Vệt ánh sáng
ngoài cửa sổ hắt vào vách tường làm nổi bật những mạng nhện đang mờ ảo trong
làn khói thuốc. Ánh sáng cắt vách tường ra làm đôi, vùng tối bên trái của nó
là bức tượng Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá bằng gỗ. Thân hình tiều tụy
của Đấng Cứu thế dường như tan biến trong tăm tối, gương mặt Chúa buồn bã, in
hằn nét đau khổ của mọi kiếp người. Bên phải là bức tranh sơn dầu hình thù kỳ
dị. Mọi màu sắc âm ỉ sức nóng của sự sống, của vầng thái dương, những cánh
hoa đỏ lấm tấm trên cánh đồng lúa mì vàng rực, nhưng tất cả không vực dậy
niềm hoan lạc trong căn phòng lạnh lẽo chứa đựng một con người cô đơn, đói
rét cùng cực. Van Gogh nằm vắt tay lên trán, thỉnh thoảng đưa tẩu thuốc lên
miệng, rít thật mạnh và khói thuốc luồn nhanh vào buồng phổi, cuống cuồng sợ
hãi tìm lối thoát thân. Khói không thể đào tẩu theo đường hô hấp của con
người, dường như nó len lỏi vào từng lỗ chân lông, bốc hơi qua mái tóc cắt
ngắn, hóa thân thành những giọt nước mắt bất lực lăn xuống trũng mắt thẳm
sâu, mệt mỏi và rớt vào những nếp nhăn trên gò má xanh xao của Van
Gogh.
Trừng trừng,
bất động. Đôi mắt thao láo như mắt của người chết oan ức. Cặp đồng tử căng
ra, thu nhận vùng sáng tối phía trước. Mạng nhện, tượng Chúa, những cánh hoa
và vô số hạt bụi nhảy múa trên vùng sáng quyện đầy khói thuốc. Làn mi không
dám che khuất sự buồn thảm, nó như cánh buồm bị kéo lên bằng những sợi dây
thần kinh căng thẳng của sự suy nghĩ miên man. Cha Van Gogh là một vị mục sư
khả kính chỉ biết thờ phượng Chúa Trời và lúc nào cũng muốn Van Gogh quỳ dưới
chân của đấng siêu nhiên ấy. Cánh cửa tu viện luôn rộng mở nhưng Van Gogh vẫn
làm ngơ trước âm thanh quyến rũ của nhà thờ, lời cầu kinh huyền nhiệm, giọng
thánh thót của tiếng chuông, tất cả chơi vơi, lạc lõng trên con đường chân lý
của tâm linh Van Gogh.
Tuần lễ đầu
tiên đến vùng Borinage xa xôi, hẻo lánh, giam mình trong căn phòng lạnh lẽo
này, Van Gogh ngỡ mình đang rơi trên cầu thăng bằng xuống một dòng sông chảy
xiết và đằng kia, hạ lưu của dòng nước là địa ngục. Chàng hiểu mình đang lao
đầu vào những chuyện rồ dại, trái với khát vọng sống của mình.
Các nhân vật
truyền giáo Tin Lành nhún vai lạnh nhạt khi được báo tin Van Gogh nóng lòng
muốn gặp. Họ miễn cưỡng tiếp chàng và biết rằng chàng không bao giờ trở thành
một mục sư thực thụ được. Van Gogh đứng trên bục giảng đạo thì con chiên của
Chúa không tâm giao được với bề trên, họ cảm thấy cơn buồn ngủ xồng xộc kéo
đến sau những lời nói ồ ồ, thô kệch của Van Gogh. Các nhà truyền giáo tiếp
chàng vì cha chàng là mục sư. Họ đã quá biết chàng. Trước thiện chí và lòng
say mê của Van Gogh, một người trong tim mang cả bầu nhiệt huyết và tràn ngập
tình yêu như muốn bao dung cả nhân loại, họ đành phải chấp nhận. Nhưng bề
ngoài của chàng thiểu não quá. Dáng người kín đáo, rụt rè, ăn nói cộc lốc,
thiếu văn hóa, đôi bàn tay như rạn nứt không giữ yên được lâu một chỗ, mái
tóc ngắn và bộ râu như nhuộm đỏ, cặp mắt có cái nhìn nghi kỵ như một con thú
bị săn đuổi.
Vì thế, Hội
truyền giáo gởi chàng đến Borinage như quăng một gánh nặng, một nơi dù giàu
đức tin cách mấy, bất cứ vị mục sư nào cũng có thể nản lòng. Từ La Haye, Van
Gogh khăn gói lên đường trong tâm trạng hân hoan và một tuần lễ nặng nề trôi
qua đã cướp mất dần nghị lực của chàng.
Đúng là một
địa ngục. Borinage tiêu điều, đầy khói và bụi than, chẳng có ai sinh sống
ngoài đám thợ mỏ và gia đình họ. Trong sự nghèo đói và bần cùng, Van Gogh say
sưa truyền bá thuyết nhân ái và lời ân sủng của Thiên Chúa cho đám người sống
chui rúc dưới lòng đất. Nhưng không ai quan tâm đến lời rao giảng của chàng.
Những lời của Van Gogh không phải là cánh cửa của thiên đường, mọi bày biện
cám dỗ tâm hồn đối với họ đều hoàn toàn vô ích, họ chỉ thích nhấm nháp cà phê
và ăn bánh mì.
Sống với đám
người lao khổ này, Van Gogh cảm thấy sự cô độc đang giày xéo lòng mình. Không
gian chung quanh là một thế giới xa lạ. Chàng muốn xoa dịu những nỗi đau khổ
vật chất của lớp người dưới đáy xã hội ở Borinage, nhưng họ xem chàng như một
anh hề múa rối, một hình nộm phát ra những lời vô nghĩa của mớ triết lý không
có chất liệu từ bánh mì cà phê. Sự thành tâm của Van Gogh được đáp lại bằng
những lời chế ngạo và nụ cười nửa miệng nghi ngờ.
Ánh sáng len
qua kẽ lá rung rinh ngoài cửa sổ, vách tường chìm trong bóng tối, một vệt
nắng chẻ đôi gương mặt Van Gogh, nửa phần dưới quai hàm bạnh ra, răng cắn môi
ứa máu. Một con nhện đu đưa trước mặt chàng, treo lơ lửng trên một sợi tơ
mỏng manh dính với trần nhà. Van Gogh thấy con vật điên khùng kia đang làm
trò xiếc cười cợt sự ngu xuẩn của chàng, nó còn điểm để bấu víu trong không
gian, đong đưa quen thuộc giữa thăng bằng và sự sống; còn Van Gogh, chàng té
ngã giữa niềm tin và sự trống rỗng khủng khiếp. Van Gogh bật ngồi dậy, thổi
phù vào con vật gớm ghiếc đang chứng tỏ khả năng lố bịch kia, con nhện bay
một đường cong rồi vụt trở lại, sợi dây mỏng của nó đứt rồi, loài sâu bọ kia
rơi xuống nền nhà, chạy biến vào gầm giường và lần đầu tiên nó hiểu thế nào
là thế giới xa lạ, tối tăm của loài chuột, gián dưới nền gạch đầy bụi bặm và
mùi ẩm ướt thoang thoảng xà bông, rượu và quần áo cũ.
Ngày hôm sau
quá tuyệt vọng, Van Gogh van xin một người phu mỏ cho chàng biết lối sống
thật của anh ta. Anh ta mỉa mai:
- Lối sống
của chúng tôi ư? Hừ, dưới kia không có ánh sáng mặt trời và cung cách nhàn
tản của giới quý tộc. Chúng tôi làm việc như loài trâu ngựa.
- Tôi xuống
hầm mỏ được không?
- Được.
Hai người
chui xuống hầm mỏ hẹp, vòng vèo khá lâu, sau đó cả hai đến trung tâm khu mỏ,
quang cảnh nơi đây tràn ngập bóng đêm địa ngục và Van Gogh chợt hiểu tại sao
họ gạt ngoài tai lời giảng của chàng.
Van Gogh thấy
từng đám người lem luốc tranh nhau từng cục than trong đất, những đứa trẻ im
lặng chạy như những bóng ma rách rưới, chui rúc như bầy chuột. Tuổi thơ của
chúng bắt đầu từ hầm mỏ và trò chơi duy nhất của chúng là cướp trên tay nhau
những cục than xù xì, những thứ đem đổi được bánh mì loại mạt hạng, khô cứng
và mốc meo.
Van Gogh chảy
nước mắt, chàng thương hại cho kiếp sống cùng cực của họ, lòng thương cảm
chợt phát ra tín hiệu mới lạ, chàng hiểu rằng muốn đem ánh sáng bác ái và đức
tin của Chúa đến giúp họ, chỉ còn cách là phải hòa đồng với cuộc sống của họ.
Chàng trút tất cả đồng lương mục sư ít ỏi của mình cho họ, phân phát hết quần
áo cho những kẻ rách rưới và khiêng chiếc giường ngủ của mình tặng cho những
người đàn bà bệnh hoạn. Cả số tiền dùng để khuếch trương họ đạo, Van Gogh
cũng tặng hết cho người nghèo. Từ đó, thế vào bộ áo nhà tu, Van Gogh khoác
lên bộ đồ của con người hầm mỏ.
Ngày nọ, hàng
trăm tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ hầm than. Van Gogh đang ăn trưa,
chàng tức tốc chạy lại và thấy cửa lò than bị lấp đầy, vùi chôn hàng đống
thây người dưới đó. Chàng cùng với những thợ mỏ còn sống kéo những thân người
trần truồng cháy nám đen từ trong hầm ra, an ủi gia đình kẻ xấu số. Mải đến
tối mịt Van Gogh mới ngưng làm việc, buông mình mệt lả trên đống rơm thay cho
giường. Tử thần cướp đi những người chất phác, hiền lành mà Van Gogh vừa hiểu
được đó là những con người cần thiết nhất cho lời giảng so với đồng loại.
Thiếp lả
trong giấc ngủ mệt nhọc, Van Gogh vẫn còn nghe tiếng kêu bi thảm, âm thanh
văng vẳng từ địa ngục kêu gào sự sống, mắt chàng chứng kiến hàng chục sọ
người trắng hếu, những cánh tay cháy đen, trụi như những thanh củi quơ quào
trong không khí và nét đau khổ tột cùng của những người còn sống.
Một đêm khủng
khiếp trôi qua, giấc mơ của Van Gogh không có Chúa chịu cực hình trên thập tự
giá, không có nhà giảng đạo hay tiếng chuông giáo đường ngân nga mỗi sáng, chỉ
có màu đen của cái chết cháy rụi, màu trắng của sọ người, nhầy nhụa óc và
máu…
Một ngày kia,
hai thanh tra của Hội truyền giáo đến thăm chàng. Họ vô cùng bất mãn khi gặp
một người tóc tai rũ rượi, quần áo rách bươm, sống như một con vật với những
mẩu bánh vụn trong một căn phòng không khác gì chuồng thú. Họ gằn giọng hỏi
chàng đã làm những gì số tiền mà họ gởi đến. Van Gogh cố giải thích cho họ về
nỗi khổ cực, bần cùng của đám phu mỏ. Và chàng đã dùng tiền để thoa bớt nỗi
khổ tinh thần của lũ người dưới địa ngục kia. Hai vị thanh tra sống no
đầy đủ đó, hai con người phục sức sang trọng phớt lờ mọi lời biện minh của
Van Gogh. Họ cảnh cáo :
- Đức tính
thứ nhất của một mục sư là phải làm cho người ta nể trọng. Hình như ông đã
quên điều đó, bộ tịch của kẻ ăn mày như ông khó có thể hướng họ đến với nước
Chúa được.
Van Gogh đứng
phắt dậy, gương mặt dính đầy vệt than đá của chàng bừng nóng, con mắt dưới
vầng trán đẫm mồ hôi và cái đầu óc rối bù bắn ra tia nhìn của loài thú dữ.
Van Gogh lồng lộng quát tháo, hét vào mặt hai sứ giả có gò má trắng bệch,
nưng nức thịt kia :
- Cút
khỏi nơi đây! Chúng mày là phường giả dối, đội lốt tu nhưng lòng không có
chút tình người. Tao không chấp nhận kiểu Thiên Chúa ăn no đầy đủ và y phục
tươm tất của chúng mày.
Chung quanh
biết bao người đói rét, bệnh tật, chúng mày có nhìn thấy không? Xéo ngay,
cút cho khuất mắt tao!
Hai viên thanh
tra sợ hãi lùi ra cửa, họ kinh hoàng trước thái độ và ngôn ngữ của Van Gogh,
địa ngục đã che mờ Chúa Trời trong tâm hồn chàng rồi. Họ đã gởi phúc
trình về giáo hội cấm Van Gogh không cho hành nghề mục sư nữa.
Chỉ có một
người duy nhất thông cảm Van Gogh vào lúc này, đó là Théo, em chàng. Théo rất
đau lòng về kiếp sống đọa đày của anh nhưng chàng không bao giờ trách móc anh
mình, chàng hiểu và cảm phục Van Gogh ngay từ lúc còn nhỏ. Théo biết anh mình
đang đi tìm cái gì giữa cuộc đời trăm giòng trong đục này. Sự bần cùng của Van
Gogh không chỉ là bề ngoài, nó biểu hiện cho sự khánh tận niềm tin cả trong
tâm hồn Van Gogh nữa.
Théo đến tìm
anh ở Borinage. Chàng bước vào căn phòng của Van Gogh, bắt gặp ông anh mình đang
quỳ dưới tượng chúa, khuôn mặt như kẻ đưa ma. Nghe tiếng động Van Gogh chậm
rãi quay lại, không một nét vui nào khi gặp Théo, câu đầu tiên buông khỏi cửa
miệng là một sự chán nản tột độ:
- Sự tuyệt
vọng của nhân loại như một cái giếng không đáy, Théo ạ! Anh không bao giờ
tìm được dưới đó những gì anh muốn.
Théo ngồi im
lặng, lắng nghe. Van Gogh đi tới lui trong phòng, giọng khích động theo từng
cử chỉ quơ tay run rẩy. Chàng trút tất cả nỗi lòng mình cho đứa em thân yêu
từ xa mới đến. Hồi lâu Théo mới đứng dậy:
- Ngày mai,
anh về Hà Lan với em. Ba má sẽ giúp đỡ anh trong lúc ngặt nghèo này. Gia đình
là chỗ dựa cho tâm hồn anh. Không có nơi nào đủ hơi ấm dung dưỡng tinh thần
của người con xa nhà, về với em, anh Vincent, em van anh.
Tình cờ Théo
thấy vài bức tranh nguệch ngoạc, những nét phác thảo của Van Gogh trong góc
phòng bẩn thỉu. Chàng ngạc nhiên thấy dáng dấp đám phu mỏ đang làm việc trong
tranh thật sinh động, những người đàn bà trên bãi than; đám trẻ ngoài đường
phố toát lên không khí sinh hoạt của một vùng hoang dã nghèo nàn. Những hình
ảnh đập vào mắt khiến chàng co thắt trái tim, cảm xúc lạ thường, và trong đầu
Théo lóe lên một tia sáng: biết đâu anh Van Gogh có thể thành công trên con
đường hội họa? Đằng sau những vệt ngoằn ngoèo kia chứa đựng một cái gì lạ
lắm, tình yêu và sự sống âm thầm nhen nhúm trong những con người lao động lam
lũ kia ánh lên một tia chớp của sấm sét, báo hiệu một cơn bão của tư duy nghệ
thuật lạ lùng.
Théo đưa Van
Gogh về nhà cha mẹ ở Hà Lan rồi tức tốc đến Paris, nơi đây chàng có một
chỗ trưng bày và bán tranh. Théo mua ngay lập tức những vật dụng vẽ tranh cần
thiết, gởi về liền cho Van Gogh.
Từ dạo ấy,
Van Gogh tìm được lẽ sống mới. Chàng xách giá vẽ đi khắp các miền đồng bằng
Hà Lan. Nếu trước đây Van Gogh tuyên bố với Théo rằng: "Chúa là một
nghệ sĩ lỗi lạc nhất" thì lúc này chàng cảm thấy cần phải thông báo với
Théo một điều: "Anh yêu hội họa tha thiết và anh nguyện sống chết với
nó".
Van Gogh lang
thang trên bờ sông, dừng lại ngắm một người nông dân làm việc, hoặc ngắm một
người thợ sửa xe trên đường. Chàng vẽ không ngừng tay, nhưng bị hành hạ bởi
một cơn sốt không cưỡng nổi hoặc cái gì đó bên trong thôi thúc, khiến chàng
phải chọn giữa hai cách giải quyết: chết hoặc vẽ.
Đầu đội nón
rơm rộng vành, mình mặc áo da cừu, giá vẽ trên tay, Van Gogh lăng xăng chạy
khắp đồng ruộng, điên cuồng với cảm hứng sáng tạo. Nếu ức chế nó chắc chàng
ngã lăn ra tắt thở vì trái tim không thể chịu đựng được cơn co giật bất
thường. Thấy một cảnh nào gây ấn tượng, dù trời mưa hay nắng, Van Gogh cũng
dừng lại vẽ cho bằng được. Thiên hạ hiếu kỳ nhìn Van Gogh lúc chàng lên cơn
thần hứng, quên hết thực tại, chỉ còn màu sắc, đường nét và hơi thở tràn đầy
sức sống toát ra từ khung vải. Người đời không cảm nhận được chàng là một họa
sĩ. Dáng dấp đó không có vẻ thanh thoát, bay bổng của một nghệ sĩ đang
đắm mình trong nghệ thuật mà là vẻ man dã của một con hổ đang say sưa xé
xác con mồi dưới nanh vuốt nhọn hoắc của mình. Thực ra, Van Gogh
đang chìm đắm, chơi vơi trong khoái lạc sáng tạo, một cảm giác hạnh phúc
khiến chàng say sưa hơn cả lúc giảng kinh trước đám phu mỏ.
Đối với Van
Gogh ý nghĩa của cuộc sống lúc này là sáng tạo, mà sáng tạo thì không có biên
giới và tự thân nó đã có ý nghĩa rất lớn lao. Đại văn hào Pháp Romain
Rolland rất có lý khi cho rằng: "Chỉ có một loại hạnh phúc thôi: đó là sáng tạo. Chỉ người nào sáng tạo người đó mới sống. Số còn lại chỉ là
cái bóng chập chờn trên mặt đất, xa lạ với cuộc sống, Tất cả moị niềm vui
sáng tạo: Tình yêu, thiên tài, hành động, những loại sức mạnh nảy sinh trong
ngọn lửa của một khối lửa chung". Và Van Gogh đang như một ngọn đuốc
sống, hừng hực cháy với ánh sáng mà cả trăm năm sau người đời mới hiểu được
đó là ánh hào quang nghệ thuật của một con người vĩ đại.
Một ngày kia,
khi trở về nhà, ngồi vào bàn ăn, chàng gặp Kay, cô em họ vừa đến với cậu con
trai nhỏ. Ánh mắt của người góa phụ cố che giấu sự buồn bã vì chồng chết
trong một tai nạn bất ngờ. Mái tóc đen óng mượt và cái nhìn sâu thẳm của
người đàn bà gợn một chút sóng lòng trong tâm hồn Van Gogh và chàng ngẫm
nghĩ, phải chăng trước mắt chàng là một người trong tranh? Chàng lơ đãng nói
về chồng của Kay. Vẻ hồn nhiên đến độ tàn nhẫn của chàng khi nhắc về người đã
khuất hơn một năm nay khiến Kay phát khóc.
Cha Van Gogh
bất mãn, trách chàng bất nhã và độc ác, ông nói như giảng kinh giáo đường :
- Thỉnh
thoảng con nên đến giáo đường hơn là cứ đi hoang suốt ngày ngoài đồng.
Van Gogh
ngẩng đầu nhìn cha mình:
- Con
không thích thờ phượng Chúa Trời của những kẻ giả vờ đội lốt nhà tu, trong
khi lòng họ trống rỗng. Đối với con, Chúa Trời ở khắp nơi và người ta có thể
thờ phụng ngài trong khi vẽ cũng như khi đến giáo đường nghe giảng kinh.
Cả gia đình
hốt hoảng trước những lý lẽ phạm thượng của Van Gogh. Ông mục sư
đứng dậy, kéo những đứa trẻ đi nơi khác để chúng khỏi nghe những lời của kẻ
ăn nói bằng giọng của quỷ Sa Tăng, dù đó là con quỷ do vợ ông rút ruột đẻ ra.
Van Gogh vẫn
ngồi bất động, chàng cứ tiếp tục nói, không cần ai nghe. Mọi người bỏ đi hết,
chỉ còn Kay ngồi lại. Nàng lắng nghe nhưng tâm hồn mơ tưởng đâu đâu, hình ảnh
người chồng quá cố lảng vảng trong tâm trí nàng. Những lời nói của Van Gogh
vang động trong căn phòng tịnh mịch, trôi tuột vào hư vô. Người đàn bà trước
mặt chỉ là cái bóng ma dật dờ tiếp nhận sự cuồng điên một cách hững hờ, lạnh
nhạt.
Mấy ngày sau,
Van Gogh cố tránh mặt cha mẹ nhưng mỗi lần gặp Kay, ánh mắt chàng lại sáng
lên tia nhìn trìu mến. Chàng hiểu rằng người đàn bà kia đang lớn dần, đậm đặc
màu sắc luyến ái, định hình trong trái tim chàng. Nàng đã đem lại cho chàng
những tình cảm dạt dào, tự nhiên như khí trời mát dịu của sáng tinh mơ. Van
Gogh xoắn xuýt bên nàng như đứa trẻ và đem khoe nàng những bức tranh chàng vẽ
xong.
Mặc dù không
am tường hội họa nhưng Kay vẫn thích bình phẩm theo cách cảm thụ của một
người góa phụ sống trong xã hội trung lưu, có điều kiện làm quen với nghệ
thuật. Và Van Gogh như một con chiên ngoan đạo, uống từng lời của nàng. Nhưng
tâm tưởng của Kay luôn hướng về quá khứ, nơi mà nàng đã từng sống với người
chồng bạc mệnh. Nàng không thể hiểu rằng chàng họa sĩ đang nuôi một giấc mộng
tình quá lớn, thuần khiết và hoàn hảo như kết tinh từ chất liệu của viên kim
cương.
Một ngày hè
trên cánh đồng tràn ngập ánh nắng, Van Gogh tay cầm cọ sơn, run rẩy trước
cánh đồng lúa vàng rực xa xa với những người nông dân đang lom khom nhổ cỏ.
Chàng xúc động trước thiên nhiên và con người, nhưng hôm nay chàng không thể
phân thân trong nỗi đam mê sáng tạo. Kay đứng kế bên ngắm bức tranh đang lộ
dần những đường nét chính sinh động. Nàng không hiểu rằng Van Gogh cố gắng
kềm chế cơn bão lòng. Bất chợt, Van Gogh quăng cọ sơn xuống lề đường, chàng
quay sang Kay, ôm chầm lấy nàng. Kay giãy giụa xô mạnh chàng ra. Nàng chỉ
thấy ánh mắt yêu thương và giọng lắp bắp van xin của chàng là cử chỉ và hành
động của một kẻ động kinh điên loạn. Kay kinh hoàng chạy lại ôm con mình.
Tưởng mẹ bị ăn hiếp đứa bé khóc thét lên.
Giống như
thói suy nghĩ của giới trung lưu, Kay làm sao có thể hiểu được những cảm xúc
thiêng liêng đang dâng trào trong tâm hồn Van Gogh. Tâm hồn nàng nhỏ nhen
quá. Dưới ánh mắt bình thường, nếu không nói là tầm thường, của xã hội dầy
đặc những định kiến thiếu tình người, Van Gogh trở thành một tên dâm đãng, vũ
phu và ngờ nghệch. Vẻ dại khờ của một trái tim mơ mộng yêu thương khiến những
người thủ cựu hoảng sợ và lo ngại cho danh giá của mình, cho hạnh phúc tương
lai mình. Kay bỏ chạy về nhà Van Gogh, bỏ mặc chàng đứng như trời trồng trong
tâm trạng ngổn ngang trăm mối tơ vò.
Sáng hôm sau,
Kay bồng con về nhà cha mẹ mình. Van Gogh lẽo đẽo theo sau và chàng phải đụng
hàng rào danh giá của gia đình Kay. Cha mẹ nàng nhìn chàng bằng cặp mắt khinh
miệt. Đối với họ Van Gogh là một tên vô lại, một kẻ giang hồ bệnh hoạn, một
loại nửa người nửa ngợm đã làm nhơ bẩn cái kỷ niệm khả kính đối với người
chồng đã mất trong tâm hồn con gái mình. Họ càng kinh tởm khi thấy Van Gogh
chứng tỏ tình yêu bằng một hành động điên rồ. Van Gogh úp lòng bàn tay lên ngọn
lửa của cây nến đặt giữa nhà, gương mặt bình thản, thanh khiết như một thiền
sư đã mặc khải chân lý, không còn nỗi đau về thể xác.
Hành động kỳ
hoặc của Van Gogh thăng hoa thành mặt trời tỏa sáng trong tranh, nhưng lúc
này, mùi thịt người cháy khét làm cả nhà rúng động. Kay ngất xỉu trên tay mẹ
nàng, cha Kay tỏ ra giận dữ hơn là thương xót, cảm thông chàng.
Để chấm dứt
hành động man dại đó, cha nàng nói với Van Gogh rằng Kay ghê tởm chàng. Van
Gogh không nói một lời, chàng lần lượt nhìn từng người, ánh mắt tuyệt vọng
khi thấy Kay kinh hoàng, co rúm thân người trước cái nhìn của chàng. Van Gogh
bỏ đi.
Chàng lấy
chiếc khăn quấn chung quanh bàn tay cháy sém, thất thểu lang thang giữa trưa
hè nắng gắt, bóng chàng cô đơn trên mặt đường, và đằng kia, một quán rượu
đang chờ chàng. Ma đưa lối quỷ dẫn đường, xô dạt Van Gogh vào một cái quán
vắng tanh. Chàng ngồi xuống ghế, lưng dựa vào vách, trước mặt chàng là một
người đàn bà đang úp sấp trên mặt bàn, thỉnh thoảng thân hình giật nảy theo
từng cơn ụa như muốn nôn thốc mọi thứ trong bụng ra.
Trước mặt
người thiếu phụ say mèm kia, lăn lóc những vỏ chai và ly không còn một giọt
rượu. Van Gogh bỗng thèm khát một tình bạn, một sự đồng điệu giữa những kẻ
không thăng bằng. Chàng lê bước đến bàn của người thiếu phụ, đặt ly rượu của
mình trước khuôn mặt vô hồn, đầu tóc rối bù của một hình hài như con ma đói.
Câu chuyện mở đầu của kẻ xa lạ ngắn ngủn, trơ trẽn và khinh bạc:
- Trông em có
vẻ khổ sở quá, sao thế em?
- Cuộc đời …
- Cuộc đời thế
nào…?
- Chó má. Nếu
cần cho anh biết thêm. Tôi phải lao đầu xuống vũng bùn để nuôi một đứa con
hoang. Làm đĩ, nói văn chương hơn là làm nai móng đỏ, hoa gốc cây, làm bò
lạc… ha ha … đời đểu giả, bọn đàn ông khốn nạn… ha ha …
Người đàn bà
ngửa mặt cười vang, nước mắt chảy xuống khuôn mặt phấn son lem luốc. Van Gogh
nốc cạn ly rượu, chàng muốn cười như người đàn bà kia, nhưng mọi cảm giác
chợt lắng xuống trước nỗi khổ của con người. Van Gogh cảm thương số phận bụi
bờ của người thiếu phụ và tự thương hại mình. Định mệnh cay nghiệt đã quất
lên tâm hồn của mỗi kiếp đời những vết hằn độc ác khác nhau, nhưng tất cả đều
là sự bất hạnh.
Đồng cảnh thì
tương lân, người thiếu phụ thấy bàn tay Van Gogh bị thương nên dìu chàng về
nhà để băng bó. Chẳng mấy chốc, Van Gogh cảm thấy khó có thể rời Christine.
Hai người sống với nhau và tiền trong túi Van Gogh bốc hơi nhanh chóng. Nghĩa
tình vẫn tràn đầy, nhưng sự sinh tồn bắt buộc Van Gogh phải đi kiếm việc làm.
Chàng đến thăm Mauve, một người anh bà con. Mauve là một họa sĩ nổi tiếng,
sống dư dật bằng cọ sơn với những hợp đồng khổng lồ. Tranh của Mauve bán đắt
như tôm tươi và giá cả của nó chỉ có giới thượng lưu mới đủ khả năng sờ mó
tới.
Mauve vẽ
tranh giống y như thật, cánh đồng trong tranh sống động như một bức hình chụp
rõ ràng. Mauve tiếp người em họ với vẻ mãn nguyện của kẻ thành đạt bằng tài
năng của mình. Khi Van Gogh đưa tranh của mình cho Mauve xem. Mauve chờ đợi
với tâm lý sẽ thấy nét vẽ ngây ngô của một kẻ nhà quê. Nhưng dưới lớp than
nguệch ngoạc kia, Mauve lại nhận ra dấu hiệu của một thiên tài. Ông không
thích lập dị, nhưng hiểu rằng đứa em họ quái đản của ông sẽ tạo ra những tác
phẩm để đời. Mauve cho Van Gogh vài hộp màu và ít tiền. Mauve khích lệ chàng
nên tiếp tục vẽ tranh và nghiên cứu cách thể hiện tinh tế hơn, nhưng
phải tìm con đường sáng tạo riêng, không trùng lập với những khuynh hướng
nghệ thuật tạo hình trước đấy.
Van Gogh cảm
động, từ giã ông anh họ rồi trở về. Chàng bắt Christine và đứa con của nàng
ngồi làm mẫu cả ngày. Chàng vẽ như một kẻ điên chạy khắp cánh đồng. Chàng ôm
giá vẽ ra đường phố, chạy vào quán rượu. Bất cứ hình ảnh gì tạo được xúc
động, Van Gogh đều muốn ghi cả lên tranh, muốn phơi bày đời sống con người,
thiên nhiên lên mặt vải bằng những mảng màu chắc khỏe, diệu kỳ mà ma quái.
Hình ảnh một
người nông dân ăn khoai xuất hiện trên khung vẽ phải như thế nào? Van Gogh
muốn vẽ bàn tay người đó, chính bàn tay chai sạn kia đã làm ra củ khoai
và giờ đây đang hưởng giây phút hoan lạc do chính sức lao động của mình. Vì ở
đó, chính là đời sống.
Ở mãi một chỗ
cũng sinh nhàm, thỉnh thoảng mối tình đầu tuyệt vọng hiện lên khiến Van Gogh
vô cùng bứt rứt. Chàng muốn đi xa để tìm cảm hứng sáng tạo và quên lãng quá
khứ yêu đương. Van Gogh đến Paris và Toulouse, cuối cùng chàng
dừng chân ở Arles. Và vùng đất này khiến Van Gogh phải thốt lên: "Ôi
mặt trời tươi đẹp, mày làm tao đau đầu, và tao không ngờ người ta trở nên
điên vì mày !". Mặt trời vàng óng, lung linh trên đầu cây ngọn
cỏ là cảm hứng thể hiện trên nhiều bức tranh của Van Gogh.
Thỉnh thoảng
ông anh họ Mauve gửi cho chàng ít tiền và Théo cũng không quên Van Gogh, hàng
tháng chàng nhận được tiền cấp dưỡng của Théo. Phần lớn số tiền Van Gogh dùng
để mua vải và màu nên cuộc sống của chàng và Christine luôn bị cái đói đe
dọa. Những trận cãi vã diễn ra hàng bữa vì đồng tiền cứ thiếu trước hụt sau.
Nhưng Van Gogh chẳng màng đến, mỗi lần chàng cầm cọ sơn là chàng quên hết
những lụy phiền, đời đã có một ý nghĩa khác và lớn hơn nhiều rồi.
Cuộc sống cứ
thế trôi đi. Nhưng Christine và Van Gogh lại va chạm nhau dữ dội vì sự túng
quẫn. Sau một trận cãi vã kịch liệt với Christine, Van Gogh nhận được điện
tín báo tin cha chàng đang bệnh nặng, Van Gogh quyết định trở về nhà.
Christine bồng con tiễn chàng ra nhà ga. Hai người im lặng đi bên nhau, lòng
buồn rười rượi. Chàng bịn rịn chia tay, bồng đứa bé hôn như không muốn rời.
Christine nhìn chàng, nói trong niềm u uất:
- Trở về rồi
anh sẽ không còn gặp em đâu.
Van Gogh chợt
nghe lòng mình lắng xuống. Chàng nhìn nàng không oán ghét, thù hằn và nàng
cũng thế. Trái tim người đàn bà chai sạn hơi hám đàn ông vẫn rất cần một chút
gì đó, một sự le lói của ánh đèn trong đêm thâm u, lạnh lẽo.
Nàng yêu Van
Gogh, một thứ luyến ái thuần túy tinh thần. Nàng hiểu chàng, hiểu cuộc đời
dâu bể với những thăng trầm của nụ cười và nước mắt.
Van Gogh về
đến nhà, đội lên đầu vành khăn tang tiễn người cha khả kính đến nơi an nghỉ
cuối cùng.
Một thời gian
sau, Van Gogh lại xách giá vẽ đi rong ngoài đồng. Những cuộc mộng du man
dã đến chân trời nghệ thuật của Van Gogh không một con chiên ngoan đạo
nào có thể tìm thấy ở nhà thờ. Nhưng tiếng sét mỉa mai, tàn nhẫn của dư luận
lại ập đến với chàng. Người ta tránh Van Gogh như tránh một con quỷ. Cả gia
đình cũng bị vạ lây. Cô vợ sắp cưới của Théo không dám giao thiệp với gia
đình Van Gogh nữa. Théo đau khổ cùng cực, nhưng chàng hiểu người anh đáng
kính của mình, con người "bất bình thường" đó nào có hại ai. Tại
sao người ta quan tâm đến những gì xảy ra chung quanh khi nó không phương hại
đến quyền lợi vật chất hay tinh thần của họ? Một con người trong cộng đồng xã
hội như Van Gogh đã đắm say với nghệ thuật là một cách sống tội lỗi hay sao?
Théo vẫn một lòng tận tụy với anh mình. Nhưng Van Gogh buồn bã ra đi. Lần này
chàng quyết định dấn thân suốt đời trong hội họa, Van Gogh tìm đến các bậc
danh họa nổi tiếng như Picasso, Monet, Gauguin... Tất cả trình bày cho chàng
những lý thuyết riêng trong cách tạo hình của họ. Những nghệ sĩ của trường
phái "ấn tượng" này gây cho Van Gogh quá nhiều hoang mang. Chàng tự
hỏi rằng như thế, họ có quên ghi và quên nhìn cuộc sống trước mắt họ
không?
Suốt mấy đêm
sau đó, Van Gogh thức trắng bên giá vẽ, cố thể hiện những gì chàng nghe các
họa sĩ kia nói. Đôi khi trong giấc ngủ chập chờn nửa đêm, Van Gogh tốc mền
ngồi dậy bởi một tiếng réo gọi trong tiềm thức. Chàng vẽ và suy nghĩ miên
man. Van Gogh gửi thư cho Théo và Théo trả lời rằng:
"Trong
hội họa, anh bắt chước người khác như thế là lầm, nếu anh muốn tìm được nét
độc đáo trong tranh. Cứ nhìn rồi vẽ, đừng lo gì đến ý kiến của người khác".
Thế là Van
Gogh tìm một con đường sáng tạo cho riêng mình. Tranh của chàng được triển
lãm trong phòng tranh của Théo, những hình thể màu sắc mà sau này người ta
gọi là trường phái "dã thú" (Fauvisme) đã gây nên những trận cười
chế nhạo của giới tài tử thời bấy giờ. Họ cho rằng tranh của Van Gogh là sự
nhục mạ cho giới hội họa. Tuy nhiên, vẫn có người can đảm dám trưng bày các
bức tranh quái lạ, mới mẻ và dễ gây mầm phản đối của Van Gogh. Đó là ông Tanguy, một
người mà Van Gogh hy vọng nhiều nhất. Chàng mang một bức tranh đến thăm ông
Tanguy.
Khi chàng
đến, một nhóm họa sĩ đang tranh luận sôi nổi về ý nghĩa đích thực của hội
họa. Van Gogh đưa bức tranh của mình cho đám họa sĩ xem. Lại những lời phê
bình khiến Van Gogh phải chạnh lòng. Ông Tanguy an ủi chàng, còn họa sĩ
Gaugin thì gật gù, chỉ có Gaugin cho là đẹp và khen chàng đã dũng cảm đi con
đường riêng, không chạy theo những thuyết lý mới của đám họa sĩ muốn lên mặt
dạy đời kia. Thế là một tình bạn nảy sinh bất ngờ!.
Van Gogh trở
lại vùng Arles, mướn một căn phòng trọ giá 8 quan. Chàng gởi thơ xin
Théo mua cho chàng "màu xanh tươi, màu xanh của xứ Prusse, tất cả màu
vàng, từ màu da cam đến màu vàng vỏ chanh, màu son và màu trắng kẽm".
Chàng nhận được 50 quan mỗi tuần do Théo gởi. Nhưng con ma vật chất vẫn hành
hạ chàng. Do tiền trợ cấp trút gần hết vào sơn và vải nên Van Gogh phải nhịn
ăn ba ngày trong một tuần. Nhiều lần trong lúc vẽ, Van Gogh xây xẩm mặt mày,
té xỉu vì đói. Nhưng con người kiên trì với nghệ thuật vẫn tiếp tục cuộc hành
trình về đất Thánh. Chàng đi khắp miền Crau, Saintes Maries de la Mer. Dưới
bầu trời miền Bắc, mỗi ngày chàng ra đồng ghi lại trên tranh ánh sáng nhiệm
màu của vầng thái dương. Chàng linh cảm rằng nơi đây có nhiều ánh nắng chói
sáng nhất trên hành tinh này. Cả một sự bùng nổ ánh nắng chói lòa trong
tranh. Nắng trên ngọn cỏ, trên lá, trên hoa, trên nền đường đá, trên mái ngói
đỏ rực, Chàng vẽ mặt trời. Và chính mặt trời cũng say vì ánh sáng của
nó.
Những người
nông dân ở Arles thường thấy Van Gogh vẽ khi màn đêm buông xuống
trên bờ sông Rhône. Trên nón Van Gogh thắp đầy đèn cầy để lấy ánh sáng, chàng
chống lại cơn đói, chống lại cơn buồn ngủ đang kéo mí mắt chàng xuống và chịu
đựng luôn cả sự mệt mỏi do suốt nhiều giờ đứng làm việc liên tục.
Van Gogh làm
việc phát khiếp, nhưng tranh chàng bán chẳng ai mua, cũng chẳng ai buồn để
mắt đến. Một hôm, bà chủ nhà trọ đến đòi tiền nợ, chàng không còn một cắc
dính túi, thế là phải khăn gói ra đi, sống lang thang ở vỉa hè nhà người.
Thời may, lúc Théo gởi tiền đến, Van Gogh gặp một anh phát thư tốt bụng giới
thiệu một căn nhà rộng cho chàng mướn, giá 15 quan mỗi tháng. Căn nhà mới của
Van Gogh chẳng mấy chốc đã trở nên bừa bãi, chàng trở thành một sinh vật sống
say ánh nắng hắt từ bên ngoài cửa sổ vào. Van Gogh say sưa vẽ, khổ hạnh như
một thiền sư, ép xác như một tên tù, hối hả và ray rứt như sợ không có đủ thì
giờ để hoàn thành những gì chàng dự định.
Sự cô độc vẫn
ám ảnh Van Gogh song song với hội họa. Chàng muốn có bạn bè đồng điệu nên mời
những họa sĩ ấn tượng đến nhà chơi và gọi căn nhà mình là "Nhà của các
bạn". Nhưng chỉ có một người đáp lại thiện chí của chàng là Gauguin.
Anh chàng vạm
vỡ và rất to mồm đó hãnh diện và tự tin ở tài mình, với ý nghĩ chế ngự,
Gauguin đến nhà Van Gogh năm 1888. Van Gogh tiếp bạn như tiếp một vị thánh
sống, đưa bạn đi xem phòng tranh của mình. Gauguin cảm thấy buồn cười khi đọc
dòng chữ khắc tay của Van Gogh "Tôi là Đức Chúa Thánh thần, tôi có
tinh thần lành mạnh".
Tối đến, hai
người sánh vai nhau bách bộ trên đường phố Arles và chui vào một quán nhậu,
Gauguin là một kẻ giang hồ lãng tử, đã từng lê gót giày đi khắp xứ, không
ngần ngại trước bất cứ việc gì, kể cả chuyện choảng nhau. Van Gogh tỏ vẻ cảm
phục nhìn dáng nghênh ngang, ngất ngưỡng của Gauguin đi trên phố. Hai kẻ say
đời say tình, chân nam đá chân xiêu trở về nhà, đánh một giấc ngon lành, kỷ
niệm vui cho ngày đầu kết bạn.
Sáng hôm sau
hai người xách giá vẽ ra đồng. Van Gogh để ý xem bạn mình sung sướng thế nào
khi tiếp xúc với thiên nhiên. Nhưng Gauguin tỏ vẻ thờ ơ lãnh đạm. Mặt trời,
cỏ cây, con người lao động chả gây chút hứng thú nào cho anh chàng này.
Gauguin chỉ thích họa những giấc mơ và kỷ niệm của mình. Khi nghe Van Gogh
say mê nói về cảnh lao động, Gauguin bật cười:
- Nếu anh
biết tôi đã làm những gì, nếu anh biết tôi đã từng làm phu bến tàu, nếu anh
đã làm việc nặng nhọc của kiếp ngựa kéo xe, anh sẽ không quý trọng sự làm
việc đến thế.
Van Gogh phản
ứng ngay :
- Tôi không
quý trọng cũng không gớm tởm công việc lao động tay chân. Nhưng tôi muốn ghi
lại sự sống qua hình ảnh đó. Còn những thứ trong tranh của anh, tất cả đều
trống rỗng, nhạt phèo.
Thế là sự cãi
vã bùng lên quyết liệt. Nhưng hai người cố gắng nhường nhịn nhau, chấp nhận
tương đối cá tính và sự suy nghĩ của nhau.
Và một ngày
kia, như một ung nhọt lâu ngày bể miệng phun mủ, Gauguin không thể chịu đựng
cuộc sống địa ngục như thế này nữa, Van gogh cảm phục Daudet, Ziem, Raphael,
Degas thì Gauguin lại nổi khùng.
Ngày nọ, hai
người đang vẽ trên cánh đồng, bỗng một cơn gió thổi ào đến, gió càng lúc càng
dữ dằn hơn, cuốn phăng giá vẽ của Gauguin đi khiến chàng chửi bới om sòm cái
phần đất chết tiệt đó. Trong lúc ấy,Van Gogh say sưa vẽ, ôm chặt giá vẽ chống
lại cơn gió quái ác, chống lại tất cả. Gauguin vùng vằng bỏ về. Van Gogh chỉ
nơi để tiền mà Théo vừa gởi đến cho chàng.
Đến chiều Van
Gogh mới về nhà. Chàng thấy Gauguin đang soạn quần áo xếp vào valise. Van
Gogh van xin Gauguin đừng bỏ mình sống trong cô độc, nhưng Gauguin nhất định
không nghe. Bởi vì mấy ngày trước, mầm mống bất hòa giữa hai người trong quán
"Café de Nuit" đã quá sức chịu đựng rồi. Van Gogh đem khoe với
Gauguin bức tranh vẽ ba cây đèn như những mặt trời. Gauguin chế nhạo đường
nét và ý tưởng của Van Gogh. Thế là cơn điên trỗi dậy, Van Gogh liệng cái ly
đang cầm vào mặt Gauguin.
Gauguin né
đầu tránh và bỏ về nhà. Chiều nay, chàng dứt khoát ra đi bỏ mặc cho Van Gogh
hết lời dịu ngọt. Khi đóng nắp valise lại, Gauguin nghe tiếng động, chàng
ngoái đầu nhìn ra sau. Van Gogh mắt trừng trừng ngầu đỏ, trên tay lăm lăm một
con dao cạo sáng ngời. Hai người nhìn nhau, mắt tóe lửa. Gauguin nghĩ rằng
Van Gogh đang đau buồn vô hạn, vì quá sợ cô đơn nên chàng phản xạ một cách
điên loạn như vậy, Lưỡi dao hạ xuống, những ngón tay cầm dao lỏng ra, một
tiếng cạch khô khan rớt trên nền nhà, Van Gogh úp mặt, chạy vào phòng riêng....
Nhưng trong
phòng Van Gogh vẫn tràn ngập ánh nắng chói chang, vàng rực như đổ lửa. Sức
nóng trong căn phòng hầm hập làm quay cuồng đầu óc Van Gogh. Tia nắng quái ác
xuyên vào mặt, chạy vào trái tim chàng khiến chàng quờ quạng. Cơn sốt đang
hành hạ chàng, cơn điên làm chàng bốc lửa. Đầu chàng như sắp nổ tung ra, ngón
tay cấu lại như không thể ghi được trên tranh cái ma lực ghê gớm của ánh nắng
đang đè bẹp óc chàng. Mắt trừng to, tóc dựng ngược, hình ảnh phản chiếu trong
gương là hiện thân của một con vật quái đản. Để chấm dứt ảo tưởng về cây
thánh giá đã từng hành hạ chàng, để quên tiếng gào của nắng, của lá cây ngoài
vườn, của gió lùa vào căn phòng tịch mịch, Van Gogh tự cắt tay trái của mình,
một đường ngọt sớt và máu phun ra xối xả. Hành động như một cái máy vô hồn vô
cảm, Van Gogh lau khô vành tai, gói lại trong một tờ báo rồi để lên bàn.
Sáng hôm sau
người ta thấy chàng nằm chết giấc trên vũng máu khô bám đầy ruồi. Chàng còn
sống quả là một phép lạ. Cái tin chàng nổi điên xén vành tai loan nhanh như
một vệt dầu trên dòng sông dư luận ớ Arles. Thấy họa sĩ điên xuất hiện,
bọn đầu đường xó chợ cười nhạo ồm lên và lấy đá liệng vào người chàng. Chưa
bao giờ Van Gogh khổ sở, buồn đau như vậy. Chàng trùm hai cánh tay lên đầu
tránh trận mưa đá phủ phàng, chệch choạng bước về nhà, ngã vật xuống chiếc
giường và giờ đây, nỗi cô đơn khiến chàng run rẩy. Hồi lâu, bật người ngồi
dậy, Van Gogh cầm tờ giấy báo có gói vành tai của mình, chàng lảo đảo ra
đường tìm đến nhà một cô gái điếm quen, chàng nói :
- Đây là kỷ
niệm của tôi, em Gaby ạ!
Nắng. Nắng
chói chang trên cành lá, xuyên qua mái nhà thờ, phả từng luồng điện nghiệt
ngã, đâm thẳng vào mặt Van Gogh, khiến chàng thét lên, đầu óc quay cuồng và
cơn điên chợt nổi lên. Van Gogh đập phá bất cứ cái gì xuất hiện trước mặt.
Người ta quay lại, vật ngã Van Gogh xuống lòng đường, trói chàng lại rồi chở
chàng vô nhà thương điên ở Arles.
Hay tin chàng
điên, Gauguin bỏ đi, không hề quay lại và đó là lần cuối cùng của ba tháng
bạn bè mà Van Gogh cứ ngỡ là vĩnh cửu.
Suốt mấy tuần
liền, Van Gogh nằm như một xát chết trong căn phòng dành cho bệnh nhân điên
nặng. Thế giới loài người xa xăm quá. Căn phòng thâm u thỉnh thoảng vang lên
tiếng xích sắt trói tay chân của những người điên. Nắng. Con quỷ ánh sáng lại
ám ảnh chàng. Van Gogh la hét điên cuồng, đầu đập vào vách tường bất tỉnh.
Khi mở mắt ra
Van Gogh cố gắng tìm cách tự chủ, ổn định tinh thần trong sự yên tĩnh. Bên
ngoài khung cửa sổ nhà thương điên, những cành olive, những đám cây mồng gà
rập rờn theo gió, những thảm cỏ xanh mượt tít chân trời đã xoa dịu thần kinh
của Van Gogh.
Người ta trả
tự do cho Van Gogh sau 15 ngày chàng nghiến răng chịu đựng những cơn động
kinh co giật. Nhưng tự do khiến chàng còn đau đớn hơn lúc vật vã trong nhà
thương điên. Khi Van Gogh về nhà, lũ con nít hàng xóm leo lên các nhánh cây
chung quanh nhà chàng, leo qua tường cất tiếng cười chế giễu và ném đá vào
người điên "Cắt vành tai".
Cả thành phố
xua đuổi Van Gogh, 85 chữ ký đề nghị chính quyền bắt giam chàng vì sợ
rằng chàng sẽ gây những hậu quả tai hại khôn lường cho họ. Van Gogh buồn chán
quá. Thế giới loài người ơi! Đâu là trái tim đỏ thắm tình người. Chàng trở
lại nhà thương điên để trốn tránh những tia nhìn ghê tởm.
Nơi đây, Van
Gogh nói với vị bác sĩ khám bệnh cho mình rằng "Tôi đã được học miễn
phí trong một trường đại học bần cùng lớn nhất". Mấy ngày sau, Van
Gogh lẻn vào phòng riêng của vị bác sĩ này, định cắt cổ ông ta nhưng ông ta
may mắn thoát kịp. Khi bình tâm, để tỏ lòng hối hận. Van Gogh tặng ông ta một
bức tranh vẽ chân dung của mình. Nhưng số phận bức tranh cũng đen đúa như
cuộc đời chàng. Vị bác sĩ đem nó che một lỗ hổng trong chuồng gà của ông ta.
Một bà phước
tình cờ thấy chàng vẽ tranh. Nhìn cánh đồng cỏ tràn ngập ánh nắng trong đó,
bà phước hỏi chàng thì chàng trả lời với nụ cười bí ẩn :
- Tranh này
tượng trưng cho cái chết. Nhưng là cái chết thật đẹp. Bà xem đây, tràn ngập
ánh nắng vàng mơ...
Mấy ngày sa,
người ta cho phép chàng ra ngoài vẽ tranh. Vài cơn điên lại đốn ngã chàng.
Sau đó người ta gởi Van Gogh đến bệnh viện của bác sĩ Gachet ở Auvers.
Nơi đây Van
Gogh sáng tạo những bức tranh trác tuyệt của đời chàng. Van Gogh không trở về
căn nhà màu vàng của mình nữa, nơi đã chứng kiến sự nở hoa huyền bí trên bức
tranh "Hoa hướng dương" nổi tiếng của chàng.
Năm tháng
trước đêm Giáng Sinh năm 1888, lúc người bạn Paul Gauguin bỏ đi, Van Gogh đã
đem tất cả sự cô đơn, tuyệt vọng của mình vào bức tranh "Hoa diên vĩ"
bất hủ. Chàng rời bệnh viện và nguyện giam mình trong tu viện Saint- Paul De
Mausol ở Saint- Rémy De Provence.
Van Gogh cho
rằng bức "Hoa diên vĩ" là "chiếc ống thu hồi của bệnh
tình chàng". Bức tranh kỳ dịêu đến nỗi nhà doanh họa Manet ngạc nhiên
thốt lên: "Làm sao mà một con người vào lúc ấy lại có thể yêu hoa và
ánh sáng, lại có thể vẽ được tuyệt vời đến thế, loại người đó có đau khổ đến
thế vậy không? Bức tranh vừa co quắp vừa lóng lánh, trên đó có một vệt trắng
xuất hiện như một niềm hoài vọng về sự yên bình không bao giờ đến, để phá ra
một sức mạnh tương đương với nỗi tuyệt vọng mà Van Gogh khêu gợi".
Sau một lần
chàng lên cơn điên loạn, người ta lại chở chàng đến bệnh viện ở
Auver-sur-Oie. Nơi đây, chàng tự lắng nghe lòng mình. Chàng hiểu khi quá
say mê, khi đặt cả tâm hồn vào bức họa, chàng là một người điên tỉnh táo hơn
cả những người có lý trí bình thường.
Ngày 20 tháng
7 năm 1890, vào lúc trưa nắng gắt, Van Gogh đang vẽ trên cánh đồng. Nhưng
chàng không ngờ cơn động kinh cuối cùng đã xô đẩy định mệnh chàng đến bờ vực
thẳm. Lần này tàn bạo và phũ phàng hơn. Trước mặt Van Gogh là cánh đồng lúa
vàng đã gặt xong, từng bó lúa cột chặt nằm lăn lóc trên nền rơm rạ. Tranh của
chàng rực rỡ màu vàng nắng và màu xanh thẳm dịu dàng của bầu trời. Nhưng bỗng
một đàn quạ đen bay đến, tông vào tranh, bấu vào đầu Van Gogh như báo cho
chàng biết đời chàng không có lối thoát. Đàn quạ bay vọt lên cao. Chàng nhìn
bức tranh màu be bét. Đàn quạ lại bổ xuống, chàng đưa hai cánh tay quờ quạng
xua đuổi chúng rồi ôm lấy đầu. Chợt Van Gogh nhúng cả cây cọ vào màu đen,
quệt từng bệt nhớp nhúa, ghê tởm vào bức tranh như một đàn quạ vần vũ trên
trời xanh lơ. Chàng vẽ liên hồi những vệt đen thẳm. Đàn quạ bổ xuống đầu
chàng, kêu thét rền rĩ những âm thanh chi chít quái dị.
Môi Van Gogh
mím lại rướm máu. Ván bài quyết định đã đến hồi kết thúc. Van Gogh đã hiểu
mình đã thua cuộc đời.
Chàng lao về
gốc cây, móc súng lục trong túi ra, chĩa thẳng vào ngực, một tiếng nổ chát
chúa khô khan vang lên, khiến đàn quạ bay tán loạn. Nắng. Nắng chói chang
chiếu xuống đôi mắt lờ đờ. Máu. Máu thấm ướt đỏ quần áo Van Gogh, trào sôi
trên khuôn ngực phập phồng. Bức tranh "Đàn quạ đen trên đồng lúa vàng"
đã hoàn thành trong cơn hấp hối của Van Gogh.
Khi Théo chạy
đến thì Van Gogh đã ngất lịm. Hai ngày sau chàng thở hắt lần cuối cùng trên
tay đứa em thân yêu của mình, người đàn ông độc nhất biết thương xót chàng.
Kay ơi!
Christine ơi! Gaby ơi! Hỡi những người đàn bà một thời say đắm yêu thương! Ai!? Ai!? Ai!? Người nào nhỏ những giọt nước mắt xuống tâm hồn kẻ suốt đời cô
đơn và tuyệt vọng cùng cực kia?.
(*): Bài này
trích từ YEUVIETNAM.COM, Bản của tác giả gửi.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét