|
1. F. Scott Fitzgerald (1897-1941), nhà văn lớn của Mỹ, đã bị
khủng hoảng thần kinh trong khoảng thời gian 1935-1936, khi đang viết The
Crack up (Điên đầu). Sau khi ông mất, di cảo này do nhà New Directions, New
York ấn hành. Nội dung gồm những đoản văn có tính cách tự thuật với suy nghĩ
qua tình yêu đổ vỡ, cuộc sống bi đát và ám ảnh của những đêm dài ghê rợn, xen
kẻ những câu ngạn ngữ. Các tác phẩm: This Side of Paradise, The Great Gatsby,
Tender Is the Night, The Last Tycoon, đều được phiên dịch qua Pháp ngữ.
Tên: Nguyễn Thị Túy Hồng. Bút hiệu: Túy Hồng. Ngày sinh: 12-10-1938 tại Chí
Long, Phong Điền, Thừa Thiên. Viết văn từ năm 1962 (viết 1 bài rồi nghỉ 2 năm
sau mới viết lại).
Tác phẩm: Thở dài, nhà xuất bản Đời Mới 1965, Kim Anh tái bản 1966; Vết
thương dậy thì, nhà xuất bản Kim Anh 1966; Trong móc mưa hạt huyền, nhà xuất
bản Đồng Nai 1969; Tôi nhìn tôi trên vách, nhà xuất bản Đồng Nai 1970; Mùa hạ
huyền, Văn Khoa 1971; Những sợi sắc không (Giải nhất Văn chương toàn quốc
1970), nhà xuất bản Khai Trí 1971; Biển điên, nhà xuất bản Văn Khoa 1971; Bướm
khuya, nhà xuất bản Đồng Nai 1971.
Đã cộng tác với: Văn Hữu, Bách Khoa, Lập Trường, Văn, Văn Học, Tin Sách, Nghệ
Thuật, Kịch Ảnh, Con Ong, Diều Hâu, Tia Sáng, Độc Lập, Tin Sáng, Thần Phong,
Thời Nay, Đời Nay, Khởi Hành, Tiền Tuyến, Vấn Đề…
Túy Hồng và Những sợi sắc không
… Huế là quê hương tôi, quê hương đang có vô số nhà cửa cần bán rẻ để người
Huế vào Sài Gòn tìm một chỗ ở cuối cùng. Tôi đã ở Huế từ trong bụng mẹ đến
năm thứ 28 của cuộc đời. Huế mang thai tôi, để ra tôi, cho đến khi tôi đi lạc
vào Sài Gòn này. Từ hai năm nay, tôi ở nhà thuê, nói tiếng Bắc, ăn chả giò,
ăn bún riêu, canh chua cá dấm, thịt bò viên, mía ghim và có một người
yêu…
… Bỏ Huế mà đi lòng tôi nhớ trời, nhớ khoảng thiên nhiên. Huế đẹp từ vũng nước
đọng bên đường đến lượng cỏ non Hương Giang, từ cọng rau muống bờ hồ đến cây
phượng già xanh lục… Những đêm mùa đông, những con “ệnh oạng” kê mõm khắc khoải
kêu than từ những ao rau muống… kêu chi mà khỏ mà trầm thống!…
… Cực lòng quá, Huế ơi! Tôi đi… ở với Huế buồn lằm… vào Sài Gòn hoạ may có một
nụ cười, vào Sài Gòn hoạ may có một người yêu!…
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 10-11)
Huế, quê hương của Túy Hồng đã góp mặt vào văn nghệ với truyện ngắn “Thở
dài”, làm bỡ ngỡ nhiều người vì nội dung và lời văn bỏng cháy tình dục. Sự
góp mặt đầu tiên cũng là sự đóng góp vĩnh viễn vào khung trời văn học Việt
Nam một bông hoa lạ và quý. Cô gái xứ Huế, mặc áo tím, che nghiêng nửa mặt
chiếc nón bài thơ, mái tóc huyền bỏ xõa ngang lưng, lê đôi guốc mộc gõ lóc
cóc trên nhịp cầu Tràng Tiền mỗi sớm, gõ mỗi chiều trên ván cầu Bạch Hổ, để
các thi sĩ làm thơ, nó không nằm trong kích thước Tuý Hồng. Tuý Hồng là một
ngọn lửa, là một mũi tên, là lưỡi dao nhọn, là những đột biến giãy giụa, là sự
dấn thân không trả giá, là cuộc sống hôm nay không có nguỵ trang bằng môi cười
e lệ, bằng dáng dấp thẹn thùng, bằng sự mập mờ, che đậy. Huế, kinh đô nhà
Nguyễn với thành quách lâu đài, với lăng tẩm uy nghi, với dòng Hương Giang lững
lờ xuôi mái, với núi Ngự Bình phơ phất chim bay, với bốn mùa thay đổi. Tất cả,
đã tạo nên Huế một sắc thái đặc biệt, nó trầm lắng ưu tư trong quá khứ và nó
vạm vỡ, hùng tráng trong cách mạng.
Túy Hồng được Huế đùm bọc từ thuở ấu thơ tới năm 28 tuổi. Biết bao nhiêu kỷ
niệm giăng mắc đầy ứ tâm hồn. Cái cuộc sống đó, nó không đơn thuần, giản chiết,
mà nó đẩy sâu mỗi số phận vào góc tối của suy tư, đồng thời nó bắt con người
phải phản kháng hay chấp nhận những gì hiện hữu.
Túy Hồng nhớ Huế, thương Huế ở giữa Sài Gòn mưa nắng hai mùa với dòng sống ồn
ào không biết mỏi mệt. Cái cảnh mơ mộng đi sóng đôi trên con đường Phan Chu
Trinh nhìn hoa violette, hay trải hồn theo tiếng hò ngân dài trên mặt nước
sông Hương, không thể có ở đây, ở một hoàn cảnh chụp bắt, lừa lọc, phản trắc
kể cả những khuôn mặt anh em! Nó làm cho cuộc sống gẫy vụn ra từng khúc. Nó
làm bải hoải và chán mỏi đến tận cùng xương tuỷ, nhưng mọi người không thể và
không có cách nào rời xa nó cả. Nó là nguồn sống, là huyết mạch. Nó đưa người
lên, dìm người xuống. Nó là cuộc chơi đầy hứng thú và nguy hiểm.
Túy Hồng kinh qua ba tác phẩm nhỏ: Thở dài, Vết thương dậy thì và Trong mưa
móc hạt huyền để đi vào những tác phẩm bề thế rộng lớn có tính cách quyết định
sự nghiệp văn chương của nhà văn. Tôi nhìn tôi trên vách, tác phẩm dài đầu
tay của Túy Hồng. Trong cuốn sách, tuy nhà văn dùng ngôi thứ nhất, nhưng nguỵ
trang dưới tên Khanh để giữ tính cách riêng của nhân vật, sự thực, nó chính
là một đoạn đời khi giã từ tuổi con gái của tác giả, cũng như Colette viết về
đời mình trong nhiều cuốn sách, với các nhân vật mang tên Claudine hay Renée
chẳng hạn. Vả lại, cái đó không quan hệ. Điều quan hệ là giá trị thực thể của
tác phẩm đối với độc giả cùng những dữ kiện mà nội dung cuốn sách chuyên chở,
có mang lại một kết quả nào về ý thức đời sống có mặt hay không?
Nội dung Tôi nhìn tôi trên vách, viết về đời sống của Khanh, cô gái xứ Huế,
vào Sài Gòn rồi lấy Nghiễm, văn sĩ người Bắc. Trước khi lấy chồng, Khanh làm
nghề cào thuốc ở các phòng mạch. Nghiễm anh trai gì cẩn thận, không muốn
Khanh hành nghề này, sau khi thành hôn, vì một lần vô tình Nghiễm đã chứng kiến
sự chụp bắt, lầm mò của y công vào thân thể cô gái có nhiệm vụ chào hàng.
Nghiễm sống độc thân đến năm gần 40 tuổi mới lấy vợ. Khanh ba mươi mới lấy chồng.
Hai cái già khú đế lấy nhau vì tình yêu để rồi chịu đựng nhau trong nếp sống
thường nhật. Tiền cưới, một phần, do bạn bè của Nghiễm giúp, cộng thêm số tiền
Nghiễm được bạc. Cưới xong, Nghiễm và Khanh chung sống ở một cao ốc giữa Sài
Gòn. Tuy đã lấy vợ, nhưng Nghiễm vẫn uống rượu và rong chơi cùng bạn hữu.
Khanh không quen lối sống nơi đây, nên bảo Nghiễm sang lại phòng về nhà bố mẹ
ở. Bi kịch nội tâm đã đẩy Khanh vào một vùng trời oán hận với kỷ niệm, vì hiện
tại có Nghiễm, có bố mẹ, các em gái và bạn hữu. Tất cả những gì u uẩn nhất,
chua cay nhất đều được Túy Hồng viết với vò xé, đôi khi tàn nhẫn. hình ảnh
Phi híp-pi, Sanh, Ninh và chị Sương, Bích Vân, Bích Khuê v.v… chỉ là những
khuôn mặt phụ được tác giả tạo ra để sử dụng vớn ẩn ý nào đó, nhằm gây nên sự
tình, đẩy nội dung vào môi trường thuận lợi của kỹ thuật dựng truyện. Nhưng
cuối cùng, tác giả vẫn dành cho người đọc sự thoải mái nhẹ nhàng vì chẳng có
gì đáng tiếc. Hạnh phúc vẫn nằm trong tay với chồng con nguyên vẹn.
Những mơ mộng thời con gái mất dần theo thực tế. Lấy chồng đâu phải đùa giỡn
và không cuộc sống nào toàn bích. Những đuổi bắt của thời con gái, chỉ còn là
ảo ảnh do tiềm thức cấu tạo nhằm đánh lừa thực tại. Khi yêu nhau, cái gì cũng
tốt, cái gì cũng đẹp, yêu từ giọng nói yêu đi,
Em nói tiếng Huế cho anh nghe đi. Anh thích nghe tiếng Huế, tiếng Huế mà chửi
nghe cũng hay!…
Nhưng câu nói chỉ để lừa nhau đó thôi, cuộc đời làm cho sự thực lần lần hiện
ra từng mũi nhọn. Những mũi nhọn của đời sống xuyên qua suy tư, đâm lút vào
trí não làm tê liệt thần kinh, làm rã rời hy vọng. Sự chờ đợi và mong mỏi
không còn cho bồn chồn đứt nuối, nó trở thành nỗi hờn ghen, oán hận và ý nghĩ
phũ phàng trong mỗi tưởng tiếc! Tình yêu có đấy, cuộc đời có đấy, ân tình có
đấy, nhưng nó là cái gì vừa tung cao lại giật xuống, vừa cho đi lại lấy về, vừa
xây dựng lại phá đi, vừa thương yêu lại phụ rẫy. Nó là nỗi khốn khó của thực
tế đối chiếu với dự tưởng. Nó không tròn đầy vòng tay mong mỏi. Nó thiếu hụt.
Nó chơi vơi như kẻ không biết bơi bị cuốn vào trận đắm tàu. Tuý Hồng là ngọn
lửa hoả diệm sơn ngất ngất, chứa chấp tận đáy sâu một khối lượng nhiệt khổng
lồ, mỗi lần chuyển động là mỗi lần gieo đớn đau, đổ vỡ và chất phún thạch kia
chảy lan tràn làm chết sững cả một vùng cỏ cây vô tội. Tuý Hồng viết như ném
vào cuộc đời những phũ phàng, như tiếng thét giận dữ để phản kháng lại sự
trói buộc, cái bất toàn của luật lệ xã hội với thân phận đàn bà. Bởi vậy,
ngôn ngữ văn chương của Tuý Hồng nghe sượng sần, chát chúa.
… Em tôi là văn sĩ. Bước chân vào làng văn là đi đời con gái. Bây giờ thử hỏi
một nữ sĩ: Cô đã ngủ với đàn ông lần nào chưa? Thì phải hết sức vô giáo dục,
hết sức trơ trẽn, hết sức giả tạo, ngổ ngáo, trân tráo mới có câu trả lời:
Tôi chưa hề ngủ với đàn ông lần nào!…
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 26)
A, nữ sĩ! A, văn nghệ! Nếu vậy làm nữ sĩ cũng cực nhọc lắm, đâu có dễ dàng.
Cái mảnh hồng nhan với đường con rõ rệt, gồm những tế bào được cấu tạo bởi:
muối khoáng, nước, vôi, sắt, acit v.v… có phải điều quan trọng, có phải một
gìn giữ thiêng liêng cho mỗi nhan sắc? Hay nó chỉ được đánh giá bằng đam mê
nhục thể, bằng ve vuốt môi hôn, bằng thể tích của cặp đùi, của vùng đồi cỏ êm
mướt, với chiếc tử cung và hai buồng trứng, như Tuý Hồng quan niệm? Không, nó
đâu như vậy! Văn nghệ nó là đời sống ở trên đời sống. Nó cung cấp những dữ kiện
để tạo nên đời sống, nó chấp nhận hay phản kháng những gì mà đời sống đẩy tới.
Nó làm cho mỗi số phận vượt thoát thấp hèn, ti tiện. Nó là môti cười dịu ngọt,
nó là giọt đắng tê lưỡi, nó là dòng lệ không bao giờ khô, nó là câu khóc
không thành tiếng. Cái tâm hồn nửa đực, nửa cái, cứ thích xông xáo ở ngoài, cứ
đâm sầm vào xã hội như trâu bạc mất mùa, Tuý Hồng dùng để xác định cương vị của
nữ sĩ hôm nay, chẳng qua chỉ để tỏ bày thái độ, để khẳng định lập trường trước
xã hội mà thôi. Chính thức, cuộc đời cũng như cuộc tình, đối với nữ sĩ vẫn
long lanh màu hổ phách trong đáy ly liên hoan, sóng sánh men rượu ân nghĩa, vẫn
ấm ngọt, vẫn mịn màng như hột bánh nhân duyên.
Túy Hồng viết sắc và nhọn. Sắc như lưỡi dao mới mài, nhọn như mũi dùi mới
giũa. Những dữ kiện vừa cay đắng, vừa mỉa mai, vừa dâm đãng, vừa cao thượng,
vừa yêu thương, vừa ghét bỏ, vừa buồn vừa vui làm người đọc như bị bủa vây
trong một không khí mờ ảo, mù mịt hơi cay, để rồi khóc, để rồi cười, để rồi
nuối tiếc!…
Lấy chồng muộn, Khanh thèm có con nâng niu, phòng mai hậu về già đỡ lo, vì thế,
đêm tân hôn đối với nàng là đêm thư hùng lồng lộn, đêm trống mái dập vùi,
nàng khát khao mong mỏi sau đêm đó, đường kinh sẽ tắt và bụng tròn vo bởi có
đèo thêm mầm sống. Nhưng sáu tháng trôi qua vẫn như tháo chỉ, đan len hoài
công uổng sức! Cũng như Khánh hy vọng, lấy vợ rồi, Nghiễm sẽ bỏ mọi thói hư tật
xấu như uống rượu, rong chơi cả đêm cùng bạn hữu và với các “cô cháu” kêu bằng
“chú” đáng nghi ngờ! Nhưng không được. Nghiễm, nhà văn, nghĩa là ngoài bổn phận
làm chồng. Nghiễm vẫn còn có đời sống riêng, một đời sống phóng túng của loài
ngựa rừng không thích đóng yên, mắc hàm thiếc, che mắt một chiều. Từng đêm
trên cao ốc, khắc khoải mong chồng đi chơi khuya về, làm Khanh chán mỏi. Hơn
nữa, cái chung cư đó còn gây cho nàng những ấn tượng hãi hùng, ghê tởm. Không
khí hắc ám vây quanh toàn vũ nữ ngày đêm lướt thượt lượn lờ. Ái tình thì đánh
ghen, giành giựt với những khuôn mặt tiên nữ lúc hoàng hôn và dạ xoa mỗi bình
minh thức giấc. Nó không thích hợp với Khanh, cô gái Huế có nếp sống trầm
tĩnh, kín đáo, dù trong lòng có nổi loạn yêu thương từng cơn vật vã!…
Sau cùng, Nghiễm đã thua, chiều theo ý Khanh dọn nhà về ở chung với gia đình
bên vợ. Trâm và Thảo, hai cô em lớn của Khanh. Trâm viết văn, làm nữ sĩ đó!
Nghiễm như lạc vào thế giới lạ, cảm thấy cô đơn. Xung quanh được bao phủ bởi
một nếp sống khác, khác hẳn từ lời nói, khác từ miếng ăn, khác từ cử động.
Nghiễm, trước mắt mỗi cô em vợ là con người cẩn thận vô lối đến ti tiện, mở tủ
lạnh cũng khó chịu, rửa chén bát dối cũng không ưng ý, để từ đấy đi vào mâu
thuẫn. Còn Khanh về nhà bố mẹ, cũng chẳng sung sướng gì, nàng trở thành cái
bung xung, một bên chồng, một bên bố mẹ và các em, chao ôi! Các cô em sao ác
ôn làm vậy? Thảo mỉa mai bảo Khanh: Hầu chồng như hầu chúa, cha thì đau lên
đau xuống chẳng pha cho cốc sữa. Trâm chua chát: Cá voi luỵ rồi, nước biển
tha hồ ra sức chào xáo xung động. Còn Nghiễm lại nhăn nhó: Sao Thảo nó chửi
vào mặt anh vậy? Khanh là ung nhọt, là đau đớn có đấy. Phải chứng kiến và làm
nhân chứng bất đắc dĩ cho hạnh phúc khốn khó của riêng mình và chung gia
đình:
… Tôi vùng chạy xuống thang gỗ vào phòng đắp mền nằm co rút. Nước mắt hình
như nóng hơn khi tôi khép hai mi lại. Ướt đẫm cơn khóc câm, tôi hình dung ra
những chuyện tiếp diễn từ buổi sáng đầu tiên tôi về lại nhà cha mẹ: ngày của
Nghiễm không phải là một khối thời gian để trắng mà tràn đầy công việc, chàng
còn bận chuyện liên miên nên giấc ngủ của chàng bao giờ cũng bắt đầu từ nửa
đêm đến tám giờ sáng và từ hai giờ chiều mới được ngủ lại giấc trưa. Cái tủ lạnh
để trong phòng hai vợ chồng. Trong đó là bia, là trái cây, là nước lọc, là
fromage, jambon, pâté, giấc ngủ của chàng bị dựng dậy từ sáu giờ sáng vì tiếng
mở tủ lạnh lách cách của các em tôi vào lấy nước lọc. Chàng nằm trên giường
theo dõi bước đi, bước chạy của từng đứa, cánh tay từng đứa dang ra mở tủ
đóng tủ. Đến ngày thứ sáu cái tủ lạnh mở không ra đóng không vào. Nghiễm bảo:
“Những đứa em gái của cô sao nhiều đàn ông tính, đãng trí, buông thả, dễ dãi,
cẩu thả. Cô phải bảo với chúng là đồ vật cũng có tri giác, đồ vật cũng biết
đau.”
Hai mi mắt tôi bắt đầu đỏ sửa soạn những giọt lệ:
“Vâng, vâng, tôi sẽ không cho chúng thọc tay vào tủ lạnh này nữa.”
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 67)
Chính thức, đồ vật không biết đau, người bỏ tiền ra mua chúng về thì đau thật!
Nghiễm, sống độc thân quá lâu, hơn nữa, từ nhỏ đã phải tự mình lo cho mình,
gây dựng cho mình, do chính mồ hôi và nước mắt của mình mà có chúng, nên sự
giữ gìn là cần thiết đối với Nghiễm. Còn Khanh, vì tự ái nên nàng khổ, Khanh cũng
không quên cám ơn Nghiễm, vì lấy chàng nên nàng mới được ăn nhiều miếng ngon,
mặc nhiều đồ tốt, nhưng Khanh muốn rằng, không phải vì thế mà Nghiễm có quyền
khinh nàng và gia đình mình. Bài học làm vợ đã cho Khanh biết thế nào là nhẫn
nhục. Nhưng trời lại phú cho nàng cái tính tự ái, ưa suy nghĩ nên nàng khổ.
Cái khổ đó, nàng muốn vứt đi như vứt bỏ món đồ phế thải hoặc trả thù cho bõ
ghét, cho bõ tức, tuy vẫn yêu chồng, thương bố mẹ, các em. Nghiễm, đôi khi dưới
mắt nàng, cũng chẳng tốt đẹp gì, bê tha rượu chè, mê rượu hơn mê vợ, và có lần
Nghiễm cho Khanh biết: trước chàng còn hút thuốc phiện nữa kia, bây giờ tu tỉnh
lại rồi đó! Bỏ tám phần mười rồi đó, nhà văn mà! Có lúc Khanh giận quá đã phải
nhờ Trâm viết thành văn hộ mình một dòng: Hạnh phúc đôi khi là một tên cướp
đuổi nàng chạy như chuột. Nhưng đó chỉ do sự mất bình tĩnh trong chốc lát, vì
những gốc râu của Nghiễm day trên môi Khanh vẫn làm nàng tê tái, khoái cảm!…
Cái nếp sống chồng Bắc, vợ Huế, còn làm khổ mỗi người về miếng ăn, thức uống.
Nghiễm thích bún riêu, chả giò, thịt bò xào cần v.v… nhưng gia đình Khanh lại
chỉ ưa cá nục kho, mắm ruốc! Lấy chồng nhà văn lại còn ham đeo hột xoàn, tức
là chọn nhầm cửa. Nhưng đàn bà lạ lắm, hay tự ái vặt, thấy bạn có hột xoàn, tự
nhiên trong lòng nảy sinh mơ ước cho được bằng người. Bích Khuê, một goá phụ
trẻ, bạn của Khanh buôn hột xoàn, hay đánh bài với mấy ông tướng thất nghiệp
qua vài cuộc đảo chính, chỉnh lý. Sự có mặt của Bích Khuê như lời khích động,
lời mời chào vượt thoát. Nghiễm chỉ yêu vợ chứ không yêu gia đình nhà vợ, nên
chàng thường mua lén thức ăn ngon chờ cả nhà đi ngủ, gọi vợ dậy ăn vụng. Sự ước
mong một đứa con của Khanh rồi cũng đến. Nó hành nàng với một cơn đau chết giấc.
Trong cơn mê vì độ nóng, Khanh nhìn thấy viên kim cương Culiman của hoàng gia
Anh, và các trò chơi tình ái qua ba hồi bảy hiệp của đời con gái thăng trầm.
Đứa con Khanh mong, nó đã ra đời: mắt lớn, tai to, tóc rậm, xồm xoàm tiền sử.
Tên nó: Khanh Hiền. Mắt nó đen như satin để sau này lớn lên hớp hồn đàn ông
như mọi cô gái Huế. Cuộc đời Nghiễm, Khanh, thêm đứa con vẫn cứ nằm chình ình
ở căn phòng khách được ông bố vợ xây tường vội vàng ngăn đôi cho cách biệt.
Nghiễm vẫn vậy, uống rượu đều và đi Đêm Màu Hồng. Còn không khí vẫn bị quá khứ
đi về giăng mắc. Những cuộc tình không có chiều dài, nhưng cũng đủ làm nên kỷ
niệm. Dòng sông Hương nước chảy lững lờ xanh biếc, óng ánh ôm nhịp chèo
périssoire dồn dập. Ôi! Dòng nước cứ mỗi năm một lần bị đại dương lấp hiếp lại
ghi dấu mặn nồng làm cả thành phố thiếu nước uống. Nào lăng tẩm, nào cửa biển
Thuận An, nào đèo Vọng Cảnh, nào chùa Thiên Mụ và một hôm nàng thỏ thẻ vào
tai Nghiễm: Anh Nghiễm ạ! Cá voi đực si tình lắm. Ngày xưa có một ông mê em
như cá voi đực, mê kỳ lạ, mê đến mọc mộng ra. Nghiễm: Ừ!… Nghiễm biết rõ quá
khứ của Khanh nhưng đã thuộc về dĩ vãng. Chàng chỉ cần sự trong trắng của
Khanh từ ngày cưới trở đi thôi. Nhưng, làm sao Nghiễm có thể kiềm chế Khanh
không được suy nghĩ, không được đến thăm bạn bè? Bích Khuê đó và Sanh chẳng hạn:
… Tôi đứng lên chào về. Sanh nhìn tôi từ tóc tới chân, mắt chàng êm ái mát
như lụa và ngọt sắt như quýt Hương Cần. Tôi sức nhớ một câu văn tôi đã ghi
vào bìa cuốn vở giảng văn năm đệ nhị: “Đừng nhìn nhau lâu, sợ rồi thương mến
nhau, chỉ cần quen biết thôi, tình đừng nên tìm sâu.” Hồi đó Bích Khuê nói:
“Con Khanh hắn yêu anh Sanh như sanh với sứa!…”
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 119)
Rồi con đường Phan Chu Trinh nằm bên dòng sông An Cựu ghi dấu kỷ niệm tuổi trẻ.
Hôm nay Sanh còn đó, Khanh còn đó, mà xứ Huế thật xa vời. Hình ảnh con Khanh
thằng Sanh điên điên tàng tàng đã bị thời gian khoả lấp vào đổi thay, nay chợt
trong tiềm thức le lói ánh lên màu hạ cũ. Chuyện đến vay tiền Bích Khuê để
mua máy rang ngô, biết đâu chẳng phải cuộc viếng thăm để giải toả kiềm chế:
“Bắt được cô bỏ nhà đi chơi đấy nhé, hết chối, hết cãi.”
“Phải rồi, tôi đi đánh tứ sắc đấy.”
“Này, liều vừa vừa nhé!”
“Anh sao cứ ra tay lớn vào những việc nhỏ.”
“Trước khi đi tôi đã buộc cô ở nhà trông con.”
“Em đi có việc cần.”
“Tôi đã bảo ở nhà, là ở nhà. Cấm không cãi.”
“Ai biết anh khó vậy. Nếu biết anh khó… khó… như vậy… biết vậy thà lấy chồng
Huế cho sướng…”
… Cơn khóc khởi đầu bằng những cái chớp mắt nhỏ, nỗi buồn khởi đầu bằng tiếng
thở dài ẩm ướt, cơn điên khởi đầu bằng những sợi thần kinh hư, tôi thảng thốt
nghĩ rằng tôi đang ở trong một cái ống, mở thoáng hai đầu trông ra cuối trời
mơ ước, cuối trời kỷ niệm. Tôi trông ra và tôi thúc thủ bó tay.
Thảo rướm giọng:
“Lấy chồng đôi khi là một sự lỡ tay.” Trâm ngừng viết ngửng đầu lên khôi
hài:
“Lấy chồng là tự sát…"
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 124-127)
Sự ngỡ ngàng tình cảm làm Khanh thấy nhức buốt trong mỗi ngày giờ, sống trong
kích thước gia đình, nàng tìm phương kinh qua, bằng cách với Nghiễm cho mình
theo học Văn khoa. Khuôn viên đại học đẩy Khanh gặp Phi híp pi. Khuôn mặt
này, tác giả chỉ dùng như một ám ảnh, một buồn phiền, mà nhà văn cần giải toả
ẩn ức trong đáy thẳm tâm linh. Cái cuộc sống do Khanh chủ động hồi con gái
không còn nữa. Nó chỉ như một sợi tơ đứt mỏng manh bay phất phơ theo chiều
gió. Phi như con dã thú, như một tội ác, như sự ghê tởm, như viết sâu Quảng
làm lở lói ý nghĩ của nàng. Nó vuốt má Khanh, cầm tay Khanh và xấu hổ chưa,
nó còn đòi chết trên bụng nàng. Ôi! Cái bụng đam mê có vùng mơ ước! Nỗi đớn
đau chợt tới. Khanh mong vượt thoát ít phút cái lưới của Nghiễm giăng qua
mau, quá dầy lại bị cái lưới cuộc đời ô trọc bao phủ. Phi trân tráo lại nhà
thăm Khanh. Cái mái tóc thời tiền sử của Phi, làm Khanh chợt nghĩ đến thời kỳ
ăn lông ở lỗ, chưa lửa, chưa khói, chưa sắt, chưa vải che thân…
Sự thực, tác giả đã nguyền rủa xã hội Việt Nam trong chiến tranh đau khổ, còn
dung dưỡng những điều quái gở qua vóc dáng Phi đó! Câu chuyện Phi chưa xong,
đến chuyện Ninh, chàng trai xứ Huế quen nhau ngày xửa ngày xưa. Mỗi khi Khanh
gặp lại con trai Huế, như gặp đời sống của mình nên bao giờ nàng cũng vồn vã
quấn quít. Vì thế, nếu có ý nghĩ u ám trong đầu, đó cũng chẳng phải điều lạ.
Các cô em trách Khanh về vấn đề này tuy chẳng thích gì Nghiễm, anh con trai Bắc
kỳ khó tính. Tuy làm gì cứ làm, nghĩ gì cứ nghĩ, Khanh vẫn thương chồng lắm,
… Thương chồng, thương luôn những ly rượu của chồng. Thương chồng, thương cả
chiếc miệng nói nhanh. Thương chồng, thương cả tật rung đùi, thương từ ngón
chân cái, ngón chân út đến sợi tóc sớm bạc trên đỉnh đầu, thương từ đầu gối
thương lên đôi môi lười biếng tạo những chiếc hôn, đôi môi chỉ biết hôn khi
có chuyện cần…
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 241)
Nhưng đôi khi quá giận, Khanh nói lên những lời chua hơn giấm, cay quá ớt,
ngay vào mặt Nghiễm:
"Giết tôi đi, tôi không chấp nhận thứ chồng trâu ngựa đó… Những người bạn
cũ của tôi vẫn có một giá trị, một sức nặng cụ thể cho tôi mến phục. Họ khốn
khổ, họ trong sạch, họ thanh thản, họ uống nước vối chớ không biết uống rượu…
Có lẽ họ tồi hơn anh ở những chỗ đó: họ thức khuya để học bài thi chứ họ
không thức khuya để ngồi ngắm ca sĩ phòng trà…"
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 260)
Lời nói như những mũi kim châm, như từng chiếc lưỡi lê đâm phập vào da thịt rồi
để nguyên đó. Nó dìm xuống vực sâu bao nhiêu ân nghĩa. Nó cắt xén từng sợi
tình vấn vít. Nó thấm. Nó đau. May quá còn chị Sương, một người đàn bà biết
cư xử theo lẽ phải, tuy cũng bắt nạt chồng “một cây”. Chị Sương nói: Có ba thứ
danh dự con Khanh không được chạm đến: danh dự của chồng, danh dự của cha mẹ,
danh dự của tụi em mình chưa có chồng; và chị nói với Thảo, nếu thằng Nghiễm
có lên đây (trên lầu) gây lộn với con Khanh, mình về phe thằng Nghiễm.
Vì uống rượu và làm việc quá nhiều nên Nghiễm khạc ra máu. Khanh lo lắng chạy
đến nhà Bích Khuê xin đơn thuốc gia truyền, gặp Sanh. Sanh trách Khanh, tự
nhiên nhảy vào Sài Gòn lấy Nghiễm làm bao nhiêu thằng hổng cẳng, rồi hắn
buông một câu:
"Tại sao Khanh lại có thể đi kết hôn với Nghiễm nhỉ. Khanh có nhận thấy
là Nghiễm không đáng xách dép cho Khanh không?"
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 273)
Cái anh con trai xứ Huế này thật nhảm. Đã thua cuộc còn làm tàng. Khanh giận,
nhưng câu trả lời của nàng hơi yếu, tự an ủi rằng, không chấp làm gì thằng
con nít điên.
Nghiễm ngã người vào cột đèn sau một bữa chả cá mời vợ, trong lúc chờ taxi về.
Bệnh Nghiễm nặng thực, tưởng chết ngay, Khanh đưa chồng vào nhà thương Chợ Rẫy
một đêm, hôm sau vào Grall, Khanh đang mang bầu đứa con thứ hai. Việc nuôi bệnh
là điều khổ cực. Nghiễm bị chai gan vì rượu. Nghiễm phải kiêng thức ăn đặc,
nên Khanh ăn phần cơm của chàng, trong nhà thương:
Tôi cười buồn miễn cưỡng nhấc chiếc nĩa xúc vài cuống “nui” cho vào miệng.
Qua ba lần nuốt, tôi bỗng cảm thấy đĩa “nui” ngon, tôi gắp miếng sườn sang xé
ăn hết cả, ăn hết đĩa xúp hết khúc bánh mì và sau cùng quả chuối dài. Tôi
quay nhìn Nghiễm ngủ, tôi phát ngán tôi. Chồng đau nặng mình đớp đủ thứ một
cách khoái khẩu như thế này…
(Tôi nhìn tôi trên vách, trang 278-279)
Nghiễm đau nặng lắm, tự nhiên lại rung đùi, đấy là một điềm lành, là dấu hiệu
tha thiết nhất của cuộc sống trước mặt Khanh lúc đó. Thời gian làm Nghiễm
bình phục, nhưng Nghiễm không về nhà, nằm dưỡng bệnh tại một cao ốc do người
bạn tốt cho mượn. Mỗi chiều Khanh đưa cơm và ngủ lại đó. Thời gian này có
“cháu” Bích Vân lại thăm, Khanh ghen. Đi từ cơn ghen, Khanh quan niệm bọn đàn
ông văn nghệ người nào cũng chia cuộc đời mình làm hai: một cho vợ con, một
cho người tình và mỗi người đều có năm bảy lá gan để sẵn sàng đem cho gái.
Còn Khanh, vô tình gặp Ninh, gã nói dối Bích Khuê cần gặp nàng. Khanh theo
Ninh về nhà. Ai ngờ, có Phi híp-pi chờ sẵn, Bích Khuê không thấy. Hai đứa nó
hành hạ nàng, đánh đập nàng, may có Sanh đến cứu. Hình ảnh Sanh lúc nào cũng
lởn vởn bên cạnh đời Khanh. Nó không có đấy mà hiện diện trong mỗi góc sống của
đời nàng. Nó là cõi trời đã mất, một phiến mây đã qua, một vùng tuổi trẻ
nguyên vẹn với giao ước vượt khỏi vòng tay. Quá khứ nhức buốt làm Khanh ngất
ngư trong vũng lầy tâm tưởng. Để cứu vãn kinh tế gia đình vì Nghiễm đau,
Khanh phải đi dạy học, nhưng nàng cũng không quên tìm vui cho riêng mình.
Nàng theo Bích Khuê đi phòng trà, phấn son, giày dép, tóc tai hợp thời trang,
ngồi xem thiên hạ đánh bạc và đi tắm biển với người con trai lạ mặt, tên Thể.
Hắn đã ôm đại nàng giữa sóng biển dào dạt cuốn xô hai thân xác!… Rồi cũng vì
Bích Khuê mà nàng phải nổi nóng cấu xé Phụng vì bị nghi oan ăn cắp chiếc nhẫn
kim cương trong lúc Phụng tắm. Thể có mặt như một bãi phân!
Tất cả những việc trên, tác giả chỉ dùng nhằm đưa nội dung vào “cao độ kỹ thuật”,
nhưng đồng thời cũng để bày tỏ thái độ sống và sự phản tỉnh sau những chuỗi
dài vật vã đam mê, buông thả tâm hồn, thân xác! Ngay cả vấn đề gia đình, Nghiễm
còn đó, ba đứa nhỏ còn đó, bố mẹ và các cô em còn đó, ngày tháng còn đó, trước
mặt. Nhưng hạnh phúc vợ chồng không thể hòa hợp khi mọi chuyện riêng tư còn
được dò xét và phê bình bởi người ngoại cuộc, dù người đó là bố mẹ, chị em. Hạnh
phúc cần được che đậy dưới một dung tích nào đó, kín đáo và riêng biệt. Nó nhỏ
bằng bàn tay hay to bằng cái đình, miễn nó thuộc về mình. Chỉ có mình và nó.
Sau cùng, nhờ trời Nghiễm và Khanh đã có một dung tích để giải toả mọi ám ảnh,
phiền não. Tôi nhìn tôi trên vách hay Tôi nhìn tôi trong hồn, với hình ảnh
quá khứ, hiện tại và còn đó, nỗi cô đơn nguyên vẹn. Những hình bóng nào đấy
in chập chùng trên tấm-vách-đời-tôi như những vết thương không bao giờ kín miệng,
ngày và đêm chỉ làm nhức nhối tâm tư…
Trong hơn bốn trăm trang sách, Túy Hồng đã vẽ nên bao nhiêu hoạt cảnh vui buồn,
với nhiều cay đắng, nhớ thương và giận dỗi. Tuý Hồng viết như bứt ra khỏi hồi
những vướng vít, như cầm lưỡi dao khứa vào da thịt mình, để nhìn từng giọt
máu đỏ hồng chảy nhễ nhại với tiếng cười tự ái. Những vết thương tình ái dù
đã thành sẹo trong tâm hồn, nhưng vẫn là ngứa ngáy khó chịu mỗi lần nghĩ tới.
Cuộc sống dù được trải rộng ra hay thu hẹp lại, lúc nào Tuý Hồng cũng tự mình
bày vẽ, điểm trang cho mình nét đặc biệt, thật đặc biệt, thật riêng rẽ giữa
những nhàm chán đến buồn nôn. Nói đến thân xác, không còn là nói điều cấm kỵ
và những ngón tay ngọ nguậy ái tình cũng chẳng phải lời nói dâm ô, hoặc điều
sỉ nhục. Đối với Túy Hồng, cái khung trời tình ái mà tuổi trẻ tôn thờ, không
đi ra ngoài thú vui nhục thể. Chính nó, mới là tình yêu chân thật. Hỡi tên
gác rừng của văn hào D.H. Lawrence, mi đã bất tử cùng với người đã tạo ra mi
uổng thay, mi đâu có biết!
Từ Tôi nhìn tôi trên vách Túy Hồng đã đi vào Những sợi sắc không với sự đắm
chìm của bao thân phận quay cuồng, vật vã trong lịch sử và cách mạng, ở đấy
tình yêu hiện diện như sự thách đố với đạo đức và định mệnh.
Huế nên thơ và trầm tĩnh? Huế e lệ và kín đáo? Không, Huế trong năm 1963 là
sôi sục căm thù, Huế là mồi lửa thứ nhất, là tiếng gào thứ nhất, là giọt máu
thứ nhất, là cam đảm thứ nhất, là quyết tâm thứ nhất trong phong trào nổi dậy
để xô đổ một chế độ đã 9 năm làm chủ miền Nam nước Việt, khi nó không còn làm
họ hài lòng. Các thanh niên trí thức đã cùng Phật giáo và toàn dân thành phố
Huế nhất tề đứng lên tranh đấu. Một số trí thức bị bắt, bị tra tấn và bị truy
nã. Tiếng súng cách mạng 1/11/1963 thành công. Họ reo hò vui sướng. Nhưng sau
đó, những người cùng chung lưng đấu cật hôm trước lại không cùng nhau nhìn về
một hướng. Một ngã ba sông thành hình. Từ đó là gãy vụn, chia lìa và tình yêu
cũng chỉ được đánh giá qua lý tưởng cách mạng, hoặc bằng sự chụp bứt nhục thể
nếu có hoàn cảnh.
Những khuôn mặt chính: Trương, Lê Hùng, Sinh, Cỏ May, Trầm, quấn chặt lấy
nhau trong không gian xứ Huế, và rất nhiều nhân vật phụ chạy xung quanh họ
như quân đèn cù. Họ yêu nhau, làm khổ nhau, phản bội nhau, nhớ thương nhau,
qua bao nhiêu trạng huống giày vò, qua bao nhiêu bước đi thời đại. Họ tựa vào
cánh tay cách mạng để tạo một lý tưởng. Họ tựa vào tình yêu đều dìm họ xuống
đáy vực của nghi ngờ, phản bội, ích kỷ, giả trá và lợi dụng. Bi kịch đối với
mỗi số phận như những trang đời đen tối, như cơn giông gió thổi từ một vùng
trời phẫn nộ, như một hang sâu chập chờn khua động màu xanh nhợt nhạt của những
bàn tay giơ lên cầu cứu trong nỗi thất vọng!…
Túy Hồng dàn trải cuộc sống trong một kích thước vừa đủ, ở đó tác giả đã góp
mặt, đã say mê, và sống thực cái đời sống con gái từng tham dụ vào trò chơi
cách mạng. Tác phẩm Những sợi sắc không mở đầu bằng 21 kẻ trí thức buộc thành
phần sinh viên, giáo sư, bác sĩ trong đó có 2 cô gái: Cỏ May và Trầm. Trong
những ngày bị giam, một mối tình nhen nhúm giữa Cỏ May và Trương, giáo sư.
Tuy bị mất tự do nhưng 21 “sách” vẫn nô giỡn, yêu đời vì họ tin rằng sự kìm
hãm này chỉ tạm thời. Muỗi cứ đốt, rệp cứ cắn, họ cứ ngâm thơ Đường luật và
đánh cờ tướng. Họ nói giỡn với lời lẽ như vỗ vào mặt nhau mà không sợ mất
lòng:
"Bọn này ăn cơm nguội… đói đàn bà quá nên thấy cô Trầm đẹp vội tán chơi…
ồ ồ nếu cô Trầm không ưng ý thì bọn này quay sang cô Cỏ May. Ối chà… đúng là
một cuộc tán gái nảy lửa, cuộc tán gái sấm sét qua cơn giông là hết, là dứt
tuyệt và mãn tù ra thì ai đi đường nấy. Ờ ờ không biết khi được thả rồi còn
có tán gái được nữa không? E rằng thiên tài bị rỉ sét ăn mòn đi rồi!… – Thôi
đi cha… Khỉ nào lại có thứ khỉ không biết trèo…"
Cỏ May, cô gái vì lý tưởng mà tranh đấu, còn Trầm, viết văn, có mặt cho biết
mùi đời vậy thôi. Trầm, cô gái phiêu lãng, việc đời đối với nàng cái gì cũng
là nhỏ kể cả tình yêu.
Qua một đêm cách mạng, mọi người được trả tự do với sự hoan hô nhiệt liệt của
dân chúng. Những buổi liên hoan được tổ chức liên tiếp. Những người ở tù hôm
trước bây giờ được coi như có thành tích cách mạng. Họ hội thảo, họ ăn uống,
họ cười nói, họ coi cuộc đời và sự thành công hôm nay một phần lớn do họ.
Mối tình của Trương và Cỏ May cũng lớn vui theo cách mạng. Trong khi đó Trầm
vẫn cô đơn, sống theo ý mình, theo cuộc đời đã chọn lựa: nghề viết văn với tự
do tuyệt đối. Trương, giáo sư đại học gia nhập phong trào chống đối chính quyền
lúc đó, vì cảm thấy có bất công trong cách đối xử với Phật giáo và độc tài
trong vấn đề cai trị, nhưng một khi nhiệm vụ đã thi hành xong. Trương muốn trở
lại cương vị cũ. Từ Pháp về, Trương có mang theo vợ đầm tên Laura và một đứa
con. Người vợ không hợp thuỷ thổ nên đã tự ý mang con trở lại Pháp. Trương lo
thủ tục ly dị theo điều kiện của Laura và bắt đầu yêu Cỏ May. Cỏ May, cô gái
Huế lạ lùng vừa yêu tình nhân, vừa yêu lý tưởng, cả hai thứ, nàng muốn phải
cao đẹp ngang nhau. Vì lý do nào đó cần chọn lựa, nàng sẽ nghiêng về lý tưởng.
Tình yêu giữa Trương và Cỏ May đã đi đến lễ hỏi, tuy Cỏ May khổ sở về bài bố
cáo của Trương đăng báo ly dị vợ.
Cách mạng đã thành công, các cuộc hội thảo được tổ chức luôn luôn để gìn giữ
khí thế đấu tranh vì:
Sau cách mạng không phải là một giấc ngủ vùi. Người làm nó không ăn không ngồi
rồi, không nhởn nhơ bay bướm. Chúng ta có hai quả đấm bằng thép để nhiếc bốc
vào bao cát phong kiến, có chiếc lưỡi dài để nhiếc móc vào những phần tử sâu
mọt tai hại, bọn mật vụ cần lao phải ngã ngục. Đó là luật thiên nhiên, luật
đào thải xã hội. Như cây phải trút lá như rắn phải lột xác…
(Những sợi sắc không, trang 18)
Những người trẻ tuổi đi vào cuộc sống như đi vào cuộc sinh sát, như đi vào
căm thù ngàn kiếp! Họ phải phá hết, phải đạp đổ hết những gì họ không ưng. Họ
bắt cuộc sống phải theo mình, mọi người phải theo mình, trong khi chính họ
không cần theo ai cả! Ý thức cách mạng trong họ là cái gì vừa kiêu căng vừa
tàn bạo, một chiều. Chẳng biết có phải thứ độc tài mới chăng? Trương không đồng
ý về đường lối đấu tranh đó, chàng bỏ về, bác sĩ Nghị bỏ về, nhưng Cỏ May ở lại.
Cỏ May nhìn cách mạng như nhìn vào lý tưởng tuyệt đối. Tình yêu giữa Trương
và nàng chỉ có thể nối liền bằng sợi dây cách mạng. Nếu Trương không thích đứng
chung chiến tuyến với anh em nữa, chắc chắn nàng sẽ hy sinh tình yêu! Cỏ May
càng tức giận khi thấy khuôn mặt nham nhở của Phiến và Trầm, những khuôn mặt
không thể phân định rõ ràng lập trường: trông ngoài thì như ngỗng, nhưng
trong chát ngầm như chuối xanh, như sung sống!
Buổi họp tan, Trầm về nhà Cỏ May ăn cơm, nàng được học khôn ở ông Thông, bố Cỏ
May, đang sống theo phương pháp tân dưỡng sinh, gạo lức muối mè:
"Trầm biết không? Sinh ra trên vùng đất nghèo thì phải ăn cơm hẩm, cơm mốc,
phải dễ nuôi, phải cực. Sống là phải cựa quậy, phải ngo ngoe nhúc nhích, phải
vùng vẫy không để ai đấm lưng, lôi bụng mình được, trước phải không ai chèn cổ,
sau phải không có ai ngáng chân. Phương pháp đấu tranh đầu tiên là phải biết
kham khổ hóa cái bao tử, bắt nó phải thắt bóp, bắt nó cam go khổ cực…"
Nhưng trong lúc đó, những đứa con gái ông, không đứa nào chịu khổ cực được hết,
Ngàn, Ngự, Nguyên v.v… vẫn cứ ăn uống theo phương pháp cựu dưỡng sinh, trừ Cỏ
May mỗi tháng hai lần ăn theo bố mẹ. Không những thế, Nguyên còn ham lấy chồng
qua câu nói nửa đùa nửa thật: "Chị Trầm ơi! Biết bao giờ cha mẹ chịu
thương thuyết với cha mẹ em để xin hỏi cưới em cho con trai họ hè?…" Trầm
dạy khôn: "Muốn lấy chồng thì phải tấn công dồn dập, phải xuống đường
liên miên để đón tàu tranh giựt, đừng khư khư núp kín trong nhà đợi người ta
đi hỏi như ôm cây đợi thỏ…"
Trầm, cô gái đã trao đời mình cho một ý hướng, quan niệm rõ ràng về cuộc sống
có mình đang góp hơi thở:
Một đứa con gái viết văn, một ả giang hồ cầm bút, nói một cách hơn cả cộng sản
tam cùng nói, phải theo đến mười ba và hai mươi bốn cái cùng của cuộc đời.
Trước luân lý tôi là đĩ. Sống cuồng nộ bất kham. Sống kích động giành giựt.
Lướt qua ngọn lửa, vọt theo lao, cuốn trong gió lốc, trườn mình trong sấm
sét, hào hển, thở dốc ngất ngư cảm giác…
(Những sợi sắc không, trang 27)
Đối với Trầm, cuộc sống chẳng là cái quái gì cả. Ái tình, cách mạng, lý tưởng
cũng để che đậy sự ti tiện, bẩn thỉu, đê hèn và dâm đãng bên trong! Do vậy,
nàng luôn luôn đùa giỡn, khinh bạc những thứ gì mà xã hội chấp nhận hay đề
cao. Cái thân xác này, nếu có làm ai mơ ước cũng chỉ để giải quyết sự dồn nén
của nhục dục, và tâm hồn, thứ tâm hồn bệnh hoạn luôn luôn đòi hỏi những gì
làm no nê khát vọng. Tuý Hồng đã sòng phẳng trong vấn đề ân oán giang hồ và
tôn trọng luật chơi với một thái độ vô cùng nghĩa hiệp! Cuộc ái ân giữa Hoán
và Trầm cũng nằm trong khuôn khổ đó. Nào xá gì một chút tình đối với anh con
trai nói khoác, cho rằng thiên hạ có bao nhiêu con gái, mình có bấy nhiêu bồ!
Không gã đàn ông nào lừa dối được Trầm cả trừ phi nàng muốn để bị đánh lừa. Sự
lợi dụng thể xác cũng chỉ là điều ích lợi cho cả hai bên, vì nàng đã đánh hơi
thấy sự phản bội cũng như khuôn mặt tình yêu ngụy trang của Hoán, gã chỉ yêu
Trầm từng phần, cái phần hấp dẫn nhất! Tình yêu, hò hẹn, tuyên thệ, kỷ niệm
chỉ là giả dối. Mọi đứa đàn ông đều bước mau và quay mặt khi đã đi sâu vào
thân xác của Trầm. Tình yêu của Hoán trồi sụt như kinh nguyệt con gái. Hoán
đã bao vây tình cảm của Trầm khi nàng làm préceptrice ở gia đình ông Phan,
kèm học cho bé Hải, Hoán là chú bé Hải.
Trầm, nữ sĩ bụi đời, khi thôi kèm học bé Hải, nàng vô Nha Trang kiếm sống.
Nàng cho rằng, đời đã hư, vữa, chua lè rồi, phá luôn! Cái ý tưởng điên cuồng,
rồ dại ấy phát sinh tự đáy lòng chán chường thế cuộc vì thế cuộc chẳng có gì đáng
cho ta gìn giữ. Trầm đã dấn thân vào đam mê đến trân tráo, nàng tự thú: Tôi
bây giờ hôn rất tài, hẹn hò rất tài, đi hoang rất tài, ân ái rất tài… dửng
dưng như một cục sắt nguội, như bất cứ loài khoáng chất nào trong và ngoài vỏ
trái đất. Trầm như vậy đã trở thành một động vật vô tri. Nàng có đó, biết đó,
thấy đó, nhưng không phải là mình!
Cuộc hội thảo lửa trại khai diễn giữa những người đang bị ánh sáng cách mạng
làm lóa mắt, rối loạn thần kinh, với sự có mặt của Lê Hùng, giáo sư trẻ, mới
từ Pháp về, cuồng tín, đầy tham vọng chính trị,
Trương mấy lần dợm đứng lên đều bị Cỏ May níu lại. Cử toạ xôn xao vài tiếng ồn
ào lẻ. Trương hất mạnh bàn tay Cỏ May bước ra ba bước lên tiếng:
"Thưa giáo sư Lê Hùng… như vậy là tôn giáo đã rõ ràng vào cuộc đời và
tôn giáo của chúng ta đã công khai tự đặt mình trước một đối thủ rồi, đã mơ hồ
thấy chân dung kẻ thù rồi… Vậy kẻ thù mà giáo sư đặt ra đó là ai?"
"Thưa giáo sư Trương… tại sao lại nêu vấn đề kẻ thù… tôi xin nhấn mạnh:
độc tài, chia rẽ, đàn áp, bất công… ai đánh ta, ai tiêu diệt ta thì ta phải tự
bảo vệ, tự dàn một thế thủ bằng khí giới bất bạo động mà thôi…"
… Ngôn ngữ giáo sư Hùng thao thao như rồng phun, như một dòng nước cuốn sạch
mọi điều thắc mắc vụn vặt. Những người chất vấn đều lần lượt về chỗ. Trương vẫn
còn đứng, bác sĩ Nghị đủng đỉnh bước ra nhìn thẳng vào mặt chàng:
"Vấn đề đặt ra là tranh đấu, tranh đấu cho có tự do, dân chủ thật sự,
cho giảm bớt chênh lệch giữa người và người trong xã hội… Kẻ thù chúng ta là
ai?… Nó ở trước mặt, nó ở sau lưng, nó ở xa, nó ở gần, nó lảng vảng đây đó.
Giáo sư Trương đã thấy và mọi người đều đã thấy."
"Tôi muốn kêu đích danh, chỉ đúng mặt. Tôn giáo của tôi là Phật giáo, đó
là một sự rõ ràng và khi có người nhân danh tôn giáo tôi để nói có kẻ thù ở
sau lưng, trước mặt, ở xa, ở gần thì tôi muốn biết kẻ thù đó là ai? Đó là một
sự rõ ràng."
Một nữ sinh viên bước ra:
"Thưa thầy, con sẽ kể cho thầy một liên danh: độc tài, áp bức, chia rẽ,
bất công, đàn áp… thầy nghe đủ chưa ạ?"
(Những sợi sắc không, trang 54-55)
Cuộc tranh luận cứ kéo dài, Trương đứng về phe thiểu số sáng suốt vì không muốn
chấp nhận sự tình: một quốc gia trong một quốc gia, một quê hương trong một
quê hương, một chính thể trong một chính thể! Cuộc hội thảo đưa sang vấn đề
chửi trí thức miền Nam bằng những câu thật cay độc;
… Trí thức, các ông đang ngủ hay đang thức, hay ông đang ngáy? Ông đang ăn
hay đang uống? Ông đang tiểu tiện hay ông đang đại tiện? Ông đang hành lạc ở
động phủ nào? Ở cửa động nào? Trên chiếc giường nào? Trên tấm nệm nào? Lưng
ông ngã vào tự do, tay ông chống trên công bằng, đầu ông ngã trên dân chủ,
đùi ông gác lên bác ái. Ông được hưởng đủ hết, hưởng đủ các thứ đó. Bây giờ
nhé, nếu những lũ dân cù đầy chúng tôi tranh đấu reo hò… tức nhiên ông cảm thấy
bị nghe, bị rung động, bị gây huyên náo , bị làm quấy phiền, bị mất an ninh ở
cặp chân hay đôi tay gì đó… tức nhiên ông khoát tay im đi, im đi, bảo đừng có
ồn… câm họng.
(Những sợi sắc không, trang 57)
Đó, đó là cách mạng, là tranh đấu, là bắt mọi người phải chấp nhận, tuân hành
những gì mình nghĩ và nói. Trương đã bị cách mạng đẩy ra khỏi hàng ngũ về
phương diện chính trị, Cỏ May đã đẩy chàng ra khỏi vòng tay tình ái, tuy chỉ
tròn một tháng nữa làm đám cưới. Mấy cô em gái Cỏ May đang hy vọng chị đi lấy
chồng, mình sẽ gặm giò heo, ăn bánh thật nhiều, được may áo mới để đi phù
dâu… phù rể nữa. Một lá thư Cỏ May viết gửi Trương để cắt đứt mối tình, vì đường
lối suy nghĩ của Trương hôm nay không còn thích hợp với nàng. Trương đau đớn
nghĩ đến Laura với ba năm chăn gối đoạn tình và Cỏ May chưa có gì đã mất!
Cỏ May đến tìm Trầm than van: Tau với Trương bỏ nhau rồi, nghỉ rồi, défiancer
rồi, hồi hôn rồi, trả lễ rồi. Tau… bỏ Trương rồi, đá nhau rồi, hết trơn hết
trụi tình nghĩa với nhau rồi!…
Trầm, cô gái khôn ngoan và liều lĩnh. Đối với nàng, chính trị chỉ như sấm
sét… tuy long trời lở đất nhưng chỉ làm cho một thoáng sợ hãi rồi thôi. Trầm
lấy đời mình ra khuyên nhủ bạn, không xong. Nàng đã sống như giống đực, như
Tarzan, đã làm các nhà đạo đức đỏ mặt nhưng rốt cuộc, đời vẫn vậy, chẳng phải
vì mình mà nó chết, chẳng phải vì mình mà nó sống. Đừng có dại, đừng có dại Cỏ
May! Nhưng Trầm quên, tạo hoá đã an bài!…
Trong ngày buồn xa vắng, chợt Sinh đến. Sinh, khuôn mặt yêu thương của Trầm.
Chàng Đại uý này là chiếc cù lao nằm giữa biển lòng nàng. Sự thật, biển lòng
Trầm có nhiều cù lao nhưng cù lao của Sinh lớn và bề thế hơn cả. Sinh yêu Trầm,
muốn đi đến chung đôi. Mối tình của Sinh rất cụ thể, nhưng Trầm vẫn muốn làm
kẻ lãng du rong chơi giữa cuộc đời để hưởng thụ, dù phải trả giá nào đi nữa.
Sinh hỏi nàng, có thể coi chàng như ruột thịt được không? Trầm cười khịt khịt
nói: không được, không được… coi anh như “ngoài da” thôi! Trầm đó! Trong hoàn
cảnh nào nàng cũng ngổ ngáo và không ngần ngại, mỗi khi cần sỉ vả cuộc đời!
Bút pháp của Tuý Hồng vô cùng linh động, viết tự nhiên nhưng thật sâu sắc, vì
nó mang nặng phần đời của nhà văn, nếu không vậy, chẳng còn Tuý Hồng. Trầm đã
yêu, đã dâng hiến thân xác cho nhiều kẻ đàn ông khác như Truyền, Lực, Siêu.
Những bàn tay đàn ông đã trườn đi mải miết trên thân xác nàng để khám phá da
thịt. Nhưng càng yêu thì không được yêu, làm điếm thì không được con. Giờ đây
nàng đã biến thành một vật xúc tác vô cảm, một đồng lầy da thịt vô tri giác!…
Nàng cảm thấy mình mang thứ “đàn ông” trên thể xác đàn bà. Nàng đã bị loài
ong độc và chất nam châm quái ác hút sạch mồ ma đời con gái. Bây giờ nàng chỉ
còn là một cái khuôn đàn bà, có bộ ngực núi và thung lũng, một tử cung thâm u
heo hút cùng hai buồng trứng rườm rà sai quả…
Trầm van xin người yêu - Sinh, hãy ngủ với nàng một đêm, đừng trọn đời!… Tâm
trạng Trầm thật thác loạn, làm điên đầu các nhà luân lý học,
… Sinh liếm môi cười rồi chợt đâm bổ tới nằm nhào ra giường gối đầu lên đùi
Trầm. Sinh ngửa mặt trông chiếc quạt điện một hồi ngắn rồi cầm vạt áo dài đắp
để rúc đầu vào vùng tối âm hai cột thịt đùi người đàn bà. Chàng chợt so sánh
cơn cuồng nộ nhục dục với những viên thuốc trụ sinh. Một bên mặt chàng và một
cái tai chà xát mạnh bạo vào miền dưới của bụng người đàn bà. Vùng khoái cảm
vỡ vụn ra thành từng hạt li ti hòa tan trong huyết quản hai người và cả một
khu vực sung sướng không thể tích vỗ nhẹ lên bờ thân thể và muôn vàng máu nhỏ
run rẩy…
(Những sợi sắc không, trang 86)
Như thế đấy, cuộc đắm say nhục thể được viết ra không chút e dè, ngượng ngập.
Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ để mô tả, để khích động dâm tính trong mỗi cảm
nghĩ. Một vùng trời chợt sáng lên, chợt u tối. Một cơn mê vừa chụp xuống, một
thức tỉnh chợt bàng hoàng. Không ngụy trang, không thèm dối trá, Tuý Hồng đi
vào vùng đất cấm giữa văn chương và thân xác như đi vào nhà mình, đi vào
phương vị đã dành riêng cho mình từ thuở nào, nên có viết, có nói đến nó,
cũng như người khác viết về cái bàn, cái ghế v.v… Thường quá mà, việc gì phải
giấu diếm, úp mở, che đậy? Việc đời thế cả, bốn bức tường đều biết!…
Giáo sư Lê Hùng miên man cùng chính trị, cách mạng và đấu tranh. Vì cực đoan
nên luôn luôn chàng kết tội kẻ khác. Vì kẻ nào làm chính trị cũng phải một cục
bướu đại chảng ở sau lưng. Hôm nay chúng ta phải mổ xẻ, phải vứt đi cái tật
nguyện đó. Giải phẫu bằng cách nào? Bằng cách ra báo, vì bên cạnh chúng ta tờ
Lập Luận (lập trường) đang có sức mạnh bật sơn. Chúng ta cũng cần khí giới để
đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội! Trầm có tham dự cuộc hội thảo.
Nàng không chấp nhận sự có mặt của tờ báo, một cơ quan ngôn luận dùng để sỉ vả
chính quyền và mị dân,
… Đối với tôi, tờ Lập Luận là một võ khí tranh đấu của nhóm người cứu quốc miền
Trung này… Dạ thưa quí vị, tôi xin nói thêm một tiếng nữa: thanh danh, mặt
mũi, tư cách của người cai trị ở đâu mà lại để cho một tờ Lập Luận làm ầm ầm
bừa như thế được… và tại sao cái miệt đấu tranh này lại đi tôn thờ một tờ
báo, lại đi triều bái một thứ chính phủ vợ bé, một thứ chính phủ nàng hầu, một
thứ chính phủ vô hình, vô bóng như vậy được nhỉ? Và cái chính phủ chính thức
bây giờ lại cũng rúm ró sợ sệt cái chính phủ hầu nong Lập Luận…
… Lê Hùng phất cánh tay: Khoan, khoan, tốp tốp cô Trầm… đối với một chính
sách cai trị ngô chẳng ra ngô, khoai chẳng ra khoai như thế này thì chúng ta
không thể câm như lúa được…
… Chúi mũi vào một tờ báo còn hơn nghếch mắt nhìn guồng máy cai trị mình nó
sa đọa. Chúng ta phải nói với Nguyễn Khánh rằng: chúng ta không sống nổi với
cộng sản nhưng miền Nam chưa có ai xứng đáng để chúng tôi tôn thờ…
(Những sợi sắc không, trang 102-103)
Trầm như thế đó, khi đắm chìm vào tình ái, đắm chìm tột độ, nhưng lúc cần đến
thái độ, nàng cũng tỏ ra sẵn sàng chết vì nó. Nàng là thứ độc, thứ dữ. Cỏ May
không thể bắt chước nàng. Ý kiến này của Phiên, gã thanh niên ăn nói ngổ
ngáo, nhưng hiện hữu vô duyên trong tác phẩm. Cỏ May đã khước từ tình yêu với
Trương, đã trả lễ hỏi nhưng trong lòng vẫn nhớ thương. Nàng kêu lên từng tiếng
bi thảm, "Thôi cho anh cả đầu tóc tôi đây, cho anh cả hai lít rưỡi máu trong người
tôi, cho anh bộ xương, cho anh, cho anh… Tình yêu là một cuộc thảm sát. Thôi
thôi không thèm khát nữa, thôi thôi không còn gì nữa. Tôi chỉ còn ba mươi bảy
ký lô. Chao ôi!…"
(Những sợi sắc không, trang 110)
Trầm không lý-tưởng-hoá tình yêu như Cỏ May. Nàng như con sóng đại dương còn
đàn ông là những chiếc thuyền nhỏ bé. Vùng sa mù nào đấy mà Cỏ May đã ômg mặt
khóc oà, thương cho tình yêu chết yểu, đối với Trầm nó chỉ như cười cợt, bông
đùa. Chân lý tình yêu qua Trầm, được điểm danh sống sượng, được treo lơ lửng
trên những hành tinh ân ái. Nó là những bóng ma lặng lờ, câu kinh nhớ lại.
Nàng vẫn là một cái gì, còn một cái gì mà không ai có thể định hình gọi tên
được. Nó luôn luôn dở dang, mãi mãi bắt đầu. Một khung trời nửa cũ, nửa mới.
Một hoạt cảnh nửa thật, nửa giả làm choáng váng những kẻ mê nàng. Chữ trinh
chỉ là tấm màn phong kiến hết sức mỏng manh, hết sức phi lý!
Trương, nhà trí thức vừa bị tình yêu đá cho một cú đau tê, bị cách mạng bạt
tai tím mặt, đến thăm Trầm. Một vóc dáng hư hư thực thực, lượn chập chờn
trong tiềm thức Trầm qua Trương. Con mọt sách vở đã được cuộc đời cho những
bài học, nhưng không vì thế mà nao núng. Trương tìm Trầm như tìm niềm quên,
như tìm sự khuất chìm của thương hận! Một tình yêu mới, nhen nhúm trong tâm hồn
Trương, nhưng còn giữ kín nơi lòng. Cuộc gặp gỡ giữa Trầm và Trương thật phất
phơ, thật ngượng ngùng. Trong khi đó, các em gái Cỏ May cho Trầm biết, Lê
Hùng và Cỏ May đã có những liên hệ. Tác giả thắt thêm một “nút”. Trầm thảng
thốt chợt nghĩ chuyện Trương đến thăm mình và Lê Hùng đi với Cỏ May. Trầm nghi
ngờ, nàng biết tâm tính Cỏ May không hợp với Lê Hùng vì Cỏ May là kẻ đi tìm
tuyệt đối, còn Lê Hùng, kẻ đầu cơ giai đoạn.
Túy Hồng đã kết thúc phần I của tác phẩm Những sợi sắc không với những “nút”
thắt dở dang, với những sự tình vừa sôi động, chầm bập vừa khốn khó. Các số mệnh
còn đương vi hành trên lộ trình chung của tình cảm cũng như lề lối sinh hoạt,
chưa tới mức quyết định tìm phương hướng cho mỗi thân phận. Tuý Hồng, nhà văn
thích lý sự, hình như lý tính là đặc trưng cho phái nữ nên ở đâu, lúc nào có
thể, tác giả không quên tìm về cho mình những trường hợp để cấu tạo lý luận
và dùng nó để đặt vấn đề, trình bày lý do, dù thanh nhã hay sỗ sàng cũng được!
Phần II của cuốn sách được mở đầu bằng sự có mặt của Trầm trong ô vuông thành
phố Sài Gòn, nơi có cuộc sống ồ ạt kinh niên, và có một bầy kên kên văn nghệ
hễ thấy đàn bà là bay lượn dáo dác như muốn cấu xé con mồi. Những cuộc họp mặt
mỗi tối, không phải để thảo luận về đường lối đấu tranh cách mạng hay tìm chiều
hướng sáng tác, mà để ăn, uống rượu và văng tục.
… Những tên đàn ông bỏ bàn ăn sang ngồi xếp bằng tròn ở sa lông nói ra những
chữ tục thật ngon miệng. Chai Johnnie Walker mới uống xong dựng ở góc phòng,
Chúng cúi xuống quẹt que diêm quăng vào trong chai đốt nghịch những giọt rượu
còn sót lại. Trầm có cảm tưởng những câu nói tục của đàn ông đều phóng đúng
tai nàng, nàng cười gằn cắn vào môi điếu Salem thắp tiếp, kéo một cái ghế trống
gác chân lên nhìn Yến Ly gật gật đầu. Lý đi chân vòng kiềng đến trước mặt Thảo
Trang coi người hớn hở: này này bà Thảo Trang ơi… ông Chung ông ấy cứ xoắn
xít bên cô Trầm hoài à… bà phải ghen lên chứ! Nụ cười Thảo Trang nở ròn với vẻ
trắng bóng khả ái của đôi hàm răng đều: ồ trường hợp cô Trầm với những người
đàn ông đây… ai muốn tán cô thì cứ tán… đó là trường hợp một nữ sĩ độc thân.
Nếu tôi không thành hôn với Chung… thì cũng vậy!…
… Yến Ly lắc đầu chỉ tay: nhưng cái bọn văn sĩ đực rựa này chúng nó là một bầy
kên kên… mình lao đầu vào… vào… rồi tâm hồn mình mục rã, rồi xác thịt mình sẽ
rữa ra…
(Những sợi sắc không, trang 130)
Trầm vốn mang trong người nhiều chất đàn ông nên những lời nói tục không làm
nàng thấy ngại, còn cho rằng ngôn ngữ đàn ông phải có tục, cũng như câu văn
phải có chấm, có phẩy… Cái không khí cuồng nộ do rượu và đàn bà tạo nên nhức
nhối, khác hẳn với không khí mà Trầm vừa xa cách nó. Tiệc tàn, Kiệt vì có xe,
nên phải đưa Trầm cùng mấy người bạn về. Nửa đường, hắn tức vì bị lợi dụng
làm tài xế nên dừng xe lại, mở cửa bước xuống, đứng đái vào cột đèn, trước mặt
mọi người. Xong, nhất định không lái xe nữa. Trầm và bốn tên đàn ông phải kêu
taxi.
Vào Sài Gòn Trầm ở nhà Phi và Đào, hai cô gái Huế. Trầm kể lại chuyện Kiệt
đái. Phi chép miệng: đời tau bị đàn ông thay nhau phụ bạc nhưng, chưa lần nào
bị đàn ông đả thương một cách tục tằn như vậy! Rồi chiều hôm sau, Trầm lại sửa
soạn đi ăn chơi. Một tiếng hỏi:
"Trầm, mi lại sửa soạn đi chơi với ai đó?"
"Thằng Chu say."
“Trời ơi! Cái thằng cha hồi hôm đái trước mặt mày đó hả?”
“Không phải, thằng cha này đái trong buồng tắm…”
(Những sợi sắc không, trang 135)
Hoạt cảnh vẫn như hôm trước, chỉ thêm mấy tên cựu Bộ trưởng, cựu Đổng lý thất
thế, gia nhập với tụi làm văn nghệ cho quên đời. Chu, hiện làm giáo sư đại học,
đang tấp tểnh muốn làm Bộ trưởng. Hắn là tên trí thức đón gió, cũng đi chùa lễ
Phật và biết nghe ngóng tình hình. Ở giữa khung cảnh này, Trầm chợt nghĩ đến
Cỏ May và tự ví mình với nàng Kiều: Kiều chỉ vì ngón đàn tưng tưng mà đoạn
trường, mình vì viết lách lăng quăng mà gian truân!
Sau những ngày dài kéo lê trong ăn chơi với mục đích để giải toả câu chuyện
riêng tư. Trầm lại như cánh chim bay về tổ cũ.
Trở lại Huế với một thân, một phận, với chuỗi ngày đều đặn chồng trước mặt.
Trương lại hiện diện trước mặt nàng. Tiếng lòng của Trương âm vang trong tiềm
thức Trầm. Trương đứng đó, trải lớn trên khung cảnh hùng vĩ của tình yêu và bất
ngờ chàng ôm gọn Trầm vào lòng. Nhưng Cỏ May còn đó, không cho phép nàng phản
bội bạn, tuy trong lòng, những ngón tay tình ái đang ve vuốt trái tim căng
máu. Cái khối hạnh phúc đã gần kề, nàng đành phải gạt lệ chối bỏ. Chối bỏ với
nhức buốt tâm can,
Trương và Trầm cùng đứng bên chiếc ghế, Trầm bóp nhẹ bàn tay Trương
nói:
“Cỏ May đi chơi với Lê Hùng thắm thiết lắm rồi, chính miệng mấy con em mắc dịch
của nó tố cáo với tôi.”
Trầm chợt nhận thấy một tạ gạo cũng chưa nặng bằng cái cười nhếch mép của
Trương.
“Thế thì chúng ta đủ sức yêu nhau rồi Trầm nhỉ?…”
(Những sợi sắc không, trang 153)
Tuy không muốn, nhưng Trầm vẫn đi tắm biển Thuận An với Trương. Lúc về, được
thư Cỏ May vứt qua khe cửa. Cái thân thể nặng vì tội lỗi, do chuyện này nặng
thêm chút nữa. Bài học cuối cùng vẫn chưa đến, còn đam mê thì như núi lửa mà
tình dục thì chói chang, luôn luôn đói khát ái ân, như trẻ con ngứa răng bạ
cái gì cũng cắn. Thân thể nàng đã bao lần bị chiếm và tái chiếm, nhưng tình
yêu như loài ma quỷ ẩn hiện chùm lấp mọi suy nghĩ. Cuộc sống trôi đi, cứ trôi
đi với giăng mắc trong những trang sách của Tuý Hồng làm người đọc váng vất.
Nhân vật Trầm là ngoại lệ, là sự phản kháng tích cực đối với trật tự và luân
lý xã hội. Nó là niềm đau xót của cánh chim bị giam hãm, tù túng. Nó là những
dằn vặt của kiếp đàn bà từ lâu bị cầm chân đạo lý. Nhà văn dùng nó như một biểu
tượng giải thoát. Trong khi đó nhân vật Trương, tượng trưng cho sự co rút cuối
cùng của cố gắng, một thứ anh hùng thấm mệt, muốn được ẩn nấp che giấu dưới
máy yêu đương cho lãng quên đời. Trương than thở:
Tường vôi đã vữa, những chiếc đinh đã long, tôi không còn móc nối niềm tin
vào đâu nữa, không còn bấu víu vào đâu nữa. Tất cả đã phai lớp phẩm màu
thiêng liêng, tất cả đã tróc đi lớp nhựa bóng ngời cao đẹp, thánh thiện, hào
quang lập loè đã tắt ngủm, tối đen… không còn gì… không còn gì, tất cả chỉ
còn trơ lại đống lá đa vừa mới quét. Lòng đau quặn thắt từng cơn vì sự phá sản,
sự truất phế siêu hình, nên bây giờ, tôi một mình tiếp xúc với đấng chí tôn của
tôi không qua một trung gian nào cả…
(Những sợi sắc không, trang 163-164)
Sự tranh đấu đã làm Trương chán ngấy, vì những kẻ chống áp bức hôm qua, hôm
nay lại thi hành áp bức đối với người khác khi họ ở thế mạnh. Vì nhìn rõ cái
trục của sự việc, nên sự việc đối với Trương chỉ như trò giả dối, họ lợi dụng
số đông để mưu đồ tư lợi. Trương yêu Trầm cũng không ngoài mục đích tìm quên.
Nhưng Cỏ May luôn luôn vẫn là ám ảnh, khổ não. Hằng đêm, những cái tên đàn bà
thân yêu vẫn vang vọng trong tâm não. Trương cảm thấy mình bị giày vò đến khốn
khổ về cả hai khía cạnh: tình yêu và cuộc sống. Giữa lúc ấy, đột nhiên vóc
dáng Khả hiện ra trong đêm mưa gió. Trương tưởng kẻ gian, vội thủ thế bằng
cây súng, khi nhận ra bạn chàng rắn giọng trách, đã say rượu còn đi mưa! Khả
hỏi, còn rượu không? Còn chai rượu chát. Khả tu một hơi rượu ừng ực hỏi, con
Trầm làm nghề gì? Viết văn, một nghề không vốn. Uống đã, Khả lên tiếng:
“Tôi nghi chị cậu với người ta thật nên tôi mới ra làm lớn được ba
tháng.”
Trương giữ thân thể không nhúc nhích mắt nhắm tít, đầu gối chàng ngứa ngáy,
chàng cũng không buồn đưa tay gãi. Khả nằm ngửa lập lại:
“Tôi nghĩ thiên hạ đồn đúng, chị cậu ngủ với người ta nên tôi mới nhảy ra
chính trường được ba tháng!”
Trương đã ngủ tự lúc nào…
(Những sợi sắc không, trang 171)
Tuý Hồng viết không những chanh chua còn độc ác. Mỗi chữ như cục đá, do bàn
tay búp măng trắng trẻo, nõn nà, ném vùn vụt vào mặt đối tượng như để trút hết
căm hờn, giận dỗi. Những lời Trương tự sỉ vả mình, chính thức, do Tuý Hồng
nói: Im, im đi những thù hận dài! Trí thức đểu, trí thức gàn, trí thức lèo lá
hàng chợ… Lý với luận… mình chỉ là hạng trí thức tôm cá… Lý với luận! Hơn nữa,
tác giả còn dùng những từ ngữ nghe chả êm tai chút nào như “trí thức gián”,
“trí thức chuột” mà cũng nhân danh chiến tranh để tuyên bố chúng ta thân cộng.
Người trí thức chân chính, khi đọc đến dòng này, chắc bực mình không ít, cũng
như Trương bị câu nói của Khả làm bấn loạn tâm trí. Chàng tự hỏi: Ai là kẻ
đáng cho chị Minh ngủ với nhỉ? Ông Việt cộng? Ông Mỹ? Ông Cần Lao?… Vì chị
Minh lộng lẫy oai phong đứng trên đỉnh đầu cuộc đời. Tấm nhan sắc ấy, cái trí
tuệ ấy như một uy thế, không trí thức nào địch nổi. Trương càng lúc càng chán
nản. Thời cuộc như thế, tình yêu như thế, nên cuối cùng chàng trở thành thứ
anh hùng thấm mệt! Chàng hô hào anh em sinh viên, những người cùng cảnh ngộ:
lập bang hội không làm gì hết, mở quán cà phê nho nhỏ để đấu láo và đọc sách.
Ý tưởng tiêu cực đã làm băng hoại cả nguồn sinh lực, đáng lẽ cần đóng góp vào
công tác xã hội để xây dựng ngày mai, manh nha trong tâm trí một số đông trí
thức miền Trung vì họ đã nhìn rõ “cái thế” của một quốc gia nhược tiểu trong
vấn đề lớn quốc tế.
Sinh, chiếc cù lao lớn trong biển lòng Trầm lại có mặt lúc đó. Một thoáng hờn
ghen chạy dài trong cái nhìn, câu nói:
Sinh bực dọc bỏ đứng lên đi những bước nặng:
“Lúc này nghe người ta nói Trầm còn luyến ái cả Trương nữa.”
Trầm cúi nhìn xuống đất:
“Anh kê tai nghe thiên hạ nói xấu tôi… Phải, tôi với Trương có lẽ mới bắt đầu
vào cuộc.”
Sinh đứng thẳng ở bức tường ngậm thuốc, im tiếng. Trầm mỏi mệt lắc đầu:
“Mà có lẽ cũng đang phá cuộc… tôi với Trương…”
Miệng Sinh cười rộng:
“Tình yêu của Trầm là trò hề trong gánh xiếc.”
“Đúng em là bò lạc, em là ngựa hoang chưa về chuồng.”
Hai lông mày của Sinh nhăn lại gần nhau:
“Em dễ dàng ngủ với bất cứ một ai… Tại sao thế nhỉ? Trong khi em đâu phải…”
Trầm đưa tay lên gãi gáy:
“Cho phép anh mệnh danh em là đĩ. Đĩ tinh thần hay đĩ vật chất cũng là một,
đĩ óc não rồi lây qua đĩ thể xác… cũng thế.”
(Những sợi sắc không, trang 184-185)
Sinh yêu Trầm thực, gã quân nhân đa tình này luôn luôn mở rộng hai cánh tay
cao thượng đùm bọc lấy nàng như đùm bọc chính bản thân. Còn Trầm, như cánh thiêu
thân không xa vời vùng ánh sáng đam mê của tuổi trẻ, dù tuổi trẻ được trả giá
bằng muôn vạn đắng cay cả tâm hồn lẫn thể xác. Sinh đã nói, đã nghĩ, đã
khuyên nhủ Trầm, đã bày tỏ hết sức mình những gì chân thành nhất, của đứa con
trai đối với đứa con gái như Trầm,
Hối hận đi em, ăn năn đi em, tổn thương lòng tự ái đi em, mắc cỡ đi em, xấu hổ
đi em, ê chề đi em, và hãy nghĩ rằng tình yêu phải có luân thường đạo lý, bớt
đa tình, đừng đa dâm. Đàn bà trong cái xã hội này vẫn còn ngoan lắm, hư hỏng
như em là một số rất ít. Em cũng nên tự vớt em ra khỏi dòng sông tình dục vì
em không cho anh vớt, em hãy tự xuống đỉnh nhọn mê hoang vì em không cho anh
đỡ em… Xã hội có làm gì em đâu mà em phá phách tạo phản…
… Trầm xô Sinh ra nói lớn: “Anh Sinh, thả cửa cho anh chửi em đó. Em chứ đâu
phải ai. Không câu chấp, không nề hà, can đảm đến liều mạng, tự tin đến dửng
dưng, bất cần thiên hạ, bất cần vũ trụ…”
(Những sợi sắc không, trang 191-192)
Tình yêu không cần lẽ phải, chẳng biết câu nói đó của danh nhân nào, nhưng thật
thích hợp với Trầm, cô gái viết văn liều mạng, chỉ tuân theo những gì mình
nghĩ, bỏ mặc lẽ phải phía sau. Những khuôn mặt người tình số một, số hai, số
ba, số bốn v.v… đối với nàng chỉ là con số, con số vô nghĩa đi đôi với sự cọ
xát da thịt. Phút cảm khoái qua rồi là hết, nàng chỉ cần tắm rửa một lát, mọi
ân nghĩa đều theo dòng nước bẩn trôi xuống cống.
Nhưng có đích thực như vậy không? Trầm có hoàn toàn vô luân, dâm đãng như lời
nàng tỏ bày không? Trong đêm dài, một mình đối bóng. Trầm tính sổ đời mình. Mỗi
số phận Thượng đế đều ban cho một khoảng để sống và một khoảng để chết. Trong
một thoáng. Trầm đã có ý định cầm lưỡi dao cạo cứa một nhát lên gân tay, để
cho những giọt máu quí báu – bao nhiêu công dinh dưỡng – chảy vọt ra ngoài
không khí và nhiễm từ từ đi vào giấc ngủ lãng quên đời! Chưa được, Trầm vẫn
ham sống vì đời đang xinh, đang đẹp, đang được tô lục, chuốt hống trong môi
hôn, với ma xát thịt da gợi cảm…
Những lời nói chua chát của Sinh chưa có thì giờ ra khỏi trí não Trầm, thì Cỏ
May lại lừng lững đối diện,
Cỏ May cười nức nở:
“Trầm ơi! Mi và anh Trương yêu nhau!…”
Tiếng nói vỡ oà cho bao nhiêu nước mắt cùng đổ lã chã. Nỗi sợ hãi ụp đến một
cách thần tốc. Trầm không kịp run, Trầm không kịp tái mặt, Trầm không kịp hé
miệng, Trầm đứng khựng như một cột trụ thẳng.
Hồi lâu Cỏ May nhếch môi chua chát:
“Tau không ngờ, cho đến bây giờ tau vẫn không ngờ…”
“… Lạy Trời không phải mi và Trương yêu nhau. Tau ngờ bậy và thiên hạ ác miệng
đồn bậy. Trầm ơi! Mi hãy chính thức minh xác với tau là mi và Trương không
yêu nhau đi. Tau đến đây để nghe một lời minh xác, mi nên nói một lời cải
chính đi. Tau tin mi chứ tau không tin ai hết. Mi không bao giờ nói láo với
tau hết!”
(Những sợi sắc không, trang 198)
Trầm choáng váng, im lặng làm Cỏ May càng tin rằng họ yêu nhau thiệt. Cỏ May
rời bỏ Trương, trả lễ hỏi hôm trước vì bị ánh sáng cách mạng làm đui mù,
nhưng sau những ngày đụng chạm với Lê Hùng, với thực tế, nàng đã hiểu rằng,
tình yêu không như cách mạng, trái tim có lý lẽ của nó, lý trí không hiểu được.
Đau thay, hai khuôn mặt bạn bè, hai vóc dáng con gái đang hầm hè nhau vì một
con mồi. Họ cùng chung một cơn khóc và không cùng chung một cơn cười!…
Trầm hăm hở đi rượt bắt mộng tình đến quên cả tuổi già, quên đời con gái,
quên cái nhòm độc địa của người đời, quên dư luận tanh nồng khê khét. Nhưng
nàng vẫn tỉnh táo để nhận định, Trương thương Cỏ May là đi vào tình yêu trường
cửu, còn hắn thương Trầm là để chờ cơ hội tụt quần nàng. Sau cùng, nàng xác
nhận với Cỏ May giữa hai người chưa có gì hết, ngoài việc lợi dụng nhau chút
đỉnh gọi là!… Trong nhà tù, Trầm, kẻ bại trận, ra ngoài đời, Trầm lại thắng Cỏ
May, nó là cái vòng luẩn quẩn thật thê thảm do hoàn cảnh cấu tạo. Cỏ May yên
tâm ra về với hớn hỏ trong lòng vì mình vẫn là kẻ được cuộc. Trầm cảm thấy tự
nhiên trở thành gỗ đá. Giữa lúc ấy, Trương hiện ra để gánh chịu những lời sỉ
vả đắng cay:
… Trương bước vô. Trầm ngồi xuống ghế chống tay lên bàn:
“Đồ chồn! Anh là một con chồn! Đồ đầu người đuôi cáo… Đồ đểu! Đồ làm cho con
người ta hoá đá!”
(Những sợi sắc không, trang 207)
Trương có mặt như tội nhân, như chiếc bia để Trầm ném mọi ngôn ngữ sỗ sàng
vào mặt, không hối tiếc. Cơn bão táp qua đi, Trầm nói với Trương để tự nguyền
rủa,
“Tôi vô luân quá, anh Trương hí!… Đàn bà lấy một chồng mới không vô luân, đàn
bà lấy hai chồng là đã hơi hơi vô luân rồi. Tôi bao nhiêu chồng. Trên thân thể
tôi là cả trăm thằng đàn ông. Những thằng đàn ông lượn quanh thân thể tôi rồi
đáp xuống trúng ngay mục tiêu như kim chích vô thịt. Kim chích vô thịt thì
đau. Thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời. Tôi vào buồng tắm, tôi dội nước,
tôi rửa là hết liền…”
(Những sợi sắc không, trang 211)
Túy Hồng đó. Cái văn phong của Tuý Hồng rất sượng sần, tê điến. Nó cứng và
sáng chói như kim cương đồng thời cũng khô ran và khó nuốt như đá cuội. Tuý Hồng
không đi tìm cái tầm thường, cái chung chung. Nhà văn muốn rướn cao trên đỉnh
đầu của ý tưởng, của ngôn ngữ. Các nhà đạo đức hãy nhắm mắt lại, hoặc xé những
trang sách đó đi, vì nó đã phỉ nhổ vào luân lý và đạo đức. Nhưng nó là Tuý Hồng.
Nó là chứng tích của thời đại. Và cái lũ kên kên đàn ông, đối với nhà văn
luôn luôn như lũ đểu cáng, ba que, xỏ lá, thoả mãn rồi sẽ bay tít mù khơi!… Ở
chương kết của Những sợi sắc không, nhà văn giải quyết vấn đề trong khung cảnh
man rợ, thanh toán nhau để bao trùm ảnh hưởng và uy thế. Hình ảnh giáo sư
Bình, đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng bị bắt mang ra hành hạ sỉ nhục, phải
chăng là một vết nứt rộng lớn trong ý thức của con người quốc gia? Người đọc
rùng mình, ghê tởm sự cuồng tín, u mê của lớp người đã nhân danh cách mạng để
đối xử với những anh em cũng yêu nước, nhưng không đứng chung chiến tuyến:
“Ai dám rêu rao câu nói: Rượt Mỹ về nước tức là cõng Việt cộng vô nhà?”
Một người đàn ông mũi bự từ vòng vây thứ hai xông lên nói:
“Quốc dân đang xả xấu. Mày là đảng viên Quốc dân Đảng chó chết.”
Tức thì mấy cái miệng cùng hô:
“Đả đảo Việt Nam Quốc dân Đảng.”
Xẹt một cái, người đàn ông ở vòng vây thứ nhất lê loi một cú vào quai hàm
giáo sư Bình rồi trở về chỗ cũ. Hai người ở vòng vây thứ ba lẹ tới đấm đá vào
lưng, vào sườn non ông Bình, rồi giẫm chân lên ngực, giẫm chân lên bụng. Nạn
nhân trợn mắt, thè lưỡi… Ông Bình nằm mềm nhão trên nền gạch cố rướn lớn giọng:
“Tôi không phục các anh, các anh thanh toán tôi, các anh độc tài hơn cả cái
chính phủ các anh đang đả đảo. Các anh tranh đấu cho tự do, thế thì tự do của
tôi đâu? Tự do ngôn luận của tôi đâu? Trong lúc các anh tranh đấu cho tự do,
tôi mới biết tự do không có…”
… Ở tại nơi đây, người ta đã nhân danh tôn giáo để tranh đấu cho người, cho
có một xã hội chủ nghĩa. Bởi, người ta đã nhân danh tôn giáo để làm việc, nên
tôi có quyền phản đối, có quyền không phục cái việc làm của tôn giáo. Khi tôi
phản đối tôn giáo, tôi vẫn là người Việt Nam, là quốc gia văn minh.
… Tôi phản đối cả chính sách của Mỹ tại quê hương tôi, tôi phản đối cả toàn
dân nước Mỹ, tôi phản đối ông Tổng thống Mỹ, Quốc hội Mỹ. Nhưng tôi không phản
đối một người Mỹ trên quê hương tôi, vì người ấy cũng là nạn nhân của chính
sách Mỹ như tôi, người ấy qua quê hương tôi để chết cho chiến tranh của tôi
và chiến tranh của người ấy…
(Những sợi sắc không, trang 218-219)
Cái cảnh tra tấn này giống hệt như cảnh đấu tố tại miền Bắc. Cũng không khí ấy,
cái không khí của máu và oán cừu! Trương cũng bị đội quyết tử đến thanh toán.
Trương cùng cái quán cà phê vẫn đi theo ngày tháng buồn tênh. Tiếng loa phóng
thanh dội vào tai chàng từng nhịp điệu hò hét phẫn nộ, hô hào đòi chính quyền
phải trả tự do cho tăng ni ở Quảng Ngãi. Trương nói với cái cửa sổ: Lại la hoảng
nữa! Có gan làm thì có gan chịu thử đi cái nào. Chính trị thì làm mà ở tù thì
không ở… khôn thế! Cuối cùng, Trương vẫn phải tháo thân ra cửa hậu vì quán cà
phê bị bao vây và mồi lửa đang chập chờn tiến vào…
Tranh đấu và cách mạng tiêu diệt lần lần những gì chống đối họ, nhưng lẽ phải
chẳng còn, nên mọi cố gắng đều vô ích. Cuối cùng, Cỏ May được Trương và Trầm
giã từ những ngày phiêu lãng để ngã vào vòng tay Sinh với tê mê cảm
giác.
Tác phẩm Những sợi sắc không đã vẽ lại bối cảnh sôi động vừa hùng tráng vừa
bi thảm của miền Trung trong những ngày sát cánh với Phật giáo tranh đấu, lật
đổ nền Đệ nhất Cộng hoà và tiếp theo một thời gian nữa. Những nhân vật trình
bày trong cuốn sách là những khuôn mặt thực, được tác giả ngụy trang bằng
danh tính khác, chẳng hạn như Lê Hùng chính là giáo sư L.V.H., người đã giữ
chức vụ Chủ tịch Lâm thời Ủy ban Giải phóng Huế trong những ngày Việt cộng tạm
chiếm đóng thành phố Tết Mậu Thân, hiện ở Hà Nội. Hãy gạt bỏ tất cả mọi đam
mê tuổi trẻ sang một bên, nội dung tác phẩm có giá trị cao về phương diện phê
phán cũng như phân tích khách quan từng dữ kiện thuộc lịch sử. Kỹ thuật dựng
truyện rất chắc, phương pháp hành văn thật linh động, lúc đứng đắn nghiêm
trang, lúc sàm sỡ buông thả, lúc ngưng đọng bị thảm. Tuý Hồng đã tận dụng khả
năng thiên phú để tạo cho mỗi nhân vật một đời sống đặc thù, một hoàn cảnh khốn
khó để thử thách sức chịu đựng của vai trò. Cái đặc tính vừa thông minh vừa
lì lợm của Trầm phải chăng là hiện thân của tác giả? Dù đúng dù sai, nhân vật
này được cưng nhất và chính “nó” đã làm sống cuốn sách. Những sợi sắc không
còn đưa ra vấn đề căn bản của đạo Phật với bốn chữ: sắc sắc không không. Bốn
chữ đó bao hàm một ý hướng thật rộng rãi, thật mông mênh vì ở đời cái có, cái
không làm sao phân giới, và ai dám khẳng định không và có là hai điều khác biệt?
Do đó, mọi việc ở đời chỉ là mộng ảo và mỗi số phận được búng sẵn tự trời
cao, nào ai biết?
Điểm đặc biệt, tác phẩm của Tuý Hồng mang nhiều địa-phương-tính qua ngôn ngữ
và hành động, nhưng vẫn đi vào cái chung của văn học hôm nay, làm người đọc thích
thú.
Tác phẩm Những sợi sắc không đã được trao tặng Giải nhất Văn học Nghệ thuật
1970. Tương đối, nó xứng đáng.
Từ đó, Tuý Hồng đi sang Bướm khuya, tác phẩm viết về cuộc đời chìm nổi của
Nghi, nhân vật chính trong truyện. Nội dung Bướm khuya chuyên chở những sự
tình bi đát với bối cảnh chiến tranh của năm 1946. Nghi, cô gái từ nhỏ ở bên
ngoại với cha mẹ. Cuộc chiến đã manh nha, cha Nghi về bên nội một mình. Ít
lâu sau gửi thư về bảo mẹ con Nghi phải trở về bên nội để tránh cảnh giặc
giã. Ông ngoại không muốn để lũ cháu và con gái mình đi, vì biết về bên đó sẽ
khổ. Nhưng ông Tuần, em Ngoại, khuyên nên để cho đi vì thuyền theo lái, gái
theo chồng. Thế là những ngày thần tiên bên quê ngoại chỉ còn là kỷ niệm.
Nghi năm đó lên 9 tuổi còn 4 đứa em nữa. Quê nội xa lắm, đi nửa tháng sông nước
mới đến nơi. Lúc đó cô Thương, em ruột cha Nghi, đang hoạt động cho Việt Minh
kèm theo hộ tống. Cô Thương không đi chung đò với mẹ con Nghi, ẩn hiện không
chừng. Cô có súng lục và lựu đạn. Trong chuyến đò, Nghi đã thấy cảnh giết người.
Một ám ảnh nặng nề, sợ hãi đối với tuổi thơ. Mẹ Nghi buồn lắm khi phải về quê
chồng, vì đã biết rõ những gì mình sẽ gặp ở hoàn cảnh khốn khó đó. Nghi và
các em vì ngây dại nên vẫn vui đùa. Quê nội nghèo lắm, khổ lắm! Mẹ con Nghi sống
những ngày dài tủi nhục. Cha không hỏi đến một lời. Ăn uống kham khổ, ngủ chật
chội bẩn thỉu, trong lúc đó vợ chồng của chú Trí được ưu đãi, ở phòng rộng
rãi khang trang. Cũng may còn chú Tân có tinh thần quốc gia, không theo Việt
Minh, vui tính, vô tư và yêu quý cháu, nên Nghi và các em cũng được an ủi.
Mặt trận tràn lan. Cuộc chiến làm cho không nơi nào yên. Quê nội, Tây tràn về
và hiếp chóc. Nghi tuy mới 11 tuổi, nhưng phổng phao bằng cô gái 14, 15. Một
bữa Tây vào làng càn quét, gặp mụ Còm toan hiếp, mụ sợ quá lạy van rồi chỉ chỗ
mợ Trí trốn cho Tây, vô phúc, mụ chỉ nhầm nơi Nghi núp. Thế là ba thằng Tây
thay phiên nhau hại đời Nghi. Cha Nghi cũng bị giết, nhưng không do Tây mà bởi
ái tình. Cha Nghi mê Lan, cô ta lại là nhân ngãi của tên công an trưởng, nên
cái chết không toàn thây làm mẹ Nghi nhục nhã, điều này do cô Thương tiết lộ.
Sau khi nhặt thây chồng, chôn cất xong, mẹ con Nghi về quê ngoại. Quê ngoại
đã bị Tây chiếm rồi. Sự sung túc và hiền hoà ngày xưa không còn nữa. Cảnh nhà
tang thương tao loạn! Chiến tranh và chuyện ác độc. Lại thêm trong gia đình
Ngoại, mợ Út cũng bị hiếp, sau đẻ ra thằng Tây đen. Mợ Út là con thứ tư của
Ngoại nhớn. Còn bà Trưởng và bà Phủ là em thứ hai, thứ ba, cũng ở chung nhà.
Bà Phủ chồng bì Việt Minh giết dã man, mổ bụng nhét đầy đá cục vào. Bà Trưởng
góa đã lâu tuy đã có tuổi, nhưng nhan sắc còn mặn mà, mê anh thu thuế chợ bị
bà Phủ cầm roi mây đánh, và cột tóc vào vào cột vì làm nhục gia đình. Đánh
xong, bà Phủ xin lỗi chị rồi nằm úp mặt xuống đất cho chị đánh lại.
Nghi lớn dần lên theo năm tháng. Một chiều nàng đau bụng, sáng hôm sau đi tiểu
thấy máu tháng. Nghi sợ quá, nhớ lại cảnh bị hiếp năm nào. Nàng mê man thảng
thốt, mẹ dỗ rằng: trong chiến tranh không người đàn bà nào thoát, mẹ cũng bị
hiếp rồi!…
Để vượt khỏi cơn túng quẫn, mẹ Nghi phải theo bà Út đi bán câu lạc bộ trong
trại lính Tây. Nhà vắng vẻ không có ai, Nghi phải trông nhà, thay vì được đi
học. Ít hôm, bà Út mướn được chị Chúc, người đàn bà nha quê đông con nghèo
đói. Chị Chúc muốn lấy Tây để có nhiều tiền thay vì làm mướn, nhưng chị xấu
quá, dù đã trang điểm môi son má phấn, Tây nó vẫn không thèm. Cái số may, chị
Chúc vớ được ông bán rau, có đến hai xe vận tải.
Khi đã có tiền, mẹ con Nghi về Huế ở. Nghi vào học ở trường Jeanne d’Arc.
Nghi muốn theo đạo, mẹ không cho. Một buổi Nghi gặp người đàn ông lạ trong
nhà, ông Bút. Mẹ Nghi còn trẻ, không giữ nổi lòng mình. Ông Bút giới thiệu
Thuý để kèm học thêm cho Nghi và các em. Thuý, cô gái bị chồng bỏ, buồn quá
theo Việt Minh. Thuý dụ dỗ Nghi hoạt động. Nghi bị bắt. Cha dượng thăm nom
chu đáo. Nghi thấy ông tốt hơn cha. Nhưng một tối có lệnh lên xe. Nghi được
đưa vào căn phòng lộng lẫy có một bà đối đãi tử tế, cho ăn uống đàng hoàng.
Ăn xong, lão quan già hiện ra trước mặt. Nghi nhìn trăn trối nội dung cho lệnh
bắt mình. Hắn cưỡng hiếp nàng, nhưng lạ thay, sao nàng lại thấy khoái cảm,
tuy vẫn kêu gào chửi rủa! Hắn làm xong, đến lượt cha dượng nàng vào. Tên đàn
ông khốn nạn này đã bày mưu cho lão quan già cưỡng đoạt thể xác Nghi, bây giờ
lại nham nhở nói: vì yêu Nghi mà lấy mẹ nàng! Hắn chẳng ngại gì mà không mua
vui trên thân xác nàng.
Ở trong tù, Nghi nhớ đến Thịnh, mối tình đầu thật đẹp. Nhưng hỡi ôi! Số mệnh
ác nghiệt chưa cho hưởng đã lấy đi. Được tha về, Nghi xuất huyết rồi chết.
Lão Bút không còn ở với mẹ Nghi, sau khi đã bòn rút hết tiền và thân xác cả
hai mẹ con.
Đoạn cuối tác phẩm nói về gia đình Thịnh, cùng mối tình của chàng đối với
Nghi sau khi chết và kết thúc bằng những trang viết của Nghi, không ghi ngày
tháng.
Với tác phẩm Bướm khuya, Tuý Hồng đã dàn trải câu chuyện trong kích thước rộng
lớn, thời gian rộng lớn. Sự rộng lớn đó đã làm cho vòng tay Tuý Hồng mệt mỏi.
Cái thân phận của Nghi, con mồi, bị nhà văn bi thảm thái quá làm xa lạ với
người đọc. Hơn nữa, cái bối cảnh chiến tranh của những năm 1946 đến 1954 nó
không hoàn toàn nằm ở trong khung cảnh hiếp dâm như nhà văn mô tả. Cái đó có,
cũng chỉ phần nào thôi. Nó đâu phải cái trục chính để quân đội Pháp phải mang
một lực lượng quân sự đông đảo như vậy, vượt vạn dặm trùng dương để rồi gánh
chịu thất bại nhục nhã! Nhân vật Nghi là quá độ. Đoạn nói về gia đình Thịnh
cùng những trang viết của Nghi cũng thừa. Nhưng bút pháp của tác giả thật vững,
rất Tuý Hồng. Tác phẩm vẫn không kém phần cảm động, sâu sắc. Nhiều đoạn làm
người đọc nghẹn ngào, tức thở. Cái không khí thê lương trùm lấp cả vùng trời
thơ dại, và nỗi niềm cay đắng như từng lưỡi dao rạch nát cõi lòng!…
Ngôi đền văn học Việt Nam đã dành sẵn cho Túy Hồng chỗ ngồi thật xứng đáng.
Dù ngày mai với con đường trước mặt còn dài, với nhiều bông hoa lạ đang vươn
trồng trong dự tưởng nhà văn, nhưng hôm nay, Túy Hồng quả thực, vẫn là một cái gì,
còn một cái gì làm người đọc suy ngẫm.
Trích văn Túy Hồng
… Trương ngồi im như ngồi trong bức tranh, rất thảnh thơi, thuốc lá cũng
không hút. Trầm gào tiếp khi hai con mắt xốn xang:
“Tôi tội lỗi, tôi có lỗi lớn không đối với ai cả. Bao nhiêu thằng đàn ông đã
nhảy lên thân thể tôi tàn phá từng chỗ thịt cấm. Và bao nhiêu thằng đàn ông
đã nhảy xuống thân thể tôi để nằm im như một tĩnh vật. Và bên họ, tôi cũng nằm
im như một tĩnh vật, một con đỉa no nê. Tôi đã quyết định vậy và tôi đã nhận,
đã làm. Tôi đã làm đĩ, đĩ thời gian rồi lây qua đĩ xác thịt. Tình cảm tôi
giao hoan bừa bãi và xác thịt tôi cũng giao hoan bừa bãi… Anh ơi, có ngày đêm
tôi đã kêu Thuý Kiều, Thuý Kiều con gái cụ Nguyễn Du đấy mà, tôi kêu Thuý Kiều
như thế này: Kiều ơi, mình không yêu ai được lâu hết như Kiều vậy. Tiếng kêu
của tôi đâm lui vào trong tôi quậy quậy cho tôi đau đớn tới chín chiều gan ruột,
xông lên óc, xói vào não. Tôi bây giờ là một bãi lầy, một đống sình, một vũng
bùn. Tôi biết, sở dĩ tôi hư như ngày hôm nay vì tôi đã lầm từ đầu, lầm từ một
khởi điểm rất nhỏ, như đã lầm to cho đến bao giờ: như người mắc bệnh ung thư
cổ tử cung, bắt đầu chỉ là một khởi điểm 0, một đốm nhỏ nằm tại eo tử cung
chưa có triệu chứng gì để tự phát giác, nhưng dần dần đóm nhỏ ăn ruồng đến những
tạng khác vào toàn vẹn bụng dưới. Tôi đã hư vì cái nhận định đến sớm nhất
trong tôi: ái tình không phải là tâm hồn gặp tâm hồn, mà ái tình là xác thịt
gặp xác thịt. Tôi đã be be cái miệng với Cỏ May và với những người khác: ái
tình là một cái không có… Niềm tin của tôi đã bị đánh cướp rồi. Anh Trương!
Có một tí tẹo lầm lẫn đó mà bây giờ như thế này, mà bây giờ như thế này, chữa
không được nữa rồi…”
Trầm đứng dậy xỏa tóc bước theo hình chữ nhất của gian phòng rồi đứng lại dưới
bức vẽ truyền chân màu thịt bò tái của nàng:
“Anh Trương này, hình như giờ này ở ngoài đời có vô số con người đã đánh mất
niềm tin rồi. Niềm tin đã mất sợ rằng rồi đây, lũ bác sĩ không còn tin ở thuốc
Tây nữa. Lũ bác sĩ ngơ ngác, nghi ngờ cả nền y học Tây phương mất thôi.
Anh Trương ơi, hình như giờ này ở ngoài đời có rất nhiều người còn lương tâm,
và lương tâm họ đang hằn lên những nét tím bóng hối hận.
Anh Trương ơi! Cỏ May chửi tôi quá! Cỏ May cao thượng với tôi quá! Cỏ May ăn ở
đẹp với tôi quá! Tôi là một đứa ưa kiếm chuyện, ưa trừng mắt nhìn đời.”
Trầm ngó thẳng vào mặt Trương. Chiếc miệng người đàn ông vẫn ngậm cứng một
cây tăm yên lặng. Người đàn bà bặm môi và tiếp:
“Tôi thấy tôi vẫn chưa ra khỏi cái dĩ vãng nguội, tôi bước hụt như bị hất cẳng
trong hiện tại nóng… Còn tương lai, tương lai tôi là một cuốn phim hư. Tôi phải
giơ tay lên vả vào mặt tôi, tôi phải tự cười, tự nói xấu tôi cho đã đời.”
Cánh cửa đẩy ra như bị mở trộm. Nắng bứt rứt bám vào tường, bám vào bàn ghế.
Ly nước lọc Trương cầm ở tay thật hiền lành. Tiếng thở dài của Trầm nghe nặng
nước mắt. Một tủi nhục nhờn nhờn trườn quanh thân thể, một tức tối nghẹn ngào
phản kháng như đầu mũi kim len vào mạch máu chạy theo đường tuần hoàn vào quả
tim lạnh héo hắt bộ ngực hận đời. Trầm bỗng đứng bật dậy muốn trương vi,
trương vẩy, muốn khua môi, múa ngón cho rộn bộ như hát bội, nhưng, Trầm lại ỉu
xìu ngồi xuống:
“Tôi vô luân quá anh Trương hí!… Đàn bà lấy một chồng mới không vô luân, đàn
bà lấy hai chồng đã là hơi vô luân rồi. Tôi bao nhiêu chồng. Trên thân thể
tôi là cả trăm thằng đàn ông. Những thằng đàn ông lượn quanh thân thể tôi rồi
đáp xuống trúng ngay mục tiêu nhin kim chích vô thịt. Kim chích vô thịt thì
đau. Thịt chích vô thịt nhớ nhau trọn đời. Nhưng tôi không nhớ ai trọn một giờ.
Tôi vào buồng tắm, tôi dội nước, tôi rửa là hết liền… Tôi không nhớ ai trọn một
giờ mà. Những người đàn ông và lũ kên kên thèm tôi, rỉa hết cả thịt tôi rồi
đá lông lốc bộ xương của tôi đi. Ngày hôm nay, giữa cuộc đời, chỉ có một người
đàn ông dám thú nhận yêu tôi, đòi lấy tôi làm vợ – Sinh đó - nhưng tôi đã liệt
Sinh đồng hạng với những người đàn ông khác. Tôi đã tục tĩu hoá mối tình, tôi
đã dơ dáy hoá mối tình, tôi chịu ăn nằm với Sinh, nhưng không chịu để Sinh lấy
làm vợ. Tôi đã coi Sinh không ra một cái gì hết, tôi đã coi tôi không ra một
cái gì hết. Tôi ăn nằm với Sinh ở khách sạn, tôi ngủ đò sông Hương với Sinh,
tôi ân ái với Sinh trên divan, ở phòng khách… Còn Sinh, Sinh yêu tôi vô tả vô
tận, yêu bám lấy tôi như vẩy cá dính vào con cá. Xá tội mà yêu, nhắm mắt mà
yêu, ở xa cũng yêu. Ở gần, chàng van xin tôi như hát vè con cá, ở xa, chàng
liên miên thú tội trên mặt giấy. Sinh khư khứ nắm lấy tình yêu như cái lỗ mũi
cố níu lấy hơi thở. Sinh yêu tôi cho đến giấc ngủ chung thân, chứ không phải
như một kẻ níu lấy mạn thuyền bơi một hồi rồi bỏ. Yêu đến ngây thơ rồ dại,
nhưng, cũng chín chắn lắm lắm, son sắt lắm lắm. Trên cuộc đời này, hầu hết
đàn ông đều đểu, chỉ còn lại Sinh và vài người là khác. Chàng dệt mối tình từ
đầu đến cuối, từ mặt tiền đến mặt hâu. Nhưng tôi đã coi Sinh giống như bất cứ
người đàn ông nào khác.”
Trầm ngừng lại nuốt nước bọt, ngó qua Trương đang ngắm nghía mình rồi tiếp:
“Sinh là một người trẻ tuổi có ý thức lớn, ý thức khổng lồ, chàng không ngó
tôi bằng cái nhìn cận thị, chàng biết trước những việc tôi làm nhưng đại xá hết.
Tôi làm gì chàng cũng tha thứ, chàng cũng chiều chuộng. Bởi, chàng là kẻ diệt
mối tình từ đầu đến cuối. Bởi, chàng cố làm cho tôi thấy tình yêu là có, tình
yêu bao giờ cũng có.
Tôi đã bảo chàng là một người trẻ tuổi có ý thức.
Sinh hành quân liên miên. Mỗi lần nghỉ phép, chàng về chạm trán với bầy con
gái điên ở thành phố, một bầy con gái mất trí. Đi đầu là tôi. Mỗi lần nghỉ
phép, chàng về gặp một bọn đàn bà đang làm loạn lên, bối rối, hốt hoảng. Đi đầu
là tôi.
Cuộc đời mở tám mặt tấn công đàn bà. Chiến tranh mở tám mặt tấn công đàn bà,
sự lo sợ làm nhão người họ ra, nhão trái tim ra, nhão óc não ra, nhão xác
thân ra… Tôi đã la hét giữa bọn con gái không điên. Tôi đã giậm chân, giật
tay giữa bọn con gái còn tỉnh. Bọn con gái bình tĩnh đó rồi sẽ hoá nhão hết,
cái bọn con gái không chịu một ảnh hưởng gì của chiến tranh tám mặt tấn công
và của cuộc đời tám mặt tấn công, chúng sẽ hoá đá hết, chúng sẽ biến thành
các vật hoá thạch hết, nếu chúng không điên như tôi.”
Trầm hỉ mũi đi thẳng lại trước Trương mắt đỏ nhìn chàng:
“Tôi là một đứa nghịch nữ, một đứa đàn bà ngược đời. Trời ơi và anh Trương
ơi, trời đã sinh ra tôi sao trời còn sinh thêm những người đàn bà giống tôi nữa?”
Trầm khóc mùi, khóc ướt đầm, khóc nức nở cao thấp. Trương bước tới cầm vai Trầm
lay mạnh, ấn xuống, giọng chàng ấm như hơi thuốc lá:
“Cô, cô Trầm… em Trầm, em không bao giờ là của tôi nữa!”
Cổ Trầm mềm gục xuống:
“Tôi, tôi là của Sinh, tôi là của Sinh."
Trương buông tay, giọng nói còn ám khói:
"Cô Trầm! Cô bây giờ đã xuống nước."
Trầm mềm tiếng nói:
"Không, tôi không xuống nước, dù chỉ một giọt."
Trương kêu nhỏ:
"Tôi thấy có một trái lửa đam mê vừa tắt."
"Tôi đang trong cơn động kinh tĩnh, con động kinh sáng suốt, cơn động
kinh không nóng, không co giật."
Trương đứng xê Trầm ra, từ tốn đi bách bộ trong phòng chàng tiến lên dịu
dàng, bước tới khoan thai, tay sờ lên mặt bàn, lên thành ghế, lên nóc tủ.
Chàng đi sâu vào, dừng lại ở đầu giường, Trầm vội đưa tay:
"Khoan, khoan đừng đi tới nữa, đừng đi tới vị trí chiếc giường của
đĩ."
Trương quay lại:
"Nếu em còn làm đĩ nữa, tôi sẽ lấy roi bò bắt em nằm xuống, đánh vào
mông em, ngay trên chiếc giường mà em đã làm đĩ."
(Trích bản thảo Những sợi sắc không từ trang 209 đến 213)
3/Nguyễn Thị Thụy Vũ
Bút hiệu: Nguyễn Thị Thụy Vũ. Sinh ngày: 19-8-1937 tại Vĩnh Long. Viết văn từ
năm 1965.
Tác phẩm: Mèo đêm, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1966, Hiện Đại tái bản
1968; Lao vào lửa, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1967; Chiều mênh mông, tập
truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1968; Ngọn pháo bông, truyện dài, nhà xuất bản
Hiện Đại 1968; Thú hoang, truyện dài, nhà xuất bản Hồng Đức 1968; Khung rêu,
truyện dài, nhà xuất bản Kẻ Sĩ 1969 (Giải nhì Văn chương toàn quốc 1970). Đã
cộng tác với: Bách Khoa, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Vấn Đề, Khởi Hành, Hoa Tình
Thương, Tin Sáng, Tiếng Nói Dân Chủ, Đời, Lập Trường, Dân Chủ Mới, Dân Ý, Ánh
Sáng, Tin Mật, Tiến Bộ…
Nguyễn Thị Thụy Vũ và những cánh thiêu thân
Nguyễn Thị Thụy Vũ, nhà văn phái nữ, hiện diện giữa khung trời văn nghệ với một
sắc thái đặc thù. Những ý nghĩ bỏng cháy và giãy giụa về thân xác trong mỗi
tác phẩm, đôi khi vượt quá ý nghĩ của nhiều người. Thuỵ Vũ mới ngoài ba mươi
tuổi đời, tuổi nghề vừa lên 6 (1971), nhưng tự tạo cho riêng mình một thế đứng,
một cương vị trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Người ta đã hỏi nhau, bàn
tán, phê bình về bút pháp cũng như nội dung mỗi truyện của Thuỵ Vũ, vì nó
không nằm trong khuôn nếp thông thường của một nữ nhi, nó đã bay ra ngoài quỹ
đạo dự tưởng.
Người ta còn băn khoăn, thắc mắc về mỗi tình tiết, mỗi dữ kiện được nhà văn tỏ
bày trong văn chương. Từ băn khoăn đến thắc mắc, rồi nghi ngờ về thực trạng của
mỗi vấn đề, mà Thuỵ Vũ đã đặt ra trước xã hội, về khả năng hiểu biết cuộc sống,
một cuộc sống chả lấy gì làm hãnh tiến, và sự góp mặt của những chứng tích
đó, có nên dành vinh dự cho nhà văn nữ giới?
Cùng đi chung đường với các nhà văn trẻ hôm nay, Thuỵ Vũ mở đầu văn nghiệp bằng
những truyện ngắn đăng rải rác trong các tạp chí văn nghệ. Sự đóng góp của
Thuỵ Vũ trong khu vườn văn chương đã gây ngay sự chú ý, nhờ vào một bút pháp
mạnh mẽ xuyên qua từng dòng chữ bỏng cháy với suy nghĩ về tình dục, về xã hội
trong nét sống đặc biệt của các cô gái thuộc giới snack bar thành phố.
Mấy chục năm trước, khi Nguyên Hồng viết Bỉ vỏ, vẽ lại nếp sống của lớp người
du thủ du thực, ăn cắp, ăn trộm tại các bến tàu, các ngôi chợ. Cách thức sinh
hoạt của hạng người đó, với những ngôn từ chuyên môn (nói nôm na là tiếng
lóng) do họ sáng chế để dùng riêng với nhau, được Nguyên Hồng viết ra thực
chính xác, sống động. Sở dĩ Nguyên Hồng có thể đào sâu vấn đề để tác động đến
tâm thức người đọc, một phần nhờ vào hoàn cảnh có thực. Nguyên Hồng thuở niên
thiếu, mồ côi cha, sống với mẹ tại một xóm lao động ở Hải Phòng, nơi tập
trung khá đủ các hạng người cặn bã của xã hội. Dù muốn dù không, cái nề nếp
sinh hoạt đó cũng ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của Nguyên Hồng, nên những
sự việc được nói đến, chẳng những trong cuốn Bỉ vỏ mà còn ở những truyện ngắn
khác, đều phản ánh một cách minh triết về trạng thái xã hội lúc ấy dưới sự
cai trị của thực dân Pháp. Đọc Bỉ vỏ, người ta cảm thấy như được xem một màn
trình diễn trong hí viện vừa vĩ đại vừa nhơ nhớp, vừa đáng thương vừa đáng
ghét. Ở đấy, mọi lừa lọc, gian manh và tủi cực, được tỏ bày như một hiển
nhiên. Người đọc bị hút vào cơn lốc, xoay tròn từng vòng quay thê thảm, tượng
trưng cho một dòng sống không thuộc vào dòng sống chung của xã hội. Nó có đấy,
nhưng không được thừa nhận. Nguyên Hồng viết nó, nhưng ở ngoài nó cũng như
trường hợp Vũ Trọng Phụng viết Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây và Làm đĩ v.v…
Ai cũng biết Vũ Trọng Phụng không biết đánh bạc chứ đừng nói đến bạc bịp,
nhưng khi đọc Cạm bẫy người với những lối bịp cao tay trong trò chơi đổ bác,
người đọc nghĩ rằng, nếu tác giả không phải tay sành sỏi về môn này, chắc khó
mà viết được chính xác, linh động như vậy. Sự thực, nhà văn chỉ giữ vai trò
ghi chép và nghệ thuật hoá nó qua lời kể của ông chú, một tay đổ bác khét tiếng
của Hà Nội ngày xưa. Cũng như trong Kỹ nghệ lấy Tây, Vũ Trọng Phụng đã điều
nghiên qua kẻ khác.
Trái lại, có nhà văn muốn những điều mình viết ra, nó phải được chứng minh
qua sự thật, nghĩa là, mình phải sống qua cái môi trường đó một cách thực
tình với sự trả giá của bản thân như Marie Choisy, nữ ký giả Pháp, đã lăn lóc
trong các hộp đêm của Paris và ngoại ô, đóng vai gái điếm, để hiểu cái thực
chất của nghề nghiệp mãi dâm. Trường hợp Marie Choisy là ngoại lệ.
Ở xã hội Việt Nam, không thể nào có một Marie Choisy, tuy rằng trong địa hạt
văn chương phóng sự, không thiếu gì các nhà văn khai thác về khía cạnh truỵ lạc,
sa đoạ nhưng họ đều thuộc nam giới. Sự xuất hiện của Nguyễn Thị Thuỵ Vũ như một
kỳ lạ, giữa khung trời nghệ thuật miền Nam Việt Nam. Thuỵ Vũ viết truyện ngắn
với nhiều thể tài, mỗi thể tài đều hàm chứa sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ trong
vấn đề tình yêu, cũng như nỗi nhức mỏi về thân phận, thân phận người con gái
với những ước mơ táo ạo về dục tình.
Thuỵ Vũ hãy còn trẻ lắm, nên những sự việc đề cập tới dù ở khía cạnh nào, dù ở
trạng huống nào, cũng chỉ để tỏ bày, để nói ra những gì mình nghĩ, một cách
ngay tình không dùng những ẩn dụ nào che đậy, hay có ý khuyến dụ ai, chìm khuất
phía sau những dòng chữ. Bởi vậy, văn của Thuỵ Vũ thiếu chiều sâu ý thức. Người
đọc Thuỵ Vũ, có thể nhất thời, bị lôi cuốn vào guồng máy, nhưng sau khi đọc đến
dòng cuối, bắt gặp cái khoảng trắng mênh mông, người đọc không còn phải thắc
mắc, hay suy nghĩ về trường hợp vừa được nói đến. Đó là cái bản chất văn
chương của Nguyễn Thị Thuỵ Vũ và nhà văn, chắc cũng chẳng mấy bận tâm về điều
đó.
Colette, nữ văn hào Pháp. Người đã từng viết nhiều về cuộc đời luân lạc, gian
truân của mình. Vốn bẩm sinh phóng túng lại lận đận cảnh chồng con, nhưng trời
phú cho một năng khiếu về văn chương, với cái nhìn thật tinh tế và sâu sắc,
nên những truyện do bà viết đều được hoan nghênh nhiệt liệt. Bỏ chồng, đi
hành nghề vũ công, dưới tên Renée, Colette sống cô đơn và cực nhọc trong những
năm tự lực mưu sinh. Bà đã viết về khoảng đời mấy năm làm vũ công, với những
vui buồn của đời sống, tình yêu và nghề nghiệp trong cuốn La Vagabonde (Kẻ
lang thang). Viết, đối với Colette là cái nghiệp, nên bà đã say sưa bày tỏ
quan điểm trong phạm trù văn chương, bằng những đoạn văn bất hủ.
… Viết! Chuẩn bị để viết! Có nghĩa là trải dài mơ mộng trước trang giấy trắng,
với những dòng nguệch ngoạc vô ý thức, những trò chơi của ngòi bút quay vòng
tròn quanh vết mực, nó nghiến nát những chữ bất toàn, nó gượng ép, nó lởm chởm
như những mũi tên nhỏ, nó giăng mắc như những sợi dây trời, như những vụn vặt,
cho tới lúc mặt chữ mất đi, biến thành loài côn trùng cánh bướm tiên…
… Viết! Là trút xuống với đắm đuối tất cả thành thực của lòng mình trên mặt
giấy cám dỗ, thật nhanh, nhanh đến nỗi bàn tay đôi khi cưỡng lại, tỏ ra ghê tởm,
mệt mỏi vì đã được hướng dẫn bởi một vị thần linh không kiên tâm… và rồi lại
tìm thấy, ngày hôm sau, ở nơi nhánh cây vàng diệp, sự hiển hiện một cách linh
diệu trong một giờ rực rỡ, một cành gai khô, một đoá hoa rơi…
Viết! Nguồn vui và đau khổ vô dụng! Viết!… Tôi cảm thấy tốt đẹp, từ phía xa tắp,
cái nhu cầu khẩn thiết như cơn khát giữa mùa hạ, phải ghi chép, phải vẽ ra…
Tôi viết tức là bắt đầu trò chơi nhào lộn và giả trá, để chụp bắt cầm giữ, dưới
ngòi bút uyển chuyển, cái hào nhoáng, cái phù du và cái mê cảm của hình dung
từ… Nhưng đó chỉ là cơn biến động ngắn, là sự ngứa ngáy của một vết sẹo…
(La Vagabonde, trang 15-16)
Viết đối với Colette chẳng những là cái nghiệp còn do ám ảnh, nỗi vò xé của
suy tư, cùng sự quyến rũ đến thôi thúc trong mỗi dòng, mỗi chữ dù vui, dù buồn
do tình ái hay cuộc đời tác động vào tâm thức. Nguyễn Thị Thuỵ Vũ cũng trải hồn
mình trên trang giấy và vẽ vào đó những nét mạnh bạo, đôi khi phũ phàng để bắt
người đọc phải cùng chung vui buồn với mình trong một khoảng thời gian ngắn,
dài nào đó. Chuyện bốn cô gái ở trọ nhà chị Tám, một goá phụ, đã nói lên những
cảnh huống dị biệt ở tâm tư mỗi người con gái lứa tuổi khác nhau. Vì còn trẻ,
nên Thuỵ Vũ cũng không quên đùa nghịch qua văn chương, mỗi khi có dịp, như
chuyện rình kẻ trộm trong Đợi chuyến đi xa. Đàn bà con gái bắt trộm ai tin được,
nhưng đó chỉ là cái cớ để các cô có dịp thoả mãn sự tò mò trong vấn đề tìm hiểu
thân xác đàn ông.
… Thình lình cây đèn bấm từ hướng chị Tám bật lên tiếp theo là tiếng the thé
của chị.
“Kìa nó đó.”
Chúng tôi đứng phắt đậy, chạy dồn lại chỗ chị Tám. Chúng tôi chụm đầu nhau về
phía thang gác nhà bên cạnh. Nhà tắm đặt sát trên mái bếp của nhà láng giềng
hiện ra một khoảng sáng, rộng. Một người đàn ông đang tắm… Chị Tám bàng hoàng
kinh ngạc đến độ quên tắt đèn bấm. Mọi người ngơ ngác chưa kịp cười thì thằng
Bình (con út chị Tám) la lên:
“Tưởng gì! Té ra thầy Năm.”
Lúc thầy Năm quấn xong cái thân mình loáng ướt, chị Tám mới chịu tắt đèn. Thầy
Năm chửi thề, rồi la:
“Người ta tắm, làm gì rình rập như vậy?”
Chị Tám bỏ nước nhỏ:
“Xin lỗi thầy Năm nghe. Tụi tôi tưởng trộm rình nhà. Ai dè mà…”
Chị Tám vừa đi vừa càu nhàu:
“Ăn ở như vậy mà coi sao được chớ? Vậy mà còn chửi thề nữa.”
Chúng tôi bây giờ mới cười rộ. Chị Tám cũng cười theo nhưng trên nét mặt chị
còn vẻ sượng sần lẫn hờn dỗi…
(Mèo đêm, “Đợi chuyến đi xa”, trang 35-36)
Tập Mèo đêm gồm 7 truyện ngắn. Mỗi truyện ít nhiều cũng để tỏ bày về thân phận
người con gái trước tình yêu và cuộc sống với băn khoăn, rạo rực. Tuy không bất
mãn hoặc chán đời, nhưng cuộc đời cô đơn quá, với những ước mơ cứ chồng chất
theo số tuổi mà tương lai thì vẫn mịt mù! Đứng hoài trong tư thế chờ đợi đâu
được, người con gái cần yêu vẫn phải yêu, dù yêu trong đau đớn, nhục nhằn.
Yêu mà không hy vọng nắm được hạnh phúc trong tay, nhưng thà có một người
tình để an ủi, vỗ về còn hơn sự trống vắng của tâm hồn.
… Anh Duy, bây giờ chỉ còn một mình anh có can đảm bắt tình với em thôi! Em
chỉ còn một mối tình không say mê hào hứng nữa. Nhưng mất nó, em không hiểu
mình sẽ bám vào cái gì để tiêu nốt quãng đời trống rỗng còn lại…
(Mèo đêm, “Đợi chuyến đi xa”, trang 45)
Thật tội nghiệp! Làm kiếp con gái, trời bắt xấu, thân thể khô khan, mỏng lét,
da mặt tươi mát giả tạo qua lớp phấn kem, không có bộ phận nào hấp dẫn con
trai cả, nên tự mình phải chấp nhận một hoàn cảnh gượng gạo, không tin ở
mình, chỉ còn tin vào một may mắn nào đó, do định mệnh run rủi.
Từ những tình cảm đơn phương của cá nhân, Thuỵ Vũ đi vào vùng đất cấm của xã
hội, với cái nhìn soi mói qua cảm xúc, tạo nên rung động trong mỗi truyện ngắn
viết về đời sống của những cô gái bán bar. Hoàn cảnh đất nước trong những năm
gần đây, đã xô đẩy một số người vào vực thẳm sa đoạ. Người con gái nào đó,
đang sống yên lành, tử tế, bỗng nhiên vì hoàn cảnh trở thành gái điếm, hoặc
gái bán bar. Một người vợ hiền, một người mẹ gương mẫu chỉ một sớm một chiều
đi vào con đường đó, không không tìm ra lối thoát nào khác, để cứu vãn sự sống
của mình bằng cách làm ăn lương thiện. Vấn đề gái điếm, không phải do sự có mặt
của quân đội Mỹ tại miền Nam. Nó là vấn đề cũ, nhưng cung cách sinh hoạt và tổ
chức theo danh xưng mới snack bar. Danh từ kép này, ngoài nghĩa chính là quán
giải khát có bán đồ ăn nhẹ, nhưng ở đây nó còn bao hàm nghĩa bóng: nhà chứa
trá hình. Nó là nơi mồi chài, mở đầu cho việc trả giá nhục dục sẽ thực hiện ở
địa điểm khác. Cái thế giới dâm loạn đó, được nhà văn diễn tả với nhận xét tỉ
mỉ, với kỹ thuật hành văn vô cùng phác thực, đau xót trộn lẫn đam mê, tủi nhục,
đôi khi kiêu căng lố bịch và cái thú tính được trình bày như biểu tượng của
thời đại.
Người đọc văn Thuỵ Vũ bị hút sâu vào một thế giới lạ lùng, ở đấy, chỉ đoán biết
theo trí năng chứ không thể nhận định theo suy luận. Nhiều đoạn, nhiều ý, nhà
văn đã kinh qua cái nữ tính của mình, làm sửng sốt, bàng hoàng tâm cảm. Câu
chuyện học Anh văn của mụ gái điếm đã gần tàn xuân sắc mang tên Mi-sen
(Michèle) với những nét đặc biệt về vóc dáng và cung cách ăn nói, đều được
Thuỵ Vũ viết với suy nghĩ sinh động. Mi-sen từ thuở nhỏ không biết chữ, kể cả
chữ Việt, nay vì nhu cầu giao dịch với ngoại kiều, bắt buộc nàng phải học.
Cái tên Michèle do người khác đặt cho, nàng cũng không biết viết ra sao, mỗi
lần lên Quận làm giấy tờ, thay vì ký, Mi-sen đánh dấu thập. Nhưng Mi-sen dưới
mắt nhà văn, nàng cũng có những nét riêng,
… Mi-sen không hẳn đẹp. Gương mặt nàng có những nét vụng về ghép vào những
nét tuyệt xinh. Răng nàng hơi hô, mà cặp môi dày ít khi che kín. Đó là dấu hiệu
của con người cởi mở và nồng nàn…
… Hôm nay như thường lệ, tôi đến dạy Mi-sen vào những buổi trưa nắng gắt. Vào
giờ này cánh cửa sắt trước nhà đã được chị Tư mở sẵn. Tôi cứ việc ung dung dẫn
xe đạp vào tự tay đóng cửa lại, không phải gọi chuông inh ỏi nữa. Đi ngang
qua phòng khách tôi rẽ tấm màn quẹo qua buồng ngủ Mi-sen, rồi gõ nhẹ cửa.
“Cô giáo đó hả, vô đi.”
Tôi đẩy cửa bước vào, rồi bất chợt dừng lại. Mi-sen cười ngặt ngoẹo:
“Vào đi cưng. Chờ chị làm massage một chút nghen.”
Tôi tìm chiếc ghế ngồi cạnh giường, Mi-sen pha trò:
“Cô giáo hôm nay bắt gặp học trò trần truồng như nhộng. Chỗ đàn bà với nhau cả
phải không cô.”
… Bây giờ tôi được dịp quan sát Mi-sen kỹ hơn. Nàng nằm trên một chiếc khăn
lông hồng, trải tấm nệm mút, phủ “ra” trắng. Bà làm massage quỳ hai gối xuống
nệm, hai bàn tay thoăn thoắt trên các bắp thịt mông và lưng nàng. Mồ hôi rịn ướt
trên đôi tay gân guốc của bà. Mắt Mi-sen lim dim, dáng điệu nàng như con mèo
sưởi nắng một cách khoan khoái. Lúc nào nhìn người đàn bà khoả thân tôi cũng
có một cảm giác lạnh lẽo và tê tái như nhìn một bức tranh tĩnh vật với màu sắc
hết sức ảm đạm. Riêng đối với Mi-sen, tôi nghĩ rằng tấm thân nõn nà, với làn
da mịn màng đó, có cái gì mong manh. Tuổi già đã gần kề nàng. Chẳng bao lâu nữa,
những bắp thịt thon đẹp kia sẽ nở bung ra, bụng sẽ nhão nhoẹt. Nghĩ tới giai
đoạn đó, tôi cảm thấy buồn hơn là ganh tị…
(Mèo đêm, “Đợi chuyến đi xa”, trang 88-89)
Giọng văn của Thuỵ Vũ gọn. Viết như nói chuyện rất hồn nhiên, dù viết về một
thực trạng không kém mỉa mai, chua chát! Mi-sen biết mình sắp về già nên muốn
kéo dài nhan sắc bằng mọi cách, tuy lúc nào cũng tự khoe có hàng chục ông
“Giôn-sơn” say đắm thân xác mình. Nhưng nàng đã quên rằng, trên cõi đời,
không thiếu những bông hoa tươi thắm hơn, và muốn ăn khách sộp, nàng vẫn phải
nhờ vào môi mép của lũ ma cô dẫn mối. Lời đối thoại giữa tên ma cô và Mi-sen
về chuyện này, được ghi nhận như từng câu nguyền rủa vào mặt xã hội, một xã hội
còn cố níu lại lấy hai ông thầy Khổng Mạnh làm cứu cánh cho nền đạo đức cuối
mùa. Ở đây, họ không cần thứ đó, họ có đạo đức riêng. Họ không vụ danh từ mà
căn cứ vào thực tế, nên họ có tụt quần áo trước mặt đàn ông, làm ái tình như
máy và bóc lột khách làng chơi bằng mọi mánh khoé tàn nhẫn cũng là chuyện thường
vì nó nằm trong quy luật giang hồ. Cũng như việc đời đâu có êm trôi theo ý muốn,
nên Mi-sen đã bị tên Phrăng (Frank) đánh trọng thương vì nó đã nhìn thấu cái
dã tâm của nàng. Nằm bệnh, mặt mũi sưng vù, nhưng lạ thay, chẳng bao giờ
Mi-sen coi đó là bài học tủi hổ, nàng vẫn phác hoạ đời mình ngày mai với đắm
đuối,
… Khi mạnh, tôi nuôi da thịt cho thật mịn, tôi mua son rồi mở tạp chí thời
trang sắc đẹp ra để tô môi. Tôi may áo đầm cho thật chiến, tôi…
Bóng tối đã ôm choàng thành phố ngoài khung cửa…
(Mèo đêm, “Đợi chuyến đi xa”, trang 107)
Thuỵ Vũ không chỉ nhìn vào cuộc sống đó với khía cạnh xấu, đôi lúc nhà văn đi
vào những uẩn khúc của từng tâm trạng, thứ tâm trạng thiếu hụt ở mỗi nhân vật
được viết ra. Tuy bề ngoài họ vẫn vui nhộn theo ánh đèn đêm, họ vẫn làm đẹp
thân xác để quyến rũ khách ngoại kiều, họ có những ngón nhà nghề để móc túi
đàn ông, họ vẫn tạo ra đam mê cho riêng mình nhưng, tự đáy sâu suy nghĩ, sau
những đêm dài vật vã với đồng tiền và dục vọng, sau những hờn ghen, đố kỵ,
đích thực, họ vẫn muốn giữ lại cho mình một cái gì, để gọi là an ủi. Cái đó
là nỗi ước vọng mù khơi của một tâm hồn đã quá ê chề giữa vũng lầy truỵ lạc.
Trong khi tìm mọi cách để thu hút khách hàng, bằng đùi, mông, ngực, và dùng cả
bùa ngải nữa để mê hoặc nếu cảm thấy thua sút chị em, khi khách không ham sờ
đùi, vỗ vế cho uống như xưa. Nhưng cái đó cũng chỉ là tạm bợ, vấn đề chính,
làm sao giải quyết được cuộc đời, lúc thân phận đã trở thành đồ phế thải sau
bao đêm dài mê mải truy hoan!…
Tác phẩm Lao vào lửa gồm 3 truyện. Cả 3 truyện đều viết về một vấn đề. Mỗi
truyện mở ra một hoạt cảnh dị biệt về những thân phận đàn bà đang quay cuồng,
giẫy giụa trong mê cung không lối thoát. Từng cô gái lao vào lửa dục vọng như
những cánh thiêu thân lao vào ánh đèn. Chẳng cần bâng khuâng và hối tiếc
trong kích thước cuộc sống này. Câu chuyện phá thai, làm tình, rồi phá, lại
làm tình quá thường, nên phút nào có nghĩ tới, cũng chỉ là truyền cho nhau những
kinh nghiệm với mục đích bảo vệ nghề nghiệp. Nhưng tiếp thị, không phải lúc
nào, giờ nào các cô gái làng chơi cũng có thể vui vẻ, múa hát với đồng tiền,
thứ tiền kiếm được bằng sự khó nhọc của thân xác. Có những giờ phút trống rỗng,
từ đâu chẳng biết, từng ý tưởng tối đen bay lởn vởn với ám ảnh về số phận
trong ngày mai, khi đường cong và duyên dáng không còn hấp dẫn được khách. Có
người lo xa muốn kiếm ít vốn để dành tiêu xài mai hậu, như trường hợp Tâm với
chiếc giường mới của nàng. Tâm đã phá thai hai lần, cảm thấy thân xác bắt đầu
mệt mỏi sau bao đêm thức khuya, sau những cơn hành lạc. Nàng hốt hoảng khi
nhìn thấy dung nhan mình trong gương. Tuổi già chập chờn ẩn hiện xung quanh.
Muốn đạt được ý muốn, nàng cần được sự hỗ trợ của thần linh, của một phép màu
nào đấy để khỏi thua sút chị em. Tâm đã lặn lội lên suối Lồ Ồ để nhờ ông thầy
bói Trọng Ích đoán quẻ, xem số mạng và tiền tài. Ông này, tuy không có ngải
như ông thầy bùa Tân Châu, nuôi rắn hổ để trắc nghiệm số phần của khách hàng.
Sau cho rắn bò quanh người, ông thầy Tân Châu làm phép vô ngải bằng cách xức
tóc và cho thêm một gói củ ngải mang về nhà trồng, để yểm trợ công cuộc mần
ăn được kết quả mỹ mãn. Ngải rất linh, người vô ngải bắt buộc phải kiêng cữ một
vài thứ, nếu làm trái sẽ phát điên lập tức.
Ông thầy bói Trọng Ích khuyên Tâm đóng chiếc giường ngủ theo ngày đã định
trong quẻ, phải kê giường theo hướng bắc. Với cái giường mới, dù nàng có xấu
như Chung Vô Diệm đi nữa, đàn ông cũng tìm đến nườm nượp. Tâm đã thực hành
đúng lời thầy bói và buổi tối hôm kê giường xong, quẻ đã linh ứng, một tên Mỹ
khờ khạo đã mời nàng uống thả giàn. Tối đó nàng thu nhiều tích kê, nhưng Tâm
chưa muốn đưa tên này về nhà ngủ vào chiếc giường mới, vì nó bị nàng lột rách
như xơ mướp rồi. Nó lại khoẻ như voi, với thân xác ấy, nếu hành lạc nàng chắc
chịu hết nổi! Vì tin tưởng vào ma lực của chiếc giường. Tâm bắt đầu kiêu
hãnh, để đánh bạt mặc cảm bị đào thải. Nhưng thực ra, tự đáy lòng, nàng vẫn cảm
thấy như có gì vướng mắc,
… Nàng rùng minh khi tưởng tới mình sẽ nằm trong vũng tối quên lãng trong khi
nàng chỉ mới bốn mươi. Ở cái tuổi này, nàng cảm thấy lòng mình lai láng những
ước vọng. Dĩ nhiên là sự tấn công cuối cùng của xác thịt không mấy rõ rệt vì
nàng đã thường tiếp xúc với những cơ thể xa lạ của kẻ khác phái… Nhưng cớ sao
nàng vẫn còn thèm khát cái thân thể của anh chàng nào đó, có thể nhen nhúm một
ngọn lửa trong tâm hồn mù mịt của nàng và sự rung động trên từng thớ thịt của
nàng. Người đàn ông đó như một hình bóng chuyện hoang mà nàng như người đui,
quờ quạng đi tìm một thứ trái cây đầy cám dỗ vượt xa tầm với của mình…
(Lao vào lửa, “Chiếc giường”, trang 25)
Người gái giang hồ bốn mươi tuổi, đã nhìn thấy một phần kết quả cuộc đời, đã
lọc lõi trong nghệ thuật làm tình mà nay trong hồn vẫn cảm thấy thiếu vắng, vẫn
cần đến vỗ về, an ủi trong những giờ phút trống rỗng mà tiền bạc không thể
khoả lấp được. Phải chăng là ảo ảnh, một thoáng gợn của lương tri mỗi con người
khi biết mình sắp mất hết?
Nỗi ám ảnh bất ngờ đó cũng không ở lâu, chiều mai, khi ánh điện vừa thắp sáng
thành phố, Tâm thành khẩn lên nhang đèn khấn vái thần linh xin khai trương
chiếc giường mới. Buổi tối đó, nàng vui tươi bả lả và dạy dỗ “đàn em” các
ngón nhà nghề,
… Em lựa lúc nào mà nó ngà ngà say, hay lúc cơ thể của nó nổi loạn vì sự đụng
chạm của em. Chừng ấy em mặc sức mà ăn gian. Đừng có thiệt thà quá thua sút
người ta, em cưng ơi!
(Lao vào lửa, “Chiếc giường”, trang 27)
Sau giờ làm, nàng dẫn một tên Mỹ về nhà. Chiếc giường mới linh thật, dù bị
đánh thức tới hai bận, nhưng trên mặt giường, một xấp đô la nằm ngổn ngang
làm Tâm bàng hoàng run rẩy đếm. Mắt nàng sáng lên với nụ cười, trong lúc thân
xác mệt mỏi vì qua hai lần hành hạ.
Công việc làm ăn của Tâm cứ thăng tiến mỗi đêm, nàng đã có nhiều tiền. Một tối,
nàng đang mơ chiếm huy chương vàng cuối năm về thành tích ăn khách nhất bar
thì Minh bạn nghề, bảo nàng cho thuê giường vì có bồ mới từ Bến Cát về. Sau một
hồi văng tục, chiếc giường ngã giá một ngàn. Tuy không đưa khách về nhà,
nhưng đêm ấy Tâm kiếm được hơn trăm miếng “bông” cộng với một ngàn tiền giường.
Tâm ôm gối ngủ thiếp trong khoan khoái.
Nguồn vui chưa được bao lâu, mới sáng, đứa tớ gái mét cho Tâm biết, qua đêm
Minh thấy tháng mà vẫn đi Mỹ, chiếc giường đã bị Minh vẽ sơn thủy và tấm “ra”
với những nét đỏ lòm. Cũng từ đêm đó, chiếc giường hình như mất linh thật.
Tâm vắng khách dần, nàng oán giận, gây gổ với Minh nhưng sau, biết mình nhầm
vì ế khách là tình trạng chung do phong trào lính Mỹ chống Sài Gòn-Tea.
Cuộc sống của các cô gái bán bar khi lên voi, khi xuống chó tuỳ theo may rủi
và cũng tuỳ theo kỹ thuật non già của mỗi người, nhưng nó là một nghề tương đối
dễ kiếm tiền, nếu không dư giả, cũng chẳng đến nổi túng thiếu. Cái nghề duy
nhất không cần vốn, ngoài cái “vốn” trời cho. Trường hợp các cô gái thơ ngây
vì hoàn cảnh gia đình phải vào chốn này cũng không hiếm. Mỗi cái bar như chiếc
vực thẳm, người con gái nào nhìn vào, đều chóng mặt rồi bị nó hút xuống như bỡn.
Miếng cơm kiếm bằng công việc lương thiện càng lúc càng khó khăn, dần dà dìm
mỗi số phận vào nghiệt ngã, cơ hồ muốn buông trôi tất cả. Từ một cô gái nhà
lành, mang cái tên rất hiền, rất ngoan, chẳng mấy chốc đã khoác cái tên khác
nửa Tây, nửa Mỹ không ăn nhập vào nguồn gốc của mình. Nào Agnès, nào
Juliette, nào Tina, nào Michèle v.v… Những cái tên vô nghĩa ấy, mỗi đêm gọi
nhau loạn xạ trong một kích thước hôn mê với âm hưởng điên cuồng, qua hơi rượu
và mùi da thịt ướp đẫm phấn son. Ở đây, bài học vỡ lòng cho kẻ mới vào nghề
cũng vô cùng cứng rắn do luật lệ giang hồ riêng biệt. Cô học trò nhỏ với chiếc
áo dài màu thiên thanh còn thơm mùi long não của tuổi nữ sinh, trình diện một
cách quê mùa trong một khung cảnh toàn mini-jupe với những lời nói chớt nhả,
tục tằn lcùng những bàn tay lông lá khua động vào da thịt đàn bà xen tiếng cười
dâm dật. Sự đụng chạm lần đầu với cái không khí ấy, làm choáng váng mặt mày,
làm kinh sợ một tâm hồn hãy còn trong trắng,
“Chị Năm!”
Tiếng kêu của tôi gần như lời cầu cứu. Mí mắt tôi nóng và ẩm ướt. Kinh sợ làm
cổ họng tôi khô. Tôi muốn trốn ánh đèn và quầy rượu.
Chị Năm chạy lại tôi, hỏi dồn:
“Gì vậy Tina?”
Tina? Đầu óc tôi cuốn tròn trong sự ngỡ ngàng tủi nhục. Tôi khóc:
“Gã làm ẩu em.”
Chị Năm cười sằng sặc rồi kề tai tôi:
"Tina à! Em đừng sợ gã. Nếu em tránh gã sẽ có người khác đến với em. Biết
đâu kẻ đó còn hung hăng hơn gã gấp trăm lần. Chiều gã một chút đi. Có mất mát
gì đâu."
Giọng chị Năm như khuyên lơn:
"Em đừng mắc cỡ. Vô đây là vậy đó. Chỉ trừ em ra khỏi nơi đây thì chẳng
ai dám đụng tới lông chưn em. Có kẻ nào lại quăng tiền ra cho mình mà họ
không có sơ múi gì."
Chị vuốt ve một nhánh tóc tôi, rồi ngọt ngào mơn trớn:
"Em đã thấy chị uống giỏi nhất trong bar này ít ra chị cũng bầm dập.
Ngoài ra chị còn có cái bí quyết đặc biệt nữa…"
Chị dừng lại như sợ người ngồi cạnh tôi nghe. Chị kề miệng vào tai tôi nói rất
khẽ:
"Em phải biết cách điểm huyệt họ, làm cho sự khoái cảm của họ sôi lên
thì mới mong trút bóp họ…"
(Lao vào lửa, trang 60-61)
Cô gái mới vào nghề nghĩ rằng minh bị xúi bậy nên cương quyết không thực hành
lời khuyên vì thế, đêm này qua đêm khác nàng vẫn đói rách trong vai thu ngân
viên, lương tháng ba ngàn. Nhưng rồi cái gì đến sẽ đến, chiếc áo màu thiên
thanh được vĩnh viễn quăng vào xó tủ và bộ đùi trắng xanh lộ ra với chiếc
mông tròn bó chặt trong chiếc jupe, hai cánh tay nõn nà để hở đến nách, đã biến
cô nữ sinh thành kẻ khác. Tina, cái tên mới bắt đầu nhập cuộc.
Một tên Mỹ “ngọt” đã mê Tina, mỗi đêm hắn trở lại với bó hồng đỏ thắm trên
tay và những ly nước trà thay rượu được gọi tơi bời. Gã đàn ông lông lá đó
yêu Tina thực, nên đã không tiếc tiền, mua tặng nàng cả nhẫn kim cương. Được
khách chiều đã là nỗi vui cho riêng mình nhưng cũng làm bạn bè ghen tức qua lời
nói cạnh khoé:
"Gái trinh mới có giá như vậy chớ. Còn tụi tui tan hoang như ống cống
thì chỉ có cách kiếm tiền mua hột xoàn giả!…"
Lời nói có độc nhưng không sai. Nó là luật chơi. Thời gian qua đi mau chóng
và những đêm nối tiếp nhau trong cái không khí khốn nạn này, làm sao tránh được
cái kết quả tất nhiên cho mỗi số phận đang quay cuồng giữa vực, ngay cả chị
Năm nữa, người đã cho Tina bài học vỡ lòng cũng đang bị cuộc đời tặng những
cú tát nảy lửa. Cái không khí vui nhộn giả tạo nơi đây được thay bằng màn bi
kịch ngắn giữa chị Năm (có tên Jane) với một tên Mỹ. Tên Mỹ thuộc thành phần
chống Sài Gòn-Tea, nên nó đến để trả thù. Nó nói với chị Năm rằng, tối nay chị
muốn uống bao nhiêu cũng được với điều kiện mỗi lần uống, chị Năm phải nghe
nó nói một câu thôi. Câu đó là câu gì, chị Năm chưa biết, nhưng trước mớ tích
kê lớn lao, chị khinh bạc và bằng lòng.
Tên Mỹ gọi bồi đem ly whisky và ly trà thứ nhất. Nó tợp một hơi cạn ly rượu rồi
đưa ly trà cho chị Năm, gằn giọng:
"Uống nước đái tao đi Jane!"
Chị Năm lạnh lùng uống ly trà nước đái Mỹ rồi dằn mạnh ly thách thức:
"Nữa đi Bob, tao chờ câu thậm tệ hơn của mày."
Thằng Bob lại gọi bồi đưa ly rượu và nước trà.
"Uống nước đường mương và nước ống cống đi Jane."
Chị Năm lại hùng hục uống. Rồi ly nước thứ ba, thứ tư và tiếp tục với những lời
thô bỉ nhất do tên lính Mỹ nghĩ ra, cho đến ly thứ một trăm.
Cuối cùng tên Bob chịu thua gan lì của chị Năm. Bây giờ đến lượt chị Năm kêu
hai ly whisky “sec” chị ta đưa gã một ly, chị uống một ly, đột nhiên chị nhổ
ngụm nước miếng từ miệng chị bay thẳng tới mặt gã, rồi chị ném ly vỡ tan tành
với lời chửi: "Đồ man rợ!" Chị đưa hai tay cấu vào mặt gã, Bob chụp
lấy cổ chị Năm xiết mạnh. Cuối cùng, hắn vẫn phải móc bóp trả tiền bước mạnh
ra khỏi quán. Câu: "đồ man rợ", chị Năm chửi tên Bob, văn minh quá,
sự thực, ở trường hợp này, người đàn bà Việt Nam có ngôn ngữ riêng, rất nôm
na nhưng vô cùng thực tế. Có lẽ, vì kính trọng độc giả nên Thuỵ Vũ không viết
thành văn.
Cứ như thế, như thế, đồng tiền và dục vọng thắt dần con người vào một vị trí
nhất định, muốn thoát cũng không được. Tina đã trở thành gái bán bar lành nghề
và đêm nào cũng đi khách, nàng chỉ ngủ được vào khoảng hai giờ sáng và giấc
ngủ thường bị gián đoạn. Đôi khi mệt, cứ ngủ thức chập chờn mặc khách hành sự,
xong lúc nào cũng chẳng hạy! Tụi đàn ông Mỹ làm ái tình rừng rú lắm, Tina đã
quá quen thuộc đến nỗi mất cả cảm xúc và trở thành nhà nghề lúc nào cũng
không biết.
Kỹ thuật hành văn của Thụy Vũ đôi khi tàn nhẫn, nhưng dữ kiện được đặt ra bao
giờ cũng minh triết. Người đọc cảm thấy như đang chứng kiến cái khung cảnh kỳ
quái đó ở phía trước, và nhà văn đang đóng vai đạo diễn mà giấu mặt đâu đây,
miệng tủm tỉm cười, nụ cười tinh nghịch và thông minh. Những trạng huống khốn
khó mà con người phải gánh chịu ở trần gian này không phải tự nó hình thành
mà có hoàn cảnh hỗ trợ. Nếu không gặp lan, không gặp Agnès, nếu không có chị
Năm thì cô nữ sinh ấy làm sao trở thành một Tina, trở thành một vấn đề cho xã
hội?
Từ cái khung cảnh hỉ, nộ, ai, lạc của Sài Gòn-Tea, Thuỵ Vũ đi vào khung cảnh
khác, ở đấy, không còn hoa bướm, không còn ánh đèn mờ ảo, không còn tích kê,
không còn những bàn tay lông lá lượn tròn trên da thịt, không còn đam mê, chỉ
còn lại cái cười ngượng ngập, lời nói lạnh lùng và nỗi đau đớn chảy từ trong
tâm não thoát ra ngoài. Những cái tên Lina, Jackie, Nga, Bích v.v… gắn liền với
những con số in đậm nét trong sổ bộ của nhà thương Bạc Hà.
Từng khuôn mặt chai sạn trình bày đến trơ trẽn vì quá quen thuộc. Bị lính kiểm
tục giữ, sau khi “lên bàn”, nếu không bệnh, được tha, nếu có, phải nằm lại.
Có người ra vào nhiều lần đến nỗi tưởng như nơi đây là nhà thứ hai của mình.
Họ thông thuộc lề lối làm việc cũng như tổ chức của bệnh viện. Những lời nói
sỗ sàng, chớt nhả được ném vào mặt nhau bừa bãi để giải buồn. Người ta không
tìm thấy một chút e dè ngượng ngập trong cách thức sinh hoạt giữ vòng đai bệnh
viện, từ vài khuôn mặt mới,
… Lina tay khoanh trước ngực, lơ đãng nhìn đăm đăm về phía trước. Bỗng chị vỗ
vào vai tôi - Nếu ngày mai lên bàn mà tao bị “kẹt”, mày ra được, nhớ lại nuôi
tao nghe hôn? Tiếng “lên bàn” như tiếng pháo chuột làm ê ẩm đầu óc tôi. Tôi hỏi
chị: - "Trường hợp nào mình bị giữ lại?" - "Máu xấu! Có nhiễm
trùng".
(Lao vào lửa, "Đêm nổi lửa", trang 99)
Những người con gái bị đưa vào đây đều khổ sở về chuyện mất tự do nhiều hơn
chuyện khác. Họ đã quen sống cuộc đời phóng túng của lũ ngựa hoang với những
bất ngờ mỗi ngày, mỗi tối, nay họ phải cúi đầu phục tùng kỷ luật, thứ kỷ luật
đúng giờ, đúng giấc qua tiếng chuông làm họ phát điên. Nhất là những buổi chiều,
họ nhớ đến không khí đam mê dành riêng cho họ với thân xác khoẻ mạnh của những
người đàn ông xa lạ, những ly rượu và bao nhiêu lôi cuốn khác. Tuy cuộc sống
thực của họ không có gì đáng khích lệ, nhưng họ muốn thế, ông trời đã bắt họ
phải như thế, và họ chỉ lo sợ ngày nào họ không được phép núp giữa bóng tối của
một con ngõ nào đó chờ khách, hoặc ở căn phòng có giường nệm mút, ôm chặt một
thân xác lông lá mà ngủ vùi sau nhiều lần hành lạc,
… Bước tường vôi trắng và những chiếc giường sắt trùng điệp như bủa kín lấy
tôi. Đây là thế giới đạo đức có trách nhiệm hoán cải tôi. Ý nghĩ đó làm tôi
chán ghét vu vơ. Lina đã vắt mùng rồi, chị ngồi bó lấy gối đối diện tôi và
Nga. Chị chép miệng: - "Hôm nay có bốn đứa mình lên bàn. Còn mấy bà nội
kia chỉ chờ thả hay được thỉnh về Bình Khang an nghỉ để học nữ công, nữ hạnh."
Jackie bỏ chân xuống xề qua ngồi cạnh Lina. Nàng mỉm cười nhìn chúng tôi: -"Bích! Mày mới nhào vô đây lần đầu, còn tụi tao thì năm hồi mười hiệp rồi,
khó mong tránh khỏi bà chúa ngục Bình Khang hú lắm!"
(Lao vào lửa, "Đêm nổi lửa", trang 107)
Những ý nghĩ của họ được phản ánh qua lời nói. Họ chấp nhận nó như chấp nhận
những giọt thuốc độc nhẹ, sẽ làm họ chết mỏi mòn trong hoan lạc, còn hơn được
tiếng lương thiện với những bó buộc làm mất cái thú sống ở đời.
Nhưng, xã hội không cho phép họ được gây ung độc làm xấu xa toàn thể những kẻ
vô can, nên họ phải gánh chịu những phiền luỵ cuộc đời, với lính kiểm tục, với
không khí chán nản của bệnh viện, với dụng cụ y khoa sáng loáng, với dao kéo
và ống chích, với chiếc bàn cao lênh khênh, với nét mặt lạnh băng của những
người bác sĩ hoặc cô y tá, với tiếng chuông mỗi sáng, mỗi trưa, mỗi chiều.
Nhưng cũng may, họ không hoàn toàn cô đơn, các bạn đồng nghiệp chưa “bị” vẫn
thăm nom, an ủi họ và cho họ biết tin tức bên ngoài. Để tránh cảnh giam hãm
mà sức họ không chịu nổi quá lâu, họ tính kế thoát ra khỏi nơi này, để tiếp tục
chuỗi ngày đam mê nhục thể và để đón mùa xuân sắp tới. Jackie đã cầm đầu vụ đốt
bệnh viện vào lúc hai giờ sáng bằng bông gòn tẩm dầu hôi. Bệnh viện náo loạn
với tiếng người kêu, với còi hụ của xe chữa lửa. Lợi dụng cơ hội này những
người con gái cởi quần áo buộc lại làm thang leo qua tường thoát ra, có cô chỉ
còn mặc chiếc si líp.
Hòn đá ném xuống mặt hồ, một bụm nước tung lên rồi tản ra thành những chiếc
vòng lớn dần, lớn dần, trong nháy mắt mặt hồ lại êm ả như cũ.
Câu chuyện thật bất ngờ nhưng vô cùng lý thú qua ngòi bút của Thuỵ Vũ. Khi viết
truyện này chắc nhà văn nhớ tới câu của Chúa Jésus: Cái gì của César phải trả
về César! Và luật lệ, đàn ông xã hội chỉ còn là con đê nhỏ đã bị thẩm lậu qua
nhiều mùa nước lũ, chờ dịp bị băng tràn.
Nguyễn Thị Thụy Vũ, một nhà văn phong phú, luôn luôn tìm về cho mình nguồn
sáng tạo mới. Nhưng dù ở môi trường nào, Thuỵ Vũ vẫn bắt gặp những băn khoăn,
rã rời ngay cả với tình yêu đang ươm hồng tuổi trẻ xuyên qua thân phận mình
và quê hương có dòng sông Long Hồ thuộc tỉnh Vĩnh Long. Những cuộc tình đi
qua trong tiểu thuyết hay trong thực tế chỉ mang lại đắng cay,
… Sau vài cuộc tình ái phất phơ, bây giờ tôi mệt mỏi thật sự. Tôi bất chấp dư
luận để sống mà rồi vẫn cô đơn. Tìm được kẻ mà mình đắc ý, tính cho chàng ta
đắc cử vào giấy hôn thú thì tôi gặp cảnh hụt đõi luôn luôn. Bây giờ tôi bám
vào Duy để lấp vào những ngày trống rỗng. Chàng nhạt nhẽo quá. Tôi đã mơ cao
để rồi số tuổi càng ngày chồng chất theo nỗi chán chường…
(Chiều mênh mông, "Đêm tối bao la", trang 44)
Thân phận người con gái, nhất là con gái làm văn chương bao giờ cũng đặt ra với
mình nhiều nghĩ ngợi, với từng giọt đắng thấm vào tâm hồn làm khô dần ước muốn.
Mỗi ngày qua đi, hoàn cảnh vẫn y nguyên trước mặt với ngần ấy rụng rời, ngần ấy
băn khoăn làm nhà văn sững sờ, tê tái. Tuổi trẻ có mặc dù là con gái, không
phải chỉ quẩn quanh với những chứng tích thuộc về quá khứ mà từng sự vật như
nhắc nhở, như gò ép thân phận vào khuôn thức không mấy thích hợp. Tương lai
là của ai đó, và sự chờ đợi nào có ích chi khi mình đã đoán biết những gì
đang đón ở cuối ngả đường ước vọng! Một người tình không như ý muốn, một nếp
sinh hoạt lạnh lẽo và nỗi cô đơn trải rộng trước tầm nhìn. Còn những đêm dài,
ôi! Những đêm dài hoang liêu với xúc cảm bơ vơ, với buốt giá tâm hồn, với ray
rứt triền miên, vật vã qua làn ánh sáng vàng vọt của tin yêu. Kèm theo đấy,
vóc dáng khốn khổ của người đàn bà già luôn luôn sống trong cơn hoảng hốt với
ác mộng! Cái thân phận già nua khốn khổ đó qua mấy lần đam mê tình ái chẳng
còn lại gì ngoài kỷ niệm xót xa, vì người bạn tình thứ hai, ông Năm Còn đã tặng
cho bà một túi vi trùng hoa liễu, làm rụng cả hai hàm răng, nhưng không phải
vì thế mà lòng dục của bà tắt đi. Đêm đêm vẫn thường có tiếng la thất
thanh,
"Mợ Hai ơi! Con Linh (nhân vật xưng tôi trong truyện) bị mấy thằng sửa cầu
hãm hiếp, máu ra đầy quần nè! Mở cửa mau đi!" Tôi nắm vai bà lắc mạnh
hét:
"Tôi đây, tôi đây nè!"
Bà Điếc vẫn la thất thanh:
"Ai cứu nó. Trời ơi! Nó là con gái mà" Nhìn đôi tay run rẩy của bà,
tôi chợt hiểu. Bây giờ là lúc bà đang sống ở một trạng thái mê loạn, quái đản.
Tôi gào lên:
"Tỉnh đậy đi bà! Tôi đâu có đi ra khỏi nhà." Bà Điếc ngẩn người một
lúc rồi nhếch cái miệng méo xệch, không còn một chiếc răng giống hệt cái miệng
rùa, cười tỉnh cơn mê:
"Vậy hả! Mầy không việc gì sao? Tao thấy…"
(Chiều mênh mông, “Đêm tối bao la , trang 39)
Hai thân phận một già mê loạn, một trẻ khắc khoải cứ phải nhìn nhau, chịu đựng
nhau, trong những suy nghĩ khác nhau giữa một khung cảnh buồn nản của ngôi
nhà cổ đã có một thời oanh liệt. Những ngôi mộ nằm rải rác, nơi nghỉ chân của
những đàn quạ rỉa lông với tiếng kêu chát chúa. Vài líp rau bỏ vắng, những gốc
cây cổ thụ, tổ của lũ chồn đèn, chồn mướp đêm đêm rình bắt gà vịt. Và ngôi
nhà mái thấp, từng cụm rêu màu xanh mướt, như những dấu vết thời gian in đậm
vào cảnh vật và lòng người. Khung sống đó càng lúc càng thê thảm. Bà Điếc
cũng qua đời sau nhiều ngày nằm bệnh, thuốc thang. Hai thân phận tách rời để
người còn lại phải gắn liền vào số mệnh khắc nghiệt cũng do tình ái khơi nguồn.
Người con gái chợt biết mình đã mang thai, rồi phá thai để tránh tiếng. Mặc cảm
sát nhân đã cấu xé lương tâm một cô gái từ chối bổn phận làm mẹ! Nhưng cuộc đời
phía trước còn cho nhiều mơ mộng, nàng sẽ dùng phương tiện cuối cùng mình có
được, như hai lạng vàng và chiếc máy may để cố hàn gắn lại nhan sắc đã suy sụp
do vụ phá thai,
… Đời em chưa hẳn tàn nha là cảnh chợ chiều. Em sẽ chắt mót từng đồng để tìm
bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ. Em sẽ bơm cái ngực teo trở thành cái ngực vĩ đại, sẽ
nhờ ông ta vá lại màng trinh. Để rồi anh xem. Em sẽ lấy chồng sĩ quan Thủ Đức!…
(Chiều mênh mông, “Đêm tối bao la”, trang 67)
Người con gái phải trả giá cuộc đời quá đắt. Tình yêu chỉ mang lại cho nàng
cái kết quả bi đát. Những giây phút thần tiên sống bên nhau, cho nhau mặn mà,
nồng thắm, du dương thể xác qua rồi, qua nhanh như cơn gió đêm hè mà buồn
thương, ân hận thì lãng đãng suốt đời!…
Những nhân vật con gái trong tác phẩm của Thuỵ Vũ không ai gặp may mắn và hạnh
phúc. Tất cả hình như đã được an bài trong một bối cảnh ngột ngạt mà mỗi số
phận phải chia sẻ một phần tủi nhục. Từ người con gái ngây thơ trinh trắng tới
các cô gái làng chơi, sự an bài nào đấy đã chờ sẵn ở cửa ngõ định mệnh. Phá
thai, một hình thức sát nhân, nhưng ở vài trường hợp, người ta coi như chuyện
thường tình, vì nếu để lại, người mẹ sẽ chết vì ô danh hay túng thiếu, hoặc
vì muốn nhẹ nợ chồng con để tự do bay nhảy.
Thuỵ Vũ đã dùng ngòi bút thật uyển chuyển, đưa người đọc vào một khung cảnh, ở
đấy, câu chuyện phá thai với các chuyên viên hành nghề bất hợp pháp. Biết rằng,
mỗi lần phá, mỗi lần ân hận. Nhưng không phá lấy gì mà sống? Những đường con
bay bướm quyến rũ đàn ông sẽ không còn nữa và cuộc truy hoan huyên náo không
thể tiếp diễn, rồi những ngày đêm giam mình trong phòng kín chờ lúc “bể bầu”
làm họ phát điên. Lẽ đơn giản, họ không thuộc hạng đàn bà nặng tình mẫu tử.
Thế giới của họ là quán rượu, là những thân thể đàn ông trần trụi, là ánh đèn
mờ ảo, là những mệt mỏi rả rời trong kích thước chiếc giường nệm “mút”. Tuy
chuyện phá thai cũng làm họ sợ không ít, nhưng họ lại sợ cuộc đời hơn, nên họ
vẫn cúi đầu tuân theo luật sống,
… Tôi dừng lại, ngạc nhiên vì số người có mặt ở đây đông đảo. Mọi người yên lặng,
những đôi mắt đợi chờ trộn lẫn lo âu chốc chốc hướng về căn buồng với cánh cửa
màu da trời đóng im.
… Tôi quay sang bà bên cạnh gợi chuyện:
“Bà đến đây lần đâu phải không?”
Thiếu phụ phục sức sang trọng với bộ đồ lụa phơn phớt vàng, nàng nhìn tôi mỉm
cười:
“Lần thứ ba rồi.”
Tôi không bỏ lỡ cơ hội, phỏng vấn ngay:
“Đau lắm không bà?”
Thiếu phụ lắc đầu mỉm cười trấn an tôi…
… Thành ló mặt ngoắc tôi vào phòng biểu tôi ngồi xuống chiếc giường sắt loang
lở nước sơn xanh. Chiếc chiếu mới trải trên mặt giường. Ngọn đèn néon bật
sáng. Mụ chủ biểu tôi nằm xuống rồi lôi chiếc bassin để ở dưới gầm giường kẹp
miếng bông gòn trong cái pince de crochet lau sơ qua một lượt đoạn đặt dưới
mông tôi. Chiếc quần sa-ten đen của tôi tuột dần xuống rồi rút ra khỏi đầu
ngón chân cái…
… Mụ lôi chiếc ngăn kéo lấy ra cái mâm nhỏ đựng vài sợi thun đỏ dài bằng chiếc
đũa ăn cơm bít đi một đầu.
Mụ vuốt đùi tôi dỗ dành:
“Em đừng lo, qua sẽ làm cho em rất êm, không có chút gì đau đớn hết.”
Mụ ung dung lấy cây sắt trên tường cho vào ống thun.
… Tôi chỉ nghe chiếc đũa sắt đang nô giỡn trong tận cùng sâu kín của thân thể…
(Chiều mênh mông, “Cây độc không trái”, trang 166-168)
Thuỵ Vũ viết tàn bạo một chút ở vấn đề này, nhưng cuối cùng câu chuyện cũng
được mở ra một cách thoải mái qua hình ảnh đứa bé mút ngón tay trỏ, trong lịch
quảng cáo sữa Guigoz với câu nói: Tao cần giữ một đứa trẻ nào đó để tao coi
mình có thích thú làm mẹ hay không? Câu nói hơi chủ quan đấy, chuyện có con
đâu phải hễ muốn lúc nào được lúc đó, nhất là đối với các cô gái hành nghề
truy hoan!
Viết về sa đọa của xã hội, đúng ra, đã nhiều cây bút viết trước Thuỵ Vũ, tuy
hình thức có khác, nhưng nội dung chỉ là một. Những sự việc, dù được trình
bày dưới khía cạnh nào, vẫn có mục đích, đặt trước lương tâm xã hội một vấn đề,
còn giải quyết ra sao, không thuộc thẩm quyền nhà văn. Thuỵ Vũ viết, chính đã
giải toả cho mình nỗi dằn vặt trong thâm tâm với thân phận đàn bà, với những
thiệt thòi minh bạch đã từ lâu bị khoả lấp vào quên lãng, nay được khơi động
lại từ dưới đáy vực những chứng tích xác thực, hiển nhiên, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ
không hoàn toàn ném mình vào cuộc sống bỏng cháy hoan lạc cả đâu. Thuỵ Vũ đã
đốt ngọn đèn tâm tưởng để truy nguyên quá khứ, để giành giữ cho mình những
khung trời tuy không trong sáng bao nhiêu, nhưng cũng vừa đủ soi tỏ bản thân
với tác phẩm Khung rêu (1969). Kỹ thuật dựng truyện ở Khung rêu , Thuỵ Vũ
quay về phương pháp cổ điển, nghĩa là nội dung được dàn trải quanh một cơ cấu
(structure) ở đó, Thuỵ Vũ chạm trổ những gì đã được ấn định trong tâm thức.
Khung rêu, tác phẩm dài, trình bày một nếp sống đã qua rồi, trong bối cảnh ngột
ngạt của gia đình ông Phủ, tượng trưng cho giai cấp quan liêu, phong kiến đã
một thời oanh liệt, sống nghênh ngang trên xương máu lê dân. Để minh định vị
trí của mình, tác giả trình bày lý do đã thúc đẩy để hoàn thành tác phẩm
đó,
Từ hồi còn nhỏ, tôi đã phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ
rạc của một gia đình thịnh mãn ở miền Nam. Nguyên nhân chính của sự suy sụp bệ
rạc này thì ai cũng biết: chiến tranh. Một cuộc chiến tranh dằng dai hai mươi
lăm năm, khoảng thời gian gần bằng số tuổi tôi.
… Khi khởi công viết quyển truyện này, tôi đặt trước cho mình một chủ định:
ghi lại cái ám ảnh từ thuở nhỏ dại đó của tôi, trong ước vọng, một lần nữa,
giải toả nó cho xong.
(Lời nói đầu)
Cái xã hội suy sụp và bệ rạc đó, được Thuỵ Vũ gói ghém trong hơn bốn trăm
trang sách với những xâu xé, giằng co, đam mê và tội lỗi đã diễn ra thật sống
động trong một gia đình quyền thế ở miền Nam trước và đầu cách mạng.
Các nhân vật xoay quanh tác phẩm, mỗi người đều được tác giả vẽ bằng những
nét riêng thật độc đáo để cuối cùng nhoà nhạt, chìm vào cái bi thảm không thể
tránh được do sự chuyển vận của lịch sử. Cuốn truyện được khơi động trong
kích thước không mấy rộng lớn, nhưng vừa đủ để nói lên những khía cạnh tâm lý
cũng như xã hội vô cùng chao động, vô cùng đau đớn với các khuôn mặt: ông Phủ,
bà Phủ, Ngự cháu ruột bà Phủ, Tịnh cháu ruột ông Phủ, Canh, Tường, Thụ các
con riêng của ông Phủ và Chiêu, ái nam ái nữ, con chung của ông bà Phủ, lão Tự - tên gia nô trung thành, Ngà - đứa con gái ở đợ vài năm để trừ nợ thiếu lúa
cho bố, con Lài, tên Mọt - tôi tớ và Hoàng, bạn Tường - kẻ ở trọ.
Ông Phủ đã về hưu chỉ trông mong vào số lúa thu mỗi năm do các tá điền đóng
góp. Tuy đã có tuổi với hai đời vợ nhưng ông không an phận vẫn còn say mê
tình dục, lang chạ với Ngà, con lão Tám tá điền, đến mang thai. Bà Phủ đảm
đang nhưng khô khan, nghiệt ngã trong vấn đề giáo dục, lúc biết chồng ngủ với
tôi tớ, giận đến lúc chồng chết vẫn chưa tha thứ. Canh, đứa con trai lớn,
chơi bời truỵ lạc, muốn làm một thứ Bạch Công tử, nhưng đôi khi, trong đầu lại
nuôi ảo vọng cải hoá xã hội! Tường, đứa thứ hai, dốt nát bạc nhược, mê gái.
Thụ tương đối có ý thức và cũng là nhân vật được tác giả nâng niu nhất trong
cuốn truyện. Chiêu, vì trời bắt tội, nên chả ra làm sao. Ngự đứa con gái trắc
nết, yêu vì quyền lợi. Tịnh con gái đáng thương, đem tình yêu trao tặng cho
trai không xong, thất vọng, nổi điên mà chết. Lão Tự, tượng trưng cho tấm
lòng nhân hậu cổ sơ ngày trước, bây giờ không còn tìm thấy. Con Ngà, cam chịu
số phận, cũng biết đam mê. Con Lài và thằng Mọt được dùng như cái chốt an
toàn của bộ máy. Còn Hoàng, gã thanh niên lạc loài đến khung cảnh này gây rắc
rối tình cảm cho Tịnh, cho Lài và cả Chiêu nữa, tự nhiên bỏ đi!…
Đó, từng ấy nhân vật, từng ấy cá tính, quấn riết lấy nhau, hành hạ lẫn nhau,
trong một môi trường sắp vỡ nát và mỗi thân phận cuối cùng đều tan rã như bọt
bèo trôi nổi trong đại dương cuộc đời hay khuất chìm vĩnh viễn vào lòng đất.
Câu chuyện bắt đầu vào những này cuối năm, mọi người đều bận rộn chuẩn bị cho
mấy ngày Tết, nhất là ông bà Phủ, tuy đã có một đời chồng, lấy kế ông Phủ,
nhưng vốn người đảm đang, nên lúc nào cũng vì gia đình nhà chồng mà cố giữ
danh giá qua nếp sống phong lưu, để che giấu thiên hạ sự đang xuống dốc của một
gia đình quan lại. Cái gia đình ấy trông bề ngoài có vẻ êm ấm. Nhưng bà Phủ
chỉ lo được những vấn đề trước mắt như thóc gạo, mắm muối và dạy bảo hai cô
cháu gái vào khuôn phép, thứ khuôn phép được vâng dạ trước mặt. Thụ và Chiêu
học trên tỉnh, trở về ăn Tết với gia đình. Sự hiện diện của hai nhân vật này,
được nhà văn tạo cho nhiệm vụ để gây nên những sự tình, đóng góp thêm cho tấn
thảm kịch gia đình những sự thực không chối cãi. Rồi về sau, vì không chịu đựng
nổi hoàn cảnh khắc nghiệt, cả hai theo cách mạng, chưa chắc đã vì lý tưởng.
Bà Phủ, tuyệt đối tin vào danh dự, tin vào uy thế cũng như tư cách của ông Phủ,
nên bà đâu có ngờ chính ông đã tự tay phá vỡ gia đình mình vì một hành động
dâm đãng. Trong chuyến bà đi thăm người em trai ở miền đất đỏ, ở nhà, ông đã
hủ hoá với con Ngà, đứa con gái miệt ruộng, ở đợ trừ nợ lúa cho cha.
Thụy Vũ viết chuyện ông Phủ và con Ngà với đoạn văn vô cùng bỏng cháy, xác thực
như chính mình được chứng kiến,
… Từ trước, khoảng cách biệt giữa ông Phủ và ả như được ngăn chặn bởi một bức
màn sắt kiên cố. Nét mặt lạnh lùng, lời nói thị oai của ông chủ như đẩy ả vào
khuôn khổ, bổn phận phục dịch trong nhà. Vòng tay ông Phủ siết chặt lấy ả,
hơi thở dồn dập như muốn làm võ toang lồng ngực của ông. Ả không thể kêu cứu
ai được vì chính ả cũng bị sự kích thích hung dữ, mới mẻ lung lạc. Lời kêu cứu
ấy nếu có, cũng chỉ dành cho kẻ đang ghì chặt thân thể mang nhiều lửa cảm xúc
của ả.
“Đừng ông!… con sợ lắm. Bà biết được chắc con chết.”
Bóng tối trong dần… ông Phủ đắm đuối nói:
“Coi kìa… Để quan… thương Ngà một chút.”
Ông Phủ vừa nói dứt câu, Ngà đã bị quật xuống giường lò xo. Toàn thân tê tại,
ả đẩy mặt chủ ra một cách yếu ớt, miễn cưỡng. Ả bất lực trong vùng cảm xúc
sôi trào với cái thân thể rực lửa. Ả lờ mờ ngắm chủ múa quay cuồng như cái bông
vụ…
(Khung rêu, trang 43)
Rồi từ đấy, công việc buông màn, làm giường cho ông Phủ mỗi tối ít nhiều gì
cũng có đụng chạm giữa hai thân xác một già, một trẻ. Giữa lúc đó, mối tình của
Ngự và Tường cũng đang nhen nhúm trong bóng tối, dưới những gốc cây trải rộng
mịt mù hoa trái, với lời yêu nồng ấm đầu môi, với những ước vọng tràn đầy
trong trí tưởng tượng của hai kẻ yêu nhau. Cả Tịnh và Hoàng nữa, họ cũng yêu,
nhưng là thứ tình yêu câm lắng, hờn hận, vì sự không dám dấn thân của Hoàng,
người trai ở trọ, rồi đến Chiêu, tuy ái nam ái nữ mà cũng say mê Hoàng như
say mê một người tình thực sự. Với Chiêu, có lẽ tác giả cố tạo cho vai trò đã
bi đát này, càng bi đát hơn, khi Chiêu thích làm gái mà bà Phủ bắt Chiêu ra
trò với tác phong con trai, học trường con trai, sinh hoạt như con trai.
Nhưng đau đớn thay, các cơ phận của Chiêu lại nảy nở mạnh về nữ giới. Bởi vậy,
cảm xúc của Chiêu luôn luôn hướng đến con trai, do đó, cơn thèm muốn tình dục
lẽ dĩ nhiên chỉ nghĩ về giống đực. Thuỵ Vũ cho Chiêu mê Hoàng một cách tuyệt
vọng trong đoạn văn,
… Hơi thở Hoàng toát ra sự đầm ấm. Chiêu chìa bàn tay đặt lên bụng Hoàng và
bàn tay chàng mắc cạn luôn ở đó…
… Từng giọt thời gian chậm chạp nhỏ xuống tâm hồn Chiêu như chất cường toàn rỉ
rả trên da thịt. Chiêu vụt ứa nước mắt, lẩm bẩm: Nếu mình là con gái?…
(Khung rêu, trang 211)
Cả con Lài nữa, không cam phận tôi đòi cũng say mê chàng trai biết kéo cây
đàn cò tây rỉ rả, làm tên Mọt, gã gia nhân lai Miên, ghen tức ấm ức trong
lòng. Lão Tâm, bố con Ngà đâu có ngờ sự việc lại xảy ra quá quắt như vậy? Làm
tá điền, đến mùa thiếu lúa góp vì quá nghèo, lão đành đem thế chân bằng đứa
con gái duy nhất ở đợ, trừ tiền nợ cho chủ điền. Con Ngà đã được lão hứa gả
cho thằng Đực, người chòm xóm, cũng là tá điền của ông Phủ. Đực, gã nông dân
quê mùa nhưng cũng biết đắm mê sắc đẹp người vợ chưa cưới xin. Trong ngày nộp
lúa, Đực chỉ mong nhìn lại mặt người yêu cho đỡ nhớ. Nhưng vụ lúa năm nay Ngà
cố tình tránh né không cho Đực gặp. Linh tính đã báo cho Đực biết có gì thay
đổi trong lòng người yêu. Đực hỏi ông Tám, ông lặng thinh lơ đãng nhìn ra
sông, vì trong lòng cũng cảm thấy con mình đã khác trước, nó không còn cười
giỡn hồn nhiên như xưa. Nhưng cũng để an ủi đứa con rể hờ, ông vẫn đoan quyết,
trừ xong nợ lúa, sẽ gả Ngà cho Đực. Đực, tuy quanh năm cày sâu cuốc bẫm mà
cũng tinh tường lắm. Gã đoan chắc có trục trặc cho phận mình, nhất là lão Tư
lại nói sẽ làm mai Lài cho gã. Sự thực, gã thèm khát cái thân thể mơn mởn của
Ngà. Trước khi về xứ, gã muốn chiếm Ngà, ngày mai ra sao, mặc kệ. Đêm trước
ngày về, gã thực thi ý định bằng cách vào buồng Ngà để cưỡng bức ân ái. Gã đã
toại nguyện và thân xác Ngà lại bị xâm phạm bằng cường lực, lần này dũng mãnh
hơn lần với ông Phủ, vì Đực còn trẻ, thật sung sức.
Thuỵ Vũ viết đoạn này có lẽ hấp tấp chăng, hoặc chưa điều nghiên kỹ? Vì thực
tế, không dễ dàng gì nhét được chiếc khăn vào miệng con gái để chặn tiếng
kêu, hơn nữa, thời gian bế cô gái từ trên chiếc giường tre xuống đất, có ai cấm
cô gái la lên nếu không thuận, khi ngay sát vách, lão Tư vẫn trở mình húng hắng
ho. Cưỡng bức ái tình không phải chuyện dễ, nhưng người đọc cũng biết chắc sự
việc này được diễn tiến hoàn toàn do có tưởng tượng, vì thế, không thể tránh
khỏi sơ hở về nhận xét, dù là nhận xét qua lăng kính suy luận. Bởi vậy, những
tiếng kêu: cứu cháu, ăn trộm… càng làm cho sự giả tạo thêm rõ ràng.
Cái bối cảnh gia đình ông Phủ cứ từng bước một, tan rã lần lần qua mỗi sự vụ.
Chuyện Ngà mang bầu với ông Phủ không còn giấu được ai, trừ bà Phủ vì quá tin
tưởng vào danh giá và lòng tự tôn của ông chồng. Những lời của Thụ, đứa con
trai thứ ba, nói với ông Phủ như từng gáo nước lạnh dội vào giữa tâm can vị
quan già bê bối, trong lúc ông đang mê mải vui ngắm đàn cá lia thia tàu vàng
rực bơi lội tung tăng dưới đám rong rêu,
… Ông Phủ nhìn chăm chú vào mặt nước trong veo. Thụ ngó quanh một lúc ngập ngừng:
“Thưa ba, con muốn nói với ba một chuyện khá quan hệ.”
Ông Phủ hơi sửng sốt:
“Con cứ nói.”
“Chị Ngà đã có mang.”
Ông Phủ hốt hoảng:
“Sao… sao con… biết?”
Thụ cười buồn:
“Chị ấy thú thật với lão Tự… Lão Tự nhờ con nói lại với ba, nhờ ba giải quyết
giùm chị.”
Ông Phủ đứng sát gần Thụ hơn và hạ thấp giọng:
“Nó đã có mang với…”
Thụ tiếp lời cha:
“… với ba. Đáng lẽ chị phải tỏ thật với ba, nhưng chị còn ngại.”
“Biểu nó lên gặp ba tối nay.”
(Khung rêu, trang 140-141)
Từ phút ấy, trong lòng ông Phủ như có sợi dây thắt lại. Đã thế, hình ảnh
Canh, đứa con trai lớn lại hiện ra như châm chọc vào uy quyền ông. Canh hư hỏng,
ăn chơi, nghiện hút, bố chưa chết đã đòi chia gia tài. Mỗi vụ lúa trở về lấy
phần bán đi lên tỉnh ăn chơi cho sướng thân. Đã có lần, Canh ăn nói hỗn xược
bằng cách doạ ông, hắn sẽ vô đạo Thiên Chúa để khỏi cúng giỗ thờ phượng ai hết.
Ông mỉa mai lại bằng lời nói cay đắng,
“Mày lo gì, tao mà chết rồi, mày chịu khó quàn xác tao lại trong nhà này chừng
mười ngày, nửa tháng. Chừng đó, thiếu gì người đến đem tiền phúng điếu để mày
kiếm chác thêm mớ nhắm nộp cho tiệm hút.”
(Khung rêu, trang 145)
Sự không may cứ tới tấp rơi xuống kích thước này như những tiếng sét. Mọi người
đều vui đùa một cách giả tạo vì mỗi thân phận đang bị cấu xé bởi lý do riêng
biệt. Ngà nằm bệnh vì bị bào thai hành, nhưng do tập tục ngày Tết, nàng vẫn
phải lên nhà chào mừng ông bà Phủ sáng mồng Một, với tư cách tôi tớ,
… Giọng bà Phủ làm ả chợt tỉnh:
“Sao? Chúc ông bà năm mới cái gì đây? Nói hết câu cho bà nghe coi.”
Ngà nắm hai bàn tay vào nhau, ngập ngừng:
“Năm mới con chúc ông bà… trường thọ.”
Bà Phủ cười cởi mở:
“Dữ ác hôn?”
Bà day lại giục chồng:
“Thôi lì xì cho nó lấy hên đi ông.”
Ông Phủ ngập ngừng một chập, trao gói tiền mừng tuổi cho Ngà rồi lặng lẽ đi lại
chỗ khay trà.
Bà Phủ truyền lệnh bằng một giọng lanh lảnh:
“Ông cho thì cầm đi để có mà xây xài trong mấy ngày Tết…”
(Khung rêu, trang 154)
Thụy Vũ viết thật chắc và mô tả tâm lý rất sát trong đoạn văn tuy ngắn nhưng
tóm gọn được tất cả mọi khía cạnh của vấn đề. Ngà bóp nát số tiền ông Phủ cho
trong lòng tay căm giận, tủi hổ, xong lại chui vào căn buồng nhỏ hẹp, khóc
cho thân phận. Nhưng rồi bà Phủ cũng biết Ngà có thai, sau khi mời ông Bàng đến
bốc thuốc xem mạch. Bà nghi quanh quẩn cho những ai ai chứ không dám ngờ ông
Phủ. Về phía ông Phủ, biết rằng giấu không được nữa đành thú thật với vợ, cái
bào thai đang hành hạ con Ngà là của ông.
Bà Phủ cắn chặt hàm răng, không nói điều gì xúc phạm hoặc trách móc chồng nửa
lời. Bà muốn thu xếp cho tên Mọt nhận cái thai trong bụng Ngà, ông không chịu.
Từ bữa ấy, ông ngồi ăn cơm một mình, còn bà luôn luôn lẩn tránh khỏi giáp mặt
chồng. Không muốn nhìn thấy ai nữa, vì chuyện xấu xa kia, bà lấy tiền của
riêng, cất một căn nhà sàn ở mé sông, sống một mình. Trong nhà có thờ Phật
Quan Âm. Bà Phủ cạo đầu để mong rũ sạch nợ đời, lấy kinh kệ làm vui chuỗi
ngày còn lại.
Trong lúc đó, Ngự cũng đã mang bầu với Tường con trai thứ ông Phủ. Sau nhiều
suy tính, Tường nghe Ngự ăn cắp đồ vật, vàng bạc của cha rồi cùng người yêu
đi xây tổ uyên ương. Buồn thay chỉ mấy tháng sau, cái tổ ấy vỡ vì tình yêu
không thể nuôi bằng ảo tưởng. Họ lại quay về dưới mái nhà xưa với cái bụng
chình ình và để nghe những lời sỉ nhục của ông Phủ.
Ngà thay bà Phủ mỗi tối lên nằm giường lò xo và hiến dâng xác thịt cho ông Phủ,
lúc này vì chán cảnh gia đình nên ông chẳng mấy tha thiết làm Ngà buồn và nhớ
Đực. Canh lại lù lù trở về bán lúa và gây sự với cha về cái hành động bỉ ổi,
nhơ nhuốc với Ngà. Rồi lão Tám với đau đớn khi đinh ninh lên đón con về gả chồng
vì đã mãn hạn nợ. Lão Tám đâu muốn làm tía ông Phủ. Lão chỉ muốn giữ lời hứa
với Đực và mong con gái dù có lấy chồng cũng ở gần mình để trông nom lão lúc
về già. Lão căm giận và có ý nghĩ phải bắt Ngà về bằng mọi cách dù phải trả bằng
máu! Nhưng ý nghĩ chỉ là ý nghĩ, trước mặt ông Phủ, lòng hăm hở của lão Tám
chùng xuống. Lão đi những bước nhẹ nhàng, lòng vẫn sợ sệt thứ uy quyền tuy đã
thuộc về dĩ vãng,
… Ông Phủ mở đầu câu chuyện:
“Chú tính lên rước con Ngà về dưới phải không?”
Ông Tám đáp nhỏ như không dám xác nhận:
“Dạ!”
Ông Phủ chau mày:
“Theo tôi, con Ngà trong lúc bụng mang dạ chửa, chú nên để nó ở trên này. Tôi
sẽ hết lòng lo cho mẹ con nó vuông tròn.”
Ông Phủ ngừng lại, dò xét phản ứng trên mặt mặt người đối diện, rồi tiếp lời:
“Dầu gì đi nữa, nó cũng là vợ tôi. Đứa nhỏ trong bụng nó do khí huyết tôi tạo
ra, lẽ nào tôi làm ngơ cho đành đoạn. Nếu chú bằng lòng để tôi sai trẻ nó về
rước chú lên nở với anh Tự cho vui. Hai anh em bạn già hủ hỉ với nhau cho có
bầu bạn.”
Ông Tám ngồi yên, miệng cơ hồ bị khoá lại. Ông chỉ còn biết gật đầu vâng dạ về
mọi lời đề nghị của ông Phủ, vì như từ lâu rồi, ông thấy mình hèn hạ, bạc nhược,
nhỏ nhoi trước con người mà ông đã nung nấu thù hằn…
(Khung rêu, trang 315)
Lão Tám đâu ngờ con Ngà cũng phụ lão. Nó không muốn quay về nơi chôn rau cắt
rốn vì đã ăn phải bả vinh hoa. Lão Tám phóng lẹ xuống ghe như để dứt khoát với
những tủi nhục nơi đây.
Mối tình của Tịnh lê dần vào tuyệt vọng vì một buổi sớm Hoàng đã giã từ không
gian địa ngục này đi tìm chân trời khác. Đau khổ đã làm nàng nằm bệnh rồi
phát khùng, chết tại nhà thương điên Biên Hoà! Thật đau đớn và tội nghiệp cho
một linh hồn trinh nữ! Đứa con gái Ngà sinh ra cũng chẳng sống được mấy
tháng. Cái dòng sữa quý báu nàng đem nuôi đứa con của Ngự – người đàn bà đoảng,
ích kỷ và trắc nết.
Từ khi Tịnh lâm bệnh nặng bà Phủ bớt khe khắt với Ngà, bà lại ra mặt cai quản
gia đình nhưng vẫn lảng tránh chồng, dù ông Phủ đã nhiều lần muốn nối lại dây
thân ái tình ngãi vợ chồng.
Thụ cũng bỏ nhà vào chiến khu để chống lại giai cấp của cha mình, chống bất
công, thối nát. Ông Phủ lúc này như quay cuồng giữa cơn ác mộng và ông bắt đầu
nhìn rõ những gì Trời đã dành cho mình trong những ngày cuối của kiếp người.
Ông chán hết, ngay cả thân xác nõn nà của Ngà tràn đầy sinh lực, hằng đêm vẫn
nằm bên ông với rạo rực trong lòng. Còn lão Tự hằng ngày, hằng đêm vẫn phải
chứng kiến sự đổ vỡ không tránh được của một gia đình mà lão đã hết lòng phục
vụ, như một nhân chứng bất đắc dĩ. Chiêu cũng ra đi theo Thụ để tránh phải
nhìn thấy cảnh tan rã chung và riêng với mặc cảm thân xác bất toàn. Ông Phủ
lúc này mất hết, mất vợ con, mất nguồn lợi hằng năm vì các tá điền đã theo
cách mạng không chịu nộp lúa nữa. Ông thấy mình gần lão Tự hơn vì lão cũng chẳng
có gì suốt một đời nô bộc. Ông vơ vẩn tự hỏi: không biết bên kia cái chết, có
còn một đời sống nào khác nữa không? Câu hỏi đó, người sống không thể trả lời
được.
Ông chợt nghĩ đến tổ tiên, đến các bậc đã sinh thành ra mình đang có mặt qua
tấm ảnh trên bàn thờ, rồi bỗng nhiên, ông quay cuồng, điên đảo, ông buông
xuôi hai tay ngã quỵ xuống nền gạch lạnh toát…
Nghe tin chồng chết, vì vẫn nặng lòng oán giận nên bà Phủ chỉ ngó sững thây
ma không một tiếng khóc, không một cử chỉ xót thương. Khi cơn uất hận đã lắng
xuống, bà muốn nói với ông vài lời vĩnh biệt, đã muộn! Nỗi hờn ghen của bà Phủ
ghê gớm thật. Nó là một hình phạt ác độc nhất trong các hình phạt mà con người
có thể đối xử với nhau để đoạn tuyệt tình nghĩa phu thê, trăm năm chăn gối!
Thuỵ Vũ đã viết, viết đúng vì ở cuộc sống này đã có, những người đàn bà ghen
như bà Phủ. Lúc thương yêu thì yêu thương da diết, lúc phụ rẫy lại hạ nhục đến
chết mới nghe. Chao ôi! Tình nghĩa, chao ôi! Dục vọng, chao ôi! Cuộc đời!…
Tác phẩm Khung rêu được kết thúc bằng sự băng hoại thê thảm của một đẳng cấp
đã từng thịnh mãn ở miền Nam nước Việt. Hình ảnh Thụ, con người ý thức của
tác phẩm đã hiện lên như niềm hy vọng, tuy chẳng ấm áp gì nhưng có hơn không.
Còn Hoàng, sau những ngày tháng chạy theo cách mạng, đã lấy vợ và có một bầy
con. Trở về Thành làm chủ tiệm xe đạp, không một lần nhắc đến Tịnh người con
gái đã chết vì mình, cho mình.
Một đêm, mười năm sau, Thụ ngồi trước ngọn đèn chong mờ tỏ, giữa một khung cảnh
tan hoang, một tương lai lo lắng chẳng biết có thuộc về mình?…
Nguyễn Thị Thụy Vũ, cây viết trẻ, đã thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ của riêng
mình về cuộc sống tình cảm cũng như xã hội. Nhiều ý tưởng táo bạo, mạnh mẽ
như những nhát búa đập thẳng vào trí não người đọc làm choáng váng mặt mày.
Nhà văn chẳng cần giữ ý, chẳng cần úp mở với những vấn đề được đề cập tới
trong tác phẩm. Ý hướng sáng tạo của Thụy Vũ giống như một thác nước cao đổ
ào ạt xuống triền sâu mặc cho sức đập phá và cuốn theo bao nhiêu cỏ cây hoa
lá, cũng như rác rưởi trôi xuôi theo dòng đời muôn vạn ngả.
Nhưng đích thực, Thụy Vũ vẫn gìn giữ cho mình một phần trách nhiệm, vì trong
mọi trạng huống dù khốn khó đến đâu bao giờ nhà văn cũng mở ra một chiều hướng
tốt, một ý nghĩ tốt cho kết quả. Bởi vậy, đừng có ai khắt khe cho rằng sự dâm
ô trong kích thước văn chương Thụy Vũ là độc tố phá hoại ngấm ngầm ý thức con
người, nó chính là liều thuốc an thần cho mỗi con người đã mất thăng bằng tâm
não. Ngoài những tác phẩm được nói tới, Thuỵ Vũ còn hai tác phẩm: Ngọn pháo
bông và Thú hoang cũng không đi ra ngoài ý hướng chuyên biệt đã tạo nên Nguyễn
Thị Thụy Vũ hôm nay.
Cánh cửa đã mở, xin mọi người cứ thong dong thưởng ngoạn.
Trích văn Nguyễn Thị Thụy Vũ
… Bà Phủ uể oải đứng lên. Ông Phủ vẫn ngồi y nguyên chỗ cũ. Tâm trí ông xoay
tròn trong câu chuyện mà ông sắp sửa nói với vợ ông. Đột nhiên, hình ảnh người
vợ trước hiện lên. Mẹ Cang ngày xưa ngoan hiền trong mọi việc, nhưng đối với
những vụ ngoại tình vụn vặt của ông, bà trở nên dữ dằn, không còn giữ lại
chút lý trí nào. Những hành động âm thầm, những mưu chước tinh vi của bà chỉ
dành cho cuộc lùng bắt, săn đuổi tình địch. Thế rồi những trận đánh ghen sôi
nổi diễn ra: sởn tóc tình địch, thuê một lũ đàn bà đến vây khốn, lột truồng
tình nhân của ông.
Đàn bà ghen thoạt đầu vì tình yêu, dần dà họ ghen vì tự ái bị động chạm và vì
quyền lợi mình bị hao hụt. Cái chết thê thảm của người vợ trước trong lúc ở cữ
sống lại mãnh liệt trong trí nhớ ông. Qua một thời gian sống cảnh gà trống
nuôi con dài đằng đẵng, ông hứa với người quá cố sẽ sửa chữa, tu tỉnh. Nhưng
rồi, niềm ân hận cũng phai đi, hình bóng người chết cũng nhạt nhòa theo năm
tháng…
Ông Phủ nuốt nước miếng, từng cơn lốc lướt qua đầu. Suối hai mươi năm liền sống
với người vợ kế, ông cũng có những mối tình phất phơ không đáng kể. Nhưng bà
Phủ đã tự tin cái địa kiên cố trong lòng ông. Bà đã thắng tất cả những người
đàn bà vây quanh ông vì bà có chút nhan sắc và có thừa công trạng đối với nhà
chồng. Năm nay, bà đã bốn mươi hai tuổi, nhưng mặt mày còn tươi rói, khóe nhìn và nụ cười thật sắc sảo. Bà ăn trầu vén khéo, nên răng trắng trong, và
khi bước ra khỏi nhà bà bới đầu lèo, đeo hột xoàn, tô son dồi phấn rực rỡ. Bà
vẫn tin tưởng mình nắm trọn trong tay mọi quyền hành. Bà là loại người chỉ
huy chồng bằng sự dịu dàng. Mọi quyết định từ trong ra ngoài phần lớn đều
phát xuất từ một tay bà.
Ông Bang cầm chiếc dù cán ngoéo đứng dậy chào bà Phủ. Bà đon đả đưa ông xuống
nhà ngang. Ngà vẫn nằm lim dim bên Lài đang chế nước sôi vào ly đựng gừng,
trà và bỏ trần bì. Ông Bang kéo ghế đẩu ngồi lại cạnh giường. Ngà thảng thốt
ngồi phắt dậy như bị điện giật. Ả thiểu não nhìn bà Phủ:
“Thưa bà con chỉ cảm sơ sịa, có gì đâu phải nhọc đến ông Bang?”
Bà nhìn ả, nói như ra lịnh:
“Con này chướng. Thầy thuốc đến tận giường mà không cho chẩn mạch hả? Đói ăn
rau, đau uống thuốc chớ.”
Ngà vẫn dụ dự không đưa tay cho ông Bang. Ả biết rõ căn bịnh của mình. Đó chẳng
qua là do thai hành cộng thêm những đêm mất ngủ liên tục, những nỗi sợ sệt
bám lấy ả không rời. Tựu trung đều tại cái thai.
Lài dỗ dành:
“Rán uống tít thang thuốc cho mau mạnh đi chị. Đừng có nuôi bịnh như vậy.”
Ngà rướm nước mắt, nhìn lão Tự đứng xớ rớ gần đó như cầu cứu. Lão Tự giục:
“Cháu đưa cho ông Bang chẩn mạch. Việc gì mà cháu ngại. Có bác đây
chi?”
Lão Tự nhìn Ngà trấn an. Ngà biết đây là dịp bà Phủ khám phá cái tội lầm lỡ của
ả. Trái tim của ả muốn ngừng đập. Ả rụt rè chìa tay về phía người thầy thuốc.
Ông Bang chậm chạp lột cặp kính lão, kéo lấy vạt áo the lên lau, rồi chăm chú
chẩn mạch. Bỗng đôi mày ông cau lại, ngạc nhiên. Bà Phủ sốt ruột trước cử chỉ
chậm chạp, khệ nệ của ông. Bà ngập ngừng:
“Thưa ông Bang. Con nhỏ này đau làm sao vậy?”
Ông Bang hớp ngụm trà, rồi cười nửa miệng:
“Bẩm bà lớn, cô em đây có gia thất chưa?”
Bà Phủ đáp gọn:
“Nó còn con gái mà.”
Ông Bang ngần ngừ một lúc, rồi lắc nhẹ đầu:
“Cổ chẳng bịnh hoạn gì hết. Cái thai đang hành đó thôi.”
Bà Phủ buột miệng kêu hai tiếng “Hèn chi!” rồi cao giọng:
“Nó có bầu hả? Kỳ quá vậy?”
Bỗng Tịnh hớt hơ hớt hải chạy đến vừa lúc bà Phủ cùng ông Bang sửa soạn đi
lên nhà trên. Tịnh nói mau:
“Thưa mợ, cậu Phủ mời mợ và ông Bang lên cho cậu hỏi thăm.”
Ông Bang khệ nệ chiếc bụng lùm lùm như cái mả lạn bước lên tam cấp. Chiếc dù
cán ngoéo của ông dùng một lúc hai việc: che mưa nắng và còn chiếc gậy nâng đỡ
cái thân hình bề bộn thịt mỡ của ông.
Mọt đã thay ấm mới, còn đứng xớ rớ chờ lệnh. Ông Phủ biểu gã rót trà ra chung
rồi lui đi. Ông Bang bước vào trung đường rợp hơi mát của mấy cây nhãn trồng
ngoài hiên. Trong khi ông Bang còn đang nói chuyện với ông Phủ, bà Phủ toan
xuống nhà ngang mở cuộc thẩm vấn Ngà, ông Phủ ngăn lại:
“Mình ở lại đây, tôi có chuyện muốn nói.”
Ông Bang sau một lúc nói chuyện vãn nắng mưa, mùa màng, xuống chiếc ghe bầu về
nhà. Bà Phủ có vẻ lăng xăng:
“Để tôi xuống dưới nhà, coi con Ngà lỡ dại với thằng trời đánh nào? Mình phải
thu xếp tống lôi, tống khứ thứ đồ hư thân mất nết đó cho mau. Thiệt nuôi tớ
gái trong nhà như nuôi ăn trộm.”
Ông Phủ nhìn vào mặt vợ, hạ thấp giọng như một lời kinh sám hối:
“Đứa nhỏ trong bụng là con của tôi.”
Bà Phủ ngó ông lom lom rồi không nói thêm được một lời nào nữa. Bà tưởng như
tai mình lùng bùng bởi một điều phát giác trắng trợn. Bà đứng dựa lưng vào
cây cột, cảm thấy mái nhà xiêu vẹo và mọi vật trước mắt như phủ một làn sương
mỏng. Ông Phủ bước tới dìu bà vào ghế phô tơi. Ông Phủ nói:
“Mình thương tôi, hãy cứu mạng giùm nó. Chuyện đã dĩ lỡ rồi!”
Bà Phủ cắn chặt hàm răng để không nói điều xúc phạm, trách móc chồng. Rồi bà
bỏ đi nằm. Trong gian phòng vắng ngắt, chỉ có tiếng muỗi vo ve. Bà Phủ nằm bất
động, tay vắt trên trán. Ánh nắng buổi trưa trườn qua khung cửa sổ. Trước mặt
bà bây giờ là một vùng trắng thinh không. Bà biểu Lài bước ra ngoài để bà nằm
nghỉ ngơi.
Trong hai mươi năm, bà đã bồi đắp, gói ghém, che giấu những thăng trầm của
nhà chồng một cách khéo léo. Bà ngỡ Trời Phật trớ trêu đã cho bà một đứa con
tật nguyền cũng đủ lắm rồi. Vậy mà giờ đây, bà phải nhận thêm một bất hạnh ô
nhục nữa: ông chồng ngoại tình với kẻ tôi tớ trong nhà. Phải dè cớ sự như vầy,
bà đã đi cưới cô Năm Thành, một đào hát bội nổi danh cho ông.
Lúc bà chưa sanh Chiêu, bà nghĩ rằng mình là một thứ cây độc không trái. Hồi
đó, ông Phủ mê xem hát của gánh Bầu Đỏ. Những ngày gánh này ghé lại đình
làng, ông Phủ nhất định giành vai cầm chầu để xem cô Năm Thành đóng vai Đắc Kỷ,
Phàn Lê Huê, Hồ Nguyệt Cô. Nhan sắc chim sa cá lặn của cô đào hát bội đó
trong lớp phấn son hoá trang và trong y phục Quảng Đông rực rỡ hào quang đã
thâu đoạt hồn phách của ông. Mỗi khi tan hát, ông về nhà say sưa nhắc nhở tài
nghệ của cô với nụ cười và ánh mắt đờ đẫn và mộng mị.
Bà Phủ vẫn biết cô Năm thật ra có màu da bánh ích, một thân hình hơi khô và
cô lại còn ưa ăn trầu. Nhưng trước khi sắm tuồng cô Năm đánh răng, súc miệng,
uống một chén sâm và bắt đầu xức một loại thuốc gia truyền trên mặt để cho
làn da dễ dàng ăn phấn. Hoá trang xong, cô Năm đốt nhang lạy tổ nghiệp và từ
trong cánh gà tuôn ra sân khấu, cô đã trở thành một thần nữ mà khoé mắt, nụ
cười, giọng hát cao vút như ướp bùa ngãi ma quái, dễ làm cho ông Phủ, ông Cai
tổng, thầy Bang Biện phải mê mẩn rụng rời. Bà Phủ rất bực mình khi giữa đêm
khuya, bà vụt chợt tỉnh vì tiếng mơ của chồng gọi cô Năm ơi ới. Bà đã lén mướn
cậu Trùm Xuyên Bình dò la những nơi mà ông Phủ dắt cô Năm Thành đi ăn chè
cháo khuya để kịp thời ngăn chặn sự dan díu của chồng.
Hình như lúc còn tại chức, ông Phủ có lần muốn chuộc cô Năm Thành bằng một phần
ba gia sản. Nhưng cái ý định của ông chưa kịp thành hình thì đùng một cái cô
Năm Thành mang bầu với tên kép chánh trong gánh. Tên này thường sắm vai tướng
quân, nguyên soái oai phuông lẫm lẫm. Hắn hát ở quận nào trên một tháng là có
được ông Phủ gói ghém trong nét mặt lầm lì, khắc khổ. Thỉnh thoảng, bà Phủ,
trong câu chuyện nửa đùa, nửa thật, cũng nói trêu chọc:
“Phải chi có Năm Thành chưa lỡ dại, tôi sẽ đem trầu cau lạy lục rước cổ về cho
mình rồi.”
Bà Phủ lúc đó như thoát khỏi một cơn ác mộng. Rước cô Năm Thành về cho chồng
là một mối hiểm hoạ cho bà. Bà sẽ là cái bóng mờ nếu cô Năm có con với ông Phủ.
Người đàn bà lừng danh đó chắc sẽ nhận chìm bà một cách thảm hại.
Bây giờ, có thể nào tưởng tượng một kẻ tôi đòi quê mùa, cục mịch như Ngà lên
làm chị làm em với bà được không? Đuổi Ngà ra khỏi nhà hay để ả sanh nở xong
rồi bắt đứa nhỏ? Hay là năn nỉ dụ dỗ Mọt đứng ra “nôm” Ngà để cứu vãn danh
giá cho chồng? Đầu bà nhức như bị búa bổ. Bà cảm thấy càng cựa quậy lung
tung, bà càng lún sâu vào nỗi khó khăn, thất vọng. Bà nằm không muốn nhúc
nhích nữa. Tứ chi bà như rời rã, thần sắc thiểu não. Đến mấy ngày liền, thân
xác bà sa sút thịt mỡ. Gian nhà vốn đã âm u càng trở nên nặng nề khó thở.
Ông Phủ chúi mũi vào sách báo, nhưng chữ nghĩa trơn trợt trong tâm trí ông.
Ông muốn gần vợ để năn nỉ, ỉ ôi bà vì ông dư biết đàn bà dễ xiêu lòng. Nhưng
ông cảm thấy ngượng ngùng. Hình như giữa ông và vợ, tự dưng đã đào sâu một
khoảng cách mênh mông không sao lấp nổi nữa. Thái độ yên lặng của bà như đe
doạ ông. Người đàn bà không ồn ào quát tháo đáng đề phòng hơn. Hai mươi năm
qua, ông ngờ mình rành rọt tất cả những nẻo đường đổ về tâm hồn bà. Nhưng bây
giờ, im lặng của bà có phải là dấu hiệu của sự cố gắng thoả thuận hay là giai
đoạn mở đầu của những mưu toan đen tối sắp được thực hiện?
Mỗi lần ông toan đến gần bà để phân trần, để kêu gọi lòng từ bi, đại lượng của
bà thì lập tức bà ngồi bật dậy, bước ra khỏi giường, rồi bước vào buồng riêng
của Chiêu, khoá kín cửa lại. Thái độ câm nín, lạnh nhạt của vợ trong mấy ngày
nối tiếp hành hạ ông ghê gớm.
Nhưng ông đã cố gắng hy vọng chờ đợi sự việc sắp tới sẽ trơn tru, êm đẹp. Biết
đâu được, lòng người đàn bà nay vầy mai khác. Ông tự an ủi mình nhưng lại
không ngớt lo lắng, bứt rứt…
(Trích Khung rêu, từ trang 238-246)
Dương Nghiễm Mậu và thủ bút
Tên: Phí Ích Nghiễm. Bút hiệu: Dương Nghiễm Mậu. Sinh ngày: 19-11-1936 tại Hà
Đông, Bắc Việt. Viết văn từ 1955. Chủ trương nhà xuất bản Văn Xã.
Tác phẩm:
1. Cũng đành, nhà xuất bản Văn Nghệ 1963, Văn Xã tái bản 1966
2. Gia tài người mẹ, nhà xuất bản Văn Nghệ 1964, Văn Xã tái bản 1966
3. Đêm, nhà xuất bản Giao Điểm 1965
4. Đêm tóc rối, nhà xuất bản Thời Mới 1965
5. Tuổi nước độc, nhà xuất bản Văn 1966
6. Đôi mắt trên trời, nhà xuất bản Giao Điểm 1966
7. Sợi tóc tìm thấy, nhà xuất bản Những Tác Phẩm Hay 1966
8. Nhan sắc, nhà xuất bản An Tiêm 1966, Văn Xã tái bản 1969
9. Phấn đấu, nhà xuất bản Văn 1966
10. Kinh cầu nguyện, nhà xuất bản Văn Xã 1967
11. Gào thét, nhà xuất bản Văn Uyển 1968
12. Ngày lạ mặt, nhà xuất bản Giao Điểm 1968
13. Địa ngục có thật, nhà xuất bản Văn Xã 1969
14. Nga đạn, nhà xuất bản Tân Văn 1970
15. Quê người, nhà xuất bản Văn Xã 1970
16. Cái chết của, nhà xuất bản Văn Xã 1971
Đã cộng tác với: Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Văn Nghệ (Chí) và Tin Sáng (báo)
v.v…
Dương Nghiễm Mậu và tuổi trẻ cô đơn
Que l’homme est né pour le bonheur.
André Gide (1869-1951)
Con người sinh ra để hưởng hạnh phúc.
Dương Nghiễm Mậu xuất hiện trên văn đàn miền Nam cách đây ngoài 10 năm, như một
chứng tích. Cái chứng tích đó là nỗi bơ vơ của tuổi trẻ, của một thế hệ tuổi
trẻ đang sống giữa cuộc sống không thuộc về mình. Cái tuổi trẻ nào đó được tô
hồng trong những dạ hội, dưới mái đại học, hay rong chơi quanh năm với bốn
mùa tình tự, đều ở ngoài tầm tay của Dương Nghiễm Mậu. Cuộc sống đối với Mậu
là cái gì quá khe khắt, quá cứng rắn và từ đó mỗi suy nghĩ, mỗi hành động
hình như, ít nhiều gì cũng để chống đối cuộc đời. Những xấu xa, ti tiện, lòng
ganh ghét và đố kị thấp hèn, trộn lẫn với tình thương yêu con người làm giọng
văn của Dương Nghiễm Mậu vừa phẫn nộ vừa chua xót.
Con người sinh ra đời không phải để gánh chịu nhục nhằn và cái xấu. Nhưng cuộc
đời có mặt không phải là thiên đường, nên con người vẫn phải cúi đầu chấp nhận
những gì do nó đưa lại cả xấu lẫn tốt. Con người tính vốn thiện từ thuở lọt
lòng, nhưng càng sống, càng tranh đấu để cuộc sống được tốt đẹp hơn lên, con
người lại vô tình làm nó xấu đi, vì lòng ích kỷ và tinh thần chiếm đoạt, tư hữu.
Cái ý thức tốt hướng vào điều thiện cũng như việc đề cao lương tri chỉ còn là
những danh từ trống rỗng, giữa một xã hội xáo trộn vì chiến tranh quá lâu, giữa
những ngộ nhận từ kẻ này qua kẻ khác. Dương Nghiễm Mậu không phải vô tình hay
vô cớ khi đặt vấn đề thân phận con người, nhất là tuổi trẻ, trong phạm trù
sinh hoạt thực tế với cục bướu quá to, lông lá xồm xoàm, tượng trưng cho nỗi
băn khoăn, ám ảnh của nhà văn đối với một xã hội thối nát, bất công đang bám
vào da thịt mình làm bứt rứt, khó chịu. Cục bướu đó, sự thực, mỗi con người đều
phải gánh chịu suốt đời, chỉ có khác, ở mỗi người nó mọc ra ở mỗi chỗ, tuỳ
theo cung số!… Cục “bướu quá to” đã làm khổ Dương Nghiễm Mậu, với mặc cảm xấu
xa, vì nó mà người yêu từ bỏ, xã hội khinh khi.
Nó hiện diện như một hình phạt, dù con người muốn cắt bỏ nó, hoặc tự huỷ mình
cho thoát nợ, nhưng vẫn không xong, vì nếu mọi việc ở đời đều có thể giải quyết
dễ dàng như vậy thì làm gì còn cuộc sống nữa? Bởi vậy, con người được sinh
ra, dưới sự an bài nào đó, phải chấp nhận đời sống và luật sống là có thực. Y
học và văn minh cũng chẳng giúp ích gì được, một khi căn bệnh không nằm trong
bệnh lý thông thường, mà nó biến hoá khôn lường giữa tâm linh để tàn phá, để
giết dần đời sống, làm lụi tàn hy vọng.
Sinh ra và lớn lên trong một xã hội bị phân hoá vì chính trị và đời sống bấp
bênh do cuộc chiến tạo nên, mỗi số phận trai trẻ như phập phồng, khắc khoải,
chờ đợi một cái gì đó, có thể là những hạt giống tốt, cũng có thể là loài cỏ
dại ăn hết chất màu của mảnh vườn mới bón. Từ phẫn uất, Dương Nghiễm Mậu đi
vào chán nản khi biết rằng thân phận mình đã bị điểm danh, nghĩa là đã được định
đoạt, Mậu không có quyền lựa chọn. Một khi con người không có quyền lựa chọn
cho đời mình hướng đi, thì một, phải dứt khoát với nó, hai, phải buông trôi
thân phận như dòng nước nhỏ chảy len lách vô tri dưới một khe lạch không tên,
cho đến lúc nhạt nhoà tan biến vào đại dương. Dương Nghiễm Mậu, tuy không có
quyền chọn lựa hướng đi nhưng cũng chẳng sẵn sàng làm một dòng nước nhỏ, nên
chấp nhận sự có mặt của mình trước cuộc sống với một thế đứng riêng biệt.
Những năm cô đơn của tuổi trẻ mà Mậu đem theo là nỗi cô đơn bi thảm trước một
chứng tích đã có đấy, đã hình thành như thế từ lâu. Mậu không biết dùng
phương cách nào để tự an ủi đành mang mình ra trước khoảng trống (cuộc đời) để
tự đóng vai trò lừa dối mình,
… Khoảng trống bao la ấy đau buốt, nhức nhối trích vào thân thể anh từng
giây, từng phút ngột ngạt, tức tưởi lay động choáng váng tim óc. Anh đã đánh
lừa và mang em đến với anh. Em đã chịu đựng sự có mặt của anh - nhưng đến bây
giờ em còn đủ sức chịu đựng nữa - em lên tiếng, như đám đông lên tiếng cho
anh nhận ra anh…
(Cũng đành, "Niềm đau nhức của khoảng trống")
Sự lên tiếng ở đây là phát biểu thái độ, là ý thức nhập cuộc vì khoảng trống
mà Dương Nghiễm Mậu hình dung thấy ở trong tâm tưởng nó như một vực thẳm xa vắng,
nó làm Mậu hốt hoảng đến nỗi không còn nhận ra mình.
Con người sinh ra dù không được quyền lựa chọn theo ý muốn nhưng ít ra con
người cũng phải có thái độ trước thực tại, phải là một cây sậy biết suy tưởng
theo Pascal: l’homme n’est qu’un roseau, le plus faible de la nature, mais
c’est un roseau pensant.
Cái tuổi trẻ Thượng đế đã ban phát cho mỗi con người một thời gian là để thử
thách sức chịu đựng của từng số phận. Sự ban phát này không đồng đều, do đấy,
nảy sinh ra bất mãn và chống đối. Có những khuôn mặt tuổi trẻ không bao giờ
vui tươi, hớn hỏ, ở đó, bao nhiêu băn khoăn, vò xé nội tâm. Dương Nghiễm Mậu
thường tìm hình bóng mình qua kẻ khác, cũng như dùng kẻ khác để nói đến mình.
Đi từ nỗi bơ vơ này qua bơ vơ khác, đến đâu, ở đâu, cũng chỉ gặp xa lạ ngay với
cả tình yêu. Hình ảnh những nhân vật đàn bà trong tác phẩm Dương Nghiễm Mậu
lúc nào và bao giờ cũng tạo nên oan trái, phảng phất nỗi u buồn riêng biệt
trong một thế giới riêng biệt bao phủ ở mỗi truyện.
Từ Hê-Len tới Thuyền, tới Phượng, tới Hạnh rồi Quyên hay bất cứ một cái tên
nào khác đều được phác hoạ dưới những nét run rẩy mờ nhạt, cùng với từng niềm
đau thương len nhè nhẹ nhưng vô cùng sắc bén vào tâm tư người đọc,
… Tôi đã muốn quên Hạnh, như quên thực tế đã phải sống với một mơ hồ êm đềm,
nhưng bây giờ Hạnh ở trước mặt. Một Hạnh dở dang buồn bã. Thịnh đã chết ngoài
mặt trận. Một Hạnh những kỷ niệm lưu giữ bền chặt. Một Hạnh đáng yêu còn đó.
Một Hạnh tan vỡ như thời gian học trò trong thành phố quê hương bốn mùa. Đối
diện với Hạnh, ký ức lại trở về với những hình ảnh liên tiếp của một thời,
như những toa xe trên chuyến tàu trở lại ngang qua một trạm nhỏ dọc đường…
(Sợi tóc tìm thấy, "Đôi mắt chỉ rối", trang 73)
Đoạn văn trên có thể thực, có thể do óc sáng tạo của nhà văn nhưng qua đấy,
người đọc đoán được những gì Dương Nghiễm Mậu muốn nói. Kỷ niệm nào đó, tại
sao lại trở về để ám ảnh tâm hồn, tại sao lại gặp nhau để tạo nên đau khổ? Dự
dằn vặt của kỷ niệm hay nỗi băn khoăn thuộc về tiền kiếp với ý thức siêu
hình.
… Đêm xuống rất khuya. Chúng tôi nằm trên những người đã chết trong nghĩa địa,
Long nằm gối đầu vào tay tôi. Thu về cây nhị hổ - những âm thanh ấm ức, tức
tưởi, sầu thảm, u uất, nghẹn ngào trườn lên bực dọc quằn quại - và tôi chờn vờn
vào một giấc mơ…
"Thưa người là ai?"
"Tôi không là ai."
"Người từ đâu đến?"
"Có can hệ gì đâu?"
"Sao người than van sầu thảm làm vậy."
"Tôi vốn không ưa tâm sự. Sự than van chẳng cần thiết gì…"
"Nhưng tôi có tâm sự phải than van. Muốn có một người ngồi trước mặt
mình. Anh ghét tâm sự ắt hẳn người có quá nhiều tâm sự rồi chăng?"
"Tôi chẳng có chút gì. Chẳng có gì để nhớ. Có gì để nhớ đâu?
"
"Người nói dối chăng? Nhưng nếu người sống giữa một khoảng trống không
có tâm sự thì người sống làm sao?"
… Chúng ta hãy thử nhìn sang bên kia đường. Người có thấy chăng một cậu bé
con đang nô đùa bên mẹ nó – cậu bé nhảy và hát. Đôi miệng xinh tươi, triền
môi dịu ngọt – đôi mắt ngây thơ của trẻ dại đang nhìn vào cuộc đời mong lớn –
cậu bé đang nũng nịu gọi: Mẹ ơi!…
Tôi có thấy đứa bé nô đùa bên mẹ nó. Tôi chỉ nhìn thấy một đứa trẻ đi vất vưởng
buồn nản, môi thâm bậm chặt để khỏi cất lên tiếng khóc – đôi mắt ngầu đỏ. Nó
thấy cuộc đời lớn lên vượt khỏi tầm tay nó. Cậu bé chẳng biết bố mẹ thế nào
nên chẳng thể gọi tên để chẳng thấy mình còn được gọi tên.
"Trời xanh lắm thấy không anh?"
"Trời ngầu đỏ vẩn đục và như giông bão sắp về."
"Cây cối xinh tươi làm sao?"
"Những cành khô quờ quạng như muôn cánh tay hối lỗi – già nua đầy đau đớn."
"Anh hãy nhìn vào vườn hoa đẹp đẽ kia – muôn hoa đua nở, cành lá xanh
tươi hương thơm toả ngát. Anh có thấy không một cặp tình nhân cùng nhau tâm sự,
mặt nhìn mặt, tay cầm tay, nói với nhau những lời dịu ngọt hứa hẹn một tương
lai hạnh phúc sum họp."
"Nhưng tôi chỉ thấy kia là một sa mạc bao la gió cát bay mù tàn nhẫn. Ở
đó, có một kẻ đang ngồi một mình, nói một mình, nghe một mình và tay mình sờ
soạng lấy tay mình. Nhìn vào lòng bàn tay hoài, những ý nghĩ về tương lai."
"Này chiếc hoa màu hồng."
"Màu tím đó thôi!"
"Có nghe chăng tiếng hát?"
"Tôi nghe thấy tiếng người rên khóc, tiếng thở dài…"
(Sợi tóc tìm thấy, “Trong lòng bàn tay”, trang 73)
Lời đối thoại trong một nghĩa trang, giữa con người và hồn ma, để nói với cuộc
sống hôm nay. Tiếng thở than sầu muộn của muôn đời gửi từ cõi hư không, ở đấy
không còn chi hệ luỵ! Ý nghĩ về cô đơn, bi thảm mà nhà văn đã và đang gánh chịu
đâu phải niềm cô đơn tuyệt đối. Nó còn nghe thấy và đón nhận về phần mình những
dư âm của tiếng lòng than van, uất nghẹn cảm thông qua hai cõi âm,
dương.
Quả thực, Dương Nghiễm Mậu đã bị ám ảnh vây hãm trong quá nhiều ý nghĩ đau buồn
xuyên qua lời đối thoại. Cái tâm sự bi quan, đầy rẫy phẫn uất nó chứa đựng và
tích luỹ tự đáy lòng chờ dịp phát ra những âm thanh chua chát não nề với hình
ảnh đứa trẻ mồ côi, với cảnh vật không còn màu xanh, cuộc đời biến thành sa mạc
và màu hoa – vườn đời – biến thành màu tím tang tóc! Còn gì nữa không? Còn chứ!
Còn tuổi trẻ bơ vơ, còn nhiều tình phụ bạc, còn thân phận tôi đòi, còn tiếng
khóc thay cho nụ cười, còn tù tội và còn đam mê trong thất vọng.
… Quyên ơi! Anh tự cho rằng anh không hề có tội lỗi, chưa quỳ dưới chân ai một
lần. Cửa vào địa ngục không biết, đường lên thiên đường không hay. Em hãy cho
anh tội lỗi để đôi mắt được mù loà. Vì anh yêu em nên không thể tự tay chọc
thủng đôi mắt mà Chúa đã ban cho – như thế anh không phải nhìn vào lòng bàn
tay…
(Sợi tóc tìm thấy, “Đôi mắt chỉ rối”, trang 123)
Cái quan niệm bi đát và thái độ sống của Dương Nghiễm Mậu vào giai đoạn
1960-1961-1962, ít nhiều gì cũng chịu ảnh hưởng của thời cuộc và những tư tưởng
vay mượn của Tây phương với Sartre và Camus, tuy hai nhà văn kiêm triết gia
này chẳng những đối nghịch về đời sống và cũng dị biệt nhau về quan điểm triết
học, nhưng cả hai cùng gây ảnh hưởng sâu đậm trong tâm thức các nhà văn trẻ
lúc đó. Con người sinh ra đời không có quyền chọn lựa cả cái sống lấn cái chết,
và cái xã hội đang vây quanh mỗi thân phận cũng chả có phương thế gì giúp cho
con người tìm thấy hạnh phúc. Thiên nhiên là một sự kiện ngoại giới, nó chẳng
cứu rỗi được ai vượt qua khốn khó. Nó có đấy như một điểm trang vô ích, trong
lúc con người cần tới sự cảm thông thiết thực hơn. Do đó, trong tác phẩm La
Nausée của Sartre, nhân vật Roquentin mới có ý tưởng bi phẫn cho rằng: chúng
ta ai cũng như ai không có lý gì đáng sinh ra cả… vì tất cả những gì hiện hữu
đều có mặt một cách vô lý, kéo dài bở hèn yếu rồi chết ngẫu nhiên!…
Dương Nghiễm Mậu không hoàn toàn du đời mình vào những ý nghĩ u tối, nhưng
người đọc cũng thoáng thấy niềm bâng khuâng và chả mấy tin tưởng vào tương
lai, tin vào cái ý hướng tốt đẹp nào đó để níu lấy chút hy vọng mong manh cho
những ngày bắt buộc có mặt. Cái đau nhất của Dương Nghiễm Mậu là phải tiếp
thu những gì mình không thích, không muốn mà nó cứ đến, đến thản nhiên như
sáng, trưa, chiều, tối với những nhu cầu thường nhật. Sự kiện ấy được phơi
bày thật rõ trong tác phẩm Đêm tóc rối (1965). Cái tuổi trẻ hư không với những
ý nghĩ và hành động phần nào do vô thức khích động rồi đẩy nhà văn vào ngõ cụt,
do đó, sự nghĩ và viết ra chỉ nhằm mục đích chứng minh cái “đột biến” của những
năm tháng rã rời đã ăn sâu vào trí não nhà văn.
Sự hưởng thụ khoái lạc mà A. Gide từng khuyến khích tuổi trẻ phải sống theo ý
mình, tìm về cho mình lạc thú mà Thượng đế đã ban phát cho mỗi số phận trong
cuốn Les Nourritures Terrestres, nó chỉ có giá trị đối với các thanh niên Tây
phương, nơi mà chiến tranh và nghèo khổ không đầy đoạ con người một cách thê
thảm, nơi mà nền văn minh cơ khí đã giúp cho con người các tiện nghi vật chất,
nơi mà không khí tự do được phát triển cùng độ, nơi mà tư tưởng được hãnh tiến
trong mọi suy nghĩ về kiếp sống. Còn hoàn cảnh chúng ta, hoàn cảnh của những
trẻ tuổi lớn lên trong tiếng súng căm thù liên tục, được nuôi dưỡng bằng phẫn
nộ thay cho miếng cơm manh áo và tình thương. Cái ý thức mà Dương Nghiễm Mậu ấp
ủ để làm vốn cho mình không nằm trong khuôn thức thoải mái, hiển nhiên nó
khơi động tự đáy lòng từng nỗi vò xé đau thương. Hình ảnh Dương Nghiễm Mậu,
hay Lễ, nhà giáo trẻ hào hoa trong tác phẩm Đêm tóc rối chỉ là biểu tượng, để
nhà văn gửi vào đấy những gì cần phải tỏ bày. Nội dung Đêm tóc rối được hình
thành quà một cốt truyện khá giản dị: Lễ, nhà giáo trẻ, ở trọ nhà mụ Liên chồng
mụ đi làm xa. Do đó, xảy ra sự liên hệ xác thịt giữa Lễ và mụ. Lễ không
thương yêu gì mụ Liên, chỉ coi như một giống cái để giải quyết sinh lý. Lễ
yêu Quyên nhưng Quyên lại lấy Khánh, bạn Lễ. Một trận đòn ghen xảy ra khi ông
Tiến trở về nhà, vì hàng xóm nói lại chuyện vợ ông với Lễ. Mối tình đẹp mong
manh của Phượng – Lễ cũng tan vào hư không vì cái chết bi thảm của nàng dưới
đáy giếng. Rồi mọi sự hòa loãng và cuộc sống…
Những khuôn mặt Thục, Khang, Trinh và vóc dáng mụ Liên – con đĩ già có chồng
còn dâm đãng, được đề cập tới ở những trang đầu cuốn sách chỉ là hình thức
khích động. Cái sự thực Dương Nghiễm Mậu cần nói ra nó nằm ở chỗ khác. Thân
phận tuổi trẻ nhiều khi không tuỳ thuộc vào ý muốn, hình như nó được an bài ở
chỗ nào khuất nẻo lắm. Một chút hạnh phúc thơ ngây, một bàn tay bé nhỏ, một
môi hôn ngỡ ngàng, một lời nói vụng dại của tuổi hồng mà nhà văn tìm kiếm,
nhưng uổng thay, không gặp. Cả cuộc đời này nữa, tại sao ô uế quá vậy trong mỗi
suy nghĩ, trong mỗi đam mê? Cuộc đời – xuyên qua mụ Liên dâm đãng đã bị Dương
Nghiễm Mậu đồng hoá với xã hội, tạo nên nhức nhối,
… Nghe tiếng động ở dưới nhà mụ Liên trườn ra ngó đầu xuống, chiếc mông trần
mập đen nhô lên. Tôi đứng dậy vươn vai, buổi chiều đã xuống nhọ mặt người,
đèn đường đã bật. Tiếng hát cải lương vang lên từ một nhà ở phía bên kia đường.
Tôi thấy đắng miệng. Tiếng mụ Liên:
“Có gì lục đục ở dưới bếp.”
Tôi tiến lại giẫm chân lên mông mụ nhún nhún, ngó đầu xuống chân thang tối
đen. Mụ Liên trở mình nằm ngửa nhìn lên, hai tai dang rộng như một kẻ bị căng
ra. Sao tôi không là thằng Tây đen rạch mặt. Tôi rùng mình kinh tởm quay đi.
Tiếng mụ Liên phía sau:
“Anh khinh tôi lắm phải không?”
Tôi đi đến bên chỗ bật đèn, đưa tay lên vặn, ngọn đèn sáng chói. Tôi vội tắt
đi. Người đàn bà lẩn vào sàn gỗ. Sao ông Tiến (chồng mụ Liên) không về. Lúc
này ông ở đâu. Nhớ tới Khang, tôi có ý muốn thăm Thục. Tiếng mụ Liên:
“Anh muốn bỏ tôi rồi phải không? Tôi biết anh đang mơ mộng một con nhỏ nào
đó.”
“Thôi im đi.“
Tôi quát lớn rồi bật đèn sáng. Mụ Liên trở dậy đi xuống thang, tới mấy bậc mụ
đứng lại, giấu người phía dưới, nhô đầu, mặt cong cớn:
"Mơ mộng, mơ mộng, đứa nào chả thế, bọn họ khác gì tôi. Có điều bọn nó
không để anh dùng như một khúc gỗ, bọn nó có điều kiện để dùng lại anh cùng với
những đứa khác. Anh biết không?"
"Câm đi, câm đi."
"Anh sợ người ta nói sự thực ra, tôi không sợ, tôi không câm. Anh tưởng
tôi không biết anh nằm với đứa nào sao. Nhưng anh chỉ làm cho nó hư hỏng và đẩy
nó đi lấy thằng khác. Anh tưởng tôi yêu quý anh lắm hả… còn lâu… Tôi có chồng
có con."
Tôi cáu giận đá chiếc ghế đẩu về phía mụ Liên, mụ thụt đầu xuống rồi lại ngó
lên:
"Anh can đảm giết tôi đi coi. Anh là một thằng hèn. Mụ Liên thụt đầu đi
xuống, mụ bật đèn sáng và đi vào nhà tắm. Căn nhà trông trải và rỗng không
tôi ra lan can đứng nhìn xuống mặt đường. Mụ Liên tắm xong trở lên mặc quần
áo rồi đi về. Tôi ngồi lặng lẽ trong bóng tôi nghe tiếng muỗi kêu. Tôi nhớ tới
khuôn mặt êm mát của Phượng, căn nhà trong buổi sớm mai…"
(Đêm tóc rối, trang 35-36)
Sự lang chạ bất đắc dĩ này đã tạo nên thế đứng chênh vênh trong nội tâm nhà
văn. Cuộc đời như vậy đó. Nó có đấy, mãi mãi còn đấy với những ung độc làm
băng hoại tuổi trẻ. Dương Nghiễm Mậu như bị ném vào đấu trường, ở đó, toàn là
thù hằn, oán hận. Con người phải chọn lựa vũ khí để tranh đấu, sinh tồn. Vóc
dáng Quyên và hạnh phúc của nàng như một thách đố. Chưa giao đấu đã cảm thấy
thua, trong lòng nổi hằn những vết roi rướm máu, nhà văn đành phải lừa dối
mình bằng cách tự trừng phạt, tự phác hoạ trong ý nghĩ những hành động gớm
ghiếc, dữ dằn của ông Tiến chồng mụ Liên, với vô vàn hoảng hốt, nhưng sự thực
ông chồng bị cắm sừng chưa biết, vẫn yêu vợ, thương con. Bởi vậy, hình ảnh
ông Tiến – hình phạt – luôn luôn ám ảnh Lễ – tuổi trẻ – như một số kiếp phụ
thuộc,
… Tôi nằm im lặng tủi thân. Tôi nghĩ đến căn gác trống không, đến vẻ bình thường
vui tươi của mụ Liên bên người chồng, cùng một lúc người đàn bà vẫn yêu chồng
và vẫn ngoại tình trong đời sống bình thường của họ. Có nghĩa gì một cuộc dạo
chơi, một cái hôn kéo dài trong đêm hay một lần ân ái say đắm. Mỗi kẻ chia
mình ra, phân mình ra. Mỗi kẻ những bí ấn tràn lan chi phối ngay trong tiềm
thức và sự mù tối của trí tuệ mà hoàn cảnh mỗi giây phút có thể thay đổi xoay
chiều. Giờ này mụ Liên cũng đang làm những cử chỉ âu yếm những hành động yêu
đương với ông Tiến, như mụ đã âu yếm yêu đương tôi. Lúc nào là thực con người
mụ, lúc nào là con người khác. Bây giờ tôi cũng có thể nằm đây nghe mình rời
rã, cũng có thể tôi nằm với một người khác, nhưng tôi vẫn tỉnh táo riêng rẻ,
cô đơn chừng như chẳng can dự đến vật gì…
(Đêm tóc rối)
Cái cuộc sống thực mà nhà văn mơ tưởng đến, nó ẩn nấp mơ hồ với mụ Liên trong
khoảnh khắc phù du, hoặc Quyên, hoặc Phượng. Từng vóc dáng như hoà trộn thành
chất đặc biệt dính chặt vào ý nghĩ nhà văn nên sự nói tới một sự kiện nào đó,
đều ẩn nấp bên trong niềm giận dỗi xen lẫn tiếc thương. Nó là trái đào chín
mơn mởn trong khu vườn yên tĩnh của Phương, trông thấy mà không ai hái cho
ăn. Nó là trái bóng đỏ bơm hơi khinh khí bay lang thang trên nền mây trắng đục.
Nó là chiếc xe lăn có Phượng tàn tật ngồi trong đó với ước mơ im tiếng. Nó là
Quyên với nụ cười hồn nhiên nhưng kiêu kỳ ranh mãnh. Có thể nó là nỗi thống
khổ của thân phận con người sinh nhầm thế hệ với oan trái ẩn khuất không tên
gọi và sự hối tiếc ngày tháng trôi đi mà định mệnh vẫn bắt buộc phải chung sống,
phải nhìn nhau, phải nói năng, phải thân mật với những người mình chán ngấy,
hoặc ngượng ngùng vì tội lỗi đã gieo mầm,
… Khuôn mặt ông Tiến có vẻ gì như khác lạ, mùi rượu nồng nặc toát ra từ người
ông. Da mặt ông đỏ tía bị làm xám đi, đôi mắt trợn trừng. Tôi lúng túng chưa
biết trả lời sao thì ông Tiến đã nói:
“Cậu ở nhà với vợ tôi, câu có biết con mụ đó nó lang chạ, lừa dối tôi
không?”
Tôi rủn người toát mồ hôi:
“Sao? Ông nói sao?”
Ông Tiến lùi xa một chút, quay người rồi trở lại sát mặt tôi, chiếc áo xám đứt
mất một chiếc khuy ở ngực hở ra một ít da màu đỏ, ông ta khoanh tay lên ngực:
“Tại sao cậu không ở lại với chúng tôi nữa?”
Tôi lấy lại bình tĩnh mỉm cười:
“Tôi cũng định nói với ông bà, nhưng sáng nay thức dậy thì ông bà đã đi khỏi,
mà tôi thấy cần phải đi ngay… tôi cũng muốn ở lại nhưng vì nay tôi có nhiều
giờ dạy.”
Tôi lấy bao thuốc cầm một điếu và đưa mời ông Tiến, ông ta gạt đi. Tôi đang
nói dối, tôi đang lừa gạt.
“Sao cậu chưa đi?”
“Vì tôi vừa gặp một người bạn giữ lại một ngày nữa.”
“Vậy cậu biết con vợ tôi nó mèo mỡ với ai không?” Tôi muốn nói! Chính tôi
đây, tôi mỉm cười làm bộ dịu dàng:
“Ông ghen rồi, ai bảo với ông vậy?”
“Cả xóm người ta nói cho tôi biết. Tôi muốn mổ bụng bọn nó. Con đĩ già khốn nạn,
tôi đi làm để nuôi nó làm đĩ không công.”
“Sao ông không bảo họ nói thẳng xem ai. Tôi đi cả tuần mới về một chút rồi lại
đi lăng nhăng. Tôi nghĩ bà nhà đứng đắn lắm…”
“Láo, láo…”
Bất ngờ ông Tiến thoi vào mặt tôi một đấm, tôi đau điếng liệng người
đi.
“Chính mày, thằng đĩ đực…”
Liên tiếp ông Tiến đấm tôi thêm một cái nữa và đá tôi chúi xuống chân tường rồi
xông tới nắm lấy ngực tôi chỉ vào mặt:
“Tao tha chết cho, tao giao con đĩ rạc lại cho mày, về mà sống với nhau. Mai
tao đi rồi…”
(Đêm tóc rối, trang 127-128)
Đến bây giờ, chiếc “nút” thứ nhất mới được mở để người đọc hé nhìn thấy một
thoáng cuộc đời với đoạn văn vô cùng linh động, vô cùng đau đớn, căhngr phải
do những cú đấm ghen tuông của ông Tiến gửi vào mặt Lễ, nhà giáo, mà hiển
nhiên phơi bày một sự thực phũ phàng có thể là đích danh, có thể là nguỵ tạo
để dùng nó như một hành động phản kháng của tuổi trẻ đối với những nghịch cảnh
tần gian. Cái trần gian mơ tưởng nó hình thành trong tâm trí Dương Nghiễm Mậu
không phải là gượng ép hay sự thoả mãn dễ dãi, rẻ tiền xuyên qua mụ Liên, mà
nó phải được hình thành với những chất liệu thật trong sáng, thật rực rỡ, thật
lý tưởng dù cho có là ảo tưởng đi nữa. Do đó, sự giằng co giữa thực và mộng,
giữa xấu và tốt, giữa quá khứ và tương lai vẫn chưa được nhận diện.
Những ngày tháng cũ nằm sâu dưới đáy tiềm thức cùng những tử thi ngổn ngang
chỉ chờ đợi thức dậy và sống, sống đau xót với thực tế rồi trống rỗng. Từng ý
nghĩ mệt mỏi, rã rời, từng hình ảnh u uất bủa vây xung quanh một thân phận
luôn luôn khao khát tuyệt đối, muốn tìm về cho mình, cho riêng mình một giọt
sương đêm tinh khiết, một thoáng hương êm ngát, một nụ cười hiền hậu và một
linh hồn còn trong sáng đi vào tình yêu với mắt nhìn không e sợ tương
lai.
Cái hình phạt nào đó đang ẩn nấp trong lương tâm nhà văn, không mang ý nghĩa
thông thường của cá nhân và kẻ khác, đúng ra, nó là lương tâm xã hội, nó là một
dòng sống như vậy, như thế, đang lùa mỗi số phận đi vào luồng nước lũ, đi vào
guồng máy của tập thể. Sự trốn tránh thực tại của Lễ trong Đêm tóc rối, chỉ
là hành động của con đà điểu mỗi lần gặp nguy khốin, chứ không chứng minh được
cái ý nghĩa chính va đúng của con người trước đồng loại. Một cái chết thê thảm
của Phương, một hình ảnh Khánh ngồi tù, một kỷ niệm phảng phất trong mõi mông
lung của trí nhớ và chiến tranh còn đó với những cơn đau đứt nuối, với tang
tóc vây lút cuộc sống và những giá trị linh thiêng đã ngã xuống. Thực vô lý
và kỳ cục! Nhưng có ai dám nói khác đấy không phải là cuộc sống đích danh mà
mỗi số phận đang sống ửo mỗi vị trí dành riêng cho mình với những phản ứng cá
biệt, kể cả ông Lịch – người nghiện hút – nếu có làm mật vụ thật chăng nữa,
cũng do hoàn cảnh và cuộc sống đẩy đưa, ta không thể căn cứ vào dữ kiện bên
ngoài mà võ đoán xấu, tốt theo ý Dương Nghiễm Mậu.
Nhưng dù cuộc đời có xô đẩy mỗi cá nhân vào trường hợp nào, vào mâu thuẫn nào
đi nữa thì bản chất con người vốn luôn luôn hướng thiện, vẫn muốn làm-một-cái-gì
để khỏi hổ thẹn với lương tâm, dù cho sự muốn làm gì chỉ được nuôi dưỡng
trong ý nghĩ. Cái đời sống giả tạo, đầy bất trắc này, mỗi con người đều muốn
bứt đi, muốn vượt khỏi, để ném mình vào đời sống khác, nhưng rốt cuộc ở đâu
cũng vậy, bản chất của đời sống vẫn do con người định đoạt và chi phối, vì thế,
chẳng bao giờ cá nhân tìm được cho riêng mình cuộc sống lý tưởng ngay cả tình
yêu mà tuổi trẻ đã luôn luôn gìn giữ như một thiêng liêng.
… Tai nạn nào đã đến trong những ngày chiến tranh đó, một trái bom rớt xuống,
một trái lựu đạn nổ, một mảnh mortier, một tràn đum đum, một bánh xe cán
ngang, một lưỡi dao chặt xuống, một căn nhà sập đổ… Bất cứ một tai nạn bình
thường nào đó của chiến tranh, Phượng đã khóc. Phượng đã buồn tủi…Và Phượng
chết vì sợ tôi nói: Anh yêu em, để rồi quay đi khi hai bàn chân không còn.
Tôi đã phụ lực với chiến tranh, tai nạn nào đó chôn Phượng trong lòng đất với
tiếng khóc của bà mẹ. Tình yêu của Quyên mang đến tàn tật, hư nát trong thân
thể tôi. Cơn lốc phản bội, phụ bạc, lật lọng xoáy ngã tôi xuống những buông
trôi trong khí hậu độc dược. Tình yêu của tôi không đủ sức mạnh, phép màu để
đôi chân Phượng mọc ra cho Phượng bước đi bên tôi. Tại sao thế. Mọi người được
sống, được hạnh phúc ra sao…
(Đêm tóc rối, trang 211)
Chiến tranh, một ám ảnh đối với mỗi tuổi trẻ, vì nó, không ai dám mơ ước
tương lai, ngay cả cuộc tìm kiếm số phận cũng mất biến vào vô tận, vào cõi hư
không. Khuôn mặt của Quyên, tượng trưng cho thất vọng tận cùng, vóc dáng mụ
Liên, với đam mê xác thịt trong tội lỗi và cái bào thai là kết quả sau những
giờ phút buông trôi đã chết, đã tan vào cát bụi từ khi chưa được thành người.
Khuôn mặt Phượng đã khuất chìm trong tiếng khóc của bà mẹ, khuôn mặt bạn bè
nhão nhoẹt và quả bóng đỏ đã bay lên quá cao rồi vỡ! Tất cả còn gì đâu, kể cả
dòng suối tinh khiết thuở ấu thơ cũng đã cạn nguồn.
Tác phẩm Đêm tóc rối đã để lại trong lòng người đọc những chiếc hố. Trong mỗi
chiếc hố, nhà văn đã cố tình chứa đựng những chất khác nhau. Người đọc có thể
tuỳ theo cảm quan để nhận diện mình, nhận diện tuổi trẻ và cuộc đời qua một,
hay tất cả những chiếc hố đã phản ánh một phần nào cái ý thức lưu đày trong
tâm tư những người làm văn nghệ trẻ hôm nay.
Sau Đêm tóc rối, Dương Nghiễm Mậu hiện diện ở tác phẩm Tuổi nước độc bằng một
thế đứng khác, thế đứng của những người trai trẻ sống trong lòng thành phố Hà
Nội “tạm chiếm” vào những năm kháng chiến chống Pháp. Cái không khí nghẹn
ngào tức thở của một số người quá trẻ, vì lý do này hay lý do khác phải sống
chung với quân thù trong những cây số vuông thành phố, khi đó ở ngoài kia là
mông mênh, là tự do bay nhảy, là chính nghĩa. Hình ảnh những người trở về
thành khi ấy, dù là người thân đi nữa, ít nhiều gì cũng được đánh giá bằng
nghi ngờ và cho rằng hèn nhát, sợ gian khổ, đầu hàng giặc.
Những chàng choai choai, mới được 15, 16 tuổi đời, nói cho đúng, họ chưa có một
chút ý thức gì về chính trị và hoàn cảnh đặc biệt của nước Việt Nam lúc đó. Họ
đi hay ở lại thành phố, đều theo quyết định của người lớn, do vậy, họ luôn
luôn tin tưởng vào phán đoán của họ, và nghĩ rằng sự có mặt của họ trong
thành phố Pháp chiếm đóng, lỗi không ở họ. Những cảnh ô nhục của vùng tạm chiếm
làm họ tức tối, căm hận,
… Chúng tôi theo Hùng đi sang phía đồn đóng ở trên đê đối diện với quận.
Chúng tôi men theo con đường nhỏ dưới chân đê. Suốt dọc theo hai bên lối đi
hàng rào dây thép gai và cỏ dại mọc đầy. Những lính Tây rạch mặt đen như cột
nhà cháy vác súng đi đi lại lại phía trong và trên những chòi cao có đèn pha,
những họng súng ngó xuống. Tôi có cảm tưởng đang ở một vùng trận địa nguy hiểm
mà trận ác chiến có thể xảy ra bất cứ giờ phút nào…
(Tuổi nước độc, trang 43)
Hình ảnh trên kèm theo những vụ bắt bớ, đánh đập dã man và khám xét bất ngờ
làm con người đã tủi nhục càng tủi nhục hơn, đã chống đối càng chống đối mạnh
hơ. Những chàng trai tuy chưa thoát khỏi ghế trung học, nhưng trong lòng đã
chán ngấy sách vở chỉ muốn xông vào cuộc đời để hành động vì tự ái nhiều hơn
lý tưởng,
… Những ngày tháng thảng thốt vây lấy tôi trong trống không vô nghĩa. Tôi
lang thang ở ngoài đường nhiều hơn thời gian ở trong nhà, sách vở không còn
làm tôi say mê, tôi không có vui chơi để khuây khỏa, tất cả mọi điều thành dửng
dưng buồn tẻ… Một ngày xuống Trương, chúng tôi đi ăn thịt chó, tôi uống rượu
say, sức rượu của tôi không bao nhiêu, trong đêm khi trở về nhà tôi thấy chân
tay tôi biến mất, trước mắt thì vô vàn những ánh sao đủ màu nhảy múa, thân thể
tôi có lúc bay nhảy trong khoảng không. Tôi không hiểu sao tôi có thể mang được
mình về và nhận ra cầu xe lửa, tôi mệt lả và muốn khuya xuống, tôi bám vào
thành cầu đá mà bước. Tôi chợt thấy hai bóng trắng lung linh trước mắt, tới gần
tôi nhận ra hai thân thể ôm sát lấy nhau dưới gậm cầu. Khối trăng di động lập
lờ, tôi dụi mắt và nhìn thấy cái đầu tóc uốn quăn bù xù, sao trông có vẻ quen
thuộc, tôi trấn tĩnh một chút, phải rồi, tôi nhủ thầm, đúng là bé Tàu lai,
tôi chạy về lao lên gác, mở ngăn kéo tìm con dao nhíp, mở lưỡi dao lớn rồi chạy
xuống trở lại chỗ cũ, tôi tỉnh táo một cách thái quá… Tôi cầm chắc con dao
trong tay, tiến đến từ từ, hai bóng trắng vẫn còn cựa quậy như hai con rắn.
Tôi tiến lên, túm lấy tóc thằng đàn ông phía ngoài, dí mũi dao vào khoảng
lưng trần, tôi nhận thấy mình nó oằn lên. Tôi nói chắc giọng: Muốn sống đi
ngay. Hắn luống cuống run rẩy buông đứa con gái ra, hắn lom khom nhặt quần áo
rồi ù té chạy, đứa con gái cuống quýt chưa biết làm gì thì tôi ôm thốc lấy và
đè vào thành cầu, nó kháng cự một cách yếu ớt, tôi thấy nóng như than và đứa
con gái mát lạnh, tôi sờ soạng lên khắp thân thể nó và ép nó cứng vào cầu.
Tôi nghĩ đến bộ ngực con bé Tàu lai thì đưa tay lên, tôi bắt gặp… Tôi hoảng hốt
buông tay ra, lùi lại nhìn vào mặt đứa con gái, trong bóng tối lờ mờ, tôi nhận
ra đó là một con đĩ già ở đầu cầu tôi quen mặt…
(Tuổi nước độc, trang 59-60)
Đó, cái tâm trạng trên đây phản ánh một phần tâm trạng của lớp người trẻ tuổi
sống trong vòng đai Hà Nội trong khoảng thời gian mấy năm tạm chiếm. Rong
chơi, rượu và đàn bà những vị thuốc giúp họ quên thực tế. Họ hành động theo bản
năng, có ngoại cảnh hỗ trợ. Đôi khi họ cũng tranh luận về thái độ sống, nhưng
chỉ dùng như một thứ nguỵ trang để lương tâm được yên ổn sau mỗi lần phạm lỗi
lầm – cho tới một ngày, họ đã hé mở nhìn ra sự thật qua cái chết của cha
Trương bị du kích xã băn chết vì ông cụ không còn tiền để ủng hộ. Thu, em
Trương nhất định đăng lính dù để trả thù cho cha, trong khi Trương chưa dứt
khoát nên vì tình phụ tử hay vì kháng chiến? Rồi đến những giọt nước mắt của
mẹ già khóc đứa con bị công an bắt vì nghi ngờ có liên lạc với “ngoài”. Những
mâu thuẫn và giằng co dồn dập đến trong kích thước trong thành phố Hà Nội, giữa
lòng mỗi con người an phận hay chống đối làm tan hoàng cả một nếp sống.
Trong Tuổi nước độc, Dương Nghiễm Mậu đã dùng lý trí để mổ xẻ và trình bày những
uẩn khúc của tâm lý tuổi trẻ trước những nghịch cảnh do chiến tranh tạo nên.
Bút pháp có lúc sôi nổi, có khi lạnh lùng nhằm mục đích đưa người đọc vào
không khí của truyện. Nhưng đôi khi vì quá say mê và cũng muốn gây cảm giác
“cao độ”, nên một vài sự kiện được trình bày trở thành “quá độ” làm cho nguồn
bi thương của tấn thảm kịch mất đi sự chân thành, tự nhiên của nó. Những
trang độc thoại nặng nề, chứa đựng nỗi dày vò tâm cảm không thoát khỏi vòng
luẩn quẩn. Hình ảnh chiến tranh với những nạn nhân, những căn phòng lạnh lẽo
của bệnh viện, những kẻ tàn tật kéo lê kiếp sống một cách nặng nhọc, hình ảnh
tu viện nào đấy, tượng trưng tình thương và mặc cảm sát nhân của Ngạc – nhân
vật xưng tôi trong tác phẩm – đã chẳng gây nên tác động sâu đậm vào trong ý
thức thưởng ngoạn, cũng như sự phản bội qua khuôn mặt Lâm, với những kinh
nghiệm đắng cay của bạn bè vọng kháng chiến v.v… Nhưng sau cùng, tất cả được
mở ra một cách gượng ép với một người tình – người chị họ – cùng một mầm sống
đang thành hình do tội lỗi và tình yêu!…
Cái kết này đối với xã hội Việt Nam, đối với nền luân lý phương Đông, sự thực
không ổn. Nó chứa chấp từng cơn thảng thốt, từng niềm băn khoăn thác loạn. Đã
đành, trong cuộc sống, có thể xảy ra những thảm kịch gia đình khắc nghiệt như
thê hay hơn thế, nhưng nó không phải là mẫu số chung của toàn bộ nếp sống Việt
Nam, nên sự hình thành của một bi kịch nào đó cũng chỉ là ngoại lệ. Đồng ý rằng,
nhà văn có quyền tuyệt đối trong sáng tác, và cũng chính nhà văn chịu hoàn
toàn trách nhiệm về uy quyền của mình, nhưng ít nhất, khi đặt vấn đề trước xã
hội, nhà văn cũng đừng quên, sự quan trọng không phải do tác phẩm hay nhà
văn, mà chính cuộc sống với những liên hệ mỗi số phận về tinh thần cũng như vật
chất, đã buộc con người chịu trách nhiệm chung trong mọi tư tưởng và hành động.
Do đó, khi phân tích cảm giác “phi lý” về cuộc đời, Camus cho rằng: chống đối
không phải là tuyệt đối phủ nhận cuộc sống vì ở đời hai mối thiện ác vấn vít
nhau, trong thiện có ác, trong ác có thiện, vậy chỉ có thiện ác tương đối. Bởi
thế, dù ở trường hợp nào, sự mất thăng bằng cũng làm hại không ít đến tác phẩm,
nhất là ở Tuổi nước độc với hoàn cảnh xã hội Hà Nội trong những năm
1947-1954. Người đọc tin rằng, Dương Nghiễm Mậu đã phán đoán và nhận xét nó
qua lăng kính của trí tuệ một nhà văn khi viết tác phẩm này, mới ngoài hai
mươi tuổi đời, do đấy, sự vội vã, không sát thực tế, và chủ quan, tất nhiên
khó tránh được. Nhưng có điều cần phải nói, Dương Nghiễm Mậu hành văn rất lưu
loát và không thiếu nhiệt thành trong mỗi vấn đề đặt ra trước lương tâm người
cầm bút, vì nói đến quá khứ cũng để xác định thái độ trước cuộc sống hôm nay vậy.
Vì có mặc cảm cô đơn trước xã hội không thuộc về mình, nên lúc nào và bất cứ ở
đâu, nếu tìm được môi trường vừa đủ là Dương Nghiễm Mậu dấn thân. Nhưng sự dấn
thân nào cũng chỉ đưa đến thất vọng vì lý tưởng và thực tế là hai con đường
chạy song song được cách ngăn bởi một vực thẳm. Hoàn cảnh Việt Nam vào những
năm 1962-1963 thật ngột ngạt. Những trái bom ném xuống dinh Độc Lập báo động
một cái gì sắp xảy ra cho nền Đệ I Cộng hoà và cũng từ đấy, từng luồng gió chống
đối ngấm ngầm thổi đi do những tấm lòng bất mãn với chế độ lúc đó. Bánh xe lịch
sử bắt đầu chuyển động từ từ rồi thăng tiến lần lần cho đến ngày 1/11/1963,
vòng quay cuối cùng đã nghiến nát một chế độ sau 9 năm hiển hách.
Dương Nghiễm Mậu – người chứng cô đơn – đã viết ra để nói lên một phần cái động
lực chính của lớp người trẻ tuổi đã tham gia hăng hái vào cuộc cách mạng cùng
Phật giáo và quân đội với kết quả của nó. Nhà văn trình bày trước người đọc
những mẫu nhân vật, tượng trưng cho vài thành phần của xã hội, vì lý do này
hay lý do khác đã dám chống đối để ở tù, hoặc bất mãn chung thân, hoặc muốn
an phận để thụ hưởng những gì do cuộc sống và chế độ đãi ngộ.
Khuôn mặt Thạch, một thanh niên tham gia cách mạng vì lý tưởng cao đẹp, muốn
cải tạo cuộc sống bằng hành động tích cực, phải trả giá bằng tù tội. Nhưng
sau khi cách mạng thành công cuộc sống Thạch mơ ước với sự thay đổi để tiến
hoá, nó vẫn y nguyên nếp cũ.
… Một lần Thạch hỏi:
“Sau đảo chính chắc có thay đổi, người mới, người cũ.”
Đang ngồi, Thuần giơ cả hai tay lên:
“Thay đổi cái gì, họ là công chức mà!”
“Là công chức là không có gì thay đổi?”
“Thay đổi, cậu cứ nghĩ là thay đổi sao, họ là công chức thì vẫn là công chức
chớ. Hồi Tây họ làm công chức, thì thời Bảo Đại họ cũng làm công chức, thời
ông Diệm cũng vậy, bây giờ ông Diệm chết rồi thì họ vẫn là công chức…”
(Phấn đấu, trang 20)
Thật ngao ngán và bi đát – qua lời phát biểu trên – cho những ai hy vọng nhiều
về cách mạng! Hoàn cảnh chẳng phải chỉ có thế. Nó còn vùi dập theo bao nhiêu
số mệnh khác và làm thui chột từng nguồn hy vọng vừa được nhen nhúm trong tâm
tư những người yêu nước. Hình ảnh Sương, người con gái đã hy sinh theo tiếng
gọi tranh đấu để xây dựng lại một xã hội quá mục nát vì “độc tài” và “gia
đình trị” này. Nàng đã chống lại tất cả, quyết sống chết với Cách mạng, để rồi
bị hãm hiếp trong tù đến mang thai. Cái bi kịch, nhà văn tạo ra trong tác phẩm
không phải chuyện ngẫu nhiên, đích thực, nó là những dữ kiện lịch sử, nhà văn
chỉ ghi nhận rồi tiểu thuyết hoá nó một phần để gây xúc động. Lời răn dạy đầy
phẫn uất của người bố, đã phản ánh trung thực tâm lý của một hạng người cầu
an, tự phụ,
… Mày tranh đấu cho ai, cho cách mạng, cho Phật giáo, cho dân tộc, thật là đẹp
đẽ huy hoàng, nhưng ai chịu mang cái bào thai cho mày, ai chịu đánh đập, tù tội
cho mày, rồi ai sẽ cưới mày làm vợ, ai nuôi con mày… Còn tao, thì tao vẫn là
giáo sư, không cần tao được ư? Còn lâu con ơi? Vì tao có bằng cấp, thiếu những
người như tao ai lên tiếng ủng hộ, ký kiến nghị và dạy cho bọn bay… Chúng mày
muốn là anh hùng thì cho chúng mày chết, tao bảo không nghe đừng trách nữa,
các con ạ, các con nên biết như thế…
(Phấn đấu, trang 29)
Lời nói đó đối với tuổi trẻ, không phải là bài học khôn do người lớn dạy bảo,
nó là điều sỉ nhục, nhưng ác hại thay lại hợp lý! Vì mọi giá trị đã sụp đổ
trong một tổ chức quá cũ, trong một xã hội không tiến bộ, việc đi tìm căn bản
mới, giá trị mới, có thể còn là sự viển vông trong một giai đoạn dài nữa.
Những dòng của Vĩnh – một quân nhân trẻ – viết trong tù, đã chứng minh đầy đủ
những gì cần phải bày tỏ trước công luận về ý thức cách mạng và hoàn cảnh
cách mạng tại miền Nam trong năm 1963 và tiếp nối,
… Nhớ nhà, nhớ bạn… nằm đây tự giết mình dần dần. Cái chết của Trung: đóng
trong một đồn biên giới nhận tiếp tế từ máy bay, ba tháng liền không ai rời
khỏi tay súng, những lá thư của Trung còn đó, nhưng Trung không còn nữa. Đồn
đã bị vây khốn. Trung chết trong đồn, quân tiếp viện lên tới nơi chỉ còn để
đưa Trung về trong quan tài im lặng. Những tiếng khóc. Trung ơi! Mười mấy cái
huyệt đào sẵn trong nghĩa trang, mỗi lúc đều có người chết, người hấp hối.
Anh em mình đang chết dần, chết dần. Mỗi người còn sống đều có những cái tang
trong chiến tranh chua xót. Mỗi người đều có thể chết bất cứ lúc nào. Chết
cho cái gì? Đánh cộng sản giữ nước. Nhưng nước ấy cho ai, cho anh em ông Diệm
an hưởng ư, cho một xã hội thối nát, xôi thịt, cho bọn buôn bạc giả dư tiền,
dư địa vị sống sung sướng trên xương máu những chiến sĩ ngoài mặt trận ư?
Trung ơi! Trung ơi! Chúng ta chết như nhau, sẽ chết hư… sẽ chết không nhắm mắt
được, mãi mãi…
(Phấn đấu, trang 51-52)
Đây là lời trối trăn cuối cùng của một chiến sĩ đã nhìn rõ cuộc đời? Đây là
tiếng ai oán, phẫn uất của một tấm lòng quá yêu nước Việt Nam đang gào thét
lên sự thật cho mọi người Việt Nam cùng nghe? Đúng, nó là sự thực. Chính vì sự
thực đó mới tạo nên cách mạng, còn kết quả cách mạng ra sao lại là việc khác.
Do thế, khi nhìn thấy sự hy sinh của từng lớp người, của những lớp người cho
đại cuộc, không gặt hái được kết quả mong muốn, Thạch – nhân vật đại diện tuổi
trẻ – đã tỏ thái độ với tuổi già: Tôi mong những người già sống ở đây hãy chết
đi cho chúng tôi còn được kính trọng bằng ảo tưởng. Thái độ được tỏ bày qua lời
nói, một lời nói trong lúc nóng giận, để sau này, khi sự diễn tiến cuối cùng
của cách mạng làm sáng tỏ quan niệm của ông Nguyễn – đại diện lớp già – là
đúng. Điều này được thể hiện qua sự gặp gỡ giữa Trần Minh Đạo (người cùng ngồi
tù với Vĩnh) và Thạch. Cái thế của một tiểu nhược quốc không cho phép người
ta hành động quá sức của nó là như vậy.
Thạch còn đó. Sương còn đó với một bào thai trong khung cảnh cao nguyên, mưa
bay mờ thung lũng và tương lai nào, dĩ vãng nào, với muôn vàn nhục nhằn bùng
nhùng trong tâm trí!
Dương Nghiễm Mậu có cái nhìn rất sắc và rất sâu trong mỗi vấn đề được đặt ra.
Nội dung đều gói ghém những đớn đau uất hận không phải được hình thành bởi
sáng tạo mà do cuộc sống thực tại đã tác động vào tâm thức. Có người cho rằng,
Mậu đã bi thảm hoá quá đáng cuộc sống vì cuộc sống đâu có phải chỉ gồm toàn
đau thương, uất hận? Cuộc sống là kết quả của muôn vàn dữ kiện tạo nên mâu
thuẫn, rồi từ mâu thuẫn qua đấu tranh để sinh tồn trong mọi trường hợp, mọi
hoàn cảnh dù ôn hòa hay đẫm máu.
Bất cứ cuộc tranh đấu hay suy luận nào, sớm hay muộn cũng đưa con người tới mệt
mỏi, nhất là khi nhìn thấy cuộc sống vẫn được tiếp nối bằng nhàm chán sau những
cố gắng phải có, nhưng quả tình vô ích. Để trốn tránh sự gay gắt quá đỗi của
thực tại, Dương Nghiễm Mậu đã du hồn vào vòm cong trí tuệ. Cái khung trời mộng
ảo mà Mậu phác hoạ trong tâm trí, có thể, nó là quá khứ với những nhân vật và
không khí thuộc lịch sử hay huyền sử, có thể, nó là những ẩn dụ nấp sau những
từ như ngữ, người đọc cần soi tỏ để nhận về phần mình sự hứng thú qua tác phẩm
Nhan sắc. Nhân vật Phạm Thái trong truyện “Người tình của Trương Quỳnh Như”
được dùng như biểu tượng của kẻ sĩ trong thiên hạ. Từng bát rượu lớn uống một
hơi đâu còn cái thú của nghệ thuật uống rượu, mà chỉ nhằm dùng chất men để
giải toả nỗi buồn thiên thu, đang ngự trị trong một tấm lòng chứa chấp đầy ắp
ưu phiền.
Cuộc đời là đại mộng. Công danh, phú quý và cả cái chí hướng của kẻ nam nhin
muốn đem tài năng để xoay lại vận trời, những hỡi ôi! Định mệnh đã an bài từ
kiếp nào để đến nỗi kẻ anh hùng phải thốt ra lời cay đắng: chí lớn trong
thiên hạ không chứa đầy cặp mắt mỹ nhân! Và túi thơ, bầu rượu, trăng nước, trời
mây, sông biển, cả thời gian nữa sẽ nguôi ngoai tâm sự, làm băng hoại một thời
khí phách! Dương Nghiễm Mậu đã khoác lên vai Phạm Thái chiếc áo choàng hiện tại
để bày tỏ những suy tư thầm kín của tác giả.
Từ kẻ sĩ bất đắc chí, nhà văn đưa người đọc qua trạng thái khác, trong câu
chuyện “Một người lên núi”. Cái nhân sinh quan, nhà văn tỏ bày trong truyện,
chịu ảnh hưởng của triết thuyết Lão Trang. Cái Có, cái Không, cái Còn, cái Mất
đều là hư ảnh. Con người chẳng là gì đối với Vũ trụ, nếu chưa nhận thức được
lẽ vô vi và câu Trời đất vô tình của Lão Tử. Hình ảnh của Vương Tiên Sinh và
mẹ già, em dại, cam chịu vướng mắc vào thế luỵ tương phản với hình bóng lập lờ,
huyền ảo của một con người không được nhận diện đích danh, lừng lững đi vào
siêu thoát của trường mộng. Đó là ảo ảnh hay tinh thần bất biến của cái Đẹp
đang chập chờn bay lang thang giữa Thực và Mông, giữa cuộc đời và nghệ thuật?
Có lẽ, những thất bại thực tế đã làm Dương Nghiễm Mậu thấm đau tự đáy lòng,
nên mỗi truyện trong tập Nhan sắc đều hàm chứa sự bất lực của thân phận con
người trong mỗi hoàn cảnh. Làm cách mạng, yêu cách mạng với một ý hướng cao cả,
như một gã si tình say mê nhan sắc. Vẻ đẹp của một bông hoa, một mỹ nhân hay
cố định lý tưởng nào, khi nó đã quyến rũ và tương phù với ý muốn con người,
thì dù cho có phải vì nó mà chết cũng cam lòng! Cái chết đó để dành cho những
người biết đi tìm tuyệt đối trong tương đối. Nó được Dương Nghiễm Mậu mượn
xác lịch sử thời Cao Bá Quát và thầy khoá Nhâm cùng người khác-vô-danh đã-biết-chết
một cách anh hùng, liệt sĩ cho cái đẹp cao cả.
Rồi đến truyện “Từ Hải và cuộc phiêu lưu của đời chàng”, cũng được nhà văn
dùng như chất liệu để tỏ bày thái độ hay gửi gấm tâm sự? Từ Hải, vị anh hùng
hay tên du côn? Từ Hải dưới nét bút Nguyễn Du, đích thực Từ Hải anh hùng “dọc
ngang nào biết trên đầu có ai?” nhưng qua lý luận của nhà văn, Từ Hải có thể
là tên du côn, nhưng tên du côn có ý thức, biết chống bất công và thối nát,
biết yêu, biết sống. Hơn nữa, Từ Hải không chiết vì toán quân phục kích của Hồ
Tôn Hiến. Từ Hải chết đứng giữa trận tiền là Từ Hải giả đó thôi. Nhưng sự trở
về của Từ Hải có thực sự cần thiết đối với nhà văn? Có lẽ là một cần thiết, để
nhà văn mượn có giãi bày suy nghĩ, để gợi lên ám ảnh trong tiềm thức, để chứng
minh sự tiếp nôi không ngừng của lịch sử đấu tranh, và cái “biểu tượng anh
hùng” như một lưỡi gươm, một hình phạt treo lơ lửng trước lương tâm mỗi con
người đê tiện. Và Kim Trọng, Thuý Vân với những lời van xin, năn nỉ của Thuý
Kiều có phải chăng là niềm ăn năng, sám hối của một lỗi lầm, của những lỗi lầm
do bả vinh hoa cám dỗ để đưa mỗi số phận chìm sâu địa ngục?…
Truyện “Kinh Kha”, “Con chuỷ thủ” và “Đất Tần bất chắc” cùng mang ước lệ,
nhưng ở đây, với niềm băn khoăn chọn lựa giữa hai ngả: sống , chết. Kinh Kha
người dũng sĩ thời Chiến quốc tượng trưng lòng căm thù giữa giai cấp bị thống
trị và Tần Thỉ Hoàng một bạo chúa, tượng trưng cho giai cấp thống trị tàn ác,
dã man. Nhưng đau đớn thay, chính vì bạo tàn mà Tần Thỉ Hoảng mới thống nhất
và cai trị được nước Trung Hoa mông mệnh. Người đọc sững sờ trong những lời đối
thoại giữa Tần Thỉ Hoàng và Kinh Kha qua câu chuyện kể giữa hồn ma Kinh Kha
và Cao Tiệm Ly,
… Nhà ngươi không sợ chết sao? Tôi bảo, nếu tôi chết sẽ có kẻ khác noi theo,
cho đến khi nào giết được nhà ngươi. Vua Tần dằn giọng: Thôi ta chịu chết,
nhưng ta hỏi nhà ngươi: Giết được ta rồi nhà ngươi làm gì với nước Trung Hoa
này?
“Bây giờ hắn ra sao? Anh chưa giết hắn?”
“Chưa, nhưng hắn ở trong tay tôi, lúc nào muốn giết thì giết, có điều tôi muốn
biết: Thái tử Đan sẽ làm gì với một nước Trung Hoa sau khi tôi đã giết hắn?…”
Câu hỏi đó, hình như Dương Nghiễm Mậu đặt ra cho nước Việt Nam sau cái chết của
ông Diệm? Nhưng cái mẫu anh hùng của Dương Nghiễm Mậu, nó chỉ là một hình thức,
một biểu tượng và luôn luôn cô đơn – như tuổi trẻ hôm nay. Nó nghư ngọn nến
nhỏ trong đêm tối mịt mùng với giông gió chập chùng đe doạ, bởi vậy, mỗi hành
động, mỗi suy tư được tỏ bày cũng mang sẵn bên trong sự tan rã, tuyệt vọng do
chính nó tạo ra.
Truyện “Gậy thần và sách ước”, niềm bi phẫn cuối cùng của tập Nhan sắc, Dương
Nghiễm Mậu không còn biết tin vào cái gì nữa, đứng cho vơ giữa cuộc sống bao
phủ đầy giả dối, ươn hèn và độc ác. Những giá trị người đời ca tụng, sự thực
nó cũng chẳng đáng gì, cũng chỉ là hư danh, phù phiếm! Nhưng chẳng lẽ ngày
ngày nhìn thân phận trôi vào hư vô như kiếp sống cỏ cây, Dương Nghiễm Mậu tìm
về cho riêng mình một chân lý, một ý hướng qua câu chuyện nhuốm màu triết học
để đi tới kết luận: con người lành hay dữ, xấu hay tốt đều do mình quyết định
không phải do hoàn cảnh và kẻ khác.
Nhưng người đọc tin rằng, tập Nhan sắc chỉ là nguyên cớ để Dương Nghiễm Mậu rời
xa thực tại một khoảng Thánh Thể nào đấy. Con đường đó tuy đẹp, nhưng không
thuộc về Dương Nghiễm Mậu.
Dù cuộc đời có mặt với bao nhiêu thê thảm, dù định mệnh là sự kiện khắc nghiệt,
dù đôi khi Dương Nghiễm Mậu muốn một mình bay bổng lên cao để mặc thời gian đẩy
đưa đến thì đến, dù cho thối nát, sa đọa, bất công có làm mỗi số phận phải ê
chề tủi nhục nhưng Dương Nghiễm Mậu vẫn muốn vì nó mà hành động, mà chung
vui, chung buồn với nhân thế.
Tác phẩm Ngày lạ mặt là tiếng khóc, là phẫn nộ hay sự chua xót đang len lách
dày vò trong tâm cảm nhà văn. Nội dung câu chuyện do cô học trò tên Hoàng yêu
thầy dạy mình, và tự nguyện thoả mãn lời ước mong của người tình – muốn có một
đứa con. Thầy Lĩnh có đạo và đã có gia đình. Hoàng tôn thờ tình yêu mà nàng
cho là lý tưởng, mặc kề gia đình, dư luận! Câu chuyện xảy ra ở một thành phố
miền duyên hải, khi còn luật gia đình.
Thầy Lĩnh ra toà, không chối cãi. Toà xử lằng nhằng. Trong khi đó Dũng – một
quân nhân – bạn học xưa của Hoàng, yêu nàng tha thiết, Dũng uất hận muốn giết
thầy Lĩnh – người thầy cũ – vì đã cướp tình yêu của mình. Ông nghị Vĩnh – bố
Hoàng – thiếu tư cách không được kính trọng. Hoàng có mang với thầy Lĩnh. Cuối
cùng, vợ chồng thầy Lĩnh điều đình với ông nghị Vĩnh, xin bãi nại. Vì quyền lợi
tranh cử, ông nghị Vĩnh bằng lòng. Rồi vợ chồng thầy Lĩnh sửa soạn đi ngoại
quốc. Hoàng một mình ngất ngư với cái bào thai.
Sự đam mê của Hoàng – một trò gái ngây thơ – với ông thầy học đã có gia đình
và đứng tuổi, phải chăng là vấn đề cần đặt ra trước xã hội – qua văn chương –
một bằng chứng hiển nhiên rằng, mỗi con người chịu trách nhiệm về phần hành của
nó? Không lẽ, chỉ vì lòng mơ ước có một đứa con mà thầy Lĩnh đã phá hoại đời
người con gái, học trò mình? Vấn đề đặt ra ở đấy, chứ không phải ông nghị
Vĩnh, hoặc Quân hay Dũng – kẻ si mê trong thất bại! Cái tâm trạng bi thương của
những kẻ muốn làm anh hùng hay vĩ nhân trong khi mình chỉ là hạt cát. Tâm trạng
Hoàng cũng vậy, cho rằng mình đã yêu, đã hy sinh, nhưng rốt cuộc chẳng biết sự
hy sinh đó mang lại ngưỡng mộ nào, ngoài đổ vỡ. Những trang nhật ký hay lời
thú tội của một hành động sai lầm? Tình yêu của tuổi trẻ là tốc độ, là đột biến
không thể dự tính được,
… Tôi nói: Tôi yêu thầy Lĩnh. Tôi biết thầy là người có đạo, có gia đình…
nhưng tôi yêu thầy. Chính tôi đã chọn vậy…
… Tôi biết đây là mối tình vô vọng, cả hai chúng tôi đều biết như thế, nhưng
không ai chịu ngừng, như một chuyến xe xuống dốc, chúng tôi nhắm mắt lại, những
lo âu, thảng thốt chợt đến, những hãi hùng chợt hiện, những giọt nước mắt, những
lời thú tội với chính mình, chỉ có vậy. Tại sao tôi lại lựa chọn vào hoàn cảnh
ấy?
(Ngày lạ mặt, trang 11)
Sự lựa chọn tình yêu nhiều khi do bất ngờ của định mệnh. Nhà văn Malraux
khuyên con người nên can đảm trước định mệnh, nhưng tự thâm tâm, Malraux đã cảm
thấy một cách thê thảm rằng: vũ trụ chẳng liên quan gì đến con người cả. Nên
sự thống khổ của Hoàng trong những trang sách Ngày lạ mặt, nó không thể thực
hiện bằng cách nào khác hơn là con vật tế thần, để trình bày một khía cạnh
đang cấu xé lương tâm nhân loại.
Cuốn sách mở đầu và khép bằng những trang nhật ký chứa chấp trọn vẹn cái đau,
cái nhục và mỉa mai thay, cả cái tự ái của tuổi trẻ cố tìm những lý lẽ để bào
chữa tội lỗi,
… Tôi chỉ là một đứa con gái tồi tệ. Nhưng sao tôi lại không thể nói với họ,
tôi tồi tệ vì tôi là con của một người tồi tệ, người của một xã hội tồi tệ,
làm sao tôi không tồi tệ được trong một xã hội hoàn cảnh như thế. Tôi yêu một
người, có gì đâu. Còn những ông X., ông M. những người đồng chí của cha tôi
đó cùng với tên tài xế đã bắt hiếp cái con gì đó trong nhà chứa xe hồi nào
thì sao. Con nhỏ phát điên vì ghê tởm chạy như con chó dại trong thị xã đó
thì sao. Có thực là nó đã lao mình xuống biển rồi giạt vào bờ không, hay một
kẻ nào đó muốn xoá đi dấu vết tội lỗi của mình? Họ đã xoá được và đêm ngủ mới
yên tâm? Có thể lắm…
(Ngày lạ mặt, trang 161)
Tiếp theo là việc từ chối đề nghị phá thai để khỏi mang tiếng cho gia đình, một
gia đình không mấy hãnh tiến về mặt đạo đức của ông nghị Vĩnh. Cuối cùng,
Hoàng – người nữ sinh – cương quyết chọn con đường mình đã định,
… Tôi không muốn sống bằng ảo tưởng. Bây giờ tôi phải lựa chọn đương đầu… Tôi
sẽ là một người mẹ, tôi phải nuôi con trong tình cảnh đơn độc của mình.
… Tôi nghĩ tới Dũng, bây giờ tôi muốn cầu cứu với Dũng, Dũng có còn yêu tôi,
muốn sống với tôi khi biết tôi có mang không, chàng có thương yêu một đứa con
không phải của mình không, tôi không muốn lừa ai, nhưng tôi muốn có một người
thương yêu mình, giúp đỡ, san sẻ với mình. Tôi hiểu hoàn cảnh của thầy Lĩnh,
tôi không oán trách người, tôi muốn giữ lại những gì mà người đã để lại cho
tôi…
Một quãng đời đã trôi qua, đã chấm dứt phải thế không, Hoàng rồi mày phải sống
ra sao? Tôi đang khóc cho tôi đây…
(Ngày lạ mặt, trang 170)
Kết luận như tên có phải là một kết luận hợp tình? Có phải nó được giải quyết
một cách thoả đáng và hợp lý?
Tội lỗi cũng như hình phạt được nhà văn đặt ra như một phi lý, một bất công,
quả là nặng nề đối với thân phận người con gái. Rồi còn những ngày tháng trước
mặt, rồi còn những ám ảnh và mặc cảm, đã dễ gì vượt thoát được, dù cho với sức
mạnh của tâm linh có tình yêu hỗ trợ!…
Dương Nghiễm Mậu, nhà văn ý thức được luật sống và sau những năm dấn thân vào
nghề cầm bút đã thấu rõ cương vị của văn chương trong xã hội. Viết văn không
phải để thoả mãn hoặc dương danh mình trước cuộc đời, chính thực để nói lên
những cái gì mà lương tâm chân chính của con người cần phải tỏ bày trước công
luận. Bởi vậy, ngoài những truyện dài, Dương Nghiễm Mậu viết rất nhiều truyện
ngắn đã in thành sách như: Đôi mắt trên trời, Kinh cầu nguyện, Quê người, Ngã
đạn v.v… và tập bút ký Địa ngục có thật viết về cuộc tàn sát của cộng sản
trong đợt tổng công kích Tết Mậu Thân tại Huế.
Mỗi truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu là một bức tranh tâm cảm, ở đó, bao giờ
nhà văn cũng khơi động tình thương, dù cái tình thương ấy ở trong một hoàn cảnh
khó thương. Những thắc mắc và ưu tư về cuộc sống góp mặt với từng dữ kiện hiển
nhiên xác thực, hằng ngày qua báo chí, nhiều khi còn tồi tệ hơn những dữ kiện
được sáng chế do óc tưởng tượng của nhà văn. Tuổi trẻ và nỗi cô đơn là mối
dày vò thường xuyên trong mỗi suy nghĩ của những người lớn lên trong chiến
tranh và chính chiến tranh đã nuôi dưỡng, giáo dục họ bằng những ngọn roi
dính máu.
Lương tâm nhà văn chỉ là một chiếc gương bé nhỏ phản chiếu lại một trạng huống,
một nếp sinh hoạt nào đó đã in hằn chứng tích trong mỗi suy nghĩ về sự góp mặt
của mình giữa hoàn cảnh đã được hình thành như vậy. Sự chối đối hay im lặng đều
vô ích! Con người cầm bút phải biết dùng khả năng và tài năng chuyên biệt để
chế tạo thành chiếc gương riêng, cho xã hội nhìn vào đấy, nhận diện lẫn nhau
trong một kích thước hạn định. Sứ mệnh của nhà văn hôm nay không phải là nhân
chứng mà phải nhập cuộc, vì có nhập cuộc mới xác định rõ ràng rằng: chiến
tranh, lo sợ, buồn rầu, đam mê và tuyệt vọng có phải là lẽ sống duy nhất của
cuộc đời hôm nay không?
Trích văn Dương Nghiễm Mậu
… Tôi chạy xa để thoát khỏi vùng tiếng động, nhưng dư âm vẫn như còn đuổi
theo quấn quít. Tôi bỏ hai tay lên ôm lấy đầu, bịt hai lỗ tai và nhắm mắt lại.
Cả một khối đen như trùm lấy và ôm khít, thân thể tôi co rúm và bủn rủn, tôi
níu tay ôm lấy cái bóng đen đứng cao trước mặt để dừng lại. Âm thanh kim
khí, man rợ… rồi dần dần loãng và nhẹ nhàng. Một người ở thế giới nào đó tiến
lên. Sân khấu là một tấm màn màu nâu, người chắp tay trước ngực, có bánh xe
(có phải là một bánh xe không?) quay đều đều bởi một sức mạnh lạ mặt đứng khuất.
Tiếng nói cất lên – “Vậy chứ ở đó như thế chăng?” – “Không phải như thế” –
“Người bảo sao?” – “Tôi cũng từ bỏ nó” – “Có lẽ rồi không muốn, vậy người định
tới đâu?” – “Hư vô” – “Tôi đã nghe ở đâu đó, có nơi nào khác thế này chăng?”
– “Có, để nói cho nghe” – “Tôi muốn biết nơi nào người ta sống lâu nhất, dù
sao thì cũng phải sống lâu, nhưng được chết êm ả.” – “Đúng như thế đó, có kẻ
đã dạy thế. Con người ở mấy nơi, có một nơi mặt đất hình vuông, không hiểu
con mắt nào nhìn xuống thấy vuông, mặt người ở cũng mang hình đó. Xin đừng cười
và hỏi lại, vì tôi chỉ kể. Nơi này người ta sống dài một ngàn năm, mười thế kỷ
của đời anh. Người ta sống không có một quy luật nào. Không có ai nhận mình
tìm ra một thứ chỉ đạo cho đời sống, chẳng nghĩ, chẳng tin, câm điếc như loài
thảo mộc. Cho nên chẳng một ý kiến, một lý thuyết nào có thể đến đó. Vùng bao
la mang một phòng tuyến mong manh nhưng vững chắc là sự thản nhiên. Không phải
trải qua sự khổ. Không có tiếng nói chỉ sự khổ. Còn có thể có bao nhiêu ngôn
ngữ để chỉ: khổ sở, tật nguyền, ốm đau, giết chóc, tù đày… thôi tôi chẳng phải
nhắc vì nếu tôi ngừng lại, và anh bắt đầu như thế chưa biết đến bao giờ anh mới
nói hết… có khi đến chết cũng chưa biết nữa. Tôi kể tiếp: ở đó con người
không biết khổ không ý niệm được nó nữa. Chúng ta phải làm lụng, có phải
chúng ta loài vật duy nhất làm việc để kiếm ăn không? Chúng ta mệt nhọc thể
xác và tâm trí – kiếm ăn uống, xây nhà cửa, chăm sóc con cái, làm ruộng, buôn
bán. Nhưng ở nơi, thế giới tôi nói thì tuyệt nhiên không. Cây là nhà cửa. Khi
đói họ tìm đến gốc cây, ở dưới gốc có sẵn môt cái vạc lớn, trong óc muốn ăn
thứ gì tuỳ ý, chỉ việc đưa tay hái một quả bỏ vào vạc, ánh sáng mặt trời chiếu
xuống đó nấu chín món ăn. Mỗi khi tắm vứt bỏ quần áo lên cây, tắm xong lấy một
quả bổ làm hai lấy ra quần áo mới mà mặc. Khi đại tiện đất nứt thành hố, đi
xong ập lại, ở đó mấy bông sen mọc lên toả hương thơm ngát. Từ cái lược, đôi
hài, chiếc mũ, nhất nhất cái gì người ta gọi đến, cần đến cây đều sinh ra.
Khi một đôi trai gái bằng lòng nhau, mong nhau đến một gốc cây, bóng cây rũ
xuống che khuất để biến thành một lâu dài, đôi uyên ương chung sống với nhau ở
trong đó, chỉ trải qua bảy ngày thì sinh con. Nhưng cha mẹ không phải nuôi,
chỉ việc mang đứa nhỏ để ở một ngã ba đường, người qua lại cho nó mút ngón
tay, ở đầu ngón tay mỗi người đều tiết ra một chất nước ngọt đủ nuôi sống đứa
bé lớn lên. Chỉ bảy ngày sau đứa bé như người thường; con trai đi với con
trai, con gái đi với con gái, chẳng lấy vợ lấy Chiêm hay có gia đình chi cả.
Người ta sống như một loài cây cỏ, cứ đến độ có hoa thì nhuỵ đực đi tìm nhuỵ
cái mà ra kết quả. Sống cho đến hến ngàn năm không vui, buồn, sầu, khổ, tật bệnh,
giận ghét không biết đến. Khi nhắm mắt lại thì có loài chim đen, cánh lớn đến
cắp xác tha đi. Câu chuyện là như thế”.
Tôi nhìn trong bóng tối, một bánh xe quay tròn bên tiếng nói phát ra, tôi nhủ
thầm: “Ở đó có bánh xe như thế kia quay không?” Tôi ôm chắc lấy bóng đen cao
cất tiếng: “Không, không khí khi nào tôi tới đó, hay muốn cho nơi này như thế!
họ không là người. Họ khác hẳn tôi. Tôi là người. Tôi từ giã, từ giã…” Bóng tối
như siết chặt tôi mãi vào một vật cứng đứng cao lắm. Tôi đưa tay sờ soạng một
làn cứng mấp mô, như một làn da sần sùi không hơi nóng, không thoi thóp thở,
một thứ gì sượng sần nhớp nháp, tim tôi đập mạnh, mồ hôi đổ nóng, má tôi chạm
vào một làn đất sỏi khô. Một điệu kèn ré lên buốt nhức khoảng không quay cuồng
nhồi vào trí não một hơi rượu mạnh cay xé môi, lưỡi và cuống họng. Người nhạc
sĩ bước ra khỏi vùng bóng tối. Hắn đã bị bỏ rơi từ bao nhiêu thế hệ. Số kiếp
họ là một cái gì – có phải nó mang chứng tích một sự thực hiển hiện nơi màu
da đen bóng kia không. Màu da đen nổi bật hẳn trước tấm màn đỏ. Điệu kèn ré
lên với một nhịp điệu man rợ như ngọn lửa bốc cháy say đắm của vùng nhiệt đới.
Cây cỏ hoa lá cũng cháy nơi họ sinh ra. Sự cuồng nhiệt dục tình đã thổi vào mạch
máu, hiện ra đời sống mà dồn ép họ vào bóng tôi sâu thẳm từ bao nhiêu lâu
nay, đến bây giờ mới đứng ra cất tiếng nói từ trong đáy lòng… “Cớ sao tôi đen
và tôi sầu đến thế”… Chẳng có gì? Làm sao để tôi nói với anh khi trên môi anh
cái ống đồng phụ hoạ cất lên kia? Người nhạc sĩ uốn cong thân hình, oằn oại
như một con trăn ngũ sắc, vừa nuốt vào bụng một loài vật đang vặn mình tiêu
hoá. Hắn cúi gập, vươn cao và những âm thanh oằn oại, tức tưởi, nghẹn ngào, uất
ức, má phồng, mồ hôi vã ra đầm đìa… Tiếng trống vang theo một không khí bập
bùng bao la quỷ quái… Ánh đèn chớp động vằn vèo xanh, đỏ, tím, đen, vàng chập
chờn mê loạn, thế giới của hắn bắt đầu đảo điên. Cái khoảng bóng tối xung
quanh loãng ra màu đỏ. Rồi những vật dưới đó cử động dần dần. Như những ma
chơi, hình nộm dưới bàn tay bùa phép của một gã phù thuỷ vô hình điều khiển.
Những cánh tay vươn cao cuồng loạn, chập trùng và tiếng hét, tiếng la tạo
thành một khúc thánh ca. Đám người mỗi lúc đông, chuyển động mỗi lúc một
nhanh. Tôi bắt đầu nhìn ra những thân thể: một chòm tóc quăn, chiếc cổ nhỏ,
những thân người nhỏ như que sậy, tay khô như những dây kẽm buộc vào những
chiếc que như sợi tóc. Mắt trắng dã, răng nhe ra như một vành môi và lưỡi đỏ
lòm như những ngọn lửa bắt đầu bốc cháy. Tiếng kèn trên môi những nhạc sĩ vẫn
ré lên xé từng chút tế bào của cơ thể. Và một thế giới chìm xuống dưới chân.
Cái thân thể trong tay tôi đen thêm. Đôi mắt trắng dã mở ra một vùng biển cát
bỏng cháy, có những đàn sư tử vờn nhau. Mái tóc dài cứng gió đập như quất vào
mặt những ngọn roi da điếng buốt. Tôi úp mặt vào làn môi sần sùi nóng ran.
Tôi giữ chắc. Tôi khẽ nói: “Buông ra anh, để anh nhìn rõ em” – “Chúng ta bắt
đầu điệu múa chứ?” – “Không phải như thế. Em?” – “Bài ca còn dài, điệu kèn
chưa hết, bây giờ là của em, của chúng em” – “Làm sao em dám chắc?” – “Im để
em nói: Em đã tủi hổ uất ức từ bao lâu, tại sao anh không thèm biết đến em,
không ôm và hôn em? Em phải chiếm anh, chiếm thế giới anh. Anh không thể chạy
trốn được. Người ta không thể ngoảnh mặt mãi với sự thật súc vật nơi con người.
Đừng che đậy gì, y phục, nhà cửa, lề luật, tự những sự thật xé nó trần truồng,
trơ trụi, phung phá. Trả nó lại sự đó. Ôm lấy em, ôm chắc lấy em. Lửa đã bốc
lên từ bao giờ bây giờ mới chiếu sáng cho anh nhìn em, em đen và em sầu”.
Tôi xoa tay lên làn da sần sùi, khô cứng, bóng tối vây phủ. Tiếng kèn vẫn
xoáy buốt. Người nhạc sĩ vẫn oằn người gân cổ thôi âm thanh vào thế giới vây
quanh rung chuyển cùng điệu trống bập bùng cuồng loạn. “Có riêng em ở đây
thôi, em có bao nhiêu” – “Ở cùng khắp, anh hãy lắng nghe ở cùng khắp, tất cả.
Anh lặng im em hát cho anh nghe…” Tôi nhắm mắt và giữ cặn bóng tối. Người nhạc
sĩ ôm chiếc kèn lùi vào, bỏ lại khoảng trống trần trụi. “Em, em đâu?” Tiếng gọi
mất đi một khoảng im lặng.
Âm thanh vọng động trườn từng đợt như một viên sỏi ném xuống mặt nước yên
tĩnh bắt đầu loãng xa những đợt sóng trùng điệp – Tôi đã bỏ nó. Sự khiếp sợ
quay lộn, vật vã thân thể. Chân tay tôi như một thứ gì thừa thãi, vô ích trở
thành vô tri. Tôi níu giữ sự sáng suốt của đầu óc. Tôi nhắm mắt thu sức giữ sự
sáng suốt của đầu óc. Tôi nhắm mắt thu sức giữ lại khoảng tối, chút gì đó còn
cứng chưa lay động ở trong vòng tay mà mặt tôi úp lên phà hơi thở nóng bỏng đứt
đoạn. Tôi cố sức nghĩ xem tôi đang đứng ở chỗ nào. Nhất định không phải là
nơi mang danh hư vô mà có kẻ đã hét vào tai. Nó cũng không hẳn là những sinh
vật lúc nhúc chen lấn giữa cái thế giới mà người nhạc sĩ đen vừa thổi âm
thanh tới – “Người đang đến với ta đây. Có một phần của hắn đấy” – Tôi muốn cất
tiếng hỏi – “Người ở đâu đến? Đây là đâu? Sao có tiếng nói?” Cổ tôi khô cứng
rồi mềm nhũn ra không tạo nổi âm thanh. Tôi muốn mở mắt nhưng một cái gì nặng
nề chét lấy hai chút đen cần dò hỏi tìm kiếm. Tôi muốn cử động nhưng chừng
như gân cốt đã bị cắt đứt, tôi cử động ở sự vướng víu của quần áo nhớp nháp bắt
đầu tê lạnh ướt át. Hình như một chiếc búa đập vào óc tôi, và một mũi kim nhọn
khẽ ấn vào tim tê buốt. Những đợt sóng bắt đầu vỗ về, mang một cảm giác mơ hô
bao la, của một vùng nước ngủ phẳng phiu bình lặng đến ghê khiếp, hoang sơ
cùng độ – “Chúng ta đang ở nơi siêu thoát này” – “Nhưng thân thể tôi đây” –
“Tôi mang cái đó lên siêu thoát, hãy nhìn xem tôi đây”. Trong một vùng ánh
sáng sữa loãng, một bóng trắng tiến lên, âm điệu du dương, dìu dặt, bay bổn uốn
theo một hình bóng dườn dưỡn, rồi một tràng cười xé tan, một đứa con gái, nhe
đôi hàm răng xõa tóc đen quay cuồng tạo nên một trận bão cát đau nhức. Nó
quay cuồng ở một khoảng trống, tiếng đập đá, vỗ tay, cười cợt lạnh điếng như
những thoi sắt chạm vào nhau, một đống thuỷ tinh cử động cọ xát. Nhưng cái gì
cho hắn điên cuồng lên thế? Nó ở một cõi tuyệt đối nào? Âm thanh ánh sáng, mờ
đi dần dần. Một thân thể vô hình ôm chặt lấy tôi – “Em là nỗi cô đơn này, lặng
thinh đi cho chốn hoang đường chi phối thể xác, ôm lấy em. Hôn lên môi này. Một
cõi nào mang nỗi say đắm của anh và em đó. Chúng ta thụ hưởng một mũi thuốc
ma Túy vào thân thể. Để không còn bị chi phối, thay đổi sự thực này. Chúng ta
từ chối tất cả. Nó là cõi không trắng ngần trong suốt của sự thèm khát, tìm
kiếm thoả mãn cổ sơ. Này anh, loài ác điểu có tám chân ăn cơm với cát, loài
bò sát có hay ôm nhau nhảy luân vũ, cây cổ thụ mang những sợi tóc kim tuyến,
đôi mắt của cánh lá mang tia nhìn chinh phục đến loài quạ khoang. Chúng ta mất
chân tay, mọc đôi cánh, đầu thêm sừng, miệng thêm vòi. Và anh đang nghe em
nói bằng hai con mắt. Thế giới tạo thành những sợi chỉ bạch kim. Và mỗi kẻ sống
ở toà lâu dài cô đơn của mình. Thế giới cô độc ấy tạo nên một xã hội riêng.
Xã hội của em là những người mù đang mang đôi mắt màu đỏ. Có chân màu tím đôi
cánh loài rắn có lưỡi dài sẻ đôi phun nọc độc. Người ta nói bằng ngôn ngữ của
loài cá thờn bơn. Thế giới và xã hội của người khai thiên lập địa mới mở cửa,
chẳng lương tri, thiện ác, tốt xấu. Em mang anh đến “Nhưng cái gì làm thành
xã hội đó?” – “Cái chủ lực thế giới vô thức cô đơn?” – “Thôi đừng hỏi, cái gì
cho anh có chân và tay?” – “Đúng đó, anh không trả lời được, anh công nhận sự
thực ngừng lại ở hạn hẹp này, không mang lên hay xuống. Cái gì đứng sau ở thực
tại mang bộ mặt xa lạ, câm điếc chỉ là mối lo âu định liệu và cho cái gì anh
đang có đấy là sự thực, cái thực định bằng cái hư không” – “Em là cái dồn ép
tình dục, đau đớn, khổ ải, em sầu và em trắng”.
Tôi tỉnh dậy ở dưới một thân cây cổ thụ, bóng tối loãng ra. Tôi đứng nơi một
vũng nắng chói, mặt trời bắt đầu thiêu đốt trên da thịt. Thân cây cao nỗi cô
đơn chót vót đầy ải, lần vỏ sần sùi khô cứng. Người ta giữ chúng tôi ở lại
đây. Chúng tôi giống nhau bên những sinh vật khác. Một đàn kiến lửa bu trên
tay tôi đốt đau ngứa lay động cảm giác, có tiếng chim kêu trên cao. Trận mưa
đổ xuống. Trên mặt tôi nhớp nháp chừng như loài nhện nào đó chăng tơ. Tôi đứng
nơi xứ sở này, mảnh đất thân thuộc, đồng loại gần gũi. Tiếng hát cất lên. Sự
tình cờ nào mang chúng ta đến đây chung đụng với nhau. Người ta mang đến những
gì bỏ lại: tù đầy, hiếp tróc, đày ải, nô lệ… Chúng tôi tự do với nhau trong mỗi
tâm hồn không cùm xích, bắt bớ, giết hại. Chúng tôi công nhận kẻ đứng bên.
Tôi cúi nhìn bàn tay sưng vù nhức nhôi. Chút thể xác này là nỗi thèm muốn
trong lòng. Trong tôi một thế giới. Nhưng ở giữa thiên nhiên này, có người đến
đây tôi công nhận một sự hiện diện cần thiết. Mọi người có mặt đông đảo. Những
sự thật đời sống ngự trị đây. Kẻ tù đày, người uất ức, người hân hoan. Niềm
vui đứa trẻ nhỏ, điệu ru trên môi người mẹ, người chị… Tôi trấn tĩnh để nhìn
ra nơi tôi đang đứng, đang thở, đang nghĩ. Ánh nắng bốc cháy, rồi cơn mưa ập
xuống một bầu không khí ngột ngạt, tức thở, oi bức. Khí hậu nhiệt đới soi vào
thân thể nỗi hèn mọn con người. Chúng tôi nhận sự hèn mọn đó. Tôi đứng vững,
đưa tay vuốt mặt và cất tiếng nói:
“Có phải tôi đang ở đây không?”
“Phải rồi.”
“Có phải tôi đang ở trong đám đông này không?”
“Còn gì nữa, anh ở trong đám chúng tôi.”
Tôi cố sức đẩy lui thân cây, đứng ở một khoảng trống vươn vai, đưa tay níu lấy
mọi người “Dù em đen và em sầu, dù em trắng và em sầu. Đó là em. Còn anh, anh
sầu và anh vàng. Cái chung của chúng ta là sầu. Nhưng cái sắc vàng này là của
anh. Anh vàng và anh buồn em ơi!
(Trích Kinh cầu nguyện, “Buồn vàng”, trang 9-18)
Nguyễn Đình Toàn và thủ bút
Sinh ngày 19/11/1930 tại Bồ Đề, Gia Lâm, Bắc Việt. Viết văn từ năm
1954.
Tác phẩm:
1. Chị em Hải, nhà xuất bản Tự Do, 1962
2. Những kẻ đứng bên lề, nhà xuất bản Giao Điểm, 1964
3. Con đường, nhà xuất bản Giao Điểm, 1967
4. Ngày tháng, nhà xuất bản An Tiêm, 1968
5. Phía ngoài, nhà xuất bản Hồng Đức, 1969
6. Giờ ra chơi, nhà xuất bản Khai Phóng, 1970
7. Đêm hè, nhà xuất bản Hiện Đại 1970
8. Đêm lãng quên, Văn Uyển, 1970
9. Không một ai, nhà xuất bản Hiện Đại, 1971
10. Đám cháy, Văn Uyển 1971
Đã cộng tác với: Văn, Tự Do, Văn Học, v.v...
Nguyễn Đình Toàn và nỗi buồn trước mặt
Thấm thoát đã 17 năm rồi đó. 17 năm đi qua trong lòng con người "thiên lý
tương tư" như một khoảng thời gian đầy dẫy buồn phiền. Từng năm, từng
tháng nào có nghĩa gì so với nhịp luân hành vũ trụ, mà sao trong đáy sâu tiềm
thức, trong hố thẳm nhớ thương, vẫn hiện lên bao nỗi giày vò gần như thê thảm.
17 mùa Xuân đất Bắc đã qua đi. 17 mùa Hạ cũng tàn phai theo từng trận gió Lào
hầm hập. 17 mùa Thu chết rụi theo xác lá rơi ngổn ngang trên khắp nẻo đường
Hà Nội và 17 mùa Đông với mưa phùn gió bấc thổi buốt ruột gan cũng phai nhòa trong tâm tưởng qua 17 mùa mưa nắng. Lòng người miền Bắc chợt úa héo mỗi lần
nghĩ tới.
Nguyễn Đình Toàn sinh ra và lớn lên bên kia bờ Hồng Hà, huyện Gia Lâm nối liền
với Hà Nội bằng nhịp cầu Long Biên vươn dài ngang dòng nước đỏ máu phù sa. Chỉ
cách một cây cầu mà nếp sinh hoạt khác hẳn. Huyện Gia Lâm, có phi trường dân
sự, có thôn xóm, luỹ tre bụi chuối, có bờ đê cao ngất xanh om cầu kỳ, mỗi năm
một lần mở hội vào tháng Tám Âm lịch và một thị trấn chạy dài từ dốc cầu tới
gần lối rẽ vào phi trường là hết. Đứng bên bờ đê Gia Lâm, có thể nhìn thấy lề
Hà Nội với chiếc cột đồng hồ, Bảo tàng viện và cửa ô Yên Phụ.
Nhưng khi nhớ về miền Bắc, Nguyễn Đình Toàn chỉ nói tới Hà Nội, với tất cả mê
đắm qua lớp lớp nhớ thương. Hà Nội là trung tâm miền Bắc, ở đó, mọi sinh hoạt
được nâng lên hay hạ xuống đều có giá trị quyết định. Toàn, nhớ phố hàng
Ngang, hàng Đào, nhớ con đường tàu điện với tiếng chuông leng keng buồn bã,
nhớ chợ Đồng Xuân, nhớ nhà Thủy Tạ, nhớ cầu Thê Húc, nhớ đền Ngọc Sơn, nhớ
tháp Rùa, nhớ cả hàng dương liễu xõa tóc xuống hồ Gươm soi bóng! Nguyễn Đình
Toàn nhớ, nhớ nhiều lắm, nào thành phố, nào người tình bé bỏng, nhưng cái nhớ
ở đây thuộc về ký ức, nên nó được phác họa qua tâm tưởng bằng những hình dung
mê cảm nhất.
Người làm văn nghệ bao giờ cũng đa sự, họ có biết chăng, nỗi nhớ thương một
khi đã bày tỏ được, coi như hết, không còn thuộc về mình nữa. Một món nợ đã
trả xong, một chia lìa vừa dứt khoát! Cái đau ở chỗ đó. Nhưng may mắn thay, sự
nghiệp văn học của Nguyễn Đình Toàn không nằm ở môi trường ấy. Nó được hình
thành trong vùng trời khác, nơi mà định mệnh và tình yêu đang chụp bắt, đang
bủa vây, đang khép những bất ngờ và khổ não cho mỗi tuổi trẻ.
Tuổi trẻ, tình yêu, hai vấn đề lớn nhất đối với Nguyễn Đình Toàn. Nhà văn
luôn luôn vì nó, nhân danh chúng để tỏ bày thái độ trước cuộc sống. Nguyễn
Đình Toàn mở đầu nghiệp văn của mình bằng tác phẩm Chị em Hải, đăng từng kỳ
trong nhận báo Tự Do và cũng do cơ sở này xuất bản. Tác phẩm ra đời, đưa ngay
nhà văn vô hẳn khung trời văn nghệ và được dư luận liệt vào thế hệ đợt sóng mới
của văn chương Việt Nam. Điều này, đúng hay sai, thiết tưởng, không phải điều
hệ trọng, vì giá trị của nhà văn và chiều hướng sáng tác của họ không nằm
trong chu vi một tác phẩm, nhất là tác phẩm đầu tay. Nếu bây giờ đọc lại, tác
giả chắc đã nhận thấy rõ hơn ai hết điều đó!
Nguyễn Đình Toàn, nhà văn buồn bã và bệnh hoạn. Cái cuộc đời này, ngay cả
trái đất nữa, tự cổ, vẫn chứa chấp trọn vẹn những vấn đề thông thường, trong
nếp sinh hoạt chung, chỉ có khác, hình thức luôn luôn đổi thay theo tiến hoá,
nhưng nội dung vẫn tóm gọn trong một số từ ngữ: sống chết, ăn ở, chủ quyền,
thịnh vượng, tự do, công bằng, bác ái, tín ngưỡng, tôn giáo, v.v. Mọi quy luật
đấu tranh đều xoay quanh mấy chữ trên, nhưng nó biến hoá khôn lường, làm cho
mỗi từ ngữ biến chất và lý-tưởng-hoá nó tuỳ theo cứu cánh. Cũng như bốn chữ:
Sinh, Bệnh, Lão, Tử, ấn định chu kỳ cho mỗi kiếp sống tạm bợ này.
Nguyễn Đình Toàn mang tuổi trẻ đi vào tình yêu, như kẻ hành hương gian nan đi
tìm thánh địa trong tâm tưởng. Mỗi nhân vật được nhà văn dùng tới hình như đã
mang sẵn một bản án, một quyết định nên mọi diễn trình của nhân vật đều ôm
theo nỗi bi đát của định mệnh. Hình ảnh cô liêu làm băng hoại suy nghĩ. Mỗi
nhân vật dưới nét mực Nguyễn Đình Toàn được đẩy vào con đường không định sẵn
hướng đi. Mỗi số phận cứ lần từng bước trong vũng tối của tâm linh và trở
thành mù loà trước ám ảnh, dục vọng! Từng bước của nhân vật như đi vào miền
lưu đày vĩnh viễn. Nó nguy hiểm như trò chơi đu bay và ghê rợn như bước trên
sợi dây tử thần treo chênh vênh ngang miệng vực thẳm. Người đọc nhìn rõ chúng
qua toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn. Nó liễm kết ở mỗi dòng, mỗi chữ.
Nó vướng nghẹn giữa vượt thoát và cản ngăn, như một dòng nước chỉ dâng cao đến
mép bờ mà không cách nào tràn qua, đành phải xuôi theo chiều nghiêng để quăng
mình vào nơi thấp nhất.
Tác phẩm Con đường, ghi nhận lại nỗi u uất và đớn đau của thân phận đàn bà. Nội
dung cuốn sách nêu lên những dữ kiện phi lý (không phải cái phi lý của Camus)
do cuộc sống đẩy tới và con người chấp nhận một cách vô ý thức. Vóc dáng người
con gái không may mang vết chàm trên mặt lại còn bị bủa vây bởi một hoàn cảnh
khốn khó, nên tự giải toả bằng liều lĩnh của bản năng. Niềm tin đã chết rồi!
Cuộc sống và hạnh phúc là hai điều thất bại ở tận đáy thẳm của lương tri, còn
gì để đắn đo, trả giá? Nhân vật xưng tôi trong tác phẩm, phải chăng là niềm
ăn năn của một tín đồ ngoan đạo giữa khung trời thánh thiện mà nhà văn hằng
mơ ước? Cuộc đời đối với nhà văn, không phải là khoảnh khắc, là giai đoạn sống
của một nhân vật ở trong kích thước của nó, nhưng đích thực, nó lê thê, ẩm ướt
trong mỗi ô vuông hiện diện. Thân phận đứa con gái mồ côi cha, mẹ bỏ đi lấy
chồng đã là điều bất hạnh, trời còn bắt tội mang tật, hỏi làm sao đủ can đảm
để sống? Bởi vậy, người con gái đó có quyền thi hành những gì mình muốn, hoặc
do định mệnh an bài. Nguyễn Đình Toàn, nhà văn tình cảm, bởi thế, những sự
tình nêu ra hay được giải quyết đều thuộc tình cảm. Nếu đôi khi có sự tham dự
của lý trí, cũng rất mờ nhạt, nó chỉ được dùng khi thực sự cần thiết. Chính
vì muốn dùng cảm nghĩ để chuyên chở hành động nên phần độc thoại nội tâm bao
giờ cũng lấn lướt, nhà văn coi nó như động lực căn bản để dàn trải, mở, thắt
sự tình,
… Từ ngày tự biết mình là một kẻ tật nguyền thì thế giới của tôi thu hẹp trên
cái bao lơn này. Không phải tôi không còn tiếp xúc với ai trong nhà hay người
ngoài, cũng không phải tôi không còn bước chân xuống phố nữa, những lúc ấy
tôi cử động, sinh hoạt như sắm một vai kịch tôi không phải là tôi. Chỉ có những
lúc ngồi đây, trên cái bao lơn này, với bóng tối vây quanh, tôi mới thật là
tôi, được tự do dự phóng. Và từ đó phải chịu nhận một khoảng cách với mọi người.
Làm thế nào khi mình là kẻ tật nguyền, bất bình thường? Bước ra khỏi thế giới
của tôi, tôi bị quan sát chớ không được nhìn ngắm. Có lẽ tôi quá bi quan về sự
bất thường của mình, nhưng làm thế nào được, tôi không đè nén cũng không giấu
được sự ấy…
Đoạn văn trên là những dòng đầu của tác phẩm Con đường (1967) mở ra trước mắt
người đọc một phần số đã bị định đoạt. Người con gái trời bắt xấu là sự cực
nhọc ghê gớm, là một hình phạt chung thân, là một huỷ hoại vô bờ bến, do đó,
những sự tình nào xảy đến, dù đến bằng vòng tay ân ái của kẻ tình nhân, hay đến
bằng đớn đau cũng chỉ là để thực thi một hình phạt! Con người ở hoàn cảnh này
quả là tai họa của chính mình.
Người con gái ở với gia đình bên nội. Trong chuyến đi thăm mẹ dưới tỉnh để
tìm về cho lòng mình chút tình thương. Biết rằng không phải là khách của mẹ,
nhưng căn nhà của mẹ ở bây giờ, không phải nhà mình vì ngoài mẹ còn có cha dượng
và các em khác bố. Đã mười năm qua rồi, hình ảnh mẹ còn in đậm trong thân thể,
trong vóc dáng, trong ngôn ngữ cô gái, mọi người đều nói thế. Mẹ là biểu tượng
cho ô nhục, mẹ đã ngoại tình lúc bố còn sống, mẹ đi lấy chồng khi bố vừa chết!
Mẹ đã cách xa từ năm lên 7, bây giờ cô gái 17 rồi đó! Người con gái ở với mẹ
3 ngày rồi trở về. Bà mẹ đưa con ra bến xe, lúc xe sắp khởi hành, bà đứng bên
này đường vẫy con và khóc. Đứa con gái chợt nhận ra, 10 năm trước, mẹ cũng đã
đi xe xuống miệt này, bây giờ, 10 năm sau con cũng xuống đây, nhưng con về, mẹ
ở lại,
… Đời con từ lúc ba chết, mẹ bỏ đi có lúc nào là lúc nên cười? Con gọi mẹ là
hạnh phúc của con. Mẹ đứng bên kia đường, mẹ cách con một con đường…
Ý nghĩ như một vết chém. Nó làm rã rời hy vọng và từ đó, mỗi con người thuộc
về một phía, dù cho là mẹ con. Cái con đường mỗi số phận phải kinh qua, nhiều
khi là con đường quen thuộc. Nó chẳng xa lạ gì đối với mỗi người, nhưng mỗi
người lại có cảm tưởng như nó khác biệt hẳn với ý hướng của đời mình. Chính
vì nó đã quá cũ và nhàm chán nên làm mọi người quên, nhưng đích thực con đường cuộc sống
là một cái gì không hàn gắn nổi, không vượt qua nổi, cũng không cải tạo nổi,
nó là định mệnh.
Trên con đường trở về, chẳng may cô gái bị cảm, ngẫu nhiên gặp
"chàng" trên chuyến xe, "chàng" đã săn sóc, giúp đỡ! Xe kẹt
phà, chàng mời cô gái vào quán uống nước. Cô gái bị cảm nặng muốn ngất xỉu.
Trong lúc choáng váng cô gái cảm thấy được nâng đỡ rồi thiếp đi… Đêm hôm đó,
cô gái ngủ ở căn nhà xa lạ với "chàng". Sáng hôm sau tỉnh dậy, cô
gái biết mình đã trở thành đàn bà sau một giấc ngủ. "Chàng", một
quân nhân hào hoa, đến thăm em gái có chồng vừa chết vì trận công đồn, đã cho
cô gái sự khoái cảm thứ nhất của tình dục, mãi mãi chỉ là gã đàn ông vô
danh!…
Bi kịch ở chỗ đó. Nghịch cảnh trần gian đã dồn cô gái vào con đường không lối
thoát. Cơn đau, nỗi buồn như bám chặt lấy một số phận bi đát rồi đẩy sau vào
cuộc sống cũng bi đát không kém. Nguyễn Đình Toàn viết như kể lể, như thầm
thì nói chuyện. Người đọc có cảm giác "ghe" chứ không đọc, do đó,
văn Nguyễn Đình Toàn thấm vào lòng người như mưa phùn rỉ rả thấm dần vào lòng
đất. Nhân vật trong truyện có vẻ chấp nhận những gì do cuộc sống đẩy tới,
không phản kháng hoặc phẫn nộ, chỉ nhỏ nhẹ trình bày.
Thời gian qua mau, nhưng những gì xảy ra trong đêm ngủ lại dọc đường vẫn làm
nàng bàng hoàng, sung sướng,
… Nhưng tự phần sâu kín nhất của đứa con gái là tôi, tôi vẫn nuôi dưỡng những
cảm giác bàng hoàng, đau đớn, sung sướng đó như kỷ niệm quý báu… khắp người
tôi mọc lên sự tủi nhục, quấn quít tựa chìm trong một mớ rong, dưới mặt nước
của sự khoái cảm lần đầu trong đời. Tôi không còn là tôi nữa. Chỉ còn là một
sự ân hận tình nguyện vỡ ra cùng với nước mắt ùa chảy khi cơn lửa đã thổi ngọn
cuối cùng…
… Tôi hư hỏng đến độ yêu quý cái kỷ niệm xấu xa đó như một vật báu chăng? Đó
là niềm ăn năn hạnh phúc của tôi? Một thứ hạnh phúc bất hạnh, giống như mẹ phải
không?…
(Con đường, trang 26)
Chao ôi! Thứ hạnh phúc bất hạnh mà Kafka đã kêu lên, đã gào thét trong tác phẩm
của ông làm lay động cả lương tri thế giới, ai ngờ nó lại vẫn có mặt trong
kích thước Nguyễn Đình Toàn hôm nay. Con người giống như một hình nhân giữa
cuộc sống. Nó được cuộc sống sơn phết và ngụy trang rồi dẫn lộ vào đấu trường,
để mặc cho may rủi định đoạt. Sự bất lực trong mọi đối kháng, mọi hoàn cảnh
đôi khi làm con người trở nên ngu xuẩn. Cô gái vì không chịu nổi hoàn cảnh với
ám cảnh ô nhục của người mẹ nên cố tìm cho mình con đường để vượt thoát. Con
gái xin đi làm xa. Chỉ có ông nội còn chút thương xót nàng, nhưng ông nội già
rồi, nên phải chiều theo ý muốn của những người đang phụng dưỡng những ngày
tàn của đời ông. Dù nhớ, dù thương, dù đau khổ mà vẫn phải dứt bỏ nơi mình đã
có mặt 21 năm trời, vì nó đã ung thối và bị bủa vây bởi thù hằn, ghét bỏ!
Chiếc xe đưa nàng lên Cao nguyên. Trong chuyến xe, một gã đàn ông đứng tuổi lại
hiện ra dưới nhãn hiệu nghệ sĩ,
… Đầu người đàn ông nghiêng qua một bên, hình như nhìn thấy hết mặt tôi và
qua một mái tóc ông ta, tôi nhìn thấy một nửa mặt mang dấu vết tàn tật của
tôi. Tôi có cảm tưởng bị cháy nốt nửa mặt còn lại bởi sự hiện hình đột ngột
đó. Và tôi không biết làm sao hơn là nhắm mắt lại trong một cử chỉ chịu thua
hoàn toàn…
(Con đường, trang 31)
Nhà văn hình như đã ước tính từng bước đi cho nhân vật do mình cấu tạo, nên mỗi
sự tình đều được mở sẵn để đón chờ diễn tiến. Khuôn mặt người đàn ông đến với
cô gái vẫn là khuôn mặt vô danh. Nó không mang tên riêng, chỉ được dùng như
biểu tượng để ấn định mức độ hành động của nhân vật trong kỹ thuật viết mới.
Thực ra,"ông viết kịch" có tên, cô gái biết vì đã đọc kịch do ông
sáng tác, nhưng không nói ra. Nhà văn cố tình giấu để đồng hoá nó với những
vô danh khác,
… Tôi cười nói với ông:
"Thì ra tôi vẫn đọc kịch của ông mà không ngờ lại gặp ông lúc
này".
Ông ta nói:
"Cô nhớ được tên tôi sao?"
Tôi bảo:
"Không những thế, tôi còn có thể nói đúng một lời như nhân vật của ông nữa".
Ông cười nhìn tôi:
"Tôi không nhớ gì về họ".
"Ông muốn làm thế để họ phải phục tùng ông sao?"
Ông ngồi xuống bên cạnh tôi. Mùi thuốc lá thơm đầy trên áo ông…
(Con đường, trang 37)
Tấm màn đã kéo sang hai bên để lộ khoảng đất trình diễn. Nhà văn đã sử dụng
thị xã Đà Lạt với phong cảnh và bài trí thiên nhiên miền Cao nguyên ở đằng
sau và đằng trước làm điểm tựa cho các nhân vật. Lên Đà Lạt làm việc, cô gái ở
chung nhà với một bà cùng sở đã bỏ đến hai đời chồng nên bị gia đình từ. Người
đàn bà đó sống nhiều, đã trải qua bao cơn sóng gió, đã già dặn. Còn cô gái,
ngoài một đêm ân ái ngẫu nhiên, vẫn nhìn đời qua tấm lăng kính tình yêu đôn hậu.
Rồi tất cả họ quen nhau, ông viết kịch, bà ở chung nhà và cô gái. Mỗi người,
mang tâm sự riêng. Họ chờ dịp để thực thi ý định. Ông viết kịch là cáo già,
bà ở chung là sói cái, còn cô gái là con chồn đèn ngơ ngác đứng nhìn trời đất
với vui thú hồn nhiên.
Ông viết kịch dương cái bẫy lớn. Ông muốn một lúc đánh ngã cả hai con mồi,
nên ông rất khôn ngoan về vấn đề giao tế và tế nhị trong ngôn ngữ đối với mỗi
người. Ông nói với cô gái: "Người ta sống để chia đều may mắn và bất hạnh
cũng như bất hạnh và may mắn có ngay cùng với thân thể người ta rồi", với
ngụ ý sâu xa. Tiếc thay, cô gái chưa đến tuổi để hiểu ẩn dụ của ngôn từ! Ông
cũng dùng ẩn ngữ để nói với bà ở chung, khi bà này kể chuyện về người chồng
cũ: "Anh ấy là một đứa trẻ tuyệt diệu!" Ông viết kịch bảo: "Một
đứa trẻ thì dùng được việc gì?" Câu chuyện xoay quanh những lời đối thoại
xa xôi, bóng bẩy. Mỗi lời nói như một nút thắt, như một bước chân tiến gần đến
mục tiêu. Trong khi đó, cô gái đã nhìn thấy cái gì mình mới-khám-phá-ra sắp
vuột khỏi tầm tay,
… Tôi muốn, nhưng sợ, nhưng muốn hết sức, chạy theo ông giữ ông lại. Để làm
gì? Tôi không biết và vì không biết nên tôi càng hoảng hốt. Có một cái gì đã
hỏng, đã mất giữa chúng tôi? Không, đó là mày tưởng tượng ra đó, nhỏ. Bà bạn
mở cửa vào nhà, bật đèn sáng. Tôi còn đứng ở ngoài nhìn theo bóng ông khách
đi mãi về phía xa, qua một chiếc cột đèn và sắp qua một chiếc cột đèn
khác…
(Con đường, trang 65)
Cái nhìn đây là cái nhìn thất bại, cái nhìn muộn màng trong tâm thức nhà văn.
Cái nhìn không phiêu phiêu bay bổng mà nó cắm mốc im sững trong trí não như một
mũi nhọn lút sâu vào xương tuỷ. Nhà văn còn đưa ra vấn đề phi luân, khi bà ở
chung nói về luyến ái và muốn được tự do giải quyết sinh lý với giống đực,
trước cô gái. Cái sự tình này như lời lăng nhục vào xã hội nhưng nhiều khi,
nó là sự thực! Còn ông viết kịch lẽ dĩ nhiên, phải quan niệm cuộc đời theo
đúng ý muốn của ông, vì có lợi,
… Cuộc đời như một vở kịch người ta cố dàn xếp để cho nó phải xảy ra như thế,
nhưng người ta cũng có thể dàn xếp cho nó xảy ra khác hẳn thế, hay không liên
quan gì đến thế cũng được…
(Con đường, trang 17)
Cô gái không là kịch sĩ, nhưng vô tình vẫn phải tham dự vào màn-kịch cuộc đời,
nghĩa là nàng phải ra vào, đi đứng, nói cười theo tâm trạng vai trò thực của
nàng. Ông viết kịch và bà ở chung đã "đóng" trọn vẹn cái vai trò của
họ trên bề mặt chiếc giường, còn cô gái bất hạnh kia vẫn giữ một vai nạn
nhân, phải chứng kiến những gì không thuộc về mình, nhưng vẫn bắt mình đau khổ.
Nàng cảm thấy, như bị ai đánh vào tự ái. Nàng run rẩy đi tìm cho mình một sức
lực để chiến thắng. Tiếng nước xối trong phòng tắm của bà ở chung đi khuya về,
làm tâm hồn cô gái nhức buốt. Lòng dục phát động cùng với hờn ghen số phận.
Cơn tuyệt vọng đã làm nàng choáng váng. Sự bấu víu vào tình yêu tinh thần chỉ
là ngỡ ngàng và ngu ngốc! Cô gái chợt nghĩ đến mẹ, đến sự thôi thúc của tình
dục. Có lẽ, trong cơn bối rối như thế này, ngày trước mẹ mình đã ngoại tình
chăng? Những sợi thần kinh chùng xuống. Một vùng tủi nhục vừa mở ra trước mặt,
… Những người lớn tuổi như bà thường tự cho mình cái quyền nói đến những cái
gì mà những người còn trẻ không muốn nói, và tự cho đó là những kinh nghiệm
khôn ngoan của mình, thật ra thì đó chỉ là sự dạn dày.
Bà tiếp:
"Bây giờ nếu tôi nói, tôi đã ngủ với ông ấy, điều đó có liên quan gì đến
em không?" Đó là câu hỏi quả thật tôi không ngờ bà cũng dám nói ra. Tôi
như bị một nhát búa vào giữa đỉnh đầu… Câu nói đó chọc vỡ sự tức giận đang
mưng mủ trong lòng tôi, cũng là một thứ tiếng nói từ bé tôi không tưởng tượng
sẽ có lúc mình phải nghe và tham dự vào câu chuyện…
(Con đường, trang 85-86)
Thế rồi vì tự ái (chao ôi! Tự ái) của tuổi trẻ đưa cô gái đến quyết định, phải
giành về phần mình những thứ gì mình có quyền hưởng. Ông viết kịch, kiêm đạo
diễn tài ba, đã nắm gọn con mồi và nhai nuốt ngon lành! Một con vì dạn dày
nên coi thường nguy hiểm, một con ngây thơ nhưng mang nhiều dục vọng,
… Ôi đêm như một thứ lửa đen đốt trên da thịt tôi một niềm đau đớn, kiêu
hãnh, mù lòa. Vâng, tôi sung sướng, kiêu hãnh vì tôi đã được sống như những
người khác, dù sự sống ấy được giấu trong bóng đen của tăm tối. Da thịt tôi
đã được sống đời sống của nó, mà tự bao giờ, tự thuở tôi lớn lên, tôi đã bất
lực đối với nó. Tôi muốn chiều chuộng nó cho đầy một lần. Khuôn mặt tàn tật
nào hãy cứ để cho nước mắt chảy tuôn.
Tôi thả mình cho cơn sóng mềm bò từ đầu ngón chân lên những sợi tóc rũ…
(Con đường, trang 99)
Người con gái mất trinh tiết, đã liều lĩnh vì mặc cảm và coi sự chung hưởng
xác thịt với gã đàn ông đáng tuổi cha chú mình là một vinh dự! Đã thú thật sự
vui sướng của mình không còn che đậy. Cái thân xác kia và nguồn đam mê nhục
thể có phải chăng là ý muốn cuối cùng của đời con gái? Không. Nhất định nó
không phải là mẫu số chung cho xã hội, cho những người trẻ tuổi hôm nay.
Alberto Moravia, nhà văn Ý, thường viết về dục tính với những đoạn văn thật sống
sượng, khích động, nhưng đích thực ở chiều sâu của những đoạn văn đó, nó hàm
chứa kín đáo với ngụ ý khuyến dụ: tất cả những thứ ấy chẳng có giá trị gì
đâu, nó chỉ là sự bộc phát quá độ, trong cuộc sống quá độ, hưởng thụ quá độ,
rồi sẽ chẳng còn gì khi nó đã bị lột truồng! Tình dục, vấn đề có sẵn, hà tất
con người phải vì nó mà khổ đau! Vô ích, mọi suy nghĩ đều vô ích vì trước sau
gì nó cũng đến và phải đến, như sự sống, sự chết là một dàn xếp gọn
gàng.
Sự trở về thăm gia đình của cô gái trong dịp Tết, nhà văn viết ra, có lẽ chỉ
nhằm đưa sự tình vào môi trường khác, nó là màn hai của buổi kịch dở dang,
luôn luôn dở dang vì mỗi số phận có đấy, còn đấy, họ vẫn phải chụp bắt, vẫn
phải khốn đốn trong tâm thức Nguyễn Đình Toàn. Người ta đặt câu hỏi: Nhà văn
đã sáng tác để làm đẹp hay dùng sáng tác để nguyền rủa cuộc đời? Thân phận cô
gái phải chăng là biểu tượng cố định cho mỗi số kiếp? Nó là hạnh phúc hay sự
lường gạt? Nó là sung sướng hay khổ đau? Và con-đường cuộc đời có phải chỉ dẫn
đến thê thảm? Tất cả những băn khoăn đó nằm trong cõi siêu hình, chắc chắn
nhà văn cũng chỉ là kẻ tìm đường. Khi viết, có lẽ tác giả đã nghĩ quá nhiều đến
sự bất lực của con người, vì con người, kẻ thất bại trong cố gắng qua vóc dáng
Lão ông và biển cả (The Old Man and the Sea) của Hemingway chăng? Sự đưa cô
gái lên kích thước hí viện ngày mồng một Tết để độc diễn cũng chỉ đủ chứng
minh cho sự mất thăng bằng trí não,
… Ánh đèn làm lóe mắt, tôi cảm thấy mệt thật sự, cái mệt của thân xác sau cơn
dục tình, tôi nhìn xuống sàn gỗ dưới chân, hai mũi giầy của mình lấm bụi, ánh
sáng vẽ một vòng tròn gẫy một nửa trên cánh gà bằng vải xám, một nửa dưới sân
khấu, tôi muốn ngồi xuống, muốn nằm xuống đấy, như nằm xuống chiều sâu của một
lỗ huyệt…
(Con đường, trang 173)
Rồi cô gái nằm xuống thực, nằm xuống trong khoái cảm tê mê với ông viết kịch,
trong khi có bổn phận đi tìm lối thoát cho số phận khác: hỏi chỗ phá thai cho
ba cô chửa hoang!
Sự trở lại con đường cũ, con đường đã đưa mẹ mình vĩnh viễn xa mình, đã ngẫu
nhiên cho mình giây phút rúng động thứ nhất của đời con gái, lúc này hình như
xa lạ ngay cả với mình. Điều này phải chăng là một hồi tưởng thê thảm, phải
chăng là con-đường-định-mệnh mà mỗi số kiếp phải lần theo cho hết gian truân?…
Nguyễn Đình Toàn thường đưa ra trong tác phẩm những nghịch cảnh. Đi từ nghịch
cảnh đó, con người chỉ tìm thấy thất bại! Cái con-đường cuộc sống không ai có
thể định sẵn được lộ trình, nhưng vẫn phải di hành trên đó với hai mắt mù
lòa, đôi tay quờ quạng và đôi chân dò dẫm. Cái bi thảm của thân phận là chỗ
đó! Nguyễn Đình Toàn, nhà văn luôn luôn khao khát hạnh phúc, nhưng tâm hồn lại
trôi giạt vào vùng trời bất hạnh, ở đấy, hạnh phúc chỉ là phiền muộn! Con người
đã biến thành trò chơi của Tạo hóa, nó bị lưu đày vào từng hố thẳm của ưu tư
và bất lợi cho số mệnh an bài. Không một tác phẩm nào của Nguyễn Đình Toàn mở
ra với ánh sáng, hầu như bao giờ nó cũng khỏa lấp vào u tối của oan trái, khắc
nghiệt! Trong Con đường, Nguyễn Đình Toàn bắt mỗi nhân vật phải chấp nhận định
mệnh và nỗi bi đát của nó. Trong Ngày tháng nhà văn cũng đưa người đọc vào
chung chủ đề: Sự an bài của Thượng đế và sự bất lực của con người trước bạo cảnh
trần gian.
Đối với Nguyễn Đình Toàn, hình như mỗi con người đều mang sự chán mỏi thường
trực giữa cuộc sống. Từng trạng huống xảy ra, con người chỉ đứng ngó, muốn
kinh qua lại sợ vấp ngã, đành liều nhắm mắt mặc cho dòng sông đẩy đưa. Mỗi
nhân vật như được treo lơ lửng giữa vòm trời u tối rồi run rẩy, trồi lên, trụt
xuống theo ý muốn nhà văn.
Người đàn bà trong Ngày tháng như một bùng nhùng, một hy vọng bắt đầu tàn lụi
và người đàn ông đối với nàng cũng chỉ có giá trị như một kềm hãm, một
"cho phép" trong lề lối sinh hoạt thường nhật kể cả chuyện làm ái
tình. Vinh, được tượng trưng bằng cây đèn xanh đỏ ở mỗi ngã tư đường. Vì thân
phận người đàn bà 30 tuổi, goá chồng, sống một mình thảm lắm! Nó ngắc ngoải,
chiều không ra chiều, đêm không ra đêm và tự sờ mó thân thể mình là điều nhục
nhã, tự làm ung thối mình,
… Khi Vinh hôn tôi cái hôn đầu tiên, tôi nghĩ, cuộc hỏa hoạn đã được dập tắt,
tôi bắt đầu phải thở hết thán khí ra khỏi ngực. Mấy ngón tay Vinh thơm mùi vỏ
chanh. Mùi thơm ấy báo hiệu rằng tôi phải làm người làm vườn trở lại. Phải trồng
trọt lại những tình cảm của mình. Trên mảnh đất tôi không nhìn rõ mặt. Trên mảnh
đất đã khóc than và đã chôn chặt quãng đời của mình…
(Ngày tháng, trang 11)
Thú nhận để chứng minh sự sòng phẳng. Hà, người đàn bà đam mê trong khốn khổ,
là tai hoạ của chính mình trong mỗi suy nghĩ cũng như hành động. Mối ám ảnh
vóc dáng người chồng cũ vẫn làm khổ nàng không ít. Một bộ đồ bay nhiều túi, một
dáng dấp mến yêu, một phi trường với những tiếng động và một chuyến bay không
bao giờ trở lại! Một thành phố miền biển với cát trắng và màu nước xanh trong
nhìn suốt đáy. Những phiến mây giang hồ nổi trôi xung quanh thân tàu bây giờ
chỉ còn là kỷ niệm! Cái vùng trời kỷ niệm đó như những chứng tích khổ đau.
Nàng không muốn nhìn, không muốn nghĩ tới nữa.
Hà gặp Vinh, chàng phóng viên chiến tranh làm việc cho một hãng thông tấn ngoại
quốc qua sự giới thiệu của người bạn. Thế là vùng mơ ước mở ra xóa nhòa dĩ
vãng. Nàng cần một người đàn ông bên cạnh là đủ. Cô đơn là cái gì tủi nhục
cho số kiếp đàn bà,
… Tôi không thể chịu nổi nữa cái cảnh nói không ai nghe tiếng mình, có lẽ tất
cả những người đàn bà không có ai yêu, hay người yêu đã chết đều hiểu rõ điều
này dù tôi biết, tôi hiểu rằng, những điều tôi nói ra không có gì đáng nói,
nhưng ý nghĩa của nó là được nói với người khác không phải nói một
mình…
(Ngày tháng, trang 24-25)
Con người sợ cô đơn, luôn luôn lẩn tránh cô đơn bằng cách dấn thân vào cuộc-đời-kẻ-khác.
Cũng vì quá sợ hãi cô đơn, nên cô đơn lúc nào cũng ngấp nghé, chập chờn để
gây bao ấn tượng hãi hùng. Cái chiều sâu thăm thẳm, hun hút của không gian, cái
chiều dài lê thê của thời gian và cái mỏng manh của kiếp người đã tạo nên
chua chát và làm chùng giản nghị lực chống đỡ trước áp lực nặng nề của tâm cảm.
Con người chưa hẳn đã chết vì phiền muộn nhưng cái bi thảm là phải kéo lê một
dòng sống không thuộc về mình!… Miếng cơm nào, manh áo nào và mảnh hồng nhan
nữa có phải đâu chỉ để mình tự ngắm? Bao Tự có đẹp nhờ U Vương, Dương Quý Phi
có đẹp nhờ Đường Minh Hoàng và thơ Lý Bạch tán tụng, Điêu Thuyền có đẹp nhờ mắt
xanh Lã Bố, Tây Thi có đẹp cũng nhờ Phạm Lãi hào hoa, nên sự tủi thân của Hà
đã biến thành tù ngục! Còn gì khổ hơn, bữa ăn chẳng ra bữa ăn, nhà chẳng ra
nhà, chồng chẳng ra chồng, đời chẳng ra đời!… Ngay cả cái cao ốc, Hà đang góp
mặt, nó cũng chứa chấp trọn vẹn những dơ dáy, ti tiện và mỗi số phận như bị
giam hãm trong một chu vi hạn chế. Hà tự giam, mọi người tự giam với bi kịch
tiếp diễn liên hồi. Hà như bị lôi cuốn vào cơn hôn mê của dục vọng. Ảo tưởng
đã lấn át thực tế và chỉ để cho nàng một kẽ hở nhỏ le lói tia sáng mờ nhạt
bên ngoài. Dục tình đã đẩy nàng vào một vùng sương khói đam mê. Vui và buồn
là hai dấu hiệu duy nhất thay nhau chiếm cứ đỉnh cao suy nghĩ, đến nỗi Hà
không phân biệt phần nào của mình, phần nào do ảo tưởng đời sống đưa lại,
… Mọi xúc cảm, ý nghĩ trong tôi bây giờ cũng đã tắt cùng ngọn đèn mơ tưởng
nào. Tôi nhìn xuống da thịt mình trắng rợn trong đêm, ánh sáng đã thoát ra,
hay đó chính là cái ánh sáng gọi là đời sống? Đời sống có từ thân thể của
chính mình hay là những người ngôi lê trong mấy cái quán cóc…
… Tưởng tượng mạnh và rõ ràng đến nỗi có nhiều khi đã làm tôi hoảng sợ. Những
lúc đó tôi muốn chết, cái chết nhẹ nhàng như tiếng chết tôi muốn la lên một
mình, nhưng nó nhỏ lí nhí, lúng búng trong cổ họng, tôi trở dậy đóng cửa sổ
hay mở ra làm một cử chỉ gì đó, kiếm một viên thuốc uống, đi lại trong phòng
và chính lúc đó, tôi lại nhìn thấy tôi nằm trằn trọc trên giường. Dĩ nhiên đó
chỉ là ảo tưởng…
(Ngày tháng, trang 46-47)
Ảo tưởng đã du con người vượt thoát thực tại, đồng thời đẩy con người vào thất
vọng khi vụt tỉnh. Vinh đó, nhưng chàng không thể nào gần Hà, vì tình yêu chỉ
là một phần của đời sống. Ngoài tình yêu , mỗi người đều có nhiệm vụ riêng,
trách nhiệm riêng về đời mình. Đi vào tình yêu là đi vào miền lưu đày không
giới hạn. Biết thế mà Hà vẫn trầm lặng cam chịu bằng cách chối bỏ lời xin của
người bạn Mỹ, tuy khác nòi giống, nhưng yêu nàng tha thiết. Nàng là người đàn
bà chung thủy chăng? Chưa chắc! Nàng là người Việt Nam nhiều tinh thần dân tộc
chăng? Càng chưa chắc! Chỉ có điều không thể hồ nghi: Hà, kẻ bệnh hoạn! Nỗi
buồn đã trở thành chứng bệnh, dù nhà văn đã tạo cho Hà một bức tường đạo lý
tượng trưng. Nỗi buồn gậm nhấm làm mỏi mòn cuộc sống và bệnh nhân chỉ còn biết
giao phó tính mệnh cho viên thầy thuốc. Vinh là viên thầy thuốc đó. Thay vì
cho người yêu uống thuốc bệnh, chàng lại cho nàng uống toàn độc dược có đặc
tính kích thích thần kinh,
… Sự vuốt ve nhẹ nhàng nuôi từng chút cảm giác cho lớn dần, rồi thoát ra như
mạch nước, tôi giữ cứng thân thể không cho chuyển động, và trong một giây mặt
mũi tôi bỗng tối sầm, trí óc và cảm giác tan lẫn vào hư không nhoà nhạt làm
run rẩy hết chân tay nâng thân thể lên rất cao, rồi thả xuống, lắng chìm từng
cơn, giữa ý thức bắt đầu thấy lại.
Vinh ngủ thiếp ngay trên người tôi, tôi phải dùng sức đẩy anh xuống bên cạnh,
sự mệt nhọc và cáu kỉnh làm tôi muốn la lên thành tiếng, nhưng tôi đã nằm im,
lửng lơ nằm như con vật chịu thua…
(Ngày tháng, trang 67-68)
Sự đam mê quá độ làm con người mất sáng suốt, hầu hết các nhân vật dưới ngòi
bút Nguyễn Đình Toàn đều ở trạng thái bình thường do tình dục cấu tạo. Sự hốt
hoảng và xa lạ ngay cả với mình không còn là điều vô lý nữa. Nó quay cuồng,
chìm đắm trong cái vực thẳm nhục thể hầu như không cách gì vượt thoát. Cái
hành lang thời gian của một kiếp người in đậm nỗi thảng thốt của những con mắt
lờ đờ mỏi mệt, những ngất ngây nghiêng ngả, những rã rời câm tiếng! Khuôn mặt
người con gái trốn nhà theo trai cùng sống trong vòng đai cao ốc này, đã vẽ
vào cuộc đời một dấu than đậm nét. Hà cứ lăn lộn với ảo tưởng và chập chờn giữa
tình yêu như bóng ma thơ thẩn dưới ánh trăng suông. Thêm một đau khổ nữa, Hà
biết mình sẽ chẳng bao giờ có con vì một chứng bệnh thời con gái. Người đàn
bà không sinh đẻ không phải đàn bà, dù Hà có biện minh cách nào đi nữa. Những
hoàn cảnh bủa vây xung quanh Hà toàn thù nghịch. Nếu có phút giây nào thoả
đáng, nó cũng mong manh quá đỗi. Tình yêu thì cay đắng như chất độc còn kiếp
người thì buồn thảm, bơ vơ,
… Tôi nhìn xuống giường, nhìn xuống mặt vải trắng bên cạnh mình vừa bị xê đi,
tôi có cảm tưởng như là tôi vừa xích người cho một người nào nằm xuống đó,
cái chỗ vẫn còn đấy, và cảm tưởng này làm tôi ghê gai khắp cả người, tôi đã nằm
chung giường với cái chết, có lẽ như thế, tôi đã nhìn thấy sự sống của tôi
lìa khỏi mình, tôi đã nhìn thấy sự trống trải của đời mình, tôi đã nhìn thấy
một dấu tích không còn dấu tích nào, tôi đã nằm với sự mất tăm của mình, một
lần như thế, đôi ba lần như thế, là hết cuộc đời…
(Ngày tháng, trang 99-100)
Trong lúc thất vọng nhất, tự nhiên dĩ vãng quay về để, vừa an ủi vừa tách rời
ảo tưởng và thực tế. Những lời nói ân tình, những dấu vết in hằn trong trí nhớ,
những đam mê nguyên vẹn mùi hương và còn gì nữa đây? Có lẽ một vùng sa mù, một
giọt sương mắc trên đầu lá!… Tưởng tượng là hình thức vừa thừa nhận vừa phủ
nhận đời sống, cũng như chữ nghĩa là biểu thị đời sống đồng thời nó từ chối
điều nó biểu thị. Văn Nguyễn Đình Toàn như độc dược, nó tàn phá mãnh liệt chẳng
những trên chu vi cơ thể, còn làm mòn mỏi suy tư. Hà, con bệnh bị giày vò tàn
nhẫn dưới uy quyền nhà văn. Chồng chết, bơ vơ trong ám ảnh, người tình luôn ở
xa lại còn bị bắt vì đã chui xuống hầm tàu toan trốn đi ngoại quốc. Hà phải
lo, phải khóc, phải vất vả trong việc nuôi kẻ ở tù. Sau cùng, vì may mắn, Hà
vẫn được Vinh trong một thời gian ngắn nữa. Đây là một ân huệ chót nhà văn
dành cho nhân vật,
… Vinh không nói gì, anh siết chặt tôi trên người, sự say đắm của Vinh làm
tôi cảm động, anh hôn trên đó và anh đã cho tôi cảm tưởng nó là bông hoa của
đời tôi, của đời chúng ta. Vinh muốn tôi tắm với anh, tôi gội đầu kỳ cọ cho
anh, nước làm cho dục vọng được tưới mát, ướt đẫm, trời trong xanh nhìn thấy
sau ô cửa nhỏ, những cành lá đan buồn với nhau…
… Mỗi tối chúng tôi đều uống, rượu làm cho tình ái trở nên gay gắt hơn và
cũng vì thế quyến rũ hơn, một tuần lễ gần như tôi đã sống thường trực trong sự
bàng hoàng, cơn bàng hoàng đã được dìm sâu trong cơ thể, khắp người tựa có
hàng ngàn con sâu đất âm u thắp lên chất sáng, chứng mất ngủ đã được những
cơn mệt mỏi làm cho thiếp đi, tôi đã ngủ những giấc ngủ của người chết, ý thức
mỗi ngày một tan loãng, đôi lúc trở nên mù mịt…
(Ngày tháng, trang 119-120)
Ý thức về đời sống là một ý hướng được phát hiện trong lúc tỉnh táo nhất. Nó
có mặt như lời cảnh cáo, như một dặn dò, khuyên nhủ. Nhưng ý thức là trừu tượng,
nó nghĩ về đời sống chứ không phải đời sống nên nó cũng dễ dàng tan biến
trong tâm trí một con người cố tình buông trôi thân phận. Cả da thịt cũng vậy,
có khi là sông núi cản ngăn, có khi là giao thoa mù mịt!…
Nằm trong tay người tình vẫn ngửi thấy mùi thân thể với ngày tháng bùi ngùi
có bóng đêm vây quanh và những giờ lẻ loi, cô độc. Đây đó, lập lờ hình ảnh của
cái chết treo lửng lơ giữa hy vọng và tuyệt vọng, để cuối cùng vẫn là xa
cách, vì Vinh bị gọi nhập ngũ. Hà sửa soạn tiễn người tình vào trại với ý tưởng
khổ não. Nhưng nàng đâu có biết, trò chơi nào rồi cũng tàn và cuộc đời không
biết cảm động!
Ở hai tác phẩm Con đường và Ngày tháng, Nguyễn Đình Toàn đều dùng nhân vật
phái nữ giữ vai chính, và cả hai thân phận ấy, chẳng người nào được chút may
mắn, có chăng chỉ là những khoảnh khắc đam mê tình dục rồi tắt lịm trong mỏi
mệt rã rời. Trần gian sự thực có nhiều lạc thú nhưng sao, nhà văn chỉ chọn
toàn những đắng cay, bi phẫn để bắt nhân vật do mình cấu tạo – xuyên qua cuộc
đời – phải đắm chìm giữa cơn lốc nội tâm cuồng nộ? Và con đường ấy, ngày
tháng ấy, sẽ dẫn con người đến đâu trong một xã hội đã băng hoại cả luân lý lẫn
đạo đức? Có lẽ, vấn đề đó ở ngoài cương vị nhà văn.
Tác phẩm Không một ai (1971), nhân vật chính, một thanh niên đau yếu vì đã bị
thương trong thời gian hành quân, về thành phố làm công việc mới. Sự hiện hữu
của vết thương, chẳng những làm suy yếu thể chất, còn làm cho nghĩa sống giảm
mất phần tốt đẹp của nó. Nhân vật xưng tôi, muốn thay đổi, muốn vứt bỏ hiện tại
đớn đau, đó là ý nghĩ tốt, nhưng chỉ là ý nghĩ thôi, vì làm sao chàng ta có
thể cải tạo được cuộc sống có đó, trong khi mình chỉ là cá nhân mang thương
tích tàn phế? Không những thế, trong tâm sự, đang bị hành hạ bởi cuộc tình
dang dở và một nhen nhúm bắt đầu. Nội dung tác phẩm tiết ra nỗi buồn thương
lãng đãng với những sự kiện được nói tới qua bốn nhân vật: Chàng thanh niên bệnh
hoạn, Ph., người đàn bà tình nhân, Trang đang khốn khổ và Kế, người đàn ông đứng
tuổi còn nhiều đam mê. Cái trục xoay quanh vấn đề tình ái và cuối cùng chẳng
còn lại gì ngoài sự đổ vỡ toàn diện. Lối dựng truyện của Nguyễn Đình Toàn bao
giờ cũng vậy, rất ít nhân vật, và điều quan trọng lúc nào cũng nằm trong phần
độc thoại nội tâm. Do đó, đọc văn Nguyễn Đình Toàn, không thể đọc mau, đọc lướt,
mà phải đọc trong lúc tâm hồn thật thanh thản và có khoảng thời gian rộng trước
mặt, người đọc mới thấu triệt được hết cái hay của văn chương. Văn của Toàn
không mang theo dòng gió hay bão táp, nó trầm lướt như những đợt sóng ngầm
miên tục vỗ vào lòng người làm say say, ngất ngất. Có người nói, văn Nguyễn
Đình Toàn nặng vì chuyên chở quá nhiều ý nghĩ, nó không sống động, lôi cuốn.
May mắn thay, đó là điều nhà văn hằng mong muốn vì nó là cá tính đặc thù của
Nguyễn Đình Toàn.
Chàng thanh niên ốm yếu, bệnh hoạn không chịu nổi tiết trời thay đổi, mưa hay
nắng bất chợt đến có thể làm cho thân xác lả xuống, do đó, nếu trong tác phẩm,
nhân vật có ý tưởng bi quan nào, cũng không có gì đáng ngạc nhiên,
… Giấc ngủ cũng trở nên ẩm ướt, đôi khi tôi không phân biệt được những gì
mình đang nhìn và nghe thấy là trong lúc thức hay mê ngủ. Những tiếng động
như gõ mãi vào tiềm thức, đôi khi chợt tỉnh dậy trong đêm khuya, nghe cùng một
lúc tiếng mưa gió bên ngoài và những tư tưởng, thân thể ngỡ trôi trong cõi mù
mịt nào, ngỡ như mình đã chết. Mưa trong cõi trong và cõi ngoài dìm tâm trí hẳn
vào cơn ảo giác. Thân thể cùng một lúc nhẹ tênh như chiếc bong bóng trôi trên
mặt nước hắt hiu những lau sậy, ao ước được thay đổi, thay đổi cái bầu không
khí đang thở, thay đổi những nỗi mờ ám đang bám trên các vật dụng nhìn thấy hằng
ngày, thay đổi cách sống, thay đổi cái nhìn…
(Không một ai, trang 9)
Đau thay! Mơ ước chỉ là mơ ước vì ý nghĩa cuộc sống không nằm trong ý nghĩ của
một người, vì cuộc sống không phải chỉ có con người đơn thuần, nó còn được hình
dung qua địa lý và lịch sử. Sự hiện diện của Trang, người bạn gái cùng sở, dưới
cơn mưa giữa một khung cảnh mang nhiều phiền não, phải chăng là nguyên cớ để
hy vọng có sự đổi thay? Người tình đã bỏ đi, cơn buồn còn giăng ngang tầm mắt,
nào có gì đáng mơ ước đối với một thân phận èo uột, với thể xác chết sững một
nửa vì chứng tích chiến tranh, một nửa vì chán chường tình ái. Niềm u tối như
bủa vây khắp ngả đến nỗi chàng trai chẳng dám nhìn cả khuôn mặt người đàn bà
vì đã yêu hay thương mà dìu mình qua khỏi cơn ngất xỉu giữa đường. Trang, là
chiếc bóng, mãi mãi là chiếc bóng vừa dịu hiền vừa đáng mến. Nàng cũng lận đận,
gian truân trong vấn đề tình ái. Hiện nàng ở với mẹ và hai đứa con. Nhưng
tình thương yêu này cũng không đuổi được ra khỏi hồn nàng niềm cô đơn và đói
khát đàn ông.
Chàng trai đã xuyên qua Trang để thấy người tình, người tình phụ rẫy,
… Tôi nói với Trang, nói với Trang ngồi trước mặt, nhưng tôi vẫn còn như muốn
nói với nàng, bởi trong chiếc ghế đó nàng đã ngồi, chính trong chiếc ghế đó nàng
đã chia sẻ với tôi những hơi thở ngọt ngào của nàng những lần trò chuyện âu yếm…
… Nàng bỏ đi vì tôi đã không biết yêu nàng, chỉ có thể như vậy, yêu cũng có một
cung cách ư? Đó là điều tôi không nghĩ tới, không tưởng tượng, không muốn thử
tìm hiểu làm gì.
Có thể có một cách bày tỏ tình yêu chung cho nhiều người hay cho một người
chăng? Hạnh phúc cũng như thảm kịch, có lẽ đó là điều chúng ta không thể lựa
chọn…
(Không một ai, trang 25)
Mọi người sinh ra đều không có quyền lựa chọn gì cả, nhưng cũng không phải để
cúi đầu chấp nhận mọi sự tình, mặc số phận đẩy đưa, mà phải thu xếp những mâu
thuẫn, nguyên cớ chính đáng để có thể vì nó mà yên tâm bước lần theo con đường
số kiếp với chút hăng hái nơi lòng.
Tình yêu trong tác phẩm của Nguyễn Đình Toàn không bao giờ nguyên vẹn. Nó đứng
chênh vênh trên bờ vực hay trơ phơ phất trong từng ý nghĩ mong manh. Nó cuồng
nộ một cách giả tạo. Nó vượt quá xa mức độ một cách giả tạo. Nó vượt quá xa mức
độ thực của nó. Nó chỉ được phác hoạ mà không bao giờ cụ-thể-hoá được giữa cuộc
đời. Những ý nghĩ táo bạo về dục tình cũng chỉ để nói với mình, để lừa dối
mình, để chiến thắng mặc cảm, thứ mặc cảm bất lực về thể chất vũ bão ở nội
tâm.
Buổi sáng Chủ nhật của thành phố, trong quán nước vô tình, người yêu cũ chợt
tới. Sự gặp gỡ này như một khẳng định, một ý muốn rõ ràng để chứng minh quá
khứ, chứ không phải hiện tại,
… Những tiếng nói làm náo động sự yên tĩnh trong tâm hồn, sự yên tĩnh đang bị
vây hãm bởi những tiếng động dồn nén bên ngoài.
"Em yêu anh. Nhưng có lẽ anh sẽ sung sướng hơn với một người đàn bà
khác".
"Vấn đề không phải là chúng ta sung sướng hay khổ hơn.
Nhưng…"
"Anh muốn trở lại từ đầu?"
"Anh yêu em…"
Tôi nói và nhớ lại những buổi sáng trong bệnh viện trời còn âm u…
… Tiếng người ho, kêu la trong các dãy nhà thấp. Vẫn cái mùi hôi ẩm mốc, của
cái chết, những vết thương tấy sưng, của những cuộn băng đầy máu mủ, của những
thứ thuốc sát trùng formol, đờm rãi, cặn bã, những cống rãnh, chuột bọ. Những
nệm giường cáu ghét loang lổ, bao nhiêu người đã nằm, đã chết, bao nhiêu người
còn sống…
… Em đã đến với anh những ngày buồn thảm đó, bây giờ em bỏ đi làm thế nào anh
không xót xa…
(Không một ai, trang 74-75)
Nhắc nhở đến quá khứ, với những ân tình đằm thắm, như một tiếc nuối để chụp bắt
lại những gì đã vuột khỏi tầm tay. Nhưng vô ích, mỗi ngày qua đi, mỗi buổi xa
nhau có thể làm sai lệch những ý tốt đẹp nhất, có thể làm rã rời cả suy nghĩ
về nhau. Tình yêu có những lúc thật buồn thảm mà kẻ yêu nhau bao giờ cũng là
tội nhân ở bên này hay bên kia ước muốn! Một người đã quyết tâm rời bỏ thì
người kia còn chờ mong gì ở cuối đường hối tiếc? Sự gặp lại chỉ còn là kỷ niệm,
mà kỷ niệm y như sợi tơ nhện bị gió bão làm đứt nát từng khoảng,
… Tôi muốn thả xuôi theo ngày tháng, đời sống và cái chết đã có giá trị ngang
nhau, giống như nhau. Tôi đã được cứu sống nhưng tôi không biết dùng đời sống
tôi để làm gì ngoài cái việc giản dị là tiếp tục sống nốt cái quãng đã được cứu
thoát, đã được trở lại đó…
… Trở lại cùng với ánh sáng, với những tiếng nói cười, những bữa ăn, những
quán nước, những lúc đốt thân thể trong những cơn thiết tha muốn sống, muốn
yêu, muốn khóc, muốn được bình thản như cỏ cây, muốn hung bạo như thú dữ, muốn
bay muốn hát như chim, ngày mỏi mệt trong giấc ngủ trưa, đêm thánh thót trong
tiếng mưa giục giã, những cánh tay quấn quít, những môi hôn ân huệ, tham lam
những mắt nhìn âu yếu, những cơn trở giấc lắng nghe than thở, những vuốt ve
trìu mến vu vơ, mơn trớn, chiều chuộng một ngày như một ngày sống lại, một
đêm như một đêm đã chết đi…
… Tình ái như con nước vừa tầm mắt, vừa đẩy đưa, vừa dìm sâu, chìm đắm. Trong
đáy sâu của cõi chết, của đời sống thắp lửa mỗi ngày đó, tôi đã dần dần lấy lại
được sự bình an. Nàng như con cá muốn trườn khỏi dòng nước, vượt lên một
mình…
(Không một ai, trang 88-90)
Ngọn lửa yêu đương do nhà văn thắp sáng, sự thực, cũng chẳng soi tỏ được bao
nhiêu. Nó le lói trong tiềm thức và chao động trước bão táp cuộc đời. Thứ hạnh
phúc tạm bợ, chắp nối, kéo dài bao nhiêu chỉ làm khổ nhau bấy nhiêu. Rồi hối
tiếc và chán nản như con mọt đục sâu lòng gỗ, nó a tòng với thời gian làm mục
nát tất cả. Nó như bóng mây bay ngang mặt đất, vẫn buồn bã trong mỗi đắn đo,
kể cả đắn đo về hạnh phúc. Hương thơm tình ái chỉ như cơn gió nhẹ lướt quá
trí tưởng tượng, như tia nắng chợt lóe lên rồi tắt lịm trong cơn giông đổ tới.
Sự trở về của Ph. vẫn chẳng làm nguôi ngoai tiếc hận với những búng máu ứa ra
từ cổ họng và những cơn ho bệnh hoạn phát động trầm trọng trong cơ thể yếu đuối
của chàng trai.
Với tình yêu, sức khoẻ cũng là yếu tố quan trọng, vì không ai có thể yêu nhau
bằng tinh thần suốt đời nếu có hoàn cảnh chung sống. Ngoài nguyên nhân thuộc
tình cảm hoặc cung số, thường ra, chuyện ngoại tình đều do sự bất lực thuộc
phía đàn ông hay bởi sự lãnh cảm ở phía đàn bà.
Nhân vật trong truyện chạy trốn vào thú đam mê khác mong khoả lấp thực tại.
Chàng trai đã thử thời vận hay tìm lãng quên trong việc đánh cá ngựa. Cơn đỏ
đen của cuộc chơi này tuy chẳng phải điều thích thú nhưng cũng cho chàng ta
biết thêm một khía cạnh khác của đời sống, ngoài ái tình. Trò đánh cá ngựa,
dĩ nhiên không hào hứng bằng cuộc chơi tình ái, nên sự được thua không tạo
nên ảnh hưởng. Dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, nhân vật cũng chẳng có cách gì
ra thoát khỏi vùng sương khói của thất vọng bủa vây trùng lớp để dìm sâu ý
nghĩ vào hờn giận, khổ đau. Tiếng hát nào, thân hình đàn bà gợi dục nào, với
những ly rượu cay nồng dung tích phòng trà cũng chỉ là chuyện tìm quên chốc
lát. Nhân vật như chìm đắm, bị cuốn hút xuống vực thẳm, ở đấy, không còn gì
ngoài cái thể xác bệnh hoạn và tình yêu xa vắng. Cái ô vuông do nhà văn ấn định
cho nhân vật di chuyển và suy nghĩ, thực quả nó quá nhỏ hẹp, bị dồn nén với bực
bội để nảy sinh ra ý tưởng bi đát,
… Những đêm khuya chợt nghe tiếng ve kêu rộn từ một nơi xa tít nào dội lại
như một sợi dây, lảo đảo trong cõi mịt mùng nào của khu xóm mà mọi tiếng động
đã ngừng hẳn, anh bị vây bọc bởi sự im lặng hắt hiu phủ lấy anh bây giờ như một
niềm thân mật độc nhất mà anh có thể hòa hợp, không còn một tiếng động nào,
nhưng dường như sự nặng nề của muôn ngàn tiếng động dồn nén trong suốt một
ngày, (trong nhiều ngày) không thể thoát đi quanh quẩn đâu đó và vẫn còn đủ sức
làm cho hơi thở trở nên khó khăn…
(Không một ai, trang 123)
Sự chờ đợi Ph. trở lại mỗi chiều đi làm về với tiếng mưa rơi bên ngoài mòn mỏi.
Những bước chân quá khứ đi nhè nhẹ vào hồn với viên gạch có dấu sơn loang.
Viên gạch còn đó, nhưng lối cũ em chẳng trở về, trong lúc ấy, hình ảnh Trang
dập dềnh ẩn hiện tuy gần mà xa vì cuộc tình không phải và không thể được cấu
tạo do sự nhút nhát với đề phòng của mỗi bên.
Kế, người đàn ông đứng tuổi, cùng phục vụ chung một cơ quan, đã vẽ đường cho
chàng trai chơi cá ngựa bây giờ lại rủ đi hút thuốc phiện. Việc đến tiệm hút
là một bất ngờ nhưng, lỡ rồi, mặc kệ! Cái trò chơi này chàng trai đã thử đôi
ba lần mà chưa tìm thấy thú vị, nhưng nể bạn, cũng cố kéo hai điếu, thấy ngây
ngất, lơ mơ! Chàng trai hút để biết mùi đời, còn Kế hút vì có lý do,
… Kế cười:
"Tại vì anh chưa già, cũng tại vì anh chưa có vợ, nhất là anh không có
hai vợ, trong đó một người chỉ bằng nửa tuổi anh, anh chưa biết cái thứ này
nó effet như thế nào".
Tôi cũng cười bảo Kế:
"Kinh nghiệm nào của anh nghe cũng rùng rợn cả".
Kế nói:
"Đàn bà là thứ kỳ lạ lắm. Suốt đời tôi chỉ mong hòa với họ mà không được".
Anh làm tôi bật cười. Tôi tưởng lại những ngày chung sống với Ph., hạnh phúc
chúng tôi tạo ra với nhau là một thứ hạnh phúc êm đềm, nó không có vẻ gay gắt
như Kế nói. Có lẽ điều đó cũng tuỳ người, tuỳ trường hợp.
Kế nói tiếp:
"Cầm bằng như tất cả mọi sự rồi cũng tan thành mây khói cả, cầm bằng như
cuộc đời được xếp đặt đúng như ý anh, cầm bằng như kẻ trước người sau ta đều
không gặp mặt, và đời chỉ ngắn ngủi như một hơi thở, tại sao mình lại không
tìm cách kéo dài những cái phút tạm gọi là hạnh phúc cụ thể đó…"
(Không một ai, trang 155)
Sau những giờ dài trong trường đua và tiệm hút, nhân vật, con-người-bệnh-hoạn,
đã thoáng thấy một cái gì tàn tạ, một cái gì lặng lẽ, bơ vơ như cái chết gần
kề.
Chàng trai trước mắt Trang, người-đàn-bà-không-may, lúc nào và bao giờ cũng gợi
đến cho nàng cái cảm giác: hắn sẽ gục xuống, hắn sắp ngất đi, nên những phút
gặp mặt là mở đầu cho thương hại, tuy có ẩn ý mến yêu. Lời đối thoại trong
truyện thật ít, chả nhẽ tác giả bắt các nhân vật câm cả, vì cái trục của tác
phẩm nằm ở phần độc thoại nội tâm của nhân vật xưng "tôi". Vì phần
độc thoại hơi nhiều, nên những trang sách thiếu linh hoạt, đôi lúc nó làm người
đọc mệt mỏi bởi quanh quẩn mãi với một thứ tiếng, một tâm trạng, một cảnh huống
đã như vậy, mãi mãi như vậy! Chính thực, nhà văn muốn đi sâu vào ý thức, muốn
dùng văn chương để chuyên chở ý tưởng, nhưng sự chuyên chở nào cũng vậy, nó
đòi hỏi một kỹ thuật tuyệt luân, một biến hoá vô cùng và một tài hoa xuất
chúng, mới mong đạt được kết quả.
Bất ngờ đã xảy ra, Ph. trở lại căn phòng xưa làm chàng trai bồi hồi cảm động
gần như bỡ ngỡ. Sự trở về này cũng từa tựa như sự trở về nơi đứa con hư hỏng
trong tác phẩm của Gide. Cái mùi hương quen thuộc trên da thịt đàn bà lại dìm
tuổi trẻ vào thú vui nhục thể. Sự trở về, có thể là một trơ trẽn, nhưng nó vẫn
có tác dụng làm sống lại trong tiềm thức mỗi kẻ yêu nhau, những quất quít vội
vàng,
… Mỗi lúc được gần gụi nhau như thế, tôi thường có cảm tưởng ngây ngất dường
như nhắm một chút rượu say, tôi nhớ tới những ngày lẻ loi đã sống, tôi sợ cái
lúc sẽ chẳng còn được sống với nàng nữa, hình như mỗi lúc ở bên nàng, tôi đã
biến thành một người khác, và tôi sợ sự khốn khổ này có thể lây sang nàng nữa,
tôi trở nên bối rối và bất thường trong trạng thái đó…
… Sau mỗi cơn ân ái tôi có cảm tưởng chúng tôi mỗi kẻ chìm sâu thêm xuống cái
vực ngăn cách của mình, giống như một chiếc quan tài trong suốt, nhìn ngó
nhau qua mặt trong của lớp vỏ sầu thảm đó, sức lực, sự âu yếm, xót thương, tập
trung trong cuộc hòa hợp dốc hết ra trong cuộc hòa hợp đó, thân xác trở nên
khô héo, tình ái giống như một cuộc ép xác, cuối cùng chỉ còn trơ nỗi quạnh
hiu ngày tháng phủ trên tàn lửa quạnh hiu đó một lớp tro than chờ giờ nguội lạnh…
(Không một ai, trang 194-198)
Những ly nước đã hắt đi rồi muốn vớt cũng không được, nên cuộc tình có trở lại
cũng chỉ là niềm băn khoăn vì không có tương lai, quá khứ thì bùng nhùng,
nhão nhoẹt. Đời sống của mỗi người là một chân lý, cái chân lý đó ít ai nhìn
thấy cứ chạy quanh đi tìm ở mãi đâu. Tình yêu cũng vậy, nó chính ở trong lòng
mỗi người, khốn khổ thay, con người vì chọn lựa, đánh giá, so sánh làm cho mỗi
cuộc tình trở nên bi thảm! Tình yêu trong tác phẩm Nguyễn Đình Toàn luôn luôn
bị du vào thế kẹt để nhà văn phải vì nó mà tổn hao bao nhiêu suy nghĩ. Sự
tình đó không xa lìa đời sống, nó là đời sống có đấy, nhưng hình như nó cũng
chẳng phải vì đời sống mà hình thành sự thể. Nhân vật trong truyện không nhìn
nhau trực diện, nó mập mờ vóc dáng và nặng nề hoạt động. Trong tác phẩm The
Sound and the Fury (Âm thanh và cuồng nộ) Faulkner đã đưa ra những mẫu người
có nhiệm vụ phải thực thi những gì đã ấn định trong tâm thức, đồng thời xuyên
qua các hoạt động và ngôn ngữ của từng nhân vật, ở đấy nhà văn trình bày ý niệm
u uẩn: cuộc đời là bi đát, con người là nạn nhân, còn thời gian là ám ảnh. Ba
thứ đó lút mỗi suy nghĩ để tạo nên đổ vỡ.
Nguyễn Đình Toàn dẫn dắt nhân vật của mình đi vào sự tàn phá nội tâm, như con
bệnh trầm kha luôn luôn than van về thuốc men, và đau đớn. Vì quá sợ nên liều,
nó phó mặc cho định mệnh: Một sự tàn phá im lặng và êm đềm, một bề ngoài êm đềm
giống như trái cây còn nguyên vẹn nhưng thực ra lũ sâu đã đục nát bên trong,
một tiếng chuông tự bưng kín tiếng kêu, tự dội lại trong vũ trụ của mình những
cơn chấn động! Nguyễn Đình Toàn đẩy nhân vật đi vào tình yêu nhưng ít khi cho
nó có được giây phút đầy đủ trọn vẹn. Nó bị dình dập, đè nén bởi những ý nghĩ
u tối làm tan rã mọi niềm vui. Nó như mưa chiều, nắng sớm. Nó hợp rồi tan. Nó
là sự đùa giỡn quá trớn. Nó quấn quít vội vã, đồng thời nó cũng chia lìa bất
chợt.
Trang đã làm ái tình với Kế, người đàn ông biết hưởng thụ nhưng ít suy nghĩ.
Trái lại, chàng trai yêu Ph. như yêu một cái gì cao đẹp, chỉ riêng mình mới
thấy. Sự đi, ở của Ph. dùng dằng như nửa cho, nửa tiếc,
… Đôi khi tôi có cảm tưởng thời hạn cuộc tình của chúng tôi đã hết, ngày đã
qua, bây giờ là thời khắc của đêm đáng nhẽ nó phải giải thoát tôi khỏi nàng…
nhưng không phải, chúng tôi đã chung sống, đã yêu nhau, nhưng hai kẻ vẫn có một
kẻ muốn tách ra khỏi người kia, tình muốn bỏ tình chứ không phải người muốn bỏ
người…
(Không một ai, trang 256)
Những trang sách nhiều lúc bải hoải, lê thê, liễm kết vào bên trong tâm trạng
của nhân vật với giằng co, níu kéo, lúc vứt đi, lúc nhặt về, với từng cơn lốc
nhục thể.
Giữa lúc đó, Kế được thăng chức cùng với cái chết của con ông. Cái chết của một
sĩ quan Quân y ngoài mặt trận. Chiến tranh, đối với Nguyễn Đình Toàn là điều
xa lạ, rất ít được nói tới trong tác phẩm, nếu có đề cập chẳng qua cũng như một
điểm trang thời thượng. Kế, chẳng biết vì buồn hay do duyên cớ nào khác, lại
rủ chàng trai đi hút. Cái không khí dơ dáy của tiệm hút được mô tả với những
dòng thật thô nhưng đúng. Mọi người tới đây để hút chứ không để nhìn và khi
cơn say đã tới thì cả vũ trị đều là hư ảnh,
… Tôi hút hai cặp và bắt đầu cũng thấy lơ mơ, dường như khói bò đi khắp xương
tuỷ không có một cảm giác nào rõ ràng cả, nhưng khắp người là tất cả những cảm
giác mơ hồ đó hội tụ lại, nó làm cho muốn loay hoay tìm kiếm cái này cái khác
châm vào ngọn đèn đốt…
(Không một ai, trang 274)
Lúc trở về, cơn say đã thấm, chàng trai nôn ọe trong phòng tắm. Say thuốc phiện
khổ lắm, nghiện ngập thật xấu xa, nhưng Phù Dung tiên nữ có vạn phép màu làm
cho ai đã trót mê nàng khó lòng dứt bỏ. Một trong những phép màu đó là nàng
trợ sức cho công việc làm ái tình. Ph. ngạc nhiên trước sự dai dẳng của một
thể xác vốn yếu đuối lại ham mê sinh lý.
Kế, còn môi giới cho chàng trai gặp Lan, cô gái bụi đời thường có mặt tại trường
đua. Chàng đóng vai gã phiêu lãng để thay đổi không khí và để có ảo tưởng đã
xa được Ph., một người tình đã trở nên bận bịu. Sau trận tình, chàng trai trở
về ngủ thiếp, Ph. chong đèn ngồi khóc! Rồi nàng bỏ đi… Nằm một mình, chàng
trai chợt nghĩ đến những tên tuổi đàn bà đã lướt qua đời cùng những thân hình
mờ nhạt thiếu sinh khí, thiếu linh động.
Thế rồi chàng lại tìm đến tiệm hút, có Lan đi cùng,
… Tôi bảo Lan:
"Em ngồi xuống cạnh anh chơi".
Tôi để ý cũng chẳng thấy Lan có phản ứng gì khác lạ.
Người chủ tiệm nhỏm dậy thắp đèn đi lấy thuốc. Lan ngồi sát bên tôi, nàng kéo
cao gấu váy cho dễ cử động hơn. Tôi gối đầu trên hai đùi nàng duỗi thẳng, Lan
vuốt ve tóc tôi đùa nghịch.
Tôi thở trên nàng cái mùi vị thơm tho của vải và đàn bà. Chiếc mini jupe kéo
lên chỉ còn lại trên háng nàng một quần lót mỏng. Hai đùi Lan mềm, nàng lặng
lờ như một mặt nước. Người chủ tiệm mang thuốc lại tiêm cho tôi hút như một
khách hàng quen thuộc…
… Lan quàng tay ôm ngang bụng tôi, tôi đã say mềm người, tôi nhắm mắt và hai
mắt lúc đó như hai cánh cửa đóng lại, nhốt cái ánh sáng của ngọn đèn dầu
trong đầu cái ánh sáng không lối thoát mỗi lúc chói thêm lên trên óc.
Tôi nghe tiếng Lan ghé sát tai bảo nhỏ:
"Trông anh vậy mà không ngờ anh nghiện".
Cả cái thứ bụi đời như vậy mà cũng còn chê cái trò chơi này quả là một thứ
không ra gì thật…
(Không một ai, trang 323-324)
Cuộc sống như thế, cứ như thế, ngày đi làm, tối ăn chơi. Nhưng đột nhiên nút
thắt tác phẩm siết chặt ở những trang cuối. Trang đã mang bầu với Kế, nàng
tìm cách phá. Trang báo tin cho chàng trai biết sự việc và chỉ mong gặp mặt,
coi như an ủi sự không may của nàng. Ph. vẫn hiện diện trong không gian này
như nỗi giày vò. Một quyết định nhân đạo chợt đến, Chúa muốn cứu vớt Trang ra
khỏi vực thẳm của tội lỗi mà lương tri cho là cần. Chàng trai không muốn
Trang phá thai. Chàng muốn được đùm bọc Trang và cái thai trong bụng. Họ sẽ
thành hôn khi nào nàng khoẻ mạnh. Chàng đưa Trang ra khỏi nhà thương vì Ph.
đã đi khỏi.
Khi trở về nhà, nhìn vào, thấy ánh đèn. Ph. vẫn còn đó. Có lẽ bị xúc động mạnh
trước thực tại, Trang lên cơn đau dữ dội. Chàng và Ph. lại phải đưa Trang vô
bệnh viện. Sau khi thăm bệnh, Trang được đem vào phòng mổ. Lát sau, nàng chết.
Một cái chết âm thầm, lặng lẽ nhưng đã gây ra những thống thiết trong lòng ba
người đang sống: chàng trai, Ph. và Kế. Mỗi lương tâm hình như có trách nhiệm
một phần.
Chẳng biết làm gì để giải toả tâm linh, chàng trai lại đi hút. Đang nằm bên
khay đèn. Cảnh sát xét nhà, chàng bị bắt. Ở nơi tạm giam, chàng nhờ người báo
tin cho Kế và nhờ chức vị, ông ta đã lãnh chàng ra khỏi bót. Sau đó, chàng
trai lại tìm cách tự trốn khỏi mình bằng cuộc đen đỏ ở trường đua. Chàng đã
thua, đã mất hết, và cánh cửa định mệnh bây giờ do mình mở lấy. Cô đơn lại trở
về cô đơn! Tác phẩm Không một ai, đã trình bày những khía cạnh thật u uất, thật
khắc khoải ở nội tâm từng nhân vật. Mỗi số phận hầu như do định mệnh dẫn dắt
họ đến gần nhau để làm khổ nhau một cách vô ích, trong những ý tưởng chán chường
về tình ái cũng như đời sống. Cái chủ đề của câu chuyện nằm ở đó. Nó vô lý
như vậy, mà thân phận mỗi người trong thực tế, nhiều khi âm u hơn! Nguyễn
Đình Toàn viết như cắm sâu vào lòng giấy những cái mốc nhọn và chắc, nó có đủ
sức chống chọi với thời gian và thay đổi.
Nguyễn Đình Toàn đi vào văn chương không với tư thế kẻ nhàn du. Mỗi bước chân
như in đậm vào mặt đất sự khó nhọc, vất vả của kẻ tìm đường – con-đường-số-mệnh
– mà nhà văn luôn luôn cúi đầu chấp hành mệnh lệnh. Nguyễn Đình Toàn không phải
nhà văn phản kháng, phẫn nộ nhưng cũng không chấp nhận trần gian này là điều
mong ước. Con người và thời gian như hai kẻ thù chạy đua giữa cõi sống và chết.
Một bên sợ mất, một bên bắt phải mất, dĩ nhiên con người luôn luôn là kẻ bại
trận.
Ngoài những truyện dài, Nguyễn Đình Toàn viết rất nhiều truyện ngắn. Mỗi truyện
gói trọn một vấn đề thuộc đời sống tâm linh với đắng cay tình ái. Tuổi già, đối
với nhà văn như một thất bại lớn, thất bại hoàn toàn. Con người không ai
tránh được nó, trừ phi chết trẻ. Tuổi già như sự nhục nhã. Nó hiện hữu hết sức
vô ích, dù ở chiều kích nào. Truyện Đêm lãng quên tuy ngắn nhưng cũng đủ nói
lên tất cả những nhục nhằn mà tuổi già phải gánh chịu. Cuộc sống vật chất dù
thiếu thốn, vẫn có thể kham được, chứ sự bất lực về thể chất nó tạo nên mặc cảm
chua xót,
… Tôi đã nghe thấy tất cả cái hắt hiu tàn lạnh của một đời người, của những
đêm mải mê trong các cuộc truy hoan, đỏ đen tích lại trong máu huyết, bây giờ
đang muốn tắt đi cái dư vị cuối cùng, tắt đi cái chút lửa còn sót mỗi khi cơn
bệnh bớt hành hạ, cho cái cảm tưởng, ta vẫn còn chân tay vẫn còn đời sống… Những
buổi xế chiều, những sớm âm u, những giờ phút đời sống đã tự giấu mặt, đã lẩn
khuất, đã lẫn lộn, tuổi già như một cơn nước lụt đã dâng lên tới ngang ngực,
hơi thở đã khó khăn, những thú vui đã bị dìm cả xuống vực thẳm phiền muộn, những
nỗi phiền muộn không tên…
(Đêm lãng quên, trang 10-11)
Tuổi già quả là hình phạt của Thượng đế đối với mọi người, dù sống trong sung
túc hay cùng khổ. Mỗi lần thời tiết đổi thay bất chợt là người già bị ảnh hưởng
ngay. Cơn đau tê thấp và sự nhức mỏi gân cốt kéo lê làm rũ liệt cả ước muốn.
Những chiếc răng đã mất. Đôi mắt thiếu tinh tường đi đâu cũng loay hoay tìm
kính. Những sợi cước thay cho màu tóc và sự chậm chạp của bước chân như đeo nặng
cả khối chì. Tình dục nếu được nghĩ tới cũng chỉ là ước mơ xa lạ! Nhân vật
trong truyện Đêm lãng quên hiện diện như bức tượng để nhà văn nhìn vào nó,
như nhìn vào cuộc đời mình mai hậu, trong bối cảnh không kém thê lương bằng
thế. Sự hồi tưởng chỉ là xót xa. Còn gì đau khổ hơn, kẻ đã muốn nhìn rõ vai
trò của mình trong những giờ cuối của vở kịch, nên mọi hành động trở nên kỳ cục,
… Mùa hè thúc giục trong những đêm khuya trở dậy mò mẫm trong căn phòng, nhìn
thấy đôi vợ chồng trẻ ở căn phòng đối diện, cách một khoảng sân, cặm cụi vào
công việc đó sau khung cửa mở rộng. Đêm quá nóng nực, và họ không thể tưởng
ta là con ma xó có thể thức vào lúc đó để rình mò và nhìn thấy họ… Không,
không phải chỉ là cái ham muốn thông thường của dục vọng, nhưng hình như nó
đã làm rung rinh cả nỗi bi thương bưng bít trong lòng ta cùng với cái chết…
(Đêm lãng quên, trang 14)
Mặc cảm đã làm tuổi già chết cứng trong cái vỏ của nó. Nó tàn rợn như mũi lao
ném đi từ bóng tối đến mục tiêu ngoài ánh sáng. Nó hận thù xen lẫn hờn tủi
như con vật già vô dụng đứng ngơ ngác giữa đường phố trong buổi chiều tà. Nó ảm
đạm, tiêu điều trước cái chết treo chênh vênh trước mặt. Thú vui, kỷ niệm và
tưởng tượng xáo trộn tạo thành mối bùng nhùng không dứt khoát. Đêm và ngày chỉ
là những thời khắc chắc sẽ đến và sẽ qua rồi không tìm thấy vĩnh viễn. Tuổi
già, một thất bại hoàn toàn,
… Khi con nhỏ gõ cửa, ta không thể đoán ra nó… Trong cái bóng đêm đen kịt của
một cơn giông nín nghẹn, trận mưa đã không thể nào đổ xuống, đứa con gái hiện
lên giữa khung cửa như một khối đen đặc… Có một chút gì đó đã tẩm lẫn vào
không khí, cái không khí lạnh nhạt ta thở hít mỗi ngày, làm cho nó trở nên
cay sè, mùi phấn, mùi nước hoa rẻ tiền. Một thứ mùi vị đã xa cách hẳn ta như
một tấm áo cũ lâu ngày mới được giở ra, hương vị phai nhạt đó lại trở nên gay
gắt…
(Đêm lãng quên, trang 17-18)
Hình ảnh đứa con gái chơi bời sang phòng lão già xin lửa trong đêm tối làm
xao động hẳn tâm tư cằn cỗi, đánh thức lại tình xuân đã tàn lụi với tuổi già
như nắm tro tàn. Ác thay, nó lại là tuổi trẻ. Nó có đầy đủ những gì thèm muốn.
Nó làm cho lão nhớ đến thời niên thiếu. Cái mùi con gái gợi lên bao hình ảnh!
Cái tuổi sáu mươi, cái tuổi khắc nghiệt, không thuốc gì chữa được. Dưới ánh
sáng của ngọn đèn âm u, bệnh hoạn, lão nhìn rõ hết thân phận mình và đứa con
gái chơi bời vẫn coi lão như cha, với cái nhìn tuyệt vọng,
… Đã từ lâu ta ngắm đời sống, và đời sống diễn ra trước mắt ta trong sự ngó
nhìn im lặng đó, diễn ra lặng lờ như ở bên kia một tấm kính trong, không còn
một hoạt động nào bên trong nữa, ta muốn nói phía bên này tấm kính. Đứa con
gái đã lạc vào cái chỗ kín bưng của ta bên này và khua động lên, làm ta không
còn kịp nhận ra phương hướng của mình nữa…
… Không có lẽ con không hiểu được, không bao giờ có thể hiểu được nỗi cay đắng
trong lòng ta, không phải chỉ là sự nặng nề trong một cái thân thể đã tàn tạ
nhưng chưa thoả, nhưng mà vì ta còn muốn hút lấy cái đời sống còn đầy nơi
con, cái đời sống mà ta đã kiệt quệ, cái đời sống chỉ có thể lấy từ một người
khác, cái đời sống không còn thể truyền tiếp nữa, như con ong hút lấy mật của
một bông hoa, điều đó chắc con không biết được, đời sống ta hiện giờ như ngọn
đèn cháy trong không…
(Đêm lãng quên, trang 23-35)
Tuổi già chỉ biết nhận chứ không còn cho được, vấn đề đó là định luật của tạo
hoá. Những điều nhà văn viết ra, không ở ngoài cái định luật đó.
Nguyễn Đình Toàn có cái nhìn không mấy thiện cảm với đời sống, vì đời sống
không phải là quê hương mà nhà văn thường mơ ước. Do vậy, khi cần phải tỏ bày
thái độ trước nó, luôn luôn nhà văn đi vào cơn sóng thác loạn, dùng nó như
khí giới để chống đỡ thực tại. Nhưng cuộc đời trước mặt không phải một khối
có thể sờ mó được, có thể di chuyển được, mà nó tan loãng, phiêu phiêu bay
bàng bạc trong tâm trí mỗi người rồi buộc chặt vào nhau bằng ước lệ và nhu cầu.
Người nghệ sĩ bao giờ cũng đòi hỏi về phần mình cái chủ quan tuyệt đối trong
cung cách sống ngay cả ở sáng tạo, nhưng đích thực, họ bị lưu đày vĩnh viễn
trong cái lồng kính trí tuệ mà họ không hề hay biết.
Vì muốn đi sâu vào ý thức, dùng ý thức để nhận định, soi sáng chính sách nên
văn Nguyễn Đình Toàn không thể tránh được sự nặng nhọc, mệt mỏi, đôi khi chìm
lắng và bâng khuâng trong mỗi trang độc thoại nội tâm, nhưng chính nó lại là
điểm đặc biệt của Toàn vậy.
Trích văn Nguyễn Đình Toàn
Sương mù và lá
Phượng ra khỏi nhà lúc bảy giờ chiều, ngày Chủ nhật cuối năm buồn và hơi lạnh.
Phượng không có công việc gì cần phải vội vàng. Nàng chỉ muốn tìm một chỗ yên
lặng, vắng vẻ để suy nghĩ về một chuyện. Thực ra, Phượng cũng không biết chắc
mình có thể tìm ra một giải pháp nào thì nàng vẫn phải có một quyết định.
Thành phố trong một ngày nghỉ vắng vẻ mọi người hình như không được yên ổn
cho lắm, mặc dù bên ngoài họ đều có vẻ bình thản. Những biến chuyển của thời
cuộc đã đè nặng lệ tất cả, tin tức về cuộc hòa đàm tại Ba Lê, những trận đánh
kéo dài suốt từ Tết Mậu Thân và các cuộc pháo kích vẫn còn là những nỗi lo sợ
cay đắng của mọi người. Bao giờ hòa bình sẽ tới? Điều mà tất cả mọi người đều
khát khao đó, đôi lúc nghe xa vắng và bí mật như những địa điểm mà từ đó, những
trái đạn đã được bắn đi, người ta chỉ thấy những tai hoạ tới gần giáng xuống,
hòa bình ở đâu, ai biết? Trong cõi mù tịt của hiểm họa và hy vọng đó, những đời
sống riêng tư vẫn tiếp tục. Những nỗi âu lo trong lòng Phượng hiện giờ.
Từ ngày mẹ bỏ đi, cái ngày đó xa như tuổi thơ buồn thảm của Phượng, nàng đã
được cha đưa về sống ở cái thành phố lạnh lẽo, nhỏ bé này. Năm nay Phượng 18
tuổi. Phượng đã sống mười sáu năm trong cái nhịp trễ nải, âm thầm và nhạt nhẽo
của cái tỉnh lỵ này. Nàng đã quen, đã nhớ từng góc phố, từng viên gạch trên lề
đường, cả giọng nói của một số những người dân ở đây, họ có thể đều là thân
chủ của cha nàng, bác sĩ Phát. Vì làm thế nào sống mười mấy năm trong cái tỉnh
lỵ này, người ta không một lần đau ốm? Cha nàng lại là vị bác sĩ giỏi nhất của
thành phố, các bệnh nhân đã nói như vậy. Ông cũng là thầy thuốc già nhất ở
đây. Chính tuổi già của ông là vấn đề đã làm xáo trộn cả tâm hồn Phượng từ
chiều qua, sau mười mấy năm sống êm ả như dòng nước của con sông chảy giữa
thành phố. Con sông mà vào những ngày gió lớn cũng chỉ đủ gây nên những lượn
sóng rạt rào như tiếng gió thổi hút qua rặng thông của ngôi chùa trên ngọn
núi nhỏ đầu thành phố.
Chiều qua, sau bữa cơm tối, như thường lệ hai cha con ngồi uống trà ngoài
hiên. Trong một lúc bất chợt nhất, vị bác sĩ già đã nói cho con gái biết, về
cái chết có thể sẽ đến với ông nay mai. Lúc đó, những tiếng động trong tỉnh
đã thưa thớt, đêm trông mỏng manh và yếu đuối như những ngôi sao vừa mọc trên
nền trời mờ hơi nước. Ông cụ nằm ngả lưng trên chiếc ghế vải sẽ đu đưa. Phượng
nhìn mái tóc và cả hai hàng lông mày của cha đã bạc trắng. Trên dòng sông trước
cửa nhà, lúc đó, có một chiếc thuyền máy chạy qua, mang theo những tiếng nổ lộp
bộp, và bóng cây dừa cùng khóm mẫu đơn trồng trước sân khẽ lay động chập chờn.
Phượng còn nghe thấy một chiếc xe thổ mộ chạy trên con đường nhựa ven sông,
vó ngựa đập trên mặt đường rắn lốc cốc. Bác sĩ nói với con gái về cái chết của
ông bằng một giọng bình thản. Đối với Phượng cái gì liên quan đến cha nàng đều
cũng có vẻ lạnh lùng. Hình như từ ngày mẹ bỏ đi, bà đã làm tắt đi cái bóng của
ông, ông đã già sụm hẳn xuống, từ lúc đó, và quanh ông đã thực sự trở thành
trống trải. Bác sĩ nói:
"Có thể ba nhầm. Nhưng ba cũng nói cho con biết. Bởi vì điều quan trọng
không phải là ba sẽ mất. Nhưng là rồi đây, con sẽ phải tự lo lấy tương lai một
mình. Ba không có nhiều tiền để lại cho con. Chỉ có căn nhà nhỏ này và một
chút ít tiền ở ngân hàng".
Phượng đã quen với tính lạnh lùng của cha, nhưng lần này, trong giọng nói của
ông dầu sao cũng không giấu được một chút cố gắng vì trời quá tối nên ông
không thể nhận thấy gương mặt xanh nhợt và đôi tay run rẩy của con gái.
Khi bác sĩ đứng dậy trở về phòng, ông muốn lại gần đặt tay lên vai con, nhưng
không quen với lối bày tỏ tình cảm chân thật với con, ông mỉm cười nhìn Phượng,
rồi chậm chạp bước đi.
Lúc Phượng nhìn thấy ánh đèn trong phòng cha được thắp lên chiếu qua cửa sổ,
nàng mới biết mình đã khóc và nhận ra nàng đã bị xâm chiếm bởi một nỗi bàng
hoàng lo sợ. Nàng thấy thương cha đã phải sống trong sự cô đơn và trách mẹ đã
bỏ cha nàng trong tình cảnh này. Ngày mai, nếu cha tôi chết, tôi sẽ sống ra
sao? Đó là câu hỏi vừa nghĩ Phượng vừa thấy tim mình thắt lại trong ngực.
Phượng đi ra phía ngoại ô, băng qua một khu vườn trồng cây ăn trái mọc đầy cỏ
hoang, rẽ những đám lau và những dây hoa dại, tới một phiến đá sát bờ sông ngồi
xuống. Buổi chiều, mặt sông nước đầy, như căng lên ở giữa đổ dồn được về hai
phía bờ, Phượng bứt những bông hoa vàng, vứt xuống mặt nước, những bông hoa
cuộn theo dòng nước chảy loanh quanh trong đám cỏ bờ lan ra tận mép sông trước
khi trôi đi mất tích. Một con chim cút trong đám cỏ khô vút vỗ cánh bay lên
làm Phượng giật nẩy mình. Cả con sông dài trong một phút đỏ hồng trong ánh
hoàng hôn. Phượng cảm thấy đời cha con nàng giống như dòng nước chảy âm thầm
kia đang dần dần chìm vào đêm tối sắp buông xuống.
Mặc dù định ra đây để suy nghĩ nhưng Phượng chỉ thấy đầu óc trống không. Một
lát sau thì đám côn trùng và những tràng súng bên kia sông đã khuấy động tất
cả sự yên tĩnh.
Phượng đành đứng dậy ra về. Phượng tự nhủ, cái thành phố nhỏ này không giúp
cho người ta suy nghĩ tốt. Đó cũng là điều nàng nhận thấy từ lâu."Thôi
cũng đành, được đến đâu hay đến đó vậy". Phượng vừa đi vừa thầm nhủ.
Lúc Phượng về đến nhà thì cha nàng cũng đã vào phòng riêng và bỏ bữa cơm chiều.
Phượng cũng ăn uống qua loa rồi xuống vườn đi dạo một vòng. Ngửa mặt nhìn trời
cao, Phượng thấy lòng nức nở muốn khóc. Chưa bao giờ nàng thấy mình cô đơn đến
thế. Bóng cha nàng ngồi im lặng sau cửa sổ. Giữa cha con nàng có quá nhiều
yên lặng. Trước giơ đi ngủ, vào phòng bỏ màn cho cha xong, phải cố gắng lắm,
Phượng mới dám hỏi cha: "Ba, điều ba nói với con hôm qua…?". Lúc
đó, bác sĩ đứng bên cửa sổ nhìn xuống vườn. Đêm đã khuya, bốn bề im vắng.
Không đợi cha trả lời câu hỏi vừa rồi của mình. Phượng lại buột miệng nói tiếp:
"Ba nghĩ liệu rồi đây có yên không hả ba?". Bác sĩ muốn an ủi con
gái, nhưng đã từ lâu ông không thể tìm thấy được ngay những chữ ông muốn, ông
lúng túng một tí rồi ngồi xuống chiếc ghế nhìn con, phác tay làm một cử chỉ
bâng quơ vừa tìm lời để nói:
"Thực ra ba cũng không biết được điều gì nhiều lắm. Chúng ta có quá nhiều
người tài giỏi… nên những người như ba… dù đã sống bao nhiêu lâu… và nhìn thấy
nhiều điều… nhưng vẫn có nhiều cái ba không hiểu được".
Ông muốn nói thêm cho con gái hay về những điều khá chua chát trong lòng ông,
nhưng ông lại cảm thấy lười biếng không muốn tìm thêm lời nữa, vả lại cũng chẳng
có ích gì, ông nghĩ, và ông tự nhủ thầm: "Cũng vì ta quá chậm chạp nên
nàng đã bỏ đi". Ông lập cập mở các ngăn kéo tìm kiếm điếu thuốc, bật quẹt
châm hút, thở khói ra hai lỗ mũi, hơn khói lọt qua kẽ một chiếc răng đã rụng.
Bác sĩ kẹp điếu thuốc giữa hai ngón tay. Phượng nhìn theo đóm lửa run rẩy
trên tay cha, ông cúi xuống ngó hai bàn tay mình như hai bàn tay của một người
xa lạ nào.
Trong những giờ phút cuối cùng (thật thế không ba?). Phượng muốn được nghe
cha nói, bất cứ điều gì, nhưng nàng không dám mở miệng cũng không dám cử động
sợ làm vỡ cơn mơ tưởng của ông mà nàng biết, (sau bao năm sống âm thầm như
cái bóng cạnh cha), đó là những phút ông đang nghĩ tới mẹ nàng, người mẹ Phượng
đã quên cả mặt, nhưng đối với cha nàng lúc nào cũng còn quanh quất nơi đây.
Phượng rất giống mẹ. Bác sĩ cứ nhầm lẫn mãi hai mẹ con, nhất là từ ngày Phượng
bắt đầu lớn. Có những buổi chiều, sau khi làm việc mệt nhọc ở bệnh viện về,
ông có thói quen vào phòng riêng ngồi yên lặng trên chiếc ghế bành quên cả
đêm xuống.
Lúc Phượng vào mời ông ra ăn cơm, nghe tiếng chân con và tiếng quần áo sột soạt
của nàng, ông đã ngồi nhổm hẳn dậy hỏi to: "Ai đấy", và nhìn thẳng
vào mặt nàng, giọng ông nghe hốt hoảng. Phượng biết ông đã tưởng nàng là mẹ
nàng, sau khi biết mình nhầm lẫn, ông có vẻ ngượng nghịu lúng túng. Phượng phải
lặp lại hai ba lần tiếng "con đây, con đây" và mời ông ra dùng bữa.
Những bữa cơm sau đó, ông ăn uống âm thầm cốt cho xong và tránh không gặp mặt
con.
Trông dáng điệu cha những lần như thế, Phượng muốn bật khóc ngay đó, nhưng
nàng cũng cố nén cơn khóc xuống, để dành đến tối khóc thoả thích trong phòng
riêng.
Bữa nay, nghe con hỏi về một bình yên có thể có nay mai không, vị bác sĩ già
mới chợt thấy thương con xót xa, ông không ngờ mình đã nặng tình với người
đàn bà của đời mình đến thế, ông muốn cầm lấy hai tay con và xin lỗi, nhưng
không dám, ông đã bỏ quên con quá lâu, dù hằng ngày cha con vẫn sống chung một
nhà. "Lúc nào ta cũng chậm chạp và vụng về" ông nghĩ "con ta sẽ
gặp khó khăn thực đấy". Càng thương con, ông cảm thấy giận người đàn bà
nông nổi. "Nàng đã giết con bằng nhiều cách. Ta cũng giết con bằng nhiều
cách khác". Lâu không thấy cha nói gì, Phượng đành phải lên tiếng hỏi:
"Ba có cần gì nữa không, con đi lấy cho ba".
Tiếng nói của Phượng làm bác sĩ giật mình. Ông quay lại nhìn con và bảo:
"Thôi ba không cần gì nữa. Con về phòng ngủ đi".
Phượng ra khỏi phòng rồi, ông cũng không biết chắc có phải con gái ông khóc
không, bởi hình như ông đã thấy mắt con lóng lánh nước mắt. Nhưng ông cũng
không chắc lắm vì mắt ông lúc ấy hơi bị hoa. Tự nhiên một cơn đau làm ông gập
mình xuống chịu. Bệnh ung thư dạ dày của ông đã tấn công ông mạnh hơn là ông
tưởng. Mồ hôi vã ra trên trán, vị bác sĩ khuỵu hẳn xuống chiếc ghế ông đang
ngôi. "Sau cơn đau này, có lẽ ta chết mất", ông nghĩ. Phải chờ cho
cơn đau dịu xuống, ông mới lần được ra tủ thuốc lấy thuốc uống.
Ông trở lại ghế bành lấy đồ dùng tự nghe mạch mình. Sau khi biết kết quả, ông
thu xếp đồ đạc cẩn thận, rồi mở cửa phòng, vịn tay vào vách tường lần sang
phòng con gái. Ngần ngại một chút, ông giơ tay lên gõ cửa:
"Phượng còn thức không con?"
Nghe tiếng cha, Phượng đang khóc, vội thấm hết nước mắt, chạy ra mở cửa. Nhìn
mặt con, bác sĩ biết là Phượng khóc.
Nhưng ông tảng lờ như không biết. Ông cố lấy vẻ bình thường trong khi cơn đau
bụng lại muốn quặn lên. Ông nói:
"Ba muốn vào phòng xem con ăn ở thế nào một lần. Con có bận gì
không?"
Phượng nhìn thấy mặt cha tái nhợt, nàng vội mở rộng cánh cửa cho cha vào, và
bắc ghế cho ông ngồi. Bác sĩ ngồi xuống ghế mỉm cười. Cơn đau quặn lên.
"Hãy gượm, bay đừng hạ ta vội", bác sĩ vừa nghĩ thầm và tưởng tượng
ra chiếc dạ dày của mình trên tấm kính rọi, và quên hẳn không biết mình định
đến và nói với con điều gì nữa. Ông đưa mắt nhìn quanh căn phòng một lượt rồi
bảo:
"Ờ, con xếp đặt chỗ ở cũng gọn gàng đấy. Con có thiếu gì
không?"
Phượng linh cảm sắp có chuyện gì đây. Nàng chăm chú nhìn cha, đáp:
"Thưa ba, không. Con cũng chẳng muốn bày thêm cái gì nữa cho chật
phòng".
Bác sĩ nấc lên một tiếng, ông nuốt cái hơi nghẹn đang trấn ngang cổ xuống,
nói:
"Lúc nãy con có hỏi ba một điều, ba không trả lời con được".
Cái hơi nghẹn ứ lên chận ngang cổ họng. Trong một phút không ngờ nhất, tự
nhiên ông khám phá ra đời sống, giữa hai cha con ông, có một cái gì không ổn
thoả, có một cái gì không thật như thế. Việc bỏ đi của người đàn bà làm cho
quãng đời còn lại của ông thành lơ lửng giữa sự thực và cõi mơ, chính ông,
ông cũng không muốn làm mọi sự sáng tỏ hẳn ra, vì ông biết là ông đã tuyệt vọng,
ông quá yêu người đàn bà, ông biết nàng đã đi thật, ông cố nuôi dài cơn ảo tưởng
đó để nó nối liền ông với nàng, cơn mê ấy đã kéo dài mười mấy năm, đã quá mỏng
không còn buộc giữ được gì nữa, chỉ cần một hơi thở nhẹ của sự thật đủ làm vỡ
tan tất cả. Ông đã kéo theo con ông vào cái giấc mơ tiều tuỵ đó. Ông đã đi
vào quá xa và không còn đủ thì giờ trở lại. Ông nói tiếp:
"Đời sống đôi khi giống như con chó đã gặm của ta cả hai chân nhưng vẫn
còn muốn ta tiếp tục đi thêm một lần nữa". Vị bác sĩ lại cảm thấy khá
chua chát vì lời nói cục cằn của mình. Ông nấc thêm một tiếng nữa và bây giờ
thì cái hơi chặn ở cổ nó nặng như một hòn đá, ông không làm sao nuốt nó xuống
nữa.
Ông ngoẹo đầu xuống thành ghế. Ông nghe tiếng con gái thốt lên gọi ông và chạy
lại ôm lấy ông. Chiếc ghế lật ngửa xuống thành giường. Vị bác sĩ già thấy
mình được gối đầu lên chiếc nệm êm ái đầy ắp một mùi hương quen thuộc và một
khuôn mặt thân yêu. Ông muốn giơ tay lên để làm một cử chỉ gì đó, nhưng đôi
tay ông không còn thuộc về ông nữa. Đôi tay ông đã dùng cứu giúp bao nhiêu
người thoát khỏi tử thần bây giờ lại chẳng giúp được gì cho ông cả. Chúng
trôi lềnh bềnh trong một biển sương mù, và dầu bác sĩ đã gắng nhưng chúng
cũng không nắm lại được với nhau nữa. (Trong tập truyện Đêm lãng quên)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét