Nguyễn Nhã Tiên trong ”Đà
Nẵng 20 năm Lý Luận Phê bình VHNT" (1997 – 2017. NXB Đà Nẵng).
Gác khói bay, 10/12/2021
Nguyễn Nhã Tiên
Theo https://vanhocsaigon.com/
.jpg)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét